Tài liệu Đề tài Một số giải pháp thực hiện chiến lược phát triển ngành Điện lực giai đoạn 2001 - 2010: Mục lục
Trang
Lời nói đầu
Đối với bất kỳ quốc gia nào, hệ thống kết cấu hạ tầng có vai trò vô cùng quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế đất nước, hệ thống kết cấu hạ tầng tạo cơ sở tiền đề cho phát triển tất cả các ngành kinh tế. Trong hệ thống kết cấu hạ tầng thì năng lượng, đặc biệt là điện là nguồn năng lượng không thể thiếu đối với các ngành sản xuất như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; sử dụng cho nghiên cứu khoa học kỹ thuật, an ninh quốc phòng, cho đời sống con người.
ở Việt Nam, ngành điện vẫn là một trong những ngành Nhà nước độc quyền, chịu sự quản lý trực tiếp của Nhà nước, sản phẩm là loại hàng hoá đặc biệt, đòi hỏi quá trình sản xuất phải gắn liền với quá trình tiêu dùng. Với những đặc điểm này thì để nền kinh tế phát triển điện phải đi trước một bước.
Tầm quan trọng của ngành điện đối với nền kinh tế là không thể phủ nhận, không phải ngẫu nhiên mà Lênin cho rằng "chủ nghĩa cộng sản chính là chính quyền Xô Viết cộng với điện khí hoá" (Lênin toàn tập). Và ...
77 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1441 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp thực hiện chiến lược phát triển ngành Điện lực giai đoạn 2001 - 2010, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Trang
Lời nói đầu
Đối với bất kỳ quốc gia nào, hệ thống kết cấu hạ tầng có vai trò vô cùng quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế đất nước, hệ thống kết cấu hạ tầng tạo cơ sở tiền đề cho phát triển tất cả các ngành kinh tế. Trong hệ thống kết cấu hạ tầng thì năng lượng, đặc biệt là điện là nguồn năng lượng không thể thiếu đối với các ngành sản xuất như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; sử dụng cho nghiên cứu khoa học kỹ thuật, an ninh quốc phòng, cho đời sống con người.
ở Việt Nam, ngành điện vẫn là một trong những ngành Nhà nước độc quyền, chịu sự quản lý trực tiếp của Nhà nước, sản phẩm là loại hàng hoá đặc biệt, đòi hỏi quá trình sản xuất phải gắn liền với quá trình tiêu dùng. Với những đặc điểm này thì để nền kinh tế phát triển điện phải đi trước một bước.
Tầm quan trọng của ngành điện đối với nền kinh tế là không thể phủ nhận, không phải ngẫu nhiên mà Lênin cho rằng "chủ nghĩa cộng sản chính là chính quyền Xô Viết cộng với điện khí hoá" (Lênin toàn tập). Và theo Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói với các đồng chí lãnh đạo và nhân dân rằng "dù trong hoàn cảnh trường hợp nào cũng phải chú ý đến điện, nước. Tiếp quản điện nước tốt thì quyết định thành công mọi công việc..." (theo Tạp chí Điện lực số 3 năm 1997).
Việt Nam là một trong 20 nước nghèo nhất thế giới chịu sự tàn phá nặng nề của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đang trên con đường hội nhập toàn cầu và phát triển kinh tế - thì điện lực là một nhân tố quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu mà Đảng và Chính phủ đã đề ra "xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp, có cơ sở vật chất hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của nền sản xuất. Đời sống vật chất tinh thần được nâng cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dâu giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh".
Để đạt được mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra trong thời gian tới ngành điện phải có chiến lược phát triển từ nay đến 2010. Qua thực tế nhiều năm và hai năm đầu thực hiện chiến lược ngành điện còn gặp nhiều khó khăn, chưa đáp ứng được nhu cầu.
Thấy được tính thực tế của vấn đề nêu trên, kết hợp với quá trình thực tập tại Viện Chiến lược chính sách công nghiệp - Bộ Công nghiệp và sự giúp đỡ của cô giáo và các chuyên viên trong Viện. Em đã đi sâu nghiên cứu và chọn đề tài:
"Một số giải pháp thực hiện chiến lược phát triển ngành Điện lực giai đoạn 2001 - 2010".
Bố cục của luận văn bao gồm:
Phần I: Sự cần thiết khách quan của chiến lược phát triển ngành Điện lực
Phần II: Thực trạng phát triển ngành điện lực Việt Nam giai đoạn 1991 - 2000 và chiến lược phát triển giai đoạn 2001 - 2010
Phần III: Một số giải pháp thực hiện chiến lược phát triển ngành điện giai đoạn từ nay đến 2010
Do thời gian hạn hẹp cộng với kinh nghiệm thực tế còn ít nên bài viết không tránh khỏi những sai sót nhất định. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô cùng cán bộ hướng dẫn và các bạn.
Phần I: Sự cần thiết khách quan của
chiến lược phát triển ngành điện lực
I- Đặc điểm và vai trò của ngành điện lực.
1. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành điện.
Khác với nhiều loại hàng hoá của các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân ngành điện có những đặc thù riêng của nó.
- Sản phẩm của ngành điện là điện năng (đơn vị: kwh) sản phẩm này được sản xuất và phân phối bằng các hình thức đặc biệt. Khác với các loại hàng hoá khác, trong quá trình sản xuất (phát điện), lưu thông, phân phối, truyền tải, cung ứng, tiêu thụ (quá trình chuyển hoá năng lượng điện thành dạng năng lượng khác) được diễn ra đồng thời trong cùng thời gian. Chính vì lẽ đó điện năng không thể tồn kho, tích trữ, cũng không có bán thành phẩm, phế phẩm. Điện năng sản xuất theo nhu cầu, sản xuất bao nhiêu, tiêu thụ bấy nhiêu. Tính đồng thời của quá trình sản xuất, phân phối tiêu thụ điện đòi hỏi các khâu sản xuất phải được tiến hành chặt chẽ, đồng bộ có sự phối hợp ăn khớp chặt chẽ trong toàn bộ quá trình từ sản xuất đến tiêu dùng. Ngành điện là ngành đòi hỏi kỹ thuật cao. Để điều hành quá trình sản xuất phân phối đòi hỏi phải có một hệ thống quản lý tập trung. Để sản xuất kinh doanh có hiệu quả, các nhà quản lý kinh doanh điện phải có quá trình dự báo phụ tải để có được phương thức tối ưu nhất trong việc huy động nguồn thuỷ điện, nhiệt điện (nhiệt điện than, dầu khí đốt) nhằm khai thác tối đa có hiệu quả các nguồn năng lượng sơ cấp sẵn có trong thiên nhiên, đặc biệt là thuỷ điện.
Điện là ngành sản xuất tập trung nhưng tiêu dùng phân tán đòi hỏi mạng lưới điện trải theo chiều dài đất nước và đi vào các cụm dân cư, điều này đồng nghĩa với việc hao tổn điện năng trên đường tải và khó khăn trong công tác quản lý và tiêu dùng điện.
Điện là loại sản phẩm có thể sản xuất bằng nhiều công nghệ khác nhau như công nghệ về nhiệt điện, công nghệ về thuỷ điện về hạt nhân nhưng chất lượng điện là đồng nhất.
- Trong tổng sản lượng điện năng phát ra của Việt Nam thì điện năng từ thuỷ điện chiếm một tỷ trọng lớn trong toàn bộ ngành (chiếm 54,1% tổng sản lượng), nhưng thuỷ điện lại phụ thuộc rất nhiều vào vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên. Đó là nơi phải có sự chênh lệch về địa hình tạo ra lưu thông dòng chảy lớn như thuỷ điện Hoà Bình (Sông Đà), thuỷ điện Trị An, thuỷ điện Sơn La).
- Điện là ngành thuộc nhóm ngành công nghiệp nặng. Do vậy cũng như các ngành công nghiệp nặng khác ngành điện đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn. Ngoài các chi phí đầu tư để xây dựng các công trình phát điện ra, còn bao gồm chi phí đầu tư để xây dựng hệ thống truyền tải (máy biến áp + cột + hệ thống dây dẫn), chi phí về công tơ điện, chi phí về nhân sự v.v… Dự tính nhà máy thuỷ điện Sơn La chi phí đầu tư lên tới 4-5 tỷ USD.
2. Vai trò của ngành điện lực.
Trong thời đại ngày nay, khi xã hội loài người bước sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của khoa học và công nghệ hiện đại thì nhu cầu về năng lượng nói chung và năng lượng điện nói riêng ngày càng cao, kinh nghiệm các nước trên thế giới và trong khu vực cho thấy: ở bất kỳ quốc gia nào trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế, giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì tốc độ phát triển của ngành năng lượng nói chung và của ngành điện nói riêng, bao giờ cũng có mức tăng trưởng nhanh hơn so với các ngành khác. Vì vậy đòi hỏi ngành điện lực phải luôn đi trước một bước, làm động lực thúc đầy nền kinh tế - xã hội phát triển một cách mạnh mẽ và toàn diện. Đúng như văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 đã khẳng định:
"Kinh nghiệm thực tế nhiều năm cho thấy, trong bước đầu công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, vai trò của điện năng cực kỳ quan trọng. Nó quyết định nhịp độ phát triển của toàn bộ nền kinh tế và nâng cao đời sống xã hội".
Mục đích cuối cùng của các chính sách quốc gia suy cho cùng thường nhằm vào phát triển con người. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân làm cho chất lượng cuộc sống của người dân được cải thiện một cách nhanh chóng. Những lợi ích cơ bản mà điện mang lại đối với đời sống con người có thể khái quát như sau:
a. Điện đối với đời sống xã hội.
Để đánh giá chất lượng cuộc sống thì cần phải căn cứ vào 3 yếu tố: tuổi thọ bình quân; mức độ biết chữ và thu nhập bình quân đầu người (theo qui đổi ngoại tệ hoặc sức mua tương đương). Điện là nguồn nhân lực góp phần nâng cao đời sống con người, nâng cao dân trí và trình độ văn hoá giáo dục.
Điện góp phần làm tăng phúc lợi của con người thông qua hệ thống chiếu sáng về ban đêm. Điều này giúp cho con người có thể tiến hành các công việc sản xuất, học tập, vui chơi giải trí về ban đêm… tác động tích cực tới nền kinh tế đóng góp phần kích cầu đối với nền kinh tế, ngành công nghiệp giải trí gia tăng sản lượng trong các ngành kinh tế. Hệ thống chiếu sáng đô thị và các đường quốc lộ tác động không nhỏ tới hoạt động của ngành giao thông vận tải, không ngừng làm tăng dung lượng lưu chuyển hàng hoá của các thành phần kinh tế. Ngoài ra hệ thống chiếu sáng vào ban đêm còn tạo ra một cảnh quan môi trường trong sáng lành mạnh tác động gián tiếp tới lĩnh vực an ninh quốc phòng trong việc giữ gìn trật tự an ninh xã hội.
Không chỉ mang lại phúc lợi cho con người thông qua chiếu sáng. Điện còn góp phần làm thay đổi nếp sống và các phương tiện sử dụng trong gia đình. Việc sử dụng điện thay thế than trong nấu ăn là một phần đáng kể. Điều này mang lại lợi ích cho con người trong hai lĩnh vực: lĩnh vực kinh tế (giảm bớt thời gian, nhanh hơn, tiện hơn; và có tác dụng đối với bảo vệ môi trường sinh thái của con người. Thực tế là khi điện ra đời và phát triển thì các dụng cụ lao động dần dần được chuyển sang dùng điện, các dịch vụ gia đình được cung ứng tiện lợi hơn như quạt điện, bàn là, máy điều hoà nhiệt độ… không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống, cải thiện đời sống của con người.
Ngoài những lợi ích mà điện mang lại cho con người về mặt vật chất thì điện còn mang lại văn minh đối với đời sống con người, nâng cao dân trí, nâng cao đời sống xã hội thông qua phát thanh truyền hình. Qua đó vốn sống kinh nghiệm, khoa học kỹ thuật không được trau dồi giúp con người nắm bắt nhanh những kiến thức khoa học hiện đại, vận dụng vào sản xuất và đời sống. Đây là tiêu chuẩn, tiêu chí để đánh giá trình độ phát triển của một nước.
b. Điện đối với phát triển kinh tế.
* Điện đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Đặc điểm chung của ngành nông nghiệp là sản xuất theo thời vụ và gián đoạn do vậy việc sử dụng điện trong sản xuất nông nghiệp cũng mang tính chất thời vụ nên sẽ là rất tốt nếu ngành nông nghiệp cũng đầu tư chung với các ngành khác của xã hội để phát triển điện. Vì ngành nông nghiệp thường là trọng tâm của các chương trình phát triển nông thôn, trước hết là phân phối lương thực rồi đến tạo công ăn việc làm, ngành nông nghiệp thường được ưu tiên trong các kế hoạch mở rộng mạng lưới điện đến các vùng nông thôn.
Mảng quan trọng mà điện phục vụ cho sản xuất nông nghiệp là mục đích cấp nước và tưới tiêu. Một khi hệ thống thuỷ lợi vận hành tốt sẽ mang lại lợi ích về kinh tế rất lớn. Giúp cho mở rộng diện tích canh tác nông nghiệp trên nhiều ruộng đất khác nhau mà vẫn đảm bảo có đủ nước tưới. Việc sử dụng điện thay thế dầu Dizen là các phương pháp cấp nước thủ công sẽ bảo đảm cung cấp nước tưới tiêu một cách kịp thời và ổn định góp phần làm tăng năng suất cây trồng và giải pháp bớt sức lao động của người nông dân. Đặc biệt là cây lúa thể hiện tính thời vụ một cách rõ nét vì vậy việc cung cấp nước phải kịp thời cho kịp thời vụ và cho cả một diện tích rộng đặc biệt là trong mùa khô. Vì vậy sự trợ giúp của điện trong việc tưới tiêu là rất quan trọng.
Ngoài công cụ bơm nước tưới tiêu, điện còn giúp cho các hộ nông dân giảm bởi thời gian lao động, thay thế lao động thủ công bằng việc áp dụng hàng loạt các loại máy móc cơ khí vừa và nhỏ vào thu hoạch mùa màng và chế biến sản phẩm. Điều này giúp cho việc tiến hành các hoạt động sản xuất nông nghiệp diễn ra kịp thời vụ và góp phần nâng cao năng suất cây trồng. Trước khi chưa có các loại máy móc các nông sản chủ yếu được bán hoặc xuất khẩu thô chưa qua chế biến với giá trị thấp. Ngày nay công tác chế biến và bảo quản giúp cho giá trị kinh tế của nông sản và các sản phẩm nông nghiệp tăng cao. Vì vậy góp phần nâng cao thu nhập của toàn xã hội.
Ngoài ra điện còn tạo điều kiện phát triển các làng nghề truyền thống nhờ đưa máy móc sử dụng điện vào làm tăng năng suất lao động: mộc điêu khắc trên đá… như máy xẻ, cưa, cắt, khoan… góp phần xoá đói giám nghèo ở nông thôn.
+ Điện đối với quá trình công nghiệp hoá nông thôn:
Trước hết, đối với khu vực nông thôn, điện góp phần xoá đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí, nâng cao trình độ văn hoá giáo dục cho người dân nông thôn, giúp cho con người xã hội ngày càng phát triển. Điện giúp cho người dân nông thôn giảm bớt lao động thủ công, có điều kiện áp dụng máy móc vào sản xuất, góp phần làm tăng lợi ích kinh tế đối với nông sản, tăng năng suất cây trồng, tăng thâm canh gối vụ làm cho hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp ngày càng cao, đây là nhân tố tạo động lực cho sự phát triển kinh tế ở mỗi địa phương.
Thứ hai, điện khí hoá nông thôn giúp cho mỗi địa phương, mỗi tỉnh khai thác tối đa tiềm năng vốn có của mình, giúp đa dạng hoá ngành nghề, mở rộng sản xuất, sản xuất gia tăng xuất khẩu nâng cao đời sống nhân dân. Điện phát triển gắn liền với việc hình thành các vùng kinh tế trọng điểm, có tác động qua lại thúc đẩy sự phát triển các vùng lạc hậu. Đối với mỗi địa phương, điện tạo đà phát triển cho tất cả các ngành nghề truyền thống, các loại hình sản xuất dịch vụ đơn lẻ, tạo ra sự kết nối tương trợ nhau trong các loại hình sản xuất trong vùng, giúp vùng phát triển một cách đồng bộ.
Thứ ba, ngày nay giữa khu vực nông thôn và thành thị luôn tồn tại một dòng di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị với kỳ vọng của người nông dân về cuộc sống hiện đại, có thu nhập cao ở thành thị. Nếu những điều kiện trên được áp dụng ngay tại các làng quê thì sẽ góp phần thúc đẩy phát triển các khu vực nông thôn, giảm bớt chênh lệch giữa nông thôn và thành thị điều này đồng nghĩa với việc mang lại lợi ích kinh tế xã hội cho khu vực thành thị, thông qua việc làm giảm sức ép về nhà ở, y tế, giáo dục ở các đô thị góp phần ngăn ngừa các tệ nạn xã hội.
+ Điện góp phần tạo điều kiện phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng nông thôn: Điện, đường, trường, trạm là những hạ tầng cơ sở quan trọng đối với phát triển nông thôn. Vì vậy để phát triển khu vực nông thôn nước ta thì việc phát triển điện nông thôn là hết sức cần thiết trong việc phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng. Nếu như ta xây dựng được đường, trường, trạm thì các thiết bị sử dụng trong đó nếu như không có điện thì sẽ không phát huy được hiệu quả.
* Vai trò của điện với phát triển công nghiệp.
Công nghiệp là ngành sản xuất vật chất chủ đạo của nền kinh tế là xương sống của nền kinh tế. Việc phát triển công nghiệp là tiêu chí quan trọng đánh giá mức độ phát triển của một đất nước. Công nghiệp cung cấp máy móc thiết bị, nguyên vật liệu công cụ sản xuất cho tất cả các ngành kinh tế. Ngược lại công nghiệp là nơi tiêu thụ sản phẩm, thúc đẩy sản xuất của các ngành khác. Trước đây ngành công nghiệp ra đời và phát triển bắt đầu bằng máy hơi nước, động cơ Dizen và khi điện ra đời dần thay thế các nguồn năng lượng trong công nghiệp góp phần phát triển ngành công nghiệp. Vì vậy vai trò của điện đối với công nghiệp là vô cùng quan trọng. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và đầu tư năm 1990 điện dùng cho sản xuất công nghiệp chiếm 46% tổng điện năng thương phẩm sản xuất ra (2848,6 triệu kwh) và đến năm 2000 là 8145 triệu kwh (37%). Như vậy, mặc dù con số tương đối về tỷ lệ sử dụng điện cho công nghiệp có giảm đi nhưng mức sản lượng điện về mặt tuyệt đối sử dụng cho công nghiệp tăng rất nhanh. Điện sử dụng cho công nghiệp là rất lớn chiếm gần một nửa sản lượng điện năng thương phẩm sản xuất ra, điều đó cho thấy điện có vai trò rất to lớn đối với hoạt động sản xuất công nghiệp, nó là nguồn năng lượng chính không thể thay thế trong ngành công nghiệp điện giúp cho sản xuất được cải tiến, năng suất lao động không ngừng gia tăng. Điện cho phép áp dụng nhiều máy móc với kỹ thuật hiện đại vào sản xuất.
Có thể khẳng định rằng không một ngành công nghiệp, một hoạt động sản xuất công nghiệp nào là không phải sử dụng điện. Do vậy, điện có tầm quan trọng hàng đầu quyết định tới kết quả hoạt động của ngành công nghiệp.
* Vai trò của điện với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đứng trước những thời cơ, thuận lợi và những nguy cơ thử thách mới, hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ VII của Đảng đã xác định "Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá" và coi "đây là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu thời gian tới" Hội nghị cũng đã xác định "Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới, giữ vững được ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ độc lập chủ quyền và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa".
Cơ cấu kinh tế có thể hiểu là tổng thể các bộ phận hợp thành của nền kinh tế cùng các mối quan hệ chủ yếu về định tính và định lượng, ổn định và phát triển giữa các bộ phận ấy với nhau hay của toàn bộ hệ thống trong điều kiện của một nền sản xuất xã hội trong hoàn cảnh kinh tế xã hội nhất định và trong khoảng thời gian nhất định. Cơ cấu kinh tế không chỉ thể hiện ở quan hệ tỷ lệ mà quan trọng hơn là mối quan hệ tác động qua lại về nội dung bên trong của hệ thống kinh tế.
Cơ cấu kinh tế bao gồm: cơ cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ, cơ cấu thành phần kinh tế v.v..
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình phát triển các bộ phận của nền kinh tế dẫn đến sự tăng trưởng khác nhau giưã các bộ phận đó và làm thay đổi mối quan hệ tương quan giữa chúng so với thời điểm trước đó.
- Nhìn lại 15 năm đổi mới ta thấy cơ cấu kinh tế đã có một bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp tăng khá về giá trị tuyệt đối song tỷ trọng giảm từ 38,7% (năm 1990) xuống còn 25% (năm 2000) tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng từ 22,7% lên khoảng 34,5%; dịch vụ từ 38,6% lên 40,5% trong GDP. Để làm được như vậy đóng góp của ngành điện không nhỏ. Nhờ có điện trong ngành nông nghiệp có thể đưa máy móc vào thực hiện một số khâu: tưới tiêu, sấy, đông lạnh… giúp cho bảo quản tốt nông sản, nâng cao chất lượng và giá trị nông sản làm cho giá trị ngành nông nghiệp tăng liên tục ngoài ra còn giải phóng bớt một phần lao động nông nghiệp sang hoạt động các ngành khác. Đối với công nghiệp, điện có vai trò vô cùng quan trọng, tất cả các nhà máy, xí nghiệp đều sử dụng điện, và điện còn giúp cho đưa được máy móc, công nghệ hiện đại vào sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng khối lượng và giá trị ngành công nghiệp và tốc độ tăng công nghiệp thời gian qua là 12,9%.
- Xét về mặt cơ cấu lãnh thổ có sự tồn tại chênh lệch giữa các vùng phát triển và khó khăn. Vì vậy cần phải có chính sách hợp lý để các vùng phát triển có điều kiện bức lên để theo kịp xu thế hội nhập; các vùng khó khăn làm thế nào phải bớt khó khăn hơn có nhiều điều kiện hơn để khai thác tiềm năng của vùng. Để làm được điều đó có một phần đóng góp không nhỏ của ngành điện vì điện là một trong yếu tố của kết cấu hạ tầng dù ở đâu muốn phát triển phải có hệ thống kết cấu hạ tầng tốt. ở các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị lớn điện có vai trò đáp ứng đủ nhu cầu để phát triển kinh tế, phát triển công nghiệp, tạo ra một sức bật lớn đối với cả nước và tạo ra sức lan toả đối với các khu vực xunh quanh tạo điều kiện khai thác các nguồn nội lực và vốn từ bên ngoài. Đối với các vùng nghèo khó khăn, Nhà nước ta có chương trình 135 đưa điện về tới các vùng sâu vùng xa hải đảo, miền núi để nâng cao đời sống nhân dân nâng cao trình độ văn hoá xã hội, hiểu biết thông qua các phương tiện thông tin đại chúng dùng điện: ti vi, đài, loa phát thanh. Như vậy điện có vai trò quan trọng đối với chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế để giảm bớt chênh lệch khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị - nông thôn; giữa miền xuôi - miền ngược.
II- Sự cần thiết của chiến lược phát triển ngành điện lực
1. Chiến lược và phân loại chiến lược theo phạm vi.
1.1. Chiến lược.
Thuật ngữ "chiến lược" có nguồn gốc từ rất lâu, trước đây thuật ngữ này được sử dụng đầu tiên trong lĩnh vực quân sự. Ngày nay thuật ngữ này đã được sử dụng trong hầu hết các lĩnh vực chính trị kinh tế, và văn hoá xã hội. Đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế ở cả phạm vi vĩ mô và vi mô. ở phạm vi vĩ mô chúng ta có các thuật ngữ: "chiến lược phát triển kinh tế xã hội"; "chiến lược phát triển ngành"; "chiến lược hướng nội (hướng ngoại). ở phạm vi vi mô, thuật ngữ chiến lược cũng được kết hợp với các khái niệm, phạm trù quản lý doanh nghiệp hình thành các thuật ngữ "chiến lược marketing", "chiến lược sản xuất", "chiến lược kinh doanh", v.v.
Sự xuất hiện các khái niệm trong lĩnh vực kinh tế không chỉ là sự vay mượn khái niệm mà bắt nguồn từ sự cần thiết phải ánh thực tiễn khách quan của quản lý kinh tế trong cơ chế thị trường.
"Chiến lược" thường được hiểu là hướng và cách giải quyết nhiệm vụ đặt ra mang tính toàn cục, tổng thể và trong thời gian dài, đi cùng với khái niệm chiến lược là chiến thuật, được hiểu là hướng và cách giải quyết nhiệm vụ mang tính từng mặt, từng thời điểm, từng khu vực nhằm thực hiện chiến lược đã đề ra. Có nhiều định nghĩa về chiến lược, song có thể nhận thấy có ba đặc trưng của chiến lược là: cho một tầm nhìn dài hạn nói chung từ 10 năm trở lên, chứ không phải những mục tiêu, giải pháp cụ thể, ngắn hạn; làm cơ sở cho những hoạch định (bao gồm cả kế hoạch) phát triển toàn diện, cụ thể trong tầm trung hạn và ngắn hạn; mang tính khách quan, có căn cứ khoa học, chứ không chỉ dựa vào mong muốn chủ quan của những người trong cuộc.
1.2. Phân loại chiến lược theo phạm vi.
1.2.1. Chiến lược kinh doanh.
Do có các cách tiếp cận khác nhau về chiến lược mà các quan niệm về chiến lược được đưa ra cũng khác nhau, cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm chung, thống nhất về phạm trù này. Có thể nêu một số quan niệm sau:
- M.porter cho rằng "chiến lược là nghệ thuật tạo lập các lợi thế cạnh tranh".
- Raymond Alain Thietart trong cuốn "Chiến lược của công ty" cho rằng "chiến lược là nghệ thuật mà doanh nghiệp dùng để chống lại cạnh tranh và giành thắng lợi".
- "Chiến lược là nhằm phác hoạ những quỹ đạo tiến triển đủ vững chắc và lâu dài, xung quanh quỹ đạo đó có thể sắp đặt những quyết định và những hành động chính xác của doanh nghiệp". Đó là quan niệm của Alain Charles. Martinet, tác giả cuốn sách "chiến lược", người đã được nhận giải thưởng của Harvard L'expansion năm 1983.
- Nhóm tác giả Garry D.Smith Dannyr. Arnold, BopbyG.Biznell trong cuốn "Chiến lược và sách lược kinh doanh" cho rằng: "chiến lược được định ra như là kế hoạch sơ đồ tác nghiệp tổng quát dẫn dắt hoặc hướng tổ chức đi đến mục tiêu mong muốn. Kế hoạch tác nghiệp tổng quát này tạo cơ sở cho các chính sách (định hướng cho việc thông qua quyết định) và các thủ pháp tác nghiệp".
- Quan niệm của Alfred Chandler (Trường Đại học Harvard) cho rằng: chiến lược kinh doanh bao hàm việc định các mục tiêu cơ bản dài hạn của đơn vị kinh doanh đồng thời lựa chọn cách thức hoặc tiến trình hành động và phân bổ các nguồn lực thiết yếu để thực hiện các mục tiêu đó".
Nhìn chung các quan niệm trên về thuật ngữ "chiến lược" đều bao hàm và phản ánh các vấn đề sau:
+ Mục tiêu của chiến lược.
+ Thời gian thực hiện.
+ Quá trình ra quyết định chiến lược.
+ Nhân tố môi trường cạnh tranh.
+ Lợi thế và yếu điểm nói chung và theo từng hoạt động nói riêng của doanh nghiệp.
Như vậy, ta thấy chiến lược của doanh nghiệp là một "sản phẩm" kết hợp được những gì môi trường có, những gì doanh nghiệp có thể và những gì doanh nghiệp mong muốn.
Tóm lại, trong hoạt động của doanh nghiệp, chiến lược là "một nghệ thuật thiết kế, tổ chức các phương tiện nhằm đạt tới các mục tiêu dài hạn và có mối quan hệ với mọt môi trường biến đổi và cạnh tranh".
1.2.2. Khái niệm về chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội là hệ thống các phân tích, đánh giá và lựa chọn về quan điểm, mục tiêu tổng quát định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội và các giải pháp cơ bản trong đó bao gồm các chính sách về cơ cấu, cơ chế vận hành hệ thống kinh tế xã hội nhằm thực hiện mục tiêu đặt ra trong một khoảng thời gian dài.
Như vậy mục tiêu xây dựng các chiến lược phát triển là đạt tới mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và tìm ra hướng đi tối ưu cho quá trình phát triển, xây dựng và quản lý bằng chiến lược là một yêu cầu bức thiết đặt ra và có ý nghĩa quan trọng đối với mọi quốc gia trong nền kinh tế thị trường. Điều này xuất phát từ:
- Xây dựng và quản lý bằng chiến lược phát triển sẽ giúp các nhà lãnh đạo phải xem xét và xác định đất nước sẽ đi theo hướng nào và khi nào thì đạt tới một điểm cụ thể nhất định.
- Trong điều kiện nền kinh tế thị trường mở, môi trường mà các quốc gia gặp phải luôn biến động nhanh chóng, những biến đổi này thường tạo ra các cơ hội và nguy cơ bất ngờ. Phương thức quản lý bằng chiến lược sẽ giúp các nhà quản lý nhằm vào các cơ hội trong tương lai, tận dụng các cơ hội đó và giảm bớt các nguy cơ liên quan đến điều kiện môi trường.
- Có xây dựng và quản lý bằng chiến lược phát triển, các nhà lãnh đạo và quản lý mới đưa ra được các quyết định tác nghiệp phù hợp.
Như vậy, chức năng chủ yếu của chiến lược là định hướng, vạch ra các đường nét chủ yếu cho sự phát triển của đất nước trong thời gian dài vì vậy chiến lược mang tính chất định tính là chủ yếu (như các quan điểm, phương hướng, chính sách,…). Tuy vậy, chiến lược cũng phải có tính định lượng ở một mức độ cần thiết. Để định hướng, chiến lược cần phải làm tốt cả mặt định tính cũng như định lượng, tức là có cả các tính toán, các dự báo, các luận chứng cụ thể.
Về mặt thời gian của chiến lược, các nước lựa chọn trong khoảng thời gian từ 10 đến 20 và 25 năm. Thông thường là xây dựng chiến lược cho 10 năm, nhưng cũng cần phải có các chiến lược "dài hơi" hơn để thuận lợi cho việc bố trí chiến lược 10 năm. Các chiến lược 20, 25 năm còn gọi là "tầm nhìn". "Tầm nhìn" có nội dung tổng quát hơn, mềm hơn, định tính hơn so với chiến lược. Điều quan trọng là phải thống nhất tầm nhìn với chiến lược sao cho những bước đi trước "thuận" và tạo tiền đề cho bước đi sau, đồng thời có khả năng để điều chỉnh.
Về mặt nội dung bao gồm: nhận dạng thực trạng nền kinh tế, quan điểm phát triển, mục tiêu phát triển, hệ thống các chính sách và giải pháp.
1.2.3. Khái niệm về chiến lược phát triển ngành.
Khi nghiên cứu sự phát triển của đất nước, người ta thường coi nền kinh tế quốc dân là một tổng thể gồm nhiều ngành khác nhau và mỗi ngành là một bộ phận của tổng thể đó. Theo logic đó thì chiến lược phát triển ngành sẽ là một bộ phận cấu thành quan trọng trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nó cũng mang những đặc điểm cơ bản như chiến lược phát triển kinh tế xã hội nhưng ở phạm vi hẹp hơn. Nó cũng cho tầm nhìn dài hạn 10-15 năm hoặc lâu hơn nữa về triển vọng phát triển ngành; làm cơ sở cho hoạch định chính sách phát triển, quy hoạch kế hoạch phát triển ngành ở trung hạn, ngắn hạn, mang tính khách quan và có căn cứ khoa học.
Chiến lược phát triển ngành được xem là sự hoạch định đường hướng của Nhà nước trong việc tạo ra thể chế của ngành trong nội bộ nền kinh tế cũng như với thị trường thế giới.
2. Yêu cầu của một bản chiến lược phát triển ngành.
Chiến lược rất đa dạng với nhiều loại hình khác nhau, nên khi xây dựng chiến lược phải tuỳ theo bối cảnh và đặc điểm kinh tế - xã hội của mỗi thời kỳ mà lựa chọn cho phù hợp. Chính vì vậy yêu cầu đối với chiến lược, trước hết cần không đi theo "lối mòn" trong tư duy và sự hoạch định. Để chiến lược thực sự mới, sáng tạo, đột phá, thiết thực thì từ hoạch định chiến lược đến hành động không còn tách rời phân cách, cần căn cứ vào xuất phát từ những yếu tố chủ yếu sau đây:
- Từ thực tiễn của cuộc sống và phát triển đất nước, tìm ra những vấn đề đang nổi cộm và gay gắt, đồng thời cũng chứa đựng những điều kiện và kinh nghiệm cho phép giải quyết những vấn đề đó.
- Từ xu thế của thời đại, từ đó thấy được thành tựu khoa học kỹ thuật của nhân loại, những xu thế tiến hoá và phát triển; những thách thức và cơ hội, v.v… Tất cả đều tác động vào sự phát triển của tổng thể nền kinh tế nói chung và cũng như các ngành trong nền kinh tế nói riêng, từ đó cần phải học hỏi để có kinh nghiệm, giải pháp trong chiến lược.
Chiến lược phát triển ngành phải quan tâm đến quá trình ra quyết định về quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và đối tượng mà yếu tố cơ bản của nó là phân tích đánh giá về các mặt: thuận lợi, khó khăn, cơ hội, thách thức. Từ đó xác định được xuất phát điểm của ngành nghiên cứu cái mà có thể sẽ quyết định đến những khả năng phát triển trong tương lai của ngành.
Cần phải có tính nhất quán trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói chung cũng như trong chiến lược phát triển ngành nói riêng. Nghĩa là các chính sách phát triển ngành phải thống nhất trong tổng thể các chính sách kinh tế, chính sách xã hội thể hiện vai trò tác động của chính phủ nhằm đạt được những mục tiêu chung về phát triển kinh tế xã hội.
Chiến lược phát triển ngành (điện lực) không chỉ quan tâm những gì đang diễn ra trong ngành mà còn quan tâm rộng rãi tới các ngành khác trong tổng thể nền kinh tế quốc dân.
3. Nội dung của chiến lược
Xuất phát từ những yêu cầu nêu trên, một bản chiến lược phát triển đòi hỏi phải trả lời được các câu hỏi sau:
- Chúng ta đang ở đâu?
- Cần phải làm gì?
- Cần phải làm như thế nào?
- Cần phải làm bằng cách nào?
Do vậy nội dung của chiến lược phải bao gồm các bộ phận sau: các quan điểm cơ bản, các mục tiêu phát triển và hệ thống các giải pháp - chính sách lớn nhằm thực hiện mục tiêu đó.
3.1. Đánh giá thực trạng.
Quá trình đánh giá thực trạng, phải được đánh giá toàn diện trong một khoảng thời gian dài tương đương với thời gian của chiến lược sẽ xây dựng. Nó là cơ sở để rút ra các kết luận đúng đắn cho câu hỏi chúng ta đang ở đâu?
3.2. Các quan điểm cơ bản.
Quan điểm cơ bản của chiến lược là những tư tưởng chỉ đạo và chủ đạo thể hiện tính định hướng của chiến lược, quan điểm thể hiện trung thành ý tưởng của người hoạch định đường lối phát triển. Nó quyết định con đường đi và phương hướng của các giải pháp lớn. Việc xác định quan điểm cơ bản có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm ra các bước ngoặt của con đường phát triển, tạo ra động lực cơ bản xuyên suốt quá trình phát triển.
3.3. Các mục tiêu phát triển.
Mục tiêu là mức phấn đấu cần phải đạt được thông qua một thời kỳ nhất định. Mục tiêu bao gồm cả phần định tính và phần định lượng phản ánh một cách toàn diện những biến đổi quan trọng trong vấn đề nghiên cứu:
- Về mặt định tính, mục tiêu được miêu tả bằng lời văn. Chẳng hạn mô tả bước tiến mới của đất nước trên những phương diện như: trình độ hiện đại hoá của nền kinh tế, trình độ phát triển kinh tế xã hội khi kết thúc một thời kỳ chiến lược…
- Về mặt định lượng, mục tiêu định lượng hướng vào một số chỉ tiêu quan trọng và chủ yếu nhất. Chẳng hạn như: mức tăng bình quân GDP trong thời kỳ: sản phẩm chủ yếu; cơ cấu thành phần, vùng lãnh thổ; tỷ lệ lao động làm việc trong các thành phần….
3.4. Hệ thống các giải pháp và chính sách.
Hệ thống các giải pháp - chính sách là hướng dẫn cụ thể về cách thức thực hiện nhằm đảm bảo hoàn thành các mục tiêu đề ra: các giải pháp là thể hiện tính đột phá của chiến lược, nhằm vào các khâu yếu, khó khăn phức tạp.
Chính sách và giải pháp bao gồm nhiều loại như:
- Đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý
- Các chính sách và giải pháp về vốn
- Các chính sách về lao động, việc làm
- Chính sách về khoa học công nghệ
- Chính sách về bộ máy tổ chức cán bộ.
4. Sự cần thiết của chiến lược phát triển ngành điện.
Như đã phân tích ở trên chiến lược phát triển ngành điện có vị trí rất quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá, xuất phát từ vai trò của ngành điện đối với nền kinh tế.
Về lý luận cũng như thực tiễn cần khẳng định rằng việc xây dựng chiến lược phát triển ngành điện là hết sức cần thiết bởi các lý do sau:
+ Chiến lược mang tính lâu dài, nó đưa ra mục tiêu tổng quát, to lớn cho sự phát triển ngành điện ví như những vấn đề đó không thể thực hiện trong thời gian ngắn mà phải lâu dài đáp ứng 100% số xã có điện, đưa mức tiêu thụ điện lên 800 - 900 kwh/người năm, đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng của nhân dân, đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá. Để làm được như vậy ngành điện cần phải có chiến lược cho một thời kỳ dài, như thế mới đủ thời gian huy động nguồn lực: vốn, lao động, công nghệ,… cần thiết phục vụ cho sự phát triển ngành.
+ Do xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới, sự phát triển tiến bộ khoa học không ngừng nó tác động ngày càng sâu sắc tới nền kinh tế của hầu hết các quốc gia. Việt Nam, có vị trí quan trọng trong khu vực ASEAN (khu vực kinh tế sôi động) để phù hợp với xu hướng quốc tế Việt Nam phải đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mà ngành điện là ngành tiền đề cho phát triển công nghiệp. Vì vậy ngành điện cần phải có chiến lược dài hạn đưa ra mục tiêu mang tính định hướng cho phù hợp (biến động) xu thế nền kinh tế. Để thực hiện mục tiêu đó phải thông qua các kế hoạch 5 năm và cụ thể bằng các dự án xây dựng các công trình nguồn và lưới điện, kế hoạch huy động vốn.v.v.
+ Các chiến lược ngành phản ánh một cách toàn diện sự phát triển các mục tiêu như: mục tiêu chiến lược về nguồn lưới điện; mục tiêu huy động vốn, mục tiêu tài chính, mục tiêu về đào tạo nhân sự và tăng thu nhập cán bộ công nhân viên của ngành… và các giải pháp về thể chế và chính sách để tạo điều kiện thuận lợi thực hiện các mục tiêu đặt ra.
+ Chiến lược phát triển ngành điện là một bộ phận cấu thành chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Do vậy chiến lược phát triển ngành điện đưa ra phải phục vụ, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
Để đáp ứng nhu cầu sử dụng điện, nếu như ngành điện không có chiến lược dài hạn sẽ dẫn đến tình trạng khai thác lãng phí nguồn lực đặc biệt là nhiệt điện dầu (DO) chi phí rất đắt, hoặc không quản lý tốt việc kinh doanh điện sẽ dẫn đến không thực hiện được lợi ích xã hội từ tiêu thụ điện của các hộ gia đình nghèo… Như vậy cần phải có chiến lược lâu dài không chỉ đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành điện mà còn đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội.
III- Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành điện
1. Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình sản xuất điện
Để sản xuất điện phục vụ phát triển kinh tế đất nước và nhu cầu sử dụng điện của nhân dân thì phải kết hợp với nhiều yếu tố: tài nguyên, nguồn vốn, lao động, công nghệ.
1.1. Nhân tố tài nguyên.
Đối với bất kỳ quốc gia nào, nhân tố tài nguyên là yếu tố tiên quyết để phát triển ngành điện. Như ta đã biết, ngành điện là ngành đặc thù, sản phẩm sản xuất ra là đồng nhất nhưng có thể sử dụng nhiều công nghệ khác nhau là do có thể sử dụng nhiều nguồn tài nguyên khác nhau như thuỷ năng, than, dầu, khí, gió, địa nhiệt, v.v...
Để sản xuất điện như đối với nước ta do các tiềm năng thuỷ điện lớn, mật độ sông dày đặc, các dòng sông có độ dốc cao, lưu lượng nước trong các con sông hàng năm lớn. Do vậy, với tiềm năng thuỷ năng to lớn như vậy là điều kiện để nước ta phát triển nguồn thuỷ điện nên hiện nay thuỷ điện ở nước ta chiếm tỷ trọng trên 50% sản lượng điện phát ra của cả nước. Còn đối với những nước như ở Châu Phi thì tiềm năng thuỷ điện thấp khó có thể phát triển nguồn thuỷ điện thành nguồn điện cung cấp chính, chủ yếu cho sản xuất và tiêu dùng. Chính vì vậy đối với các nguồn năng lượng khác sử dụng để sản xuất điện năng cũng đều phải dựa vào tiềm năng hiện có cho sản xuất điện hiện tại và lâu dài; dựa vào khả năng khai thác và sử dụng chúng để có thể lựa chọn nguồn đầu vào mang tính chiến lược cho phát triển điện.
1.2. Vai trò của nhân tố nguồn vốn.
Nhân tố nguồn vốn có vai trò khá quan trọng trong phát triển điện. Như đã biết, ngành điện là ngành công nghiệp nặng, đòi hỏi số vốn lớn, thời gian thu hồi vốn chậm. Nguồn vốn sử dụng trong ngành điện chủ yếu cho phát triển nguồn và lưới điện, hoạt động sản xuất kinh doanh, tư vấn, cơ khí điện, v.v... trong đó đầu tư cho nguồn và lưới điện chiếm phần lớn. Như vậy, khi có đủ các điều kiện về tiềm năng nguồn năng lượng nào đó phục vụ sản xuất điện, khi đó vốn sẽ quyết định việc có hình thành được một nhà máy sản xuất điện hay không và quyết định quy mô nhà máy sản xuất điện đó liệu có tận dụng được tối đa nguồn năng lượng đó không. Đối với một nước còn nghèo như nước ta, thì nhu cầu sử dụng vốn đầu tư cho tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế là rất lớn, trong khi đó ngân sách Nhà nước hạn hẹp nên việc mong được sử dụng nguồn vốn từ ngân sách là rất khó. Do vậy nguồn vốn đầu tư cho các công trình đòi hỏi ngành điện phải tự cân đối. Để có đủ vốn đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn điện là rất khó khăn nên đối với nước ta nguồn vốn càng có nghĩa quan trọng để phát triển điện.
Xuất phát từ vai trò của ngành điện việc truyền tải điện năng từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ đòi hỏi phải xây dựng hệ thống truyền tải bao gồm trạm truyền tải, lưới điện, cáp điện. v.v. Muốn có lưới điện truyền tải cũng đòi hỏi nguồn vốn đầu tư khá lớn đặc biệt các công trình lưới điện cao áp 500 KV, 200 KV. Hơn thế nữa nước ta có chiều dài hơn 2000Km mà nguồn điện chủ yếu ở miền bắc, thiếu hụt ở miền Trung và miền Nam nên cần có sự truyền tải từ Bắc vào Nam. Do đó càng đòi hỏi nguồn vốn lớn đầu tư cho đường dây 500KV Bắc - Nam
1.3. Vai trò của lao động và công nghệ
Đối với bất kỳ lĩnh vực gì của nền kinh tế đều cần đến lao động để duy trì và phát triển hoạt động. Giống như các lĩnh vực khác, thì ngành điện cũng phải cần đến lao động để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh. Hơn thế nữa, do đặc thù của ngành điện, quá trình sản xuất - truyền tải - tiêu dùng diễn ra cùng một lúc do đó cần phải có lao động trong cả ba khâu để điều hành một cách tập trung. Do vậy ngành điện là ngành đòi hỏi sử dụng tương đối nhiều lao động, đặc biệt trong khâu kinh doanh tiếp xúc với khách hàng. Thêm vào đó ngành điện là ngành đòi hỏi kỹ thuật công nghệ cao, hiện đại. Để duy trì và vận hành bảo dưỡng cần lao động phải cõ kỹ thuật cao để điều hành và xử lý sự cố nguồn và lưới điện. Xuất phát từ vai trò của ngành điện đối với phát triển kinh tế nên khi có sự cố thì tất cả các ngành kinh tế phải dừng lại. Do đó phải có những lao động kỹ thuật cao xử lý những tình huống đó hoặc như đối với các nhà máy nhiệt điện đòi hỏi nhiệt độ trong các lò hơi cao đến vài nghìn 0C. Nên việc chế tạo nồi hơi và chế độ làm lạnh, đáp ứng yêu cầu đặt ra đòi hỏi trình độ khoa học trong công nghệ và trình độ lao động có kỹ thuật cao để đáp ứng nhu cầu
2. Nhân tố ảnh hưởng đến cầu sử dụng điện
Cũng giống như đối với bất kỳ sản phẩm nào sản xuất ra đều để đáp ứng một nhu cầu sản xuất hay tiêu dùng nào đó. Điện để sản xuất ra là để đáp ứng hầu hết các lĩnh vực sản xuất và một phần đáp ứng nhu cầu tiêu dùng điện sinh hoạt phục vụ đời sống cho nhân dân. Nói như vậy có nghĩa là việc sản xuất điện muốn duy trì sự tồn tại và phát triển phải luôn có cầu về sử dụng điện.
- Xuất phát từ sự tiện ích của điện đã dần thay thế các nguồn năng lượng cũ như than, hơi nước… Thực tế là từ khi điện ra đời thì các dụng cụ lao động dần chuyển sang dùng điện. Khi khoa học ngày càng tiến bộ chế tạo ra nhiều công cụ lao động sử dụng điện hơn giải phóng sức lao động. Do đó nhu cầu sử dụng điện ngày càng lớn.
- Xuất phát từ vai trò của điện đối với hoạt động sản xuất. Ngày nay hầu hết các hoạt động sản xuất đều sử dụng điện, điện là nguồn năng lượng không thể thiếu, đặc biệt là lĩnh vực công nghiệp. Cùng với sự tiến bộ khoa học công nghệ thì vai trò của điện càng trở nên quan trọng. Hơn nữa, ngành công nghiệp giữ vai trò chủ đạo trong ngành kinh tế, nên qui mô của ngành công nghiệp ngày càng lớn. Chính phủ các nước đều cố gắng thúc đẩy công nghiệp phát triển ví như Việt Nam. Đặt ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2001 - 2010 là từ 7-7,5% trong đó công nghiệp tăng 8,5-9% mà tỷ trọng điện sử dụng trong công nghiệp khoảng 37% vào năm 2000. Như vậy tốc độ và quy mô của công nghiệp ngày càng lớn thì cầu về tiêu thụ điện là rất lớn và còn kể đến là điện phục vụ sản xuất trong nông nghiệp và dịch vụ đó cũng là cầu rất lớn tiêu thụ điện. Bên cạnh đó là điện trong sinh hoạt, ngày nay hầu hết các thiết bị sinh hoạt trong gia đình, cơ quan công sở đều sử dụng điện: quạt, bếp, điều hoà, tủ lạnh, tivi.. nhằm nâng cao đời sống nhân dân. Khi xã hội ngày càng phát triển nhu cầu nâng cao mức sống con người ngày càng đòi hỏi cao do đó các dịch vụ thiết bị sinh hoạt có nhu cầu càng cao nên nhu cầu sử dụng điện ngày càng lớn.
Tóm lại, xuất phát từ sự tiện ích, vai trò của điện đối với sản xuất, đời sống con người thì cầu về điện ngày càng lớn và điện trở thành nguồn năng lượng không thể thiếu đối với nền kinh tế với những phân tích như vậy cầu về điện ngày càng lớn. Do vậy điện cần phải đi trước một bước để phát triển kinh tế.
Phần II: Thực trạng phát triển ngành điện lực Việt Nam giai đoạn 1991 - 2000 và chiến lược phát triển giai đoạn 2001 - 2010.
I- Đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành điện.
1. Tình hình sản xuất điện.
Hiện nay, sau hơn 10 năm tổng công suất lắp đặt các nhà máy điện của ngành tăng 2,8 lần từ 2659 MW năm 1990 lên 7604 MW năm 2001, trong đó Tổng Công ty điện lực Việt Nam (EVN) 7005 MW chiếm gần 95% tổng công suất lắp đặt của cả nước; trong đó thuỷ điện chiếm khoảng 54,1%, nhiệt điện chiếm khoảng 16,9%, nhiệt điện khi chiếm khoảng 21,2% và Dizen chiếm khoảng 7,8% với công suất như vậy nhưng trong thực tế vào mùa khô các nhà máy thuỷ điện không phát huy được hết công suất gây tình trạng thiếu điện trầm trọng. Ví dụ, mùa khô 1998, để không phải cắt điện, Tổng Công ty điện lực Việt Nam đã phải tiến hành nhiều biện pháp tình thế như huy động 100% công suất của các nguồn điện khác (nhiệt điện, tua bin khí). Vì vậy tính đến tháng 4/1998, sản lượng điện đạt từ các nguồn này rất cao, tua bin khí đạt 1,553 tỷ kwh vượt 222% các nhà máy nhiệt điện đạt 1,104 tỷ kwh tăng 10,75%. Trong khi đó sản lượng thuỷ điện chỉ đạt 2,388 tỷ kwh, hụt 19% so với cùng kỳ năm 1997. Sản lượng điện phát ra năm 1985 là 5.068 triệu kwh đến năm 2000 sản xuất ra là trên 26.000 triệu kwh (tăng gấp 5,1 lần) tốc độ tăng bình quân giai đoạn 1985 - 1996 là 11,4% (nếu tính từ 1993 - 1999 là 15,8%).
1.1. Nguồn điện phát ra từ thuỷ điện.
Năm 1990 cả nước mới chỉ có 4 nhà máy điện lớn: Hoà Bình, Thác Bà, Trị An, Đa Nhim ngoài ra còn có một số nhà máy thuỷ điện nhỏ công suất ước đạt khoảng 15,6 MW. Trong đó công suất của các nhà máy: Hoà Bình: 480 MW; Thác Bà: 120 MW; Trị An: 400 MW.
Bảng 1: Công suất các nhà máy điện đến năm 2001.
STT
Tên nhà máy
Công suất (MW)
Năm 1990
Năm 2001
I
Tổng Công ty điện lực Việt Nam (EVN)
2659,3
7005
Thuỷ điện
1175,6
3975,8
Hoà Bình
480
1920
Thác Bà
120
120
Trị An
400
420
Đa Nhim
160
167
Thác Mơ
150
Vĩnh Sơn
66
Sông Hinh
70
Yaly
540
Hàm Thuận Da My
476
Thuỷ điện nhỏ
15,6
46,33
Nhiệt điện than
711
645
Phả Lại
440
440
Uông Bí
153
105
Ninh Bình
100
100
Thái Nguyên
12
-
Việt Trì
6
-
Nhiệt điện dầu (FO)
233
198
Thủ Đức
165
165
Cần Thơ
33
33
Chợ Quán
35
-
Tua Bin khí
163
1890,6
Thủ Đức
54
128
Cần Thơ
150
Hải Phòng
75
Thái Bình
34
Bà Rịa
327,2
Phú Mỹ 2-1
565.4
Phú Mỹ 1
720
Dizen
376,7
295,81
II
Các nhà máy điện độc lập
599,15
III
Tổng
2659,3
7604,38
Số liệu từ tổng Công ty điện lực Việt Nam (EVN)
Đa Nhim: 167 MW và đến năm 2001 số nhà máy thuỷ diện là 9 nhà máy lớn và các nhà máy thuỷ điện nhỏ với tổng công suất lắp đặt là 3975,8 (MW) như vậy cùng với việc đưa vào hoạt động thêm các nhà máy thì sản lượng điện sản xuất ra từ nguồn thuỷ điện tăng liên tục: tốc độ tăng bình quân giai đoạn 1990 - 2000 là 9,8%. Cũng theo bảng số liệu 2 thì tỷ lệ sản lượng điện sản xuất từ nguồn thuỷ điện chiếm tỷ trọng lớn (trên 50%) trong tổng sản lượng điện được sản xuất ra.
1.2. Nguồn nhiệt điện.
Nguồn nhiệt điện bao gồm nhiệt điện than và nhiệt điện dầu (khí) theo số liệu từ bảng số liệu thì đến năm 1990 cả nước có 5 nhà máy nhiệt điện than: Phả Lại, Uông Bí, Ninh Bình, Thái Nguyên, Việt Trì và 3 nhà máy nhiệt điện khí. Đến năm 2001 chỉ có 3 nhà máy nhiệt điện than và 2 nhà máy nhiệt điện khí. Mặc dù số nhà máy nhiệt điện giảm (chủ yếu đóng cửa các nhà máy có công suất nhỏ) sản lượng từ nhiệt điện vẫn tăng do huy động công suất hoạt động của các nhà máy. Do đó sản lượng điện giai đoạn 1990 - 2000 tăng 11,24% tuy nhiên tỷ lệ sản lượng điện sản xuất ra từ nhiệt điện chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng sản lượng điện chỉ có 19,08% tính đến năm 1999.
1.3. Nguồn điện Dizen.
Nguồn Dizen chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng sản lượng điện phát ra chỉ chiếm 1,16% năm 1999 với tổng sản lượng điện sản xuất ra là 263 triệu kwh và tổng công suất lắp đặt là 195,81 MW.
1.4. Nguồn điện tua bin khí.
Nguồn tua bin khí tính đến năm 1990 mới chỉ có 3 nhà máy: Thủ Đức, Hải Phòng, Thái Bình với tổng công suất lắp đặt là 163 MW nhưng đến năm 2001 cả nước có 5 nhà máy điện tua bin khí với tổng công suất lắp đặt là 1890,6 MW. Do vậy sản lượng điện sản xuất ra tăng trong giai đoạn 1990 - 2001 tăng 76,75% với sản lượng năm 1999 đạt 6227,0 triệu kwh. Theo bảng số liệu ta thấy tỷ lệ điện sản xuất ra từ tua bin khí ngày càng tăng trong tổng số điện năng thương phẩm sản xuất ra. Năm 1990 chỉ chiếm 0,67% đến năm 1990 tỷ lệ này là 27,61% lớn hơn sản lượng của các nhà máy nhiệt điện. Chỉ sau sản lượng của các nhà máy thuỷ điện.
Kết luận, tốc độ tăng bình quân hàng năm của ngành điện giai đoạn 1990 - 1999 là trên 11% trong đó tốc độ gia tăng của các nguồn từ tua bin khí tăng nhanh nhất 76,75% chiếm 27,61% tổng sản lượng điện sản xuất năm 1999. Còn điện phát ra từ các nguồn thuỷ điện và Dizen có chiều hướng giảm dần, tuy nhiên nguồn thuỷ điện vẫn chiếm tỷ trọng lớn trên 50%. Chỉ có nguồn điện từ Dizen giảm mạnh do chi phí sản xuất cao và tác động xấu đến môi trường sinh thái. Trong tương lai, các nguồn năng lượng mới cần được đưa vào sản xuất nhiều hơn, do đó đòi hỏi Nhà nước cần có những biện pháp chính sách đầu tư ưu tiên hơn nữa để phát triển các nguồn năng lượng mới.
2. Thực trạng lưới điện.
Lưới điện có vai trò truyền tải điện từ các nhà máy điện tới các trung tâm phụ tải và tới nơi tiêu dùng, tạo mối liên kết trao đổi điện năng một cách linh hoạt, hiệu quả giữa các miền của đất nước và giữa các nước trong khu vực, lưới điện truyền tải bao gồm: cao thế; trung và hạ thế. Tính đến năm 2000 nước ta có 5 đường dây cao thế 500 kw bao gồm: đường dây Hoà Bình - Hà Tĩnh (một mạch), Hà Tĩnh - Đà Nẵng (1 mạch), Đà Nẵng - Pleiku (1 mạch), Pleiku - Phú Lâm (1 mạch), Yaly - Pleiku (2 mạch) với tổng chiều dài 1532 km đường dây với dung lượng các trạm biến của lưới điện truyền tải 2700 MVA (bao gồm các trạm Hoà Bình, Pleiku, Đà Nẵng, Phú Lâm). Như vậy với tổng chiều dài 1532 km đường dây cao thế 500kw cơ bản gần như trải dọc chiều dài đất nước nối liền lưới điện giữa các miền tuy nhiên để đảm bảo cung cấp điện về tới tất cả các tỉnh, huyện của cả nước cần có các đường dây trung và hạ thế và tính tới năm 2000 cả nước có tổng chiều dài 3257 km đường dây 220 kv với dung lượng của các trạm biến áp truyền tải là 5922 MVA tính riêng 2 năm 2000 - 2001 đưa thêm được 1010 km với dung lượng 2938 MVA. Như vậy với hệ thống điện như trên ta thấy hệ thống điện được hợp nhất toàn quốc với tốc độ tăng gần 3,4 lần về lưới điện và các trạm biến áp so với năm 1990: năm 1990 cả nước có 43 ngàn km đường dây (cao thế + trung và hạ thế) với dung lượng các trạm biến áp truyền tải là 10000 MVA lên 153000 km đường dây với dung lượng 38400 MVA. Vì vậy đến nay 100% số huyện có điện lưới và điện tại chỗ, 85% số xã và 77,4% số hộ nông thôn có điện. Mức độ phủ điện tới vùng sâu vùng xa như vậy đã cao hơn một số nước trong khu vực với hệ thống truyền tải được đầu tư nâng cấp như vậy tổn thất điện năng đã giảm rõ rệt từ 25,68% năm 1990 xuống còn 14% năm 2001.
3. Thực trạng vốn đầu tư và tình hình tài chính của ngành điện.
Nhu cầu về điện phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân ngày càng lớn. Điều đó đặt ra nhiệm vụ vô cùng quan trọng đối với ngành điện đòi hỏi ngành điện phải phát triển xây dựng các công trình điện đáp ứng nhiệm vụ đặt ra. Để làm được như vậy ngành điện cần một lượng vốn đầu tư lớn đầu tư cho xây dựng các công trình nguồn và lưới điện vì ngành điện là ngành công nghiệp nặng đòi hỏi khối lượng vốn đầu tư lớn có thời gian thu hồi chậm.
Thực tế thời gian qua cho thấy cùng với sự phát triển của ngành điện khối lượng vốn đầu tư tăng lên liên tục năm 1990 tổng vốn đầu tư mới chỉ có 409,63 tỷ VNĐ đến năm 2001 là 12.433,6 tỷ VNĐ tăng hơn 3 lần. Trong đó vốn đầu tư cho các công trình nguồn là 3902,3 tỷ các công trình lưới là 40809 VNĐ, các công trình khác là: 4450 tỷ VNĐ (theo bảng 6). Ngoài ra hàng năm ngành còn phải trả nợ vốn vay từ các nguồn là 2850 tỷ VNĐ. Như vậy để cân đối với đầu tư cho xây dựng các công trình thì ngoài nguồn vốn tự tích luỹ ngành còn phải đi vay: vay nước ngoài và vay trong nước. Các nguồn vay nước ngoài là chủ yếu tính đến 31/12/2001 ngành điện phải vay 2568 triệu USD trong đó vốn vay nước ngoài là 2521,9 triệu USD (chiếm trên 90%) với lãi suất ưu đãi và dư nợ vay là 1781 triệu USD. Các nguồn vay trong nước lãi suất cao hơn và chủ yếu là vay thương mại. Đây là bất lợi đối với ngành khi sử dụng vốn vay trong nước. Đối với nguồn vốn vay nước ngoài chủ yếu là vay ưu đãi từ các tổ chức tài chính quốc tế và sự tài trợ của chính phủ các nước trong đó các tổ chức tài chính: ngân hàng JBIC của Nhật là 1408,825 triệu USD, ngân hàng thế giới 695 triệu USD, Ngân hàng phát triển Châu á ADB 130 triệu USD, tổ chức Sida của Thuỵ Điển là 47,878 triệu USD. Ngoài ra chính phủ các nước Pháp, Phần Lan, Tây Ban Nha, Đức .v.v…
II- Thực trạng về các nguồn lực của ngành.
1. Cơ sở vật chất của ngành.
Tính đến năm 2001 cả nước có 14 nhà máy thuỷ điện lớn nhỏ công suất lắp đặt 3975,8MW; 3 nhà máy nhiệt điện than với tổng công suất lắp đặt là 645 MW; nhiệt điện dầu (FO) là 2 nhà máy với tổng công suất là 198 MW; Tua bin khí là 5 nhà máy với tổng công suất lắp đặt 1890,6 MW; Diezel với công suất đặt là 295,81 MW, ngoài ra còn một số nguồn sản xuất điện nhỏ khác là 599,15MW với tổng đầu tư là 12433,6 tỷ đồng và để truyền tải điện thì ngành đã xây dựng được 13206 km đường dây cao thế với tổng vốn đầu tư là 869,9 tỷ đồng; đường dây trung và hạ thế là 140646 km với tổng vốn đầu tư là 3211,0 tỷ đồng cùng với đó là xây dựng được các trạm biến áp phụ tải bao gồm cả cao thế và trung, hạ thế với công suất là 38460 MVA. Như vậy tổng đầu tư giai đoạn 1991 - 2001 ước đạt gần 55000 tỷ đồng với tổng tài sản cố định đến năm 2001 ước tính 48.000 tỷ đồng bao gồm cả tài sản của các cơ sở sản xuất kinh doanh cơ khí điện.
2. Số lượng và chất lượng nguồn lao động.
Thực trạng lao động ngành điện.
Về mặt số lượng.
Bảng 3: Số lượng lao động ngành điện lực
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Tổng
36.798
39.498
40.153
41.190
45.651
49.170
Điện lực tỉnh
29.223
31.859
32.428
33.461
37.793
40.691
Nhà máy điện
7.575
7.639
7.725
7.729
7.858
8.479
Nguồn: Viện chiến lược chính sách công nghiệp
Như vậy đến năm 2000 ngành điện có 54.744 lao động trong đó 40.691 lao động làm việc trong điện lực các tỉnh. Cơ cấu giới trong ngành điện thì lao động nữ chiếm trên 50% tổng lao động của ngành, lao động nữ chủ yếu thực hiện các công việc tại điện lực các tỉnh: ghi chỉ số công tơ, thu tiền điện v.v… So với các nước trong khu vực thì số nhân viên ngành điện phục vụ 1000 dân là trên 40 người còn ở mức cao, chất lượng nguồn lao động: chất lượng lao động ngành điện hiện nay còn thấp gần 80% lao động chưa qua đào tạo. Trên 10% lao động đạt trình độ đại học và trên đại học, năng suất lao động thấp nên số lượng lao động trong ngành điện cao làm cho chi phí tiền lương lớn.
3. Ngành cơ khí điện.
Ngành cơ khí điện hoạt động với mục tiêu cung cấp các thiết bị cho ngành điện: máy biến áp, dây cột điện, công tơ điện, cáp điện, sứ điện…
Ngành cơ khí điện thời gian qua cũng được ngành điện quan tâm phát triển từ chỗ hầu hết các thiết bị điện phải nhập ngoại, đến nay các Công ty cơ khí điện đã sản xuất được máy biến áp 110 KV công suất đến 63 MVA; sản xuất được các vật tư chủ yếu cho các công trình đường dây điện: cột điện, cáp điện, sứ điện... việc phát triển cơ khí điện đã tiết kiệm đáng kể ngoại tệ cho đất nước.
Xuất phát từ vai trò của ngành cơ khí điện cùng với những gì cố gắng trong thời gian qua ngành cơ khí điện đã góp phần cung cấp vật tư cho phát triển nguồn và lưới điện. Hơn nữa để tiếp nhận khoa học kỹ thuật điều hành duy trình hoạt động phát và truyền tải điện năng thì trước hết phải xuất phát từ ngành cơ khí điện nắm bắt công nghệ hiện đại để sản xuất các thiết bị đòi hỏi trình độ cao.
III- Đánh giá về những thành tựu và hạn chế ngành điện thời gian qua.
1. Những thành tựu đã đạt được đối với sự phát triển ngành điện lực.
Từ năm 1991 - 2001, với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước cùng với sự nỗ lực phấn đấu của cán bộ công nhân viên, ngành điện lực Việt Nam đã có chuyển biến tích cực. Mặc dù có nhiều khó khăn, thách thức, nhìn chung ngành điện lực đã được mục tiêu cơ bản được Đảng và Nhà nước ghi nhận. Nổi bật là:
+ Tổng Công ty Điện lực Việt Nam đã từng bước khắc phục được tình trạng thiếu điện trầm trọng, nhất là khu vực miền Trung và miền Nam, trong những năm cuối thấp kỷ 80, từ việc phải cắt điện luân phiên đến nay về cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu điện cho sản xuất và tiêu dùng đời sống nhân dân sau hơn 10 năm, công suất các nhà máy điện tăng 2,8 lần từ 2650 MW năm 1990 lên 7604 MW năm 2001; khối lượng các đường dây và dung lượng trạm biến áp truyền tải và phân phối điện năng hơn 3,4 lần so với năm 1990, trong đó đường dây tăng từ 43 ngàn km lên 153 ngàn km năm 2001, công suất các trạm biến áp tăng từ 10 ngàn MVA năm 1990 lên 38,4 ngàn MVA năm 2001. Từ lưới điện riêng rẻ các miền: Bắc, Trung, Nam; với sự xuất hiện hệ thống 500 KV Bắc - Nam đã hình thành hệ thống điện hợp nhất toàn quốc. Hiệu quả vận hành được nâng cao, tỷ lệ tổn thất điện năng đã giảm từ 25,68% năm 1990 xuống còn 13,99% năm 2001 mỗi năm giảm 1,06%. Theo số liệu năm 1999 tỷ lệ tổn thất điện năng của Việt Nam so với một số nước trong khu vực ta thấy tỷ lệ tổn thất điện năng của ta còn cao so với Nhật là 5,4%, Thái Lan là 9% tuy nhiên so với Lào, Cămpuchia, Philipin thì tỷ lệ tổng thất của các nước này cao hơn (số liệu bảng).
Đến nay, 100% số huyện có điện lưới và điện tại chỗ 85% số xã, 77,4% số hộ nông thôn (khoảng 9,9/12,8 triệu hộ) có điện vượt17,4% so với nghị quyết đại hội Đảng VIII. Mức độ phủ điện lưới các hộ vùng sâu vùng xa đã cao hơn một số nước trong khu vực, như Indonexia mới đạt 55%, Philipin đạt 70%, Srilanca là 56%, Lào và Cămpuchia dưới 20%. Điều đó thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự cố gắng vượt bậc của các địa phương và ngành điện. Hơn nữa, với sự nỗ lực của ngành điện đã đưa giá điện của Việt Nam xuống thấp hơn giá điện trung bình của một số nước trong khu vực năm 1999 giá điện của Việt Nam là 4,72 censt/kwh trong khi đó của Hàn Quốc: 6,27 censt/kwh, của Nhật: 18,2 censt/kwh (số liệu bảng).
+ Tổng Công ty Điện lực Việt Nam đã bảo toàn và phát triển khối lượng lớn vốn đầu tư và tài sản. Trong giai đoạn 1994 - 2001 đã đầu tư gần 55.000 tỷ đồng cho xây dựng nguồn và lưới điện, đạt tốc độ đầu tư hơn 36%/năm ước tính tài sản cố định năm 2001 là 48.000 tỷ đồng. Trong giai đoạn 1991 - 2001 tổng lợi nhuận ước đạt 12.922 tỷ đồng và tổng thu nộp ngân sách Nhà nước ước đạt 14.850 tỷ đồng.
+ Cùng với việc sản xuất kinh doanh điện, ngành cơ khí điện cũng đã được quan tâm phát triển. Từ chỗ hầu hết các vật tư thiết bị điện đều phải nhập ngoại, đến nay Công ty cơ khí điện đã sản xuất máy biến áp đến 110KV, công suất đến MVA; sản xuất được các vật tư chủ yếu cho các công trình đường dây điện: cáp điện, cột điện... việc phát triển cơ khí điện đã tiết kiệm đáng kể ngoại tệ cho đất nước.
+ Trong quan hệ với khách hàng ngành cố gắng đơn giản thủ tục cấp điện, gửi thư lấy ý kiến khách hàng, gặp thường xuyên các đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân.
+ Hiện nay cơ cấu ngành điện của Việt Nam, mức độ độc quyền có xu hướng giảm, Nhà nước khuyến khích khu vực tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tham gia vào khâu phát điện và đến năm 2001 khu vực tư nhân tham gia lắp đặt được 599,15 MW, còn việc truyền tải điện bằng đường dây cao thế, do Nhà nước làm, đường dây hạ thế Nhà nước có chính sách kết hợp Nhà nước và nhân dân cùng làm. Do vậy đã làm giảm bớt gánh nặng của Nhà nước về chi phí và đã huy động được mọi thành phần kinh tế và nhân dân vào việc phát triển ngành điện đáp ứng sản xuất và đời sống nhân dân.
Bảng 4: Giá điện trung bình của các nước trong khu vực
Đơn vị: cents/kwh
TT
Tên nước
Tại thời điểm
Trung bình
1
Lào
12/1999
1,39
2
Indonesia
12/1999
3,11
3
Việt Nam
1/2001
4,27
4
Thái Lan
9/1999
5,57
4a
PEA (Thái Lan)
9/1999
5,74
4b
MEA (Thái Lan)
9/1999
6,35
5
Malaysia
8/1999
6,25
6
Hàn Quốc
12/1999
6,27
7
Singapore
12/1999
6,57
8
Đài Loan
12/1999
6,69
9
Philipine
12/1999
10,17
10
Hồng Kông
12/1999
12,77
11
Brunei
1999
15,2
12
Campuchia
12/1999
15,92
13
Nhật Bản
3/1999
18,02
Nguồn: Tổng Công ty điện lực Việt Nam
Bảng 5: Tỷ lệ tổn thất các nước trong khu vực
TT
Tên nước
Tại thời điểm
Tổn thất
1
Nhật
1999
5,4
2
Thái Lan
1999
9
3
Malaysia
1999
11
4
Indonesia
1999
12
5
Việt Nam
1999
15,3
6
Lào
1999
16
7
Philipine
1999
17
8
Campuchia
1999
23
Nguồn: Tổng Công ty điện lực Việt Nam
+ Về công tác đào tạo thời gian qua ngành thành lập được 2 trường cơ khí điện để đáp ứng nhu cầu cán bộ và công nhân cho ngành và hàng năm cử 36 cán bộ đi đào tạo dài hạn ở nước ngoài.
2. Những hạn chế và nguyên nhân.
+ Do địa hình nước ta phức tạp với chiều dài đất nước hơn 2000 km nên việc đưa điện tới các vùng sâu, vùng xa gặp nhiều khó khăn, đặc biệt các đồng bào dân tộc thiểu số ở trên núi cao, ở hải đảo dân cư thưa thớt, địa hình hiểm trở nên việc đưa điện đến đó gặp nhiều khó khăn. Do vậy nhiều xã vẫn chưa có điện. Hơn nữa, do điều kiện tự nhiên địa hình, khoáng sản của từng vùng, miền khác nhau nên việc khai thác các tiềm năng phục vụ phát triển nguồn điện khác nhau: Miền Bắc có nhiều tiềm năng khai thác phát triển điện hơn miền Trung và miền Nam nên có sự thiếu điện nghiêm trọng ở miền Trung và miền Nam. Năm 1005 miền Bắc sản lượng điện phát ra là: 9372,88 triệu kwh, điện năng tiêu thụ: 4922,461 triệu kwh; miền Trung sản lượng điện phát ra: 375,1 triệu kwh, điện năng tiêu thụ 1056,304 triệu kwh; miền Nam điện năng phát ra là: 5888,08 triệu kwh, điện năng tiêu thụ: 5226,222 triệu kwh. Do đó sự phân bố không đồng đều giữa các miền như vậy, nên cần phải có xây dựng hệ thống lưới điện kéo dọc chiều dài đất nước từ Bắc vào Nam để phân phối điện năng đáp ứng nhu cầu sử dụng điện ở miền Trung và miền Nam. Do đó làm tăng chi phí đầu tư cộng với đường truyền tải dài làm cho tổn thất điện năng là rất lớn nên tổn thất điện năng của Việt Nam còn cao hơn một số nước trong khu vực.
+ Do chính sách của Nhà nước duy trì giá điện ở mức thấp để khuyến khích sản xuất và đảm bảo mặt lợi ích xã hội: tất cả các hộ gia đình được sử dụng điện ở mức giá thấp. Do đó có một bất hợp lý là doanh thu điện không bù đắp được chi phí sản xuất, không thu hút được nhiều đầu tư của các thành phần kinh tế vào việc phát triển nguồn điện.
Kết luận: Với sự cố gắng của ngành điện trong thời gian qua, bên cạnh những mặt đạt được còn nhiều hạn chế. Vì vậy để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để đưa nước ta trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Đòi hỏi ngành điện phải có chiến lược dài hạn khắc phục hạn chế còn tồn tại, khai thác hết các tiềm năng để phát triển ngành điện xứng đáng với vai trò của nó.
IV- Một số chỉ tiêu chủ yếu trong Chiến lược phát triển ngành điện lực đến 2010.
Mục tiêu chiến lược trong phát triển ngành điện là đáp ứng đầy đủ nhu cầu cho sinh hoạt của nhân dân và phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng; đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Dự báo trong 10 năm tới tốc độ tăng nhu cầu sử dụng điện bình quân khoảng 10-12%/năm. Năm 2005, điện năng sản xuất đạt sản lượng khoảng 50 tỷ kwh, tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2001-2005 có thể đạt 13% (Tuy nhiên qua tình hình 2 năm đầu 2001, 2002 tốc độ tăng trưởng 5 năm có thể đạt 15%, đến năm 2005 điện năngđạt 53,5 tỷ kwh); năm 2010 đạt sản lượng từ khoảng 80 tỷ kwh (tốcđộ tăng bình quân giai đoạn 2006-2010 10%). Nhu cầu sử dụng điện bình quân từ 340 kwh/ người/ năm hiện nay lên 800-900 kwh/người/ năm vào năm 2010. Như vậy trong 10 năm tới mức tiêu thụ điện bình quân đầu người của Việt Nam còn thấp hơn so với mức tiêu thụ hiện nay của một số nước trong khu vực (Trung Quốc năm 1999 đạt 985; Thái Lan: 1700; Malaysia: 2340; Singapore: 8242; Hàn Quốc là: 5170; Nhật Bản: 7150 kw/người/ năm.
Để đáp ứng nhu cầu điện năng tăng lên như mục tiêu đặt ra tất yếu phải phát triển các công trình nguồn và lưới điện, mục tiêu đặt ra là giai đoạn 2001-2010 cần lắp đặt thêm 10.600 MW các loại nguồn thuỷ điện nhiệt điện (than, khí) và nhập khẩu.
1. Phát triển các công trình nguồn điện.
1.1. Các công trình thuỷ điện.
Các công trình thuỷ điện được ưu tiên phát triển để tận dụng nguồn năng lượng rẻ, tái tạo, ưu tiên đầu tư các công trình có hiệu quả kinh tế cao và các công trình có lợi ích tổng hợp: cấp điện, chống lũ, cấp nước,...
Trong hơn 20 năm tới sẽ xem xét xây dựng hầu hết các nhà máy thuỷ điện có khả năng xây dựng trên các dòng sông: Đà, Lô, Cả, Mã, Chu,... ở miền Bắc; sông Sê Xan, Vũ Gia - Thu Bồn ở miền Trung; sông Đồng Nai ở miền Nam. Dự kiến trong giai đoạn từ nay đến 2010 xây dựng mới 15 nhà máy thuỷ điện với tổng công suất 3533 MW do Tổng Công ty Điện lực Việt Nam EVN làm chủ đầu tư và liên doanh, ngoài ra còn khoảng 40 nhà máy do các đơn vị khác làm chủ đầu tư xây dựng và lắp đặt với tổng công suất khoảng từ 1.278,3 - 1.315,1 MW. Đưa tổng công suất các nguồn thuỷ điện đến năm 2010 đạt trên 7.300 MW, sản lượng điện sản xuất do các nhà máy thuỷ điện sản xuất đến năm 2010 đạt khoảng 25.912 GWh (theo phương án phụ tải cao: phụ tải tăng bình quân 15%), chiếm 25-30% sản lượng điện sản xuất. Hầu hết các công trình xây dựng trong giai đoạn này sẽ đưa vào vận hành cuối giai đoạn 2006-2010. Phát triển thuỷ điện trong giai đoạn này thuỷ điện Sơn La có vai trò vô cùng quan trọng trong việc cung cấp điện, chống lũ và cấp nước cho đồng bằng sông Hồng dự tính đưa vào vận hành sau năm 2010.
1.2. Nguồn nhiệt điện than.
Trên cơ sở khả năng cung cấp than cho nguồn điện và nhu cầu phát triển phụ tải điện, dự kiến 2010 sẽ đưa thêm vào khoảng gần 10 nhà máy nhiệt điện than vào vận hành với tổng công suất 2.900 MW: Phả Lại 2, Uông Bí mở rông, Hải Phòng,... Đưa tổng công suất lên đạt khoảng trên 3.500 MW trong đó Tổng Công ty EVN 2086 MW. Còn trên 1000 MW phải mua theo phương thức (BOT, IPP,...) khi đó đến 2010 sản lượng điện do các nhà máy nhiệt điện than đạt khoảng 23.007 kwh để thực hiện điều đó thì lượng than cung cấp cho các nhà máy nhiệt điện khoảng trên 10 triệu tấn than vào năm 2010 (phụ lục 3).
Bảng 7: Các công trình điện than sẽ đưa vào vận hành trong giai đạn 2002-2010.
TT
Công trình
Qui mô công suất (MW)
Thời gian
Khởi công
Vận hành
A
EVN đầu tư
1.500
1
Phả Lại
600
2002
2
Uông Bí mở rộng
300
2002
2006
3
Hải Phòng
300
2003
2007
4
Hải Phòng
300
2004
2008
B
Công trình liên doanh
1.200
1
Quảng Ninh
300
2005
2009
2
Quảng Ninh
300
2006
2010
3
Quảng Ninh
300
2007
2011
4
Quảng Ninh
300
2008
2012
C
Công trình IPP
200
1
Na Dương
100
2004
2
Cao Ngạn
100
2005
D
Tổng
2.900
Nguồn: Tổng Công ty điện lực Việt Nam
Bảng 8: Công suất các nhà máy điện khí các giai đoạn
TT
Tên nhà máy
Đến 2005
Đến 2010
1
Tua bin khí Bà Rịa
312
312
2
Phú Mỹ 2-1 và 2.1 mở rộng
860
860
3
Phú Mỹ 1
1.090
1.090
4
Phú Mỹ 4
432
432
5
Ô Môn và nhiệt điện khác (khí lô B)
600
6
Phú Mỹ 3 (BOT)
720
720
7
Cà Mau (PV)
720
8
Ô Môn 2 (JV)
720
Tổng công suất (MW)
3.414
5.454
Nguồn: Tổng Công ty điện lực Việt Nam
1.3. Nguồn nhiệt điện sử dụng khí đốt (nhiệt điện dầu + tua bin khí).
Dựa trên tiềm năng khí đốt của các khu vực và khả năng tiêu thụ khí đốt của các ngành, dự kiến đến năm 2010 sẽ xây dựng lắp đặt và đưa thêm vào vận hành 9 nhà máy với tổng công suất 5.454 MW chủ yếu ở miền Nam , miền Trung tiêu thụ khoảng 6-7 tỷ m3/năm sản xuất ra khoảng trên 46.000 GWh vào năm 2010, chiếm khoảng 42% sản lượng điện của ngành (phụ lục 5).
Kết luận: Ngoài sản lượng điện do Tổng Công ty Điện lực Việt Nam sản xuất, EVN còn mua của các đơn vị ngoài Tổng Công ty (theo các hình thức BOT, IPP và JV). Ngoài việc phát triển các nguồn điện sử dụng nhiên liệu, năng lượng cơ cấp trong nước (do EVN và các đơn vị độc lập) ngành điện còn có dự kiến nhập khẩu điện từ các nước láng giềng, để nâng cao tính an tâm trong cung cấp điện, kết hợp với xu thế đa dạng hoá nguồn cung cấp năng lượng. Theo Hiệp định hợp tác năng lượng đã ký kết giữa hai chính phủ Việt Nam và Lào, Việt Nam sẽ nhập khoản 2000 MW công suất từ Lào (trước năm 2010 dự kiến khoảng 1000 MW) tiếp theo sẽ xem xét nhập khẩu điện từ Camphuchia.
ở những nơi mà lưới điện không thể cung cấp được hoặc cung cấp kém hiệu quả thì cần phải sử dụng các dạng năng lượng mới cho phát triển điện như gió, mặt trời, địa nhiệt,... Đặc biệt trong giai đoạn sau để đáp ứngđủ nhu cầu tiêu thụ điện, nước ta cần thiết phải khai thác nguồn điện nguyên tử.
Như vậy, theo chiến lược phát triển ngành điện giai đoạn 2001-2010 với các công trình đưa vào vận hành trong giai đoạn này và theo phương án phụ tải 15%/năm thì sản lượng điện (sản xuất + mua) thương phẩm so với nhu cầu tiêu thụ điện thì từ năm 2003 bắt đầu thiếu điện vì vậy cần phải đẩy nhanh tiến độ các công trình đưa một số nhà máy vào vận hành sớm so với tiền độ dự kiến để bảo đảm cung cấp điện.
2. Phát triển lưới điện.
Giai đoạn tới sẽ tiếp tục phát triển phát triển lưới điện truyền tải 500kv, 220kv để tải điện từ nhà máy điện để cung cấp điện cho các trung tâm phụ tải, tạo mối liên kết trao đổi điện năng một cách linh hoạt, hiệu quả giữa các miền đất nước và lưới điện các nước trong khu vực.
Lưới điện 110kv sẽ được phát triển mạnh đến trung tâm tiêu thụ các huyện thị và các khu công nghiệp lưới điện phân phối được cải tạo và phát triển mới để nâng cao chất lượng điện cung cấp và giảm tổn thất điện năng.
Trong giai đoạn 2001 - 2002 ngành điện sẽ xây dựng thêm 2416 km đường dây 500kv và 6150 MVA dung lượng các trạm biến áp; 3404 km đường dây 220kv và 13.352 MVA dung lượng các trạm biến áp của lưới điện truyền tải; gần 300 nghìn km đường dây trung và hạ thế, 200000 MVA dung lượng các trạm biến áp truyền tải. Xây dựng các mạch vòng ở 3 khu vực Bắc, Trung, Nam tại các thành phố lớn đặc biệt Hà Nội, Thành phố Hồ chí Minh đảm bảo an toàn liên tục cung cấp điện. Việc phát triển lưới điện đảm bảo vận hành an toàn tin cậy, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng về chất lượng điện năng, giảm tổn thất điện năng từ 14% hiện nay xuống còn 10% vào năm 2010.
- Trong chiến lược 10 năm cùng với việc phát triển nguồn và lưới điện thì việc phát triển sản phẩm cơ khí điện phục vụ nguồn và lưới điện cũng là công việc quan trọng trong chiến lược đến 2010. Trong giai đoạn đầu 01-05 mục tiêu đặt ra đáp ứng đủ nhu cầu về thiết bị có cấp điện áp 110kv trở xuống. Tập trung sản xuất thử máy biến áp 220kv có thể đáp ứng cơ bản nhu cầu máy biến áp 220kv và một phần các thiết bị 220kv khác như cây cáp, cột, xà, phụ kiện đường dây và trạm vào năm 2010. Nghiên cứu sản xuất các thiết bị trọn gói cho các trạm thuỷ điện nhỏ, năng lượng mặt trời và các thiết bị phụ trợ cho lò hơi, đường ống áp lực, các chi tiết thiết bị... phục vụ sửa chữa các nhà máy điện. Sắp xếp tổ chức dây chuyền sản xuất, phấn đấu đạt được hệ thống chất lượng ISO 9002; quan tâm đổi mới công nghệ theo hai hình thức: nhập khẩu quyền chế tạo hoặc tự nghiên cứu công nghệ mới. Trước mắt, cần tập trung vào việc nhập khẩu thiết bị và dây chuyền công nghệ hiện đại, có chứng nhận quyền chế tạo. Về lâu dài, cần có nghiên cứu, chế tạo thiết bị phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và đặc điểm riêng của quốc gia và khu vực.
Bảng 9: Các đường dây 500 KV dự kiến xây dựng giai đoạn 2001-2010
Công trình
Chiều dài
Hiện có
1.532 km
Các công trình giai đoạn 2001-2005
1.421 km
Các công trình giai đoạn 2006-2010
995 km
Bảng 10: Các trạm 500 KV dự kiến xây dựng giai đoạn 2001-2010
Công trình
Công suất
Hiện có
2.700 MVA
Các công trình giai đoạn 2001-2005
3.900 MVA
Các công trình giai đoạn 2006-2010
2.250 MVA
- Tập trung nghiên cứu nhu cầu thị trường, định hướng phát triển trong từng lĩnh vực chế tạo thiết bị để sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của khách hàng; tăng cường hợp tác quốc tế để tìm hiểu cơ hội hợp tác với các nhà sản xuất. Đồng thời, cần có những nghiên cứu, tìm hiểu khả năng xuất khẩu sản phẩm của mình ra thị trường nước ngoài, đặc biệt là các nước ASEAN.
- Tổ chức bộ máy của doanh nghiệp cơ khí phải gọn nhẹ, năng động, phù hợp với yêu cầu của thị trường. Cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp luôn luôn phải có đủ kiến thức, tìm hiểu học tập công nghệ mới, nâng cao trình độ chuyên môn và bản lĩnh nghiệp vụ, sẵn sàng chờ đón và chấp nhận các thác thức của thị trường.
Trong năm 2002 chuẩn bị thành lập Trung tâm sửa chữa - dịch vụ Phú Mỹ và thành lập Trung tâm sửa chữa - dịch vụ Phả Lại.
Cùng với phát triển cơ khí điện phục vụ phát triển nguồn và lưới điện đạt mục tiêu đề ra về chất lượng công trình thì từ vốn có vai trò quan trọng quyết định tính hiệu quả kinh tế kỹ thuật của công tác đầu tư xây dựng ngành điện, đồng thời giữ vai trò đầu tầu trong lĩnh vực đề xuất áp dụng khoa học công nghệ và cải tiến hệ thống điều hành điện việc phát triển năng lực tưvấn vừa có tính cấp bách vừa có tính lâu dài. Trong chiến lược 10 năm cần tập trung xây dựng các Công ty tư vấn đa ngành theo chuyên môn hoá từng lĩnh vực chuyên sâu như nhà máy thuỷ điện, nhà máy nhiệt điện đường dây và trạm biến áp.... Đồng thời đảm bảo tính thiết kế quy hoạch tổng thể, tối ưu ổn định cao. Tập trung đào tạo những chuyên gia giỏi về từng lĩnh vực trong và ngoài nước, tham gia cùng các Công ty tư vấn nước ngoài trong các dự án của Tổng Công ty nhằm tăng dần tỷ lệ các công việc tự đảm đương thiết kế các nhà máy điện và lưới điện siêu cao áp.
3. Nhu cầu vốn đầu tư và cân đối tài chính.
3.1. Cân đối nhu cầu vốn đầu tư.
Chiến lược ngành điện đặt ra từ nay đến 2010 nhiều khối lượng hạng mục công trình cần xây dựng rất lớn để thực hiện mục tiêu đó cần huy động khối lượng vốn không nhỏ theo chiến lược của ngành thì đến năm 2005 tổng nhu cầu vốn đầu tư và trả nợ là 2214 triệu USD; đến năm 2010 là 3117 triệu USD và tổng nhu cầu vốn và trả nợ cho cả thời kỳ chiến lược (10 năm) là 21806 triệu USD trong đó trong nguồn vốn đầu tư thuần 10 năm là13322 triệu USD chiếm gần 70%; trả nợ vốn vay gốcvà IDC là 8544 triệu USD (30%) trong tổng nguồn đầu tư chiến lược thì các công trình nguồn điện là 7267 triệu USD (chiếm 55%) các công trình lưới điện 5748 triệu USD (chiếm 45%) tổng vốn đầu tư. Để cân đối nguồn vốn cho đầu tư và trả nợ ngoài nguồn vốn từ tích luỹ của ngành điện là 11509 triệu USD (chiếm 52%) thì ngành điện còn huy động để đảm bảo đầu tư và trả nợ từ vốn đi vay là 10358 triệu USD (chiếm 48%). Trong tổng nguồn vốn từ tích luỹ bao gồm vốn khấu hao cơ bản 6493 triệu USD phần còn lại chủ yếu thu từ tăng giá điện chuyển đầu tư là 4560 triệu USD. Để thực hiện mục tiêu sử dụng nguồn tăng giá điện chuyển đầu tư ngành điện đưa ra lộ trình tăng giá điện theo tờ trình 1376/CP QHQT và 1039/BC-BVGCPTLSX và tình hình biến động xã hội.
Bảng 11: Lộ trình tăng giá điện của Việt Nam
Theo tờ trình 1367/CP-QHQT và 1093/BC-BVGCP-TLSX
Thời điểm tăng giá
01/10/1999
01/07/2000
01/03/2001
Giá trung bình (Cents/kwh)
5,2 (đã thực hiện)
6,2
7
Theo biến động và tình hình xã hội
Thời điểm tăng giá
01/04/2002
01/04/2003
01/04/2004
01/04/2005
Giá trung bình (Cents/kwh)
5,6
6,1
6,6
7
Nguồn: Tổng Công ty điện lực Việt Nam
3.2. Cân đối tài chính.
Một số chỉ tiêu tài chính của ngành điện trong chiến lược từ nay đến 2010 như sau:
Mục tiêu năm 2005 (Phụ lục 4)
Tổng doanh thu: 2605 Triệu USD
Tổng chi phí sản xuất: 2019 triệu USD
Trích nguồn tăng giá điện chuyển đầu tư: 377 triệu USD
Thuế thu nhập: 67 triệu USD
Nộp thu sử dụng vốn chuyển đầu tư: 47 triệu USD
Lợi nhuận thuần: 95 triệu USD
Tỷ lệ đầu tư SFR: 25,7%
Tỷ lệ thanh toán nợ DSCR: 1,49 lần
Tỷ lệ lợi nhuận/ Tổng giá trị tài sản: 2,57%
Mục tiêu năm 2010 (Phụ lục 4)
Tổng doanh thu: 4.345 Triệu USD
Tổng chi phí sản xuất: 3.302 triệu USD
Trích nguồn tăng giá điện chuyển đầu tư: 684 triệu USD
Thuế thu nhập: 115 triệu USD
Nộp thu sử dụng vốn chuyển đầu tư: 108 triệu USD
Lợi nhuận thuần: 136 triệu USD
Tỷ lệ đầu tư SFR: 25,1%
Tỷ lệ thanh toán nợ DSCR: 1,25 lần
Tỷ lệ lợi nhuận/ Tổng giá trị tài sản: 2,7%
4. Định hướng phát triển nguồn nhân lực và đổi mới mô hình tổ chức của ngành.
4.1. Định hướng phát triển nguồn nhân lực.
Do đó trong chiến lược 01-10 cần xây dựng ngay quy hoạch phát triển nhân lực theo hướng hoạt động của một tập đoàn. Muốn vậy cần thực hiện các nội dung sau:
Tiến hành lập qui hoạch cán bộ, tổ chức đào tạo bồi dưỡng cán bộ trong diện quy hoạch và đương nhiệm về chuyên môn nghiệp vụ, quản lý, lý luận chính trị, ngoại ngữ, ban hành tập tiêu chuẩn chức danh viên chức chuyên môn nghiệp vụ của ngành, tổ chức thi nâng ngạch cho cán bộ viên chức, thực hiện công tác nhận xét đánh giá cán bộ hàng năm, trước khi bổ nhiệm và bổ nhiệm lại, thực hiện công tác luân chuyển cán bộ.
Về công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực, phát triển các khối trường Cao đẳng và trung cấp kỹ thuật điện, phấn đấu để có 1 đến 2 trường đạt tiêu chuẩn quốc tế trên cơ sở củng cố và phát triển đội ngũ giáo viên, nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ; bố trí liên thông giữa các bậc học: cao đẳng, trung học và công nhân; xây dựng chương trình chuẩn thống nhất về đào tạo các lĩnh vực chuyên sâu như nhà máy nhiệt điện, thuỷ điện; lựa chọn các kỹ sư giỏi có triển vọng đưa ra nước ngoài đào tạo đáp ứng nhu cầu quản lý.
Mục tiên ngành điện đến 2010 lao động trong toàn ngành từ 54.744 người năm 2000 lên 80.509 người và phân đấu đạt tỷ lệ 100% cán bộ công nhân viên được đào tạo nghề và 30% trình độ đại học và trên đại học (số người làm việc trong các nhà máy điện: 26.944 người, trong điện lực các tỉnh là 46.415 người).
4.2. Đổi mới mô hình tổ chức của ngành.
Mô hình tổ chức ngành điện theo hướng tách các khâu trong quy trình sản xuất kinh doanh điện: sản xuất, truyền tải và phân phối; từng bước tách dần chức năng chủ sở hữu và chức năng sản xuất kinh doanh; Nghiên cứu xây dựng Tổng Công ty Điện lực Việt Nam theo mô hình Công ty mẹ công ty con. Tổng Công ty là Công ty mẹ 100% vốn Nhà nước bao gồm cơ quan Tổng Công ty và các Công ty truyền tải, Trung tâm điều hành quốc gia, các nhà máy thuỷ điện lớn, các nhà máy điện khác có vai trò quan trọng trong hệ thống. Các đơn vị thành viên khác là Công ty con mà EVN sở hữu đa số vốn cổ phần chi phối các Công ty con phân phối điện về tài chính và chiến lược phát triển nắm giữ phần lớn thị trường trong nước.
Từng bước chuyển đổi các đơn vị thành viên có đủ điều kiện tiến tới năm 2005 chuyển đổi toàn bộ các đơn vị thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu là Nhà nước. Cổ phần hoá một số đơn vị thành viên thuộc EVN (trừ các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực truyền tải và các nhà máy điện lớn) nhằm thu hút vốn đầu tư và đổi mới công nghệ và mở rộng sản xuất, đồng thời mở rộng khả năng tham gia của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước vào hoạt động của ngành điện.
Phát triển sản xuất kinh doanh đa ngành hàng mà Tổng Công ty EVN có nhiều thế mạnh như viễn thông, sản xuất thiết bị điện, tư vấn,... Trong đó sản xuất kinh doanh điện là lĩnh vực kinh doanh chủ đạo.
Phần III: Một số giải pháp thực hiện chiến lược phát triển ngành điện giai đoạn từ nay đến 2010.
I- Tình hình thực hiện các mục tiêu chiến lược của ngành trong hai năm đầu 2001-2002.
Đến năm 2002 ngành điện đưa vào 725 MW công suất nguồn điện, hơn 1000 km đường dây, hơn 3800 MVA dung lượng các trạm biến áp với tổng số vốn đầu tư hơn 15000 tỷ đồng, nếu so với 2 năm 2000 và 2001 thì năm 2002 bằng cả hai năm cộng lại. Đây là khối lượng công việc rất lớn cả về số lượng công trình và nguồn vốn đầu tư.
Trong 2 năm 2001 và 2002 đẩy nhanh tiến độ đảm bảo đưa vào vận hành đúng tiến độ các công trình nguồn điện đang xây dựng gồm Phả Lại 2. Hoàn thành xong thủ tục xây dựng các nhà máy để đưa vào vận hành trong giai đoạn 2001 - 2005. Trong năm 2002 ngành điện cố gắng hoàn thành gói thầu đường dây 500KV Plâycu - Phú Lâm; Phú Lâm - Nhà Bè.
Trong năm 2002 công tác kinh doanh và giảm tổn thất điện năng của toàn Tổng Công ty đã đạt được thành tích rất lớn: đáp ứng được cơ bản nhu cầu tăng trưởng điện năng của cả nước với tốc độ tăng trưởng 17,08%, sản lượng điện thương phẩm đạt 105,3% kế hoạch giao. Doanh thu tiền điện đạt 21.468 tỷ đồng tăng 2% so với 2001, lãi 1840 tỷ VNĐ; hơn 4,6 triệu lượt khách hàng ký hợp đồng và hơn 13,5 triệu nhân dân đang sử dụng lưới điện quốc gia. Tỷ lệ tổn thất điện năng giảm 0,89% so với kế hoạch tiết kiệm được hàng trăm tỷ đồng.
Tổng Công ty cũng đã đầu tư đưa điện lưới đến vùng sâu vùng xa, miền núi, hải đảo với số vốn 155 tỷ đồng. Tính đến ngày 31/01/2003 toàn quốc có 97,9% số huyện, 90,5% số xã có điện lưới quốc gia và 81,4% số hộ có điện, nâng chỉ tiêu đưa điện về nông thôn cao hơn nhiều nước trong khu vực.
Toàn Tổng Công ty đã lắp đặt được 19.300 công tơ điện tử 3 pha cho khách hàng, cắt giảm được khoảng 416 MW trong giờ cao điểm, tiết kiệm được 6.400 tỷ VNĐ vốn đầu tư xây dựng các nhà máy điện.
Các Công ty điện lực, các điện lực tỉnh đã tích cực phối hợp, hỗ trợ các địa phương để giảm giá điện đến hộ nông thôn dưới nhiều hình thức. Đến nay phần lớn các xã trong cả nước để có giá bán điện dưới giá trần do chính phủ qui định (700đ/kwh).
Tuy nhiên, trong 2 năm đầu thực hiện chiến lược có nhiều hạn chế: công tác xoá bán điện qua công tơ tổng còn chậm, các đơn vị chưa tích cực để giảm mạnh tổn thất điện năng, giá bán điện đến hộ nông thôn còn vượt mức giá trần do chính phủ qui định. Biên chế lao động còn cồng kềnh, năng suất là thấp, mỗi CBCNV của Tổng Công ty bình quân phục vụ 98,7 khách hàng trong khi đó các nước: Thái Lan, Maixia (chỉ số này là 250 - 300 khách hàng. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý còn rời rạc manh mún và không thống nhất, trang thiết bị phục vụ công tác kinh doanh còn lạc hậu, gây lãng phí do đó ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh.
II- Những thuận lợi và khó khăn trong thực hiện chiến lược phát triển ngành điện từ 2003 - 2010.
1. Môi trường vĩ mô
1.1. Bối cảnh quốc tế.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, trật tự thế giới thay đổi, đặc biệt là từ sau chiến tranh lạnh, thế giới đã chuyển từ đối đầu sang hợp tác, xu hướng hợp tác hoá, khu vực hoá, toàn cầu hoá diễn ra ngày càng sôi động. Với sự xuất hiện của một loại các nước thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trở thành nước phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc,... và một vài thập niên trở lại đây là sự nổi lên của các nước NICs thực hiện thành công chiến lược hướng ngoại. ở những năm cuối cùng của thế kỷ 20 là các nước khu vực Đông Nam á, khu vực kinh tế sôi động nhất toàn cầu. Tuy nhiên, đến năm 1997 các nước này rơi vào khủng hoảng tài chính tiền tệ ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ tăng trưởng của các nước và bước sang những năm đầu của thế kỷ 21 các nước này đã kiềm chế được khủng hoảng, bước đầu khôi phục lại được tốc độ phát triển. Việt Nam là thành viên trong khu vực ASEAN chịu ảnh hưởng không nhỏ những biến động trên của khu vực, trong thời gian tới Việt Nam chuẩn bị hội nhập khu vực AFTA do vậy tạo điều kiện, tạo nhiều cơ hội và thách thức cho Việt Nam trong tiến trình công nghiệp hoá đất nước. Do vậy đòi hỏi phải có chiến lược tổng thể phát triển kinh tế đất nước và chiến lược phát triển của mỗi ngành.
1.2. Môi trường kinh tế trong nước.
Trong thời gian qua, phần lớn các mục tiêu chủ yếu đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 1991-2000 đã được thực hiện tổng sản phẩm trong nước sau 10 năm tăng gấp đôi giá trị sản lượng các ngành đều đạt và vượt chỉ tiêu phấn đấu; tích luỹ nội bộ nền kinh tế từ mức không đáng kể lên 25% GDP vào năm 2000. Đầu tư phát triển so với GDP từ 11,25% năm 1990 lên 28% năm 2000, cơ cấu nền kinh tế có bước chuyển dịch tích cực, nền nông nghiệp đã chuyển sang sản xuất hàng hoá; quan hệ sản xuất có bước chuyển biến quan trọng, kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nước có bước sắp xếp đổi mới và phát triển. Nền kinh tế từ chỗ bị bao vây cấm vận đã chủ động hội nhập tranh thủ thời cơ và cơ hội. Kim ngạch xuất khẩu sau 10 năm tăng 6 lần nhanh gấp 3 lần tốc độ GDP; một số sản phẩm như gạo, cà phê, thuỷ sản đã giành được thị phần đáng kể trên thị trường thế giới. Trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực và tính năng động trong xã hội được nâng lên, đời sống của các tầng lớn dân cư được cải thiện. Tốc độ tăng dân số giảm từ 2,31% còn 1,53%.
Tuy nhiên, nhịp độ tăng trưởng mấy năm cuối thời kỳ chiến lược chậm dần, thiếu ổn định nền kinh tế còn kém hiệu quả, tích luỹ nội bộ và sức mua trong nước còn thấp, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý; môi trường đầu tư kinh doanh còn nhiều bất hợp lý, vướng mắc cần tháo gỡ; hệ thống kế hoạch tài chính ngân hàng đổi mới và phát triển còn chậm, chất lượng thấp, chưa tạo điều kiện và hỗ trợ cho các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh. Cơ chế chính sách còn nhiều mặt chưa hợp lý, chưa tạo động lực thực sự thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Công tác giáo dục đào tạo chưa theo kịp yêu cầu, cơ cấu đào tạo chưa phù hợp, tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp. Khoa học và công nghệ chưa gắn kết thực sự với nhu cầu và hoạt động kinh tế xã hội, trình độ kỹ thuật công nghệ còn thấp so với các nước xung quanh; tỷ lệ thất nghiệp còn cao, tệ nạn xã hội chưa được đẩy lùi, môi trường sinh thái có chiều hướng suy giảm.
2. Những thuận lợi trong thực hiện chiến lược ngành.
2.1. Tiềm năng về nguồn năng lượng sơ cấp cho phát triển ngành điện.
a. Than đá.
Than nước ta tập trung chủ yếu ở vùng Quảng Ninh, tính đến độ sâu 300m có trữ lượng thăm dò 3,5 tỷ tấn. Nếu tính tổng trữ lượng của các mỏ than nhỏ ở các địa phương khác thì tổng trữ lượng khoảng 6 tỷ tấn. Trong đó vùng Quảng Ninh có tới 5,5 tỷ tấn chiếm gần 90% trữ lượng than cả nước. Các địa phương khác có mỏ than: Thái Bình có trữ lượng thăm dò 80 triệu tấn, Lạng Sơn 100 triệu tấn; Quảng Nam: 10 triệu tấn, với mức khai thác năm 2000 nước ta khai thác được 10 triệu tấn.
Theo số liệu năm 2001 lượng than khai thác cho sử dụng để sản xuất điện là 2633 triệu tấn chiếm gần 20% lượng than khai thác.
Như vậy, với trữ lượng trên nếu nước ta khai thác ở mức tối đa mỗi năm đạt từ 25-30 triệu tấn thì có thể khai thác trong vòng từ 100-150 năm nữa.
Trong thời gian tới, trong điều kiện còn khó khăn thì đây là nguồn năng lượng với chi phí rẻ và có trữ lượng lớn. Do vậy đây là điều kiện thuận lợi cho phát triển nhiệt điện than.
b. Thuỷ năng.
Nước ta là một trong 14 nước trên thế giới có trữ lượng thuỷ năng lớn nhất, ước tính gần 300 tỷ kwh điện, mật độ thuỷ năng ước tính khoảng 90kw/1km2, gấp 3,6 lần mật độ thuỷ năng bình quân của thế giới.
Nước ta có thuận lợi là sông có nhiều nước, miền núi có độ dốc cao, nên sông có nhiều thác nhưng đến nay nước ta mới khai thác khoảng 15% tổng trữ lượng thuỷ năng cả nước, trong khi các nước: Thuỵ Sỹ, Pháp, Na Uy, Thuỵ Điển, Italia đã khai thác được 70 - 90% trữ lượng thuỷ năng, như vậy nguồn thuỷ điện có tiềm năng rất lớn để phát triển trong tương lai.
c. Nguồn dầu khí.
Trữ lượng triển vọng của Việt Nam khoảng 5 tỷ tấn (dầu và khí quy ra dầu), trữ lượng khai thác khoảng 1 tỷ tấn, với lượng khai thác như hiện nay dầu khí (năm 2000) và lượng dầu sử dụng cho sản xuất điện chiếm %; khí chiém tổng lượng khí khai thác. Như vậy, nguồn điện từ dầu khí có tiềm năng phát triển rất lớn trong tương lai.
Ngoài các nguồn năng lượng chính trên còn phải kể đến các nguồn khác cho phát triển điện như: địa nhiệt, năng lượng mặt trời, năng lượng gió,...
- Địa nhiệt: Hiện nay nước ta có khoảng 350 điểm nước nóng, tập trung chủ yếu ở Tây Nguyên, Nam Trung Bộ, Miền núi Bắc Bộ,... có thể khai thác để phát triển điện nhiệt độ từ 40-1500C.
Năng lượng mặt trời:
Số giờ nắng trong năm 1.500 - 2.100 giờ.
Tổng năng lượng bức xạ: 100-175 Kcal/cm2/năm.
Các hải đảo: 860 -1410 kwh/m2/năm.
Trong đất liền: 500 kwh/m2 /năm
Tuy nhiên tốc độ gió thấp 3m/giây, có nhiều triển vòng trong cung cấp điện.
2.2. Tiềm năng tài chính của ngành điện.
Với tình hình hoạt động hiện nay của ngành điện, năm 2000 lợi nhuận 19 triệu USD, đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi và tái đầu tư chiếm khoảng 29% và để đảm bảo đầu tư cho các công trình ngành điện được Nhà nước ưu tiên sử dụng các nguồn vốn ODA với lãi suất thấp và thời gian dài cho phát triển các công trình nguồn và lưới ddiện cao thế. Để phát triển lưới điện trung và hạ thế đưa điện tới các hộ gia đình thì Nhà nước đưa ra chính sách kết hợp "Nhà nước và nhân dân cùng làm" đã làm giảm bớt gánh nặng ngân sách Nhà nước cho việc đưa điện về các vùng nông thôn.
Như vậy với tính hình tài chính của ngành điện rất tốt để phát triển trong tương lai.
2.3. Nhu cầu sử dụng điện trong thời gian tới.
Nhu cầu sử dụng điện thời gian qua là 15%/năm. Dự báo trong thời gian tới, nhu cầu sử dụng điện khoảng 10-12%/năm. Đến năm 2005 nhu cầu sử dụng điện khoảng 53,535 tỷ kwh; năm 2010 khoảng 107,58 tỷ kwh.
3. Những khó khăn trong phát triển điện trong thời gian tới.
Hiện nay trong cơ cấu các nguồn điện của nước ta, thuỷ điện luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng điện năng sản xuất ra trên 50%. Có một bất cập là công suất các nhà máy thuỷ điện phụ thuộc vào lượng nước hồ chứa và có sự chênh lệch rất lớn về mức nước hồ chứa giữa mùa khô và mùa mưa. Vì vậy đến mùa khô mức nước hồ chứa xuống thấp, khi đó phải huy động tăng công suất của các nhà máy điện sử dụng than, khí, dầu (DO) với giá thành cao, mà với mức giá qui định hiện nay là thấp ảnh hưởng tình hình tài chính của ngành, do đó ngành điện phải vay là chủ yếu dành cho đầu tư.
Ngành điện lực thời gian qua phần lớn nguồn vốn sử dụng cho đầu tư là đi vay tích luỹ từ nội bộ thấp. Do vậy đây là một khó khăn lớn cho thực hiện chiến lược phát triển ngành điện. Nguồn vốn vay chủ yếu vẫn phải vay với lãi suất thương mại gây khó khăn trong cân đối tài chính của ngành. Trong thời gian qua hiệu quả sử dụng nguồn vốn thấp phần lớn có nguồn vốn giải ngân chậm do gặp khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng, phê duyệt của chính phủ và các cơ quan chức năng.
III- Một số giải pháp thực hiện chiến lược phát triển ngành điện từ 2003 -2010.
1. Giải pháp về tổ chức và quản lý.
1.1. Giải pháp về mô hình tổ chức.
Quán triệt nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX và nâng cao Nghị quyết Trung ương III về việc sắp xếp đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước. Dựa trên cơ sở phân tích đánh giá rút ra bài học về thành công, hạn chế của mô hình tổ chức hiện nay. Tổng Công ty điện lực Việt Nam (EVN) đã nghiên cứu và khẳng định việc đổi mới tổ chức từng bước xây dựng Tổng Công ty điện lực Việt Nam thành tập đoàn kinh tế mạnh là biện pháp khắc phục tồn tại hữu hiệu nhất đáp ứng thách thức mới đặt ra, thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng và Nhà nước với công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Với mục tiêu là thông qua sắp xếp lại Tổng Công ty điện lực Việt Nam và các đơn vị thành viên các mô hình Công ty mẹ - Công ty con nhằm nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty và các đơn vị thành viên trong cơ chế thị trường, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được Nhà nước giao là cung cấp điện với chất lượng cao đáp ứng nhu cầu về điện phát triển kinh tế và sinh hoạt của nhân dân. Việc xây dựng tập đoàn điện lực Việt Nam còn nhằm mục tiêu chuyển Tổng Công ty điện lực Việt Nam sang mô hình tập đoàn kinh doanh đa ngành, đa sản phẩm phát huy triệt để những ưu thế hiện nay của Tổng Công ty.
Xây dựng tập đoàn điện lực Việt Nam cho phép thực hiện đa dạng hoá sở hữu, hình thành nhiều loại hình sở hữu của các đơn vị thành viên: 100% vốn của EVN, Công ty cổ phần, Công ty TNHH một thành viên, Công ty TNHH hai thành viên.
Công ty mẹ bao gồm cơ quan Tổng Công ty và một số doanh nghiệp hạch toán phụ thuộc và các đơn vị sự nghiệp. Các doanh nghiệp thành viên hiện nay và các Công ty cổ phần là các Công ty con hạch toán độc lập tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.2. Giải pháp về quản lý.
Nghị quyết hội nghị Trung ương III khoá IX đã đề ra một loạt các yêu cầu nhằm nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong các lĩnh vực độc quyền Nhà nước, trong đó có ngành điện. Đảng ta chủ trương thực hiện "độc quyền Nhà nước nhưng không biến độc quyền Nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp" giải pháp chính là ban hành luật cạnh tranh để bảo vệ và khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh, hợp tác bình đẳng trong khuôn khổ pháp luật.
Kinh nghiệm của nhiều nước trong thời gian qua chỉ ra rằng, việc xây dựng thị trường điện cạnh tranh lành mạnh sẽ tạo ra động lực thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đồng thời tạo ra một môi trường hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào ngành điện. Một môi trường lành mạnh sẽ giúp bảo vệ lợi ích của khách hàng sử dụng điện và quyền lợi xứng đáng của các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh điện.
Quá trình hình thành thị trường điện có thể theo 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Giao giá hạch toán nội bộ cho các nhà máy bước này đã được triển khai thực hiện từ năm 2002.
Giai đoạn 2: Xây dựng thị trường điện cạnh tranh có giới hạn, cụ thể là: người mua duy nhất là Tổng Công ty điện lực sẽ ký hợp đồng mua bán điện dài hạn với các nhà máy điện có giá bán thấp (BOT, IPP , các nhà máy của Tổng Công ty) và các nhà máy thuỷ điện phát điện theo yêu cầu chống lũ, hạn. Các nguồn này chiếm 80% nhu cầu sử dụng điện hàng năm của nền kinh tế quốc dân; 20% nhu cầu sử dụng điện còn lại sẽ được tổ chức chào giá cạnh tranh: Tất cả các nguồn điện độc lập; các nhà máy của Tổng Công ty và giá thành cao phải tham gia chào giá trên thị trường.
Giai đoạn 3: Hình thành thị trường điện hoàn chỉnh: các Công ty phát điện được quyền bán điện cho các Công ty điện lực thông qua hệ thống lưới truyền tải quốc gia do Công ty truyền tải quốc gia trực thuộc Công ty mẹ quản lý. Các Công ty điện lực được lựa chọn người bán điện và hình thức mua điện thông qua các hoạt động dài hạn hoặc qua thị trường điện trao ngay (Spot Mar ket).
2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả sử dụng sản xuất kinh doanh phản ảnh mặt chất lượng của các hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất trong quá trình tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong khi nguồn lực bị hạn chế, nhu cầu thì ngày càng tăng do đó đòi hỏi việc sản xuất kinh doanh sao cho phù hợp với nguồn lực mà mình có. Hay nói cách khác phải đạt hiệu quả tốt nhất trên cơ sở các nguồn lực hiện có.
2.1. Tiết kiệm trong sản xuất kinh doanh.
- Giảm tổn thất điện năng là giảm phần điện năng bị thất thoát trong quá trình chuyển tải từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ với những công trình với công suất lắp đặt như hiện nay khi mà tổn thất điện năng lớn thì sẽ phải huy động công suất hoạt động các nhà máy phát điện lớn hơn điều đó sẽ tiêu tốn chi phí để tăng công suất nguồn. Vì vậy việc giảm tổn thất điện năng là việc rất cần thiết nó sẽ giúp cho ngành điện tiết kiệm trong sản xuất kinh doanh tăng hiệu quả sản xuất.
Cách thức thực hiện là: tiếp tục phấn đấu trong giai đoạn từ nay đến 2010 thay thế và xây dựng mới hệ thống truyền tải, phụ tải lưới điện một cách đồng bộ hơn để mỗi năm giảm tỷ lệ tổn thất từ 0,5-0,8% khi đó mỗi năm ngành điện tiết kiệm khoảng 100-150 tỷ đồng mỗi năm.
- Lao động có chất lượng cao là đòi hỏi khách quan tăng năng suất lao động trong xu thế xây dựng nền kinh tế tri thức hiện nay. Điều đó có nghĩa là tăng khối lượng công việc, chất lượng công việc cho một đơn vị thời gian nhất định. Việc tăng năng suất lao động có nghĩa vụ quan trọng đã giúp ngành giảm được khối lượng lao động tiết kiệm chi phí tiền lương.
Để tăng năng suất lao động đòi hỏi ngành điện phải có chính sách hấp dẫn thu hút nhân tài, thu hút các kỹ sư, công nhân có trình độ kỹ thuật cao; thường xuyên tổ chức đào tạo, đào tạo lại cho cán bộ công nhân viên của ngành để nâng cao trình độ kỹ thuật của họ sao cho đáp ứng việc tiếp nhận, chuyển giao công nghệ hiện đại điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành. Tăng cường sự giúp đỡ hơn nữa của máy tính vào trong quá trình sản xuất kinh doanh điều đó tăng năng suất lao động. Khi đó mỗi cán bộ kỹ thuật của ngành sẽ xử lý được các công việc lớn hơn độc lập trong việc giải quyết công việc.
Việc nâng cao năng suất lao động, phấn đấu năng suất lao động mỗi năm tăng khoảng 7-10% tương đường giảm số lao động (nhân viên) ngành điện từ 12 người trên 1000 hộ dân như hiện nay xuống còn 5-8 người khi đó giúp giảm chi phí tiền lương mỗi năm khoảng 70-100 tỷ đồng.
- Chi phí nhiên vật liệu trong vận hành hệ thống điện chiếm một phần khá lớn trong tổng chi phí sản xuất kinh doanh. Việc tiết kiệm nguyên vật liệu đặc biệt là các nguồn nguyên nhiên liệu đắt cần phải xem xét sử dụng sao cho tiết kiệm và hiệu quả nhất. Vì vậy vận hành tối ưu hệ thống điện, tận dụng tối đa nguồn điện rẻ tiền với chi phí vận hành thấp (thuỷ điện), giảm phát từ các nguồn nhiệt điện đốt dầu, than (nhất là dầu DO), nhằm giảm chi phí nhiên liệu.
- Thực hiện chương trình quản lý nhu cầu MDS để cắt giảm công suất, nhằm tiết kiệm đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi trong vận hành hệ thống điện.
- Tiết kiệm điện tự dùng, tiêu hao than, dầu cho vận hành, sản xuất điện.
- Tiết kiệm điện trong sản xuất kinh doanh có ý nghĩa to lớn để tăng nguồn vốn tự tích luỹ cho đầu tư.
2.2. Nâng cao hiệu quả trong đầu tư xây dựng cơ bản.
* Công tác đấu thầu.
Ngành điện chịu sự điều chỉnh chung cho qui chế đấu thầu do chính phủ ban hành. Tuy nhiên trong thời gian qua công tác đấu thầu trong ngành điện còn nhiều bất cập: bất cập trong thủ tục trình duyệt, qui định về giá… Vì vậy để nâng cao hiệu quả đầu tư trước hết trong công tác đấu thầu cần phải:
- Xem xét lại thủ tục trình duyệt. Vì thủ tục trình duyệt mà tất cả chủ đầu tư phải thực hiện là trình duyệt kết quả sơ tuyển nhà thầu, nội dung hồ sơ mời thầu, phê duyệt kết quả đấu thầu và nội dung hợp đồng của các cấp quản lý từ thủ tướng chính phủ đến các bộ quản lý ngành, chủ tịch UBND tỉnh là cần thiết không khi chủ đầu tư dự án cụ thể đây là EVN đã thực hiện theo các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật được các cấp quyết định đầu tư NĐ 52 và 12 CP của chính phủ. Nên chăng thì phải trình duyệt một vài khâu mang tính quyết định hoặc phân cấp uỷ quyền nhiều hơn nữa cho các ngành HĐQT của Tổng Công ty. Khi đó chủ tịch trình duyệt đấu thầu trở nên đơn giản hơn, rút ngắn thời gian công tác đấu thầu, sớm đưa các công trình vào đầu tư xây dựng đảm bảo thời gian cho các công trình đúng thời tiến độ của tổng sơ đồ V trong chiến lược.
- Xem xét lại qui định về giá: Bất cập chung hiện nay không chỉ của ngành điện do qui định về giá trần, giá sàn, nhiều nhà thầu phá giá đặt giá hấp hơn giá sàn ảnh hưởng đến chất lượng công trình và hiệu quả đầu tư do đó cần phải khắc phục tình trạng này càng sớm càng tốt. Cụ thể là: nhà thầu trúng thầu là người chào giá gần nhất (giá đánh giá) so với giá trung bình của tất cả các hồ sơ dự thầu mà chủ đầu tư nhận được và phải thấp hơn giá dự toán của chủ đầu tư (có thể giá trúng thầu cao hơn giá trung bình).
* Hiệu quả trong đầu tư.
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các công trình nguồn và lưới điện để đáp ứng nhu cầu theo phương án phụ tải cao, đưa sớm các công trình vào khai thác nhằm phát huy hiệu quả công trình, tránh ứ đọng vốn. Xem xét lại hoặc đình chỉ các dự án đầu tư không hiệu quả, không chạy theo các thiết bị quá hiện đại, quá đắt không phù hợp với tình trạng chung của hệ thống điện hiện nay và khả năng tài chính của ngành. Những thiết bị vật tư nào còn tận dụng được phải tận dụng triệt để.
3. Giải pháp huy động vốn
3.1. Thu hút vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế.
Thực tế, nguồn vốn vay tín dụng Nhà nước gặp nhiều khó khăn. Nếu chỉ dùng vốn khấu hao cơ bản để lại thì không đủ, vốn vay của WB khó thực hiện vì lãi suất cao. Mặt khác, địa phương và nhân dân nhiều tỉnh không quyết tâm lo kinh phí theo cơ cấu vốn qui định nên việc thực hiện đầu tư đối với ngành điện càng khó khăn.
Vì vậy, để thu hút vốn đầu tư nước ngoài thì theo định hướng của Nhà nước và Bộ Công nghiệp sẽ từng bước nâng giá điện bình quân lên tới 7 cents/1kwh. Chỉ có tăng giá điện mới hấp dẫn và thu hút các nhà đầu tư bỏ vốn vào ngành điện. Như vậy, nếu giá điện nâng lên từng bước lên 7cents thì ngành điện có thể tự trang trải trong sản xuất kinh doanh.
Xuất phát từ nhận định trên, phương hướng và chủ trương mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại cộng với những kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư đối với ngành điện của các nước NICs và ASEAN thì ngành điện Việt Nam cần có các biện pháp thu hút vốn đầu tư như sau:
Đa dạng hoá phương thức đầu tư nguồn điệ và lưới điện phân phối, khuyến khích đầu tư nước ngoài dưới dạng BOT, BOO, IPP, JV hoặc liên doanh đầu tư của các thành phần kinh tế khác. Triển khai các dự án liên doanh công trình thuỷ điện, đặc biệt đối với công trình thuỷ điện Sơn La.
Thời gian chuyển giao các công trình BOT không nên quá dài đối với các tua bin hơi không quá 20 năm, tua bin khí không quá 15 năm. Nên có chủ trương thu hút các nhà đầu tư nước ngoài để phát triển các công trình thuỷ điện.
Tiến hành cổ phần hoá một số nhà máy điện và lưới điện phân phối để giải quyết khó khăn về vốn đầu tư và tăng hiệu quả quản lý sản xuất kinh doanh điện năng.
Luôn luôn coi trọng "vốn trong nước quyết định" vốn nước ngoài quan trọng trong việc tạo vốn phát triển ngành điện. Trong đó vấn đề cốt lõi là phải định đúng giá thành và giá bán sản phẩm trên cơ sở đánh giá lại tài sản cố định sát với giá trị thực, cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh để vừa đảm bảo được yêu cầu duy trì sản xuất bình thường, vừa đáp ứng được yêu cầu tích luỹ cho tái đầu tư mở rộng sản xuất và phát triển kinh doanh, vay được vốn, trả được nợ trong nước và ngoài nước, từ giá điện được điều chỉnh trên sẽ tăng được nguồn huy động vốn trong nước, đảm bảo yếu tố vốn trong nớc là quyết định.
Về nguồn vốn trong nước: ngoài nguồn vốn ngân sách đầu tư cho một số đối tượng theo kế hoạch Nhà nước hàng năm, ngành điện có thể khai thác các nguồn sau:
Từ năm 1995-2000, ngành điện được phép để lại 100% nguồn vốn khấu hao cơ bản để đưa vào đầu tư xây dựng cơ bản hàng năm.
Vay tín dụng đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân hàng đầu tư và phát triển và phát triển và theo hạn mức hàng năm.
Nguồn thu tiền điện ở các địa phương để cải tạo lưới điện nông thôn nguồn do tăng giá điện.
Ngành điện có thể đầu tư bằng nguồn vốn viện trợ chính thức ODA theo hiệp định vay của chính phủ Việt Nam, các tổ chức tài chính quốc tế như WB, ADB. Đây là nguồn vốn vay ưu đãi với lãi suất thấp hoặc không có lãi suất và thời hạn kéo dài rất phù hợp với các công trình hạ tầng cơ sở điện.
Nguồn vốn vay của các tổ chức tài chính quốc tế khác và các Công ty tập đoàn kinh tế tư nhân nước ngoài, kể cả việc mua vật tư thiết bị trả chậm (vay thương mại).
Nguồn vay trực tiếp nước ngoài (FDI) cần mở ra và áp dụng hình thức BOT, JV,... cho một số công trình nguồn điện để giảm bớt vốn vay.
Ngoài ra sử dụng giải pháp liên doanh với nước ngoài trong lĩnh vực sản xuất vật tư, phụ tùng thiết bị điện năng để đổi mới, hoàn thiện, hiện đại hoá dây chuyền công nghệ nâng cao chất lượng và khả năng chế tạo đồng bộ trong nước.
3.2. Thu hút và sử dụng nguồn vốn vay ưu đãi ODA của nước ngoài.
ODA là nguồn vốn hỗ trợ chính thức từ chính phủ và các tổ chức tài chính quốc tế cho các nước đang phát triển các khoản viện trợ không hoàn lại, các khoản vay ưu đãi về lãi suất và thời hạn thanh toán nhằm mục đích giúp các nước này tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Thực tế nhiều năm qua cho thấy đến nay các tổ chức tín dụng đã cam kết cho Tổng Công ty điện lực Việt Nam vay trên 2 tỷ USD, trong đó trên 60% đã được sử dụng. Nguồn ngoại lực đáng kể này đã tạo điều kiện cho Tổng Công ty đồng loạt xây dựng nhiều công trình điện lưới và đã đưa vào vận hành như nhà máy điện Phú Mỹ 2.1., Hàm Thuận - Đam My, Nhiệt điện Phả Lại 2…; xây dựng và mở rộng 50 trạm biến áp 110 kv và 220 kv.
Tuy nhiên việc thu hút ODA còn nhiều điều bất hợp lý là việc xin ODA còn nhiều phiền hà ở các khâu trình duyệt, do cơ cấu hành chính còn nhiều hạn chế về mặt thời gian và thủ tục, gây khó khăn cho công tác thu hút vốn; thứ hai Tổng Công ty điện lực Việt Nam chưa tự chủ về được cân đối tài chính và tự vay tự trả vốn đầu tư cho phát triển nguồn và lưới điện.
Do vậy trong chiến lược 2001 - 2010 để thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn vay ODA cần:
3.2.1. Tăng cường khả năng tự lập báo cáo (tiền) khả thi trong khâu xác định và xây dựng dự án.
Thực tiễn đã chứng minh chuẩn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24301.DOC