Tài liệu Đề tài Một số vấn đề chung về vốn dài hạn cho đầu tư phát triển kinh tế: BẢNG CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CK
Chứng khoán
CP
Cổ phiếu
CSHT
Cơ sở hạ tầng
DN
Doanh nghiệp
GPMB
Giải phóng mặt bằng
HĐND
Hội đồng nhân dân
KBNN
Kho Bạc nhà nước
KH-CN
Khoa học - công nghệ
NHTM
Ngân hàng thương mại
NHTMCP
Ngân hàng thương mại cổ phần
NSNN
Ngân sách nhà nước
QSD
Quyền sử dụng
TP CQĐP
Trái phiếu chính quyền địa phương
TPCP
Trái phiếu chính phủ
TTGDCK
Trung tâm giao dịch chứng khoán
TTTC
Thị trường tài chính
UBND
Uỷ ban nhân dân
XDCB
Xây dựng cơ bản
XHH
Xã hội hóa
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư phát triển dài hạn, luôn luôn đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong sự phát triển kinh tế cả ở cấp doanh nghiệp lẫn cấp địa phương và quốc gia, cả trong quá khứ, hiện tại lẫn trong tương lai...
Vốn đầu tư là một khái niệm mở, rộng... ở đề tài này, vốn đầu tư được tiếp cận theo nghĩa hẹp là các nguồn lực tài chính - tiền tệ. Hơn nữa, do thực chất các nguồn vốn huy động trên 5 năm là rất nhỏ, và ít được bóc tách trong cá...
163 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1002 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số vấn đề chung về vốn dài hạn cho đầu tư phát triển kinh tế, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BẢNG CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CK
Chứng khoán
CP
Cổ phiếu
CSHT
Cơ sở hạ tầng
DN
Doanh nghiệp
GPMB
Giải phóng mặt bằng
HĐND
Hội đồng nhân dân
KBNN
Kho Bạc nhà nước
KH-CN
Khoa học - công nghệ
NHTM
Ngân hàng thương mại
NHTMCP
Ngân hàng thương mại cổ phần
NSNN
Ngân sách nhà nước
QSD
Quyền sử dụng
TP CQĐP
Trái phiếu chính quyền địa phương
TPCP
Trái phiếu chính phủ
TTGDCK
Trung tâm giao dịch chứng khoán
TTTC
Thị trường tài chính
UBND
Uỷ ban nhân dân
XDCB
Xây dựng cơ bản
XHH
Xã hội hóa
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư phát triển dài hạn, luôn luôn đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong sự phát triển kinh tế cả ở cấp doanh nghiệp lẫn cấp địa phương và quốc gia, cả trong quá khứ, hiện tại lẫn trong tương lai...
Vốn đầu tư là một khái niệm mở, rộng... ở đề tài này, vốn đầu tư được tiếp cận theo nghĩa hẹp là các nguồn lực tài chính - tiền tệ. Hơn nữa, do thực chất các nguồn vốn huy động trên 5 năm là rất nhỏ, và ít được bóc tách trong các thống kê hiện có, nên vốn đầu tư dài hạn ở đây được hiểu là các khoản tín dụng và đầu tư tài chính - tiền tệ trung và dài hạn theo cách hiểu của ngành ngân hàng nước ta, tức có thời hạn từ trên 12 tháng. Ngoài ra, đề tài cũng mới giới hạn phạm vi nghiên cứu là ở các nguồn đầu tư dài hạn trong nước, chứ không đề cập các nguồn vốn nước ngoài hoặc chỉ xem xét nó với tư cách nhân tố để thúc đẩy vốn đầu tư dài hạn trong nước. Với góc độ tiếp cận trên đây, mục tiêu bao trùm của đề tài là trên cơ sở đánh giá thực trạng bức tranh chung về việc khai thác và sử dụng vốn đầu tư dài hạn trong nước cho phát triển Thủ đô để đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư dài hạn trong nước cho phát triển kinh tế của thành phố trong thời gian tới. Để tránh trùng lặp với các đề tài khác và do nội hàm rất rộng của tên đề tài, nên ở đây đề tài đặt trọng tâm vào nghiên cứu một số kênh và công cụ quan trọng đối với thành phố Hà Nội như vốn XDCB tập trung, KBNN, thị trường tài chính, thuê mua tài chính...
Vì nhiều lý do khách quan và chủ quan, chắc chắn kết quả nghiên cứu đề tài còn nhiều hạn chế, kính mong sự lượng thứ và trân trọng cảm ơn các ý kiến đóng góp để hoàn thiện đề tài này.
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VỐN DÀI HẠN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
I.1. Khái niệm và vai trò của vốn dài hạn
Vốn, hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm toàn bộ các nguồn lực tài chính, nhân lực, tri thức, tài sản vật chất và cả các quan hệ đã tích lũy được của cá nhân, DN, quốc gia…
Vốn, hiểu theo nghĩa hẹp, chủ yếu là phần tiềm lực tài chính - tiền bạc của cá nhân, DN, quốc gia đó.
Vốn trong nước là toàn bộ những yếu tố cần thiết cấu thành và tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản xuất - kinh doanh hình thành và tích lũy được trong mỗi gia đình, DN, địa phương và cả quốc gia. Các nhân tố cấu thành vốn trong nước bao gồm: vốn tài chính - tiền tệ, các dạng của cải, tài sản vật chất và tri thức, nguồn nhân lực và các quan hệ trong nền kinh tế thị trường… Chúng có thể chuyển hóa cho nhau và được đo lường chung bằng tiền trong điều kiện nhất định (trừ vốn - con người).
Dưới đây chỉ xin đề cập tới vốn trong nước với cách hiểu theo nghĩa hẹp nêu trên.
Vốn đầu tư phát triển kinh tế dài hạn là những khoản vốn dài hạn chi cho các hoạt động mở rộng sản xuất - kinh doanh, những công trình xd CSHT trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ phát triển kinh tế, cũng như cho các hoạt động khác liên quan đến sản xuất - kinh doanh và phát triển kinh tế theo chiều sâu của đất nước, địa phương và DN. Hơn nữa, theo cách hiểu thông thường hiện nay, vốn ngắn hạn là vốn có thời gian kể từ khi huy động đến lúc hoàn trả là dưới 12 tháng, trung hạn thì từ trên 12 tháng đến dưới 5 năm và dài hạn là trên 5 năm. Tuy nhiên, do trên thực tế hoạt động của ngân hàng, vốn có thời hạn trên 5 năm chiếm tỷ trọng rất nhỏ, nên dưới đây, vốn dài hạn được hiểu là vốn trung và dài hạn, tức có thời hạn hoàn trả vốn từ trên 12 tháng.
Trong cơ chế quản lí kinh tế tập trung, bao cấp với chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm đã không tạo động lực quan tâm nhiều đến việc huy động và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư nói chung, vốn dài hạn nói riêng trong nền kinh tế, cả ở cấp vĩ mô lẫn vi mô. Vốn đầu tư và nguồn vốn đầu tư cũng được quan niệm rất đơn giản. Thậm chí chưa có sự phân định giữa vốn và tiền. Cơ chế phân phối vốn chỉ bó hẹp ở hai kênh: ngân sách nhà nước và vay tín dụng ngân hàng với lãi suất thấp. Từ đó dẫn đến những sai lầm như việc phát hành thêm tiền để đầu tư, hay chưa chú ý đến các nguồn lực khác ngoài NSNN. Các địa phương không quan tâm đến việc tự huy động vốn xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế, thậm chí là không được phép thực hiện.
Cùng với quá trình đổi mới, quyền tự chủ của các địa phương đã được coi trọng và phát huy. Những nhận thức về vốn cũng đã thay đổi.
Mục tiêu chủ yếu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay cũng như sắp tới của Việt Nam là tạo sự chuyển biến tích cực về chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tập trung đầu tư các công trình hạ tầng cơ sở; tích cực đổi mới và nâng cao năng lực KH - CN, sức cạnh tranh của nền kinh tế và các DN, thực hiện thành công CNH - HĐH và không ngừng cải thiện chất lượng sống của nhân dân. Để thực hiện được các nhiệm vụ trên thì cần phải có nguồn vốn lớn, đặc biệt là vốn dài hạn. Hơn nữa, cần nhấn mạnh rằng, về lâu dài thì vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển bền vững của cả nước cũng như của từng địa phương, trong đó có Thủ đô Hà Nội.
Chính sách huy động và sử dụng vốn là một bộ phận quan trọng trong chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, nó liên quan đến chính sách phân phối thu nhập trong phạm vi toàn xã hội, tác động trực tiếp đến mối quan hệ giữa tích luỹ - tiêu dùng và các chính sách tiền tệ, tín dụng. Việc hoạch định và thực hiện chính sách huy động vốn trong nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động tài chính, tình hình lạm phát và ổn định tiền tệ, cũng như đến tốc độ và hiệu quả phát triển KT - XH nói chung.
Thực tế phát triển thế giới cho thấy, bất kỳ nước nào cũng đều phải sử dụng nguồn lực nội bộ là chính. Nguồn vốn bổ sung từ bên ngoài, dù là viện trợ, cho vay hay đầu tư từ nước ngoài cũng không thể thay thế cho đầu tư từ các nguồn vốn trong nước. Hơn nữa, nguồn vốn nước ngoài không phải là vốn cho không, từ trên trời rơi xuống mà đều có điều kiện và phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Về lâu dài, vốn vay đều phải trả cả gốc lẫn lãi, còn FDI phải dành một phần cho chuyển lãi và vốn gốc về chính quốc.
Thực tế của quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã cho chúng ta thấy: cùng với vốn bên ngoài, bao giờ cũng phải có vốn đối ứng bên trong mới có thể triển khai công trình một cách thuận lợi. Thêm vào đó, cần phải có vốn đầu tư cho các công trình "ngoài hàng rào" như đầu tư cho các cơ sở hạ tầng về điện, cấp thoát nước, thông tin liên lạc và các cơ sở hạ tầng xã hội khác.
Nhiều công trình đầu tư không phát huy được hiệu quả hoặc hiệu quả thấp một phần là do các yếu tố cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội "ngoài hàng rào" không đáp ứng được yêu cầu. Một nhà máy được xây dựng mà không có công trình cơ sở hạ tầng kinh tế đồng bộ thì khó có thể hoạt động tốt được. Ngoài ra, đi cùng với nhà máy tất yếu phải có các cơ sở hạ tầng xã hội như các khu dân cư, trường học, bệnh viện, cơ sở văn hoá, thể thao... nếu không, sẽ gây không ít khó khăn cho hoạt động và ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhà máy. Theo kinh nghiệm của các nước, vốn đầu tư cho các công trình ngoài hàng rào đôi khi còn cao hơn vốn đầu tư cho các nhà máy. Vì vậy, dù là công trình được đầu tư từ nguồn vốn bên ngoài thì vốn đầu tư trong nước cũng rất quan trọng.
Về tỷ trọng giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài, xét về lâu dài, vốn trong nước phải nhiều hơn vốn nước ngoài. Không thể mong đợi sự tăng trưởng nhanh và vững chắc nhờ vào các nguồn vốn từ bên ngoài. Kinh nghiệm phát triển của các nước cũng đã chứng minh điều đó, ở đây chỉ có trường hợp ngoại lệ của các nước có nguồn tài nguyên quý, với trữ lượng lớn như dầu mỏ của các tiểu vương quốc A-rập, Bruney... nhưng ngay cả những trường hợp này thì cuối cùng vốn bên trong (dù chỉ là vốn có được do bán tài nguyên thiên nhiên) sẽ lớn hơn vốn bên ngoài.
Cuối cùng, xét về lợi ích dân tộc, nếu không có vốn đầu tư trong nước đủ mức cần thiết thì xét về lâu dài, nguồn của cải làm ra có thể lớn, nhưng phần của cải thực sự mà ta được hưởng (tính thông qua chỉ tiêu GNP) lại rất ít. Như vậy, nền kinh tế có vẻ phồn vinh, sản phẩm có vẻ dồi dào nhưng của cải đó không thuộc sở hữu của nhân dân trong nước. Tỷ lệ góp vốn của các doanh nghiệp trong nước chỉ dừng lại ở mức 30-40% như hiện nay có một lý do quan trọng là thiếu vốn đối ứng trong nước. Không ít doanh nghiệp phải dùng "quỹ đất' để góp vốn, phần còn thiếu lại phải đi vay nước ngoài để góp vốn cho các liên doanh. Một số doanh nghiệp trong nước mua thiết bị nước ngoài theo hình thức trả chậm, nhưng do không có vốn nên lại phải vay thương mại với những điều kiện bất lợi, làm ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả của công trình.
Có thể nói, vốn, đặc biệt nguồn vốn đầu tư dài hạn là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của sự nghiêp phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Không có vốn đầu tư dài hạn thì sẽ không có cơ sở hạ tầng kỹ thuật, không đổi mới và nâng cao được năng lực KH - CN, cải thiện sức cạnh tranh và nâng cao trình độ phát triển của đất nước, địa phương, DN.
I.2. Đặc điểm vốn đầu tư phát triển dài hạn
Vốn đầu tư dài hạn có một số đặc điểm chính sau:
Thứ nhất, đòi hỏi quy mô vốn lớn và thời hạn thu hồi vốn dài
Vốn đầu tư dài hạn được sử dụng vào việc nghiên cứu và áp dụng khoa học, công nghệ mới, đổi mới và hiện đại hóa trang thiết bị và xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho tăng năng suất lao động, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, mở rộng sản xuất kinh doanh và phát triển theo chiều sâu… Đây là những lĩnh vực, dự án thường đòi hỏi quy mô vốn đầu tư rất lớn và thời hạn hoàn vốn dài. Thậm chí, có những dự án không thể tính được thời hạn thu hồi vốn trực tiếp, nhất là vốn đầu tư cho xây dựng đường xá, cầu cống, nghiên cứu khoa học cơ bản… Điều này càng rõ nét đối với những quốc gia và địa phương nào đang ở giai đoạn đầu cất cánh…
Đặc điểm của nguồn vốn dài hạn trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế chi phối mạnh phưong thức huy động vốn, quá trình quản lý và sử dụng vốn. Nói cách khác nó ảnh hưởng đến chiến lược vốn - một bộ phận quan trọng trong chiến lược tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đất nước và địa phương.
Thứ hai, vốn đầu tư dài hạn dễ có độ rủi ro cao tùy thuộc vào tính chất của môi trường và cơ hội đầu tư, cũng như các phương thức và chính sách huy động, sử dụng vốn.
Do thời hạn thu hồi vốn dài, nên đầu tư dài hạn dễ gặp rủi ro về kinh tế (lãi suất, lạm phát, khấu hao vô hình, sự thay đổi cung – cầu tương lai…) và phi kinh tế (thay đổi chính sách, thể chế, thiên tai…). Đây là điều mà các nhà đầu tư tư nhân hay e ngại. Điều này cũng giải thích vì sao tỷ trọng vốn dài hạn trong tổng vốn huy động của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng thường rất thấp. Tuy nhiên, tùy theo sự hấp dẫn của môi trường đầu tư, nhất là mức độ tự do hóa kinh doanh, sự ổn định và những thay đổi có thể dự báo được của chính sách, độ thông thoáng về thủ tục quản lí nhà nước, và các ưu đãi khác… mà vốn đầu tư dài hạn có thể được huy động ngày càng nhiều hơn thông qua sự phối kết hợp linh hoạt của các công cụ và kênh huy động vốn đa dạng, thích hợp, trong đó có đầu tư trực tiếp của các DN, các nhà đầu tư tư nhân trong nước và nước ngoài.
Thứ ba, đánh giá hiệu quả vốn đầu tư dài hạn cho phát triển cần phải nhìn trên góc độ hiệu quả kinh tế - xã hội tổng hợp và dài hạn.
Vì là đàu tư dài hạn nên hiệu quả của vốn đầu tư dài hạn cũng chậm phát huy tác dụng. Hơn nữa, do một số dự án được đầu tư không thể định lượng được trực tiếp và chính xác lợi ích mà nó tạo ra (nhất là các công trình CSHT công ích), nên cần đánh giá hiệu quả vốn đầu tư dài hạn phát triển kinh tế trên góc độ hiệu quả kinh tế - xã hội tổng hợp và dài hạn. Khi đưa ra quyết định cho mỗi dự án đầu tư cần xem xét hiệu quả với một cách nhìn toàn diện, xem xét hiệu quả kinh tế cần đi đôi với hiệu quả xã hội. kết hợp lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài, lợi ích cục bộ của từng bộ phận với lợi ích tổng thể của toàn xã hội. Hiệu quả kinh tế, xã hội luôn gắn liền với nhau, tác động tực tiếp đến chính sách huy động và sử dụng vốn, đặc biệt đối với các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng, các dịch vụ công cộng. Vì vậy, khi đầu tư vào các dự án ngoài việc chú trọng đến hiệu quả kinh tế của dự án cần xem xét các vấn đề xã hội như công ăn việc làm, thu nhập, mức sống của người lao động... để đảm bảo đạt được hiệu quả tổng hợp cao nhất.
Nhằm đạt được tốc độ luân chuyển và hiệu quả cao nhất, vốn đầu tư dài hạn cần được nhìn nhận theo một quy trình khép kín trên cả 3 phương diện: huy động, sử dụng và quản lý, cũng như phải đảm bảo thông suốt trên cả 3 giai đoạn: tích luỹ- huy động - đầu tư, đồng thời phải hướng vào đầu tư có trọng điểm với quy mô và phương thức thích hợp, tập trung đầu tư vào các ngành nghề, lĩnh vực ưu tiên, tránh đầu tư tràn lan, đầu tư theo kiểu phong trào, thiếu quy hoạch và nhất là không đảm bảo chất lượng xây dựng, tiêu chuẩn kỹ thuật công nghệ và môi trường, dễ để lại hậu quả nặng nề về sau.
I.3. Các phương thức huy động và sử dụng vốn dài hạn cho đầu tư phát triển kinh tế Thủ đô
Xét trên phưong diện tổng thể, các nguồn vốn trong nước đều được sinh ra từ quá trình tiết kiệm và tích lũy của cá nhân, tổ chức doanh nghiệp và Nhà nước. Nguồn vốn này được huy động và sử dụng cho đầu tư phát triển chủ yếu thông qua các kênh như Ngân sách nhà nước (mà quan trọng hơn cả là qua phần vốn XDCBTT và qua KBNN), các ngân hàng, tổ chức tín dụng thương mại, thị trường tài chính, thuê mua tài chính và qua các hình thức khác…
I.3.1. Huy động và sử dụng vốn dài hạn thông qua kênh Ngân sách Nhà nước
Huy động vốn qua kênh ngân sách nhà nước được thực hiện dưới các hình thức như động viên thuế, phí và các hình thức vay nợ qua KBNN (như công trái, trái phiếu, tín phiếu...). Nói cách khác, nguồn vốn đầu tư của NSNN được hình thành từ nguồn vốn tích luỹ của ngân sách và nguồn vốn tín dụng của nhà nước, còn việc sử dụng cho đầu tư dài hạn chủ yếu thông qua phần vốn xây dựng cơ bản tập trung của NSNN các cấp và kiểm soát chi qua KBNN.
Nguồn vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước bao gồm nguồn vốn tích luỹ đầu tư từ ngân sách Nhà nước (chênh lệch giữa số thu từ thuế, phí với chi tiêu dùng thường xuyên), nguồn vốn huy động từ trái phiếu Chính phủ cho đầu tư phát triển và các nguồn vốn khác như từ quỹ dự trữ tài chính, các tài sản của Nhà nước... Đây là nguồn vốn đầu tư hết sức quan trọng trong nền kinh tế, chủ yếu dùng để đầu tư cho các công trình hạ tầng cơ sở, tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi và tập trung vào các ngành kinh tế mũi nhọn để khuyến khích kinh tế phát triển. Với việc nâng cao hiệu quả quản lý ngân sách Nhà nước trên cả hai lĩnh vực thu và chi ngân sách nhà nước, tỷ trọng chi cho đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước sẽ ngày càng tăng trong tổng số chi ngân sách nhà nước và luôn giữ vai trò là nguồn vốn quan trọng trong xã hội trong quá khứ, hiện tại và những năm trước mắt.
Tăng cường nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước là tìm cách nâng cao phần tích luỹ của NSNN và phát triển nguồn vốn tín dụng. Để tăng nguồn vốn tích luỹ của NSNN cần áp dụng các chính sách tăng thu triệt để các nguồn thu và tiết kiệm triệt để các khoản chi, thực hiện tiết kiệm trong chi tiêu dùng của ngân sách. Ngân sách phải có tích luỹ và tích luỹ ngày càng tăng thì mới có thể góp phần nâng cao tỷ trọng tích lũy trong nước để đầu tư dài hạn cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên, cần coi trọng giải quyết hài hòa về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội khi ban hành các chính sách, chế độ động viên vào NSNN thông qua thuế và phí; vừa đảm bảo nguồn thu tài chính để Nhà nước thực hiện điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, thực hiện các chính sách xã hội, bảo vệ an ninh quốc phòng, vừa phải tạo điều kiện tích luỹ, tích tụ, tập trung vốn của DN, cơ sở, địa phương cho mở rộng sản xuất - kinh doanh, đầu tư phát triển theo chiều sâu, giải phóng sức sản xuất xã hội, tạo và mở rộng nguồn thu lâu dài.
Do vậy, việc giảm chênh lệch giữa các mức thuế suất, giảm số lượng thuế suất; giảm dần các ưu đãi và miễn giảm thuế; mở rộng phạm vi, đối tượng nộp thuế; đảm bảo nguyên tắc công bằng về thuế giữa các thành phần kinh tế, giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, đẩy mạnh quá trình cơ cấu lại sản xuất kinh doanh, khuyến khích đổi mới công nghệ, hướng dẫn tiêu dùng, thúc đẩy xuất khẩu, điều tiết thu nhập,... là hết sức quan trọng và cần thiết trong chính sách thuế, phí của Nhà nước khi động viên NSNN.
Tuy nhiên, trong điều kiện, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân còn thấp, nguồn thu của ngân sách Nhà nước (chủ yếu là thuế) còn có hạn; trong khi đó nhu cầu chi ngân sách và vốn cho đầu tư phát triển kinh tế rất lớn, nguồn vốn huy động thông qua thu thuế, phí cho ngân sách nhà nước không thể đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng lớn cho đầu tư phát triển. Do vậy, vay nợ của Chính phủ là biện pháp rất quan trọng để bù đắp thiếu hụt ngân sách Nhà nước và bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ và cho phép các địa phương phát hành trái phiếu (trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu đô thị) là biện pháp hữu hiệu nhất để bù đắp thiếu hụt ngân sách, đồng thời còn tập trung được lượng vốn nhàn rỗi trong xã hội để tăng nguồn chi cho phát triển kinh tế xã hội do nó đáp ứng được các nhu cầu chi tiêu của ngân sách mà không phải dùng biện pháp phát hành - lạm phát và không lệ thuộc vào vay nợ nước ngoài, dễ gây nên bất ổn về kinh tế. Biện pháp này được sử dụng tại hầu hết các nước trên thế giới, ngay cả các nước phát triển có nguồn thu tương đối lớn. Tuy nhiên, cũng không thể lạm dụng biện pháp này bởi lẽ khi vay nợ quá lớn thì sẽ tạo ra gánh nặng cho ngân sách Nhà nước trong trả gốc và lãi, đặc biệt việc cung cấp lượng tín dụng ròng từ hệ thống ngân hàng cho ngân sách Nhà nước lớn cũng sẽ gây nên áp lực lạm phát cao. Vì vậy, cần phải nắm vững nhu cầu vay vốn, mục đích sử dụng vốn, khả năng cung ứng nguồn vốn, từ đó xây dựng chiến lược và kế hoạch huy động vốn cho hiệu quả và phải quản lý vay nợ tốt để tránh gây nên sự bất ổn định về tài chính.
Ngoài ra, chính quyền địa phương cũng có thể huy động vốn để đầu tư cho cơ sở hạ tầng đô thị, thông qua việc vay từ các ngân hàng thương mại và vay trực tiếp từ thị trường tài chính thông qua phát hành trái phiếu qua KBNN.
Cơ sở pháp lý cho việc khai thác và sử dụng vốn dài hạn thông qua KBNN đó đã được xác lập khá đồng bộ.
Luật NSNN số 01/2002/QH11 đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cho các tỉnh thành phố trực thuộc TW quyền chủ động huy động và sử dụng vốn dài hạn cho đầu tư phát triển địa phương. Khoản 3 Điều 8 Luật NSNN qui định: "Trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc TW có nhu cầu đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được HĐND cấp tỉnh quyết định, nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán, thì được phép huy động trong nước và phải cân đối ngân sách cấp tỉnh hàng năm để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Mức dư nợ từ nguồn vốn huy động không vượt quá 30% vốn đầu tư XDCB trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh". Tuy nhiên, Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh được thực hiện theo qui định riêng của Chính phủ, nghĩa là không nhất thiết phải tuân theo giới hạn 30% này.
Theo Quyết định 235/2003/QĐ-TTg ngày 13.11.2003, KBNN thực hiện chức năng: (1) quản lý nhà nước về Quĩ NSNN, các quĩ tài chính nhà nước và các quĩ khác của nhà nước; (2) thực hiện việc huy động vốn cho NSNN, cho đầu tư phát triển qua hình thức phát hành công trái, trái phiếu theo qui định của pháp luật. Chính chức năng thứ hai của KBNN qui định phạm vi và hình thức khai thác, sử dụng vốn dài hạn thông qua KBNN Hà Nội. Khoản 10 Điều 2 Quyết định này khẳng định KBNN có nhiệm vụ: "Tổ chức huy động vốn trong nước và ngoài nước cho NSNN và cho đầu tư phát triển thông qua phát hành công trái, trái phiếu theo qui định của pháp luật". Điều 3 Quyết định 235 nêu rõ "KBNN được tổ chức theo nguyên tắc tập trung, thống nhất, thành hệ thống dọc từ TW đến địa phương, theo đơn vị hành chính. Theo đó, KBNN Hà Nội chỉ được phép huy động cho NSNN và cho ĐTPT bằng hai công cụ công trái và trái phiếu.
Ngày 20/11/2003 Chính phủ ban hành Nghị định số 141/2003/NĐ-CP về việc phát hành TPCP, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu Chính quyền địa phương, cụ thể hoá hoạt động huy động thông qua KBNN, thay thế Nghị định số 01/2000/NĐ-CP về Qui chế phát hành TPCP. Trái phiếu Chính phủ hay trái phiếu chính quyền địa phương đều là một loại chứng khoán nợ do Chính phủ hay UBND cấp tỉnh phát hành, có thời hạn, có mệnh giá, có lãi, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của người phát hành đối với người sở hữu trái phiếu. Trái phiếu Chính phủ bao gồm 6 loại: Tín phiếu Kho bạc, Trái phiếu Kho bạc, Trái phiếu công trình TW, Trái phiếu đầu tư, Trái phiếu ngoại tệ và Công trái xây dựng Tổ quốc. Ngoại trừ Tín phiếu và Trái phiếu Kho bạc phát hành để bù đắp thiếu hụt của NSNN trong năm tài chính hoặc theo dự toán hàng năm, 5 loại Trái phiếu Chính phủ còn lại và Trái phiếu của Chính quyền địa phương (đối với Hà Nội là trái phiếu đô thị) đều có thể là những công cụ để KBNN Hà Nội huy động vốn trung dài hạn cho đầu tư phát triển Thủ đô. Trái phiếu được phát hành bằng cả đồng Việt Nam và ngoại tệ tự do chuyển đổi dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, có ghi tên hoặc không ghi tên.
Các loại Trái phiếu công trình TW, Trái phiếu đầu tư, Trái phiếu ngoại tệ, Công trái XDTQ đều có thời hạn trên 1 năm và do Chính phủ, Bộ Tài chính quyết định nên KBNN Hà Nội chỉ đóng vai trò tham gia khai thác và sử dụng "gián tiếp", nghĩa là theo chỉ tiêu nhiệm vụ thu chi được TW giao. Công cụ trực tiếp huy động và sử dụng vốn đầu tư của KBNN Hà Nội được qui định trong Nghị định 241/2003/NĐ-CP chính là Trái phiếu chính quyền địa phương - loại trái phiếu đầu tư có kỳ hạn trên 1 năm do UBND cấp tỉnh uỷ quyền cho KBNN hoặc tổ chức tài chính, tín dụng trên địa bàn phát hành, nhằm huy động vốn cho các dự án, công trình thuộc nguồn vốn đầu tư của NSĐP, đã ghi trong kế hoạch năm nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm. Điều kiện phát hành TPCQĐP là:
(1) dự án công trình phải thuộc Kế hoạch đầu tư 5 năm;
(2) có phương án phát hành, kế hoạch sử dụng và phương án trả nợ;
(3) Chủ tịch UBND ra quyết định uỷ quyền cho KBNN hoặc tổ chức tài chính, tín dụng trên địa bàn chịu trách nhiệm phát hành, thanh toán trái phiếu.
Trái phiếu CQĐP được phát hành theo 3 phương thức:
1. Đấu thầu: lựa chọn các tổ chức, cá nhân tham gia dự thầu trái phiếu
2. Bảo lãnh phát hành: tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi phát hành trái phiếu ra thị trường chứng khoán, phân phối trái phiếu cho các nhà đầu tư, nhận mua trái phiếu để bán lại hoặc mua số trái phiếu còn lại chưa phân phối hết.
3. Đại lý phát hành: tổ chức phát hành uỷ thác cho một tổ chức khác thực hiện bán trái phiếu cho các nhà đầu tư. Chỉ có các Công ty chứng khoán, Quĩ đầu tư, Công ty Tài chính và các ngân hàng được phép bảo lãnh hoặc đại lý phát hành trái phiếu.
Đáng lưu ý là TPCQĐP không được phép phát hành bằng phương thức bán lẻ, dù là qua hệ thống KBNN hay không. Lãi suất TPCQĐP do Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định hoặc hình thành theo kết quả đấu thầu trong giới hạn biên độ do Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định và mặt bằng lãi suất thực tế của TPCP cùng kỳ hạn tại thời điểm phát hành. Khoản thu từ TPCQĐP được ghi thu vào ngân sách cấp tỉnh và ngân sách cấp tỉnh chịu toàn bộ trách nhiệm thanh toán gốc lãi và các chi phí liên quan tới TPCQĐP. Việc thanh toán được thực hiện thông qua các tổ chức tài chính, tín dụng nhận uỷ thác do TPCQĐP chỉ được phát hành bằng phương thức đấu thầu, bảo lãnh hay đại lý phát hành. Người sở hữu TPCQĐP cũng có các quyền lợi tương tự như người sở hữu các loại TPCP, đó là: (1) được thanh toán đầy đủ, đúng hạn gốc và lãi khi đến hạn; (2) được bán, tặng, cho, thừa kế, cầm cố, chiết khấu trái phiếu; (3) được miễn thuế thu nhập đối với khoản thu nhập từ trái phiếu. TPCQĐP cũng được mua bán trên thị trường tiền tệ hoặc chiết khấu, cầm cố tại NHNN, được niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán. KBNN còn nhận ký gửi trái phiếu theo yêu cầu của người sở hữu trái phiếu với mức phí do Bộ Tài chính qui định.
Đồng bộ với việc tạo ra khuôn khổ pháp lý tăng cường quyền chủ động chi địa phương, thực hiện đẩy mạnh phân cấp ngân sách theo Luật NSNN, cho phép chính quyền địa phương khai thác các nguồn lực cho đầu tư phát triển, các qui định pháp lý đảm bảo cho việc sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đã khai thác được cũng liên tục được hoàn thiện.
Dù là tham gia phát hành TPCP, một phần được sử dụng thông qua chi ĐTPT và tín dụng nhà nước hay phát hành TPCQĐP trực tiếp sử dụng vào các công trình dự án đầu tư của Thành phố thì các nguồn vốn đều được phản ánh vào ngân sách Thành phố nên việc sử dụng phải đảm bảo hiệu quả, tuân thủ các qui định của Luật NSNN, Nghị định số 60/2003/NĐ-CP và Thông tư số 59/2003/TT-BTC qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật NSNN,... và các văn bản pháp qui liên quan tới quản lý đầu tư hiện hành như Nghị định số 52/1999/NĐ-CP, Nghị định số 12/2000/NĐ-CP, Nghị định 07/2003/NĐ-CP về Qui chế quản lý đầu tư và xây dựng. Việc quản lý, cấp phát, thanh toán, quyết toán vốn của KBNN Hà Nội thực hiện theo Thông tư số 44/2003/TT-BTC, Thông tư 45/2003/TT-BTC và Thông tư số 100/2003/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn việc quản lý, cấp phát, thanh toán, quyết toán vốn đầu tư từ nguồn TPCP. Theo đó, cần đặc biệt lưu ý lập kế hoạch riêng cho các dự án đầu tư bằng nguồn TPCP khi lập kế hoạch vốn đầu tư hàng năm, Sở Tài chính thông báo kế hoạch thanh toán vốn đầu tư cho KBNN Hà Nội. Đối với các dự án do địa phương quản lý, căn cứ vào kế hoạch thanh toán vốn đầu tư và tiến độ thực hiện các dự án, Bộ Tài chính chuyển vốn từ nguồn TPCP về Sở Tài chính, Sở lại chuyển vốn sang KBNN Hà Nội để thanh toán cho các dự án. Chủ đầu tư quyết toán vốn đầu tư hàng năm theo chế độ hiện hành về vốn đầu tư nguồn NSNN nhưng quyết toán riêng nguồn vốn TPCP. KBNN tổ chức hạch toán và theo dõi riêng nguồn vốn TPCP, KBNN Hà Nội quyết toán với Sở Tài chính, Sở lại quyết toán với Bộ Tài chính riêng nguồn vốn này, không quyết toán vào NSĐP. KBNN Thành phố phải giúp cơ quan quản lý trong việc mở hồ sơ theo dõi, nghiêm túc thực hiện chế độ báo cáo định kỳ theo qui định đối với các dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn TPCP, thực hiện chế độ kiểm tra định kỳ và đột xuất, tăng cường công tác quản lý, kiểm tra việc thực hiện tiến độ, khối lượng, chất lượng công trình, tình hình sử dụng vốn, không được dùng nguồn vốn TPCP để chi cho các nhiệm vụ, dự án ngoài danh mục, không để tình trạng vượt vốn đầu tư của dự án đã được duyệt và tình trạng lãng phí, thất thoát, tiêu cực.
Như vậy khuôn khổ pháp lý cho việc khai thác và sử dụng các nguồn vốn đầu tư thông qua hệ thống KBNN đã tương đối đầy đủ, chi tiết và đồng bộ. Khuôn khổ pháp lý cho việc KBNN Hà Nội huy động vốn trong dân thông qua phát hành TPCQĐP cũng đã có, nhưng còn thiếu qui định cụ thể về việc quản lý sử dụng nguồn vốn TPCQĐP. Về cơ bản, nội dung của các qui định này tương tự như nội dung quản lý vốn đầu tư từ nguồn TPCP, song có những điểm khác biệt nhất định liên quan tới phân cấp ngân sách và quyền chủ động của các cấp chính quyền địa phương, tính chất của các dự án đầu tư đa dạng phụ thuộc vào đặc thù của từng địa phương nên cần có qui định riêng.
Tóm lại, xuất phát từ nhu cầu thực tế và tiềm năng huy động vốn của địa phương, căn cứ vào những cơ sở pháp lý quan trọng, KBNN Hà Nội hoàn toàn có điều kiện và triển vọng tăng cường huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn dài hạn trong dân cho đầu tư phát triển Thủ đô thông qua hai công cụ là Trái phiếu Chính phủ và TPCQĐP.
I.3.2. Huy động và sử dụng vốn dài hạn thông qua các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng
Ngoài kênh huy động vốn dài hạn thông qua ngân sách còn có các kênh huy động thông qua công cụ vay và cho vay trung và dài hạn của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng.
Về truyền thống và thực tại, với chức năng trung gian huy dộng vốn từ nơi cung ứng đến nơi có nhu cầu đầu tư để giải quyết các quan hệ cung cầu về vốn đầu tư trên pham vi toàn xã hội và là trung tâm thanh toán trong toàn bộ nền kinh tế, các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng có vai trò hết sức quan trọng trong việc góp phần thoả mãn nhu cầu bổ sung vốn đầu tư của các doanh nghiệp, góp phần đẩy nhanh qua trình tích tụ và tập trung vốn cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Tuy nhiên, việc huy động và cho vay vốn dài hạn từ các ngân hàng thương mại càng ngày càng khó đáp ứng nhu cầu thực tế xã hội do có một số hạn chế sau:
- Nhu cầu vốn cho xây dựng cơ sở hạ tầng nói riêng, đầu tư phát triển dài hạn nói chung là rất lớn, song các ngân hàng lại bị giới hạn trong việc cho vay tối đa đối với một khách hàng, một dự án;
- Nguồn vốn của các ngân hàng chủ yếu là các nguồn vốn ngắn hạn, song nhu cầu đầu tư phát triển dài hạn, trong đó có các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng lại đòi hỏi các nguồn vốn có tính dài hạn.
- Việc huy động và cho vay vốn dài hạn của ngân hàng đòi hỏi các thủ tục và điều kiện ngặt nghèo (nhất là về tài sản thế chấp) mà nhiều dự án và đơn vị có nhu cầu vay khó đáp ứng trên thực tế. Hơn nữa, vốn tự có của ngân hàng cũng không phải là nhiều, vì vậy, khả năng huy động vốn của ngân hàng cũng bị hạn chế theo các quy định nhằm đảm bảo an toàn chung cho hệ thống ngân hàng.
I.3.3. Huy động và sử dụng vốn thông qua thị trường tài chính
Với tư cách là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua - bán quyền sử dụng các nguồn tài chính thông qua những phương thức giao dịch, các công cụ và dịch vụ tài chính nhất định, thị trường tài chính (TTTC) là tổng hòa các quan hệ cung - cầu về vốn và được phân thành 2 loại: thị trường vốn ngắn hạn (thị trường tiền tệ) và thị trường vốn dài hạn.
- Thị trường vốn ngắn hạn, hay còn gọi là thị trường tiền tệ, là các hoạt động về cung- cầu vốn ngắn hạn (dưới một năm) diễn ra chủ yếu thông qua các hoạt động của hệ thống ngân hàng các cấp.
- Thị trường vốn dài hạn là nơi diễn ra các hoạt động về cung - cầu vốn dài hạn cho Chính phủ, doanh nghiệp và hộ gia đình. Thị trường vốn dài hạn bao gồm thị trường vay nợ dài hạn và thị trường chứng khoán.
Nhìn chung, TTTC dù ngắn hạn hay dài hạn, đều ngày càng mang tính mở và có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội hiện đại cả ở cấp quốc gia, cũng như quốc tế. Chúng tạo ra các kênh và công cụ huy động vốn cho đầu tư phát triển từ các nguồn trong và ngoài nước, từ doanh nghiệp và trong dân; cung cấp cho các nhà đầu tư những cơ hội và hình thức đầu tư đa dạng, phù hợp; làm tăng khả năng thanh khoản của các công cụ tài chính và giúp đánh giá xác thực hơn giá trị của doanh nghiệp và nền kinh tế; đồng thời giúp thực hiện hiệu quả hơn các chính sách kinh tế vĩ mô theo hướng thị trường mở...
Phát hành trái phiếu là hình thức phổ biến để huy động vốn dài hạn cho đầu tư phát triển ở tất cả các địa phương trên thế giới và nó luôn là phương thức huy động vốn quan trọng không chỉ đối với chính chính quyền địa phương, mà đối với cả các doanh nghiệp (ngoài cổ phiếu).
Xét về tổng thể, huy động vốn của chính quyền địa phương từ việc phát hành trái phiếu đô thị là một trong những lựa chọn ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm của chính quyền đô thị trên khắp thế giới do những lợi ích mà nó đem lại vượt ra ngoài mục đích ban đầu là huy động vốn.Việc cho phép và buộc chính quyền địa phương phát hành trái phiếu để bù đắp nguồn vốn ngân sách nhà nước thiếu hụt cho đầu tư phát triển dài hạn sẽ tạo ra áp lực buộc các chính quyền địa phương phải cải tiến, tăng cường tính minh bạch và công khai hoá trong quản lý ngân sách địa phương, nâng cao hiệu quả của các dự án đầu tư công cộng, giúp phát triển thị trường tài chính, tạo sự chủ động trong việc hoạch định chiến lược phát triển.
Tuy nhiên để phát hành trái phiếu được thành công phải có nhiều yếu tố đi liền với nó làm nền tảng như:
Phải có môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát thấp;
Lòng tin của các nhà đầu tư vào trái phiếu;
Tồn tại một thị trường thứ cấp vận hành tốt và năng động để giảm bớt rủi ro cho nhà đầu tư vì trái phiều đô thị thường là trái phiếu dài hạn,
Chất lượng tín nhiệm cao trong việc trả nợ, điều này đòi hỏi chính quyền nguồn thu thuế, lợi tức, bảo lãnh... đủ để nhà đầu tư tin vào việc có thể thu lợi từ trái phiếu đô thị,
Hệ thống thông tin chất lượng cao về các hoạt động ngân sách của chính quyền địa phương, các dự án có bán trái phiếu, hệ thống kế toán, kiểm toán công khai theo tiêu chuẩn quốc tế
Tuỳ theo cơ sở pháp lý xác định nghĩa vụ và phương thức điều hàng các khoản nợ huy động dưới hình thức trái phiếu này, trái phiếu đô thị có 2 loại cơ bản sau đây:
Trái phiếu công ích (General Obligation Bonds -GOs)
Đây là loại trái phiếu đô thị được bảo đảm cả tiền gốc và lãi bằng toàn bộ các nguồn thu tài chính và quyền lực thu thuế của chủ thể phát hành. Trái phiếu này có mức độ đảm bảo thanh toán cao, mức độ rủi ro thấp, do vậy thông thường mức lãi suất của loại trái phiếu này thường thấp. Một số điểm đáng chú ý khi tham khảo loại trái phiếu này là: Giới hạn theo luật về lượng nợ mà chính quyền địa phương được phép huy động. Giới hạn này được Nhà nước cho phép hoặc do Hội đồng nhân dân địa phương quyết định.
Trái phiếu thu nhập hay trái phiếu công trình
Trái phiếu thu nhập (Revenue Bonds) là loại trái phiếu đô thị có lãi và gốc được trả dựa theo thu nhập của công trình mà trái phiếu tài trợ, Ví dụ dễ thấy nhất của loại trái phiếu thu nhập là các trái phiếu tài trợ cho các dự án về cầu dường có thu phí, các chương trình phát triển nhà ở, mở rộng bến cảng, sân bay...
Tại các nước công nghiệp phát triển, lịch sử phát triển của họ có phần đóng góp quan trọng của những loại trái phiếu này. Đây là loại trái phiếu tập trung chủ yếu để phát triển hạ tầng, giúp Chính phủ và chính quyền địa phương nhẹ gánh ngân sách.
Trái phiếu thu nhập được xem là loại có chất lượng thấp hơn trái phiếu công ích. Bởi vì mỗi công trình có những rủi ro khác nhau và tuỳ thuộc vào điều kiện khai thác công trình đó có hiệu quả hay không. Thu nhập thu được dùng để trả nợ từ các công trình tuỳ theo loại, nhưng nó chính là tiền thu từ việc sử dụng từ các tiện ích đó. Trái phiếu thu nhập được huy động và điều hành bởi các tổ chức xây dựng và khai thác do chính quyền địa phương chọn và quản lý.
Các trái phiếu thu nhập thường có mức lợi tức hấp dẫn nhưng có thể bị rủi ro cao, vì chúng không được bảo trợ hay bảo đảm bằng bất cứ nguồn vốn nào khác ngoài thu nhập từ chính công trình mà chúng góp phần tạo ra thu nhập.
Trái phiếu đô thị là loại trái phiếu dài hạn và có những tích chất chung của chứng khoán, đó là tính thanh khoản (chuyển nhượng, mua bán; tính rủi ro; và tính sinh lời . Với những tính chất này trái phiếu đô thị trở thành công cụ rất có hiệu quả để các chính quyền địa phương thu hút các nguồn vốn nhà rỗi trong dân cư phục vụ cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng của địa phương. Điều quan trọng là đỏi hỏi chính quyền địa phương cần chủ động xây dựng chiến lược phát hành trái phiếu có hiệu quả và phải chứng minh cho các nhà đầu tư về tính hiệu quả của dự án cần huy động vốn; đưa ra mức sinh lời hấp dẫn mà trái phiếu tạo ra; tạo ra nhiều tiện ích đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư.
Ngoài ra, để phát hành trái phiếu đô thị đạt hiệu quả cao, thu hút được các nguồn vốn trong xã hội thì việc đa dạng hóa loại hình trái phiếu có vị trí quan trọng. Loại trái phiếu phát hành sẽ phụ thuộc vào mục tiêu huy động và chủ thể phát hành trái phiếu. Đối với các chương trình trọng điểm, công trình mà nhiều người dân cùng được hưởng lợi thì phù hợp với việc phát hành trái phiếu công ích. Đối với các công trình hay dự án có nguồn thu cụ thể thì có thể phát hành trái phiếu thu nhập (trái phiếu công trình hay trái phiếu doanh nghiệp). Hơn nữa, về nguyên tắc lãi suất của trái phiếu phải cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ, lãi suất trái phiếu thu nhập phải cao hơn lãi suất trái phiếu công ích, có như vậy mới thu hút được các nhà đầu tư trái phiếu.
Song để việc phát hành trái phiếu được thuận lợi thì cần có một thị trường thứ cấp phát triển, cụ thể là thị trường chứng khoán. Phát triển thị trường chứng khoán và huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán là một trong những nội dung lớn của chiến lược huy động vốn cũng như quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở Việt nam nói chung, ở Hà Nội nói riêng trong thời gian tới.
Đối với DN, việc huy động vốn trên thị trường tài chính thường thông qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu DN phù hợp với Luật doanh nghiệp và các quy đinh pháp lí hiện hành khác. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại còn có thêm các chứng khoán khác như kỳ phiếu, giấy chứng nhận tiền gửi và các giấy tờ có giá khác tùy theo sự phát triển dịch vụ và nghiệp vụ của mình, phù hợp với luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng…
I.3.4. Huy động và sử dụng vốn dài hạn thông qua hình thức thuê mua tài chính
I.3.4.1. Khái niệm và cơ cấu thuê mua tài chính
Thuê mua tài sản đã xuất hiện khá sớm trong lịch sử nhân loại (từ vài nghìn năm trước công nguyên) với các hình thức sơ khai (tương tự như phương thức thuê vận hành ngày nay), đến đầu thế kỷ XIX, đã xuất hiện hình thức thuê mua và phát triển trở thành công cụ tài trợ vốn được chấp nhận rộng rãi. Đến những năm 50 của thế kỷ XX, giao dịch thuê mua đã có bước phát triển nhảy vọt nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn trung và dài hạn. Nghiệp vụ tín dụng thuê mua thuần hay còn gọi là thuê mua tài chính được sáng tạo ở Mỹ vào năm 1952 và nhanh chóng phát triển ở Châu Âu vào thập kỷ 60, Châu á và nhiều khu vực khác vào thập kỷ 70 do đây là hình thức tài trợ vốn có tính an toàn cao, hiệu quả và tiện lợi cho các bên giao dịch (Hiện nay ở Mỹ, thuê mua thiết bị chiếm khoảng gần 1/3 tổng số tiền tài trợ cho các giao dịch mua bán thiết bị). Các loại hình thuê mua cũng phát triển rất phong phú, có loại thuê ngắn hạn, dài hạn, thuê mua có quyền mua tài sản sau thời hạn thuê… các hình thức này đen xen nhau. Từ những điểm chung nhất của các loại hình thuê mua, người ta đi đến định nghĩa tổng quát về thuê mua như sau:
Thuê mua (leasing) còn có nhiều tên gọi khác nhau như cho thuê tài chính, tín dụng thuê mua, thuê mua vốn… nhưng đều có những nội dung cơ bản giống nhau, vì vậy ở đây xin được gọi chung là thuê mua tài chính. Về thực chất, đây là một loại hình nghiệp vụ tín dụng thuê mua của ngân hàng, các tổ chức tài chính phi ngân hàng và các công ty thuê mua tài chính. Thuê mua tài chính là loại tín dụng có hiệu quả và thường được các doanh nghiệp ưa chuộng, góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy phát triển kinh tế, đặc biệt là với các quốc gia đang phát triển.
Thuê mua tài chính là một thoả thuận thuê mua thông qua một hợp đồng giữa hai hay nhiều bên liên quan đến một hay nhiều tài sản. Người thuê mua chuyển giao tài sản cho người thuê sử dụng trong một thời gian nhất định. Đổi lại, người thuê phải trả một số tiền cho người thuê mua, số tiền thuê thông thường cả tiền gốc về hao mòn tài sản cộng với tiền lãi.
Đặc trưng của thuê mua tài chính là:
- Người thuê lựa chọn thiết bị từ nhà cung cấp, thương lượng với người cung cấp về phương thức bảo đảm, bảo trì, giao nhận, lắp đặt, giá cả và phương thức thanh toán.
- Người thuê mua thiết bị trực tiếp từ nhà cung cấp; người thuê mua vẫn giữ quyền sở hữu thiết bị trong thời gian người thuê sử dụng.
- Hợp đồng thuê mua thường không được phép huỷ bỏ ngang chừng.
Việc thuê mua tài chính cho phép người thuê được lựa chọn tài sản thuê trong tương lai vào thời điểm ký hợp đồng thuê thiết bị; thuê mua với thời hạn nhất định để bên thuê mua thu hồi được vốn đầu tư và có lãi; hao mòn thiết bị do bên thuê chịu, bên thuê có toàn quyền sử dụng thiết bị; bên thuê chịu trách nhiệm sửa chữa, bảo dưỡng và bảo hiểm thiết bị; thiết bị có phù hợp hay không thuộc trách nhiệm bên thuê. Thuê mua tài chính thường được áp dụng đối với thiết bị dùng cho sản xuất, thương mại, dịch vụ.
Một nghiệp vụ tài trợ thuê mua được coi là thuê mua tài chính nếu thoả mãn các tiêu chí sau:
- Đối với người đi thuê: (1) cuối thời hạn thuê mua, người đi thuê được chuyển quyền sởt hữu tài sản; (2) hợp đồng thuê mua có điều khoản về quyền chọn mua tài sản theo giá thoả thuận; (3) thời hạn hợp đồng xác định từ hoá đơn, trên cơ sở giá trị của tài sản (điều này chỉ áp dụng với tài sản mới, giá trị được xác định ít nhất bằng hoặc cao hơn 90% giá thị trường của tài sản thuê).
- Đối với người cho thuê: ngoài việc thoả mãn các tiêu chí trên, còn phải thoả mãn các điều kiện: (1) việc thu tiền thuê tối thiểu có thể tính trước và phải hợp lý; (2) người cho thuê không chịu trách nhiệm thanh toán những chi phí không được hoàn trả trong những trường hợp ngoài dự tính.
Ngày nay, sau nhiều năm phát triển, hình thức thuê mua tài chính đã có những bước tiến nhất định và chiếm được ưu thế trong một số ngành kinh tế trọng điểm có nhu cầu vốn đầu tư ban đầu lớn như ngành hàng hải, hàng không… và không dừng lại ở các tài sản là những động sản mà còn phát triển sang cả bất động sản (nhà cửa, đất đai…) với nhiều hình thức khác nhau và mang tính chất xuyên quốc gia. Ví dụ như hình thức tín dụng thuê mua lại (lease back): ở hình thức này người thuê mua (khách hàng) là những người có tài sản chuyên dùng và có nhu cầu sử dụng loại tài sản này, nhưng lại cần có khoản tiền nhất định để sử dụng vào việc khác. Lúc này, họ mang bán tài sản đó cho công ty thuê mua tài chính (chuyển quyền sở hữu) và xin thuê lại để sử dụng, rồi sau đó sẽ mua lại những tài sản này khi kết thúc hợp đồng thuê mua.
Cơ cấu giao dịch thuê mua như sau:
Công ty thuê mua (người thuê mua)
Hợp đồng thuê mua
Hợp đồng mua thiết bị
Nhà cung cấp
Người đi thuê
Lựa chọn thiết bị
Chuyển giao tài sản
Ở Việt Nam, sau một thời gian xuất hiện, khái niệm tín dụng thuê mua đã được đưa ra ở thể lệ tín dụng thuê mua: tín dụng thuê mua là một hoạt động thuê mua máy móc thiết bị và các động sản khác phục vụ cho sản xuất kinh doanh được tổ chức tín dụng mua theo yêu cầu của bên thuê, bên thuê thanh toán tiền thuê cho các tổ chức tín dụng trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không được huỷ bỏ. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền sở hữu tài sản thuê, hoặc được mua lại tài sản thuê, hay tiếp tục thuê tài sản theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng thuê mua.
Khái niệm này đã từng bước được hoàn thiện và đã có một số khái niệm khác nhau, nhưng những nội dung cơ bản đều có sự thống nhất. Cụ thể như:
- Về phương diện hoạt động tín dụng: Tín dụng thuê mua là một phương thức thuê mua tài sản dài hạn mà trong thời hạn đó, người thuê mua chuyển giao tài sản cho người đi thuê sử dụng. Bên thuê có trách nhiệm thanh toán tiền thuê và được quyền: hoặc sở hữu tài sản sau khi kết thúc hợp đồng thuê; hoặc được quyền mua tài sản bất cứ lúc nào cho đến khi kết thúc hợp đồng thuê; hoặc được quyền thuê tiếp tài sản.
Theo định nghĩa này, tín dụng thuê mua ở Việt Nam có một số giới hạn như: không áp dụng thuê mua với bất động sản; người thuê mua là sở hữu chủ tài sản, như vậy không áp dụng phương thức thuê rồi thuê mua lại.
- Về phương diện thuê mua tài chính: Thuê mua tài chính là một hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc thuê mua máy móc thiết bị và các động sản khác; bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không được huỷ bỏ hợp đồng trước thời hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu, hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê.
Theo định nghĩa này, thuê mua tài chính là một hình thức thuê mua tài sản có kèm theo lời hứa bán lại cho người thuê khi kết thúc hợp đồng với giá cả được thoả thuận từ trước. Như vậy, thuê mua tài chính (hay tín dụng thuê mua) khác hẳn với hình thức thuê mua tài sản đơn thuần hay hình thức bán hàng trả chậm , trả góp về phương thức sở hữu, tính chất cũng như mối quan hệ giữa các bên tham gia.
Quan hệ giữa thuê mua tài chính (tín dụng thuê mua) với các loại hình tín dụng:
- Là một trong những hình thức tài trợ vốn cho kinh doanh, ra đời và phát triển song song với nghiệp vụ cấp tín dụng của ngân hàng, những nghiệp vụ này bổ sung và hỗ trợ vốn cho nhau, tạo nên sự phong phú, đa dạng trong cung ứng vốn cho nền kinh tế. Đối với các lĩnh vực kinh doanh có vốn đầu tư lớn, các doanh nghiệp mới thành lập hay sắp xếp lại thì phương thức đầu tư này tỏ ra hữu hiệu và chiếm ưu thế.
- Thuê mua tài chính là hình thức đặc biệt của tín dụng trung và dài hạn. Về hình thức, thuê mua mang đầy đủ các yếu tố đặc trưng của tín dụng, đó là tính hoàn trả, tính thời hạn và lãi suất, do tài sản thuê mua thường có gía trị lớn và tuổi thọ dài nên thời gian hợp đồng thường là trung và dài hạn. Như vậy, trong thuê mua, vai trò của người cho thuê là người cung cấp tài chính. Tuy nhiên, thể hiện dưới hình thức tài sản, nên tín dụng thuê mua không phải là phương pháp thay thế tín dụng trung và dài hạn mà nó là hình thức đặc biệt, bổ sung tham gia tài trợ trong những trường hợp mà tín dụng trung và dài hạn không thể thực hiện được.
Sự khác nhau giữa thuê mua tài chính với thuê mua thông thường:
- Đối với người thuê mua thông thường:
+ Người cho thuê mua không cam kết bán lại tài sản cho người đi thuê khi chấm dứt hợp đồng thuê.
+ Người cho thuê mua phải gánh chịu phần lớn các rủi ro đối với tài sản thuê mua.
+ Thời hạn thuê mua thường ngắn so với thời gian hữu dụng của tài sản.
+ Hiện giá của các khoản tiền thuê của một hợp đồng thường nhỏ hơn nhiều so với giá trị tài sản.
- Đối với thuê mua tài chính:
+ Người cho thuê mua cam kết bán lại tài sản sau khi chấm rứt hợp đồng thuê mua của giai đoạn cơ bản. Trường hợp người đi thuê không muốn mua thì trả lại cho người cho thuê mua hoặc ký tiếp hợp đồng thuê giai đoạn sau.
+ Người đi thuê phải chịu những rủi ro liên quan đến tài sản.
+ Thời hạn thuê mua thường dài hơn hoặc gần bằng thời gian hữu dụng của tài sản.
+ Hiện giá các khoản tiền thuê của một hợp đồng gần bằng giá trị tài sản.
Theo kinh nghiệm của một số nước, người ta thường quy định 3 tiêu chuẩn của thuê mua tài chính như sau:
+ Một là, quyền sở hữu tài sản thuê mua có thể chuyển giao cho người đi thuê sau khi chấm dứt hợp đồng thuê mua.
+ Hai là, thời hạn thuê mua khoảng 75% thời gian hữu dụng của tài sản.
+ Ba là, hiện giá của tổng các các khoản tiền thuê bằng 90% hoặc cao hơn giá trị tài sản. Nhưng trong thực tế cần lưu ý việc xác định kỳ hạn sao cho tiền thuê phải trả mỗi kỳ ở mức vừa phải, không ảnh hưởng lớn đến tình hình tài chính của người đi thuê; đồng thời sau khi chấm rứt hợp đồng thuê mua, người thuê mua có thể bán được tài sản.
Tổ chức thuê mua tài chính là một doanh nghiệp đứng ra thực hiện nghiệp vụ thuê mua, tuỳ theo định chế của mỗi nước mà cho phép ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty thuê mua thực hiện nghiệp vụ này. Một số nước không cho phép ngân hàng thương mại trực tiếp thực hiện đầu tư thuê mua nhưng lại cho phép ngân hàng thành lập công ty thuê mua tài chính để thực hiện nghiệp vụ thuê mua (Một số ngân hàng thương mại của nước ta cũng đang thực hiện theo mô hình này).
Đối với công ty thuê mua tài chính là công ty con của ngân hàng, giữa ngân hàng và công ty thuê mua tài chính có mối quan hệ rất chặt chẽ. Ngân hàng đứng ra giới thiệu khách hàng cho công ty thuê mua tài chính của mình; ngân hàng bảo lãnh cho các doanh nghiệp khi thực hiện việc thuê mua (tức là ngân hàng sẽ gánh chịu một phần rủi ro cho công ty thuê mua tài chính); ngân hàng tái cấp vốn cho công ty thuê mua tài chính trên các hợp đồng thuê mua.
Có thể phân biệt giữa thuê mua tài chính với tín dụng trả góp và bán trả góp qua bảng so sánh sau:
Tiêu thức so sánh
Thuê mua tài chính
Tín dụng trả góp
Bán trả góp
Chủ thể cấp vốn
Ngân hàng, công ty
thuê mua
Ngân hàng thương mại,
công ty tài chính, quỹ
tiết kiệm, tổ chức bán lẻ.
Doanh nghiệp sản
xuất (hoặc có thể
thông qua công ty tài
chính)
Hình thức vốn tài trợ
Vốn hiện vật (thiết bị, tài
Sản)
Vốn bằng tiền
Vốn hiện vật
Tính chất pháp lý đối
với tài sản
Người thuê mua là chủ sở
hữu tài sản và chuyển
quyền sử dụng cho người
đi thuê
Người được cấp vốn sở
hữu tài sản mua được từ
vốn tín dụng
Người nhận được tài
sản là người sở hữu
Tính chất tài sản
Máy móc thiết bị có giá
trị lớn, tuổi thọ lâu dài.
Vốn tín dụng thường sử
dụng cho việc tiêu dùng:
Mua ô tô, cho vay lưu thông, cho vay chuyển nhà…
Hàng hoá tiêu dùng, ô tô, vật dụng gia đình…
Thời hạn hoàn trả vốn
Thời hạn thuê gần bằng
Thời gian hữu dụng của
tài sản và cuối hợp đồng
thuê, người đi thuê có
quyền chọn mua, thuê
tiếp hay trả lại tài sản.
Thời hạn vay ngắn.
Thời hạn ngắn.
Vấn đề rủi ro
Là hình thức ít rủi ro vì tài
sản thuê mua vẫn thuộc
quyền ở hữu của người
thuê mua. Người đi thuê
không được sửa chữa,
làm giảm giá trị tài sản
hay thế chấp.
Nếu vi phạm những
quy định trong hợp đồng,
người thuê mua có quyền
thu hồi tài sản.
Rủi ro lớn do quyền sở
hữu tài sản thuộc về người
đi vay nên khó có thể
kiểm soát được việc sử
dụng tài sản. Có những
trường hợp người đi vay
không trả được nợ, ngân
hàng tịch biên tài sản
nhưng giá trị còn lại
thường thấp do đã sử dụng.
Rủi ro rất lớn.
Tóm lại, xét về mục đích cuối cùng (hành động cho vay) thì thuê mua tài chính cũng là tín dụng đầu tư, thông qua đầu tư vốn thuê mua (thay cho vay) nhằm thu lãi suất và lợi nhuận. Nhưng xét về bản chất nghiệp vụ thì thuê mua tài chính có một số đặc điểm phân biệt với các loại hình tín dụng. Thuê mua tài chính có nhiều ưu điểm hơn hẳn các loại tín dụng khác như: thời hạn thanh toán mềm dẻo hơn (thoả thuận tự nguyện); mức độ đáp ứng về vốn/ tổng nhu cầu vốn đầu tư cao hơn; thủ tục đơn giản, chấp thuận và thực hiện hợp đồng nhanh chóng; trong trường hợp có vấn đề phát sinh ngoài mong muốn thì việc thu hồi tài sản cũng nhanh và tiện lợi hơn. Thuê mua tài chính có mối quan hệ bởi cấu trúc ba bên: người thuê mua (cho vay), người đi thuê (đi vay) và nhà cung cấp tài sản, thiết bị. Ngược lại, tín dụng thông thường chỉ có mỗi quan hệ song phương giữa người cho vay và người đi vay.
I.3.4.2. Các hình thức thuê mua:
Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau, người ta có thể phân loại các hình thức thuê mua như sau:
- Căn cứ vào loại tài sản tài trợ thuê mua, theo truyền thống người ta phân thành 2 loại: thuê mua động sản và thuê mua bất động sản. Tuy nhiên, do sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động thuê mua, đã xuất hiện thêm loại thứ 3 là thuê mua vốn thương mại, trong đó người ta thuê mua nguyên cả một cơ sở sản xuất kinh doanh hoàn chỉnh, có đầy đủ nhà xưởng, văn phòng, kho bãi, máy móc thiết bị, thiết bị văn phòng… bao gồm cả động sản và bất động sản; người đi thuê chỉ lo về vốn lưu động và tiến hành sản xuất kinh doanh.
- Căn cứ vào phương thức tài trợ, có các loại như:
+ Thuê mua thuần: là loại hình thuê mua có sự tham gia của cả ba bên: người đi thuê, nhà cung cấp và người thuê mua. Đây là loại hình thuê mua chuẩn nhất, thể hiện đầy đủ nét đặc trưng của thuê mua. Có thể tóm tắt phương thức này như sau: Người đi thuê chọn thiết bị và nhà cung cấp, người đi thuê và người thuê mua ký hợp đồng thuê mua; người thuê mua ký hợp đồng và mua thiết bị của nhà cung cấp; người thuê mua chuyển quyền sử dụng thiết bị cho người đi thuê.
+ Bán rồi thuê lại: ở hình thức này, người đi thuê lúc đầu chính là chủ sở hữu tài sản thuê mua, họ bán tài sản này cho tổ chức thuê mua để rồi sau đó thuê mua lại chính tài sản đó, cuối thời hạn hợp đồng, họ lại là chủ sở hữu tài sản. Phương thức này thường áp dụng đối với bất động sản, hình thức này mang đến cho người đi thuê những lợi ích nhất định như: Bù đắp những thiếu hụt về vốn; tái tài trợ các tài sản trên cơ sở trung hạn mà trước đó đã mua bằng cách vay nợ trên thị trường, có thể giảm chi phí vốn bằng cách sử dụng vốn khác (của người thuê mua) với mức lãi suất thấp hơn mà người đi thuê vẫn được sử dụng những tài sản do chính mình xây dựng, thiết kế hoặc đang sử dụng có hiệu quả.
+ Thuê mua hợp tác: là loại hình thuê mua có sự tham gia của 4 bên: người đi thuê, người thuê mua, người cho vay và nhà cung cấp. Phương thức này giống như thuê mua thuần nhưng khác ở chỗ người thuê mua tài sản không hoàn toàn bằng vốn của mình mà một phần từ vốn vay của người cho vay, các cổ đông hay của các nhà cung cấp tài sản, thiết bị.
+ Hình thức thuê mua trả góp: là hình thức tài trợ có sự lai tạo giữa 2 loại hình thuê mua và trả góp. Theo phương thức này, người cho thuê mua sẽ tiến hành mua tài sản mà người đi thuê yêu cầu để thuê mua, khi đó người cho thuê mua vẫn là chủ sở hữu tài sản và người đi thuê chỉ có quyền sử dụng tài sản. Sau khi thuê mua một thời gian nhất dịnh, người đi thuê mua đã hoàn vốn (bằng hình thức thanh toán tiền thuê từng kỳ) đến một tỷ lệ nào đó thì người cho thuê mua sẽ tiến hành chuyển quyền sở hữu tài sản cho người đi thuê, nhưng người đi thuê vẫn còn trong tình trạng phải thực hiện những điều khoản trong hợp đồng, tức là vẫn phải thực hiện việc bảo dưỡng tài sản và thanh toán đủ số tiền còn lại.
+ Hình thức thuê mua nợ bán: là hình thức mà trong đó một người sản xuất ra các tài sản, thiết bị bán cho công ty thuê mua, công ty này vẫn để cho người sản xuất nắm giữ tài sản và yêu cầu họ cho người thứ 3 thuê. Sở dĩ gọi là thuê mua nợ bán vì người cho thuê mua không chỉ tài trợ cho người đi thuê mà còn trợ giúp vốn cho người sản xuất thông qua quá trình cấp vốn tín dụng bằng việc mua tài sản, nhà sản xuất có điều kiện giải phóng vốn trong giai đoạn dự trữ thành phẩm.
+ Thuê mua giáp lưng: là hình thức thuê mua mà không qua sự đồng ý của người thuê mua, người đi thuê thứ nhất cho người đi thuê thứ hai thuê lại tài sản mà trước đó họ đi thuê. Người đi thuê thứ nhất mặc dù không chịu những rủi ro liên quan trực tiếp đến tài sản nhưng vẫn chịu trách nhiệm như một người thuê thật sự theo những điều khoản đã ghi trong hợp đồng. Vai trò người thuê thứ nhất vừa là người đi thuê, vừa là người thuê mua tài sản, người thuê mua ban đầu chỉ biết đến người thuê thứ nhất mà không cần biết đến người thuê thứ hai.
+ Thuê mua quốc tế: Là hình thức thuê mua mà người sở hữu tài sản và người sử dụng tài sản thuê cư trú ở các nước khác nhau.
- Căn cứ vào mục đích sử dụng, có hai loại thuê mua là thuê mua cho sản xuất và thuê mua cho tiêu dùng.
- Căn cứ và tính chất biến động của lãi suất áp dụng trong nghiệp vụ thuê mua có 2 loại:
+ Thuê mua theo giá cố định, là hình thức thuê mua trong đó lãi suất được quy định cố định trong hợp đồng thuê mua.
+ Thuê mua theo giá thả nổi: là hình thức thuê mua trong đó 2 bên thoả thuận lãi suất được điều chỉnh theo từng kỳ phù hợp với lãi suất thị trường.
I.3.4.3. Tính chất pháp lý của tài sản thuê mua:
Khác với phương thức tài trợ cổ điển dưới hình thức tiền tệ, tài trợ thuê mua được thực hiện dưới hình thức tài sản. Tài sản thuê mua gồm cả động sản và bất động sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài.
- Tính chất pháp lý liên quan đến tài sản thuê mua:
Người cho thuê mua là chủ sở hữu của tài sản trong mọi thời điểm khi người đi thuê chưa mua tài sản (hay người cho thuê mua chưa thực hiện việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho người đi thuê theo hợp đồng), khi đó người đi thuê chỉ được quyền sử dụng tài sản mà không được:
+ Bán, giao, thế chấp tài sản thuê;
+ Thay đổi hình dáng hoặc chuyển thiết bị thuê khỏi nơi đã được lắp đặt đúng địa điểm trong hợp đồng mà không có thông báo bằng văn bản cho người thuê mua.
+ Xoá hoặc thay đổi sổ xác nhận thiết bị thuê mua.
+ Sử dụng thiết bị thuê với những mục đích không được thiết kế hoặc không mong đợi.
Nếu người đi thuê tài sản vi phạm những quy ước trên thì người cho thuê mua dễ dàng lấy lại tài sản với cương vị là sở hữu chủ về mặt pháp lý đối với tài sản thuê mua. Nhưng người đi thuê có quyền lựa chọn thuê tiếp, mua hay trả lại tài sản thuê khi kết thúc hợp đồng.
- Tính chất kinh tế của tài sản thuê mua:
Mặc dù người cho thuê mua là sở hữu chủ về mặt pháp lý nhưng họ không trực tiếp sử dụng tài sản, quyền này được trao cho người đi thuê, là người đứng ra khai thác tính hữu ích của tài sản và cam kết gánh chịu mọi rủi ro liên quan đến thiết bị thuê như:
+ Người đi thuê phải đền bù cho người cho thuê mua mọi mất mát hoặc thiệt hại về thiết bị với bất cứ nguyên nhân nào.
+ Người đi thuê phải bảo hiểm tài sản theo yêu cầu cụ thể của người cho thuê mua và duy trì việc bảo hiểm cho đến khi hết thời hạn thuê và phải cung cấp cho người cho thuê mua các tài liệu làm chứng cho việc bảo hiểm.
+ Người đi thuê phải thanh toán cho người cho thuê mua mọi chi phí về tiền thuê và các loại phí (bao gồm cả phí quản lý) của người cho thuê mua liên quan đến việc chuẩn bị và thực hiện hợp đồng, chi phí vận chuyển hoặc nhập khẩu thiết bị và các chi phí khác có thể phát sinh.
+ Người đi thuê phải giữ gìn, bảo quản, sửa chữa thiết bị, bảo đảm các tính năng của thiết bị, phải đào tạo cán bộ vận hành và có các hợp đồng bảo dưỡng, dịch vụ thích hợp.
I.3.4.4. Thời hạn thuê mua:
Hợp đồng thuê mua có khái niệm thời hạn cơ bản, được xác định bằng phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản thuê và hiện giá của các khoản thanh toán, tiền thuê mà người cho thuê mua nhận được tối thiểu phải lớn hơn hay gần bằng giá trị tài trợ (đầu tư). Hiện nay trên thế giới có nhiều kiểu quy định thời hạn cơ bản, có thể quy định thời hạn cụ thể hoặc theo tỷ lệ trên thời gian hữu dụng ước tính của tài sản và cũng có thể kết hợp cả 2 loại này (Hàn Quốc quy định thời hạn thuê cơ bản là 60% cho các tài sản có tuổi thọ kinh tế trên 5 năm và 70% đối với tài sản có tuổi thộ kinh tế dưới 5 năm ; ở Mỹ quy định thời hạn thuê cơ bản ít nhất phải đạt 75% thời hạn ước tính sử dụng tài sản và tổng hiện giá của các tài khoản tiền thuê ít nhất bằng 95% giá trị tài sản). Các quy định này nhằm đảm bảo quyền lợi và là điều kiện ràng buộc cả hai chủ thể ở chỗ:
+ Người đi thuê có thể trả lại tài sản khi hết hạn hợp đồng, lúc này người cho thuê mua sẽ gặp nhiều khó khăn do không bán tài sản được vì giá cả của tài sản luôn nhỏ hơn giá trị còn lại của chúng do hao mòn vô hình, vì thế quy định tổng hiện giá các khoản thanh toán tiền thuê phải lớn hơn hay gần bằng giá trị tài sản sẽ giúp người cho thuê mua giảm thiểu thiệt hại này. Hơn nữa, nó là yếu tố mang tính kỹ thuật, ràng buộc người đi thuê chọn mua tài sản vì họ cảm thấy có lợi khi chỉ bỏ ra một khoản tiền nhỏ (phần còn lại của giá trị tài trợ sau khi trừ đi tổng hiện giá các khoản thanh toán tiền thuê) họ sẽ sở hữu một tài sản có giá trị còn lại lớn hơn số tiền phải trả.
+ Việc quy định thời hạn thuê mua bằng phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản thuê là yếu tố đảm bảo quyền lợi cho người đi thuê. Vì khi đi thuê bản thân họ cũng có ít nhiều khó khăn về tài chính (không thể mua ngay tài sản) cho nên một khoảng thời gian đủ dài cho món nợ là yếu tố giúp họ có điều kiện tăng số vòng quay vốn tạo lợi nhuận trước khi đến hạn.
Thời hạn thuê cơ bản theo nguyên tắc là thời hạn không thể huỷ bỏ. Tuy nhiên, do khả năng kinh tế, người đi thuê có thể thoả thuận một thời hạn phù hợp, hoặc do tốc độ lỗi thời của thiết bị mà người cho thuê mua có thể đề ra một thời hạn ngắn hơn.
Như vậy, thời hạn thuê mua phụ thuộc vào các yếu tố sau:
+ Thời hạn hữu dụng của tài sản;
+ Quy chế tài trợ thuê mua của nhà nước;
+ Khả năng tài chính của người đi thuê;
+ Tốc độ hao mòn vô hình của tài sản.
I.3.5. Huy động và sử dụng vốn dài hạn thông qua các kênh khác
I.3.5.1. Khuyến khích các doanh nghiệp phát huy nội lực hoặc liên doanh liên kết, tăng đầu tư dài hạn.
Không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, đặc biệt là mở rộng tự do hóa đầu tư, đưa ra các ưu đãi hấp dẫn liên qua đến việc giảm chi phí đầu vào và tạo độ tin cậy để kích thích các doanh nghiệp mở rộng đầu tư dài hạn là một trong các kênh chủ yếu để khai thác và sử dụng vốn đầu tư phát triển dài hạn xã hội tốt nhất cả trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp: bao gồm nguồn vốn tự có, khấu hao tài sản cố định, lợi nhuận tái đầu tư, các nguồn vốn huy động thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vốn liên doanh, liên kết. Trong nền kinh tế thị trường, nguồn vốn này hết sức quan trọng, nó có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả, năng lực sản xuất của nền kinh tế và giá trị tổng sản phẩm xã hội. Trong xu hướng phát triển chung, nguồn vốn này sẽ tăng lên nhanh chóng và ngày càng trở thành nguồn vốn chủ đạo trong nền kinh tế.
Doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế, là nơi trực tiếp sử dụng thiết bị công nghệ, thể hiện trình độ phát triển của nền kinh tế. Để thúc đẩy sự phát triển và áp dụng khoa học công nghệ của doanh nghiệp, mỗi doanh nghiệp cần có vốn dài hạn để mua sắm thiết bị và đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động. Song phần tích tụ vốn của doanh nghiệp tăng lên không thể kịp nhu cầu đầu tư cho thay đổi thiết bị và áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ đang thay đổi với tốc độ chóng mặt. Bởi vậy, doanh nghiệp cần phải tập trung được một lượng vốn đủ lớn được bổ sung từ các doanh nghiệp khác thông qua liên doanh liên kết, hay nguồn vốn từ dân cư bằng cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
Liên doanh, hợp tác trong nước là phương thức tập trung vốn giữa các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh gắn liền với việc chuyển giao công nghệ, thiết bị giữa các bên tham gia. Qua liên doanh, hợp tác, một lượng vốn lớn được tập trung, đáp ứng được nhu cầu mua sắm trang thiết bị công nghệ, đáp ứng được những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhờ đó doanh nghiệp có thể trụ vững được trên thương trường. Việc liên doanh, liên kết trong nước đống một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển. Nó khai thác được những lợi thế của các bên tham gia, tạo nền tảng cho việc xây dựng các tập đoàn kinh tế mạnh. Liên doanh liên kết có thể thông qua tái cấu trúc DN, qua hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc sáp nhập, mua lại cổ phần… Phát hành cổ phiếu làm tăng vốn của doanh nghiệp từ nhiều chủ sở hữu, còn phát hành trái phiếu làm tăng vốn vay của doanh nghiệp, đồng thời làm tăng hệ số nợ của doanh nghiệp. Mỗi phương thức huy động vốn này đều có ưu điểm và nhược điểm riêng, song đối với doanh nghiệp thì cả hai cách này đều là phương thức tập trung vốn dài hạn được sử dụng nhiều ở các nước phát triển, nó đáp ứng kịp thời cho nhu cầu đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp.
I.3.5.2. Mở rộng xã hội hóa và tự do đầu tư kinh doanh
XHH cần được hiểu theo nghĩa vừa kêu gọi vốn đầu tư tham gia liên doanh liên kết của doanh nghiệp ngoài nhà nước vào các lĩnh vực vốn do NSNN hoặc DNNN đảm nhận đầu tư, vừa phải là việc không ngừng tự do hóa đầu tư, cho phép các thành phần kinh tế ngoài nhà nước trực tiếp đầu tư kinh doanh các lĩnh vực, sản phẩm, địa bàn vốn bị đóng cửa hoặc hạn chế đối với họ
Mở rộng phạm vi, hình thức xã hội hóa đối với một số lĩnh vực (như giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa, thể thao...) sẽ giảm được một khối lượng vốn NSNN dài hạn đầu tư cho những ngành đó, do vậy sẽ tập trung vốn NSNN đầu tư cho các ngành khâu dự án trọng điểm, có ý nghĩa chiến lược ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội nói chung mà tư nhân không muốn và không thể đầu tư.
Đặc biệt, cần sớm hoàn thiện cơ chế XHH cho phép các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác cùng tham gia hoạt động cung cấp dịch vụ công cộng; Từng bước thay thế phương thức cấp kinh phí trực tiếp cho các đơn vị cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích bằng việc Nhà nước mua sản phẩm hoặc dịch vụ hoàn thành theo giá cả phù hợp với chất lượng và tiến độ hoàn thành; Thực hiện công khai hóa tài chính để đảm bảo xã hội hóa lành mạnh.
I.3.5.3. Tăng cường đấu giá quyền sử dụng đất và phát triển các quỹ đầu tư…
Đây là những phương thức huy động còn kha mới mẻ nhưng chắc chắn sẽ ngày càng phổ biến ở nước ta và cả thành phố Hà Nội trong tương lai, nhất là các quỹ đầu tư.
Nói tóm lại, để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong những năm tới, mỗi địa phương cần tìm những phương cách thích hợp để phát huy những lợi thế của mình nhằm huy động ngày càng nhiều và ngày càng nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn sẵn có ngay trên địa phương cho đầu tư dài hạn phát triển kinh tế.
CHƯƠNG II:THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN DÀI HẠN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở HÀ NỘI
II.1. Đánh giá chung thực trạng khai thác và sử dụng vốn dài hạn đầu tư phát triển kinh tế Hà Nội những năm gần đây
Hà Nội là trung tâm tài chính - tiền tệ lớn nhất Miền Bắc và đứng thứ hai của đất nước (sau TP HCM). Những năm qua, Hà Nội đã thu hút được khá nhiều nguồn vốn phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Vốn đầu tư nước ngoài, vốn huy động trong nước đều tăng với mức cao qua các năm và đều vượt các chỉ tiêu đã đặt ra trong các chương trình huy động của Thành phố.
* Giai đoạn 1996 - 2000:
Trong thời gian từ 1996 đến 2000, tổng vốn đầu tư xã hội trên địa bàn Hà nội đạt khoảng 69.510 tỷ đồng, bình quân 1 năm đầu tư gần 14.000 tỷ đồng. Trong đó: Vốn đầu tư trong nước là 43.056 tỷ đồng, bình quân 1 năm đầu tư gần 8.600 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 61,9%; vốn đầu tư nước ngoài là 26.453 tỷ đồng, bình quân 1 năm đầu tư gần 5.300 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 38,1%. Tốc độ tăng vốn đầu tư xã hội bình quân hàng năm đạt 4,62%/năm.
* Giai đoạn từ năm 2001 đến nay:
Trong hai năm 2001-2002 vốn đầu tư xã hội trên địa bàn Thành phố đạt tốc độ tăng cao và khá ổn định, tổng vốn đầu tư xã hội đạt 39,3 ngàn tỷ đồng, tăng 17,2%/năm B×nh qu©n 2 n¨m 2001-2002 vèn ®Çu t x· héi c¶ níc t¨ng 10,3%/n¨m, Thµnh phè HCM t¨ng 12,2%/n¨m
(kế hoạch 10%/năm). Huy động vốn đầu tư xã hội trên địa bàn 9 tháng đầu năm 2003 đạt kết quả tốt. Ước tính 9 tháng đầu năm, tổng vốn đầu tư xã hội đạt 16.565 tỷ đồng, tăng 11,6% so với cùng kỳ năm 2002. Đầu tư trong nước được huy động tốt hơn, năm 2002 chiếm 85% tổng vốn đầu tư xã hội; đầu tư nước ngoài được phục hồi.
Huy động vốn trung và dài hạn của các NHTM phát triển và ngày càng có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô và cả nước.
Nguồn vốn để cho vay trung và dài hạn của các NHTM trên địa bàn Hà Nội chủ yếu là vốn tự huy động, vốn uỷ thác đầu tư và một phần vốn từ Ngân sách Nhà nước đầu tư cho các công trình theo KHNN (tuy nhiên vài năm trở lại đây các NHTM chỉ cho vay đối với các công trình chuyển tiếp, còn các công trình dự án mới chuyển về quỹ hỗ trợ phát triển cho vay).
- Vốn tài trợ uỷ thác đầu tư:
Vốn tài trợ uỷ thác đầu tư qua hệ thống NHTM ở Hà Nội bao gồm nguồn vốn tài trợ uỷ thác từ các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ để các NHTM cho vay đối với các công trình trọng điểm của Nhà nước.
Trong giai đoạn 1996 - 2000, vốn tài trợ uỷ thác đầu tư đạt kết quả thấp, nguồn vốn này tăng mạnh từ đầu năm 2001, số dư đến cuối tháng 6/2002 đạt 4.808 tỷ đồng và dự kiến đến cuối năm 2002 đạt 4.808 tỷ đồng.
- Vốn tự huy động:
Tính đến cuối tháng 12/2000, vốn trung và dài hạn (Vốn có kỳ hạn trên 1 năm) huy động qua hệ thống các NHTM đạt: 19.018 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân năm trong giai đoạn 1996 - 2000 là 56,1%, đưa tỷ trọng vốn trung và dài hạn từ 11% năm 1996 tăng lên 25,5 % năm 2000. Số dư vốn huy động trung và dài hạn đến 6/2002 là 31.450 tỷ đồng, tăng 14,1% so với năm 2001. Năm 2002 vốn trung và dài hạn đạt: 39.900 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân năm trong 2 năm 2001 - 2002 là 44,9%. Tính đến hết 10.2003, các NHTM và TCTD trên địa bàn Hà Nội có tổng nguồn vốn huy động đạt 138.740 tỷ đồng, tăng 13,6% so với cuối năm 2002, chiếm tới gần 40% thị phần huy động vốn cả nước, trong đó riêng tiền gửi của dân cư đạt 61.760 tỷ đồng, tăng 17,4% so với cuối năm 2002. Tổng dư nợ cho vay của các NHTM và TCTD trên địa bàn Hà Nội đến hết tháng 10.2003 đạt 70.550 tỷ đồng, chiếm khoảng 21% thị phần cho vay của cả nước, trong đó có 39.990 tỷ đồng dư nợ cho vay ngắn hạn và 30.560 tỷ đồng cho vay trung dài hạn, chiếm 43% tổng dư nợ cho vay. Chính vì vậy, sau khi cân đối nguồn và sử dụng, Hà Nội đã có gần 40.000 tỷ đồng đầu tư trên thị trường tiền gửi nước ngoài và chuyển cho các địa phương khác vay. Hà Nội luôn là thị trường huy động vốn lớn nhất cả nước, là địa phương có số bội thu tiền mặt rất lớn tới hàng trăm tỷ đồng mỗi tháng. Tiềm lực về vốn của Hà Nội nằm trong dân, trong các tổ chức bảo hiểm, tỗ chức tài chính và phi tài chính khác. Nguồn vốn huy động của các NHTM và TCTD ở Hà Nội thường xuyên cao hơn ở TP.Hồ Chí Minh tới hàng chục ngàn tỷ đồng.
Về cơ cấu, tổng số vốn huy động trên địa bàn 6 tháng đầu năm 2003 đạt 132.100 tỷ đồng, tăng 21% so với cùng kỳ năm 2002 và tăng 8,2% so với đầu năm 2003. được phân theo cơ cấu sau:
* Phân theo đối tượng huy động:
+ Tiền gửi của dân cư ước đạt 60.300 tỷ đồng, tăng 22,8% so với cùng kỳ năm 2002 và tăng 12,4% so với đầu năm 2003, chiếm tỷ trọng 45,6% tổng nguồn vốn huy động. Trong đó tiền gửi tiết kiệm ước đạt 46.950 tỷ đồng, tăng 18,6% so với cùng kỳ năm 2002 và tăng 13,4% so với đầu năm 2003.
+ Tiền gửi của các tổ chức kinh tế ước đạt 71.800 tỷ đồng, tăng 19,6% so với cùng kỳ năm 2002 và tăng 4,9% so với đầu năm 2003, chiếm tỷ trọng 54,4% tổng nguồn vốn huy động.
* Theo khối các tài chính tín dụng:
Tỷ trọng vốn huy động của các Ngân hàng thương mại nhà nước chiếm 77%, các Ngân hàng thương mại cổ phần chiếm 9%, các Ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài chiếm 14%.
+ Huy động vốn qua các tổ chức tài chính trung gian phi ngân hàng: các tổ chức tài chính trung gian phi ngân hàng (các công ty tài chính, công ty thuê mua tài chính, các công ty Bảo hiểm...) là những tổ chức có vai trò quan trọng trong hoạt động của thị trường vốn và là nơi cung cấp vốn trung dài hạn cho đầu tư phát triển trên địa bàn. Tuy nhiên, hiện nay quy mô vốn huy động của các tổ chức này còn nhỏ, chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 7,36% nguồn số vốn trung và dài hạn huy động trên địa bàn và chủ yếu là vốn huy động của các công ty bảo hiểm. Cụ thể:
++ Đối với các công ty tài chính, các công ty thuê mua tài chính: Tính đến 31/12/2002, số dư vốn huy động qua các tổ chức này là 470 tỷ đồng và luỹ kế đến hết tháng 5/2002 là: 1.121,95 tỷ đồng (trong đó vốn tự huy động là 61,9 tỷ đồng, vốn uỷ thác của các tổ chức khác là: 1.058,9 tỷ đồng) tăng 238% so với đầu năm 2002 và chiếm tỷ trọng 3,3% nguồn vốn trung và dài hạn.
++ Đối với các công ty Bảo hiểm: Thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển rất nhanh chóng trong thời gian qua, phạm vi quy mô hoạt động ngày càng được mở rộng, với nhiều loại hình , sản phẩm đa dạng. Trước năm 1994, thị trường bảo hiểm mới chỉ có 20 sản phẩm bảo hiểm thì nay trên thị trường có hơn 90 loại sản phẩm bảo hiểm. Doanh thu phí bảo hiểm tăng bình quân 23%/năm và chiếm 0,97% so với GDP (năm 2001). Vốn và tích luỹ các quỹ dự phòng nghiệp vụ được tăng cường góp phần thúc đẩy thị trường tài chính, thị trường vốn trên địa bàn. Ước tính đến cuối năm 2001, tổng số vốn và tích luỹ các quỹ dự phòng nghiệp vụ của các công ty bảo hiểm trên địa bàn là: 1.765 tỷ đồng và ước đến cuối tháng 5/2002 là 2.000 tỷ chiếm tỷ trọng 4, 06% nguồn vốn trung và dài hạn.
Ngoài ra còn hoạt động của các Quỹ tín dụng nhân dân song quy mô huy động vốn của các Quỹ tín dụng nhân dân còn rất nhỏ bé vai trò của chúng cũng hết sức mờ nhạt trong hoạt động của thị trường tài chính.
* Huy động vốn qua thị trường chứng khoán: ở Hà Nội chưa có thị trường chứng khoán có tổ chức, các thị trường tiền tệ hoạt động vẫn còn kém năng động, thiếu tính kết dính và với quy mô nhỏ bé, do đó chưa có tác động đáng kể đến nền kinh tế nói chung và thị trường vốn nói riêng.
* Huy động vốn qua KBNN. Giai đoạn 1996 - 2000 tổng số vốn huy động đạt 7.430 tỷ đồng đã góp phần bù đắp thiếu hụt ngân sách, ổn định tiền tệ và ngăn chặn lạm phát. Năm 2001 và 6 tháng đầu năm 2002 đã huy động đạt 1.112 tỷ đồng, KBNN Hà nội luôn là đơn vị dẫn đầu trong cả nước về doanh số huy động của hệ thống KBNN, tỷ trọng huy động vốn của Hà nội thường xuyên chiếm khoảng 30% số huy động vốn cả nước, khối lượng huy động vốn ổn định và duy trì ở mức khá với các hình thức huy động trái phiếu khá đa dạng, được quy định cho từng đợt phát hành: trái phiếu không mệnh giá, trái phiếu có mệnh giá, công trái xây dựng Tổ quốc, trái phiếu chiết khấu...
Nhìn chung trong những năm qua, tổng vốn đầu tư xã hội của Thành phố đạt tốc độ tăng trưởng khá tốt, nhất là những năm gần đây. Nguyên nhân của sự tăng trưởng các nguồn vốn trên là nhờ sự nỗ lực của các ngành, các cấp, các thành phần kinh tế, đồng thời các chính sách ban hành của Nhà nước đã tạo điều kiện đẩy mạnh việc huy độngvà sử dụng vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế đặc biệt là Nghị quyết 15-NQ/TW của Bộ Chính trị và Pháp lệnh Thủ đô Hà nội sau khi ban hành đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc đổi mới cơ chế, cải cách thủ tục hành chính, huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế Thủ đô.
Trong giai đoạn từ 1996 đến 6/2002 các phương thức huy động ngày một đa dạng và phong phú để thu hút nguồn tiền gửi từ các tầng lớp dân cư như: Tiết kiệm xây dựng nhà ở, huy động vốn bằng vàng, huy động vốn bằng VND đảm bảo giá trị theo vàng, mở tài khoản cá nhân, tiết kiệm dài hạn (kỳ hạn từ trên 12 tháng ), phát hành trái phiếu NHTM (cả nội và ngoại tệ)... Hiện nay, huy động vốn dài hạn bằng phát hành trái phiếu vẫn được các NHTM sử dụng khá phổ biến. Tuy công tác huy động vốn trên địa bàn Hà nội đạt kết quả khá tốt với các hình thức huy động vốn khá đa dạng, linh hoạt, nguồn vốn huy động vài năm gần đây đạt tốc độ tăng khá cao so với tỷ lệ tăng chung của toàn quốc nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về nguồn để cho vay trung và dài hạn (năm 1996 tỷ trọng vốn trung và dài hạn trong tổng vốn huy động khoảng 10%, năm 2001: 25% và đến 6/2002 là 26,2%). Thực hiện chỉ đạo của NHNN Việt Nam, các NHTM đã tự cân đối dùng một phần nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn, đáp ứng nhu cầu vay vốn mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị,... của các doanh nghiệp. Tính riêng giai đoạn 1996 - 2000, nguồn vốn huy động trung dài hạn cảu các NHTM mới chỉ đáp ứng được 56,81% nhu cầu vay vốn trung dài hạn của các DN. Trong khi đó, lượng vốn trung, dài hạn của các tổ chức tài chính trung gian phi ngân hàng còn nhỏ bé và chưa được tích cực khai thác để phục vụ cho các dự án đầu tư phát triển kinh tế của Thủ đô. Việc huy động vốn nhàn rỗi thông qua Kho bạc Nhà nước chỉ thực hiện khi có quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài chính trên cơ sở nhu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của cả nước hoặc bù đắp thiếu hụt của Ngân sách Trung ương, chưa có tác động trực tiếp tới việc phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn. Các công cụ và hình thức huy động vốn còn nghèo nàn, hình thức trái phiếu đô thị chưa được sử dụng để huy động vốn dài hạn cho đầu tư phát triển. Vì vậy, hiện nay lượng tiền nhàn rỗi trong khu vực dân cư còn khá lớn.
Về tổng thể, hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng trên địa bàn Thành phố vẫn còn tồn tại một số khó khăn vướng mắc sau:
Thứ nhất, sự cạnh tranh "phân chia thị trường" bởi các kênh huy động vốn khác nhau: tiết kiệm bưu điện; bảo hiểm; các tổ chức tài chính khác... vẫn là khó khăn chủ yếu hiện nay đối với hoạt động huy động vốn của các NHTM. Đặc biệt, tiết kiện bưu điện với lợi thế về cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho phép thực hiện các giải pháp kỹ thuật hiện đại trong việc gửi và rút tiền nhanh - thuận tiện và an toàn đã thu hút nhiều người dân gửi tiền qua hình thức này, thời gian giao dịch dài hơn và liên tục hơn.
Thứ hai, tỷ trọng vốn huy động trung, dài hạn chưa cao nên gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng tiếp cận với các dự án thuộc chương trình kích cầu đầu tư phát triển hạ tầng các ngành y tế, giáo dục, và hạ tầng giao thông của Thành phố có nhu cầu vốn vay rất lớn.
Thứ ba, người dân chưa có thói quen gửi tiền tiết kiệm trung và dài hạn, mặc dù tiền gửi có kỳ hạn chiếm 80% vốn huy động, nhưng tiền gửi có kỳ hạn ngắn (dưới 1 năm) lại chiếm 50% vốn huy động. Các NHTM hiện đã có loại hình tiền gửi trung hạn (24, 36 tháng) nhưng chưa thu hút được người dân gửi tiền. Nguyên nhân tình trạng này là do:
+ Người dân chưa thực sự tin tưởng để có thể gửi tiền dài hạn vào hệ thống ngân hàng.
+ Sổ tiết kiệm và các loại hình tiền gửi không có khả năng chuyển nhượng trên thị trường thứ cấp.
+ Chênh lệch về lãi suất giữa tiền gửi ngắn hạn và dài hạn chưa đủ sức hấp dẫn người dân gửi tiền.
+ Những cơ sốt của thị trường bất động sản đang thu hút một lượng lớn vốn đầu tư dài hạn đầu tư vào bất động sản.
Thứ tư, lãi suất đã được tự do hóa, tuy nhiên khả năng can thiệp để điều chỉnh lãi suất bằng các công cụ gián tiếp thông qua nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng nhà nước lại rất hạn chế. Do đó, khi lãi suất huy động bị đẩy lên giá quá cao, ngân hàng nhà nước tỏ ra lúng túng trong việc điều tiết gây khó khăn trong công tác huy động vốn, nhất là vốn trung và dài hạn trong hệ thống NHTM.
Thứ năm, công cụ tài chính chủ yếu để thu hút vốn dài hạn là trái phiếu. Về lý thuyết, thời hạn huy động và cho vay càng dài thì lãi suất phải càng cao. Nhưng cũng do sự thiếu ổn định chung của nền kinh tế, đặc biệt là việc dự báo lạm phát, tỷ giá rất khó khăn, nên ngân hàng còn nhiều lúng túng trong việc định ra lãi suất huy động (trái phiếu) để sao cho ngân hàng huy động được, cho vay được và ngân sách không phải bù đắp một cách quá mức.
Thứ sáu, các công cụ có tác dụng bảo đảm an toàn cho người gửi tiền và người đầu tư chưa đủ để có thể giảm thiểu rủi ro cho người gửi tiền (tức là các nhà đầu tư).
Thứ bảy, các dịch vụ ngân hàng tuy đã có bước phát triển mới, đa dạng và phong phú hơn, nhưng vẫn còn sơ sài và hạn chế ở tính hữu dụng. Thực tế này làm hạn chế khả năng tăng luân chuyển vốn, nhất là ở các vùng nông thôn, dẫn đến không khuyến khích được tiết kiệm.
Thứ tám, hệ thống cơ sở hạ tầng công nghệ - kỹ thuật tài chính (dịch vụ kiểm toán, tư vấn tài chính, đầu tư, hệ thống kế toán, thông tin, lưu ký, đăng ký, xếp hạng tín nhiệm...) còn chưa đáp ứng được yêu cầu cho sự phát triển thị trường vốn dài hạn, nhất là để thị trường cổ phiếu hoạt động có hiệu quả.
Ngoài ra, hoạt động huy động vốn dài hạn còn gặp phải những hạn chế từ phía các cơ quan chức năng, như:
- Nền kinh tế chưa phát triển ổn định, bền vững làm giảm khả năng huy độngvà khó định hướng trong lĩnh vực huy động và đầu tư vốn phát triển.
- Hệ thống luật pháp về tài chính chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ, đặc biệt là chưa có luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán và thiếu chính sách khuyến khích phát triển hoạt động tài chính và thị trường tài chính. Hệ thống pháp luật về ngân hàng còn những điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng. Đồng thời, các quy định, pháp luật liên quan như: Luật đất đai, Luật doanh nghiệp, Luật thương mại còn những bất cập cho nên đã ảnh hưởng phần nào đến sự phát triển của thị trường vốn dài hạn.
Ngày 20/07/2000, thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức đi vào hoạt động với sự khai trương của Trung tâm giao dịch chứng khoán đầu tiên của Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng đồng bộ và hoàn thiện thị trường tài chính ở Việt Nam, mở ra kênh huy động vốn trung và dài hạn mới bên cạnh hệ thống Ngân hàng, các tổ chức tài chính tín dụng phi ngân hàng. Ngày 27/02/2002, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án thành lập thị trường chứng khoán dành cho cổ phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà nội được giao nhiệm vụ xây dựng và quản lý hệ thống giao dịch cho loại cổ phiếu này. Đây là một bước mở đầu tạo điều kiện thuận lợi để phát triển thị trường chứng khoán trên địa bàn Hà nội. Tuy nhiên, cho đến nay trên thực tế Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà nội vẫn chưa chính thức khai trương trên địa bàn Thủ đô, mới chỉ có sự phát triển ở mức ban đầu của thị trường chứng khoán (thị trường sơ cấp), cụ thể:
+ Thị trường trái phiếu ngân hàng: Thời gian qua trái phiếu ngân hàng là công cụ hỗ trợ đắc lực các ngân hàng thương mại đa dạng hoá thêm kênh huy động, giải toả kịp thời mất cân đối giữa cung và cầu tín dụng trong nền kinh tế nhưng chủ yếu mới có Ngân hàng đầu tư phát triển là phát hành trái phiếu đều đặn hàng năm.
+ Thị trường trái phiếu doanh nghiệp: Việc triển khai thị trường này mới mang tính chất thời điểm, hiện nay các trái phiếu doanh nghiệp Nhà nước chưa được bán rộng rãi cho công chúng mà chủ yếu mới được phát hành trong phạm vi hẹp.
+ Thị trường cổ phiếu: Hiện nay tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta nói chung và tại Hà nội nói riêng còn chậm, do đó thị trường cổ phiếu còn hết sức nhỏ bé. Trong khi đó đã có biểu hiện sự hoạt động của thị trường tự do nằm ngoài quỹ đạo quản lý của Nhà nước.
Trong thời gian tới, việc xuất hiện và duy trì hoạt động của Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà nội cùng với việc thúc đẩy nhanh hơn tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, hàng hoá trên thị trường chứng khoán sẽ được cải thiện đáng kể về số lượng, chất lượng và chủng loại, các công ty chứng khoán trên địa bàn sẽ xuất hiện nhiều hơn và sẽ có sự cạnh tranh gay gắt hơn. Do vậy, dự báo thị trường chứng khoán trên địa bàn Hà nội với lợi thế là Thủ đô sẽ ngày càng được hoàn thiện về tổ chức, mở rộng về quy mô, nâng cao về chất lượng và hiệu quả và sẽ là một kênh quan trọng huy động vốn dài hạn cho đầu tư phát triển kinh tế Thủ đô.
Tóm lại, có thể thấy rằng, mặc dù tổng vốn đầu tư xã hội trên địa bàn tăng trưởng liên tục suốt thời gian qua và Hà Nội đã có sự chuyển mình rất mạnh, rất quyết liệt để có bộ mặt sáng sủa, đẹp đẽ và đáng tự hào như hiện nay; song về phương diện vốn đầu tư dài hạn, Hà Nội đang đứng trước 3 vấn đề bức xúc sau:
Thứ nhất, Hà Nội đang rất cần vốn đầu tư để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế theo hướng CNH- HĐH, xây dựng Thủ đô đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, tuy nhiên còn nhiều nguồn vốn chưa được khai thác trực tiếp cho phát triển kinh tế xã hội Thủ đô .
Hàng năm, Hà Nội chuyển về TW trên 65% tổng nguồn thu NSNN trên địa bàn. Các ngân hàng Hà Nội cũng thu hút tới 40% tổng nguồn vốn huy động của hệ thống ngân hàng cả nước, song có tới 50% số đó lại được chuyển đi các tỉnh hoặc địa phương khác. Các đợt phát hành trái phiếu Chính phủ (điển hình là trái phiếu giáo dục năm 2003) luôn được Thành phố hưởng ứng tích cực và đứng hàng đầu cả nước về kết quả vốn huy động cũng như thời gian thực hiện. KBNN Hà Nội huy động tới 30% vốn cho NSNN qua phát hành TPCP, song hầu như số tiền huy động được lại chuyển hết về Trung ương.
Hà Nội nườm nượp xe máy, ô tô, tràn trề các hàng ngoại nhập cao cấp và không ngừng mọc lên các công trình của tư nhân đồ sộ không thua kém của Nhà nước. Hà Nội có hàng trăm sinh viên du học tự túc mỗi năm mang theo ra nước ngoài hàng triệu USD học phí và các chi phí ăn, ở và sinh hoạt cần thiết khác. Trong số 2 tỷ USD kiều hối gửi về Việt Nam năm 2003 có lẽ không dưới 1/3 số đó chuyển qua "cổng" Hà Nội…
Trong khi đó, hiện có tới trên 50% doanh nghiệp ở Hà Nội chưa được vay vốn ngân hàng. Các NHTM Nhà nước cho các doanh nghiệp tư nhân vay không quá 20% tổng dư nợ vay hàng năm của mình do các điều kiện về thế chấp và cả vấn đề, các quán tính tâm lý và thói quen. Vốn ngân hàng cho vay dài hạn chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu các doanh nghiệp. Trên 90% các doanh nghiệp trên địa bàn là thuộc loại quy mô nhỏ và vừa với số vốn dưới 5 tỷ đồng, đang đòi hỏi những khoản đầu tư rất lớn để tăng cường sức cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu thị trường trong bối cảnh mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế. Nói cách khác, các doanh nghiệp và công trình đang khát vốn bên dòng sông vốn khá dồi dào của Hà Nội.
Thứ hai, trên địa bàn có rất nhều nhà đầu tư tiềm năng, song chưa tìm được cơ hội và hình thức đầu tư thích hợp.
Công tác xã hội hoá hiểu theo nghĩa tự do hoá và bình đẳng hoá trong đầu tư mới đi được những bước đầu tiên. Nhu cầu vệ sinh môi trường, nhu cầu giao thông vận tải công cộng, nhu cầu nước sạch, nhu cầu giáo dục - đào tạo, nhu cầu dịch vụ việc làm, nhu cầu vui chơi - giải trí lành mạnh… và nhiều nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội khác nữa của Thành phố vẫn giữ nguyên sự nóng bỏng của mình, thậm chí còn có xu hướng gia tăng tính cấp thiết trong thời gian tới. Tuy vậy, hoặc do chưa được khuyến khích hay chưa có cơ chế thích hợp mà nhiều nhà đầu tư tư nhân chưa được kích thích " mở hầu bao" an tâm bỏ vốn đầu tư lâu dài "danh chính ngôn thuận" vào các dự án thuộc các lĩnh vực này, để tạo ra những động lực phát triển mới và sự cạnh tranh lành mạnh đẩy nhanh và nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội chung trong các lĩnh vực này. Trong khi đó, nhiều lĩnh vực thuộc độc quyền của các doanh nghiệp Nhà nước thì đang trở nên quá tải với khả năng hoạt động của các doanh nghiệp này. Nếu các trường đại học tư nhân, dân lập trên địa bàn Thành phố được phép thuê đất, xây trường, hiện đại hoá cơ sở vật chất của mình thì sẽ có nhiều trường không thua kém các trường đại học công lập cả về hình thức, quy mô, chất lượng và uy tín. Hoặc nếu mô hình hợp tác xã dịch vụ môi trường Thành Công được nhân rộng, chứ không chỉ được làm thí điểm như hiện nay, thì hẳn là thành phố đã xanh, sạch, đẹp và tiết kiệm kinh phí ngân sách Nnà nước hơn nhiều... Cũng như vậy, nếu thành phố dùng cơ chế BOT hoặc mua nước sạch của doanh nghiệp tư nhân khai thác nước sạch qua đồng hồ tổng, rồi tổ chức kinh doanh phân phối cho dân, thì hẳn hàng ngàn hộ nội thành đã không phải dùng nước giếng khoan không đạt tiêu chuẩn vệ sinh như hiện nay.
Hơn nữa, trong nhiều gia đình Hà Nội luôn có khoản tích luỹ hoặc nhu cầu đầu tư kinh doanh, song chưa tìm được cơ hội và hình thức đầu tư thích hợp. Hà Nội chưa có nhiều công ty đầu tư tài chính, công ty cổ phần và các chứng khoán thích hợp đủ uy tín để thu hút các khoản vốn nhàn rỗi trong dân. Các ngân hàng và quầy tiết kiệm vẫn là sự lựa chọn bắt buộc của các gia đình tằn tiện; còn đối với nhiều người có tiền khác thì hoặc mua vàng, ngoại tệ, bất động sản để giành và đầu cơ, hoặc mua sắm các tiện nghi vật dụng cao cấp ngoại nhập, thậm chí tham gia kinh doanh “đen“ (cho vay nặng lãi, số đề...).
Thứ ba, trong khi ngân sách Thành phố đang chắt bóp từng đồng để lựa chọn, cân nhắc ưu tiên đầu tư đúng lúc, đúng chỗ, thì có hàng trăm tỷ đồng vốn và tài sản Nhà nước bị thất thu, thất thoát, lãng phí hoặc bỏ hoang.
Hiện nay, Hà Nội có hàng trăm ngàn m2 đất, thậm chí nhiều khu ở các vị trí rất “đắc dịa”, bị bỏ hoang theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng; nhiều khu công viên cây xanh hiu hắt, tẻ nhạt; nhiều doanh nghiệp nhà nước chiếm giữ các diện tích đất rất rộng, thậm chí thừa mà không chịu nộp thuế sử dụng đất hoặc nộp hình thức. Nhiều hợp tác xã và doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá đang trở thành nơi găm giữ hoặc gây thất thu những khoản tiền từ đất rất lớn. Nhiều công sở bị xuống cấp cần giải phóng mặt bằng để xây mới, đưa vào sử dụng có hiệu quả hơn, song đã nhiều năm nay không triển khai được chỉ vì sự tư lợi hoặc tắc trách khó hiểu của ai đó và cả của “ cơ chế”. Hàng ngàn ha rừng hoặc các danh lam thắng cảnh, các tài nguyên nước, dòng sông trên địa bàn chưa được đánh thức hoặc đưa vào khai thác hiệu quả hơn theo phương thức kết hợp công- nông- lâm ngư nghiệp - du lịch tạo ra các nguồn thu mới, đa dạng và dồi dào cho ngân sách thành phố, địa phương. Đó là chưa kể các khoản thất thu khó đo lường trong khu vực kinh tế tư nhân, mà nổi cộm là thu từ trong lĩnh vực giao thông vận tải và thương mại.
Đứng trước bài toán lớn và phức tạp: làm gì để khơi thông, phối hợp và định hướng các dòng chảy vốn đầu tư vào thoả mãn nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô, trong thời gian tới Hà Nội cần có nhiều bứt phá mạnh dạn và quyết liệt hơn về nhận thức, cơ chế chính sách và tổ chức thực hiện, mà trước hết cần tập trung vào các nội dung sau:
Một là, sớm chủ động phối hợp với TW hoàn chỉnh bổ sung, cụ thể hoá các văn bản pháp lý cần thiết và đặc thù phù hợp cho Hà Nội theo tinh thần Pháp lệnh Thủ Đô số 29/2000/PL-UBTVQH khoá X và Nghị quyết 15-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 15/12/2000 về phương hướng nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội trong thời kỳ 2000 - 2001. Đa dạng hóa và mạnh dạn sử dụng nhiều hình thức và công cụ đầu tư mới để thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi (thành lập các Quỹ đầu tư phát triển, Quỹ đầu tư rủi ro, phát triển thị trường chứng khoán, phát triển các Công ty cổ phần đa sở hữu, phát triển các Công ty đầu tư tài chính, phát triển các phương thức thuê mua tài chính, thanh toán bồi hoàn, thống nhất cơ chế, cách thức tổ chức và tăng cường đấu giá quyền sử dụng đất ở các quận, huyện phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, phát triển các doanh nghiệp nông nghiệp và các loại hình doanh nghiệp trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác…).
Hai là, tổ chức triển khai đồng loạt, mạnh mẽ hơn và nhất quán theo kế hoạch rõ ràng, cụ thể các hoạt động xã hội hoá đầu tư phát triển KT-XH, giảm thiểu độc quyền phi kinh tế, mở rộng tự do hoá và bình đẳng hoá cơ hội, điều kiện đầu tư kinh doanh giữa các thành phần kinh tế. Thúc đẩy cải cách hành chính mạnh và thực sự hơn để cải thiện môi trường kinh doanh Thủ đô cho tất cả các thành phần kinh tế: nhà nước - tư nhân, trong nước - nước ngoài.
Thứ ba, tổng kiểm tra các tài sản công của thành phố, đánh giá đúng thực trạng, yêu cầu sử dụng để bóc tách, đưa các tài sản công vượt quá tiêu chuẩn sử dụng vào thị trường vốn thành phố, làm tăng thu ngân sách Nhà nước. Đặc biệt, xây dựng các phương án khai thác, quản lý, sử dụng quỹ đất của thành phố theo hướng thị trường hơn, công bằng và công khai hơn, tạo thuận lợi và động lực đầu tư từ các nhà đầu tư tư nhân và doanh nghiệp. Xây dựng và triển khai các quy hoạch sử dụng đất cho các dự án phát triển các trường học tư nhân, doanh nghiệp tư nhân và các cơ sở dịch vụ - giải trí do tư nhân đầu tư và quản lý.
Thứ tư, tăng cường phân cấp quản lý Nhà nước về đầu tư trên địa bàn để giảm thiểu tình trạng tập trung, ôm đồm hình thức, cơ chế xin - cho không cần thiết, không hiệu quả và cả sự thụ động hay lạm dụng trong cơ chế đầu tư và quản lý đầu tư trên địa bàn.
Thứ năm, tăng cường thanh tra kiểm tra và xử lý thích đáng, kịp thời các vi phạm pháp luật trong đầu tư (đặc biệt là đầu tư từ nguồn vốn XDCB tập trung của NSNN Thành phố) nói riêng và quản lý KT - XH nói chung. Và quan trọng hơn hết là thi hành rộng rãi, nhất quán trên thực tế chính sách thu hút và sử dụng nhân tài mà thành phố đã khởi xướng.
II.2. Huy động và sử dụng vốn dài hạn qua ngân sách nhà nước
II. 2.1. Huy động và sử dụng vốn dài hạn qua kênh vốn XDCB tập trung của NSNN Thành phố
Giai đoạn 1991-2000, tổng vốn đầu tư XDCB của Hà Nội tăng 11 lần, trong đó tỷ trọng vốn đầu tư từ nguồn nhà nước tăng mạnh từ 11,1% năm 1996 lên 21,5% năm 2000, vốn tín dụng nhà nước cũng tăng tương ứng từ 1,8% lên 3,2%.
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung do Thành phố Hà Nội quản lý là nguồn vốn ngân sách trung ương cân đối cho Thành phố hàng năm, để đầu tư vào các dự án xây dựng cơ bản theo kế hoạch Nhà nước.
Hàng năm, căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn, Thành phố xây dựng danh mục dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn ĐT XDCB TT của Nhà nước trình Thủ tướng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phê duyệt và thông báo cho Thành phố. Thực tế do độ lệch pha giữa cung và cầu vốn, nên kế hoạch vốn ĐT XDCB TT của Thành phố thường phải điều chỉnh nhiều lần. Do tình hình trên, nên công tác kế hoạch và triển khai kế hoạch huy động nguồn vốn ĐT XDCB TT của Thành phố thường xuyên rất khó chủ động.
Biểu1: Phân bổ vốn ĐT XDCB tập trung theo lĩnh vực kinh tế-xã hội (1997-2001)
Năm
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
2000
2001
Tổng số (tỷ đồng)
258
234
288
527,7
971
Tỷ trọng (%)
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
- Công nghiệp (tỷ đồng)
5
31
2
38,8
62
Tỷ trọng (%)
1,9
1,4
0,8
7,4
6,39
- Nông nghiệp (tỷ đồng)
12
14
24
43,5
34,4
Tỷ trọng (%)
4,7
5,9
8,3
8,2
3,54
- Giao thông (tỷ đồng)
88
71
60
72
286
Tỷ trọng (%)
34,2
30,5
20,8
13,6
29,45
- Công cộng (tỷ đồng)
64
66
87
62,1
157
Tỷ trọng (%)
24,8
28,3
30,2
11,77
16,2
- Cấp nước (tỷ đồng)
29
-
33
17,4
62,3
Tỷ trọng (%)
11,2
-
11,4
3,3
6,4
- PT. Đô thị (tỷ đồng)
-
-
18
58,9
145
Tỷ trọng (%)
-
-
6,2
11,2
14,9
- GD - ĐT (tỷ đồng)
15
20
26
56
72,1
Tỷ trọng (%)
5,8
8,5
9,0
10,6
7,4
- VH - TD - TT (tỷ đồng)
7,3
-
14
37,1
59,5
Tỷ trọng (%)
2,8
-
4,9
7
6,1
- Y tế - BHXH (tỷ đồng)
16
-
12
42,1
20
Tỷ trọng (%)
5,4
-
4,2
8
2
Nguồn: Sở KH&ĐT Hà Nội
Những năm qua, nguồn vốn ĐT XDCB TT của Nhà nước mà Trung ương cân đối cho Hà Nội có qui mô rất khiêm tốn. Giai đoạn (1997-2001), bình quân mỗi năm được 460 tỷ đồng, chiếm khoảng 6,5% tổng vốn đầu tư trong nước được huy động cho phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Nếu so với tổng mức vốn đầu tư của các dự án đầu tư được duyệt từ nguồn vốn đầu tư tập trung của Nhà nước, mới đáp ứng khoảng 20%. Đây là con số rất thấp so với nhu cầu vốn đầu tư từ nguồn vốn này của Thành phố. Về tốc độ tăng trưởng nguồn vốn hàng năm so với năm trước thì năm 1997 là 0%, tụt giảm (-8,2%) trong năm 1998 rồi tăng lên 23,17% trong năm 1999 rồi 74,16% trong năm 2000 và năm 2001 đạt 84%.
Do nguồn vốn huy động không đáp ứng được yêu cầu, dẫn đến nhiều dự án đầu tư xây dựng cơ bản của Thành phố được ghi kế hoạch nhưng không có vốn, hoặc có vốn nhưng phải ghi kế hoạch vốn ra nhiều năm. Điều đó sẽ tác động đến hiệu quả sử dụng vốn ĐT XDCB TT của Thành phố.
Xét theo các giai đoạn đầu tư, thì vốn ĐT XDCB TT hàng năm được Thành phố bố trí chủ yếu cho khâu thực hiện dự án, chiếm trên 90% tổng nguồn vốn này. Điều này hợp lý vì khai thác tối đa nguồn vốn cho thực hiện nội dung dự án.
Biểu 2: Cơ cấu vốn đầu tư XDCB TT theo các giai đoạn của đầu tư (1997 - 2001)
Năm
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
2000
2001
Tổng số vốn đầu tư (tỷ đồng)
268
246
303
527,7
971
Tỷ trọng (%)
100
100
100
100
100
Vốn thực hiện dự án (tỷ đồng)
258
234
288
506,7
658,2
Tỷ trọng (%)
96,3
95,1
95,0
96
68
Vốn cho các giai đoạn chuẩn bị (tỷ đồng)
10
12
15
21
312,8
Tỷ trọng (%)
3,7
4,9
5,0
4
32
Nguồn: Sở KH&ĐT Hà Nội
Xét theo cơ cấu ngành, lĩnh vực thì vốn ĐT XDCB TT hàng năm của Thành phố được phân bổ chủ yếu cho lĩnh vực giao thông, công trình công cộng, có ưu tiên lĩnh vực nông nghiệp và một số dự án hạ tầng công nghiệp.
Đối với công nghiệp, Thành phố chỉ phân bổ một tỷ trọng rất nhỏ nguồn vốn ĐT XDCB TT, năm 1997 là 1,9 %, giảm nhẹ trong 2 năm tiếp theo; năm 2000 tỷ trọng này tăng lên 7,4% và 6,39% trong năm 2001. Điều này thể hiện được sự quan tâm đầu tư ngân sách nhà nước cho phát triển công nghiệp trong thời gian gần đây và chủ trương khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng nguồn tài trợ bằng vốn vay đối với các dự án đầu tư phát triển công nghiệp.
Đối với lĩnh vực nông nghiệp, giai đoạn 1997- 2001, vốn ĐT XDCB TT được phân bổ với tỷ trọng bình quân 6%, chủ yếu đầu tư vào các dự án công trình thuỷ lợi, hạ tầng giao thông nông thôn, các dự án cung cấp sản phẩn nông nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Năm 2000, nguồn vốn tập trung phân bổ cho lĩnh vực nông nghiệp có tỷ trọng (8,2%) và qui mô lớn nhất (43,5 tỷ) trong 5 năm qua, trong đó khoảng 50% số vốn được bố trí đầu tư vào công trình hạ tầng nông thôn (giao thông, nước sạch). Tỷ lệ nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn biến động trong các năm qua cho thấy vài năm gần đây Thành phố đã chú ý hơn cho đầu tư khu vực này theo chỉ đạo của Trung ương. Tuy vậy, nhiều dự án, công trình xây dựng cơ bản nông nghiệp và nông thôn Hà Nội cần hỗ trợ nguồn vốn đầu tư tập trung của ngân sách Nhà nước nhưng nguồn vốn này lại quá hạn hẹp, chưa tương xứng với yêu cầu và tiềm năng khai thác.
Về giao thông đô thị, đây là lĩnh vực được Thành phố quan tâm và phân bổ nguồn vốn đầu tư tập trung lớn nhất kể cả quy mô và tỷ trọng. Tuy nhiên, tỷ trọng này từ mức 34,2% (năm 1997), rồi giảm dần, chỉ còn 20,8% trong năm 1999 và tăng dần lên 29,45% trong năm 2001. Với tỷ trọng chung như thế là tương đối cao, song do quy mô tổng nguồn vốn đầu tư XDCB tập trung hàng năm thấp, nên lượng vốn đầu tư tập trung của nhà nước vào lĩnh vực giao thông đô thị chưa thể đáp ứng nhu cầu.
Lĩnh vực công cộng có qui mô và tỷ trọng vốn đầu tư tập trung được phân bổ khá lớn, tăng liên tục qua các năm. Năm 1997 có tỷ trọng vốn phân bổ là 24,8% thì năm 1999 đã có mức vốn được phân bổ là 87 tỷ đồng, tương ứng với tỷ trọng là 30,2%, sang năm 2001 có tỷ trọng là 16,2% nhưng với mức vốn 157 tỷ đồng. Lĩnh vực đầu tư công cộng đòi hỏi nguồn vốn đầu tư rất lớn, nhưng nguồn vốn đầu tư XDCB TT của Nhà nước chỉ có giới hạn, không thể đáp ứng, trong khi đó, hướng chuyển một số dự án thuộc lĩnh vực này thành các dự án xây dựng tư kinh doanh - để thu hồi vốn chưa được các nhà đầu tư mặn mà vì lượng vốn đòi hỏi rất lớn, mà khả năng thu hồi vốn của các dự án lại ở mức thấp.
Đối với lĩnh vực phát triển khu đô thị, từ năm 1999 Thành phố bắt đầu phân bổ vốn đầu tư XDCB tập trung vào lĩnh vực này với qui mô và tỷ trọng đáng kể (6,2 %) và năm 2001 là 14,9% tương ứng với số vốn 145 tỷ đồng. Cơ cấu vốn đầu tư đó phù hợp chủ trương, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô theo qui hoạch tổng thể đến năm 2010 và 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Chủ trương "Giáo dục là Quốc sách hàng đầu" dường như thể hiện ngay trong cơ cấu vốn đầu tư tập trung của Thành phố trong các năm qua. Mặc dù qui mô và tỷ trọng vốn đầu tư tập trung phân bổ cho lĩnh vực giáo dục đào tạo còn hết sức khiêm tốn, chỉ đáp ứng một phần nhu cầu thực tế. Từ tỷ trọng 5,8% trong năm 1997 đã tăng dần, năm 1999 là 9,0%, năm 2000 là 10,6%, giảm còn 7,4% trong năm 2001 song quy mô vốn có tăng đạt 72 tỷ; tuy nhiên đây là con số đánh giá sự nỗ lực của các cấp, các ngành Thành phố để thực hiện chủ trương đó.
Ngoài các lĩnh vực nói trên, nguồn vốn đầu tư XDCB tập trung cũng được Thành phố phân bổ cho các dự án đầu tư thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn như: Y tế, thể dục thể thao, bảo hiểm, quản lý nhà nước v.v... Tuy nhiên, do khả năng nguồn vốn có hạn, trong khi nhu cầu vốn rất lớn, nên không tránh khỏi tình trạng bố trí nguồn vốn đầu tư dàn trải, kế hoạch vốn và thời gian thực hiện dự án kéo dài, ảnh hưởng hiệu quả và chất lượng đầu tư.
Xét theo cơ cấu kỹ thuật vốn đầu tư XDCB TT, mối quan hệ giữa vốn xây lắp, vốn thiết bị và vốn xây dựng cơ bản khác trong tổng dự toán của dự án đầu tư là cơ cấu kỹ thuật vốn đầu tư. Phân tích cơ cấu kỹ thuật vốn đầu tư theo số liệu trên Biểu 3 cho phép rút ra một số nhận xét sau đây:
Biểu 3: Cơ cấu kỹ thuật vốn đầu tư XDCB tập trung (1997- 2001)
Đơn vị tính: %
Năm
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
2000
2001
Tổng số
100
100
100
100
100
+ Xây lắp
40,8
39,7
36,2
52,7
41,9
+ Thiết bị
3,2
4,1
5,3
10,2
14,9
+ Xây dựng cơ bản khác
56,0
56,2
58,5
37,1
43,2
Nguồn: Sở KH&ĐT Hà Nội
- Thứ nhất, do nguồn vốn đầu tư tập trung được bố trí chủ yếu cho các dự án thuộc lĩnh vực cải tạo và xây dựng hạ tầng cơ sở đô thị, (giao thông, công trình công cộng, phát triển đô thị khác) nên vốn thiết bị trong tổng vốn đầu tư tập trung vừa chiếm tỷ trọng nhỏ, vừa có xu hướng giảm dần. Trong khi đó, vốn đầu tư xây dựng cơ bản khác chiếm tỷ trọng rất lớn và có xu hướng ổn định ở mức cao, khoảng 60,0% trong 3 năm từ 1997 - 1999 và ở mức 40% trong năm 2000 và năm 2001. Vì nguồn vốn đầu tư tập trung hàng năm của Thành phố có qui mô nhỏ, lại phân bổ trên 50% cho khâu xây dựng cơ bản khác thì rõ ràng, khối lượng hoàn thành công trình đầu tư đạt mức thấp. Đây là đặc điểm khá đặc thù trong bố trí vốn ĐT XDCB TT của Thành phố Hà Nội.
- Thứ hai, vốn xây lắp có tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư tập trung của Thành phố, song có xu hướng giảm, từ 40,8% trong năm 1997 còn 36,2% trong năm 1999, và ở mức 41,9% trong năm 2001. Đây là nhược điểm không dễ gì khắc phục trong thời gian ngắn.
- Thứ ba, nguyên nhân chính làm tăng tỷ trọng vốn xây dựng cơ bản khác là do các dự án đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng bằng nguồn vốn này của Thành phố phải tiêu tốn chi phí cho khâu giải phóng mặt bằng quá lớn. Đặc biệt tron
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ThS03.docx