Đề tài Một số kiến nghị và giải pháp trong công tác đào tạo và bồi dưỡng lực lượng lao động trong nền kinh tế thị trường

Tài liệu Đề tài Một số kiến nghị và giải pháp trong công tác đào tạo và bồi dưỡng lực lượng lao động trong nền kinh tế thị trường: Lời nói đầu Cùng với sự phát triển không ngừng về mọi mặt của thế giới kể từ Đại hội VI của Đảng ta đến nay nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là sự đổi mới hết sức quan trọng có tác động mạnh mẽ đến hoạt động kinh tế xã hội trong đó có vấn đề đào tạo và bồi dưỡng lực lượng lao động. Khi bước sang cơ chế thị trường thì nhiều điều kiện mới xuất hiện như khu công nghiệp, khu chế xuất và trong các doanh nghiệp cũng đầu tư máy móc thiết bị hiện đại vì vậy nhu cầu đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ tay nghề cho các loại lao động là một đòi hỏi thường xuyên. Vấn đề đào tạo mới, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho người lao động là vấn đề vừa mang tính trước mắt vừa mang tính lâu dài cần được nhà nước và các doanh nghiệp cùng các cơ quan chức năng quan tâm. Được sự giúp đỡ và hướng dẫn của Thầy em đã lựa chọn đề án: “ Một số kiến nghị và giải pháp trong công tác đào tạo và bồi dưỡng lực lượn...

doc29 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1070 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số kiến nghị và giải pháp trong công tác đào tạo và bồi dưỡng lực lượng lao động trong nền kinh tế thị trường, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Cùng với sự phát triển không ngừng về mọi mặt của thế giới kể từ Đại hội VI của Đảng ta đến nay nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là sự đổi mới hết sức quan trọng có tác động mạnh mẽ đến hoạt động kinh tế xã hội trong đó có vấn đề đào tạo và bồi dưỡng lực lượng lao động. Khi bước sang cơ chế thị trường thì nhiều điều kiện mới xuất hiện như khu công nghiệp, khu chế xuất và trong các doanh nghiệp cũng đầu tư máy móc thiết bị hiện đại vì vậy nhu cầu đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ tay nghề cho các loại lao động là một đòi hỏi thường xuyên. Vấn đề đào tạo mới, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho người lao động là vấn đề vừa mang tính trước mắt vừa mang tính lâu dài cần được nhà nước và các doanh nghiệp cùng các cơ quan chức năng quan tâm. Được sự giúp đỡ và hướng dẫn của Thầy em đã lựa chọn đề án: “ Một số kiến nghị và giải pháp trong công tác đào tạo và bồi dưỡng lực lượng lao động trong nền kinh tế thị trường” Do điều kiện thời gian và khả năng có hạn đề án trình bày ba nội dung chính: Phần I : Lý luận về lao động và việc làm Phần II: Thực trạng lao động và đào tạo bồi dưỡng lao động Phần III: Những giải pháp và kiến nghị trong công tác đào tạo và bồi dưỡng lao động. Qua đây em xin chân thành cảm ơn Thầy Nguyễn Văn Duệ đã hướng dẫn em hoàn thành đề án này. Phần I: Lý luận chung về lao động và việc làm I/ Khái niệm nguồn lao động, việc làm và thất nghiệp: 1. Nguồn lao động: * Nguồn lao động ở nước ta bao gồm số người đang trong độ tuổi lao động mà có khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động nhưng thực tế đang có làm việc. Như vậy bộ phận chính của nguồn lao động là những người đang làm việc và những người thất nghiệp. * Sự hình thành nguồn nhân lực (lao động): người ta chia ra ba khái niệm a) Nguồn lao động là một bộ phận của dân số, bao gồm những người nằm trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, không kể đến trạng thái làm việc hay không làm việc. Và những người ngoài độ tuổi lao động nhưng thực tế đang làm việc. Khái niệm này gọi là dân số hoạt động. b) Nguồn nhân lực (lao động) tham gia hoạt động kinh tế: Đây là số người có công ăn việc làm, đang hoạt động trong các ngành kinh tế văn hóa của xã hội. c) Nguồn nhân lực dự trữ: Nguồn này trong nền kinh tế bao gồm những người nằm trong độ tuổi lao động, nhưng vì các lý do khác nhau, họ chưa có việc làm ngoài xã hội. Số người này đóng vai trò của người dự trữ về nhân lực, gồm có: + Những người nội trợ trong gia đình: + Những người tốt nghiệp ở các trường phổ thông và các trường chuyên nghiệp được coi là nguồn nhân lực dự trữ quan trọng và có chất lượng. Đây là nguồn nhân lực dự trữ quan trọng và có chất lượng. Đây là nguồn nhân lực ở độ tuổi thanh niên, có học vấn, có trình độ chuyên môn. + Những người đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự cũng thuộc nguồn lực dự trữ có khả năng tham gia hoạt động kinh tế. + Những người trong độ tuổi lao động đang bị thất nghiệp. * Nguồn lao động đóng vai trò đầu vào quan trọng trong quá trình sản xuất. 2. Việc làm: Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế xã hội và nhân khẩu, nó thuộc loại những vấn đề chính yếu nhất của toàn bộ đời sống xã hội. Khái niệm việc làm và khái niệm lao động liên quan chặt chẽ với nhau nhưng không hoàn toàn giống nhau. Việc làm nó thể hiện mối quan hệ giữa con người với những chỗ làm việc cụ thể là những giới hạn xã hội cần thiết trong đó lao động diễn ra đồng thời nó là điều kiện cần thiết để thỏa mãn nhu cầu xã hội về lao động, là nội dung chính của hoạt động con người. Về giác độ kinh tế việc làm thể hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất giữa yếu tố con người và quá trình sản xuất. Theo thông tư hướng dẫn về điều tra người chưa có việc làm của liên bộ lao động - Tổng cục thống kê năm 1996 thì khái niệm “việc làm” được nêu như sau: “Việc làm là những lao động có ích mà không bị pháp luật ngăn cấm nhằm đem lại thu nhập cho gia đình” Khái niệm việc làm đầy đủ được hiểu là sự thỏa mãn đầy đủ về nhu cầu việc làm của các thành viên có khả năng lao động trong nền kinh tế quốc dân. 3. Thất nghiệp: * Thất nghiệp là người không có việc làm và đang tìm việc làm (người) * ở nước ta hiện nay thất nghiệp đang gắn liền với các hiện tượng: a) Thất nghiệp hữu hình, tức là người có sức lao động, muốn tìm việc làm nhưng không tìm được trên thị trường. b) Thất nghiệp trá hình dưới nhiều dạng tức là làm việc nhưng năng suất lao động quá thấp, không góp phần ra sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân đáng kể, mà chỉ cốt lấy thu nhập lấy từ tái phân phối để sống (dưới mức sông tối thiểu) hoặc ẩn náu trong biên chế, các cơ quan quản lý nhà nước, các xí nghiệp quốc doanh quá nhiều so với yêu cầu của công việc. c) Thiếu việc làm ở nông thôn do nguồn nhân lực ngày càng đông nhưng diện tích canh tác chỉ có hạn, tính theo đầu người ngày càng ít đi. d) Thất nghiệp diễn ra một cách phổ biến do tổng mức cầu về lao động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân thấp hơn mức đáng kể. Nguyên nhân của tình hình thất nghiệp này là do nền kinh tế chậm phát triển thêm vào đó lại bị ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh, dân số và nguồn lao động tăng hàng năm với tốc độ cao, chính vì vậy trong số những người thất nghiệp hiện nay phần lớn là thanh niên mới bước vào độ tuổi lao động, một số khác không nhỏ là những người thất nghiệp tự nguyện ngoài ra thất nghiệp theo mùa ở nước ta cũng đáng kể. II/ Sự cần thiết của đào tạo và nâng cao trình độ lành nghề cho người lao động * Trình độ lành nghề của người lao động thể hiện mặt chất lượng của sức lao động. Nó biểu hiện sự hiểu biết về lý thuyết kỹ thuật của sản xuất và kỹ năng lao động để hoàn thành những công việc có trình độ phức tạp nhất định, thuộc một nghề một chuyên môn nào đó. Trình độ lành nghề có liên quan chặt chẽ với lao động phức tạp. Lao động có trình độ tay nghề là lao động có chất lượng cao hơn, là lao động phức tạp hơn. Trong một thời gian, lao động lành nghề thường tạo ta một giá trị lớn hơn so với lao động giản đơn, trình độ lành nghề biểu hiện ở tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật (đối với công nhân) và tiêu chuẩn nghiệp vụ viên chức nhà nước tức là tiêu chuẩn về trình độ học vấn, chính trị, tổ chức, quản lý... để đảm nhận các chức vụ được giao (đối với cán bộ chuyên môn). * Để đạt tới trình độ lành nghề nào đó, trước hết phải đào tạo trình độ lành nghề cho nguồn lực tức là giáo dục kỹ thuật sản xuất cho người lao động để họ nắm vững một nghề, một chuyên môn bao gồm cả người đã có nghề, chuyên môn rồi hay họ để làm nghề chuyên môn khác. Cùng với đào tạo để nâng cao năng suất lao động cần phải quan tâm nâng cao trình độ tay nghề cho nguồn lực tức là giáo dục, bồi dưỡng cho họ hiểu biết thêm những kiến thức, kinh nghiệm sản xuất và nâng cao thêm khả năng làm được trong giới hạn nghề, chuyên môn họ đang đảm nhận. Đào tạo và nâng cao trình độ lành nghề phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Sự đầu tư của nhà nước, trình độ văn hóa của nhân dân, trang bị cơ sở vật chất của nhà trường. Để đào tạo và nâng cao trình độ lành nghề cho nguồn nhân lực có hiệu quả cần phân biệt sự khác nhau giữa nghề và chuyên môn. Nghề là một hình thức phân công lao động. Nó đòi hỏi kiến thức lý thuyết tổng hợp và thói quen thực hành để hoàn thành những công việc nhất định như nghề mộc, nghề cơ khí. Chuyên môn là hình thức phân công lao động sâu sắc hơn do sự chia nhỏ của nghề. Do đó nó đòi hỏi kiến thức lý thuyết và thói quen trong phạm vi hẹp, sâu hơh. Một nghề thường có nhiều chuyên môn như nghề mộc có mộc mẫu, mộc làm nhà; nghề cơ khí có tiện, phay, bào... Việc đào tạo và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động là sự cần thiết, vì hàng năm nhiều thanh niên bước vào tuổi lao động nhưng chưa được đào tạo một nghề, một chuyên môn nào, ngoài trình độ văn hóa phổ thông, không những vậy nền kinh tế mở cửa, nhiều thành phần kinh tế hoạt động, cơ cấu công nghệ thay đổi, sản xuất càng phát triển trong điều kiện cách mạng, khoa học kỹ thuật đang phát triển mạnh mẽ, phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, nhiều nghề chuyên môn cũ thay đổi, nhiều nghề chuyên môn mới ra đời. Từ đó, đòi hỏi trình độ lành nghề của nguồn nhân lực cần phải được đào tạo, nâng cao thêm cho phù hợp với yêu cầu của sản xuất, đào tạo và nang cao lành nghề cho người lao động cần phải phối hợp chặt chẽ với giáo dục phổ thông, trường dạy nghề, trung học và đại học về các mặt. Đồng thời phải có những cơ cấu thích hợp và những biện pháp khác nhau đối với việc đào tạo và nâng cao trình độ lành nghề cho công nhân kỹ thuật cán bộ chuyên môn về xác định nhu cầu hình thức và hiệu quả của nó. Hiện nay, ở nước ta, đào tạo và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động là một đòi hỏi cấp thiết. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay cần đặc biệt chú ý đến đào tạo công nhân kỹ thuật cho các thành phần kinh tế. Phần II: Thực trạng đổi ngũ lao động ở nước ta I/ Thực trạng đội ngũ lao động ở nước ta Thời kỳ trước đổi mới (trước năm 1986) 1. Về số lượng lao động: Trước năm 1986 lực lượng lao động nước ta rất dồi dào do tốc độ tăng dân số nhanh sau chiến tranh nhất là thời kỳ 1954-1984 do vậy nguồn lao động nước ta đang trong thời kỳ tăng cao nhất mà các nhà kinh tế học thế giới đã kết luận “có nguy cơ không sử dụng hết lao động” Nhịp độ tăng bình quân hàng năm dân số - nguồn lao động trong các thời kỳ 5 năm Bảng 1: Thời kỳ 1961-1975 1976-1980 1981-1990 - Tốc độ tăng dân số (%) 3,05 2,45 2,15 - Tốc độ tăng NLĐ (%) 3,2 3,37 3,05 Về mức tuyệt đối nếu 5 năm 1976-1980 bình quân mỗi năm tăng thêm 75-80 vạn người trong độ tuổi lao động; 5 năm từ 1981-1985 là 85-90 vạn người(1) Thị trường lao động và giải quyết việc làm ở Việt Nam (UBKH nhà nước - Trung tâm thông tin) tr.28 (*) nt tr.48 Năm 1975 tổng số lao động trong khu vực nhà nước có 1761 ngàn người chiếm 8,2% tổng số lực lượng lao động. Sang năm 1976 đã tăng lên 2475,3 nghìn người chiếm 11,05 tổng số lao động (so với 1975 tăng thêm 714,3 nghìn người chiếm 12,5% tổng số lao động xã hội (so với 1976 đã tăng thêm 840,2 nghìn người và chiếm tỷ trọng 13% tổng số lực lượng lao động xã hội (so với 1980 tăng thêm 551,4 nghìn người). Còn nước ta ở tình trạng phân công lao động thấp nhất lao động nông nghiệp không những tăng tuyệt đối từ 15,11 triệu người năm 1980 lên 18,81 triệu người năm 1985, mà tăng cả tỷ trọng từ 69,84% năm 1980 lên 72,26% năm 1985. Lao động công nghiệp tỷ trọng tăng không đáng kể (từ 10,39% lên 10,76%), lao động các ngành khác tỷ trọng rất thấp và giảm (19,77% xuống 16,98%). Bảng 2 cho thấy hiện trạng phân bổ lao động theo ngành nước ta từ năm 1976-1988. Trong cả thời kỳ tốc độ tăng nguồn lao động bình quân năm là 3,15%, riêng lao động nông nghiệp tăng 3,29%. Tỷ trọng lao động nông nghiệp tăng từ 7,1% xuống 6,9%. Nếu tính cả thời kỳ 1976-1988 thì đó là bước thụt lùi đáng kể về phân công lao động xã hội ở nước ta (riêng 3 năm 1986-1988, thời kỳ bắt đầu đổi mới, các quan hệ tỷ lệ phân bố lao động, đã có chuyển biến tốt lên, mặc dù còn chậm. Trong đó tỷ trọng lao động nông nghiệp đã giảm từ 72,3% năm 1985 xuống 72,2% năm 1988) Nhìn chung lao động phân bố giữa các ngành kinh tế mất cân đối. 2. Về chất lượng lao động: - Thứ nhất là về chất lượng lao động quản lý: Trong một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, mọi việc đều được thực hiện theo kế hoạch đã được nhà nước giao đều được thực hiện theo kế hoạch đã được nhà nước giao từ mặt hàng sản xuất, ngân sách, biên chế và lương, lực lượng lao động, vật tư, các điều kiện sản xuất ... cho đến việc tiêu thụ sản phẩm. Trong một cơ chế như vậy, người quản lý trở nên thụ động, máy móc, thiếu sáng tạo. Việc quản lý chỉ xoay quanh mọi biện pháp để thực hiện kế hoạch nhà nước giao. Mặt khác đội ngũ cán bộ quản lý của nước ta trước thời kỳ đổi mới chưa được qua các trường lớp đào tạo về quản lý mà từ đội ngũ cán bộ chủ yếu đảm đương nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc sang đội ngũ cán bộ chủ yếu làm nhiệm vụ quản lý. - Thứ hai là chất lượng của lao động kỹ thuật, công nhân lành nghề không những không được nâng cao mà còn bị mai một đi do cơ chế quản lý tập trung sản phẩm làm ra theo chỉ tiêu dù tốt hay xấu đều được phân công hết. Từ đó ta thấy kỹ năng của công nhân không được phát huy, tay nghề bị mai một đi và công nhân không có tính sáng tạo. Mặt khác chế độ đào tạo công nhân theo chế độ tuyển dụng suốt đời sẽ không tạo ra động lực để công nhân tự nâng cao trình độ tay nghề của mình. Công tác tuyển dụng và công tác đào tạo không theo đúng yêu cầu. Chỉ cần học qua các trường là được nhận vào công tác không kể đó là nghề đào tạo là gì. Chính vì vậy chất lượng lao động không cao (do làm không phù hợp với ngành nghề đào tạo). Thêm vào đó là thông tin về mọi mặt phục vụ sản xuất kinh doanh quản lý kinh tế không được mở rộng, không đáp ứng được nhu cầu mà chịu sự bưng bít của kế hoạch hóa tập trung. Do vậy không có sự học hỏi từ các nước đi trước. Đấy chính là sự thể hiện mặt hạn chế của cơ chế kế hoạch hóa tập trung. 3. Về chính sách bồi dưỡng đào tạo các loại hình lao động: Trước đổi mới, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến 90% dân số mù chữ sau khi dành được chính quyền, Đảng và Bác Hồ đã ra quốc sách là diệt giặc đói, giặc dốt. Các lớp bình dân học vụ và các lớp bồi dưỡng văn hóa lần lượt được mở và phổ cập trong dân, nâng cao trình độ dân trí nói chung, trình độ cán bộ công nhân lao động nói riêng. Hình thức này được duy trì khá lâu cho mãi tới những năm 1970. Đặc biệt trong những năm 50 hình thành trường bổ túc công nông, tuyển chọn những người đã có kinh nghiệm chiến đấu, bồi dưỡng cấp tốc trình độ văn hóa cần thiết cử đi đào tạo hoặc đào tạo lại nghề phục vụ cho nhu cầu xây dựng và phát triển đất nước. Hầu hết cán bộ, công nhân kỹ thuật khoảng tuổi 50,60 hiện nay là những lớp người được đào tạo lại, bồi dưỡng trong thời kỳ đó. Năm 1958-1975, đây là thời kỳ bao cấp các chính sách được áp dụng chủ yếu cho khu vực nhà nước, khu vực quốc doanh. Tư tưởng chỉ đạo cho việc xây dựng các chính sách này là tập trung phục vụ cho việc xây dựng đội ngũ công nhân lao động cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý... đáp ứng yêu cầu xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam. Năm 1964 Thủ tướng chính phủ có thông tư số 2/TTg qui định về chế độ bổ túc tại chức ngoài giờ là chính, theo nguyên tắc làm ngành nào học ngành ấy kém lý thuyết thì bổ túc thêm lý thuyết, yếu tay nghề thì bổ túc tay nghề. Đến 1973 Bộ Lao động cũng ra thông tư số 1844 LĐ-TL “hướng dẫn công tác bổ túc kỹ thuật nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân”. Đối với việc bồi dưỡng cán bộ quản lý, Ban Bí thư trung ương Đảng đã quy định các trường Đảng cao cấp cần tăng nhanh thành phần công nhân để đào tạo thành cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý. Các lớp đào tạo cán bộ lãnh đạo cán bộ quản lý, chiêu sinh các trường Đảng cấp tỉnh bảo đảm từ 5-10%, trường Đảng cao cấp Nguyễn ái Quốc từ 25-30% thành phần công nhân cán bộ quản lý các ngành như điện, than, cơ khí, luyện kim, hóa chất, xây dựng, bảo dảm tỷ lệ 40-50% cán bộ thành phần công nhân. Những Bộ, Tổng cục tập trung công nhân cần có kế hoạch đào tạo và đề bạt, đồng thời cung cấp cho trung ương một số cán bộ thành phần công nhân. Tuy nhiên chính sách bồi dưỡng đào tạo lao động vẫn còn những tồn tại: - Vấn đề bồi dưỡng đào tạo lại chưa thực sự được coi là một chính sách quốc gia quan trọng, không có một kế hoạch tổng thể, chưa có những chính sách mang ý nghĩa chiến lược mà còn manh mún thiếu đồng bộ. - Việc thực hiện ở các ngành, các địa phương, các cơ quan xí nghiệp còn tùy tiện, do đó chất lượng chưa cao. - Mặt khác chưa có những chính sách chế độ phù hợp để khuyến khích người dậy, người học do đó việc bồi dưỡng đào tạo lại kém hiệu quả. 4. Về việc tuyển dụng lao động qua đào tạo Chính sách tuyển dụng dựa trên quan điểm là “sử dụng hết nguồn lao động đã qua đào tạo” vào khu vực nhà nước, đã đào tạo là được phân công công tác, càng làm cho số lượng lao động kỹ thuật được tuyển dụng vào làm việc tại các cơ quan xí nghiệp nhà nước, nhà nước tăng lên nhanh chóng. Bảng 3: Số lượng lao động có đào tạo tuyển dụng vào khu vực nhà nước từ 1975-1985 STT Lao động kỹ thuật tuyển 1975 1985 1 Trên đại học 2.179 5.000 2 Đại học và tương đương 136.000 400.000 3 Trung học chuyên nghiệp 325.000 760.000 4 Công nhân kỹ thuật 1.000.000 1.500.000 (Nguồn: Niên giám thống kê 1975, 1985 của TCTK) Thực hiện chính sách tuyển dụng theo nghị định 24/CP ở giai đoạn trước 1986, mặc dù đã đạt được yêu cầu về mặt số lượng, nghĩa là đã tuyển dụng được một đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật đông đảo cung cấp cho các ngành nhưng nhìn chung việc phân bổ sử dụng ở giai đoạn này chưa đều, mất cân đối giữa các ngành, các cấp giữa địa phương và thành phố lớn và vùng xa xôi hẻo lánh. Bảng 4: Phân bố không đều lao động khoa học kỹ thuật giữa các ngành (số liệu 1982) TT Ngành LĐ có trình độ TNCN sơ học và nghiệp vụ LĐ có trình độ đại học và trên Toàn bộ nền KTQD khu vực 697 254 1 Các ngành sản xuất vật chất 209 67 - Công nghiệp 69 24 - Xây dựng 43 15 - Nông, lâm, ngư 33 8 - Vận tải, bưu điện 19 7 - Thương nghiệp, vật tư 42 11 2 Phi sản xuất vật chất 488 187 - Nghiên cứu khoa học 22 13 - Giáo dục - đào tạo 316 117 - Quản lý nhà nước 80 38 (Nguồn: từ niên giám thống kê 1982 và báo cáo của Bộ xây dựng) Qua số liệu trên cho thấy mặc dù tỷ lệ giữa số lượng cán bộ khoa học kỹ thuật nghiệp vụ có trình độ cao nhất là cán bộ nghiên cứu khoa học trên một vạn dân nước ta so với các nước phát triển là quá thấp nhưng về cơ cấu phân bố thì bất hợp lý . Tỷ lệ loại cán bộ này ở khu vực nhà nước còn quá cao so với ngành, lĩnh vực khác . Mặt khác theo kết quả điều tra của chúng tôi thì tỷ lệ lao động khoa học kỹ thuật và công nhân lành nghề sử dụng không phù hợp với đào tạo là 14,2% đây là tỷ lệ khá lớn, nói lên việc sử dụng loại lao động này còn tùy tiện, làm cho cán bộ công nhân viên không phát huy được năng lực, trình độ kinh nghiệm công tác II.Thực trạng lao động sau đổi mới (sau 1986) đến nay. 1. Những điều kiện mới đòi hỏi người lao động Thứ nhất là khi bước sang cơ chế thị trường , nó đã tác động mạnh mẽ đến mọi người lao động. Sức lao động trở thành hàng hóa đã dẫn đến việc chấp nhận sự cạnh tranh trong thị trường lao động, và bởi vậy người lao động muốn có việc làm phải không ngừng học tập nâng cao trình độ để khỏi tụt hậu,đấu tranh để luôn là “món hàng “ có chất lượng hàng đầu . Sự cạnh tranh gay gắt trong mục tiêu nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của nhiều thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường đòi hỏi lao động phải hết sức năng động và phải không ngừng hoàn thiện kiến thức và kỹ năng lao động của mình để đáp ứng được với nhu cầu của thị trường đang không ngừng biến đổi. Trong cơ chế thị trường không chỉ cần có kiến thức và kỹ năng lao động nghề nghiệp cón phải có tư duy kinh tế phải biết “cách làm ăn” và phải biết tự tìm lấy công ăn việc làm . Cơ chế thị trường đòi hỏi người quản lý tìm hiểu thị trường tìm đầu vào, tìm đầu ra, tìm kiếm và bố trí các nguồn lực để hoạt động, phải luôn thay đổi mẫu mã, mặt hàng cho phù hợp với nhu cầu thị trường . Bởi vậy, đòi hỏi nhà quản lý phải luôn năng động sáng tạo Chủ trương “mở cửa” của nhà nước, đây là điều thuận lợi cung cấp thông tin phục vụ sản xuất kinh doanh, và có thêm nhiều máy móc thiết bị hiện đại thông qua các hình thức chuyển giao công nghệ, Trong khi đó đội ngũ lao động hiện nay của chúng ta hầu như chưa đủ trình độ và phong cách để giao lưu, làm ăn với các công ty của các nước cũng như để xây dựng một nền sản xuất, dịch vụ hiện đại của nhà nước trong cơ chế thị trường. Do vậy, việc bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ lao động hiện có đang là một vấn đề cấp bách và nóng hổi hiện nay. Đòi hỏi của sản xuất kinh doanh trong những năm tới (đến năm 2000 và 2010) đối với đội ngũ lao động ở các doanh nghiệp nước ta là: đạt tỷ lệ cân đối hơn về số lượng giữa các loại lao động kỹ thuật và nâng cao chất lượng để có thể vận hành sản xuất kinh doanh trong điều kiện hội nhập với nền kinh tế thế giới. Như vậy yêu cầu đối với đội ngũ công nhân kỹ thuật có hiểu biết kỹ thuật, và kỹ năng cao, có sức khỏe để vận hành được các máy móc và phương tiện tiên tiến có đạo đức lao động tốt. Còn yêu cầu đối với đội ngũ lao động quản lý là: có kiến thức chuyên môn, kỹ thuật và kiến thức quản lý hiện đại, có ngoại ngữ đủ để giao tiếp bình thường trong công việc, thành thạo các kỹ năng quản lý hiện đại, có đạo đức lao động và đạo đức kinh doanh tốt. 2. Thực trạng nguồn nhân lực. Hiện nay giữa thực trạng nguồn nhân lực so với yêu cầu đặt ra ở nước ta cồn một khoảng cách quá xa0, có thể nêu thực trạng nguồn lao động trong các doanh nghiệp hiện nay như sau: Một là, đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề còn rất thiếu so với nhu cầu ( hiện nay chỉ có 13% so với tổng số lao động) và đang tồn tại mất cân đối nghiêm trọng về tỷ lệ giữa các loại lao động kỹ thuật (tỷ lệ thực tế là một kỹ sư/1,6 trung cấp và 3 công nhân, trong đó ở các nước phát triển, tỷ lệ này là một kỹ sư / 3 trung cấp và 10 công nhân. Việc hình thành các khu công nghiệp khu chế xuất ngày càng tăng thêm tình trạng đó . Về nguồn lao động theo kết quả điều tra của Bộ lao động - thương binh và xã hội năm 1996, số người trong độ tuổi lao động và là nhân khẩu thường trú từ 15-60 tuổi có 48,4 triệu người trong đó nhóm tuổi từ 15-24 có 13,7 triệu và nhóm từ 25-34 có 11.6 triệu . Xét về lực lượng lao động về chuyên môn kỹ thuật và công nghệ trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân, thì trong tổng số 35,8 triệu ngươì ( trong độ tuổi lao động) số có trình độ trên đại học là 11.561 người , cao đẳng và đại học 816.098 người công nhân có trình độ sơ cấp 636,246 người và số không có trình độ chuyên ôn kỹ thuật , là lao động giản đơn gồm 31.452198 người. Xét về phân bố số lao động này cho thấy , ở khu vực đô thị, trên đại học có 9176 người , ở nông thôn chỉ có 2.393 người ( đô thị gấp 4 lần so với nông thôn). Số cao học và đại học ở đô thị có 560.097 người. còn ở nông thôn chỉ có 256.008 người ( đô thị gấp 2 lần nông thôn) . Số công nhân kỹ thuật có bằng cấp ở đô thị là 444.692 người ( số này chênh lệch không lớn giữa 2 khu vực ). Trong khi đó số người có trình độ chuyên môn sơ cấp ở đô thị chỉ có 183.418, còn ở nông thôn lại tới 452.831 người . Tổng số lao động giản đơn ở nông thôn có tới 26.771.862 người , trong khi ở đô thị chỉ là 4680333 người ( nông thôn gần gấp 6 lần đô thị) Từ thực tế trên ta có nhận xét sau: - So với trước đây , số lao động kỹ thuật có tay nghề chuyên môn cao trong phạm vi cả nước đã tăng nhiều về số lượng và chất lượng , đặc biệt là số công nhân kỹ thuật trong nhóm tuổi trẻ từ 20-34 tuổi. - Có sự phân bố không đều hoặc mất cân đối giữa nông thôn và đô thị - Số có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học tuy đã tăng lên nhiều về số lượng nhưng thực tế chưa đáp ứng đủ yêu cầu cho CNH,HĐH. - Riêng số công nhân kỹ thuật hoặc số cán bộ kỹ thuật trung cấp đã tăng lên về số lượng nhưng cũng còn qúa ít so với yêu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân, đặc biệt có sự mất cân đối giữa cán bộ đại học, cán bộ trung học dvà công nhân kỹ thuật. Hai là, trình độ tay nghề của công nhân nói chung còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu vận hành máy móc kỹ thuật hiện đại để có thể cho ra sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới ( số công nhân bậc 1 bậc 2 chiếm 51% so với tổng số công nhân , số công nhân bậc cao cũng chưa có tay nghề thực tế tương xứng với cấp bậc) Ba là,thái độ chấp hành kỷ luật lao động của công nhân còn kém, công nhân chưa quen với tác phong công nghiệp và đặc biệt, ở nhiều doanh nghiệp công nhân có tâm lý không muốn nâng bậc( vì nếu nâng bậc phải làm công việc bậc cao hơn sẽ không đảm bảo năng suất, thu nhập sẽ bị giảm) Bốn là, đội ngũ lao động quản lý tuy không thấp về trình độ sản xuất nhưng năng lực thực tế cũng chưa tương xứng, chưa đáp ứng được nhu cầu của công việc hiện tại; chưa được trang bị kiến thức quản lý kinh tế, quản trị kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường; chưa được đào tạo để có được những kỹ năng quản lý hiện đại; tác phong làm việc về cơ bản là chưa thay đổi. Năm là, đội ngũ quản lý cấp cao của doanh nghiệp ( giám đốc) chưa thực sự hướng tới đổi mới, một phần rất lớn ( 49%) còn chưa qua đào tạo về nghiệp vụ quản lý. Trong khi đó, công tác đào tạo và phát triển nhân lực ở các doanh nghiệp trong những năm qua lại rất ít được quan tâm chỉ có một số ít doanh nghiệp nhận thức được vai trò của đào tạo và phát triển, còn hầu hết các doanh nghiệp bỏ lơi công tác này. Tình hình phổ biến ở nhiều nơi là cắt giảm chi phí đào tạo, hình thức đào tạo nghèo nàn, công tác thì nâng bậc ít được thực hiện. Việc cử người đi học ở các trường lớp chính quy còn nặng nề hình thức, bằng cấp còn chưa thực sự có hiệu quả về sử dụng cán bộ chưa tạo ra được động lực về vật chất để thúc đẩy người lao động tham gia đào tạo. 3. Công tác đào tạo giáo dục . Công tác đào tạo giáo dục ở các cơ sở giáo dục đào tạo cũng còn nhiều tồn tại. Trước hết là sự mất cân đối đào tạo (nguyên nhân của sự mất cân đối trong tỷ lệ giữa các loại lao động kỹ thuật hiện nay). Trong những năm qua, số trường đại học (cả công lập và dân lập) đã gia tăng rất nhiều, trong khi các trường đào tạo và dạy nghề càng ít dần: sau 10 năm trong cả nước số trường dạy nghề đã giảm từ 360 xuống còn 174 trường (chủ yếu là giao thông vận tải, in, cơ khí xây dựng hóa chất 244 trường trung cấp chuyên nghiệp và hơn 500 trung tâm dạy nghề ( may mặc , sửa chữa xe máy, ti vi, vi tính , nghiệp vụ văn phòng...) Với hệ thống các trường và cơ sở dạy nghề như trên, ở đây chưa đề cập tới việc phải tăng thêm số trường lớp hoặc cơ sở dạy nghề mà cần phải xem xét lại việc dạy nghề đã gắn với thực trạng đòi hỏi nền kinh tế hay chưa . Trước hết ở khu vực đô thị và khu công nghiệp: có thể thấy rất rõ là khả năng đáp ứng của lực lượng lao động trẻ cho nhu cầu của các khu công nghiệp tập trung còn rất hạn chế . Ví dụ như khu công nghiệp nhà bè, Thủ đức hoặc Tân thuận (thành phố Hồ chí Minh) , số lao động địa phương mới chỉ đáp ứng được 2/3 , só còn lại phải tuyển nơi khác . Hoặc đa số lao động kỹ thuật đang làm việc ở khu công nghiệp Nội bài, Sài Đồng ( Hà nội) là từ nơi khác đến, trong khi lao động địa phương lại dư thừa do không cótrình độ văn hóa ( tối thiểu là học hết cấp III), chưa được đào tạo nghề và công nghệ tiên tiến để có thể đáp ứng được về lao động kỹ thuật. Mặt khác, cũng cần phải có chính sách cụ thể mang tính khuyến khích đối với số lao động trẻ có trình độ tay nghề cao trở về quê nhà hoặc các vùng nông thôn tham gia lao động sản xuất trong các ngành kinh tế địa phương, góp phần giảm bớt sự tập trung ở các đô thị lớn hiện nay. Thực tế có hàng chục ngàn sinh viên sau khi ra trường không về quê làm việc, như ở Tiền giang từ 1994-1997 có tới 6.070 sinh viên tốt nghiệp đại học nhưng năm 1995 chỉ có 35 người , năm 1996 chỉ có 12 người về tỉnh công tác số còn lại ở lại thành phố Hồ chí Minh tìm việc làm. Tương tự, ở Bến tre có trên 2.784 sinh viên tốt nghiệp đại học nhưng chỉ có vài chục người trở về quê, hoặc ở Bình định từ 1994-1996 cũng chỉ có vài chục về quê làm việc trong tổng số hơn 6000 tốt nghiệp đại học. ở Hà nội nơi tập trung nhiều trường đại học, hàng năm cũng có tới hàng chục nghìn sinh viên tốt nghiệp ở lại tìm việc... Một số vấn đề khác nữa là việc đào tạo nghề ở nước ta hiện nay còn manh mún. tản mạn, nhưng chưa theo một quy trình mang tính chiến lược lâu dài trong việc tạo lập một đội ngũ lao động kỹ thuật và công nghệ để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế. Mặc dù việc dạy nghề ở các Bộ, ngành vẫn đang tiến hành nhưng khi ra trường vẫn có sự mất cân đối giữa nhu cầu và việc làm. Về khía cạnh tự tạo việc làm một số cơ sở dạy nghề còn đáp ứng được , nhưng khi nhu cầu đòi hỏi có kỹ thuật cao hơn phù hợp với dây chuyền công nghệ hiện đại thì lại hoàn tòan không thỏa mãn hoặc phải đào tạo lại. Chính việc đào tạo như vậy vừa gây tốn kém cho người học, vừa tốn khoản thời gian của việc dạy nghề mà hiệu quả chưa cao và không thiết thực. ở khu vực nông thôn: Những đòi hỏi của CNH-HĐH nông thôn cũng đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với đào tạo lực lượng công nhân kỹ thuật và công nghệ. Hiện nay công nghệ và tiểu thủ công nghiệp nông thôn đang có xu hướng phát triển, tuy nhiên quy mô và thiết bị sản xuất cũng như chất lượng sản phẩm còn nhiều mặt hạn chế , lựcu lượng lao đông , kỹ thuật và công nghệ nông thôn rất cần đào tạo lại vì tổng số 31,8 triệu lao động ở khu vực này hiện có tới 29,4 triệu chưa qua đào tạo. Đa số thợ trong các cơ sở sản xuất là do kèm cặp, tự học và tích lũy kinh nghiệm. Nếu đặt vấn đề là tới đây đổi mới công nghệ quy mô sản xuất hoặc cải tiến các quy trình công nghệ quy mô sản xuất hoặc cải tiến các quy trình công nghệ và kỹ thuật tiên tiến hơn hiện đại hơn thì số lao động cũ và mới sẽ đào tạo ở đâu học nghề như thế nào và chương trình dạy nghề cho lao động trẻ nông thôn ra sao? Đây có thể xem là một vấn đề bức xúc trong chương trình dạy nghề cho thanh niên nông thôn trong thời gian tới mà không thể không đề cập. Trong cơ chế thị trường, việc đào tạo lực lượng công nhân kỹ thuật nếu chỉ tập trung vào khu vực kinh tế nhà nước như trước đây thì không thể bảo đảm được do hạn chế kinh phí. Từ thực tế đào tạo cán bộ công nhân kỹ thuật trẻ hiện nay, ta thấy nổi lên một số tình hình sau đây: Một là, hầu hết số thanh niên có khả năng ( cả về kinh tế lẫn học lực ) đều muốn vào đại học và tiếp tục học cao hơn. Tâm lý chung là không muốn học trung học kỹ thuật. Hậu quả như đã nói là nhiều nơi, nhiều lúc cán bộ có trình độ đại học lại nhiều hơn cán bộ trung cấp và công nhân kỹ thuật bậc cao . Hai là, sự phân biệt giữa hệ thống đào tạo trung cấp và công nhân kỹ thuật còn chưa rõ ràng. Sự không phân biệt đó, hiện ở mức lương gần như tương đồng (thậm chí cán bộ kỹ thuật trung cấp còn thấp hơn công nhân) , ngoài ra công việc đôi khi lại rất giống nhau (trừ một số ngành y dược...) từ đó dẫn đến tâm lý đối với học sinh trẻ là học công nhân kỹ thuật bậc cao hơn là đi trung cấp, vì thời gian đào tạo gần như nhau, công việc đôi khi lại tốt hơn cho bản thân sau khi ra trường và hành nghề. Ba là, hệ thống quản lý nâng bậc kỹ thuật và đào tạo lại công nhân còn chậm đổi mới và không linh hoạt trong bối cảnh nền kinh tế thị trường. Vì sự đòi hỏi ở người công nhân hiện đại không chỉ ở tay nghề mà còn ở thể lưc, vì điều đò có liên quan đến chất lượng sản phẩm và năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm . Bốn là, trong đội ngũ công nhân kỹ thuật và công nghệ của ta hiệnu nay còn có nhiều người mù chữ và chưa có bằng cấp. Thực tế , ở tất cả các nước tiên tiến, mọi công việc dù đơn giản nhất vẫn cần qua đào tạo, chỉ có như vậy mới nâng cao được chất lượng sản phẩm, đồng thời làm tăng tính năng động của đội ngũ lao động, giúp cho họ có cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp. Năm là, đội ngũ công nhân kỹ thuật và công nghệ của ta, tính đơn nghề còn phổ biến trong khi thực tế muốn có việc làm thường xuyên cần phải giỏi một nghề và biết nhiều nghề. Điều này có được khắc phục hay không hoàn toàn phù thuộc vào trình độ văn hóa và kỹ năng đào tạo đội ngũ lao động này như thế nào trong thời gian tới . Điều thách thức lớn hơn còn là điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo, Hiện trạng cả hệ thống dạy nghề, cũng như thương trường , trang bị cơ sở vật chất kỹ tyhuật, đội ngũ giáo viên, giáo trình giáo án ... dều rất thiếu thôn lạc hậu . Công tác đào tạo còn nhiều vấn đề : Một là, do tâm lý “sính” đại học của dân chúng (bắt nguồn từ tư tưởng lánh nặng tìm nhẹ một tư tưởng phong kiến tham căn cố để ở nước ta ) do các cơ sở dạy nghề còn quá ít và chất lượng kém trên nhu cầu đại học rất lớn. Đồng thời do thiếu sự điều tiết vĩ mô về cơ cấu và quy mô các ngành đào tạo nên có tình trạng đào tạo ồ ạt, trùng lắp giữa các trường, quá tải về giảng đường, ký túc xá và giáo viên cũng phải làm việc quá tải. Hai là, việc đổi ới nội dung giảng dạy chưa được đồng đều giữa các trường. ở khối kinh tế việc này đã được khá tốt , hầu hết các môn học đã được đổi mới, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường . Song ở khối kỹ thuật, quá trình đổi mới chậm có những chuyên ngành giảng dạy những giáo trình quá lạc hậu. Ba là, cơ sở vật chất ở các trường có được bổ sung thêm, góp phần cải thiện điều kiện sống và làm việc của giáo viên và sinh viên nhưng các phương tiện giảng dạy thì hầu như chưa thay đổi. Bốn là, công tác phục vụ cho giảng dạy và học tập cũng chưa được đổi mới - đặc biệt là hệ thống thư viện - nên chưa tạo được điều kiện để đổi mới phương pháp giảng dạy và nâng cao chất lượng đào tạo trong khi đội ngũ giáo viên được quan tâm đào tạo và đổi mới kiến thức thì đội ngũ phục vụ giảng dạy còn được ít quan tâm. Năm là, nói chung sinh viên ra trường đều có kiến thức lý thuyết khá tốt nhưng yếu về kỹ năng và rất thiếu thực tế . Nguyên nhân của tình hình này có hai phía : phía nhà trường thì hầu như chưa có kinh phí cho việc thực tập hoặc kinh phí không đáng là bao và cần giảm quỹ thời gian dành cho thực tập , phía doanh nghiệp thì chưa nhận thức được trách nhiệm chung đối với quá trình đào tạo . Tất cả những điều trên làm giảm sút chất lượng sinh viên khi ra trường, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đội ngũ lao động trong các doanh nghiệp. 4. Vấn đề sử dụng đội ngũ lao động sau đào tạo và bồi dưỡng . Đây chính là biểu hiện hiệu quả của đào tạo bồi dưỡng cán bộ. Với cấp độ khác nhau, sử dụng số lao động này có khác nhau. Việc sử dụng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật được biểu hiện thông qua việc làm và không có việc làm của họ hoặc việc sử dụng không đúng ngành nghề ( bảng 5) Bảng 5: Tình trạng việc làm sau khi tốt nghiệp Tình trạng công việc Tổng số CNKT có bằng CNKT không bằng TNCN CĐ-ĐH Tổng số 316713 773336 5995131145446 638418 1. Công việc ổn đinh 2774283 675086 535552 995390 568225 2. Công việc tạm thời 20495 5944 7005 5335 2211 3. Chưa có việc làm 69598 23812 665426007 13125 4. Đang đi học 13484 1442 1057 6959 4026 5. Nội trợ 55495 10863 10733 25374 8520 6, Mất khả năng LĐ 80801 214269 12473 53253 13160 7. Tình trạng khác 142557 34269 26039 53128 29121 8. Tỷ lệ chưa có việc làm 220 3,08 1,11 2,27 2,06 Qua số liệu thống kê cho thấy rằng không kể những người sau khi tốt nghiệp đang làm nội trợ hoặc mất khả năng lao động, số đang đi học và các tình hình khác, thì chỉ riêng số người chưa có việc làm thực sự đã chiếm 2.2% tổng số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Trong số những người có việc làm, việc phân bổ họ vào các thành phần kinh tế cũng không đồng đều. - Thành phần kinh tế phi nhà nước sử dụng rất ít lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật. - Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thu hút đại bộ phận lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cụ thể là: - 82.93% số tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp 93.00% số tốt nghiệp cao đẳng, đại học - 97.13% số tốt nghiệp trên đại học. Trong số lao động hiện nay có thể nói tổng quát là chỉ khoảng 70% người có trình độ đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp đã làm đúng ngành nghề được đào tạo. Có một số lĩnh vực như giáo dục, y tế. Số người được làm đúng ngành nghề được đào tạo chiếm tỷ lệ cao nhưng một số lĩnh vực khác thì tỷ lệ này rất thấp. 5. Công cụ lao động Trước thời kỳ đổi mới phần lớn các doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực sử dụng công cụ lao động giản đơn và dùing sức lực của người công nhân là chính. Hơn nữa công nhân phải sử dụng đủ công cụ và đủ mọi chi tiết để hoàn thành sản phẩm có nghĩa là một công nhân có thể phải đứng ở nhiều khâu để sản xuất hoàn chỉnh một sản phẩm (trình độ chuyên môn hóa trong sản xuất thấp). Đây chính là chịu ảnh hưởng sự bưng bít của cơ chế kế hoạch hóa tập trung và sự cấm vận của Mỹ. Sau thời kỳ đổi mới đến nay qua chuyển giao công nghệ nhiều máy móc thiết bị và các công cụ lao động tiên tiến khác cũng được thay đổi vì vậy năng suất lao động phần nào được nâng cao. Tuy nhiên bên cạnh sự đổi mới này lại có những khó khăn mới đó là công nhân phần lớn với tay nghề thấp kém đã không đủ trình độ để sử dụng máy móc, công cụ lao động hiện đại vì vậy chưa phát huy hết được công suất máy móc. Hai là, khi máy móc và các công cụ tiên tiến hơn có một khó khăn nữa là việc dư thừa lao động trong các doanh nghiệp. Như vậy khi bước sang điều kiện mới này, sự thay đổi về công cụ lao động đã tác động đến công việc đào tạo và sử dụng lao động trong các doanh nghiệp ở nước ta. III- Kết quả đạt được và những tồn tại của hệ thống đào tạo, dạy nghề trong những năm qua. 1. Những kết quả đạt được ã Khi nền kinh tế bước sang cơ chế thị trưởng điều này đã tác động đến công tác đào tạo bồi dưỡng lao động chu phù hợp . Và việc thay đổi hoàn thiện cơ quan quản lý nhà nước cho phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội là đòi hỏi khách quan. Thành lập lại tổng cục dạy nghề trực thuộc Bộ lao động - Thương binh và xã hội là yêu cầu quản lý nhà nước về nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa . Thành lập lại Tổng cục dạy nghề trực thuộc Bộ lao đông- Thương binh và xã hội là phù hợp với thực tế khách quan đáp ứng yêu cầu cấp bách của xã hội, tạo ra khả năng đào tạo, đào tạo lại nghề nghiệp cho người lao động, nhằm góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp đang có chiều hướng gia tăng trong thị trường lao động. ã Về công tác dạy nghề trong những năm qua, ý kiến của các chuyên gia giữa Bộ lao động - thương binh và xã hội và Bộ giáo dục và đào tạo đều thống nhất nhận định : - Công tác dạy nghề có những chuyển biến phù hợp với cơ chế thị trường . Hệ thống cơ sở dạy nghề đa sở hữu đã và đang hình thành, bao gồm các cơ sở dạy nghề của nhà nước, của doanh nghiệp, của các tổ chức đoàn thể của tư nhân . Hình thức dạy nghề có thể được tổ chức thành trường , hoặc kèm cặp tại phân xưởng, tại nhà, truyền nghề... với các chương trình dài hạn ngắn hạn, theo chuyên đề do người học yêu cầu và thỏa thuận giữa cơ sở dạy nghề và người học - Với hệ thống gồm khoảng 1000 cơ sở dạy nghề, hàng năm đã đào tạo khoảng 300.000 người, đủ các cấp độ để cung cấp cho nền kinh tế quốc dân, trong đó có các nghề chính quy đào tạo khoảng 22.000 người, các cơ sở dạy nghề ngắn hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức, đoàn thể đào tạo khoảng 128.000 người, các cơ sở dạy nghề dân lập, tư nhân các làng nghề, phố nghề đào tạo khoảng 150.000 người giúp họ tự tạo được việc làm. ã Bước sang cơ chế thị trường công tác đào tạo đã góp phần đưa chất lượng của đội ngũ lao động quản lý trong việc am hiểu sâu về ngành nghề đối thủ cạnh tranh, khách hàng, bạn hàng, am hiểu về các lĩnh vực xã hội khác . ã Người lao động tay nghề được đào tạo có bài bản, được đào tạo về kỹ thuật và công nghệ hiện đại cho nên tính năng động sáng tạo được nâng cao về chất lượng đào tạo mà còn am hiểu thêm về thị trường. ã Công cụ lao động theo thời gian đã được đổi mới nâng cao cả về mặt chất lượng, khối lượng và chức năng. Ngày nay cùng với sự “ mở cửa” của các công cụ lao động (máy móc thiết bị) ngày càng được đổi mới thông qua các hình thức chuyển giao. Bên cạnh những kết quả đạt được công tác đào tạo tay nghề, sử dụng lao động đã qua đào tạo và cơ quan nhà nước quản lý công tác này còn rất nhiều những tồn tại cần phải khắc phục. 2. Những tồn tại: ã Về tổ chức cơ quan quản lý sự nghiệp dạy nghề từ trung ương đến địa phương trong mấy chục năm qua nhiều lần nhập tách, chuyển bộ chủ quản (hiện nay Tổng cục dạy nghề trực thuộc bộ lao đông- thương binh và xã hội). Đây là một khó khăn trong công tác này. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và số lượng lao động được đào tào ra. Điều này do khi tách và khi sát nhập vấn đề đào tạo sẽ phần nào không được quan tâm nắm tình hình một cách có hệ thống. ã Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, công tác dạy nghề mất định hướng, lúng túng phó mặc cho thị trường. Có lẽ đây là nguyên nhân cơ bản nhất sự tụt hậu (về quy mô và chất lượng dạy nghề), khó khăn nhiều mặt của công tác này chỉ nói riêng về số lượng trường dạy nghề chính quy, có lúc cả nước có tới 366 trường, năng lực chiêu sinh mỗi năm 20 vạn học sinh. Vậy mà chỉd hơn 10 năm số cơ sở và khả năng chiêu sinh đã giảm quá một nửa. Muốn khôi phục lại năng lực cũ chưa kể tốn kém rất lớn về tiền của, mà còn phải có thời gian. ã Những năm qua, nguồn tài chính, nguồn từ ngân sách bố trí cho ngành giáo dục - đào tạo tuy có tăng nhưng vẫn chiếm tỷ lệ thấp, đặc biệt ngân sách cấp cho dạy nghề trong tổng chi ngân sách cho giáo dục đào tạo rất hạn hẹp, lại luôn có chiều hướng giảm (từ 8.7% năm 1991 xuống 4.87% tức 33.49 tỷ đồng năm 1996). Với mức tiền ít ỏi trên nhiều trường dạy nghề năng động tìm nguồn bổ sung (kể cả thu học phí của học sinh, và tổ chức sản xuất dịch vụ) nhưng cũng chỉ đủ duy trì hoạt động tối thiểu trước mắt, không có điều kiện trang bị lại máy móc công nghệ mới, đào tạo lại đội ngũ giáo viên, công tác dạy nghề bị tụt hậu. ã Các chính sách nhà nước liên quan tới công tác dạy nghề còn chưa đồng bộ thiếu tính chặt chẽ, hấp dẫn, cũng gây tác động không nhỏ đến sự suy giảm chung. Đơn cử chất lượng lao đông có vai trò quyết định tới hiệu quả sản xuất kinh doanh, bởi vậy trong cơ chế thị trường người sử dụng lao động phải có trách nhiệm đóng góp vào đào tạo lần đầu và đặc biệt đào tạo lại, đào tạo nâng cao số lao động trong doanh nghiệp. Đạo lý là vậy nhưng cơ chế chính sách điều tiết cụ thể chưa có. Về mặt tâm lý xã hội thì số đông thanh niên và các bậc phụ huynh, cho rằng: con đường tiến thân trước hết phải vào đại học, tiếp đó là trung học chuyên nghiệp, cuối cùng là vào các trường dạy nghề, để thay đổi thực tế này, phải làm tốt công tác tuyên truyền vận động, nhưng chủ yếu là chính sách khuyến khích và học bổng (khi học viên học ở trường nghề) và tiền lương khi sử dụng. Những vấn đề này đang còn bất cập trong thực tế . Ngay cả chính sách khuyến khích với đội ngũ giáo viên dạy nghề, so với người cùng trình độ trong các cương vị khác, cũng còn nhiều vấn đề tồn tại. ã Chậm định hướng phát triển lĩnh vực dạy nghề: Đất nước đổi mới, các ngành, các lĩnh vực đều có sự thay đổi cho phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, nhưng lĩnh vực dạy nghề không kịp thời định hướng hoạt động. Sự chuyển biến bước đầu theo định hướng đa dạng hóa xã hội hóa là do tác đông trực tiếp của cơ chế thị trường, buộc công tác dạy nghề phải theo để tồn tại. Hoạt động dạy nghề thơì gian qua mang nặng tính tự phát. ã Buông lỏng quản lý nhà nước: Hơn 10 năm qua, các cơ sở dạy nghề “tự lo số phận của mình. Mấy trăm cơ sở dạy nghề của nhà nước được hình thành từ thời bao cấp tự bươn chải để sống . Các cơ sở dạy nghề của tư nhân lấy mục tiêu lợi nhuận là chính đua nhau thành lập. Họ dạy gì, dạy thế nào, nhà nước không kiểm soát được hết giữa cung và cầu, giữa đào tạo và sử dụng công nhân kỹ thuật không có sự quản lý của nhà nước. ã Công tác dạy nghề trước mắt có nhiều mối lo: - Quy mô năng lực đào tạo nghề từ nay đến năm 2000 không tăng kịp để đạt được mục tiêu do đại hội 8 của Đảng đề ra (tăng quy mô học nghề bằng mọi hình thức để đạt được 22-25% đội ngũ lao động qua đào tạo năm 2000”) , cũng như không đáp ứng được yêu cầu học nghề ngày càng lớn của toàn xã hội ( hàng năm cả nước có 90 vạn học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học và phổ thông cơ sở, không vòa các trường đại học, trung học chuyên nghiệp... cần được dạy nghề trước khi bước vào cuộc đời lao đông, chưa kể nhu cầu bồi dưỡng đào tạo lại, lực lượng lao đông hiện có. - Các cơ sở dạy nghề khó đáp ứng được nhu cầu vê công nhân kỹ thuật cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, các công ty xuất khẩu lao động và các doanh nghiệp, đặc biệt là ở một số ngành nghề mới kỹ thuật cao. - Với quy mô và năng lực dạy nghề hiện nay, nếu không kịp thời nâng cao về đào tạo - gắn với thị trường lao đông - thì vẫn không có người học, hoặc có nhưng chất lượng thí sinh không bảo đảm, và vẫn tiếp tục tình trạng vừa thừa vừa thiếu - học sinh tốt nghiệp các truờng khó tìm việc làm. Phần III: Giải pháp và kiến nghị I. Một số giải pháp Công tác dạy nghề thời kỳ 1998-2000 , đã được đại hội 8 của Đảng chỉ rõ mục tiêu. Đó cũng là xuất phát từ yêu cầu được học nghề của nhân dân- trước hết là lớp trẻ, bước vào tuổi lao động, đông thời từ yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn lao đông phục vụ CNH,HĐH đất nước. Vấn đề là tổng cục dạy nghề vừa được tái lập trực thuộc Bộ lao động - thương binh xã hội phải làm gì và làm thế nào để cùng các cấp các ngành nhanh chóng khắc phục được sự yếu kém, bất cập trong công tác hiện nay, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao? 1. Tổng cục dạy nghề đi vào hoạt động từ ngày 1 tháng 7 năm 1998, cần bắt tay ngay vào cung các cấp các ngành nghiên cứu, xây dựng chính phủ, quy hoach, kế hoạch về công tác dạy nghề cho giai đoạn 1998-2000 và những bước tiếp theo, trên cơ sở bám sát và phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế xã hội của cả nước, của từng ngành từng địa phương. Nội dung quy hoạch, kế hoạch, không chỉ hoạch định về quy môm chất lượng, ngành nghề đào tạo, mà cần chỉ rõ phương án bố trí hệ thống các trường nghề : trung ương (trực tiếp là Tổng cục dạy nghề) nắm các trường nào, cấp đào tạo nào ? (chẳng hạn Trung ương cần quản lý một số cơ sở dạy nghề kỹ thuật cao, trực tiếp cung ứng lao động cho các thành phố trực thuộc trung ương, các khu công nghhiệp tập trung, các khu chế xuất... trung ương cũng cần trực tiếp quản lý các trường sư phạm nghề để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên). Còn các ngành sản xuất, các địa phương nắm những trường nào có nhất thiết mỗi tỉnh đều có trường dạy nghề giống nhau, hay nên bố trí theo vùng, trên cơ sở liên doanh liên kết? Chỉ khi có quy hoạch, kế hoạch dạy nghề đúng đắn, phù hợp thì các biện pháp đầu tư nguồn lực, tăng cường quản lý mới khả thi và hiệu quả. 2. Công tác dạy nghề cần sớm ổn định và tăng cường và tổ chức, cán bộ. Thủ tướng chính phủ giao chức năng quản lý và dạy nghề trực thuộc Bộ Lao động TB-XH là bước khởi đầu quyết định, tạo điều kiện thuận lợi thực thi các công tác này. Tuy nhiên, sự nghiệp dạy nghề là toàn dân, các cấp, các ngành theo hướng dẫn của Chính phủ cần quan tâm, hình thành sớm để tổ chức điều động bố trí những cán bộ có tài, có đức và tâm huyết đảm nhiệm công việc. 3. Đồng thời với những biện pháp xây dựng quy hoạch là biện pháp xây dựng tiêu chuẩn, hướng dẫn và quản lý thống nhất công tác đào tạo nghề như: hệ thống danh mục nghề: công nghệ dạy nghề cho từng cấp học; tiêu chuẩn chất lượng cho từng loại, bằng cấp chứng chỉ, giáo trình, giáo án mẫu, hệ thống kiểm định chất lượng, quy trình đánh giá chất lượng... chỉ sớm có các văn bản pháp quy trên thì công tác dạy nghề mới đi vào nề nếp, bảo đảm yêu cầu về chất lượng, và tránh được các tiêu cực. 4. Nhà nước cần tăng cường và ưu tiên đầu tư cho công tác dạy nghề. Ngoài đầu tư từ ngân sách nhà nước có chính sách biện pháp huy động vốn từ các nguồn khác như: giao cho các địa phương dành quỹ đất cho việc xây dựng cơ sở dạy nghề, huy động đóng góp của người học, của người sử dụng lao động, lồng ghép công tác dạy nghề với các chương trình kinh tế xã hội khác, cho phép sử dụng nguồn vốn vay hoặc tài trợ của các tổ chức quốc tế cho công tác dạy nghề. 5. Giải pháp có ý nghĩa cơ bản, lâu dài là cần sớm thiết lập được một hệ thống, cơ chế chính sách gắn dạy nghề với sử dụng, với việc làm, theo các quy định trong bộ luật lao động, chính sách khuyến khích giáo viên dạy nghề, chính sách khuyến khích các cơ sở dạy nghề ở nông thôn, miền núi phân cấp trách nhiệm quyền hạn giữa trung ương và địa phương trong công tác dạy nghề. 6. Đối với các doanh nghiệp: doanh nghiệp cần nhận thức đúng vai trò của yếu tố con người đối với các hiệu quả của sản xuất kinh doanh. Và sự tồn tại lâu dài và thắng lợi của doanh nghiệp trên thương trường. Từ nhận thức đó, mỗi doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một chiến lược về nguồn nhân lực là cốt lõi, chiến lược phát triển nguồn nhân lực được biểu hiện ở kế hoạch dài hạn về đào tạo và phát triển các loại lao động hiện có và cần có trong doanh nghiệp. Chiến lược đó phải gắn liền và được đặt ngang tầm với chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Muốn thực hiện được việc đó các doanh nghiệp cần nhận thức đúng đắn vai trò quan trọng của công tác quản lý lao động và vị trí then chốt của bộ phận chuyên trách về lao động. Bộ phận chuyên trách về lao động phải được đặt ngang hàng với các phòng ban chức năng khác trong doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần chi phí thích đáng cho công tác đào tạo, phát triển công tác này phải được thực hiện một cách thực chất và trọng điểm, tức là xác định đúng nhu cầu đào tạo và bảo đảm có hiệu quả. Đối với công nhân sản xuất, hình thức kèm cặp, bồi dưỡng nâng bậc tại chỗ. Đối với lao động quản lý, cần có kế hoạch đào tạo lại tất cả các nhân viên về kiến thức quản trị kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường. Riêng đối với lao động lãnh đạo các cấp, các phòng ban cần được đào tạo để nắm được và tiến tới lãnh đạo các kỹ năng quản lý hiện đại như: xác định, mục tiêu và truyền đạt mục tiêu các nhân viên, phân phối công việc và sử dụng người dưới quyền kế hoạch hóa công việc và sử dụng thời gian của bản thân; quan hệ con người và làm việc tổ nhóm, điều hành các cuộc họp, quản lý sự căng thẳng, quản lý những thay đổi, sử dụng phương tiện quản lý hiện đại và có trình độ ngoại ngữ nhất định. Đối với những dự tính để đề bạt, cần phải có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo rõ ràng. Hình thức đào tạo, phát triển lao động quản lý có thể là kèm cặp, kiêm nghiệp luân chuyển công việc, tổ chức các lớp học ngắn hạn tại doanh nghiệp hoặc cử đi học các trường lớp chính quy. Trong đó nên nhấn mạnh việc tổ chức các lớp ngắn hạn tại doanh nghiệp vì hình thức này ít tốn kém và tạo mối liên hệ trực tiếp với công việc. Các doanh nghiệp cần nhận thức trách nhiệm chung trong công tác đào tạo để tham gia tích cực vào việc hướng dẫn thực tập và tạo điều kiện để các sinh viên có thể thực tập và có hiệu quả. Các trường đại học cần đẩy nhanh tiến độ đổi mới nội dung giảng dạy và các phương pháp giảng dạy về sinh viên khi ra trường có được các kiến thức hiện đại, phù hợp với điều kiện Việt Nam và kỹ năng làm việc thực tế đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tiếp tục đẩy mạnh công tác bồi dưỡng giáo viên và các khoa học trong nước và nước ngoài để nâng cấp chất lượng giáo viên, đáp ứng yêu cầu trong nước và yêu cầu toàn cầu hóa giáo dục đại học trong thế kỷ 21. Quan tâm thích đáng tới việc đổi mới các hoạt động phục vụ giảng dạy và học tập trong các trường đại học để nâng cao chất lượng phục vụ, đặc biệt là hệ thống thư viện. Các cán bộ nhân viên thư viện và cán bộ chủ chốt trong các bộ phận phục vụ cần đào tạo lại ở trong nước và nước ngoài để có kỹ năng phương thức hoạt động đáp ứng đồng bộ yêu cầu cải tiến phương pháp giảng dạy và nâng cao chất lượng đào tạo. Từng bước trang bị các phương tiện giảng dạy hiện đại đáp ứng yêu cầu cải tiến phương pháp giảng dạy và nâng cao chất lượng đào tạo. Các trường đại học cần dành kinh phí thích đáng cho giai đoạn thực tập của sinh viên để tăng trách nhiệm của các doanh nghiệp. Có thể sử dụng hợp đồng đào tạo để gắn bó trách nhiệm với trường đại học. 7. Bên cạnh việc khuyến khích lập các quỹ hỗ trợ giáo dục đào tạo như hiện nay cần xúc tiến sớm ban hành “thuế đạo tạo” buộc các doanh nghiệp có sử dụng lao động do nhà nước đào tạo chia sẻ trách nhiệm với nhà nước trong việc đầu tư giáo dục - đào tạo giải quyết thỏa đáng lợi ích kinh tế giữa các thành phần kinh tế. Nguồn thu này tương đối ổn định và có ý nghĩa ngày càng lớn đối với giáo dục đào tạo. 8. Mở rộng hợp tác quốc tế tranh thủ nguồn vốn vay và viện trợ của các nước và các tổ chức quốc tế cho giáo dục và đào tạo. Tiếp tục khuyến khích học sinh đi học nước ngoài bằng kinh phí tự lo nhằm tạo thêm nguồn vốn cho giáo dục - đào tạo và tạo điều kiện để lao động nước ta tiếp cận được khoa học kỹthuật và khoa học quản lý tiên tiến của các nước phát triển. Dĩ nhiên nhà nước phải định hướng theo yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hỗ trợ một phần kinh phí cho một số ngành nghề nhất định. Đất nước ta bước vào thế kỷ 21 với tư thế như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Để con rồng Việt Nam “đang cựa mình” để có thể cất cánh hội nhập quốc tế, chắc chắn còn nhiều việc phải làm trong đó vấn đề tạo vốn là một trong những vấn đề bức xúc để phát triển mạnh giáo dục - đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. II/ Một số kiến nghị: 1. Tiếp tục tăng cường đào tạo cán bộ có trình độ khoa học kỹ thuật cao đáp ứng cho các ngành kinh tế xã hội theo hướng chuyên sâu và giỏi trong lĩnh vực sản xuất, công nghệ nâng dần tổng số cán bộ đại học tính trên một vạn dân đang còn thấp như hiện nay. 2. Phát huy và vận dụng chương trình đào tạo do nước ngoài tài trợ gồm đào tạo trong nước và đào tạo ngoài nước, kinh phí do phía nước ngoài chịu, giúp ta vừa nắm bắt được kỹ thuật và công nghệ mới nhất, vừa có thể bắt tay ngay vào sản xuất và điều hành sản xuất sau khi ra trường. 3. Cần có sự đào tạo đối với công nhân có tay nghề cao, giảm mạnh sự mất cân đối hiện thời. Mặt khác, cần phải có hướng điều chỉnh sớm thì mới phát huy được tiềm năng thực sự của nguồn nhân lực. 4. Xem xét và điều chỉnh lại hệ thống giáo dục đào tạo nhằm có được số lượng và chất lượng phù hợp với nhịp độ phát triển kinh tế chung của đất nước. Hiện tại hệ thống đào tạo của ta nhìn chung do Bộ chủ quản quản lý, ngoài ra còn có ở các địa phương. Gần đây khu vực tư nhân cũng mở ra các trường dạy nghề, đào tạo nghề (đặc biệt là ở các trung tâm đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh) Nhà nước không kiểm soát được quá trình dạy và chất lượng dẫn đến việc đào tạo tản mát, chất lượng không cao, người lao động mất nhiều thời gian học nghề nhưng vẫn không đáp ứng được yêu cầu công việc. Đây chính là chỗ yếu nhất trong khâu đào tạo nghề hiện nay, cần kịp thời chấn chỉnh. 5. Cần có một số chính sách đối với cá nhân người lao động có đào tạo. Một là ngoài những yêu cầu về bồi dưỡng hoặc đào tạo lại đột xuất do yêu cầu của cơ quan sử dụng lao động hoặc của người lao động cần có quy định thời hạn kỳ để mỗi lại hình lao động khác nhau cần phải và cần được bồi dưỡng để nâng cao trình độ hoặc để bổ sung những kiến thức, kỹ năng mới nhất do yêu cầu mới của công việc lao động đòi hỏi. Thời gian này có thể từ 3-5 năm tùy từng loại hình lao động. Riêng với giáo viên thì hàng năm cần được bồi dưỡng những kiến thức và kỹ năng về chuyên môn hoặc phương pháp giảng dạy trong dịp hè. Hai là, khuyến khích người lao động học tập nâng cao trình độ bằng nhiều biện pháp như: bảo đảm sau khi đi học nâng cao trình độ về không bị mất việc làm và ngược lại, có thể được tăng cường sớm được nâng bậc hay ưu tiên xem xét, để bạt chức vụ cao hơn khi có nhu cầu. Dùng công cụ lương, thưởng cho người lao động có tay nghề và biết thành thạo ngoại ngữ... hay cùng một khoản phụ cấp nào đó. Cần có chính sách bảo hiểm cụ thể cho người lao động đối với từng loại lao động, từng loại nghề. Ba là, hỗ trợ kinh phí cho những người có hoàn cảnh kinh tế khó khăn để họ có khả năng tham gia các khóa bồi dưỡng. 6. Đối với lao động quản lý chưa có bằng cấp phải cho đi đào tạo và phải nhanh chóng sử dụng những người đã được đào tạo. 7. Một số kiến nghị đối với lao động nữ hiện nay là: Một là vấn đề đào tạo cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo nữ là rất cần thiết và bức bách. Mặc dù đa số chị em đã được bồi dưỡng ít nhiều trước và sau khi lãnh đạo, song nhu cầu tiếp tục bổ túc về kỹ năng lãnh đạo quản lý, nâng cao về chuyên môn về chính trị còn rất lớn. Theo số liệu điều tra của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam thì trong số phụ nữ tham gia công tác lãnh đạo 92,05% có nhu cầu nâng cao về kỹ năng lãnh đạo, 84,09% về chuyên môn, và 8,18% về chính trị. 8. Cần có chính sách đào tạo mới đối với những học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học để đào tạo điều kiện cho họ tìm kiếm việc làm. Đây là việc rất cần thiết nhằm sử dụng những nguồn nhân lực đang dồi dào và hơn hết phải giải quyết và ngăn chặn từ xa những tệ nạn xã hội. 9. Các doanh nghiệp cần tổ chức hệ thống thông tin về thị trường lao động, tuyển chọn lao động, sử dụng lao động và phát triển lao động nhằm cung cấp cho lãnh đạo của tổ chức kịp thời, đầy đủ và chính xác những thông tin cần thiết đề ra các quyết định về nhân lực như các quyết định về thu hút người tham gia tích cực vào thực hiện mục tiêu của tổ chức, quyết định về tuyển chọn nhân lực bổ sung và phát triển tổ chức, quyết định về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực của tổ chức... Kết luận Trong thời đại ngày nay bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển được phải quan tâm đến yếu tố con người. Vì vậy vấn đề giáo dục đào tạo nghề cho người lao động là vấn đề của toàn xã hội của mọi cấp mọi ngành của mọi thành phần kinh tế. Đặc biệt trong quá trình đổi mới kinh tế, cơ cấu kinh tế vấn đề này ngày càng trở nên búc xức và được nhiều người quan tâm. Qua đề án này em muốn nêu thực trạng nguồn lao động và đào tạo mới, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao tay nghề của người lao động từng các doanh nghiệp ở Việt Nam và có một số kiến nghị. Nhưng do điều kiện thời gian và khả năng có hạn nên đề án này sẽ không tránh được những sai sót và hạn chế. Do đó em rất mong được sự giúp đỡ và góp ý kiến của Thầy, Cô. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn Thầy giáo Nguyễn Văn Duệ đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành đề án này. Tài liệu tham khảo Giáo trình quản trị nhân lực - NXB Giáo dục (trường Đại học KTQD - Bộ môn Quản trị Nhân lực). Chủ biên: PGS. PTS Phạm Đức Thành. Giáo trình Kinh tế lao động - NXB Giáo dục 1995 (Trường ĐH KTQD - Bộ môn Kinh tế lao động). Chủ biên PGS. PTS Phạm Đức Thành Thị trường lao động và việc làm giải quyết việc làm ở Việt Nam - ủy ban Kế hoạch nhà nước trung tâm thông tin). Sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở Việt Nam. Bồi dưỡng đào tạo lại đội ngũ nhân lực trong điều kiện mới Phát triển nguồn nhân lực kinh nghiệm thế giới và thực tiễn ở nước ta. Thực trạng lao động và việc làm ở Việt Nam. Hoàn thiện cơ quan quản lý nhà nước về công tác dạy nghề (Tạp chí Thông tin thị trường lao động số tr. 5.6.7). Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở các doanh nghiệp nước ta hiện nay (Thạc sỹ Trần Thị Thu - Thạc sỹ Nguyễn Văn Điềm). Tạp chí Kinh tế phát triển số 21, tr. 26, 27, 28, 29). Đào tạo lực lượng lao động kỹ thuật và công nghệ trẻ ở nước ta hiện nay. PTS Lê Đăng Giang. Trung tâm nghiên cứu dân số (Tạp chí lao động và xã hội số tháng 6/1998, tr.34, 35). Một số ý kiến về nhu cầu đào tạo đối với những nữ là lãnh đạo - PTS. Phan Thị Thanh - Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Khoa học lao động nữ. (Tạp chí Lao động - xã hội số tháng 10/1997 tr.26,27). Công tác dạy nghề thách thức và giải pháp - PTS Nguyễn Lương Trào - Thứ trưởng Bộ lao động thương binh và xã hội (Tạp chí lao động và xã hội số 6/1998 tr. 1,2,3) Làm gì để thúc đẩy công tác đào tạo nghề? (Tạp chí Lao động và xã hội só tháng 6/1998 tr. 4,5) Về đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay (Tạp chí thông tin thị trường lao động - Đào Quang Vinh viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội tr. 7,8,9) Làm gì để có thêm nguồn vốn phát triển giáo dục đào tạo - Trần Huy Hùng - Đại học Tài chính - Kế toán. (Tạp chí Lao động và xã hội số tháng 7/1997, tr. 33,34) Đào tạo nghề và thách thức mới PTS. Nguyễn Lê Minh (Tạp chí Thông tin thị trường lao động, tr. 14,15,16,17). Mục lục Trang Lời nói đầu 1 Phần I: Lý luận chung về lao động, việc làm 2 I/ Khái niệm lao động việc làm và thất nghiệp 2 1. Nguồn lao động 2 2. Việc làm 3 3. Thất nghiệp 3 II/ Sự cần thiết của đào tạo và nâng cao trình độ lành nghề cho người lao động 4 Phần II: Thực trạng đội ngũ lao động của nước ta 6 I/ Thực trạng đội ngũ lao động ở nước ta thời kỳ trước đổi mới (trước năm 1986) 6 1. Về số lượng lao động 6 2. Về chất lượng lao động 7 3. Về chính sách bồi dưỡng, đào tạo các loại hình lao động 8 4. Về việc tuyển dụng lao động qua đào tạo 9 II/ Thực trạng lao động sau đổi mới (sau 1986) đến nay 10 1. Những điều kiện mới đòi hỏi người lao động 10 2. Thực trạng nguồn nhân lực 11 3. Công tác đào tạo giáo dục 12 4. Vấn đề sử dụng đội ngũ lao động sau đào tạo bồi dưỡng 16 5. Công cụ lao động 17 III/ Kết quả đạt được và những tồn tại của hệ thống đào tạo dạy nghề trong những năm qua 18 1. Những kết quả đạt được 18 2. Những tồn tại 19 Phần III: Giải pháp và kiến nghị 22 I/ Một số giải pháp 22 II/ Một số kiến nghị 25 Kết luận 27 Tài liệu tham khảo 28

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc75467.DOC