Tài liệu Đề tài Một số giải pháp thúc đẩy cổ phần hoá ở Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang: Mục lục
Trang
Mục lục
1
Lời nói đầu
5
Chương I: Cơ sở khoa học của việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp
7
1. Vị trí, vai trò của kinh tế Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp
7
1.1. Khái niệm kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp
8
1.2. Vị trí, vai trò của kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp
8
2. Nhận thức cơ bản về cổ phần hoá và Công ty cổ phần
10
2.1. Khái niệm cổ phần hoá
10
2.2. Khái niệm về Công ty cổ phần
11
3. Những đặc điểm cơ bản của cổ phần hoá trong nông nghiệp
11
3.1. Trong các doanh nghiệp nông nghiệp giá trị của đất đai chiếm một tỷ trọng lớn trong giá trị doanh nghiệp
12
3.2. Nông nghiệp từ lâu nay vẫn được coi là ngành sản xuất kinh doanh kém hiệu quả đời sống của cán bộ công nhân còn gặp nhiều khó khăn
12
3.3. Trong nông nghiệp có một phần tài sản cố định có nguồn gốc sinh học
13
4. Sự cần thiết cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp
13
4.1. CPH cho phép huy động tối đa nguồn vốn từ các t...
89 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1032 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp thúc đẩy cổ phần hoá ở Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Trang
Mục lục
1
Lời nói đầu
5
Chương I: Cơ sở khoa học của việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp
7
1. Vị trí, vai trò của kinh tế Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp
7
1.1. Khái niệm kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp
8
1.2. Vị trí, vai trò của kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp
8
2. Nhận thức cơ bản về cổ phần hoá và Công ty cổ phần
10
2.1. Khái niệm cổ phần hoá
10
2.2. Khái niệm về Công ty cổ phần
11
3. Những đặc điểm cơ bản của cổ phần hoá trong nông nghiệp
11
3.1. Trong các doanh nghiệp nông nghiệp giá trị của đất đai chiếm một tỷ trọng lớn trong giá trị doanh nghiệp
12
3.2. Nông nghiệp từ lâu nay vẫn được coi là ngành sản xuất kinh doanh kém hiệu quả đời sống của cán bộ công nhân còn gặp nhiều khó khăn
12
3.3. Trong nông nghiệp có một phần tài sản cố định có nguồn gốc sinh học
13
4. Sự cần thiết cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp
13
4.1. CPH cho phép huy động tối đa nguồn vốn từ các tổ chức trong và ngoài nước để phát triển kinh tế
16
4.2. CPH để đổi mới công nghệ nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp
17
4.3. Nâng cao tiềm lực kinh tế Nhà nước
17
4.4. Do yêu cầu nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp
18
4.5. Tạo động lực mới trong quản lí doanh nghiệp
18
5. Những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về cổ phần hoá và quá trình thực hiện
19
5.1. Những chủ trương chính sách
19
5.2. Kết quả sau hơn 10 năm thực hiện
29
6. Kinh nghiệm cổ phần hoá ở một số nước trên thế giới
35
6.1. CPH ở Trung Quốc
35
6.2. CPH ở các nước ASEAN
37
6.3. Những kinh nghiệm quốc tế về CPH có thể áp dụng trong việc thực hiện CPH DNNN chế biến thực phẩm xuất khẩu
38
Chương II: Thực trạng tiến trình cổ phần hoá ở Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang
40
I. Chủ trương của Tỉnh về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
40
1. Mục tiêu của tỉnh Bắc Giang về sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Tỉnh quản lý
40
2. Những biện pháp thực hiện
41
II. Quá trình thực hiện cổ phần hoá ở Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang
43
1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty
43
1.1. Quá trình hình thành và phát triển
43
1.2. Bộ máy tổ chức
44
1.3. Hoạt động chính của Công ty hiện nay
44
1.4. Nguồn lực hiện tại của Công ty
45
1.5. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty
47
2. Những đặc điểm kinh tế kĩ thuật của Công ty có ảnh hưởng đến tiến trình CPH
47
2.1. Vị trí địa lí của Công ty
47
2.2. Đặc điểm về lao động
48
2.3. Đặc điểm về ngành nghề kinh doanh
49
2.4. Đặc điểm về bộ máy quản lí
50
3. Thực trạng quá trình thực hiện cổ phần hoá ở Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang
50
3.1. Sự cần thiết phải tiến hành CPH ở Công ty TP XK Bắc Giang
50
3.2.Quá trình thực hiện CPH
54
3.3.Những kết quả đạt được, những vướng mắc và những vấn đề đặt ra khi thực hiện CPH
55
Chương III: Một số giải pháp thúc đẩy cổ phần hoá ở Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang
69
I. Quan điểm, phương hướng, mục tiêu cổ phần hoá của Công ty
69
1. Quan điểm của Công ty
69
2. Phương hướng và mục tiêu cổ phần hoá của Công ty
69
2.1. Phương hướng CPH của Công ty
69
2.2. Mục tiêu CPH của Công ty
70
II. Một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy cổ phần hoá ở Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang
70
1. Nâng cao nhận thức tư tưởng cho cán bộ công nhân viên trong Công ty
70
2. Lành mạnh hoá vấn đề tài chính của Công ty trước khi cổ phần hoá
72
2.1. Công khai hoá những vấn đề tài chính
72
2.2. Cơ cấu lại nợ của doanh nghiệp
73
2.3. Tiến hành thị trường hoá các khoản nợ
75
3. Xác định đúng giá trị doanh nghiệp
75
4. Giải quyết vấn đề lợi ích cho người lao động
78
5.Tổ chức thực hiện đúng quy trình cổ phần hoá theo các văn bản hiện hành
80
6. Hoàn thiện cơ chế chính sách
80
6.1. Cần làm rõ hơn những ưu đãi với doanh nghiệp và người lao động trong các doanh nghiệp CPH
81
6.2.Thay đổi cơ cấu cổ phần trong các doanh nghiệp CPH hiện nay
81
6.3. Đơn giản hoá quy trình thực hiện CPH
82
6.4. Chọn hình thức CPH phù hợp
83
6.5. Tạo môi trường thúc đẩy CPH
83
7. Coi trọng phát triển doanh nghiệp hậu cổ phần hoá
84
Kết luận
88
Danh mục tài liệu tham khảo
89
Lời nói đầu
Trong tiến trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường, sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu đã trở thành đòi hỏi tất yếu và ngày càng phổ biến hơn trong toàn xã hội. Những thành tựu của công cuộc đổi mới cho phép đông đảo quần chúng nhận thức ngày càng rõ hơn rằng bên cạnh hình thức sở hữu Nhà nước, các hình thức sở hữu khác (tư nhân hay hỗn hợp) nếu được tạo điều kiện thuận lợi cũng phát huy vai trò tích cực trong đời sống kinh tế. Đồng thời việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu cho phép thực hiện triệt để những nguyên tắc kinh tế, nâng cao quyền tự chủ tài chính và khả năng tự chủ quản lý sản xuất kinh doanh, nâng cao tinh thần trách nhiệm cũng như óc sáng tạo của người lao động và người quản lý doanh nghiệp.
Trải qua hơn 10 năm thực hiện cổ phần hoá (CPH) doanh nghiệp nhà nước
(DNNN) những thành tựu đã đạt được đủ để chúng ta khẳng định rằng CPH là một chủ trương đúng đắn và phù hợp với yêu cầu khách quan. Tuy nhiên xung quanh vấn đề CPH còn khá nhiều tồn tại như: Cơ chế chính sách chưa đồng bộ, quy trình CPH còn phức tạp, ưu đãi dành cho người lao động và doanh nghiệp CPH chưa thoả đáng, việc xác định giá trị doanh nghiệp trước khi CPH còn gặp không ít khó khăn…. Vì vậy trong thời gian tới cần phải có giải pháp hoàn thiện để thúc đẩy CPH DNNN.
Sau một quá trình thực tập tại Công ty thực phẩm xuất khẩu (TPXK) Bắc Giang, Công ty đang tiến hành CPH. Từ điều kiện thực tế cộng với kiến thức hiểu biết của mình Em chọn đề tài: “Một số giải pháp thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá ở Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang” làm luận văn tốt nghiệp đại học.
Luận văn cố gắng đi sâu nghiên cứu lí luận và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của cổ phần hoá DNNN đặc biệt là cổ phần hoá trong lĩnh việc nông nghiệp. Đánh giá thực trạng quá trình CPH ở công ty thực phẩm xuất khẩu (TPXK) Bắc Giang làm nổi bật nên những thuận lợi và khó khăn của Công ty trong khi tiến hành CPH. Từ đó mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy CPH ở Công ty.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ về CPH DNNN, tình hình sản xuất kinh doanh và quá trình CPH ở Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang. Thời gian nghiên cứu của đề tài là từ sau đổi mới đến nay.
Để đạt được mục đích nghiên cứu người viết đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp như: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp thống kê, phương pháp điều tra, phương pháp toán học, phương pháp đọc, phân tích và tổng hợp tài liệu, phương pháp phỏng vấn trực tiếp.
Ngoài phần mở đầu và kết luận kết cấu của luận văn gồm ba phần:
Chương I: Cơ sở khoa học của việc CPH DNNN trong nông nghiệp
Chương II: Thực trạng quá trình thực hiện CPH ở Công ty TPXK Bắc Giang
Chương III: Một số giải pháp thúc đẩy CPH ở Công ty TPXK Bắc Giang.
Do hạn chế về trình độ kinh nghiệm và thời gian nghiên cứu nên đề tài khó trách khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được các ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo và các bạn để đề tài nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
Chương I
Cơ sở khoa học của việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp
Đổi mới, sắp xếp lại để nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, trong đó có CPH, đang là vấn đề nóng bỏng, hết sức bức súc ở Việt Nam. Mặc dù chủ trương tiến hành CPH DNNN đã được đưa ra và thực hiện từ lâu, song đến nay tiến độ thực hiện còn rất chậm, ngay cả khi Chính phủ giao chỉ tiêu CPH cụ thể cho từng Bộ, ngành, địa phương. Chính vì vậy việc nghiên cứu về mặt lí luận, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn CPH DNNN trong và ngoài nước thời gian qua để tìm ra giải pháp thúc đẩy tiến trình CPH ở nước ta có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không chỉ góp phần thúc đẩy quá trình CPH mà còn góp phần lí giải định hướng đổi mới DNNN và kinh tế Nhà nước nói chung.
1. Vị trí, vai trò của kinh tế Nhà nước, DNNN trong nông nghiệp.
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất quan trọng và phức tạp. Nó giữ vai trò quan trọng, quyết định và không thể thiếu được trong phát triển kinh tế ở tất cả các nước nhất là các nước đang phát triển. Các nhà kinh tế đã chứng minh được rằng điều kiện để phát triển kinh tế đất nước là phải tăng được lượng cung về lương thực, thực phẩm bằng cách trực tiếp sản xuất hoặc có thể nhập khẩu từ các nước khác nếu không thể sản xuất hoặc không có lợi thế trong sản xuất nông nghiệp. Tuy có vai trò quan trọng như vậy, nhưng lâu nay nông nghiệp vẫn được coi là ngành sản xuất kém hiệu quả, vốn đầu tư lớn, thời gian hoàn vốn dài, rủi ro lớn. Vì vậy, sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp không hấp dẫn được nhiều thành phần kinh tế tham gia đầu tư, cho nên việc tồn tại của kinh tế Nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp là yêu cầu khách quan không chỉ vai trò của nông nghiệp với sự phát triển của nền kinh tế mà còn là sự phát triển của hàng triệu hộ nông dân.
1.1. Khái niệm kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp
Doanh nghiệp nông nghiệp Nhà nước là loại hình doanh nghiệp do Nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lí với tư cách chủ sở hữu, là pháp nhân kinh tế hoạt động theo phát luật, thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước giao.Từ khái niệm cho ta thấy những đặc trưng của kinh tế Nhà nước:
+ Là một tổ chức được Nhà nước thành lập bằng cánh đầu tư vốn (100% hoặc Nhà nước nắm cổ phần chi phối) để thực hiện những mục tiêu do Nhà nước giao.
+ DNNN do Nhà nước đầu tư vốn cho nên tài sản trong doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước.
+ DNNN có tư cách pháp nhân vì nó hội tụ đủ 4 điều kiện để trở thành pháp nhân theo quy định của pháp luật (được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập với các cá nhân, tổ chức khác và tự chụi trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập)
+ DNNN là doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn nghĩa là nó tự chịu trách nhiệm về nợ và cá nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi tài sản do doanh nghiệp quản lí.
1.2. Vị trí vai trò của DNNN trong nông nghiệp
Trong nông nghiệp chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế mang tính chất hỗn hợp, đa dạng và đan xen của nhiều hình thức sở hữu, nhiều khu vực sản xuất và dịch vụ, nhiều thành phần kinh tế cùng bình đẳng tồn tại và phát triển trong mối liên hệ hợp tác, liên kết cạnh tranh cùng nhau phát triển phù hợp với qui định pháp luật. Trong đó, thành phần kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp luôn có vai trò đầu tầu, định hướng phát triển để xây dựng một nền nông nghiệp phát triển bền vững đáp ứng nhu cầu không ngừng tăng nên của xã hội đối với các sản phẩm nông nghiệp và không làm giảm khả năng cho sản phẩm trong tương lai. Kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp hiện nay có vị trí và vai trò chủ yếu sau.
- Định hướng, tạo tiềm lực cho Nhà nước thực hiện vai trò điều tiết đối với nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Doanh nghiệp nông nghiệp Nhà nước quyết định quỹ đạo phát triển của nông nghiệp nông thôn, đảm bảo duy trì cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Sự can thiệp của kinh tế Nhà nước bằng tiềm lực kinh tế của mình cũng như một số công cụ pháp luật làm cho nền kinh tế thị trường hoạt động được thông suốt, tạo lập những cân đối lớn theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà bản thân kinh tế thị trường không thể tự điều tiết được. Kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp là lực lượng xung kích trong việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Để thực hiện vai trò của mình thì bản thân kinh tế Nhà nước phải đủ mạnh, có thực lực thật sự để dẫn dắt các thành phần kinh tế khác. Chúng ta không thể định hướng nền kinh tế bằng các công cụ phi kinh tế, bằng ý chí chủ quan và ý chí chính trị.
- Kinh tế Nhà nước nắm giữ các hoạt động quan trọng của nông nghiệp: Nông nghiệp là ngành cung cấp những sản phẩm tối cần thiết cho nhu cầu của con người, thiếu những sản phẩm này còn người không thể tồn tại và phát triển được. Những sản phẩm của nông nghiệp cho dù khoa học ngày nay rất phát triển nhưng cũng chưa thể tạo ra sản phẩm thay thế. Đối với nước ta nông nghiệp càng có vai trò quan trọng hơn khi hơn 70% dân số nước ta vẫn hoạt động trong nông nghiệp. Trong nông nghiệp có những lĩnh vực rất nhạy cảm chỉ cần một sự tác động nhỏ là có thể ảnh hưởng đến kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và đời sống của hàng triệu hộ nông dân. Những lĩnh vực như vậy không thể để cho các thành phần kinh tế khác kiểm soát được mà Nhà nước phải quản lí, kiểm soát chẳng hạn như sản xuất giống, phân bón, thuốc thú ý, hoạt động xuất nhập khẩu, thức ăn gia súc, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn… Tuy nhiên cũng không nên hiểu cứng nhắc là Nhà nước phải độc quyền trong lĩnh vực này mà nên hiểu Nhà nước kiểm soát hoạt động này, kết hợp cùng với các thành phần kinh tế khác phối hợp hoạt động sao cho có hiệu quả cao nhất.
- Kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp có vai trò hỗ trợ kinh tế hợp tác, kinh tế trang trại, kinh tế hộ kinh doanh có hiệu quả, phải là đòn bẩy trong xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, đưa công nghệ vào sản xuất, phát triển công nghệ chế biến để tiêu thụ nông sản, phải phát huy được vai trò là trung tâm công nghiệp dịch vụ, trung tâm chuyển giao công nghệ, trung tâm văn hoá. Hỗ trợ các thành phần kinh tế khác trong nông nghiệp khi cần thiết. Kinh tế Nhà nước phải là đầu tầu trong việc đưa nông nghiệp ra khỏi tình trạng sản xuất tự túc, tự cấp tiến lên sản xuất hàng hoá, phải nắm giữ cho được đại bộ phận các mặt hàng chủ lực thiết yếu cho đời sống, điều tiết và bình ổn giá cả có lợi cho nông dân.
2. Nhận thức cơ bản về cổ phần hoá và CTCP
2.1. Khái niệm cổ phần hoá
CPH DNNN là việc chuyển đổi hình thức sở hữu từ DNNN (doanh nghiệp đơn sở hữu) sang Công ty cổ phần(CTCP) (doanh nghiệp đa sở hữu) đồng thời chuyển doanh nghiệp từ chỗ hoạt động theo luật DNNN sang doanh nghiệp hoạt động theo các quy định về CTCP trong luật doanh nghiệp. Do vậy, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh cũng có sự chuyển biến từ Nhà nước độc quyền sang hoạt động theo các nguyên tắc của kinh tế thị trường tuân theo các quy luật như cung cầu, giá cả, cạnh tranh…
Trong quá trình CPH, tài sản của Nhà nước được chuyển đổi sở hữu cho nhiều đối tượng khác nhau bao gồm: các tổ chức kinh tế xã hội, các cá nhân trong và ngoài nước, Nhà nước cũng giữ lại một tỷ lệ cổ phần cho chính mình ở doanh nghiệp đó. Như vậy hình thức sở hữu tại doanh nghiệp đã chuyển từ đơn sở hữu sang đa sở hữu.
Với những đặc trưng như vậy, giải pháp CPH là giải pháp quan trọng nhất trong công cuộc cải cách DNNN đang diễn ra hiện nay; giải tỏa được những khó khăn cho ngân sách Nhà nước, khuyến khích người lao động đóng góp tích cực và có trách nhiệm sức lực, trí tuệ, vốn của họ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nói một cách ngắn gọn CPH là giải pháp khắc phục những vấn đề khó khăn trong khu vực kinh tế Nhà nước.
2.2. Khái niệm về Công ty cổ phần
Công ty cổ phần với tính cách là kết quả của việc CPH DNNN là công ty được thành lập trên cơ sở hợp tác của nhiều cá nhân bằng cách phát hành và bán cổ phiếu có mệnh giá bằng nhau. Lợi nhuận của công ty được phân phối giữa các cổ đông theo số lượng cổ phần mà mỗi cổ đông là chủ sở hữu.
- Vốn điều lệ của CTCP được chia thành nhiều phần bằng nhau
- CTCP có tư cánh pháp nhân và là doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn, cổ đông chỉ chịu tránh nhiệm về nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác trừ một số trường hợp theo quy định của pháp luật.
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế tối đa.
- CTCP có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của phát luật về chứng khoán.
3. Những đặc điểm cơ bản của CPH trong nông nghiệp
CPH là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, là giải pháp trung tâm để sắp xếp và đổi mới hoạt động của kinh tế Nhà nước. Các DNNN trong nông nghiệp hầu hết không nằm trong danh mục những DNNN cần nắm giữ 100% vốn hoặc những DNNN cần nắm cổ phần chi phối. Vì vậy, số lượng các doanh nghiệp nông nghiệp cần phải CPH là rất lớn. Để có thể chuyển nhanh các doanh nghiệp này sang hoạt động theo hình thức CTCP thì cần phải nghiên cưú kĩ những đặc điểm kinh tế kĩ thuật riêng có của các doanh nghiệp nông nghiệp mà có cách làm cho phù hợp.
3.1. Trong các doanh nghiệp nông nghiệp giá trị của đất đai chiếm một tỷ trọng lớn trong giá trị của doanh nghiệp.
Khác với các ngành kinh tế khác trong nông nghiệp đất đai có vị trí đặc biệt quan trọng nó vừa là tư liệu lao động vừa là đối tượng lao động. Trong nông nghiệp đất đai là tài sản vô giá, không có đất đai thì không có hoạt động sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp. Điểm đặc biệt của loại tư liệu sản xuất này là nếu biết sử dụng, cải tạo, bảo vệ hợp lí thì chúng chẳng những không bị hao mòn, chất lượng xấu đi, mà còn tốt hơn tức là độ phì của đất tăng lên. Cho nên diện tích đất đai thì có hạn nhưng sức sản xuất của đất đai thì không có giới hạn. Trong nông nghiệp giá trị của đất đai được xác định theo độ mầu mỡ của đất tức khả năng sinh lời của đất. Chính vì vậy khi xác định giá trị đất đai trong nông nghiệp không chỉ căn cứ vào diện tích bề mặt mà quan trọng hơn là phải căn cứ vào sức sản xuất (khả năng cho sản phẩm) của đất trong tương lai. Trong nông nghiệp giá trị đất đai thường chiếm một tỷ trọng tương đối lớn trong giá trị doanh nghiệp nên làm nẩy sinh những khó khăn khi CPH. Bởi vì nếu tính giá trị đất đai vào giá trị doanh nghiệp khi CPH sẽ đẩy giá trị doanh nghiệp lên rất cao trong khi đất đai chưa thể phát huy vai trò sinh lời ngay. Giá trị doanh nghiệp cao làm sao có thể hấp dẫn các nhà đầu tư bỏ vốn vào doanh nghiệp để sản xuất kinh doanh như vậy rất khó cho CPH trong nông nghiệp. Nếu giá trị đất đai không tính vào giá trị doanh nghiệp CPH thì Nhà nước sẽ mất đi một khoản thu và tạo ra sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp, giá trị doanh nghiệp thấp hơn giá thực tế rất dễ nẩy sinh tiêu cực.
3.2. Nông nghiệp từ lâu nay vẫn được coi là ngành sản xuất kinh doanh kém hiệu quả đời sống của cán bộ công nhân viên còn gặp nhiều khó khăn.
Đầu tư vào nông nghiệp thường là đầu tư dài hạn cần nhiều vốn, khả năng sinh lời thấp rủi ro cao do sản xuất nông nghiệp phải gắn với đất đai và điều kiện tự nhiên. Kết quả của sản xuất phải thông qua sinh trưởng và phát triển của cây trồng và vật nuôi. Giá của sản phẩm nông nghiệp có tính biến động lớn và ngày càng giảm so với giá của hàng công nghiệp. Chính vì sản xuất kém hiệu quả cho nên nông nghiệp sẽ không mấy hấp dẫn với các nhà đầu tư vì không một nhà đầu tư nào lại bỏ tiền vào một lĩnh vực kinh doanh chứa nhiều rủi ro mà hiệu quả lại không cao trong khi họ có thể lựa cho được cơ hội đầu tư tốt hơn. Hiệu quả kinh doanh thấp còn là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng khó khăn trong đời sống kinh tế cán bộ công nhân viên và những người cung cấp nguyên liệu cho doanh nghiệp. Với thu nhập như hiện nay thì chỉ đủ trang trải những chi phí tối cần thiết cho cuộc sống làm sao tạo được tích luỹ. Vì vậy khi CPH nguy cơ người lao động không mua được cổ phần và nằm ngoài quá trình CPH là rất lớn cho dù Nhà nước đã có nhiều chính sách ưu đãi. Nếu như người lao động không mua được cổ phần thì mục tiêu CPH có đạt được không, đời sống của người lao động có được cải thiện không, người lao động có thực sự là chủ doanh nghiệp không.
3.3. Trong nông nghiệp có một phần tài sản cố định có nguồn gốc sinh học
Ngoài những tài sản như máy móc thiết bị, nhà xưởng, dây chuyền sản xuất …trong nông nghiệp còn có những tài sản có nguồn gốc sinh học như vườn cây lâu năm, súc vật sinh sản. Điều đặc biệt của những tài sản này là chúng sinh trưởng phát triển theo những quy luật nhất định không phụ thuộc vào ý trí chủ quan của con người. Trong quá trình sử dụng tài sản này không bị khấu hao, có nhiều trường hợp giá trị đào thải lại lớn hơn giá trị ban đầu. Vì vậy trong quá trình CPH liệu có thể xác định giá trị tài sản này như những tài sản khác không khi mà giá trị hiện tại của nó không chỉ phụ thuộc vào hiện trạng mà còn phụ thuộc rất lớn vào khẳ năng cho sản phẩm trong tương lai. Khả năng sinh lời trong tương lai thì khó ai có thể xác định chính xác khi nông nghiệp luôn chứa đựng nhiều rủi do. Như vậy, công tác định giá các doanh nghiệp nông nghiệp sẽ gặp khó khăn hơn so với doanh nghiệp ở các lĩnh vực khác.
4. Sự cần thiết CPH DNNN trong nông nghiệp
Trong quá khứ sự hình thành và phát triển của DNNN trong nông nghiệp đã khẳng định được vị trí vai trò là đầu tầu kinh tế của nó không chỉ đối với nông nghiệp nói riêng mà còn cho cả nền kinh tế. Kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp đóng vai trò trung tâm trong khoa học kĩ thuật, các doanh nghiệp đã kết hợp với các doanh nghiệp làm dịch vụ kĩ thuật, các Viện và các Trung tâm nghiên cứu thực nghiệm để sản xuất giống cây trồng, vật nuôi. Các doanh nghiệp là cầu nối giúp các địa phương chuyển giao khoa học công nghệ cho các thành phần kinh tế khác. Theo thống kê đến năm 1986 cả nước có 475 doanh nghiệp nông nghiệp sản xuất, hành trăm doanh nghiệp hoạt động dịch vụ kĩ thuật. Các doanh nghiệp sản xuất đã quản lí và sử dụng 1,2 triệu ha đất tự nhiên trong đó chủ yếu là đất nông nghiệp. Thu hút khoảng 37 vạn lao động. Hệ thống các doanh nghiệp nông nghiệp được phân bố rộng khắp trên mọi miền của đất nước. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay khi trình độ của lực lượng sản xuất đã được cải thiện đáng kể mà theo như Mác thì “quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”. Vì vậy, đã đến lúc cần phải “xã hội hoá” vấn đề sở hữu, chuyển từ sở hữu đơn nhất sang sở hữu tập thể đó là yêu cầu khách quan. Sự thành lập một cánh tràn lan các DNNN chỉ chú ý đến số lượng không quan tâm đến chất lượng đã dẫn đến sự hoạt động hiệu quả của khu vực kinh tế Nhà nước thể hiện:
- Quản lí các doanh nghiệp theo cơ chế tập trung bao cấp dẫn đến bộ máy quản lí cồng kềnh nhưng hoạt động không hiệu quả, Nhà nước can thiệp quá sâu vào công việc nội bộ của các doanh nghiệp trong khi lại không chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của doanh nghiệp đã làm giảm tính chủ động, tăng tính ỷ lại trông chờ vào Nhà nước.
- Do được Nhà nước bao cấp nên các DNNN không có ý thức tiết kiệm làm lãng phí nguồn lực của Nhà nước, làm tăng chi phí sản xuất, hàng hoá làm ra không có sức cạnh tranh.
Bảng 1: Giá một số sản phẩm sản xuất trong nước so với các sản phẩm nhập khẩu (quý I năm 1999)
Đơn vị: USD/tấn
Tên sản phẩm
Giá xuất xưởng
Giá nhập khẩu
Giá xuất xưởng cao hơn(%)
Xi măng
50-60
40-50
20-50
Đường RS
360-400
260-300
20-50
Thép xây dựng
300
260-280
10-12
Phân URE
160-180
110-125
30-40
Nguồn: Tạp chí nghin cứu kinh tế số 254/7/1999
- Do tình trạng trạng độc quyền của các DNNN dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, các DNNN ỷ lại trông vào sự bảo hộ của Nhà nước, các thành phần kinh tế khác bị kìm kẹp làm cho lực lượng sản xuất không phát triển được nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế ngày càng hiện rõ.
- Do hoạt động không hiệu quả nên các DNNN là gánh nặng cho ngân sách. Hằng năm ngân sách Nhà nước phải chi một khoản không nhỏ đề bù lỗ và duy trì hoạt động của các DNNN trong khi nhiều lĩnh vực khác như y tế, giáo dục lại không nhận được sự đầu tư cần thiết. Trong 3 năm 1997-1999, ngân sách Nhà nước đã đầu tư trực tiếp cho các doanh nghiệp gần 8000 tỷ đồng, trong đó có 6.482 tỷ đồng cấp bổ sung cho doanh nghiệp, 1.464,4 tỷ đồng là bù lỗ, hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Ngoài ra Nhà nước còn miễn giảm thuế 2.288 tỷ đồng, xoá nợ 1.088 tỷ đồng, khoanh nợ 3.392 tỷ đồng, giãn nợ 540 tỷ đồng cho vay tín dụng ưu đãi 8.685 tỷ đồng. Nhưng đáng chú ý là việc này không mang lại hiệu quả tương ứng, số nộp vào ngân sách Nhà nước ít hơn phần Nhà nước hỗ trợ cho doanh nghiệp. Điều này không chỉ tăng thâm hụt ngân sách nhà nước mà còn tạo ra sự mất cân đối nghiêm trọng trong đầu tư phát triển kinh tế.
Đổi mới sắp xếp lại hoạt động của các DNNN là yêu cầu khách quan phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của nước ta và xu thế của thời đại. Có nhiều biện pháp để sắp xếp đổi mới hoạt động của DNNN như giao, khoán, bán, cho thuê nhưng CPH là giải pháp có nhiều ưu điểm hơn cả.
4.1. CPH cho phép huy động tối đa nguồn vốn từ các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước để phát triển kinh tế.
Vốn là điều kiện tồn tại và phát triển cho mỗi doanh nghiệp nói riêng và cho toàn bộ nền kinh tế nói chung. Hiện nay các DNNN nói chung và các DNNN trong nông nghiệp nói riêng đang đứng trước thực trạng là gần như không có vốn lưu động để hoạt động. Số vốn lưu động mà các doanh nghiệp có thể tự chủ được chỉ chiếm 10 – 30% để đảm bảo cho hoạt động của mình các doanh nghiệp phải thường xuyên vay của các ngân hàng Thương mại. Hiện nay vốn vay các ngân hàng chủ yếu là vốn vay ngắn hạn, đáp ứng nhu cầu thường xuyên của các doanh nghiệp, các doanh nghiệp cũng không dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn này do thủ tục vay vốn hiện nay còn rất rườm rà. Thiếu vốn là nguyên nhân cơ bản làm giảm hiệu quả của các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp thì thiếu vốn trong khi các công nhân và nông dân có nguồn vốn dư thừa nhưng chưa biết đầu tư vào đâu để đem lại hiệu quả cao nhất. Đa số vốn này dùng để tích trữ dưới dạng vàng hoặc ngoại tệ một số ít dành cho gửi tiết kiệm, chỉ có một phần nhỏ dùng cho hoạt động đầu tư kiếm lời là đầu tư vào thị trường bất động sản. Như vậy là có mâu thuẫn người có thể sử dụng vốn có hiệu quả thì không có vốn trong khi đó người có vốn lại không biết đầu tư vào đâu. CPH là giải pháp tốt để giải quyết tốt mâu thuẫn trên. CTCP có ưu thế là có thể huy động từ những nguồn vốn lớn từ các ngân hàng Thương mại, Công ty Tài chính đến những nguồn vốn nhỏ lẻ của công nhân, nông dân. Do vậy CTCP có thể huy động vốn ở trình độ xã hội hoá cao hơn so với các ngân hàng. Khả năng huy động vốn của CTCP sẽ được nâng lên khi thị trường chứng khoán nơi diễn ra hoạt động mua bán cổ phiếu được hình thành và phát triển.
4.2. CPH để đổi mới công nghệ nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp
Các doanh nghiệp nông nghiệp hiện nay được trang bị máy móc từ nhiều nguồn khác nhau như mua mới, chuyển giao, viện trợ… nhưng hầu hết các máy móc hiện nay các doanh nghiệp đang sử dụng đã rất lạc hậu được sản xuất từ những năm 50-60 của thế kỉ trước. So với các nước trên thế giới thì công nghệ hiện nay của ta đã lạc hậu từ 2-3 thế hệ cá biệt có những doanh nghiệp sử dụng máy móc đã lạc hậu từ 4-5 thế hệ. Theo một cuộc điều tra của Viện bảo hộ lao động vào giữa năm 1999 thì trên 70% số máy móc đang sử dụng đã khấu hao hết, 50% đã được tân trang, 38% số máy móc nằm trong tình trạng chờ thanh lí. Với công nghệ như vậy làm sao ta có thể tạo ra những sản phẩm có sức cạnh tranh ngay trên thị trường trong nước chứ chưa nói đến thị trường nước ngoài nguy cơ mất thị trường ngày càng hiện rõ. Thực tế hiện nay giá các mặt hàng nông sản chế biến của ta hiện nay chỉ bằng 70-80% giá sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong xu thế hội nhập quốc tế, chúng ta lại sắp trở thành thành viên của APTA và WTO nếu duy trì tình trạng như hiện nay thì không tránh khỏi nguy cơ tụt hậu ngày càng xa. CPH đưa người lao động lên làm chủ, có quyền quyết định mọi hoạt động của doanh nghiệp. Kết quả hoạt động của doanh nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của họ cho nên để tồn tại và phát triển họ phải đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô, giảm giá thành tăng sức cạnh tranh.
4.3. Nâng cao tiềm lực của kinh tế Nhà nước
Qua bán cổ phần Nhà nước đã huy động được một lượng vốn quan trọng từ người lao động trong doanh nghiệp, trong dân cư để đầu tư phát triển. Tại hơn 1000 doanh nghiệp đã CPH tính đến hết ngày 20/11/2003 Nhà nước đã thu hồi được hơn 4000 tỷ đồng để đầu tư vào các DNNN khác và giải quyết một số chính sách cho người lao động trong DNNN thực hiện CPH. Vốn và tài sản Nhà nước trong các CTCP không chỉ được bảo toàn mà còn tăng lên đáng kể. Hàng năm Nhà nước thu được lợi tức từ cổ phần Nhà nước tại CTCP, các khoản lãi do người lao động vay mua cổ phiếu, các khoản thuế từ CTCP. Bên cạnh đó hàng năm Nhà nước không phải mất một khoản hỗ trợ vốn hoặc bù lỗ cho các doanh nghiệp đã CPH.
4.4. Do yêu cầu nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp
Việc CPH DNNN đã thúc đẩy quá trình chuyển quản lí Nhà nước từ trực tiếp sang gián tiếp thông qua các công cụ pháp luật, chính sách; thúc đẩy củng cố nâng cao hiệu lực quản lí Nhà nước, nâng cao trình độ, năng lực quản lí của đội ngũ các bộ. Quyền kinh doanh đã được chuyển giao cho doanh nghiệp nên doanh nghiệp có quyền ra mọi quyết định liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, Nhà nước chỉ tham gia như một cổ đông của công ty.
4.5 Tạo ra động lực mới trong quản lí doanh nghiệp
CPH DNNN đã biến doanh nghiệp thành có chủ, những người trực tiếp điều hành và lao động trong chính doanh nghiệp. Quyền lợi của họ gắn với sự thành bại của doanh nghiệp, vì thế tất cả các thành viên đều rất quan tâm đến công việc của mình, lao động tích cựu với tinh thần trách nhiệm cao và óc sáng tạo phong phú. Những biểu hiện mới này hầu như không tồn tại trong doanh nghiệp trước khi CPH. Các CTCP hoạt động theo luật công ty trong đó Đại hội đồng cổ đông có quyền quyết định phương hướng của công ty cũng như giám sát hoạt động của Hội đồng quản trị và Giám đốc điều hành. Người lao động đồng thời là cổ đông có quyền yêu cầu lãnh đạo doanh nghiệp trình bầy trước Đại hội những vấn đề về thu chi của doanh nghiệp, có quyền thắc mắc về hiệu quả quản lí…Hơn nữa, do sự thay đổi về cơ chế tổ chức, vai trò trách nhiệm của các bộ phận, các tổ chức quần chúng được phân định rõ ràng, công đoàn có chức năng độc lập với người quản lí điều hành doanh nghiệp. Vì vậy, các ý kiến đóng góp từ phía nào đều được nghiêm túc lắng nghe…Bên cạnh việc quản lí tập trung không khí sinh hoạt dân chủ thực sự được cải thiện ở CTCP.
5. Những chủ chương chính sách của Đảng và Nhà nước về CPH và quá trình thực hiện
5.1. Những chủ trương chính sách
Chủ trương CPH DNNN đã được hình thành từ cuối những năm 80. Tại điều 22 của Quyết định số 217/HĐBT ngày 14/11/1987 của Hội đồng bộ trưởng nay là Chính phủ đã ghi “Bộ Tài chính nghiên cứu và tổ chức làm thí điểm việc mua bán cổ phần ở một số xí nghiệp (Quốc doanh) và báo cáo lên Hội đồng bộ trưởng vào cuối năm 1998”. Đó là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn nhưng có lẽ hơi sớm so với điều kiện cụ thể lúc đó bởi vì:
- Những tiêu cực, yếu kém của khu vực Quốc doanh chưa bộc lộ một cách đầy đủ, như là một đòi hỏi bức bách cần phải giải quyết.
- Những hiểu biết về kinh tế thị trường, đặc biệt là vấn đề CPH của chúng ta còn ít ỏi chưa đủ sức triển khai. Vì thế chủ trương đúng đắn đó đã bị lãng quên.
Đến năm 1989 tức hai năm sau Chính phủ lại có Quyết định số 143/HĐBT ngày 10/05/1989 về thí điểm CPH một số DNNN cùng với việc sắp xếp lại khu vực kinh tế Quốc doanh. Khác với lần trước là các doanh nghiệp chưa hiểu hết ý đồ của Chính phủ, dưới chưa chuyển biến kịp với trên, lần này ngược lại trên còn dè dặt thì dưới lại rất hăng hái. Trong khi các văn bản của Chính phủ đang dừng lại ở mức dự thảo chưa có quyết định chính thức chưa có hướng dẫn nhưng bên dưới thì đã triển khai. Kết quả là cuộc thí điểm đã không rút ra được kết luận chính xác và đầy đủ, các doanh nghiệp thì CPH theo ý đồ riêng của từng doanh nghiệp để đối phó với thực trạng lúc đó là các DNNN đang rơi vào tình trạng làm ăn thua lỗ, thiếu vốn nghiêm trọng và thất nghiệp tăng lên.
Quyết định 202/HĐBT ngày 8/6/1892 của Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) về thí điểm chuyển một bộ phận DNNN thành CTCP kèm theo đề án triển khai. Theo chỉ thị 202 CT CPH nhằm 3 mục tiêu:
- Thứ nhất là, phải chuyển sở hữu Nhà nước thành sở hữu của các cổ đông để nâng có hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
- Thứ hai là, huy động được một lượng vốn lớn trong và ngoài nước để phát triển kinh tế
- Thứ ba là, CPH là tạo điều kiện cho người lao động thực hiện quyền làm chủ của mình.
Qúa trình triển khai thực hiện thí điểm CPH DNNN đã được kiểm tra và tổng kết, bước đầu đã đem lại những ưu điểm và kết quả tốt như đời sống của người lao động được cải thiện đáng kể, đóng góp cho ngân sách tăng. Bên cạnh đó còn nhiều khó khăn vướng mắc nhất là trong cơ chế chính sách cần tiếp tục được hoàn thiện.
Chỉ thị số 84/TTG ngày 4/3/1993 của Thủ tướng Chính phủ “Về việc xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước”.
Thông tư số 36/TC-CN ngày 7/5/1993 của Bộ Tài chính, Thông tư số 99/LĐTBXH-TT ngày 22/7/1992 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội “ Hướng dẫn về lao động và chính sách với người lao động trong thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành CTCP”.
Chỉ thị số 685-TTg ngày 20/8/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thúc đẩy triển khai CPH DNNN.
Sau 6 năm từ 1992-1998 mặc dù Chính phủ và các cơ quan chức năng đã ban hành nhiều Nghị định, Chỉ thị, Thông tư hướng dẫn thực hiện chủ trương CPH nhưng xem ra CPH vẫn dậm chân tại chỗ. Trong 4 năm đầu từ 6-1992 đến 6-1996 mới CPH được 10 doanh nghiệp, hai năm tiếp theo mới CPH được 28 doanh nghiệp. Đứng trước thực trạng trên cần phải có chính sách CPH thông thoáng hơn hấp dẫn hơn để đẩy nhanh việc sắp xếp và đổi mới DNNN trong đó CPH là giải pháp trung tâm. Đáp ứng yêu cầu đó ngày 29/6/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định 44/1998/NĐ-CP “Về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành CTCP”. Khác với các văn bản trước đây, Nghị định mới của Chính phủ đã có sự chuyển biến căn bản tạo ra sức hấp dẫn thực sự với doanh nghiệp và người lao động, thủ tục trình tự CPH khá rõ ràng, có sự phân công nhiệm vụ cụ thể cho các ngành, địa phương, doanh nghiệp dễ triển khai
5.1.1. Nghị định 44/NĐ-CP quy định một số vấn đề sau:
* Hình thức CPH:
Theo điều 7 của Nghị định 44/1998/NĐ-CP thì CPH được tiến hành theo các hình thức sau đây:
+ Giữ nguyên giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp
+ Bán một phần giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp
+ Tách một bộ phận của doanh nghiệp để CPH
+ Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển thành CTCP
* Quy trình CPH: gồm 4 bước
Bước 1: Chuẩn bị CPH
Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp được thành lập do Giám đốc làm trưởng ban, Kế toán trưởng làm uỷ viên thường trực, các trưởng phòng ban kế hoạch, sản xuất kinh doanh, tổ chức cán bộ, kĩ thuật làm uỷ viên. Ban đổi mới quản lí có trách nhiệm tuyên truyền giải thích cho người lao động trong doanh nghiệp mình những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước để người lao động được biết và tổ chức thực hiện.
Ban đổi mới quản lí tại doanh nghiệp phải chuẩn bị ngay các tài liệu về: hồ sơ pháp lí thành lập doanh nghiệp, tình hình công nợ, tài chính, nhà xưởng, vật kiến trúc mà doanh nghiệp đang quản lí, các loại vật tư hành hoá ứ đọng, kém phẩm chất và đưa ra hướng giải quyết
Lập danh sách người lao động của doanh nghiệp đến thời điểm quyết định CPH: số người lao động, số năm công tác của từng người. Dự kiến số người nghèo được mua cổ phần theo giá ưu đãi của Nhà nước trả dần trong 10 năm
Dự toán chi phí CPH cho đến khi hoàn thành đại hội đồng cổ đông lần thứ nhất.
Bước 2: Xây dựng phương án CPH
Ban đổi mới quản lí tại doanh nghiệp tổ chức kiểm kê tài sản, vật tư tiền vốn, công nợ của doanh nghiệp. Căn cứ trên sổ sách kế toán của doanh nghiệp và kết quả kiểm kê đánh giá lại tài sản của doanh nghiệp, phối hợp với các cơ quan quản lí vốn để giải quyết những vướng mắc về tài chính và dự kiến đề nghị giá trị thực tế của doanh nghiệp, giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.
Ban đổi mới quản lí tại doanh nghiệp lập phương án CPH doanh nghiệp và dự thảo điều lệ tổ chức và hoạt động của CTCP.
- Phổ biến hoặc niêm yết công khai các dự kiến phương án trên để mọi người lao động cùng biết và thảo luận
- Tổ chức Đại hội công nhân viên để lấy ý kiến về dự thảo phương án, bàn phương hướng biện pháp cụ thể để có cơ sở hoàn thành phương án.
- Hoàn thiện phương án trình lên cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, hoàn thiện dự thảo điều lệ tổ chức và hoạt động của CTCP để trình Đại hội đồng cổ đông xem xét quyết định
Bước 3: Duyệt và triển khai phương án CPH
Ban quản lí đổi mới tại doanh nghiệp:
- Mở sổ đăng kí mua cổ phiếu của các cổ đông để đăng kí mua tờ cổ phiếu tại kho bạc Nhà nước
- Thông báo công khai tình hình tài chính của doanh nghiệp cho đến thời điểm CPH
- Thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng chủ trương bán cổ phần, tổ chức bán cổ phần của doanh nghiệp cho các cổ đông
-Trưởng Ban quản lí đổi mới doanh nghiệp triệu tập Đại hội cổ đông lần thứ nhất để bầu Hội đồng quản trị, Ban kiểm sát, thông qua điều lệ tổ chức và hoạt động của CTCP.
Bước 4: Ra mắt CTCP, đăng kí kinh doanh
- Giám đốc, Kế toán trưởng doanh nghiệp với sự chứng kiến của Ban đổi mới quản lí doanh nghiệp và đại diện cơ quan quản lí vốn và tài sản Nhà nước bàn giao cho Hội đồng quản trị CTCP: lao động, tiền vốn, tài sản, danh sách hồ sơ cổ đông và toàn bộ các hồ sơ tài liệu sổ sách của doanh nghiệp.
- Ban đổi mới quản lí tại doanh nghiệp bàn giao những công việc còn lại (nếu có) cho Hội đồng quản trị và công bố giải thể từ ngày kí biên bản bàn giao
- Hội đồng quản trị của CTCP hoàn tất những công việc còn lại
Nghị định 44/NĐ-CP đã tạo ra sự đột biết tác động tích cực đến quá trình CPH nhưng nó vẫn còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn gây cản trở đến tiến độ CPH, vì vậy cần phải có Nghị định mới ra đời thay thế. Ngày 19/6/2002 Chính phủ ra Nghị định số 64/2002/NĐ-CP thay thế cho Nghị định 44/1998/NĐ-CP.
5.1.2. Nghị định số 64/2002/NĐ-CP quy định một số vấn đề sau
1. Mục tiêu và đối tượng CPH
* Mục tiêu:
Nghị định này quy định rất rõ ràng các mục tiêu CPH theo đúng tinh thần NQTW3 theo đó CPH nhằm 3 mục tiêu chính:
- Góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp; tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lí năng động cho doanh nghiệp để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước và doanh nghiệp
- Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đổi mới công nghệ và phát triển doanh nghiệp.
- Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông, tăng cường sự giám sát của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp: đảm bảo hài hòa lợi ích Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư, người lao động.
* Đối tượng CPH:
Đối tượng CPH là các DNNN và các đơn vị phụ thuộc của các doanh nghiệp không thuộc đối tượng mà Nhà nước cần phải nắm 100% số vốn, được xác định theo tiêu chí, danh mục phân loại DNNN quy định tại quyết định số 58/2002/QĐ-TTg không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các đơn vị phụ thuộc chỉ được tiến hành CPH khi các đơn vị này có đủ điều kiện hoạch toán độc lập và không gây khó khăn hoặc ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các bộ phận còn lại của doanh nghiệp.
2. Đối tượng mua cổ phần và quyền mua cổ phần lần đầu
Khắc phục những tồn tại của các quyết định trước về giới hạn mua cổ phần lần đầu của các tổ chức và các cá nhân làm ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng huy động vốn của toàn xã hội. Nghị định mới ra đời đã chính thức xoá bỏ mức khống chế về quyền mua cổ phần lần đầu đối với các nhà đầu tư trên cơ sở đảm bảo các quy định về số cổ đông tối thiểu và cổ phần chi phối tại các doanh nghiệp mà Nhà nước cần nắm cổ phần chi phối. Riêng các nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ phần có tổng giá trị không quá 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp hoạt động trong những ngành nghề do Thủ tướng Chính phủ quy định
3. Xử lí những tồn tại về tài chính trước khi CPH
Những quy định trước đây về vấn đề này đã gây nhiều cản trở cho việc CPH DNNN chính vì Nghị định lần này quy định vấn đề này rất rõ ràng
* Về tài sản:
Đối với doanh nghiệp có nhiệm vụ phải chủ động kiểm kê, phân loại và xử lí những tài sản không cần dùng hoặc không thể sử dụng được theo cơ chế hiện hành. Trong trường hợp đến thời điểm CPH mà doanh nghiệp vẫn chưa xử lí xong vấn đề này thì không tính giá trị tài sản này vào tài sản doanh nghiệp CPH và uỷ quyền cho CTCP tiếp tục quản lí và sử dụng số tài sản này. Đối với tài sản được đầu tư bằng quỹ khen thưởng phúc lợi của doanh nghiệp thì được chuyển giao cho người lao động trong doanh nghiệp quản lí và sử dụng thông qua tổ chức công đoàn của doanh nghiệp (đối với tài sản thuộc công trình phúc lợi) hoặc chuyển thành cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp CPH (đối với những tài sản được sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh). Đối với tài sản đem góp vốn kinh doanh với nước ngoài, nếu doanh nghiệp cổ phần kế thừa hoạt động kinh doanh thì toàn bộ tài sản đem góp vốn liên doanh sẽ được tính vào giá trị doanh nghiệp đem CPH, trong trường hợp doanh nghiệp không tiếp tục kế thừa hoạt động kinh doanh thì phải báo cho cơ quan có thẩm quyền để giải quyết, xử lí vốn góp liên doanh theo hướng mua lại vốn góp liên doanh hoặc chuyển số vốn này cho doanh nghiệp khác có điều kiện quản lí sử dụng làm đối tác mới trong liên doanh.
* Về công nợ:
Nghị định mới quy định rõ hơn về trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc xử lí các khoản nợ đọng của doanh nghiệp trước khi CPH. Cho phép doanh nghiệp bán nợ hoặc chuyển nợ thành cổ phần thông qua kết quả đấu giá bán cổ phần hoặc theo thoả thuận giữa doanh nghiệp với các chủ nợ nhưng giá cổ phần không được thấp hơn giá bán cổ phần cho các đối tượng khác ngoài doanh nghiệp. Các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ quá hạn được nhà nước hỗ trợ thông qua các giải pháp như khoanh nợ, giãn nợ, xoá nợ đọng, hỗ trợ vốn đầu tư đối với các khoản nợ ngân sách và nợ thuế, được khoanh nợ, giãn nợ, xoá nợ đọng, giảm lãi suất vay ngân hàng hoặc được chuyển thành vốn góp cổ phần, được dùng thu nhập trước thuế đến thời điểm CPH để bù lỗ các khoản lỗ luỹ kế của các năm trước. Trong trường hợp đến thời điểm CPH vẫn chưa xử lí xong nợ và tồn đọng thì được giảm trừ vào giá trị phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp CPH.
4. Cơ chế xác định giá trị doanh nghiệp
Cơ chế định giá doanh nghiệp khi CPH được hoàn thiện theo hướng gắn với thị trường: Bổ sung thêm các căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp là khả năng sinh lời của doanh nghiệp để tạo điều kiện để tính đúng tính đủ, nhanh chóng trong việc xác định giá trị doanh nghiệp tại thời điểm CPH. Bổ sung thêm quy định về tính giá trị quyển sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp theo đó trước mắt vẫn áp dụng chính sách thuê đất và giá đất theo những quy định hiện hành. Riêng đối với diện tích Nhà nước giao cho doanh nghiệp để kinh doanh nhà và hạ tầng thì phải tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp khi CPH. Giá trị đất được xác định theo khung giá chuyển quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền quy định và không thấp hơn chi phí đã đầu tư cho đất như: chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng, san lấp, xây dựng cơ sở hạ tầng…Tuỳ theo đặc điểm ngành nghề hoạt động sản xuất kinh doanh và điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp mà cho phép áp dụng nhiều phương pháp khác nhau để định giá doanh nghiệp CPH.
Sửa đổi phương pháp xác định lợi thế kinh doanh: nếu như trước đây giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp được xác định dựa trên cơ sở so sánh tỷ suất lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp trước khi CPH với các DNNN khác cùng ngành nghề trên cùng địa bàn. Nay theo Nghị định số 64 giá trị lợi thế kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động trong cùng ngành nghề đều được xác định dựa trên cơ sở: mức chênh lệch của tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn Nhà nước bình quân 3 năm liền kề trước khi CPH với lãi suất đầu tư Trái phiếu của Chính phủ ở thời điểm gần nhất (được coi là hoạt động ít rủi do nhất) nhân với giá trị phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp ở thời điểm định giá. Trong trường hợp doanh nghiệp có thương hiệu được thị trường chấp nhận thì giá trị lợi thế kinh doanh do thương hiệu mang lại được xác định theo giá trị thị trường. Nghị định này cũng bổ sung thêm quy chế về tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp. Trước đó, hoạt động xác định giá trị doanh nghiệp chỉ được thực hiện theo cơ chế Hội đồng. Nay bổ sung thêm cơ chế thực hiện giá trị doanh nghiệp CPH thông qua Công ty Kiểm toán và các tổ chức kinh tế có chức năng định giá. Tuỳ theo điều kiện cụ thể, cơ quan quyết định CPH có thể lựa chọn và quyết định việc định giá doanh nghiệp theo Hội đồng hay thuê các tổ chức trung gian.
5. Bán cổ phần phát hành lần đầu
Xác định ưu tiên bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp và người cung cấp nguyên liệu đã đăng kí, sau đó mới bán cổ phần cho người bên ngoài. Tại Nghị định số 64 cán bộ quản lí tại DNNN từ phó phòng nghiệp vụ trở nên không bị khống chế mức cổ phần ưu đãi bình quân trong doanh nghiệp. Người lao động trong doanh nghiệp CPH đều có quyền và nghĩa vụ như nhau dựa theo số năm tháng đã làm việc tại khu vực Nhà nước trước khi CPH.
Quy định việc bán cổ phần ra bên ngoài phải thông qua các Tổ chức Tài chính trung gian do cơ quan có thẩm quyền quyết định CPH lựa chọn và bằng hình thức đấu thầu, đấu giá hoặc bảo lãnh phát hành theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
Bổ sung quy định về thời hạn cho việc bán cổ phần ở các DNNN CPH là 2 tháng kể từ ngày có quyết định chuyển đổi mà không bán hết thì cơ quan có thẩm quyền quyết định CPH, quyết định việc bán cổ phần rộng rãi ra bên ngoài.
6. Quản lí và sử dụng tiền thu từ bán phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp CPH
Số tiền thu được từ bán phần vốn Nhà nước sau khi trừ đi các khoản chi phí được chuyển về quỹ hỗ trợ từ Trung ương đến các Tỉnh, Thành phố và các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty tuỳ thuộc vào các cấp quản lí doanh nghiệp.
Số tiền thu được sẽ được sử dụng theo thứ tự ưu tiên như sau:
* Hỗ trợ doanh nghiệp thanh toán trợ cấp cho người lao động thôi việc, mất việc ở thời điểm CPH và thời điểm đã chuyển sang CTCP
* Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc đào tạo lại lao động
* Đầu tư cho các doanh nghiệp đã CPH để đảm bảo tỷ trọng chi phối của Nhà nước đối với loại hình DNNN cần nắm giữ cổ phần chi phối
* Hỗ trợ các DNNN gặp khó khăn trong việc CPH
7. Chính sách với doanh nghiệp CPH và người lao động
Nghị định mới bổ sung cho phép doanh nghiệp CPH không bắt buộc phải sử dụng hết lao động hiện có tại doanh nghiệp vào thời điểm CPH
Có chính sách ưu đãi mới về thuế cho các doanh nghiệp CPH “Doanh nghiệp nhà nước chuyển thành CTCP được hưởng ưu đãi về thuế theo quy định của luật khuyến khích đầu tư trong nước áp dụng cho doanh nghiệp thành lập mới (không phải làm thủ tục cấp chứng nhận ưu đãi đầu tư)”.
Cho phép doanh nghiệp đang thuê nhà cửa, vật kiến trúc của các cơ quan Nhà nước và các DNNN khác vẫn được duy trì các hợp đồng hoặc được ưu tiên mua lại theo giá thị trường. Các doanh nghiệp CPH có tính giá trị đất vào giá trị doanh nghiệp thì được sử dụng đất để nhượng bán, thế chấp, đem góp vốn liên doanh…
Đối với người lao động được mua cổ phần ưu đãi ghi tên và được chuyển nhượng sau ba năm. Không khống chế tổng giá trị ưu đãi theo % trên giá trị vốn Nhà nước thực tế. Đối với lao động dôi dư trong quá trình CPH thì được giải quyết chế độ theo Nghị định 41/2002/NĐ-CP ngày 11/4/2002
8. Thẩm quyền quyết định và điều chỉnh giá trị doanh nghiệp
Chuyển toàn bộ quyền quyết định và điều chỉnh giá trị doanh nghiệp CPH cho các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân Thành phố, Tỉnh trực thuộc Trung ương quyết định, kể cả trường hợp giá trị sổ sách đến 500 triệu đồng. Nếu quá mức này thì phải được Bộ Tài chính chấp nhận bằng văn bản.
9. Về thẩm quyền phê duyệt phương án và quyết định chuyển đổi DNNN thành CTCP.
Nghị định này quy định chuyển giao toàn bộ thẩm quyền phê duyệt phương án CPH và quyết định chuyển DNNN thành CTCP cho Bộ trưởng các bộ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương; đối với các doanh nghiệp CPH mà Nhà nước cần nắm giữ cổ phần đặc biệt thì báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Đi kèm với Nghị định 64 còn có các văn bản khác như Thông tư số 76/2002/TT- BTC, Thông tư số 15/2002/TT- LĐTBXH để hướng dẫn thi hành những điều đã quy định tại Nghị định 64
5.2. Kết quả sau hơn 10 năm thực hiện CPH
Từ năm 1992 Đảng và Chính phủ bắt đầu thực hiện một chủ trương lớn là CPH DNNN. Qua nhiều giai đoạn hoàn thiện đến nay kế hoạch tổng thể về sắp xếp và đổi mới đã được định hình và dự tính phải hoàn thiện trong năm 2005. Theo các đề án sắp xếp đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, sẽ có 1866 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn và 2923 doanh nghiệp thực hiện sắp xếp, chuyển đổi sở hữu dưới các hình thức CPH, giao khoán, bán, cho thuê, giải thể, phá sản. Năm 2003 đã kết thúc chúng ta hãy nhìn lại chặng đường CPH chúng ta đã đi qua xem chúng ta đã làm được gì, những gì chưa làm được và cần phải làm gì trong thời gian tới.
5.2.1. Những thành tựu đạt được:
+ Tiến độ CPH bước đầu được cải thiện: Đã hơn 10 năm trôi qua kể từ khi có chủ trương chuyển DNNN thành CTCP. Tính đến ngày 20/11/2003 cả nước đã CPH được 12641 Nguồn tạp chí kinh tế phát triển số 5/2004
doanh nghiệp kết quả cụ thể các năm như sau:
Bảng 2: số doanh nghiệp đã CPH (tính đến ngày 20/11/03)
Nguồn: tạp chí kinh tế phát triển số 5/2004
Trong đó từ tháng 6/1992 đến tháng 4/1996 CPH được 5 doanh nghiệp, từ tháng 5/1996 đến tháng 6/1998 CPH được 25 doanh nghiệp, sáu tháng cuối năm số doanh nghiệp được CPH tăng đột biến lên gần 100 đơn vị. Có sự tăng đột biến như vậy là do ngày 29/6/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định 44/1998/NĐ-CP với nhiều nội dung thông thoáng hơn so với các văn bản trước. Năm 1999 là năm có số lượng doanh nghiệp được CPH lớn nhất 250 doanh nghiệp nhưng rất tiếc là tốc độ tăng trong các năm tiếp theo không được duy trì mà liên tục giảm từ 212 doanh nghiệp năm 2000 xuống 204 doanh nghiệp năm 2001 và chỉ còn 148 doanh nghiệp năm 2002 để khắc phục tình trạng chậm trễ trong CPH ngày 19/6/2003 Chính phủ ra Nghị định số 64/2002/NĐ-CP “về chuyển DNNN thành CTCP” thay thế cho nghị định số 44/1998. Nghị định này như một luồng gió mới thổi vào tạo ra sức hấp dẫn của CPH, những vướng mắc trong quá trình CPH đã được gỡ bỏ vì vậy chỉ trong 11 tháng đầu năm 2003 chúng ta đã CPH được 312 doanh nghiệp.
+ Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp tăng lên rõ rệt:
Hầu hết các doanh nghiệp đều có chuyển biến tích cực, toàn diện kể cả các doanh nghiệp trước CPH bị thua lỗ, cụ thể như sau1 Số liệu lấy từ tạp chí Lý luận chính trị số 1/2001
- Doanh thu bình quân hàng năm tăng trên 25%
- Lợi nhuận trước thuế hằng năm tăng bình quân trên 26% có công ty đạt gấp 2-3 lần so với trước khi CPH.
- Nộp ngân sách Nhà nước tăng bình quân trên 30% cá biệt có những doanh nghiệp tăng gấp đôi
- Lãi cổ tức đạt cao hơn lãi suất tiết kiệm, bình quân 1-2% trên tháng
- Thu nhập hàng tháng của người lao động tăng 20%
- Số lao động thu hút thêm vào các CTCP tăng 20%
+ Hình thành cơ chế phân phối mới ở các DNNN CPH theo hướng phát huy các nguồn lực của kinh tế thị trường
Nếu như trước kia việc phân phối do Nhà nước quy định mang nặng tính chất bình quân chủ nghĩa thì nay sau khi chuyển sang CTCP người lao động mua cổ phần và trở thành cổ đông của công ty, họ vừa là người chủ doanh nghiệp vừa là người lao động làm thuê. Ngoài tiền lương hưởng theo sự đóng góp vào công ty người lao động còn có thêm một khoản thu nhập nữa đó là lợi tức cổ phần. Không những thu nhập của người lao động tăng lên mà phần thu của Nhà nước cũng tăng do thu được thuế và lợi tức từ cổ phần Nhà nước.
Trong các DNNN CPH đã hạn chế được tình trạng lãng phí, thất thoát vốn, giảm các chi phí đầu vào, nâng cao chất lượng hạ giá thành sản phẩm, nâng cao khả năng cạng tranh và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Hình thức phân phối theo cổ phiếu đã hấp dẫn không ít nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp điều này không chỉ thể hiện sự ủng hộ của toàn xã hội đối với CPH mà còn tăng thêm nguồn vốn, góp thêm kiến thức, kinh nghiệm sự giám sát hoạt động của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển
5.2.2. Một số vấn đề còn vướng mắc
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì quá trình CPH vẫn còn nhiều vướng mắc, bất cập dẫn đến kết quả CPH chưa được theo ý muốn.
+ Tốc độ CPH tiến hành còn chậm
Trong giai đoạn thí điểm, 4 năm đầu chúng ta mới CPH được 5 doanh nghiệp. Trong giai đoạn mở rộng và thúc đẩy quá trình CPH, tuy CPH có diễn ra nhanh hơn nhưng vẫn chưa đạt được tốc độ mong muốn. Theo dự kiến đến năm 1999 CPH xong 400 DNNN, đến hết năm 2000 sẽ chuyển khoảng 20% tổng số DNNN (khoảng 1200 doanh nghiệp) thành CTCP, nhưng đến ngày 30/6/2000 cả nước mới CPH được 450 doanh nghiệp tức 7% tổng số DNNN. Nếu tính đến hết 20/11/2003 cả nước mới CPH được 1264 doanh nghiệp, trong khi theo kế hoạch riêng năm 2003 chúng ta sẽ CPH 896 doanh nghiệp nhưng có lẽ chúng ta cũng chỉ CPH được hơn 300 doanh nghiệp.
+ Các doanh nghiệp đã CPH đa số là doanh nghiệp nhỏ
Trong 460 doanh nghiệp đã CPH trong giai đoạn 1992- 2000 vốn Nhà nước được đánh giá lại khi CPH là 1920 tỷ đồng. Khi CPH Nhà nước giữ lại 762 tỷ đồng, phần còn lại 1128 tỷ đồng bán cho người lao động trong và ngoài doanh nghiệp. Như vậy tính bình quân vốn của các doanh nghiệp đã CPH là 4,17 tỷ đồng. Doanh nghiệp đã CPH có số vốn Nhà nước lớn nhất là 92,5 tỷ đồng (CTCP chế biến mía đường Lam Sơn), số vốn nhỏ nhất là 32 triệu đồng (CTCP chế biến chiếu cói xuất khẩu Kim Sơn). Các doanh nghiệp CPH có số vốn quá nhỏ, không phù hợp với loại hình CTCP là loại hình chỉ phát huy thế mạnh khi doanh nghiệp có quy mô sản xuất lớn.
+ Mục tiêu huy động vốn của toàn xã hội để phát triển doanh nghiệp đạt kết quả chưa cao.
Theo những quy định mới nhất là mục tiêu của CPH là nhằm thu hút mọi nguồn vốn của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước để phát triển kinh tế. Thực tế hiện nay trong số hơn 1000 doanh nghiệp đã CPH thì số doanh nghiệp thu hút vốn từ các cổ đông ngoài doanh nghiệp chỉ chiếm chưa tới 50%. Không những thế số doanh nghiệp có cổ đông ngoài tham gia thì số vốn góp của các cổ đông này còn khiêm tốn chỉ vào khoảng 1-20%. Số doanh nghiệp có cổ đông nước ngoài chỉ đếm trên đầu ngón tay và tỷ lệ góp vốn của họ cũng rất thấp.
+ CPH mang tính nội bộ
Quá trình CPH một doanh nghiệp từ phương án, các bước thực hiện cho đến những người tham gia đều có tính nội bộ cao. “Toàn bộ quá trình CPH không được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, thiếu những quy định bắt buộc phải công bố công khai từng bước CPH như định giá doanh nghiệp, đấu giá cổ phần, thời điểm bán cổ phần”, nhất là đối với những doanh nghiệp nhiều lợi thế kinh doanh. Danh sách người mua cổ phần được giữ kín cho đến khi bán xong, kể cả sau khi đã hết cổ phần cũng không được tiết lộ. Tỷ lệ bán cổ phần bán ra bên ngoài quá ít. Các cổ đông ngoài doanh nghiệp bị đối xử phân biệt về giá và thường bị gây khó dễ cho các hoạt động chính đáng của họ. Quy định bán cổ phiếu cho các cổ đông trong doanh nghiệp và các đối tượng ưu tiên khác theo giá được xác định, còn lượng cổ phiếu được bán ra bên ngoài được bán thông qua đấu giá là điều không hợp lý. Giá cổ phiếu cần được xác định khách quan, qua đấu giá và là giá chung. Việc giảm giá bao nhiêu phần trăm cho các đối tượng ưu tiên phải làm công khai, minh bạch, tách hoàn toàn khỏi việc xác định giá. Có thể tăng tỷ lệ cổ phần bán ra bên ngoài qua hình thức đấu giá, lấy mức giá đó làm chuẩn để tính giảm giá cho các đối tượng được ưu đãi.
5.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại trên
* Khách quan
+ Trình độ phát triển sản xuất của nước ta còn thấp
+ Nền kinh tế thị trường đang trong quá trình hình thành và phát triển
+ Trình độ dân trí thấp, mang nặng tâm lí sản xuất nhỏ
* Chủ quan
+ Nhận thức về vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường chưa thống nhất
+ Chưa làm tốt việc tuyên truyền về chủ trương CPH DNNN của Đảng và Chính phủ
+ Đặt lợi ích cục bộ trên lợi ích quốc gia
+ Tâm lí sợ mất việc làm của đại bộ phận người lao động trong DNNN, vốn đã quen dựa vào cơ chế bao cấp
+ Việc điều hành triển khai CPH còn chậm và lúng túng, cơ chế chính sách còn chưa thống nhất, thiếu tính thực tế thủ tục phiền hà.
5.2.4. Phương hướng và giải pháp trong thời gian tới
Theo kế hoạch đề ra đến năm 2005 chúng ta phải hoàn thành việc sắp xếp và đổi mới hoạt động của các DNNN. Tính đến hết năm 2003 chúng ta mới chỉ hoàn thành một nửa công việc vậy là trong 2 năm cuối chúng ta phải làm công việc bằng 12 năm qua điều này quả không dễ. Vậy trong thời gian tới chúng ta phải làm gì để hoàn thành nhiệm vụ mục tiêu đề ra:
- Xây dựng kế hoạch CPH cụ thể giao nhiệm vụ cho từng Bộ, địa phương, Tổng công ty
- Tăng cương công tác tập huấn về CPH cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo đến nghiệp vụ của các cơ quan quản lí và doanh nghiệp, đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục để nâng cao nhận thức cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp và người dân trong việc CPH doanh nghiệp.
- Rà soát lại tình hình tài chính của các doanh nghiệp, những doanh nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong danh sách CPH nhưng thua lỗ mất hết vốn Nhà nước thì kiên quyết thực hiện phá sản
- Tổ chức các hội nghị cả nước hoặc từng vùng để trao đổi kinh nghiệm trong quá trình thực hiện CPH và đề xuất kiến nghị sửa đổi bổ sung các chính sách cho phù hợp với thực tiễn.
- Hoàn thiện quy trình CPH theo hướng nhanh gọn chính xác đặc biệt là trong công tác xác định giá trị doanh nghiệp.
- Thúc đẩy sự hoạt động của thị trường chứng khoán bằng cách lựa chọn các CTCP có đủ điều kiện để niêm yết trên Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, từ đó sẽ có tác dụng trở lại đối với việc CPH DNNN.
6. Kinh nghiệm CPH ở một số nước trên thế giới
CPH DNNN là vấn đề rất mới đối với Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu kinh nghiệm CPH DNNN của các nước trên thế giới đặc biệt là các nước có điều kiện tương đồng như: Trung Quốc, Nga, các nước ASEAN để tìm kiếm kinh nghiệm có thể vận dụng vào thực tiễn ở Việt Nam là vô cùng quan trọng. Tuy CPH DNNN mang đặc thù riêng của mỗi nước.
6.1. CPH ở Trung Quốc
Trung Quốc và Việt Nam không chỉ gần gũi nhau về địa lí mà còn có những tương đồng về mô hình kinh tế Kế hoạch hoá tập trung trước đây và các định hướng chuyển đổi hiện nay, vì vậy xem xét CPH ở Trung Quốc là cần thiết cho việc CPH ở Việt Nam.
* Quan điểm CPH ở Trung Quốc
Trung Quốc dựa trên những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lê Nin để tiến hành chuyển hoá DNNN; coi CPH là bộ phận hữu cơ trong tổng thể đổi mới DNNN, luôn khẳng định đây là con đường tìm kiếm hiệu quả kinh doanh chứ không phải là tìm kiếm các hình thức sở hữu khác nhau; đổi mới DNNN là khâu then chốt của cải cách kinh tế, coi tiền đề của cải cách là xây dựng đồng bộ cơ chế thị trường.
* Mục tiêu CPH ở Trung Quốc
- Mở rộng hình thức sở hữu tạo cơ sở cho sự phát triển của kinh tế thị trường
- Điều chỉnh lại vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước nâng cao năng lực quản lí và hiệu quả kinh doanh của DNNN.
- Định hướng năng lực hành chính của Nhà nước giảm bớt tham nhũng và thói quen dựa dẫm vào Nhà nước, thay đổi mối quan hệ giữa những người quản lí hành chính với những người quản lí kinh tế.
- Thương mại hoá hành vi quản lí tạo ra chế độ khuyến khích với các nhà quản lí, thay đổi lực lượng lao động, nâng cao thu nhập. Tăng nguồn thu để trả nợ và cho các mục đích khác, cân bằng ngân sách.
* Hình thức CPH
- Nhà nước cùng với các doanh nghiệp trong nền kinh tế tham gia nắm giữ cổ phần để hình thành nên CTCP
- Bán cổ phần cho người lao động trong nội bộ doanh nghiệp
- CPH DNNN bằng cách phát hành công khai cổ phần ra xã hội
* Phương pháp CPH
Tiến hành CPH DNNN theo thứ tự doanh nghiệp có quy mô nhỏ trước quy mô vừa và lớn sau cùng với hình thành tập đoàn CTCP, coi trọng hình thức CTCP mà Nhà nước nắm cổ phần chi phối các doanh nghiệp lớn, ngành kinh tế quan trọng.
* Quy trình CPH
- Xác định danh sách các DNNN có đủ điều kiện CPH (kinh doanh có lãi không nằm trong diện DNNN cần phải nắm giữ 100% vốn)
- Xác định thực tế tài sản doanh nghiệp
- Tuyên truyền quảng cáo hoàn thiện chính sách để mọi người nắm được thực chất hoạt động của doanh nghiệp và có quyết định mua cổ phần.
- Lựa chọn phương thức bán cổ phần rộng rãi cho công chúng hay bán cho các đối tượng đã xác định trước, mức giá bán cổ phiếu ưu đãi
- Giải quyết các vấn đề hậu CPH
6.2. CPH ở một số nước ASEAN
Các nước ASEAN có đặc điểm chung là hầu hết nền kinh tế các nước đều có tốc độ tăng trưởng nhanh và tương đối ổn định. Các DNNN hoạt động theo cơ chế thị trường là chính chỉ có một bộ phần nhỏ là hoạt động công ích chính vì vậy hiệu quả kinh doanh được đặt lên hàng đầu, nếu các DNNN mà hoạt động không hiệu quả thì sẽ bị giải thể hoặc phá sản. Mục đích chính của CPH ở các nước ASEAN là: nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế Nhà nước nói riêng, của toàn bộ nền kinh tế nói chung, xây dựng lại cơ cấu kinh tế theo hướng ưu tiên kinh tế tư nhân, tạo môi trường kinh doanh tích cực đảm bảo công bằng giữa các thành phần kinh tế xoá bỏ một phần lối kinh doanh độc quyền kém hiệu quả của kinh tế Nhà nước, giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Singapore và Malaisia là hai nước tương đối thành công trong CPH DNNN.
Tại Singapore Nhà nước đã sớm soạn thảo một chương trình CPH có hệ thống phù hợp với đặc điểm tình hình trong nước, một Uỷ ban tư nhân hoá khu vực kinh tế Nhà nước được thành lập đã đề ra chương trình CPH hoàn chỉnh dự định kéo dài trong 10 năm. Các DNNN làm ăn có lãi được chọn là đối tượng CPH trước tiên. Thành công nhất trong CPH ở Singapore là đã không để xẩy ra tình trạng thâm hụt ngân sách, vẫn duy trì được mức tăng trưởng và tích luỹ cao. Do vậy mà hầu hết các mục tiêu CPH Singapore đề ra đã đạt được.
Malaisia đã thay đổi các chính sách kinh tế theo đó lấy cải cách khu vực kinh tế Nhà nước làm trọng tâm. Chuyển khoảng 20% số DNNN hiện có sang CTCP hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn nhằm cơ cấu lại DNNN theo hướng hoạt động có hiệu quả, giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, hạ mức nợ của Chính phủ. Tháng 5/1995 Malaisia đã CPH thành công 120 DNNN trong đó có những doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực then chốt như: hàng không, điện lực, bưu chính viễn thông… Malaisia đã chấp nhận xoá bỏ một phần sở hữu Nhà nước theo quan niệm DNNN trong một số ngành thuộc hạ tầng cơ sở hoặc dịch vụ trước đây tư nhân không đầu tư nên Nhà nước phải chịu trách nhiệm. Còn bây giờ khu vực kinh tế tư nhân đã đủ sức vươn tới những lĩnh vực này thì nên thu hẹp phần DNNN không chỉ các xí nghiệp làm ăn thua lỗ mà còn cả những xí nghiệp làm ăn có lãi.
Qua kinh nghiệm của các nước ta thấy CPH không bao giờ dễ dàng song nhiều nước đã thành công. Điều kiện của chúng ta hiện nay là tương đối thuận lợi, vì vậy phải tranh thủ đẩy mạnh CPH, phải mạnh dạn trong suy nghĩ và hành động và có quyết tâm cao thì mới đạt được kết quả như ý muốn.
6.3. Những kinh nghiệm quốc tế về cổ phần hoá có thể áp dụng trong việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước chế biến thực phẩm xuất khẩu
Chế biến nông sản thực phẩm xuất khẩu là cơ sở hết sức quan trọng để phát triển nông nghiệp. Nó góp phần nâng cao chất lượng và giá trị xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Thực tế hiện nay là ngành chế biến thực phẩm xuất khẩu của ta còn rất yếu kém. Muốn đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thì phải nâng cao được năng lực của các nhà máy chế biến, CPH có lẽ là giải pháp tốt nhất hiện nay dành cho các doanh nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu. Trong điều kiện nước ta hiện nay khi thị trường chứng khoán chưa phát triển, khu vực kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn thì nên học tập kinh nghiệm CPH ở các nước có điều kiện tương đồng. Tuy nhiên sự vận dụng kinh nghiệm này cũng cần chú ý đến tính đặc thù của mỗi nước để sàng lọc và thử nghiệm kĩ càng trong điều kiện nước ta. Xuất phát từ điều kiện thực tế hiện nay của các DNNN trong lĩnh vực chế biến thực phẩm xuất khẩu và kinh nghiệm CPH của các nước trên thế giới cho chúng ta những bài học kinh nghiệm có thể áp dụng được.
+ CPH những DNNN trong lĩnh vực chế biến thực phẩm xuất khẩu phải nằm trong chương trình tổng thể về sắp xếp và đổi mới hoạt động của các DNNN.
+ CPH những doanh nghiệp có quy mô nhỏ trước quy mô vừa và lớn sau.
+ Điểm mấu chốt của thành công trong CPH các doanh nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu là phải có sự tham gia của cán bộ quản lí doanh nghiệp. Đây chính là cơ sở để thu hút thêm các nhà đầu tư mới.
+ Nhà nước không nhất thiết phải nắm cổ phần chi phối trong các doanh nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu.
+ Không CPH những doanh nghiệp có công nợ quá lớn mà nên áp dụng hình thức phá sản
+ CPH phải tạo ra được mối quan hệ mật thiết giữa CTCP, người lao động và người cung ứng nguyên liệu.
+ Sau CPH Chính phủ không nên can thiệp trực tiếp vào hoạt động của doanh nghiệp mà cần tạo điều kiện cho nhà quản lí có đủ quyền tự chủ trong việc ra quyết định và vận hành doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Chương II
Thực trạng quá trình thực hiện CPH ở Công ty THựC PHẩM xuất khẩu Bắc Giang
I. Chủ trương của tỉnh Bắc Giang về CPH DNNN
Bắc Giang là tỉnh miền núi phía Bắc cách không xa các trung tâm công nghiệp và đô thị lớn của tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh. Với tổng diện tích tự nhiên 3816,7 km2 bao gồm 3 vùng địa lí là miền núi, trung du và đồng bằng. Với những đặc thù khác nhau cùng nhiều nguồn tài nguyên khoáng sản và cảnh quan du lịch đa dạng. Bên cạnh đó Bắc Giang còn có hệ thống điện, thông tin liên lạc và mạng lưới giao thông rộng khắp đặc biệt là quốc lộ 1A chạy qua nối liền Bắc Giang với các Tỉnh bạn và khu công nghiệp Đình Trám. Những nhân tố này tạo nên sự đa dạng phong phú và là tiền đề quan trọng cho sự phát triển công nghiệp của tỉnh Bắc Giang. Tính đến hết năm 1999 Bắc Giang có 54 DNNN do tỉnh quản lí và 12 doanh nghiệp Trung ương đóng trên địa bàn. Vốn bình quân của các DNNN là 1,2 tỉ đồng, số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ và hoà vốn chiếm trên 50%, số doanh nghiệp làm ăn có lãi chỉ chiếm khoảng 20% số còn lại lúc lỗ, lúc lãi. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN Bắc Giang đã thực hiện sắp xếp và đổi mới hoạt động của các DNNN trong đó CPH là giải pháp trung tâm.
1. Mục tiêu của tỉnh Bắc Giang về sắp xếp và đổi mới DNNN trên địa bàn Tỉnh quản lí
+ Tỉnh chủ trương giao khoán bán cho thuê, giải thể, phá sản và CPH toàn bộ số DNNN do Tỉnh quản lí hiện nay.
+ Trong quá đổi mới và sắp xếp thì hướng ưu tiên là CPH vì xét thấy đây là phương pháp có nhiều ưu điểm hơn cả. Thứ nhất là vẫn giữ được doanh nghiệp, thứ hai là đảm bảo công ăn việc làm cho người lao động, thứ ba không gây những xáo trộn lớn về kinh tế xã hội.
+ Đổi mới DNNN để đưa công nghiệp Bắc Giang trở thành đầu tầu kinh tế thúc đẩy sự phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề khác đặc biệt là sự phát triển của nông nghiệp nông thôn.
+ Đổi mới DNNN để nâng cao hiệu quả kinh tế phát huy hết tiềm năng lợi thế của Tỉnh để phát triển kinh tế xã hội.
2. Những biện pháp thực hiện
Thứ nhất, Tỉnh đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn cụ thể để chỉ đạo công tác CPH. Các văn bản được ban hành nhằm mục đích làm cho các cấp các ngành, từ cán bộ lãnh đạo đến cán bộ công nhân viên phải thực sự nắm bắt được và có sự chuyển biến về nhận thức trong việc xác định ý nghĩa, vị trí vai trò của kinh tế Nhà nước và sự cần thiết khách quan phải CPH DNNN. Tỉnh chủ trương đẩy mạnh việc sắp xếp đổi mới DNNN bằng cách tháo gỡ khó khăn, tổ chức tuyền truyền giáo dục chủ trương CPH, Tỉnh cũng áp dụng các biện pháp mạnh đối với những doanh nghiệp có đủ điều kiện mà cố ý kéo dài không thực hiện CPH theo chủ trương của Tỉnh. Nhưng cũng không nóng vội chủ quan duy ý chí mà CPH gượng ép bắt buộc để tránh hậu quả sau này.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác tổ chức tuyên truyền học tập chủ trương chính sách CPH của Đảng, Nhà nước và của Tỉnh. Vận động khuyến khích tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có đủ điều kiện chuyển thành CTCP. Các phương tiện thông tin đại chúng của Tỉnh như đài phát thanh và truyền hình, báo mở nhiều chuyên mục bám sát các chủ trương chính sách CPH để tuyên truyền giải thích cho mọi đối tượng. Ban quản lí đổi mới doanh nghiệp của Tỉnh thường xuyên phối hợp với các cơ sở để đến từng doanh nghiệp giải thích về cơ chế chính sách, giới thiệu điển hình về các doanh nghiệp đã CPH thành công mang lại hiệu quả cho cả người lao động và doanh nghiệp.
Thứ ba, công tác xây dựng phương án, tổ chức thực hiện phương án sắp xếp và đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp phải tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ từ cơ sở, ngành, huyện, tỉnh. Sở chuyên ngành phải tự mình phân tích đánh giá, tự phân loại và xếp hạng các doanh nghiệp làm cơ sở cho Ban quản lí đổi mới doanh nghiệp của Tỉnh tổng hợp phân tích đánh giá, tổ chức hội thảo lấy ý kiến của các cấp, các ngành sau đó mới hoàn chỉnh phương án và có quyết định cuối cùng tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của doanh nghiệp và chủ trương của Tỉnh.
Thứ tư, để đẩy nhanh và khuyến khích các tiến độ CPH các DNNN nằm trên địa bàn Tỉnh quản lí. Tỉnh đã thực hiện đúng đủ các chế độ chính sách ưu đãi dành cho người lao động và doanh nghiệp thực hiện CPH. Ngoài các chính sách hỗ trợ từ cấp trên Tỉnh còn có chính sách hỗ trợ riêng như miễn giảm thuế đất, trợ cấp cho người nghèo mua cổ phiếu, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc sắp xếp và sử dụng lao động…
Thứ năm, Tỉnh đã thực hiện chế độ giao ban định kì hành tuần, Ban quản lí đổi mới doanh nghiệp của Tỉnh kịp thời giải quyết những khó khăn vướng mắt cho từng doanh nghiệp, kiểm tra đôn đốc tiến độ của từng cấp từng ngành kịp thời xin ý kiến chỉ đạo của Tỉnh uỷ và Trung ương đối với các vấn đề vượt quá thẩm quyền giải quyết của Ban đổi mới.
Thứ sáu, Tỉnh Bắc Giang đã tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên ở các doanh nghiệp thực hiện CPH được hưởng tối đa các quyền lợi mà Nhà nước cho phép. Đồng thời Tỉnh cũng thành lập quỹ hỗ trợ sắp xếp và CPH để hỗ trợ về tài chính cho các doanh nghiệp thực hiện CPH gặp khó khăn. Tỉnh cử các cán bộ thuộc ngành tài chính xuống từng doanh nghiệp để hướng dẫn và giúp doanh nghiệp đẩy nhanh tiến trình CPH.
Nhờ những biện pháp tích cựu trên trong những năm gần đây Bắc Giang luôn là Tỉnh đi đầu trong công tác sắp xếp và đổi mới hoạt động của các DNNN. Năm 2000 sau khi Chính phủ ban hành Nghị định 103/1999/NĐ-CP Bắc Giang là tỉnh tiên phong trong cả nước thực hiện bán DNNN cho tập thể người lao động quản lí sau đó chuyển thành CTCP. Bước sang năm 2002 sau khi có Nghị quyết TW 3 khoá IX Chính phủ và các ngành đã ban hành hành loạt các văn bản chính sách thông thoáng về công tác CPH như Nghị định 64/2002/NĐ-CP, Nghị định số 44, Nghị định số 69 công tác CPH ở tỉnh Bắc Giang đã có nhiều chuyển biến tích cực. Trong năm 2003 và những tháng đầu năm 2004 đã thành lập được 16 CTCP. Tính đến hết ngày 16/1/2004 sau 5 năm thực hiện chuyển đổi hình thức sở hữu DNNN tỉnh Bắc Giang đã chuyển song 29/57 doanh nghiệp tức 51% số DNNN cao hơn mức trung bình của cả nước.
II. Quá trình thực hiện cổ phần hoá ở Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang
1. Quá trình hình thành và phát triển Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang
1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Công ty TPXK Bắc Giang tiền thân là Nông trường quốc doanh Lục Ngạn được thành lập ngày 05/10/1963 theo Quyết định số 271/CP của Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ). Trải qua một thời gian dài phát triển đến ngày 20/11/1991 Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) ra Nghị quyết số 338/HĐBT về sắp xếp lại DNNN, căn cứ vào Quyết định đó ngày 7/5/1992 Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm (nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) ra quyết định số 238/NN/TCBB/QĐ thành lập lại Nông trường Lục Ngạn. Tháng12/1997 Nông trường đề nghị với Tổng công ty rau quả Việt Nam (nay là Tổng công ty rau quả nông sản), Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn cho đổi tên doanh nghiệp và ngành nghề kinh doanh phù hợp với cơ chế mới. Ngày 6/8/1998 Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ra Quyết định số 133/1999/QĐ/NN-TCCB về việc đổi tên và bổ sung ngành nghề kinh doanh cho Nông trường. Theo Quyết định đó Nông trường Lục Ngạn được đổi tên thành Công ty TPXK Bắc Giang.
Tên giao dịch quốc tế: BacGiang foodsufe export company
Trụ sở chính: xã Phượng Sơn huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang
1.2. Bộ máy tổ chức
Sơ đồ 1: Tổ chức bộ máy quản lí ở công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang
Giám đốc công ty
Phòng
Tổ chức hành chính
Phòng kinh doanh
Phòng tài vụ
Phó giám đốc
Phòng nguyên liệu
Phòng quản lý sản xuất
1.3. Hoạt động chính của Công ty hiện nay
+ Sản xuất, chế biến, kinh doanh và xuất nhập khẩu trực tiếp: rau quả nông sản, thực phẩm, đồ uống
+ Bán buôn, bán lẻ các mặt hàng nông sản thực phẩm nước giải khát
+ Nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
+ Dịch vụ tư vấn phát triển sản xuất, chế biến rau quả, nông lâm sản.
+ Liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
1.4. Nguồn lực hiện tại của Công ty
1.4.1. Vốn sản xuất
Tổng nguồn vốn của Công ty hiện nay là 22.290.299.610 đ trong đó:
+ Vốn cố định và đầu tư dài hạn là: 15.166.055.066 đ
+ Vốn ngắn hạn và đầu tư ngắn hạn: 7.123.794.544 đ
Phân theo nguồn vốn:
+ Vốn của Nhà nước là: 8.944.231.937 đ
+ Vốn tự huy động: 13.346.067.673 đ
Trong đó:
- Vốn vay của người lao động trong doanh nghiệp là: 510.000.000 đ
- Vốn vay tín dụng trong nước dài hạn là : 7.813.573.129 đ
- Vốn vay trong nước ngắn hạn: 999.069.112 đ
Vốn khác: 3.023.425.432 đ
1.4.2 Tình hình về lao động
Hiện nay, ở Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang có 240 lao động trong đó:
+ Lao động không xác định thời hạn là 68 người
+ Lao động có thời hạn từ 1- 3 năm là 172 người
Đây là lực lượng lao động thường xuyên tại Công ty, ngoài ra vào vụ sản xuất vải là vụ sản xuất chính của Công ty còn hợp đồng với khoảng 700 công nhân thời vụ.
Về trình độ của người lao động:
- Số lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên là 11 người
- Số lao động có trình độ trung và sơ cấp là 23 người
- Công nhân kĩ thuật là 139 người
- Lao động phổ thông là 67 người
1.4.3 Tình hình tài sản của doanh nghiệp
Bảng 3: Bảng kiểm kê tài sản cố định Công ty TPXK Bắc Giang
(tính đến ngày 31/12/2003)
Đơn vị: đồng
STT
Tên tài sản
Nguyên giá
Giá trị còn lại
A
TSCĐ đang dùng
15.182.113.093
14.138.590.753
1
Nhà cửa kiến trúc
4.685.318.063
4.367.103.755
A
Nhà xưởng sản xuất
2.477.491.801
2.438.001.020
B
Nhà kho
1.679.727.441
1.489.738.760
C
Nhà làm việc
283.685.327
251.127.708
D
Vật kiến trúc
244.414.034
188.236.267
2
Máy móc thiết bị
10.496.794.490
9.771.486.998
A
Máy móc động lực
310.946.571
201.024.614
B
Máy móc thiết bị công tác
8.388.548.672
8.109.562.335
C
Máy móc thiết bị dẫn truyền
587.321.099
566.164.574
D
Thiết bị và phương tiện vận tải
1.155.317.059
834.793.196
E
Máy móc thiết bị văn phòng
94.658.098
59.942.279
B
TSCĐ không cần dùng
957.377.557
514.424.849
1
Thiết bị máy móc
279.037.094
57.165.634
2
Nhà cửa thuộc công trình 327
109.043.000
109.043.000
3
Nhà cửa thuộc công trình phúc lợi
219.133.148
26.854.215
4
Vật kiến trúc thuộc công trình 327
317.468.000
317.468.000
5
Vật kiến trúc thuộc công trìnhphúc lợi
32.696.315
3.894.000
Tổng cộng A+B
16.139.490.650
14.653.015.602
Nguồn: Phòng tài vụ công ty TPXK Bắc Giang
1.5. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm gần đây
Bảng 4: Tình hình sản xuất kinh doanh của công ty những năm gần đây
Năm
Sản lượng (tấn)
Doanh thu (tỷ đồng)
Lợi nhuận (triệu đồng)
1998
423
6,8
0
1999
450
9,8
0
2000
827
8.5
30
2001
1100
9,5
50
2002
1138
11,3
86
2003
1341
13,4
150
2004(dự kiến)
2800
26
300
Nguồn: phòng quản lí sản xuất công ty TPXK Bắc Giang
2. Những đặc điểm kinh tế kĩ thuật của công ty có ảnh hưởng đến tiến trình CPH
CPH nhanh hay chậm ngoài việc phụ thuộc vào các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo của cấp trên còn phụ thuộc khá lớn vào các đặc điểm kinh tế kĩ thuật của doanh nghiệp CPH. Khảo sát tại Công ty TPXK Bắc Giang chúng ta sẽ thấy rõ điều này.
2.1. Vị trí địa lí của Công ty
Công ty TPXK Bắc Giang nằm trên địa bàn xã Phượng Sơn huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang, cạnh quốc lộ 31 là tuyến đường giao thông huyết mạch của huyện đồng thời là cầu nối giữa Công ty với các vùng nguyên liệu và nơi tiêu thụ sản phẩm của Công ty. Công ty TPXK Bắc Giang lằm khá xa các trung tâm của Tỉnh cũng như của các địa phương lân cận tạo nên những khó khăn trong thu mua và vận chuyển nguyên liệu cũng như việc tiệu thụ sản phẩm do hao phí lớn, chất lượng bị ảnh hưởng, tăng chi phí, tất cả điều này làm tăng giá thành sản xuất sản phẩm của Công ty. Nằm trên địa bàn xã miền núi cũng gây khó khăn cho Công ty trong việc thu hút nguồn lao động có trình độ cao mà con người là yếu tố quan trọng nhất của mọi quá trình sản xuất. Bù lại vị trí này cũng mang nhiều thuận lợi cho Công ty trong việc xây dựng, phát triển và thu mua nguyên liệu. Điạ bàn Công ty hiện nay chính là vùng nguyên liệu Vải lớn nhất cả nước, vụ sản xuất Vải cũng là vụ sản xuất chính của Công ty hàng năm chỉ chiếm khoảng 1/6 thời gian nhưng lại mang lại 1/3 tổng doanh thu cả năm của Công ty. Ngoài ra việc quy hoạch vùng nguyên liệu Dứa ở Sơn Động với tổng diện tích 500 ha sẽ là nguồn cung nguyên liệu Dứa chính trong tương lai cho Công ty. Việc đan xen giữa thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng như thế nào đến việc CPH của Công ty. Xét về lâu dài thì thuận lợi vẫn là chủ yếu do khi điều kiện kinh tế phát triển vấn đề giao thông đi lại sẽ giải quyết được, điều kiện kinh tế xã hội sẽ được cải thiện. Lúc đó lợi thế về vùng nguyên liệu sẽ là một lợi thế cạnh tranh chính của Công ty. Điều này tác động thuận lợi đến CPH.
2.2. Đặc điểm về lao động
Công ty hiện nay có hơn 100 lao động bao gồm cả lao động không xác định thời và cả lao động có xác định thời hạn. Trong số đó số lao động có trình độ đại học, cao đẳng, công nhân kĩ thuật chiếm tỷ trọng nhỏ số còn lại chủ yếu là lao động thủ công chưa qua đào tạo. Sự thiếu hụt lao động có chuyên môn tay nghề đang là trở lực lớn cho Công ty khi tiến hành CPH. Khi chuyển thành CTCP tức là thoát khỏi sự bảo hộ của Nhà nước phải đi bằng đôi chân của mình phải chấp nhận cạnh tranh tranh, tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường. Vì vậy doanh nghiệp cần phải có một đội ngũ cán bộ không những có trình độ chuyên môn tốt mà còn phải am hiểu kinh tế thị trường phải năng động, phải nắm bắt được thời cơ làm việc phải có trách nhiệm và có năng suất cao; đội ngũ công nhân phải thành thạo công việc chuyên môn có tay nghề và làm việc có năng suất cao. Với lực lượng lao động như hiện nay sẽ trở thành gắng nặng cho CTCP bởi vì cần phải có thời gian cho người lao động làm quen với cơ chế mới, phải đào tạo lại tay nghề…
2.3. Đặc điểm về ngành nghề kinh doanh
Kinh doanh trong nông nghiệp nói chung và trong chế biến nông sản nói riêng đều có đặc điểm chung là chịu ảnh hưởng của các đặc điểm sản xuất nông nghiệp. Công ty TPXK Bắc Giang là doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực chế biến nông sản nên nó cũng có những đặc điểm chung của kinh doanh trong nông nghiệp.
+ Tính sinh lời của sản xuất kinh doanh của Công ty thấp các doanh nghiệp khác trên cùng địa bàn.
+ Năng suất lao động thấp dẫn đến thu nhập của cán bộ công nhân viên chỉ đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống. Với mức thu nhập bình quân hiện nay ở Công ty là khoảng 600.000đ/ tháng thì chỉ đủ trang trải cuộc sống tối thiểu cho bản thân người lao động chứ không có khả năng hỗ trợ gia đình và tạo tích luỹ.
+ Kinh doanh trong nông nghiệp có tính rủi ro cao và kém ổn định kể cả kinh doanh chế biến nông sản bởi ngành này cũng phải sử dụng những sản phẩm của nông nghiệp.
+ Giá cả các mặt hàng nông sản ngày càng bất lợi hơn so với các mặt hàng công nghiệp điều này ảnh hưởng xấu đến khả năng thu hồi vốn đầu tư của Công ty. Giá các mặt hành chủ lực của Công ty hiện nay là Dứa, Dưa chuột, Vải đang có xu hướng giảm trong khi đó giá nguyên liệu liên tục tăng đặc biệt là nguyên liệu Dứa trong những tháng gần đây tăng đột biến, Công ty phải sản xuất trong tình trạng giá thành cao hơn giá bán vì hợp đồng đã được kí kết từ trước
+ Việc phải thường xuyên mua bán trực tiếp với các hộ nông dân cũng gây khó khăn trong kinh doanh do không ổn định nhiều hợp đồng bị phá bỏ.
Do những đặc điểm như vậy nên tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty cũng không mấy sáng sửa, lợi nhuận thấp, không ổn định gây khó khăn cho công tác CPH.
2.4. Đặc điểm về bộ máy quản lí
Bộ máy quản lí của Công ty hiện nay rất cồng kềnh song hoạt động lại không hiệu quả. Quy mô của Công ty tương đối nhỏ nhưng lại có đến 3 phòng nguyên liệu mà tình trạng thiếu nguyên liệu vẫn xẩy ra thường xuyên. Phòng kinh doanh của Công ty chỉ tồn tại dưới dạng hình thức, các mặt hàng của Công ty chủ yếu dành để xuất khẩu nhưng các cán bộ trong phòng kinh doanh không ai biết ngoại ngữ, trình độ vi tính rất hạn chế, nhiệm vụ hiện nay của phòng kinh doanh là xuất hàng khi có yêu cầu và thanh toán tiền hàng. Với đội ngũ và cơ cấu như vậy khi chuyển thành CTCP vấn đề tinh giảm bộ máy sẽ giải quyết ra sao. Nếu giữ lại trình độ của họ không đáp ứng được còn nếu cho họ nghỉ thì sẽ xử lí ra sao trong khi các cán bộ này có ảnh hưởng không nhỏ đến việc CPH. Vì vậy họ sẽ là sức ì trong việc đẩy mạnh CPH của Công ty.
3. Thực trạng quá trình thực hiện CPH ở Công ty TPXK Bắc Giang
3.1. Sự cần thiết phải tiến hành CPH ở Công ty TPXK Bắc Giang
3.1.1. CPH nhằm thay đổi cơ chế quản lí: Sự thay đổi cơ chế quản lí được thể hiện ở những mặt sau:
+ Cơ cấu tổ chức quản lí điều hành sản xuất kinh doanh ở Công ty thay đổi; nếu trước đây Giám đốc có quyền quyết định gần như toàn bộ mọi hoạt đông của Công ty nhưng khi đã là CTCP thì quyền đó sẽ nhường cho các cổ đông. Các cổ đông thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua Hội đồng quản trị cơ quan đại diện cho quyền lực của các cổ đông
+ Nhà nước không còn là chủ duy nhất nữa mà nay Nhà nước cũng chỉ là một cổ đông lớn. Thay vì sự can thiệp trực tiếp bằng các mệnh lệnh hành chính bắt buộc Nhà nước cũng chỉ được thể hiện quyền làm chủ của mình thông qua những lá phiếu như những cổ đông khác và bằng các công cụ quản lí vĩ mô. Đây là sự thay đổi có tính chất quyết định đối với sự hoạt động của CTCP.
+ Đội ngũ cán bộ trong Công ty trước đây có quyền lực rất lớn thì nay cũng chỉ là người làm thuê tại CTCP vì vậy muốn tồn tại được họ phải nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn thích nghi với điều kiện mới sẽ không còn những Giám đốc “há miệng chờ sung” thay vào đó là những Giám đốc năng động, nhiệt tình, làm việc có tình thần trách nhiệm và hiệu quả cao. Bộ máy quản lí tại CTCP sẽ được tinh giảm đến mức tối đa sao cho vẫn điều hành tốt mọi công việc mà chi phí cho đội ngũ này là nhỏ nhất.
+ Sẽ không còn cảnh làm chủ hình thức của người lao động nữa mà thay vào đó là những người chủ thực sự. Người lao động vừa là người làm công ăn lương vừa là cổ đông trong Công ty. Do đó quyền lợi sẽ gắn liền với trách nhiệm buộc người lao động phải có ý thức tiết kiệm, thường xuyên trau dồi kiến thức kinh nghiệm làm việc với năng suất cao.
3.1.2. Xuất phát từ nhu cầu muốn huy động vốn của toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty để phát triển sản xuất
Vốn là nguồn lực hạn chế đối với các ngành kinh tế nói chung, doanh nghiệp nói riêng. Vốn là điều kiện không thể thiếu của mọi quá trình sản xuất kinh doanh, thực chất quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình tuần hoàn về vốn. Vốn từ hình thái tiền tệ chuyển thành các yếu tố đầu vào của sản xuất sau đó các yếu tố sản xuất lại kết hợp với nhau tạo thành sản phẩm hàng hoá đem bán thu lại vốn ban đầu cộng với một khoản lợi nhuận. Vốn cũng cần cho đầu tư mở rộng sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất hàng hoá, vị thế và uy tín của doanh nghiệp. Vì vậy, vốn và vấn đề huy động vốn có tính chất quyết định đến sự phát triển kinh tế nói chung và của doanh nghiệp nói riêng. Cơ chế bao cấp vốn cho các DNNN kéo dài trong nhiều năm qua làm cho các DNNN thường ỷ lại, trông chờ và dựa dậm vào nguồn vốn cấp phát của ngân sách và vốn vay của các ngân hàng thương mại, chưa coi trọng việc huy động các nguồn vốn khác để phát triển sản xuất kinh doanh. Sử dụng vốn nhà nước thường đi kèm với lãng phí, sử dụng vốn không có hiệu quả, tình trạng thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh là rất phổ biến gây ảnh hưởng nhiều đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tại Công ty TPXK Bắc Giang tình trạng thiếu vốn xẩy ra triền miên, Công ty chỉ chủ động được khoảng 10% vốn lưu động phục vụ cho hoạt động của mình số còn lại phải huy động từ các nguồn khác trong đó chủ yếu là từ các ngân hàng Thương mại, chỉ có một bộ phận nhỏ là huy động được từ cán bộ công nhân viên trong Công ty. Việc không tạo đủ và chủ động được vốn gây cho Công ty không ít khó khăn trong việc đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm, thu mua và quy hoạch vùng nguyên liệu, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên…CPH sẽ là giải pháp tốt cho Công ty trong việc đẩy nhanh sự tích tụ và tập trung vốn để đầu tư phát triển, mở rộng quy mô sản xuất. Việc huy động được vốn của người lao động cũng như người sản xuất và cung ứng nguyên liệu đồng nghĩa với việc nâng cao hiệu quả quản lí và sử dụng vốn. Bởi họ chính là người chủ thực sự của công ty, quyền lợi gắn với trách nhiệm, phân định rõ quyền của người sở hữu tài sản, quyền của người sử dụng tài sản và quyền quản lí của Nhà nước. Chắc chắn sau khi CPH với thế và lực mới Công ty sẽ phát triển tốt.
3.1.3. CPH ở Công ty TPXK Bắc Giang là góp phần thực hiện chủ trương của đảng và Nhà nước về sắp xếp và đổi mới các DNNN
Đặc điểm chung của các DNNN trong nông nghiệp hiện nay là đều không thuộc diện các DNNN cần nắm giữ 100% vốn nên việc CPH những doanh nghiệp này là cần thiết xuất phát từ nhu cầu của công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp của nước ta trong những năm gần đây đã có những bước tiến vượt bậc, từ một nước phải thường xuyên nhập khẩu lương thực đến nay chúng ta hoàn toàn tự chủ được về lương thực hơn thế nữa hàng năm chúng ta còn xuất khẩu được 3-4 triệu tấn lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 trên thế giới. Ngoài mặt hàng gạo chúng ta còn có nhiều nông, lâm sản có vị thế trên thị trường thế giới như cà phê, chè, hạt điều, hạt tiêu, cao su… hàng năm giá trị xuất khẩu những mặt hàng này mang lại cho ta nhiều triệu đô la. Nông nghiệp nước ta đang chuyển từ sản xuất tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá quy mô lớn. Nước ta đã hình thành nhiều vùng sản xuất hàng hoá quy mô lớn như lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng Sông Hồng; chè ở miền núi phía Bắc; cà phê, cao su ở Tây Nguyên. Sản lượng nông sản hàng năm là rất lớn cho nên việc phát triển công nghiệp bảo quản và chế biến các sản phẩm này đang là yêu cầu cấp bách. Hiện nay công nghiệp chế biến của ta chủ yếu do các DNNN nắm giữ, các doanh nghiệp này có quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, phân tán. Nên chủ yếu sản phẩm của ta phải xuất thô hoặc ở mức sơ chế các sản phẩm tinh chế còn rất ít do vậy giá trị kinh tế mang lại không cao. Muốn phát triển sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay phải đẩy mạnh công nghiệp chế biến mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới công nghệ tức là phải tăng năng lực và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp chế biến hiện nay. Giải pháp tốt cho vấn đề này là CPH các doanh nghiệp trong ngành chế biến.
3.2 Quá trình thực hiện CPH
Quá trình thực hiện CPH ở Công ty TPXK Bắc Giang có thể khái quát theo sơ đồ sau
Sơ đồ 2: Các bước thực hiện cổ phần hoá ở công ty TPXK Bắc Giang
Chuẩn bị cổ phần hoá
Thành lập Ban đổi mới quản lí doanh nghiệp
Phổ biến tuyên truyền chủ trương chính sách cổ phần hoá
Chuẩn bị các tài liệu phục vụ cho cổ phần hoá
Triển khai cổ phần hoá
Lập phương án giải quyết chính sách với người lao động
Kiểm kê tài sản và xác định công nợ
Xác định giá trị doanh nghiệp giải quyết các tồn đọng tài chính
Xác định phương án kinh doanh và lập dự thảo điều lệ công ty
Thẩm định và quyết định
Thẩm định phương án cổ phần hoá, giải quyết các tồn đọng có liên quan
Quyết định chuyển DNNN thành CTCP
Thông báo và tổ chức bán cổ phiếu
Ra mắt Công ty cổ phần
Chuẩn bị đại hội đồng cổ đông
Đại hội đồng cổ đông
Hoàn tất các thủ tục hành chính cho Công ty cổ phần
Nguồn: Ban quản lí đổi mới doanh nghiệp
3.3. Những kết quả đạt được, những vướng mắc và những vấn đề đặt ra khi thực hiện CPH
3.3.1. Những kết quả đạt được
+ Ban CPH của Công ty được thành lập để tuyên truyền, phổ biến, giải đáp cho người lao động mọi thắc mắt liên quan đến chủ trương chính sách CPH của đảng và Nhà nước.
Ban quản lí đổi mới của Công ty được thành lập do Giám đốc Công ty làm trưởng ban kết hợp với các đoàn thể trong Công ty hướng dẫn, tuyên truyền, phổ biến, giải thích cho người lao động mọi chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước và của Công ty về chính sách CPH đặc biệt là các chính sách liên quan đến lợi ích của người lao động.
Sự đồng tình ủng hộ của người lao động trong việc CPH là yếu tố không thể thiếu trong thành công của công tác CPH. Người lao động chỉ thực sự quan tâm đến CPH khi mà CPH mang lại lợi ích cho họ nhiều hơn những gì họ phải từ bỏ khi còn làm việc cho Nhà nước. Vấn đề khó cho ban quản lí đổi mới doanh nghiệp là người lao động trong công ty trình độ nhận thức còn thấp, sự hiểu biết về kinh tế thị trường gần như là không có. Tâm lí của người lao động là thích làm việc cho DNNN, là công chức suốt đời. Người lao động chỉ quen với tư cách là người làm thuê chứ chưa có ý nghĩ trở thành nhà đầu tư bỏ vốn ra để kiếm lời có nhiều dủi do. Khó khăn như vậy song nhờ lắm bắt được tâm lí của người lao động cộng với sự cố gắng của ban đổi mới đến nay việc tuyên truyền đạt kết quả tốt. Tất cả cán bộ công nhân viên trong Công ty đều thấy rõ lợi ích CPH mang lại và ủng hộ việc CPH của Công ty. Ban quản lí đổi mới của Công ty đã sử dụng biện pháp nào mà hiệu quả lại cao như vậy.
Thứ nhất, ban quản lí doanh nghiệp đã tạo điều kiện cho toàn bộ cán bộ công nhân viên trong công ty đọc và tham khảo tài liệu có liên quan đến chủ trương CPH đặc biệt là các vấn đề có liên quan đến người lao động.
Thứ hai, lấy các điển hình tiên tiến của các công ty đã CPH thành công làm bằng chứng sống để người lao động thức sự tin tưởng vào lợi ích của CPH.
Thứ 3, việc Công ty sẽ chuyển gần như toàn bộ số lao động hiện nay sang CTCP là một động lực lớn cho người lao động.
+ Công ty đã hoàn thành lập phương án CPH
Hình thức CPH: Căn cứ vào điều 7 của Nghị định 44/1998/NĐ-CP và đặc điểm của công ty. Công ty TPXK Bắc Giang thực hiện CPH theo hình thức bán một phần vốn hiện có tại doanh nghiệp, phát hành thêm cổ phần để thu hút vốn đầu tư.
Tên công ty:
Tên Việt Nam: Công ty cổ phầnthực phẩm xuất khẩu Bắc Giang
Tên giao dịch quốc tế: BacGiang foodstufe export joint stock company
Ngành nghề kinh doanh:
- Sản xuất, kinh doanh và xuất nhập khẩu trực tiếp: Rau quả nông sản, thực phẩm đồ uống, nguyên vật liệu, vật tư…
- Kinh doanh các lĩnh vực khác: Giao nhận kho, bất động sản, dịnh vụ khách sạn nhà hàng, văn phòng cho thuê
- Dịch vụ tư vấn phát triển sản xuất chế biến rau quả nông lâm thuỷ sản
- Liên doanh liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước để phát triển sản xuất của công ty
Vốn điều lệ của CTCP: 5.000.000.000đ
Giá trị một cổ phần: 100.000đ
Tổng số cổ phần: 50.000
Tỷ lệ cổ phần của các cổ đông:
Cổ phần Nhà nước 51% tức là: 2.550.000.000
Cổ phần của cán bộ công nhân viên trong công ty: 1.950.000.000đ chiếm 39%
Cổ phần của người sản xuất và cung cấp nguyên liệu cho công ty:500.000.000đ chiếm 10%
Giá trị doanh nghiệp để CPH
Tại thời điểm ngày 31/12/2003 theo Quyết định số 2337/QĐ-BNN-TCKT của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn ngày 16/7/2003 giá trị doanh nghiệp được xác định là: 22.290.299.610đ trong đó vốn Nhà nước tại doanh nghiệp là: 8.944.231.937đ
Cổ phần được mua ưu đãi:
Tổng số cán bộ công nhân viên trong công ty: 240 người (có 20 lao động mới hợp đồng).
Tổng số cán bộ công nhân viên được mua ưu đãi 220 người
Tổng số năm công tác: 1950 năm
Tổng số cổ phần được mua ưu đãi: 1950*10=19.500 cổ phần trong đó lao động nghèo có 390 năm công tác, được mua cổ phần ưu đãi trả chậm 3900 cổ phần chiếm 20 % tổng số cổ phần được mua ưu đãi.
Tổng giá trị ưu đãi:
Giá trị ưu đãi tối đa (giảm giá): 19500*30.000 = 585.000.000đ
Giá trị bán trả chậm: 3900*70.000 = 273.000.000đ
Tổng cộng: 858.000.000đ chiếm 17,16% giá trị vốn Nhà nước tại doanh nghiệp
Tổng giá trị cổ phần được mua ưu đãi của cán bộ công nhân viên là: 19.500*100.000 =1.950.000.000đ chiếm 39% vốn điều lệ của CTCP.
Cổ phần được mua ưu đãi của người sản xuất và cung ứng nguyên vật liệu:
Người sản xuất và người cung ứng nguyên vật liệu được mua ưu đãi 5000 cổ phiếu
Tổng giá trị ưu đãi: 5000*30.000 =150.000.000đ chiếm 3% giá trị Nhà nước tại doanh nghiệp
Tổng giá trị cổ phần được mua ưu đãi tại doanh nghiệp 5000*100.000 = 500.000.000đ chiếm 10% vốn điều lệ tại công ty
Kế hoạch sử dụng tiền thu từ bán cổ phần thuộc vốn Nhà nước:
Vốn Nhà nước thực tế tại doanh nghiệp: 8.944.231.937đ
Các khoản phải trừ:
- Ưu đãi giảm giá dành cho người lao động trong Công ty: 585.000.000đ
- Ưu đãi trả chậm dành cho người lao động nghèo trong Công ty: 273.000.000đ
- Ưu đãi giảm giá cho người sản xuất và cung ứng nguyên vật liệu cho công ty: 150.000.000đ
- Vốn Nhà nước để lại tại doanh nghiệp: 2.550.000.000
- Chi phí CPH: 230.000.000đ
- Chi phí đào tạo lại lao động: 170.000.000đ
Số tiền phải hoàn trả lại Nhà nước sau khi CPH: 4.986.231.937đ
Thời gian và cơ quan bán cổ phiếu:
Thời gian bán cổ phiếu: sau 30 ngày kể từ khi có Quyết định của cơ quan có thẩm quyền về việc chuyển Công ty TPXK Bắc Giang thành CTCP TPXK Bắc Giang
Cơ quan bán cổ phiếu: Công ty TPXK Bắc Giang là cơ quan trực tiếp bán cổ phiếu
Thời gian Đại hội đồng thành lập CTCP lá quý I năm 2005
Phương án sản xuất kinh doanh và đầu tư sau CPH:
Sau khi CPH kế hoạch sản xuất kinh doanh và đầu tư của công ty sẽ chia làm 2 bước.
Bước 1: Tiếp tục duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh theo hướng củng cố và nâng cao công suất máy móc thiết bị đã được đầu tư để tăng sả lượng sản xuất ở 2 năm đầu từ 2800 tấn năm 2004 nên 3200 tấn năm 2005 và 4000 tấn năm 2006
Bước 2: Mở rộng cơ sở sản xuất, tăng thêm vốn điều lệ và vay thêm vốn để tiếp tục tăng sản xuất đưa sả lượng lên 5500 tấn vào năm 2007. Đồng thời khi vùng Dứa nguyên liệu ở Sơn Động được thu hoạch đáp ứng đủ nguyên liệu cho nhu cầu sản xuất thì sẽ sản xuất thêm một số mặt hàng như dứa cô đặc, nước dứa quả …để tiếp tục tăng sả lượng lên cao vào các năm tiếp theo.
Bảng 5: Một số chỉ tiêu chủ yếu thực hiện 3 năm đầu sau cổ phần hoá
Stt
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
2005
2006
2007
Vốn điều lệ
Tỷ
5
5
6.5
Doanh thu
Tỷ
33
40
48
Nộp ngân sách
Tỷ
2.9
3.5
4.4
Lợi nhuận
Triệu
400
520
650
Số lao động
Người
240
275
310
Thu nhập bình quân người lao động/tháng
Đồng
750.000
820.000
1.000.000
Cổ tức hàng năm
%
6.8
10.3
12.4
Nguồn: Phương án cổ phần hoá của Công ty
+ Công tác duyệt và triển khai phương án CPH đang được tiến hành khẩn trương
Trong quy trình CPH gồm 4 bước đến nay Công ty TPXK Bắc Giang đã hoàn thành được 2 bước khó khăn nhất chiếm nhiều thời gian nhất. Hiện nay hồ sơ CPH của Công ty đã được chuyển cho cơ quan có thẩm quyền quyết định để phê duyệt và quyết định việc chuyển Công ty TPXK Bắc Giang thành CTCP TPXK Bắc Giang. Nếu không có vướng mắc thì quá trình CPH của Công ty sẽ hoàn tất vào tháng 9 năm 2004 và Đại hội đồng cổ đông lần đầu tiên của Công ty sẽ được tổ chức vào quý I năm 2005. Như vậy chỉ chưa đầy một năm kể từ khi công ty có quyết định CPH công tác CPH đã hoàn tất thời gian không phải là ngắn nhưng nếu xét cụ thể của Công ty thì đây cũng là một thành công lớn.
3.3.2 Những vấn đề đặt ra trong khi thực hiện CPH
+ Về cơ chế chính sách
Mặc dù Chính phủ, các bộ ngành có liên quan đã ban hành rất nhiều văn bản nhằm thúc đẩy tiến trình CPH vẫn đang chậm chễ hiện nay. Xung quanh các văn bản đã ban hành còn nhiều vướng mắt gây khó khăn cho doanh nghiệp trong CPH.
- Ưu đãi cho người lao động và doanh nghiệp chưa thoả đáng
Theo khoản 2 điều 17 Nghị định số 64/2002/NĐ-CP quy định người nghèo trong doanh nghiệp CPH được mua chịu cổ phần ưu đãi được miễn hoàn trả trong 3 năm đầu và trả dần tối đa trong 7 năm tiếp theo không phải chịu lãi suất. Số vốn cổ phần mua trả dần cho người lao động nghèo không quá 20% tổng số cổ phần bán theo giá ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp. Việc quy định như vậy làm nẩy nhiều vấn đề khó khăn cho các doanh nghiệp nông nghiệp trong việc CPH.
Thứ nhất, quy định như vậy là chưa có sự ưu tiên cho các DNNN trong nông nghiệp, ngành sản xuất chịu nhiều rủi do, lợi nhuận thấp lại có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp nông thôn nói riêng
Thứ hai, chưa có tiêu chí nào quy định như thế nào là nghèo, mỗi doanh nghiệp tuỳ thuộc vào điều kiện của mình mà có chế độ chi trả cho người lao động khác nhau. Như vậy việc người lao động được coi là nghèo ở doanh nghiệp này có khi lại giầu hơn người lao động được coi là giầu ở doanh nghiệp khác. Người giàu trong các doanh nghiệp nông nghiệp lại không bằng nghèo trong các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ.
Thứ ba, việc quy định mức không chế cổ phần ưu đãi trả chậm dành cho lao động nghèo không quá 20% trong tổng số cổ phần ưu đãi Nhà nước dành cho cán bộ công nhân viên trong công ty. Làm cho việc xác định ai thuộc diện người nghèo trong doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn do hầu hết lao động trong doanh nghiệp là người nghèo, thu nhập thấp chỉ đảm bảo cho cuộc sống tối thiểu chưa có tích luỹ làm sao có thể mua nổi cổ phần. Vì vậy, nên chăng trong các doanh nghiệp nông nghiệp chỉ nên CPH theo hình thức thứ nhất tức là giữ nguyên vốn Nhà nước tại doanh nghiệp và phát hành thêm cổ phiếu.
Một vấn đề nữa hiện nay các doanh nghiệp đã CPH đều công bố mức thu nhập của người lao động tăng nên nhưng liệu các chính sách cho người lao động như học hành, nghỉ mát thăm quan du lịch, tiền thưởng có được bằng các DNNN không. Nếu như tất cả mọi thứ đều tốt hơn ở các DNNN thì sao quá trình CPH vẫn diễn ra chậm mặc dù CPH đã trở thành mệnh lệnh, chỉ tiêu bắt buộc.
Như vậy, là chính sách ưu đãi với người lao động trong các doanh nghiệp CPH là chưa rõ chưa xét đến tình hình cụ thể của từng doanh nghiệp. Việc bán cổ phần ưu đãi cho người lao động chưa phù hợp với thực tế, bởi lẽ người lao động muốn mua được cổ phiếu phải bỏ ra một khoản tiền nhất định điều này vượt quá khả năng tài chính của nhiều người. Việc quy định mức ưu đãi theo kiểu bình quân chủ nghĩa như hiện nay là chưa phù hợp, chưa công bằng.
Còn chính sách ưu đãi dành cho doanh nghiệp CPH thì sao: các văn bản đã ban hành rất rõ ràng là không có sự phân biệt đối xử giữa DNNN và CTCP nhưng thực tế thì lại khác các DNNN vẫn được ưu ái hơn. Đơn cử như trong việc vay vốn ngân hàng Thương mại, các Công ty tài chính, các Tổ chức tín dụng khác. Các văn bản do Chính phủ ban hành đã quy định rất rõ là các CTCP được vay vốn theo cơ chế và lãi suất như DNNN. Thực tế liệu các ngân hàng thương mại hoặc các tổ chức tín dụng có dễ dãi với các CTCP như vậy không, chắc chắn là không. Nếu như DNNN làm ăn thua lỗ không có khả năng chi trả ngân hàng thì còn có Nhà nước đứng ra trả thay còn nếu các CTCP làm ăn thua lỗ thì ai trả thay? Chính vì vậy mà các CTCP hiện nay đi vay vốn vẫn phải có tài sản thế chấp, không được ưu đãi về lãi suất như các DNNN. Nhà nước phải sớm có biện pháp giải quyết vấn đề này, phải tạo ra môi trường, sân chơi thực sự bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp có như vậy CTCP mới có thể phát huy hết lợi thế của mình. Các ưu đãi cho doanh nghiệp như hiện nay chưa thực sự đủ liều để các doanh nghiệp tự nguyện chuyển thành CTCP.
- Vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp còn nhiều bất cập
Mặc dù các văn bản đã ban hành đã quy định rất rõ giá trị doanh nghiệp là giá thị trường để đảm bảo lợi ích của cả doanh nghiệp và Nhà nước theo đó có rất nhiều các cách để xác định giá trị doanh nghiệp nhưng thực tế xung quanh vấn đề này còn nhiều điểm chưa hợp lí kể cả phía Nhà nước lẫn phía phải doanh nghiệp.
Định giá doanh nghiệp vẫn theo chủ quan không theo thị trường: Trong các văn bản hướng dân CPH, các phương pháp định giá được đề cập khá nhiều và chi tiết. Nhưng có một vấn đề nảy sinh là chưa xác định rõ ai là người định giá chủ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- QT072.Doc