Tài liệu Đề tài Một số giải pháp tài chính nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng hoá tại Công ty sản xuất - Dịch vụ và xuất nhập khẩu Nam Hà Nội: Các chữ viết tắt sử dụng
CNH- HĐH
CEPT
DN
HTPT
HN
GTGT
SX-DV & XNK
TNDN
TCMN
TNHH
VIETCOMBANK
WTO
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá
Common Effective Preferential Taiff
Doanh nghiệp
Hỗ trợ phát triển
Hà Nội
Giá trị gia tăng
Sản xuất – dịch vụ – xuất nhập khẩu
Thuế thu nhập doanh nghiệp
Thủ công mỹ nghệ
Trách nhiệm hữu hạn
Ngân hàng Ngoại thương Hà nội
World Trade organization
Lời nói đầu
Trong những năm qua thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại và thực hiện chủ chương khuyến khích xuất khẩu của Đảng và Nhà nước, hoạt động xuất khẩu của nước ta đã có những bước tiến vượt bậc. Xuất khẩu đã đóng góp một vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế liên tục trong nhiều năm qua.
Để khuyến khích xuất khẩu, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách và biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của đất nước. Tuy nhiên trong quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, một số chính sách và giải pháp đã tỏ ra lỗi thời hoặc mấ...
75 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1009 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp tài chính nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng hoá tại Công ty sản xuất - Dịch vụ và xuất nhập khẩu Nam Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Các chữ viết tắt sử dụng
CNH- HĐH
CEPT
DN
HTPT
HN
GTGT
SX-DV & XNK
TNDN
TCMN
TNHH
VIETCOMBANK
WTO
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá
Common Effective Preferential Taiff
Doanh nghiệp
Hỗ trợ phát triển
Hà Nội
Giá trị gia tăng
Sản xuất – dịch vụ – xuất nhập khẩu
Thuế thu nhập doanh nghiệp
Thủ công mỹ nghệ
Trách nhiệm hữu hạn
Ngân hàng Ngoại thương Hà nội
World Trade organization
Lời nói đầu
Trong những năm qua thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại và thực hiện chủ chương khuyến khích xuất khẩu của Đảng và Nhà nước, hoạt động xuất khẩu của nước ta đã có những bước tiến vượt bậc. Xuất khẩu đã đóng góp một vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế liên tục trong nhiều năm qua.
Để khuyến khích xuất khẩu, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách và biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của đất nước. Tuy nhiên trong quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, một số chính sách và giải pháp đã tỏ ra lỗi thời hoặc mất tác dụng không phù hợp với thông lệ quốc tế, với những cam kết đã và sẽ phải thực hiện của Việt Nam trong tiến trình hội nhập. Một số giải pháp thì chưa đủ liều “lượng” cần thiết hoặc còn khoảng cách quá xa với chính sách và triển khai thực tiễn. Các chính sách và giải pháp của Đảng và Nhà nước có tác động trực tiếp đến khả năng xuất khẩu hàng hoá của nước ta nói chung và các doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng. Vì vậy tại mỗi doanh nghiệp xuất khẩu để nâng cao hiệu quả xuất khẩu không chỉ đòi hỏi ở sự nỗ lực của từng doanh nghiệp mà cần phải có một hệ thống chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy việc nghiên cứu hoàn thiện các giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của nền kinh tế Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cả về thực tiễn và lý luận.
Nhận thức được tầm quan trọng của các giải pháp tài chính đối với hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu, sau một thời gian nghiên cứu thực tế tại Công ty SX- DV & XNK Nam Hà Nội, em đã quyết định chọn đề tài:
“Một số giải pháp tài chính nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng hoá tại Công ty SX- DV & XNK Nam Hà Nội”
Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận gồm ba chương:
Chương I : Xuất khẩu trong định hướng phát triển kinh tế của đất nước
Chương II : Thực trạng sử dụng các công cụ tài chính trong xuất khẩu hàng hoá tại Công ty SX- DV & XNK Nam Hà Nội
Chương III : Một số giải pháp tài chính nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng hoá tại Công ty SX- DV & XNK Nam Hà Nội”
Chương I
Xuất khẩu trong định hướng phát triển
kinh tế của đất nước
1.1. Khái niệm xuất khẩu và các hình thức xuất khẩu
1.1.1. Khái niệm xuất khẩu
Ngày nay hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà đã mở rộng trên phạm vi quốc tế hình thành lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu. Xuất khẩu hàng hoá là việc bán hàng sản xuất, gia công trong nước hoặc hàng nhập khẩu để tái xuất khẩu cho tổ chức, cá nhân, nước ngoài thông qua hợp đồng ngoại thương được ký kết giữa các đơn vị kinh doanh trong nước với các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc giữa chính phủ Việt Nam với chính phủ các nước khác. Kinh doanh xuất nhập khẩu là một bộ phận của lưu thông hàng hoá, nối liền sản xuất với tiêu dùng trên phạm vi quốc tế, với chức năng lưu thông hàng hoá trong nước với nước ngoài.
Hoạt động xuất khẩu hiện nay diễn ra trên phạm vi toàn cầu trên tất cả các lĩnh vực, các ngành của nền kinh tế, từ vật phẩm tiêu dùng đến tư liệu sản xuất, từ những vật phẩm nhỏ bé đến máy móc khổng lồ, các loại công nghệ kỹ thuật cao, không chỉ là hàng hoá hữu hình mà còn là hàng hoá vô hình với tỷ trọng ngày càng lớn.
Các hình thức xuất khẩu
Căn cứ theo quan hệ buôn bán: xuất khẩu được chia ra làm 2 hình thức: xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu uỷ thác
Xuất khẩu trực tiếp :
Theo hình thức này thì các doanh nghiệp (DN) có đủ điều kiện về cơ sở vật chất cũng như trình độ năng lực chuyên môn được nhà nước cho phép trực tiếp thực hiện các quan hệ giao dịch ký kết hợp đồng, tổ chức xuất khẩu hàng hoá và thu tiền về
Xuất khẩu uỷ thác (xuất khẩu gián tiếp):
Là phương thức áp dụng đối với các DN có hàng hoá và giấy phép xuất khẩu nhưng chưa có đủ điều kiện trực tiếp đàm phán, ký kết đồng với nước ngoài nên phải uỷ thác cho các DN có điều kiện xuất khẩu trực tiếp làm hộ. Hiện nay, để tận dụng hết khả năng của mình, các DN kinh doanh xuất nhập khẩu thường thực hiện cả hai hình thức trên.
Căn cứ theo tính chất và phạm vi của hoạt động
Xuất khẩu theo phương thức thanh toán tiền hàng
Theo phương thức này, người xuất khẩu sau khi giao hàng cho người nhập khẩu theo đúng như các điều kiện đã ký kết trong hợp đồng sẽ nhận được một khoản tiền tương đương với số hàng hoá đó, tức là bên xuất khẩu sẽ thu được một khoản ngoại tệ
Xuất khẩu theo phương thức hàng đổi hàng:
Là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, và lượng hàng hoá mang trao đổi có giá trị tương đương nhau. Như vậy mục đích của xuất khẩu ở đây không phải là thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm mục đích có được một lượng hàng hoá có giá trị tương đương với giá trị của lô hàng xuất khẩu
Xuất khẩu tại chỗ
Là hình thức xuất khẩu mà DN sản xuất thu mua các sản phẩm được sản xuất trong nước và bán khách hàng nước ngoài ngay trong nước mình. Đây là hình thức xuất khẩu mới nhưng được phát triển và có xu hướng phổ biến rộng rãi vì nó gắn liền với du lịch, một lĩnh vực đang ngày càng phát triển trong nền kinh tế toàn cầu.
Xuất khẩu tại chỗ còn bao gồm cả việc bán hàng hoá cho các DN trong các khu kinh tế mở. Khi các DN này mua hàng hoá làm đầu vào thì các hàng hoá này khi đi qua biên giới khu công nghiệp thì được coi như hàng hoá xuất khẩu qua biên giới.
Vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường.
Ngay từ thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản, các nhà kinh tế học theo trường phái trọng thương đã đánh giá cao vai trò của ngoại thương, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu. Một trong những quan điểm chủ yếu của học thuyết kinh tế trọng thương cho rằng: để có tích luỹ tiền tệ phải qua hoạt động thương mại trước hết là ngoại thương. Trong ngoại thương phải thực hiện xuất siêu, để có xuất siêu chỉ có thể xuất khẩu thành phẩm chứ không phải xuất khẩu nguyên vật liệu, thực hiện thương mại trung gian, mang tiền ra nước ngoài để mua rẻ ở nước này, bán đắt ở nước khác, thực hiện chính sách thuế quan bảo hộ nhằm kiểm soát nhập khẩu, khuyến khích hàng xuất khẩu.
Ngày nay, hoạt động xuất khẩu được thừa nhận là một hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại. Tuỳ thuộc vào từng giai đoạn phát triển, và mục tiêu của từng thời kỳ mà các quốc gia thực hiện các chính sách ngoại thương khác nhau. Nếu như trong những năm 60 – 70, phần lớn các quốc gia đều coi xuất khẩu hàng hoá là nhằm để thu ngoại tệ trang trải cho các khoản nhập khẩu thì ngày nay quan điểm đó đã có sự biến chuyển. Các quốc gia tạo nhiều điều kiện thuận lợi để xuất khẩu hàng hoá ra ngoài không chỉ nhằm mục đích thu được một lượng ngoại tệ cho hoạt động nhập khẩu mà khuyến khích xuất khẩu còn nhằm phát triển kinh tế đất nước. Chiến lược sản xuất hướng về xuất khẩu được coi là giải pháp “mở cửa” nền kinh tế để thu hút vốn và kỹ thuật vào khai thác tiềm năng lao động và tài nguyên của đất nước. Xuất khẩu đóng vai trò ngày càng quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế quốc gia.
1.2.1. Xuất khẩu tạo ra nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá sẽ đem về cho quốc gia một khoản ngoại tệ lớn đáp ứng được nhiều nhu cầu cho phát triển kinh tế. Trước hết với nguồn ngoại tệ này, các quốc đang trong quá trình CNH- HĐH sẽ mua được những máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại thực hiện “đi tắt, đón đầu” rút ngắn quá trình CNH- HĐH, các quốc gia phát triển sẽ có cơ hội tăng các khoản đầu tư ra nước ngoài.
Lượng ngoại tệ chảy vào quốc gia sẽ hình thành nên “khoản có” trên tài khoản vãng lai trong cán cân thanh toán quốc gia, góp phần cải thiện cán cân thương mại và cán cân thanh toán, giảm các khoản vay nợ nước ngoài. Với một lượng ngoại tệ đủ lớn, chính phủ các nước sẽ có thể chủ động hơn trong việc điều hành chính sách tỷ giá trên thị trường khi có những biến động lớn, hạn chế tối đa những thiệt hại cho nền kinh tế từ rủi ro tỷ giá.
Xuất khẩu đóng góp vào chuyển dịch cơ cẩu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành có cơ hội phát triển thuận lợi, chẳng hạn khi phát triển xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ sẽ tạo cơ hội cho việc khôi phục lại các làng nghề thủ công, phát triển kinh tế ngành, kinh tế vùng.
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao hiêu quả sử dụng các nguồn lực. Với nguồn ngoại tệ thu được từ xuất khẩu, các quốc gia sẽ nâng cao được hiệu quả sản xuất thông qua việc nhập khẩu công nghệ cao, kinh nghiệm quản lý hiện đại, các dây chuyền sản xuất tiên tiến góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, chống lãng phí, bảo vệ môi trường thiên nhiên. Vì vậy người ta thường coi xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật công nghệ từ bên ngoài vào nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước tạo ta một năng lực sản xuất mới.
Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định. Thị trường tiêu thụ không chỉ là thị trường trong nước mà là thị trường nước ngoài rộng lớn đầy tiềm năng với nhiều nhu cầu và đòi hỏi đa dạng của người tiêu dùng trong và ngoài nước.
Thông qua hoạt động xuất khẩu môi trường kinh doanh được mở rộng, cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt, dẫn tới việc xoá bỏ các DN kinh doanh các sản phẩm lạc hậu, chất lượng kém, không đáp ứng được nhu cầu của ngày càng cao của thị trường. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi được với thị trường.
Xuất khẩu đòi hỏi các DN luôn đổi mới sản xuất và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất – kinh doanh, thúc đẩy sản xuất mở rộng thị trường.
1.2.3. Xuất khẩu có tác động tích cực đến giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân
Hiện nay với chính sách khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu, sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập không thấp, góp phầm giải quyết công ăn việc làm cho lao động ở địa phương, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành.Thu nhập ổn định làm cho đời sống của nhân dân nhân được cải thiện, người lao động sẽ làm việc hăng say hơn, hiệu quả lao động được nâng cao.
Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật liệu tiêu dùng thiết yếu phhục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân
Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của quốc gia.
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Các quan hệ kinh tế đối ngoại tạo tiền đề cho hoạt động xuất khẩu phát triển. Khi quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng, các DN hai nước sẽ có thêm nhiều cơ hội để hiểu biết về nhau và về thị trường mỗi nước. Với những ưu đãi mà chính phủ hai nước đã ký kết, các DN hai nước sẽ được tạo điều kiện thuận lợi hơn khi xuất khẩu hàng hoá như: hàng hoá xuất khẩu vào các nước chỉ phải chịu thuế thấp, hoặc miễn thuế, không phải chịu những rào cản phi thuế quan. Các DN sẽ có cơ hội hiểu biết nhiều hơn về môi trường kinh doanh, mức độ cạnh tranh, người tiêu dùng… góp phần nâng cao hiệu quả hàng hoá xuất khẩu. Khi hoạt động xuất khẩu giữa hai nước phát triển nó sẽ củng cố các mối quan hệ kinh tế đối ngoại ngày thêm vững chắc. 1.2.5. Xuất khẩu đối với các DN
Xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, sự mở cửa của nhiều thị trường mới, các hiệp định thương mại song phương và đa phương, sự hình thành các tổ chức kinh tế & thương mại khu vực và sự hình thành các tổ chức thương mại thế giới đã tạo ra các cơ hội chưa từng có cho các DN muốn xuất khẩu.
Những lợi ích mà xuất khẩu mang lại cho DN là:
Tăng doanh số và lợi nhuận
Giành được thị phần ở nước ngoài: nhờ việc xuất khẩu, công ty sẽ học hỏi được từ đối thủ cạnh tranh, từ chiến lược của họ và những việc mà đối thủ canh tranh đã thực hiện để giành được thị phần ở nước ngoài.
Giảm sự phụ thuộc vào thị trường nội địa hiện có: nhờ mở rộng thị trường hoạt động ra nước ngoài, công ty sẽ phát triển các cơ sở bán hàng và giảm sự phụ thuộc vào khách hàng trong nước
ổn định DN trước sự biến động của thị trường trong nước bằng cách khai thác thị trường thế giới, công ty sẽ không bị bó tay trước những thay đổi về kinh tế, về nhu cầu của khách hàng và những biến động theo thời vụ của rủi ro trong nước.
Tạo cơ hội cho việc đổi mới cơ cấu và thiết bị máy móc hiện đại từ đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của DN trên thị trường.
Vai trò của các công cụ tài chính trong thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá.
1.3.1. Tín dụng xuất khẩu
Nhà nước bảo lãnh tín dụng xuất khẩu
Để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài nhiều DN thực hiện việc bán chịu và trả chậm, hoặc thực hiện việc tín dụng ưu đãi đối với người mua hàng nước ngoài. Việc bán hàng như vậy thường có những rủi ro (nguyên nhân kinh tế hoặc chính trị) dẫn đến sự mất mát vốn. Trong trường hợp đó để khuyến khích các DN mạnh dạn xuất khẩu hàng hoá bằng cách bán chịu, Nhà nước đứng ra bảo lãnh đền bù nếu bị mất vốn. Nhà nước sẽ đứng ra thành lập các quỹ bảo hiểm xuất khẩu, quỹ này thực hiện việc bảo đảm chia sẻ mọi rủi ro mà các nhà xuất khẩu bán hàng hoá cho nước ngoài với phương thức trả chậm hoặc tín dụng dài hạn.
Bảo lãnh tín dụng xuất khẩu có tác dụng:
Việc bán chịu, bán trả chậm với lãi suất thấp cho phép tăng khả năng cạnh tranh cho hàng hoá xuất khẩu. Nhà nước lập các quỹ bảo lãnh xuất khẩu cho phép thương nhân mạnh dạn bán chịu, nhờ vậy tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu
Nâng được giá bán hàng hoá xuất khẩu vì giá bán chịu bao gồm cả giá bán trả tiền ngay và phí tổn đảm bảo lợi tức.
Hiện nay, hình thức Nhà nước bảo lãnh tín dụng xuất khẩu được thực hiện khá phổ biến ở nhiều nước trên thế giới để mở rộng xuất khẩu và thâm nhập thị trường mới.
Nhà nước thực hiện cấp tín dụng xuất khẩu.
Cấp tín dụng xuất khẩu là Nhà nước trực tiếp cho nước ngoài vay tiền với lãi suất ưu đãi để nước vay sử dụng số tiền đó mua hàng hoá của nước cho vay. Nguồn vốn cho vay thường lấy từ Ngân sách Nhà nước. Việc cho vay thường kèm theo nước điều kiện về kinh tế, chính trị lợi cho nước cho vay.
Thực hiện cấp tín dụng xuất khẩu có tác dụng:
Giúp cho DN đẩy mạnh được xuất khẩu vì có sẵn thị trường
Các nước cho vay thường là những nước có tiềm lực kinh tế. Hình thức nhà nước cấp tín dụng cho nước ngoài trên khía cạnh nào đó giúp các nước này giải quyết tình trạng dư thừa hàng hoá ở trong nước.
Nhà nước cấp tín dụng cho các DN xuất khẩu trong nước
Để thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng hoá, người xuất khẩu cần có một lượng vốn lớn cả trước khi giao hàng vào sau khi giao hàng. Nhiều khi người xuất khẩu cũng cần có thêm vốn để kéo dài các khoản tín dụng ngắn hạn mà họ dành cho người mua nước ngoài. Đặc biệt là khi bán hàng theo phương thức bán chịu thu tiền hàng xuất khẩu thì việc cấp tín dụng xuất trước khi giao hàng là hết sức quan trọng. Nhiều chương trình xuất khẩu không thể thiếu được việc cấp tín dụng của Chính phủ theo những điều kiện ưu đãi. Điều đó càng giảm được các chi phí xuất khẩu. Các ngân hàng thường hỗ trợ cho các chương trình xuất khẩu bằng cách cung cấp tín dụng ngắn hạn trong giai đoạn trước và sau khi mua hàng.
Tín dụng trước khi giao hàng.
Loại tín dụng ngân hàng này cần cho người xuất khẩu để đảm bảo các khoản chi phí cho việc sản xuất hoặc thu mua hàng hoá xuất khẩu như: mua nguyên vật liệu, sản xuất hàng xuất khẩu, sản xuất bao bì cho xuất khẩu, chi phí vận chuyển hàng đến cảng, sân bay… để xuất khẩu, trả tiền cước bảo hiểm, thuế…
Lãi suất tín dụng xuất khẩu là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến sức cạnh tranh của người xuất khẩu. Vì vậy, nhiều nước đã cấp tín dụng theo lãi suất ưu đãi thấp hơn lãi suất thương mại để người xuất khẩu có thể bán được giá thấp có sức cạnh tranh ở thị trường nước ngoài. Lãi suất càng thấp thì chi phí xuất khẩu càng giảm và khả năng cạnh tranh của người xuất khẩu càng mạnh.
Tín dụng xuất khẩu sau khi giao hàng
Đây là loại tín dụng do ngân hàng cấp dưới hình thức mua hoặc chiết khấu hối phiếu xuất khẩu hoặc bằng cách tạm ứng theo bộ chứng từ hàng hoá. Số tiền vay bằng cách chiết khấu hối phiếu thường nhỏ hơn số tiền ghi trên hối phiếu, số tiền chênh lệch là lợi tức chiết khấu. Các DN xuất khẩu thường sử dụng loại tín dụng này để trả các khoản tín dụng trước khi nhận được tiền. Nó cũng có thể được vay để trả các khoản thuế sẽ được hoàn lại trong tương lai cho người xuất khẩu.
Để đảm bảo mọi lô hàng xuất khẩu đều có thể được cấp tín dụng cả trước và sau khi giao hàng thì người xuất khẩu cần phải có được các đảm bảo về tài chính của phía ngân hàng bằng các loại trái phiếu, hoặc sự bảo lãnh của ngân hàng điều này phụ thuộc vào khả năng và uy tín của người xuất khẩu.
Tại Việt Nam ngày 10/9/2001 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quy chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu nhằm hỗ trợ cho các DN, các tổ chức kinh tế và cá nhân phát triển sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu theo chính sách khuyến khích xuất khẩu của Nhà nước. Nguồn vốn để thực hiện tín dụng hỗ trợ xuất khẩu được cân đối trong kế hoạch tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ giao hàng năm cho Quỹ hỗ trợ phát triển. Theo quy định này Việt Nam có 2 hình thức tín dụng hỗ trợ xuất khẩu là: tín dụng hỗ trợ trung & dài hạn và tín dụng hỗ trợ ngắn hạn.
Tín dụng hỗ trợ trung và dài hạn bao gồm:
Cho vay đầu tư trung và dài hạn
Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
Bảo lãnh tín dụng đầu tư
Hình thức hỗ trợ tín dụng trung và dài hạn được áp dụng cho các đơn vị có dự án sản xuất, chế biến, gia công hàng xuất khẩu mà phương án tiêu thụ sản phẩm của dự án đạt kim ngạch xuất khẩu ít nhất bằng 30% doanh thu hàng năm hoặc những đơn vị có nhu cầu vay vốn để đầu tư vào các dự án liên doanh sản xuất, chế biến, gia công hàng xuất khẩu của DN Việt Nam mà phương án tiêu thụ sản phẩm của dự án liên doanh đạt kim ngạch xuất khẩu ít nhất bằng 80% doanh thu hàng năm.
Tín dụng hỗ trợ ngắn hạn gồm:
Cho vay ngắn hạn
Bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng
Các đối tượng được vay vốn ngắn hạn là các đơn vị thực hiện xuất khẩu hàng hoá gồm:
Các đơn vị sản xuất, chế biến, kinh doanh các mặt hàng thuộc chương trình ưu tiên khuyến khích xuất khẩu do Thủ tướng Chính phủ quy định hàng năm hoặc trong từng thời kỳ.
Các hợp đồng xuất khẩu vào thị trường mới hoặc để duy trì thị trường truyền thống theo quy định của Thủ tướng Chính phủ
Chính sách tỷ giá và quản lý ngoại hối.
Chính sách tỷ giá
Khái niệm tỷ giá hối đoái: tỷ giá hối đoái là giá cả của một đồng tiền được biểu hiện bằng một đồng tiền khác ở một thời điểm nhất định và tại một thị trường nhất định
Ví dụ : Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố tỷ giá chính thức của đồng Việt Nam với USD áp dụng cho ngày 29-3-2004 như sau:
Giá USD : Mua vào : 15.720đ/ USD
Bán ra : 15.745 đ/USD
Tỷ giá hối đoái biến động tăng hoặc giảm sẽ có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đối với hoạt động thương mại quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Phân tích các vấn đề liên quan đến chính sách xuất khẩu không thể tách rời việc xem xét chế độ tỷ giá mà nước đó áp dụng. Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái là nhân tố quan trọng thực hiện chiến lược hướng ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu.
Khi tỷ giá hối đoái tăng có nghĩa là đồng nội tệ bị giảm giá so với đồng ngoại tệ thì sẽ có tác động khuyến khích hoạt động xuất khẩu. Bởi vì khi tỷ giá hối đoái tăng các DN xuất khẩu sẽ thu được một lượng ngoại tệ quy đổi ra nội tệ được nhiều hơn so với lượng nội tệ bỏ ra ban đầu để sản xuất hay thu mua hàng hoá xuất khẩu. Mặt khác, khi đó so với giá cả trên thị trường thế giới thì hàng hoá của ta sẽ rẻ hơn so với trước, khả năng cạnh tranh của hàng hoá được nâng cao. Nhiều hợp đồng xuất khẩu có thể được ký kết khi hàng hoá của ta rẻ hơn so với hàng hoá cùng loại của các nước khác. Tuy nhiên, cũng cần lưu rằng nếu tỷ giá hối đoái tăng lên quá nhanh thì sẽ lại không có tác động tích cực cho xuất khẩu. Khi tỷ giá tăng quá cao sẽ kéo theo sự tăng giá của các yếu tố đầu vào, từ đó dẫn đến chi phí sản xuất tăng, giá cả hàng xuất khẩu cũng tăng theo kết quả là nền kinh tế sẽ rơi vào tình trạng giá tăng giả tạo, gây lạm phát cao, ảnh hưởng xấu đến kinh tế.
Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái giảm nghĩa là đồng nội tệ tăng giá so với đồng ngoại tệ thì hoạt động xuất khẩu sẽ gặp nhiều khó khăn. Hàng hoá xuất khẩu của nước ta sẽ trở nên đắt hơn so với trước và đắt hơn so với hàng hoá cùng loại của nước khác, dẫn tới giảm khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Các hợp đồng xuất khẩu sẽ ít đi. Thêm vào đó thì các nhà xuất khẩu cũng sẽ bị thiệt thòi do ngoại tệ họ thu được từ các hợp đồng xuất khẩu chỉ đổi được một lượng nội tệ ít hơn so với lượng nội tệ bỏ ra ban đầu. Với số nội tệ đó họ sẽ không đủ để trang trải cho các chi phí sản xuất, thu mua hàng hoá xuất khẩu đã bỏ ra ban đầu. Nếu tình trạng này kéo dài rất có thể dẫn tới tình trạng thua lỗ rồi dẫn tới phá sản của các DN xuất khẩu.
Như vậy đối với các DN sự biến động của tỷ giá làm cho các hợp đồng xuất khẩu trở nên không chắc chắc, họ khó có thể đảm bảo được giá trị của hợp đồng khi ngoại tệ mất giá. Để hạn chế thấp nhất những ảnh hưởng của biến động tỷ giá, các DN xuất khẩu có thể sử dụng một số công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái như:
- Hợp đồng có kỳ hạn: là một thoả thuận trong đó hai bên sẽ cam kết mua hoặc bán với nhau một số lượng ngoại tệ nhất định theo tỷ giá xác định sau một thời gian thoả thuận kể từ ngày ký kết giao dịch. Trong giao dịch này mọi điều kiện được cố định tại thời điểm thoả thuận, việc giao dịch chỉ được thực hiện vào ngày giá trị đã được thoả thuận trước trên cơ sở kỳ hạn mua bán. Tỷ giá được sử dụng trong giao dịch này là tỷ giá kỳ hạn được xác định dựa trên tỷ giá trao ngay và chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền. Khi các DN xuất khẩu dự đoán trong tương lai đồng ngoại tệ sẽ xuống giá thì họ sẽ mua hợp đồng có kỳ hạn với ngân hàng để tránh rủi ro do ngoại tệ xuống giá.
- Hợp đồng tương lai: là một thoả thuận mua bán một số lượng ngoại tệ nhất định theo một tỷ giá được ấn định vào thời điểm ký kết hợp đồng và ngày giao hàng được ấn định sẵn trong tương lai. Để ký được hợp đồng tương lai, điều bắt buộc đối với người mua và người bán là phải có một khoản tiền ký quỹ (thường bằng 4% giá trị hợp đồng) để đảm bảo khả năng thanh toán cho mỗi bên. Lãi hay lỗ mà các bên tham gia được hưởng hay chịu được trích từ tài khoản ký quỹ này. Như vậy giao dịch tương lai không những phòng ngừa được rủi ro tỷ giá mà còn hạn chế được rủi ro mất khả năng thanh toán của các bên.
- Hợp đồng quyền chọn: hợp đồng quyền chọn cho phép người mua nó có quyền (nhưng không bắt buộc) mua hoặc bán một số lượng ngoại tệ với tỷ giá ấn định (tỷ giá thực hiện vào thời hạnh quy định). Một hợp đồng quyền chọn cho phép người mua nó có quyền mua một số lượng ngoại tệ theo những điều kiện của quyền chọn gọi là quyền chọn mua. Một hợp đồng quyền chọn cho phép người mua nó có quyền bán một số lượng ngoại tệ với những điều kiện quy định trước được gọi là quyền chọn bán. Trong giao dịch quyền chọn, người mua quyền chọn thực hiện quyền chọn mua hay bán phụ thuộc vào sự biến động của tỷ giá hiện hành so với tỷ giá thực hiện hợp đồng.
Như vậy, có thể thấy ảnh hưởng rất quan trọng của tỷ giá đối với hoạt động xuất khẩu. Nhiều quốc gia coi tỷ giá hối đoái như là một công cụ hữu hiệu, nhanh nhạy, và khá hiệu quả để tăng cường xuất khẩu và cải thiện cán cân thương mại. Tuy nhiên, tỷ giá hối đoái rất nhạy cảm và thay đổi nó sẽ gây những tác động rất phức tạp, ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo những động hướng khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, đưa đến những kết quả khó lường trước, đụng chạm không chỉ tới xuất nhập khẩu, cán cân thương mại, mà còn tới mặt bằng giá cả, lạm phát, tiền lương thực tế, đầu tư và vay nợ nước ngoài, NSNN, cán cân thanh toán quốc tế cũng như sự ổn định kinh tế vĩ mô nói chung. Chính vì vậy, điều chỉnh tỷ giá hối đoái là một việc làm đòi hỏi phải rất thận trọng, phải cân nhắc tới mọi mặt cơ chế tác động của việc thay dổi tỷ giá để đạt hiệu quả tổng thể.
Chính sách quản lý ngoại hối.
Chính sách quản lý ngoại hối của mỗi quốc gia cũng có những ảnh hưởng nhất định đến việc khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu cũng như hoạt động xuất khẩu. Một cơ chế quản lý ngoại hối luôn đảm bảo đủ một lượng ngoại tệ cần thiết cho nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại để đổi mới sản xuất hàng hoá xuất khẩu thì hoạt động xuất khẩu của quốc gia đó sẽ được đẩy mạnh và phát triển. Ngược lại, nếu ngoại tệ không đủ hay quốc gia đó không sử dụng đủ một lượng ngoại tệ cần thiết cho việc đổi mới sản xuất thì hoạt động xuất khẩu của quốc gia đó sớm muộn sẽ bị thu hẹp lại, bởi lẽ trong xu thế quốc tế hoá hiện nay, canh tranh diễn ra trên mọi khía cạnh, nó đòi hỏi sản phẩm muốn đứng vững phải luôn đổi mới về chất lượng, mẫu mã và giá cả. Vì vậy phải đổi mới các yếu tố đầu vào. Hiện nay, đổi mới máy móc, dây chuyền, thiết bị là một trong những bước ngắn nhất và hiệu quả nhất để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm.
Như vậy đối với các DN xuất khẩu nói chung và các DN sản xuất hàng xuất khẩu họ luôn cần có một lượng ngoại tệ để đổi mới sản xuất, để tự chủ hơn trong hoạt động kinh doanh của mình. Điều này đòi hỏi sự đúng đắn và hợp lý của mỗi quốc gia trong chính sách quản lý ngoại tệ đối với các DN xuất khẩu. Thông thường các quốc gia kiểm soát lượng ngoại tệ của các DN xuất khẩu thông qua việc quy định một tỷ lệ ngoại tệ phải được chuyển sang nội tệ khi DN xuất khẩu bán hàng thu ngoại tệ về. Tỷ lệ này phụ thuộc vào chính sách phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ. Nếu quốc gia muốn đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thì tỷ lệ này thường được quy định thấp (thường nhỏ hơn 30%). Ngày nay đa số các quốc gia đều duy trì chính sách kinh tế mở hướng về xuất khẩu vì vậy tỷ lệ này thường rất thấp, thậm chí là 0%.
Tại Việt Nam hiện nay, Nhà nước cho phép các DN kinh doanh xuất khẩu có quyền sử dụng 100% lượng ngoại tệ họ thu về từ các hợp đồng. Các DN có thể bán cho ngân hàng một số lượng ngoại tệ nhất định tuỳ theo thoả thuận giữa họ và ngân hàng sao cho có lợi nhất. Với chính sách này của Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều DN nhất là đối với các DN kinh doanh trên cả hai lĩnh vực xuất khẩu và nhập khẩu.
Trợ cấp xuất khẩu
Trợ cấp xuất khẩu là những khoản chi của Chính phủ hoặc sự ưu đãi về tài chính của Chính phủ cho các nhà sản xuất hay xuất khẩu trong nước để họ xuất khẩu hàng hoá hay dịch vụ
Trợ cấp xuất khẩu bao gồm phạm vi rất rộng như: Chính phủ trực tiếp cấp vốn, cho vay, góp cổ phần, đảm bảo cho vay; Chính phủ bỏ qua hoặc không thu các khoản DN phải nộp; Chính phủ cung cấp hàng hoá hay dịch vụ không phải là hạ tầng cơ sở nói chung hoặc mua hàng vào; Chính phủ đóng góp tiền vào một cơ chế tài trợ, hay giao cho một hay nhiều cơ quan tư nhân thực hiện một hay nhiều việc trên đây; hỗ trợ thu nhập hoặc trợ giá khi xuất khẩu.
Mục đích của trợ cấp xuất khẩu là giúp người xuất khẩu tăng thu nhập, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá, do đó đẩy mạnh được xuất khẩu. Có hai hình thức trợ cấp xuất khẩu: trực tiếp và gián tiếp.
Trợ cấp xuất khẩu trực tiếp là những bù đắp trực tiếp thiệt hại cho DN khi xuất khẩu hàng hoá như áp dụng thuế suất ưu đãi đối với hàng xuất khẩu, miễn hoặc giảm thuế đối với nhà xuất khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu cho các nhà xuất khẩu được hưởng các mức giá ưu đãi cho các đầu vào sản xuất hàng hoá xuất khẩu như: điện, nước, vận tải, thông tin liên lạc, trợ giá xuất khẩu.
Trợ cấp xuất khẩu gián tiếp là nhà nước dùng ngân sách Nhà nước để giới thiệu triển lãm, quảng cáo, tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch xuất khẩu hoặc Nhà nước giúp đỡ kỹ thuật và đào tạo chuyên gia. Nhà nước thông tin kịp thời đến các DN xuất khẩu về tình hình thị trường, hàng hoá và giá cả của các nước, hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho các DN tiến hành khảo sát thị trường
Do trợ cấp xuất khẩu có tính hợp lý về mặt kinh tế nên Điều XVI:1 của GATT và Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTO cho phép các nước thành viên duy trì các hình thức trợ cấp không gây bóp méo thương mại hoặc gây tổn hại tới lợi ích của các nước thành viên khác. Tại điều 27 của Hiệp định trên thừa nhận “trợ cấp là một công cụ phát triển hợp pháp và quan trọng của các nước đang phát triển” và quy định dành đãi ngộ đặc biệt và khác biệt có liên quan đến trợ cấp cho các nước thành viên đang phát triển.
Hiện nay trợ cấp xuất khẩu vẫn được sử dụng rộng rãi, nhất là trợ cấp cho những sản phẩm nông nghiệp, hình thức trợ cấp xuất khẩu trực tiếp có xu hướng bị thu hẹp do sự đấu tranh giữa Chính phủ có quan hệ buôn bán với nhau. Ngược lại, trợ cấp gián tiếp ngày càng tăng lên.
Tại Việt Nam ngày 27-9-1999 theo Quyết định 195/1999/QĐ - TTg, Chính phủ đã thành lập Quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Quỹ này được lập ra để khuyến khích và hỗ trợ xuất khẩu dưới hình thức:
Hỗ trợ lãi suất vay ngân hàng cho DN xuất nhập khẩu thu mua hàng nông sản sản xuất theo giá sàn hoặc giá đảm bảo kinh doanh cho người sản xuất được Thủ tướng Chính phủ quy định.
Hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ phần chênh lệch lãi suất giữa lãi suất cho vay ngắn hạn của ngân hàng thương mại và lãi suất ưu đãi cho DN xuất nhập khẩu thu mua hàng nông sản chờ xuất khẩu theo chỉ thị cuả Thủ tướng Chính phủ.
Hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ lãi suất vay ngân hàng cho các DN làm nhiệm vụ dự trữ lưu thông theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ phần chênh lệch lãi suất giữa lãi suất cho vay ngắn hạn của ngân hàng thương mại và lãi suất ưu đãi cho DN thu mua chế biến và trực tiếp xuất khẩu đối với hàng nông sản xuất khẩu theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Hỗ trợ một phần tài chính có thời hạn đối với một số mặt hàng xuất khẩu bị lỗ do thiếu sức cạnh tranh, hoặc gặp rủi ro do nguyên nhân khách quan, gây ra cho DN xuất nhập khẩu bị lỗ tạm thời, hoặc gặp khó khăn về tài chính trong các trường hợp:
+ Hàng hoá lần đầu tiên xuất khẩu
+ Hàng hoá xuất khẩu đối với thị trường mới lần đầu tiên tìm kiếm và chưa ổn định.
+ Hàng hoá đã thu mua nhưng chưa xuất khẩu được do giá tỷ giá giảm đột biến.
+ Hàng hoá xuất khẩu trực tiếp bị lỗ tạm thời vì thiếu sức cạnh tranh do huy động đầu tư mới.
Hỗ trợ một phần cho các DN xuất nhập khẩu đã đóng góp vào Quỹ hỗ trợ xuất khẩu nay gặp khó khăn về tài chính do giá cả thị trường biến động.
Thưởng tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu mặt; hàng mới sản xuất lần đầu tiên tham gia xuất khẩu; xuất khẩu sản phẩm đạt chất lượng cao được tổ chức quốc tế công nhận bằng văn bản; xuất khẩu sản phẩm sử dụng nhiều nguyên liệu lao động trong nước; đạt kim ngạch xuất khẩu lớn và hiệu quả cao.
Hỗ trợ khác theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Thuế xuất khẩu và các ưu đãi về thuế
Thuế xuất khẩu rất ít được sử dụng một cách rộng rãi đặc biệt là tại nước công nghiệp phát triển. Cơ cấu thuế các nước rất khác nhau, ở Việt Nam thuế xuất khẩu được áp dụng với rất ít mặt hàng, việc đánh thuế xuất khẩu ở ta không nhằm tăng thu cho ngân sách mà nhằm vào mục tiêu khác như nâng cao mức độ chế biến nguyên liệu thô của các nhà xuất khẩu. Về nguyên tắc, hình thức đánh thuế như vậy có thể tăng thêm giá trị gia tăng đối với nguyên liệu xuất khẩu, từ đó tạo ra công ăn việc làm và thu nhập của nền kinh tế.
Không phải ngẫu nhiên mà Chính phủ Việt Nam cũng như Chính phủ các quốc gia khác đã giảm số thu thuế xuất khẩu thậm chí giảm đến mức số giảm đó đôi khi còn lớn hơn cả giá trị gia tăng mà nền kinh tế nhận được, đặc biệt khi nguyên liệu chế biến được hoàn toàn miễn thuế và khi xuất khẩu chẳng những được hưởng thuế suất thuế xuất khẩu bằng 0% mà người xuất khẩu còn được hoàn lại toàn bộ thuế giá trị gia tăng đã nộp trước đó.
Ngoài chính sách về thuế đối với xuất khẩu, Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển khác có chính sách ưu tiên về thuế đối với các đầu vào nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu.
Các biện pháp khuyến khích xuất khẩu thông qua thuế thường được thực hiện dưới hai hình thức: trực tiếp và gián tiếp. Các chế độ ưu đãi thuế trực tiếp cho xuất khẩu bao gồm: thuế xuất khẩu và các loại phí, lệ phí liên quan đến xuất khẩu. Các biện pháp thuế gián tiếp khuyến khích xuất khẩu gồm thuế nhập khẩu, các biện pháp về thuế trong quá trình thực hiện WTO, CEPT thuế TNDN, thuế tiêu thụ đặc biệt. Riêng thuế GTGT vừa trực tiếp vừa gián tiếp khuyến khích xuất khẩu. Hầu hết các nguyên liệu và bán thành phẩm phục vụ cho xuất khẩu đều không đánh thuế nhập khẩu hoặc đánh thuế rất thấp. Đồng thời để khuyến khích xuất khẩu nhà nước quy định việc miễn giảm thuế và hoàn lại thuế cho các DN xuất khẩu hàng xuất khẩu.
Theo luật thuế đã được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua ngày 26/12/1991 và Luật bổ sung sửa đổi ngày 5/7/1993, và Nghị định số 54/CP ngày 28/8/1993 hướng dẫn thi hành luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thì các hàng hoá sau đây được miễn, giảm và hoàn lại thuế:
Hàng xuất khẩu được miễn thuế:
Hàng xuất khẩu trả nợ nước ngoài của Chính phủ
Hàng xuất khẩu, nhập khẩu được xét miễn thuế để khuyến khích xuất khẩu.
Hàng là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để gia công cho nước ngoài và xuất khẩu theo các hợp đồng gia công cho nước ngoài.
Hàng xuất khẩu của các xí nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài và của bên nước ngoài hợp tác kinh doanh.
Hàng được xét hoàn thuế:
Hàng được kê khai và nộp thuế nhưng thực tế không xuất khẩu nữa hoặc thực tế xuất khẩu ít hơn.
Hàng là vật tư, nguyên liệu nhập để sản xuất hàng được hoàn thuế tương ứng với tỷ lệ xuất khẩu thành phẩm
Hàng nhập khẩu để tái xuất, tạm xuất để tái nhập.
Theo luật thuế GTGT được thông qua tại kỳ họp thứ 11 khoá IX thì khi xuất khẩu, hàng hoá không phải nộp thuế GTGT (thuế suất 0%), bao gồm cả hàng hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt xuất khẩu, phần mềm máy tính xuất khẩu, sửa chữa máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải nước ngoài, và dịch vụ xuất khẩu lao động.
Các loại thuế gián thu khác cũng đều dành những ưu tiên nhất định cho xuất khẩu
Phương thức thanh toán và điều kiện giao hàng.
Phương thức thanh toán
Phương thức thanh toán là cách thức mà người bán và người mua cùng thoả thuận để trả tiền cho việc thực hiện hợp đồng. Trong thương mại quốc tế thì phương thức thanh toán là một trong những điều kiện quan trong bậc nhất trong các điều kiện thanh toán quốc tế. Các phương thức thanh toán khác nhau sẽ quyết định đến khả năng thu hồi vốn nhanh hay chậm, chi phí thanh toán nhiều hay ít. Trong một số trường hợp nó còn trở thành một trong những nhân tố thúc đẩy hay kìm hãm hoạt động xuất khẩu nếu các DN xuất khẩu không lựa chọn được phương thức thanh toán thích hợp cho từng đối tượng khách hàng, từng mặt hàng xuất khẩu. Hiện nay trong thanh toán quốc tế thường sử dụng một số phương thức thanh toán sau:
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ (Letter of credit - L/C)
Là một sự thoả thuận trong đó một ngân hàng (ngân hàng mở L/C) cam kết sẽ trả một số tiền nhất định cho người thứ ba (người hưởng lợi số tiền của L/C) hoặc chấp nhận hối phiếu do người thứ ba ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người thứ ba này xuất trình cho ngân hàng đầy đủ bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định đề ra trong L/C. Có nhiều loại L/C khác nhau nhưng thường được sử dụng phổ biến là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang (irrevocable letter of credit): là loại L/C mà sau khi đã được mở và người xuất khẩu thừa nhận thì ngân hàng mở L/C không được sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ trong thời hạn hiệu lực của nó, trừ phi có sự thoả thuận khác nhau của các bên tham gia thư tín dụng.
Phương thức chuyển tiền (Transfer/ Remettance)
Thanh toán bằng chuyển tiền là một phương thức thanh toán trong đó khách hàng (người có yêu cầu chuyển tiền) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình, chuyển một số tiền nhất định cho một người khác (người thụ hưởng) ở một địa điểm nhất định. Có hai hình thức chuyển tiền chủ yếu là:
- Chuyển tiền bằng thư (Mail transfer- MT): là hình thức chuyển tiền trong đó lệnh thanh toán của ngân hàng được thể hiện trong nội dung bức thư mà ngân hàng này gửi cho ngân hàng thanh toán qua bưu điện.
- Chuyển tiền bằng điện (Telegraphic transfer- T/T): là một hình thức trong đó lệnh thanh toán của ngân hàng chuyển tiền được thể hiện trong một bức điện gửi tới ngân hàng thanh toán thông qua fax hoặc telex hoặc qua mạng liên lạc viễn thông SWIFT.
Phương thức nhờ thu ( Collection of payment):
Là phương thức mà người bán sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ cho khách hàng sẽ uỷ thác cho ngân hàng của mình thu hộ số tiền ở người mua trên cơ sở hối phiếu của người bán lập ra. Có hai loại nhờ thu: nhờ thu trơn và nhờ thu kèm chứng từ.
- Nhờ thu trơn: (Clean collection): là phương thức trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra, còn chứng từ gửi hàng thì gửi thẳng cho người mua không qua ngân hàng.
- Nhờ thu kèm chứng (Documentary collection): là phương thức thanh toán trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua không chỉ căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ hàng hoá. Chỉ khi người mua trả tiền hoặc chấp nhận hối phiếu thì ngân hàng mới trao toàn bộ chứng từ để người mua nhận hàng. Tuỳ theo thời hạn trả tiền, phương thức này chia làm hai loại:
+ Nhờ thu trả tiền đổi chứng (Documents against payment- DP)
+ Nhờ thu chấp nhận đổi chứng (Documents against acceptance- DA)
Phương thức ghi sổ:
Đây là phương thức thanh toán trong đó người bán hàng mở một tài khoản để ghi nợ người mua sau khi người bán hoàn thành giao hàng, định kỳ người mua trả tiền cho người bán. Phương thức này không có sự tham gia của ngân hàng với chức năng của người mở tài khoản và thực thi thanh toán mà chỉ mở tài khoản đơn biên, nếu người mua mở tài khoản đơn biên thì tài khoản đó chỉ là tài khoản theo dõi, không có giá trị thanh toán giữa các bên.
Điều kiện giao hàng
Trong các điều kiện thương mại quốc tế Incoterm 2000 chia ra làm 4 nhóm với 13 điều kiện có quy định rõ trách nhiệm của bên và phù hợp với phương tiện vận chuyển khác nhau, và tuỳ thuộc vào khả năng và sự thoả thuận các bên sẽ chọn một điều kiện thực hiện việc giao nhận hàng hoá.
Bảng 1.1 Nguồn: Giáo trình Kinh tế ngoại thương- ĐH Ngoại thương HN
Các điều kiện giao hàng theo Incoterm
Nhóm E
EW - ex works
Giao tại xưởng
Nhóm F (cước chính chưa trả)
FAC - free carrier
Giao cho người vận tải
FAS - free alongside ship
Giao dọc mạng tàu
FOB - free on board
Giao trên tàu
Nhóm C (cước chính người bán phải trả)
CFR - Cost and Frieght
Tiền hàng, cước phí
CIF - Cost, insurance and frieght
Tiền hàng, phí BH & cước phí
CPT - Carriage paid to
Cước phí trả tới đích
CIP - Carriage and insurance paid to
Cước phí & phí BH trả trả tới đích
Nhóm D (người bán phải mang hàng đến nơi đến)
DAF - Delevered at frontier
Giao hàng tại biên giới
DES - Delevered ex ship
Giao tại tàu
DEQ - Delevered ex quay
Giao tại cảng
DDU - Delevered duty unpaid
Giao tại đích, chưa nộp thuế
DDP - Delevered duty paid
Giao tại đích, đã nộp thuế
ở Việt Nam do địa hình nước ta nên chủ yếu phương tiện vận chuyển hàng bằng đường biển, vì vậy thường áp dụng các điều FOB, CIF, FAS, C&F. Mỗi hình thức giao hàng có những ưu nhược điểm riêng và có những ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả xuất khẩu của DN. Cụ thể ví dụ nếu nhà xuất khẩu bán hàng theo giá FOB thì hiệu quả xuất khẩu cho nền kinh tế nói chung và nhà xuất khẩu nói riêng thường không cao bằng việc bán theo giá CIF.
Đặc điểm của xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế chuyển đổi ở Việt Nam
Trước Đại hội Đảng VI (1986) nền kinh tế nước ta còn là nền kinh tế bao cấp thì hoạt động xuất khẩu không được chú ý. Sản xuất chủ yếu theo kiểu tự cung tự cấp chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu nội địa, vì vậy sản xuất ngày càng trở nên lạc hậu trì trệ. Hàng hoá sản xuất ra chưa đáp ứng được nhu cầu trong nước thì nói gì đến xuất khẩu. Các hàng hoá xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm thô, chưa qua chế biến vì vậy giá trị xuất khẩu thấp, lượng ngoại tệ thu về thường không đủ để nhập khẩu các hàng hoá tiêu dùng thiết yếu thì nói chi đến việc nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại cho đổi mới sản xuất. Thị trường xuất khẩu chủ yếu trong thời gian này là thị trường các nước Đông Âu với các bạn hàng quen thuộc phe XHCN (chiếm khoảng 60% kim ngạch xuất khẩu của nước ta)
Đại hội Đảng VI đã tạo ta một bước ngoặt lịch sử, nền kinh tế nước ta đã chuyển từ bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Tại ĐH này, Việt Nam đã khẳng định muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, duy trì một chính sách kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới. Hoạt động xuất khẩu được khuyến khích nhằm tăng thu ngoại tệ phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Với chính sách và đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước, sau hơn 15 năm đổi mới nước ta đã thu được nhiều thành tựu đáng kể, hoạt động xuất khẩu đã có những bước chuyển biến lớn. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã dần dần được thay đổi theo hướng phát huy lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế tỷ trọng các sản phẩm thô giảm dần, các sản phẩm đã qua chế biến được khuyến khích xuất khẩu nhằm nâng cao giá trị hàng hoá xuất khẩu.
Bảng 1.2 Nguồn; tính toán theo số liệu Tổng cục Thống Kê
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu 1996- 2000
Đơn vị tính: triệu USD
Chỉ tiêu
1996
1997
1998
1999
2000
tổng
tỷ trọng
Nông,lâm,thuỷ sản
8.276
3.067
3.239
3.790
4.356
17.921
34.6%
Công nghiệp và thủ CN
3.671
2.103
3.372
4.170
5.537
18.433
35.6%
Nhiên liệu, khoáng sản
5.209
2.085
2.650
3.580
4.553
15.442
29.8%
Chất lượng gia công các mặt hàng may mặc, giày dép, lắp ráp hàng điện tử, máy tính đang tiến gần tới trình độ chung của quốc tế thể hiện qua khối lượng xuất khẩu ngày càng tăng. Nhiều mặt hàng đã đang và sẽ xuất khẩu đạt tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000, ISO 9001, ISO14000 và ISO 18000. Hàng hoá của chúng ta đã dần khẳng định được năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường thế giới. Nếu như năm 1991 mới có 4 mặt hàng xuất khẩu có giá trị trên 100 triệu USD là: dầu thô, thuỷ hải sản, gạo và hàng dệt may thì nay đã có thêm 8 mặt hàng nữa là cà phê, cao su, diều, giày dép, than đá, hàng điện tử, thủ công mỹ nghệ, rau quả, trong đó có 4 mặt hàng có giá trị trên 1 tỷ USD là gạo, giày dép, may mặc và dầu thô, 3 mặt hàng có giá trị trên 500 triệu là cà phê, điện tử và thuỷ hải sản.
Năm 2002 sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam đã có mặt ở trên 200 nước thuộc khắp các châu lục mang về cho đất nước 16.7 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu, tăng 11.2% so với năm 2001. Thị trường xuất khẩu cũng có những thay đổi, 10 năm sau đổi mới thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là Châu á (chiếm 70%) với thị trường chính là thị trường Nhật Bản (thường chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu), tiếp theo là thị trường Châu Âu (15%), Châu Mỹ (5%), Châu úc. Trong khoảng 5 năm gần đây cơ cấu thị trường đã có sự thay đổi đáng kể phù hợp với sự phát triển của kinh tế thế giới. Sau khủng hoảng Châu á (1997-1998) kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này đã giảm dần hiện chỉ còn khoảng 50- 55%, thị trường Nhật cũng chỉ chiếm 15-20% tổng kim ngạch xuất khẩu. Ngược lại thị trường Châu âu, đặc biệt là các nước Đông Âu lại đanglà nước thị trường tiềm năng của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng từ 18% năm 1996 đến 35% năm 2002. Thực tế này cho thấy hoạt động xuất khẩu của nước ta đã trở nên linh hoạt hơn và đây chính là yếu tố thuận lợi để nước ta đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường trong các năm tiếp theo.
Chương II
Thực trạng sử dụng các công cụ tài chính trong
xuất khẩu hàng hoá tại công ty sx – DV & XNK Nam Hà nội ( Hapro)
2.1. Khái quát chung về Công ty SX - DV & XNK Nam Hà Nội
2.1.1. Sự hình thành và phát triển
Cty SX-DV & XNK Nam Hà Nội là doanh nghiệp nhà nước hạng I hoạt động sản xuất kinh doanh đa dạng trên nhiều lĩnh vực, hạch toán kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, tự chủ về tài chính và hoạt động theo luật doanh nghiệp nhà nước.
Trụ sở chính tại 38-40 Lê Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội
Công ty được thành lập từ năm 1991. Tháng 8/1991 thành lập "Ban đại diện phía Nam" (chính là tiền thân của công ty Cty SX-DV & XNK Nam Hà Nội ngày nay).
Tháng 4/1992 "Ban đại diện được đổi tên thành Chi nhánh SX- DV& XNK tiểu thủ công nghiệp" trực thuộc liên hiệp SX-DV & XNK thủ công mỹ nghệ Hà Nội.
Tháng 1/1999 thành lập Cty SX-DV & XNK Nam Hà Nội trên cơ sở sát nhập Xí nghiệp phụ tùng xe đạp- xe máy Lê Ngọc Hân- Hà Nội
Tháng 12/2000 sát nhập Công ty ăn uống, dịch vụ Bốn mùa và đổi tên thành Công ty SX-DV & XNK Nam Hà Nội trực thuộc Sở Thương mại Hà Nội, theo quyết định số 6908/QĐ-UB ngày 12/12/2000 của UBND Thành phố Hà Nội
Ngày 20/03/2002 sát nhập thêm Xí nghiệp giống cây Toàn Thắng theo Quyết định số 1757/QĐ-UBND thành phố Hà Nội.
Hiện nay tổ chức và bộ máy của công ty bao gồm:
- Ban lãnh đạo công ty: Giám đốc và 4 phó Giám đốc, 6 trợ lý giám đốc theo khu vực
- Khối văn phòng gồm: văn phòng Hà Nội, Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh các phòng quản lý, phòng đối ngoại, phòng khu vực thị trường, Trung tâm xuất nhập khẩu và dịch vụ thương mại. Trong đó số phòng và trung tâm trực tiếp làm xuất nhập khẩu là 11
- Khối sản xuất gồm 5 Xí nghiệp: Xí nghiệp gốm Chu Đậu - Nam Sách- Hải Dương, Xí nghiệp Sắt mỹ nghệ- Bình Dương, Xí nghiệp Liên hiệp chế biến Thực phẩm, Xí nghiệp cà phê Sinh Thái, Xí nghiệp Toàn Thắng - Gia Lâm - Hà nội
- Khối các công ty đa sở hữu gồm 7 Công ty: Công ty cổ phần mành trúc Hapro, Công ty cổ phần thực phẩm truyền thống Hapro, Công ty cổ phần nước uống tinh khiết Hapro, Công ty cổ phần rượu vang thảo mộc Hapro, Công ty cổ phần Sứ Bát Tràng Hapro, Công ty cổ phần Simex, Công ty cổ phần Thăng Long.
Chức năng và nhiệm vụ của công ty
Công ty HAPRO hoạt động sản xuất kinh doanh trên cả 3 lĩnh vực: sản xuất, dịch vụ và xuất nhập khẩu, trong đó xuất khẩu là hoạt động chủ đạo. Chức năng chính và nhiệm vụ chính của Công ty hiện nay là:
Tổ chức sản xuất, thu mua chế biến và xuất khẩu trực tiếp các mặt hàng nông lâm hải sản, thủ công mỹ nghệ
Nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước.
Sản xuất–kinh doanh các mặt hàng thực phẩm, rượu, chè, nước giải khát
Kinh doanh dịch vụ thương mại, du lịch, khách sạn, ăn uống…
Xây dựng và thực hiện các kế hoạch ngắn hạn và dài hạn về sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật và quy định của Sở Thương mại Hà nội, đồng thời xây dựng các phương án vàa triển khai theo đúng kế hoạch, mục tiêu đặt ra của Công ty.
Tổ chức nghiên cứu, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, cải tiến công nghệ nhằm nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
Hiện nay Công ty có hệ thống cơ sở sản xuất và mạng lưới bán hàng nội địa ở 16 Tỉnh, Thành phố trong cả nước, thiết lập được quan hệ thương mại với khách hàng quốc tế ở 53 quốc gia, giao dịch với khách hàng thuộc 70 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Các sản phẩm của HAPRO không chỉ được người tiêu dùng trong nước tín nhiệm mà thương hiệu HAPRO đã và đang được các doanh nhân, thương nhân trên khắp thế giới biết đến và tin cậy.
Trong 5 năm gần đây Công ty đã liên tục đạt được nhiều danh hiệu thi đua do Đảng và Nhà nước khen tặng như: năm 2002 được tặng cờ thi đua của Chính phủ, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ (2001), Bằng khen về thành tích xuất khẩu 4 năm liền (2001-2002) của hội đồng xét thưởng Nhà nước…
2.1.3. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý tại Công ty HAPRO
Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý.
2.1.3.2. Chức năng nhiệm vụ các bộ phận
Ban Giám đốc:
Giám đốc: là người đứng đầu Công ty do Sở Thương mại bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động của Công ty.
Phó Giám đốc: là người giúp việc cho Giám đốc, thay mặt Giám đốc giải quyết các vụ việc theo nguyên tắc và đảm nhiệm các công việc được
Các phòng chức năng:
Phòng tổ chức hành chính: Có nhiệm vụ tổ chức và thực hiện chế độ lương thưởng, công tác tuyển dụng, bố trí cán bộ. Ngoài ra phòng còn có trách nhiệm quản lý, sửa chữa cơ sở vật chất kỹ thuật, thực hiện công tác tiếp tân.
Phòng kế toán tài chính: Có nhiệm vụ ghi chép, tính toán và phản ánh chính xác, trung thực, kịp thời, đầy đủ toàn bộ tài sản, nguồn vốn và phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Đồng thời kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch thu chi, việc sử dụng tài sản., tiền vốn,.. .
Phòng tổng hợp: Có nhiệm vụ nghiên cứu và đề xuất với giám đốc xây dựng các chương trình phát triển ngắn hạn, dài hạn và chuyên đề đột xuất nhằm phát triển thị trường, ngành hàng, mặt hàng, thương hiệu, .. .
Phòng khu vực thị trường: Có nhiệm vụ nghiên cứu, khảo sát, tiếp cận thị trường, duy trì và tìm ra nguồn hàng mới, tìm kiếm khách hàng, chào bán hàng, theo dõi quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu, tổ chức giao hàng, lập chứng từ thanh toán, giải quyết tranh chấp.
Phòng quảng cáo: Có nhiệm vụ xây dựng chiến lược, trực tiếp thực hiện công tác quảng cáo, tiếp thị nhằm xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu hàng hoá, thúc đẩy thị trường trong và ngoài nước.
Phòng đầu tư: Có nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất xây dựng dự án theo định hướng sản xuất kinh doanh của công ty.
Bộ phận kinh doanh:
Phòng XNK I: Thực hiện kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp đồ nhựa, hàng công nghiệp nhẹ, nông sản, dược liệu và dịch vụ xuất nhập khẩu uỷ thác
Phòng XNK II: Thực hiện xuất khẩu trực tiếp hàng thủ công mỹ nghệ và dịch vụ xuất nhập khẩu uỷ thác.
Phòng XNK III: Thực hiện xuất khẩu hàng thuê ren, may mặc, đan móc và có thể là hàng nông sản khi vào vụ.
Phòng XNK IV: Thực hiện xuất khẩu hàng nông sản và dịch vụ uỷ thácr
Trung tâm máy và thiết bị: Xây dựng quản lý phòng trưng bầy, quảng cáo, giới thiệu quy trình công nghệ, dịch vụ và chức năng tư vấn thị trường.
Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty trong thời gian qua.
Công ty SX –DV & XNK Nam Hà Nội là doanh nghiệp trực thuộc Bộ Thương mại đã có hoạt động lâu năm trên lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá, làm ăn tạo được uy tín lớn trên thị trường trong nước và quốc tế. Trong thời gian qua Công ty đã không ngừng phấn đấu vươn lên trở thành một trong nước DN Nhà nước hạng I, dẫn đầu trong khối DN của Thành phố Hà nội. Có thể thấy được tình hình phát triển sản xuất của Công ty thông qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.1 Nguồn: tính toán theo số liệu phòng Kế toán tài chính
Kết quả sản xuất kinh doanh năm 2002-2003
Đơn vị tính: đồng
Chỉ tiêu
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2003/2002
±
%
Tổng Doanh Thu
268.168.522.389
565.797.957.732
297.629.435.343
110%
Các khoản giảm trừ
0
0
Doanh Thu thuần
268.168.522.389
565.797.957.732
297.629.435.343
110%
Giá vốn hàng bán
229.903.999.331
515.109.579.579
285.205.508.248
124%
Lợi nhuận gộp
38.264.523.058
50.688.378.153
12.423.855.095
32%
Doanh thu hoạt động tài chính
828.261.438
2.637.845.813
1.845.584.375
222%
Chi phí hoạt động tài chính
2.627.578.680
6.968.021.006
4.340.433.326
165%
Chi phí bán hàng
27.222.970.978
31.484.089.112
4.261.118.134
15.6%
Chi phí quản lý DN
7.545.457.550
13.711.065.168
6.165.607.618
81%
Lợi nhuận từ HĐSXKD
1.696.768.288
1.199.048.680
- 497.719.608
- 29%
Lợi nhuận khác
141.673.731
816.336.630
674.662.899
476%
Tổng thu nhập trước thuế
1.838.442.019
2.015.385.310
176.943.291
9.6%
Thuế TNDN
588.301.446
644.923.290
56.621.844
9.6%
Lợi nhuận sau thuế
1.250.140.573
1.370.462.020
120.321.447
9.6%
Như vậy, thông qua số liệu trên, có thể thấy kết quả kinh doanh của toàn công ty: doanh thu năm 2003 tăng hơn 110% so với năm 2002; lợi nhuận trước thuế tăng 120.321.447 đồng so với năm 2002. Công ty cần tiếp tục duy trì và phát triển tốc độ này trong các năm tiếp theo
Năm 2003 mặc dù hoạt động sản xuất kinh doanh còn gặp khó khăn do chiến tranh I rắc và bệnh dịch SAR làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh song với ý chí quyết tâm, linh hoạt, năng động trong chuyển hướng thị trường, mặt hàng cùng với các giải phải pháp đẩy mạnh xuất khẩu theo ba hướngxc tiến thương mại- phát triển thị trường; nghiên cứu phát triển mặt hàng mới, sản phẩm mới; tạo nguồn hàng. Vì vậy, kết quả sản xuất kinh doanh XNK của công ty đạt được kết quả đáng khích lệ như trên.
2.1.5. Tình hình hoạt động xuất nhập khẩu của công ty trong thời gian qua
Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu
Mặt hàng xuất khẩu của Công ty rất đa dạng và phong phú, được chia ra làm các nhóm mặt hàng như:
- Nhóm nông sản thực phẩm: lạc, nghệ, tiêu đen, chè, gạo, tinh bột sắn, hoa hồi, hành củ tỏi, tùng hương, sắn lát, dừa sấy, da trăn, chè, tiêu, đậu xanh…
Nhóm thủ công mỹ nghệ: đồ gốm, đồ sứ: bình hoa, đồ lưu niệm, hàng mây tre, lá: giỏ, lẵng, khay mây, thảm đay
Nhóm hàng thực phẩm: rượu và thức ăn truyền thống khác…
Nhóm mặt hàng khác: nhựa
Các mặt hàng nông sản được Công ty thu mua từ nhiều nguồn khác nhau trên cả nước. Để tránh rủi ro trong bảo quản hàng hoá, sự thay đổi giá cả của thị trường sau khi phương án kinh doanh được duyệt, hợp đồng ngoại được ký kết, Công ty mới tiến hành ký hợp đồng nội với các DN trong nước để mua hàng xuất khẩu. Mặt hàng xuất khẩu thuộc phạm vi kinh doanh của phòng nghiệp vụ nào, phòng đó sẽ tiến hành công tác thu mua. Hàng hoá được thu mua chủ yếu bằng phương thức thu mua trực tiếp, hàng mua thường không nhập kho mà được vận chuyển thẳng tới cảng xuất theo hợp đồng ngoại. Các DN trong nước thường là những bạn hàng quen thuộc của công ty như: Công ty chè Mộc Châu, Công ty TNHH Ngọc Sơn… vì vậy hàng hoá xuất khẩu được đảm bảo về chất lượng, ít xảy ra tình trạng hàng mua bị trả lại.
Nhóm mặt hàng thủ công mỹ nghệ và thực phẩm truyền thống, phần lớn do các xí nghiệp của Công ty sản xuất ra như: Xí nghiêp gốm Chu Đậu, Xí nghiệp liên hiệp chế biến thực phẩm truyền thống HAPRO
Các mặt hàng này được xuất khẩu chủ yếu vào thị trường Châu á, với mặt hàng thủ công mỹ nghệ thì thị trường Nhật được coi là thị trường chính của Công ty. Các mặt hàng nông sản được xuất khẩu chủ yếu vào các thị trường như: Indonesia, Malaysia, India, Philipine, Pakistan, Germany, Turkey … Đây đều là những thị trường quen thuộc của Công ty trong thời gian qua.
Bảng 2.2 Nguồn: tính toán theo số liệu phòng Kê toán tài chính
Kim ngạch xuất khẩu theo mặt hàng
Đơn vị tính : USD
STT
Mặt hàng
KNXK 2002
KNXK 2003
2003/2002
±
%
1
Lạc nhân
3.622.244,94
4.371.176,27
748.951,33
21.6%
2
Gạo
827.386,76
1.821.887,94
994.501,18
120%
3
Hàng TCMN
4.016.353,74
5.874.070,60
1.857.716,86
46%
4
Chè
942.924,77
431.488,00
- 529.436,77
- 56%
5
Mây tre lá
1.265.224,19
837.741,40
- 427.502,79
- 33%
6
Hạt tiêu
3.255.084,45
2.620.756,00
- 634.328,45
- 20%
7
Dừa sấy khô
102.000,00
187.632,25
85.632,25
71%
8
Các mặt hàng khác
1.335.842,15
8.282.017,54
3.635.319,39
272%
Tổng
15.385.081,00
24.224.770,00
8.389.689
57%
Qua số liệu trên có thể thấy tỷ trọng kinh doanh xuất khẩu của hàng thủ công mỹ nghệ và nông sản chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty. Từ đó có thể khẳng định mặt hàng xuất khẩu chủ lực của công ty là thủ công mỹ nghệ và nông sản. Năm 2003, hàng thủ công mỹ nghệ chiếm 24% trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu, hàng nông sản chiếm 42% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu. Đây cũng là những mặt hàng chủ lực của Công ty trong thời gian tới.
Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu
Mặt hàng nhập khẩu của Công ty gồm:
Nguyên liệu sản xuất: phôi thép, thép lá cán nguội, thép lá cán nóng…
Máy móc phụ tùng, dây chuyền sản xuất.
Hàng tiêu dùng, hương liệu…
Các mặt hàng này được nhập khẩu từ nhiều nước khác nhau như: Nhật, Thái lan, Indonesia, Malaysia… Cũng giống như hàng xuất, hợp đồng nhập khẩu chỉ được thực hiện khi hợp đồng nội đã được ký kết giữa Công ty và bạn hàng trong nước.
Như vậy thông qua bảng kim ngạch xuất khẩu theo mặt hàng có thể thấy rằng Công ty có kim ngạch xuất khẩu cao và ổn định, thị trường xuất khẩu đa dạng. Đây là một trong những thuận lợi của Công ty vì với thị trường đa dạng Công ty có thể tránh được rủi ro do những biến động từ một thị trường
Tuy nhiên cũng có thể thấy là giá trị xuất khẩu của Công ty ở một số thị trường còn thấp so với tiềm năng như thị trường Mỹ. Mặc dù hiệp định thương mại Việt – Mỹ đã được ký kết từ 2000 tạo ra nhiều cơ hội cho các DN Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ nhưng kim ngạch xuất khẩu của Công ty vào thị trường này không tăng đáng kể. Trong năm 2003 mới chỉ xuất khẩu sang Mỹ 10 lô hàng với tổng giá trị là 147.202,38 USD chiếm 6% tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty. Khả năng thích ứng với một số biến động của thị trường đối với một số mặt hàng còn thấp, điển hình là mặt hàng: chè, tiêu đen,..trong năm 2003 đã giảm từ 20-50% so với năm 2002.
2.2. Tình hình sử dụng các công cụ tài chính trong xuất khẩu hàng hoá tại Công ty HAPRO
2.2.1. Tín dụng xuất khẩu
Với chính sách khuyến khích xuất khẩu của Đảng và Nhà nước trong hoạt động kinh doanh của mình nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng Công ty HAPRO đã nhận được sự quan tâm hỗ trợ của các Bộ, Ban, Ngành, giúp Công ty thực hiện tốt những mục tiêu đã đề ra. Cụ thể là:
Được hỗ trợ lãi suất tiền vay đầu tư theo dự án của UBND Thành phố Hà nội.
Thực hiện tín dụng hỗ trợ xuất khẩu trước và sau khi giao hàng
Vay ngắn hạn từ Quỹ hỗ trợ phát ttiển
2.2.1.1. Hỗ trợ lãi suất tiền vay đầu tư
Thực hiện chủ chương của Thành uỷ và Hội đồng nhân dân Thành phố Hà nội về việc hỗ trợ lãi suất tiền vay năm 2003 cho các DN Nhà nước trực thuộc UBND Thành phố Hà nội. Ngày 21/11/2003 UBND Thành phố Hà nội đã có quyết định số 7046/QĐ-UB về việc hỗ trợ lãi suất tiền đầu tư từ ngân sách Thành phố cho các DN thuộc Thành phố Hà nội. Theo Quyết định này các DN được hỗ trợ lãi suất với mức hỗ trợ lãi suất chênh lệch giữa lãi suất vay vốn của tổ chức tín dụng trong từng thời kỳ với lãi suất đầu tư phát triển của nhà nước tại thời điểm rút vốn vay
Trong năm 2003 Công ty HAPRO đã thực hiện rút vốn vay từ 7 hợp đồng tín dụng
Hợp đồng tín dụng số 01 ngày 16/01/2002- Dự án Xí nghiệp gốm Chu Đậu
Hợp đồng tín dụng số 01/00/NHNT ngày 11/12/2000 của Trung tâm dịch vụ Bốn Mùa.
Hợp đồng tín dụng số 01/NHNT ngày 26/10/2001 của Trung tâm dịch vụ Bốn Mùa.
Hợp đồng tín dụng số 0038/12 đầu tư mua kho hàng tại Bình Dương
Hợp đồng tín dụng số 01/2002/HĐTD cho Xí nghiệp dịch vụ kho vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu
Hợp đồng tín dụng số H.0516/1 của Xí nghiệp rượu để thu mua máy móc thiết bị
Hợp đồng tín dụng số 01/2003/HĐTD để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp thực phẩm HAPRO
Vì vậy Công ty đã được UBND Thành phố Hà nội hỗ trợ lãi suất tiền vay cho số vốn mà Công ty vay trong năm 2003 từ các hợp đồng tín dụng trên. Số tiền hỗ trợ được tính theo số dư nợ thực tế phát sinh của từng hợp đồng tín dụng phát sinh trong năm 2003. Ví dụ:
Bảng 2.3 Nguồn: tính toán theo số liệu phòng Ké toán Tài chính
:
Bảng tính hỗ trợ lãi suất tiền vay cho hợp đồng tín dụng
số 01/2003/HĐTD - năm 2003
Đơn vị tính: đồng
Tháng
Tổng dư nợ
Lãi suất thực tế
Lãi suất cố định
Lãi suất được hỗ trợ
%
tiền
%
tiền
%
tiền
01/01 – 30/01
0
0
0
0
0
0
0
02/02 - 28/02
0
0
0
0
0
0
0
01/03 – 30/04
0
0
0
0
0
0
0
01/04 - 31/05
0
0
0
0
0
0
0
01/06 - 30/06
1.000.000.000
0
0
0
0
0
0
01/07 - 30/07
1.000.000.000
0.77
5.390.000
0.4
2.800.000
0.37
2.590.000
01/08 - 31/08
1.000.000.000
0.77
7.956.667
0.4
4.133.334
0.37
3.823.333
01/09 – 30/09
1.800.000.000
0.77
9.804.667
0.4
5.093.334
0.37
4.711.333
01/10 – 31/10
1.800.000.000
0.77
13.860.000
0.4
7.200.000
0.37
6.660.000
01/11 – 30/11
5.300.000.000
0.77
25.102.000
0.4
13.040.000
0.37
12.062.000
01/12 – 21/12
7.150.000.000
0.77
45.994.666
0.4
23.893.333
0.37
22.101.333
Tổng
108.108.000
56.160.001
51.947.999
Như vậy, với hợp đồng tín dụng trên Công ty sẽ nhận được mức hỗ trợ từ phía UBND Thành phố Hà nội là: 51.947.999 đồng trong tổng số 108.108.000 đồng tiền lãi mà Công ty phải trả trong năm 2003 cho hợp đồng tín dụng trên.
Ngày 16/03/2004 Công ty HAPRO đã có công văn gửi Chi cục tài chính DN Hà nội báo cáo số liệu quyết toán hỗ trợ lãi suất tiền vay đầu tư năm 2003, kèm theo bảng tính hỗ trợ lãi suất tiền vay năm 2003 cho các hợp đồng tín dụng như sau:
bảng 2.4 Nguồn: như trên
Bảng tính hỗ trợ lãi suất tiền vay năm 2003
Đơn vị tính: đồng
Số hợp đồng
Tiền lãi thực tế
Tiền lãi cố định
Tiền lãi được hỗ trợ
HĐ số 01 ngày 16/01/2002
200.603.882
101.637.615
98.966.268
HĐ 01/00/ NHNT
227.880.579
115.500.588
112.379.994
HĐ 01/NHNT ngày 26/10/02
587.464.666
297.754.667
289.892.001
HĐ 0035/12
40.749.900
19.176.422
21.573.478
HĐ 01/2002/HĐtín dụng
147.059.136
79.491.426
67.567.710
HĐ H.0516/1
246.261.100
89.549.491
156.711.609
HĐ 01/2003/HĐtín dụng
108.108.000
56.160.001
51.947.999
Tổng thực trả đến 31/12/03
1.558.309.263
759.270.210
799.039.059
Qua số liệu trên có thể thấy trong tổng số 1.558.309.263 đồng tiền lãi phải trả cho các hợp đồng tín dụng trong năm 2003 thì Công ty được hỗ trợ 799.039.059 đồng, vì vậy số tiền lãi thực tế mà Công ty phải trả chỉ là: 759.270.210 đồng.
Đến ngày 01/01/2003 tổng số tiền vay vốn đầu tư theo dự án dư nợ tiền vay của Công ty là: 12.325.142.800 triệu đồng, tổng phát sinh thực tế trong năm 2003 là: 9.425.276.400 triệu đồng. Đến nay Công ty đã được UBND Thành phố Hà nội hỗ trợ lãi suất đầu tư cho năm 2003 là 762.421.657 đồng, Công ty đã gửi công văn tới chi cục tài chính DN Hà nội xin được hỗ trợ phần thiếu là 26.626.402 đồng.
Như vậy, tính đến thời điểm này Công ty chỉ nhận được sự hỗ trợ lãi suất từ phía UBND Thành phố Hà nội mà chưa nhận được sự hỗ trợ từ phía Quỹ Hỗ trợ phát triển cho các dự án của Công ty mà phương án tiêu thụ sản phẩm của dự án đạt kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 30% doanh thu hàng năm (dự án gốm Chu Đậu) theo như quy định của Thủ tướng chính phủ ban hành khi thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển .
2.2.1.2. Tín dụng hỗ trợ xuất khẩu trước và sau khi giao hàng
Tín dụng xuất khẩu trước khi giao hàng
Để thực hiện được các hợp đồng xuất khẩu Công ty luôn cần có sự hỗ trợ rất lớn từ phía Chính phủ thông qua hình thức tín dụng hỗ trợ xuất khẩu. Hình thức hỗ trợ này ở nước ta được thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng bằng việc cho DN xuất khẩu vay với lãi suất thấp hơn so với vay kinh doanh thương mại du lịch trong nước.
Khi phương án kinh doanh của các phòng nghiệp vụ được duyệt, Công ty sẽ tiến hành làm Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án trả nợ cho hợp đồng xuất khẩu hoặc viết Giấy nhận nợ nếu như sử dụng hạn mức tín dụng.
Ví dụ: Ngày 27/01/04 Công ty ký hợp đồng ngoại số 31- HNS/04 về hàng tùng hương. Để đáp ứng nhu cầu vốn cho hợp đồng này, kế toán ngân hàng sẽ làm Giấy nhận nợ số 36 của Hợp đồng tín dụng 01/HM ngày 09/01/2004 của Ngân hàng Ngoại thương Hà nội. Đây là hợp đồng tín dụng được Công ty ký kết với ngân hàng để tiến hàng thu mua hàng nông lâm, hải sản, tạp phẩm, thủ công mỹ nghệ cho xuất khẩu và nhập khẩu nguyên liệu. Lãi suất cho vay của hợp đồng tín dụng này được tính cho từng Giấy nhận nợ cố định trong thời hạn hiệu lực của Giấy nhận nợ. Nội dung của Giấy nhận nợ số 36 có thể tóm tắt như sau:
Bên vay: Công SX- DV& XNK Nam Hà Nội
Căn cứ vào hợp đồng tín dụng số 01/HM ngày09/01/2004 đề gnhị chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà nội cho rút số tiền :86.5000.000 đồng
Mục đích sử dụng vốn vay: mua hàng tùng hương để xuất khẩu
Chứng từ tài liệu kèm theo chứng minh mục đích sử dụng vốn vay: 01/HĐ ngoại số 31/HNS/04 và HĐ số 37/HĐMB/XNK03
Thời hạn vay 03 tháng kể từ ngày 02/04/04
Thời hạn trả nợ cuối cùng: 02/07/04
Lãi suất cho vay:0.71%/tháng/năm; lãi suất quá hạn 0.852%/tháng/năm
Chúng tôi lập Giấy nhận nợ này để Ngân hàng ghi nợ số tiền trên vào tài khoản của chúng tôi số:27000082725 và cam kết trả nợ gốc và lãi đúng hạn, thực hiện đúng các điều khoản đã ký trong hợp đồng tín dụng nêu trên.
Công ty có thể tiến hành vay vốn ngắn hạn của ngân hàng thông qua viêc lập giấy đề nghị vay vốn kèm theo phương án trả nợ. Ví dụ để cung ứng vốn cho mua hàng TCMN xuất khẩu Công ty tiến hành vay vốn Ngân hàng Ngoại thương Hà nội bằng việc lập Giấy đề nghị vay vốn ngắn hạn kiêm phương án trả nợ với nội dung sau:
Đơn vị vay vốn: Công SX- DV& XNK Nam Hà Nội
Tóm tắt tình hình sản xuất kinh doanh năm hiện hành Đvt: đồng
+ Mặt hàng: nông, lâm,hải sản, hàng TCMN
+ Doanh số: 565.797.957.732
+ Thị trường tiêu thụ: Châu âu, Châu á, Châu Mỹ
+ Kết quả kinh doanh hiện tại: Lãi 1.370.461.991
Tóm tắt về phương án xin vay: mua TCMN xuất khẩu
Tổng nhu cầu vốn: 325.701.483
Trong đó: + Vốn tự có tham gia dự án: 43.857.183
+ Vốn vay Ngân hàng Ngoại thương Hà nội: 284.844.300
Thời hạn vay: 03 tháng
Lãi suất vay: 0.71%/tháng/năm
Khoản vay được bảo đảm bằng tín chấp.:
Hiệu quả sản xuất kinh doanh :
+ Doanh số bán: 344.3030.374
+ Tổng chi phí: 328.701.483
Giá mua: 284.844.300
Lãi vay Ngân hàng:(284.844.300x0.71%x 3tháng)= 6.067.183
Chi phí khác 37.790.000
Thuế được khấu trừ 17.469.300
+ Hiệu quả kinh doanh, lãi: 22.798.191
Thị trường, khả năng tiêu thụ và nguồn, kế hoạch trả nợ của phương án này: từ doanh thu bán hàng
Tình hình tài chính đến ngày lập phương án:
+ Nguồn vốn chủ sở hữu hoặc vốn tự có: 26.522.445.870
+ Nợ phải thu: 49.351.496.533
+Nợ phải trả: 103.658.888.252
+Giá trị hàng tồn kho: 26.847.606.849
+Nợ vay: 132.585.946.997
Như vậy, thông qua các Giấy nhận nợ và Giấy đề nghị vay vốn ta có thể khẳng định được sự ưu đãi rất lớn của Chính phủ đối với các DN kinh doanh xuất khẩu nói chung và Công ty nói riêng. Với những hợp đồng tín dụng được vay để thu mua hàng xuất khẩu Công ty HAPRO thường chỉ phải trả mức lãi suất từ 0.71 % - 0.73% thấp hơn so với mức lãi suất vay để kinh doanh thương mại dịch vụ (0.85%). Mức giao động này tuỳ thuộc vào từng ngân hàng và từng phương án kinh doanh trong từng thời kỳ.
Là một DN Nhà nước trực thuộc Bộ Thương Mại, làm ăn tạo được uy tín lớn trên thị trường nên Công ty đã có được thuận lợi trong vay vốn để thu mua hàng xuất khẩu, đối với các hợp đồng vay ngắn hạn thì đảm bảo tiền vay thường bằng tín chấp. Tuy nhiên, cũng như các DN khác, muốn vay được vốn của Ngân hàng thì Công ty phải giải trình rất cụ thể, chi tiết tình hình công nợ và hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng phương án cũng như tình hình sản xuất kinh doanh của mình trong thời gian qua.
Với những sự ưu đãi đó từ phía Chính phủ, cùng với sự quan tâm giúp đỡ của các Bộ, Ban, Ngành, Công ty đã luôn đạt được những mực tiêu đề ra, hoạt động của công ty ngày càng được mở rộng cả về chiều rộng và chiều sâu.
Tín dụng xuất khẩu sau khi giao hàng
Để có nhu cầu vốn cho thu mua hàng xuất khẩu, ngoài nguồn vốn tín dụng trước khi giao hàng, Công ty đã tiến hành xin tài trợ vốn trong thanh toán hàng xuất từ các ngân hàng như: Vietcombank Hà nội, exim bank, ngân hàng Đông á… Công ty thường sử dụng hình thức tài trợ này cho những hợp đồng xuất khẩu thanh toán theo hình thức LC trả chậm nhằm sử dụng tối đa lượng vốn của mình, tránh động vốn. Như vây, trong lúc chờ thanh toán của bộ chứng từ đòi tiền, Công ty sẽ đem những giấy tờ có giá như: vận đơn, hoá đơn thương mại, hợp đồng bảo hiểm… xin ngân hàng tài trợ vốn cho mình. Đối với hình thức tín dụng này thì các ngân hàng chỉ tài trợ cho Công ty một số vốn bằng 80-90% giá trị lô hàng xuất.
Ví dụ : Ngày 25/01/04 để đáp ứng nhu cầu vốn cho một lô hàng nhập, công ty đã mang bộ chứng từ của hợp đồng xuất số 28-HNS/04 trị giá 25.040,00 USD đến ngân hàng Ngoại thương Hà nội (Vietcombank) để xin tài trợ thanh toán. Cán bộ Ngân hàng sẽ kiểm tra tính xác thực, hợp lý, hợp lệ… của bộ chứng từ hàng xuất cùng với phương án kinh doanh từ đó xác định tỷ lệ tài trợ cho lô hàng.
Đối với hình thức này thì tỷ lệ tài trợ thường là 80-90% giá trị lô hàng xuất. Tỷ lệ này tuỳ thuộc vào từng ngân hàng, từng phương án kinh doanh, hình thức thanh toán hàng xuất trong hợp đồng ngoại. Thường thì tỷ lệ tài trợ cho bộ chứng từ thanh toán bằng LC cao hơn là các bộ chứng từ thanh toán theo hình thức DP hay thị trường.
Với số vốn vay được từ hình thức tín dụng này, Công ty đã nhanh chóng đáp ứng được nhu cầu vốn cho các hợp đồng xuất nhập khẩu tiếp theo, rút ngắn quá trình luân chuyển vốn, tăng vòng quay vốn, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
2.2.1.3. Vay ngắn hạn từ Quỹ hỗ trợ phát triển
Theo Quyết định của Chính phủ về việc thành lập Quy chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu thì Quỹ hỗ trợ phát triển (HTPT) được giao thực hiện nhiệm vụ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu. Trong quá trình hoạt động của mình, Công ty HAPRO cũng dã nhận được sự hỗ trợ từ phía Quỹ HTPT cho các hợp đồng xuất khẩu. Ví dụ:
Ngày 13/04/04 để đáp ứng vốn cho việc thu mua hàng nông sản xuất khẩu, công ty đã gửi giấy đề nghị vay vốn tới Quỹ HTPT có một só nội dung chủ yếu sau:
Bên vay : Công ty sản xuất dịch vụ và xuất nhập khẩu Nam Hà Nội
Số tiền vay: 485.000.000 đồng
Mục đích sử dụng vốn vay: mua hàng nông sản xuất khẩu
Đảm bảo tiền vay: tiền thu từ hợp đồng 34- HNS/ 04
Các chứng từ kèm theo: hợp đồng số 34-HNS/04, phương án kinh doanh, báo cáo tài chính năm 2003 và quý I năm 2004, báo cáo nhanh tình hình tài chính hiện tại.
Thời gian vay: 3 tháng
Lãi suất cho vay: 0.36%
So với viêc vay vốn ngắn hạn từ các ngân hàng để vay được vốn ngắn hạn từ Quỹ hỗ trợ phát triển đòi hỏi sự chi tiết cụ thể hơn về tình hình tài chính, công nợ của Công ty, song với khoản vay từ Quỹ thì Công ty sẽ chỉ phải trả một mức lãi suất là 0.36% thấp hơn rất nhiều so với các hình thức tín dụng khác.
Tuy nhiên thực tế tại Công ty HAPRO, hình thức tín dụng này không nhiều . Nguyên nhân là do thời gian để hoàn tất đủ bộ hồ sơ vay vốn tại Quỹ thường dài hơn so với các ngân hàng (do cần rất nhiều chứng từ đảm bảo). Mặt khác hình thức đảm bảo tiền vay tại Quỹ thường đòi hỏi độ tin cậy cao hơn các ngân hàng. Để vay được vốn ngắn hạn từ quỹ cho hợp đồng xuất khẩu trên, theo yêu cầu của Quỹ Công ty phải đảm bảo tiền vay theo hình thức thế chấp, cầm cố tài sản cố định. Ngày 15/04/2002 tại Công ty HAPRO đại diện Quỹ HTPT Hà nội và đại diện Công ty HAPRO đã cùng nhau kiểm tra và xác định lại giá trị tài sản thế chấp, cầm cố vay vốn ngắn hạn để hỗ trợ xuất khẩu tại Chi nhánh Quỹ HTPT Hà nội. Các giấy tờ liên quan tới tài sản thế chấp cầm cố sẽ được lưu giữ tại chi nhánh Quỹ HTPT Hà nội. Hơn nữa số tiền vay được từ Quỹ HTPT thường chỉ là 60-70% giá trị tài sản đảm bảo, thấp hơn so với vay tại các ngân hàng. Vì vậy tại Công ty HAPRO hình thức tín dụng này không được sử dụng nhiều.
2.2.2. Trợ cấp xuất khẩu
Theo Quyết định số 195/1999/QĐ-TTG ngày 27/09/1999 Quỹ xuất khẩu đã được thành lập thực hiện việc hỗ trợ về tài chính để khuyến khích các DN phát triển kinh doanh xuất khẩu, tìm kiếm và mở rộng thị trường, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam xuất khẩu. Đến nay Công ty HAPRO đã và đang được sự hỗ trợ rất lớn từ Quỹ cho hoạt động xuất khẩu của mình. Liên tục trong các năm 2002-2003, Công ty đều được thưởng kim ngạch xuất khẩu cao, thưởng tìm kiếm thị trường mới, thưởng xuất khẩu mặt hàng mới…
Năm 2002 Công ty đã vinh dự được nhận Quyết định thưởng của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc xuất Quỹ hỗ trợ xuất khẩu để thưởng theo kim ngạch xuất khẩu năm 2002. Cụ thể:
bảng 2.5 Nguồn: tính toán theo số liệu phòng Kế toán Tài chính
:
Bảng kê thưởng xuất khẩu theo quý năm 2002
đơn vị tính: đồng
Mặt hàng
Quý I
Quý II
Quý III
Quý IV
Tổng
Lạc nhân
59.336.000
139.486.000
150.330.000
13.381.000
362.563.000
Chè
23.895.000
74.934.000
93.834.000
12.736.000
205.399.000
Gạo
8.121.000
59.405.000
63.150.000
18.253.000
178.929.000
TCMN
58.717.000
103.480.000
114.162.000
120.165.000
396.524.000
Hạt tiêu
92.671.000
76.688.000
81.882.000
71.356.000
322.597.000
Mây tre lá
48.595.000
38.250.000
11.118.000
27.979.000
125.095.000
Nhựa
237.000
-
-
273.000
Tổng
291.572.000
492.259.000
514.476.000
263.870.000
1.562.177.000
Như vậy trong năm 2002với kim ngạch xuất khẩu cao Công ty đã được nhận thưởng từ Quỹ hỗ trợ xuất khẩu tổng số tiền thưởng theo mặt hàng là 1.562.177.000 đồng. Phần thưởng này đã tạo ra động lực phấn đấu cho toàn thể CBVNV Công ty không chỉ giữ vững kim ngạch cao mà trong năm 2003 kim ngạch xuất khẩu đã tăng hơn 50% so với năm 2002.
Trong thời gian qua Công ty đã tích cực tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu, nhờ đó mà số lượng và chất lượng kim ngạch xuất khẩu của một số mặt hàng ngày càngtăng cao. Năm 2003 mặc dù điều kiện khách quan có nhiều khó khăn như chiến tranh I rắc, dịch bệnh SAR … đã làm ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu của một số mặt hàng, song với nỗ lực và phấn đấu của toàn thể Công ty, kim ngạch xuất khẩu năm nay vẫn cao hơn năm trước. Một số mặt hàng không những giữ vững được thị trường mà còn được mở rộng, đạt kim ngạch vượt so với năm 2003. Ngày 15/04/2004 Cty đã gửi đề nghị đến Bộ Tài chính xin được xét thưởng một số mặt hàng có kim ngạch cao vượt mức so với năm 2002.
bảng 2.6 Nguồn: tính toán theo số liệu phòng Kế toán Tài chính.
Thưởng xuất khẩu đối với phần kim ngạch xuất khẩu
năm 2003 vượt so với năm 2002
STT
Mặt hàng
KNXK 2002(USD)
KNXK 2003(USD)
Chênh lệch (USD)
Tiền thưởng (VND)
1
Lạc nhân
3.622.224,94
4.371.176,27
748.951,33
224.685.399
2
Gạo
827.386,74
1.821.887,94
994.501,18
298.350.354
3
Hàng TCMN
4.016.353,74
5.874.070,60
1.857.716,86
557.315.058
4
Dừa sấy khô
102.000,00
187.632,25
85.632,25
85.632.250
Tổng
11.585.965,44
12.345.767,06
768.801,62
1.165.983.061
Ngoài ra, trong năm 2003 Công ty còn xin xét thưởng xuất khẩu sản phẩm được sử dụng nguyên liệu, lao động trong nước (lớn hơn 30%) và thưởng kim ngạch xuất khẩu lớn ( 24.224.770 USD) và hiệu quả cao.
Để đạt được kim ngạch xuất khẩu cao và ổn định như vậy là do Công ty đã phát triển thị trường có hoạt động xúc tiến thương mại rất mạnh mẽ. Sản phẩm của Công ty đã có mặt ở hơn 52 quốc gia và vùng lãnh thổ trên tỷ giá. Hàng năm Công ty đều dành kinh phí rất lớn cho đẩy mạnh xúc tiến thương mại bằng nhiều hình thức như: tham gia các hội chợ quốc tế, tổ chức nhiều đoàn đi khảo sát thị trường, quảng cáo sản phẩm trên các phương tiện thông tin toàn cầu, in ấn phát hành các ấn phẩm catalogue,brochre…, xây dựng và lắp đặt mạng email, website, xây dựng chương trình thâm nhập thị trường quy mô bài bản và hiện đại…
Ngày 1/08/2001 Bộ tài chính ban hành Thông tư 61/2001/TT-BTC hướng dẫn chi hỗ trợ cho hoạt động phát triển thị trường đẩy mạnh xúc tiến thương mại tạo ra hành lang pháp lý cho các DN mạnh dạn mở rộng thị trường xuất khẩu, mặt hàng xuất khẩu mới. Năm 2003 Công ty đã được hỗ trợ từ Quỹ hỗ trợ xuất khẩu 1.213.221.837 đồng cho do Công ty đã có các hoạt động xúc tiến thương mại tìm kiếm thị trường xuất khẩu như:
Tham gia các hội chợ quốc tế, tổ chức gian hang hội trợ triển lãm ở nước ngoài: hội chợ Tenden tại Đức, hội chợ Hồng Kông, hội chợ Huemtextil…;
Hoạt động tìm kiếm thị trường: Tham dự hội thảo tại Singapoer, khảo sát thị trường Singapore, tham gia triểm lãm…
Các hình thức trợ cấp của Chính phủ thông qua Quỹ hỗ trợ xuất khẩu phần nào đã giúp Công ty mạnh dạn đưa các mặt hàng mới vào xuất khẩu, mở rộng thị trường xuất khẩu, giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng cả về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, hiện nay hoạt động tìm kiếm thị trường xuất khẩu phần lớn dựa vào nỗ lực của mình Công ty, các chính sách hỗ trợ của Chính phủ vẫn chưa tương xứng với chức năng và nhiệm vụ đề ra. Các hoạt động hỗ trợ này mới chỉ dừng lại ở chỗ hỗ trợ về tài chính cho Công ty, các hoạt động xúc tiến thương mại khác như: đặt Văn phòng đại diện của Công ty ở nước ngoài, đặt Trung tâm xúc tiến thương mại ở nước ngoài chưa được thực hiện. Vì vậy Công ty vẫn còn gặp không ít những khó khăn trong hoạt động xúc tiến thương mại, từ đó hạn chế khả năng mở rộng của Công ty ở một số mặt hàng và một số thị trường.
2.2.3.Chính sách tỷ giá hối đoái và quản lý ngoại hối
Là một DN tiến hành cả hoạt động kinh doanh xuất khẩu và nhập khẩu, Công ty HAPRO cũng không tránh khỏi những ảnh hưởng của sự biến động tỷ giá hối đoái đến hoạt động kinh doanh. Trong các hợp đồng xuất nhập khẩu, đồng tiền được ký kết thanh toán là các đồng tiền có khả năng thanh toán cao như USD, EUR. Tuy nhiên đây lại là những đồng tiền rất biến động có những ảnh hưởng đến kết quả hoạt động xuất khẩu của Công ty. Có thể thấy ảnh hưởng của sự biến động của tỷ giá thông qua ví dụ sau:
Ngày 13/09/2003 Công ty tiến hành ký kết hợp đồng ngoại số 45- HNS/03 với khách hàng TOKO SAHABAT với nội dung: Công ty HAPRO sẽ bán cho Toko Sahabat 38 tấn Lạc nhân miền Bắc loại I với đơn giá 660 USD/ tấn. Tổng giá trị hợp đồng là: 25.080,00 USD tương đương với 388.714.920 đồng (tỷ giá USD/VND tại thời điểm ký kết hợp đồng là 15.499 USD/VND)
Để tạo nguồn hàng cho hợp đồng này, ngày 13/09/2003 Công ty đã tiến hành ký hợp đồng nội với cơ sở thu mua nông sản Quang Hàm tại Vĩnh Phúc mua 38 tấn Lạc nhân miền Bắc xuất khẩu loại I với đơn giá 9.6000.000 đồng/ tấn. Tổng giá thanh toán (bao gồm cả thuế VAT) là 383.040.000 đồng.
Ngày 14/09/03 hàng được chuyển lên tàu tại cảng Hải Phòng theo đúng các điều kiện giao hàng ghi trong hợp đồng ngoại đã ký kết.
Ngày 30/09/03 Công ty nhận được giấy báo Có của Ngân hàng Ngoại thương Hà nội thông báo về việc khách hàng Toko Sahabat đã thanh toán tiền hàng cho hợp đồng trên là: 25.028,94 USD ( bao gồm cả thủ tục phí là 0.94 USD).
Tuy nhiên tại thời điểm nhận được giấy báo Có của ngân hàng thì tỷ giá giữa USD/VND là 15.450 USD/ VND. Như vậy tại ngày thanh toán số tiền thu được từ hợp đồng ngoại nếu quy đổi ra VND là:
25.080 x 15.450 = 387.486.000 đồng.
Doanh thu thu từ hợp đồng này giảm:
388.714.920-387.486.000 =1.228.920 đồng
Một sự biến động rất nhỏ của tỷ giá (0,32%) đã làm giảm doanh thu 1.228.920 đồng, điều đó có thể thấy sự ảnh hưởng rất lớn của tỷ giá đến hoạt động của Công ty
Rủi ro do biến động của tỷ giá cũng xảy ra đối với Công ty khi công ty tiến hành vay USD của Ngân hàng.Vì chưa có một công cụ hữu hiệu để tránh rủi ro tỷ giá nên các hợp đồng tín dụng để thu mua hàng xuất khẩu Công ty thường vay bằng VND, chỉ khi nào có nhu cầu vay vốn để trả cho hơp đồng nhập khẩu Công ty mới tiến hành vay bằng USD. Biện pháp chủ yếu để Công ty tránh rủi ro tỷ giá trong các hợp đồng vay USD là: vay USD trả USD. Với giải pháp này trong thời gian qua Công ty đã hạn chế được phần nào ảnh hưởng của biến động tỷ giá đến hoạt động kinh doanh.
Tuy nhiên, đối với các hợp đồng xuất khẩu thì việc hạn chế rủi ro hối đoái vẫn chưa được thực hiện, nguyên nhân chính là do hiện nay cung về các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá của các ngân hàng là rất hạn chế. Năm 1999 bằng Quyết định 101/1999/NHNN quy định các hình thức giao dịch tiền tệ bao gồm: giao dịch có kỳ hạn, giao dịch quyền chọn, giao dịch tương lai… tạo khung pháp lý cho phép các ngân hàng và các DN thực hiện các biện pháp để phòng ngừa rủi ro hối đoái. Song việc sử dụng các công cụ này còn rất mới mẻ đối với cả các ngân hàng và các DN. Giao dịch trao ngay vẫn chiếm trên 90% tổng giao dịch ngoại tệ trong ngày, giao dịch kỳ hạn về ngoại tệ là rất hạn chế. Giao dịch quyền chọn được coi là công cụ hữu hiệu để giảm thiểu rủi ro tỷ giá cũng mới được triển khai thí điểm từ tháng 2-2003 tại Ngân hàng cổ phần thương mại EXIM bank. Đến nay mới có 6 ngân hàng được phép thực hiện giao dịch như: EXIM- bank, CITI–bank, Ngân hàng ĐT&PTVN, Ngân hàng NN&PTNTVN…
Cũng như các DN kinh doanh xuất khẩu khác, Công ty HAPRO cũng thực sự rất quan tâm đến việc phòng tránh rủi ro hối đoái, nhưng do còn có những hạn chế nhất định từ phía ngân hàng mà Công ty vẫn chưa được tiếp cận nhiều với các công cụ phòng ngừa rủi ro, chưa hiểu về kỹ thuật cũng như các tiện ích của từng công cụ mang lại nên đã hạn chế khả năng sử dụng chúng. Gần đây, Bộ tài chính đã tổ chức những lớp học để hướng dẫn các DN mạnh dạn sử dụng các công cụ phòng tránh rủi ro hối doái trong hoạt động xuất nhập khẩu. Công ty đã và đang xem xét đến việc sử dụng các công cụ này trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của mình để đạt được hiệu qủa kinh doanh tốt nhất
Theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ hiện nay các DN kinh doanh xuất khẩu được toàn quyền sử dụng 100% số ngoại tệ thu từ các hợp đồng xuất khẩu. Điều này đã tạo ra nhiều thuận lợi cho các DN xuất khẩu nói chung và Công ty HAPRO nói riêng.Trước đây Công ty phải chuyển một tỷ lệ ngoại tệ thu được sang tài khoản VND (thường là 30%), điều này đã làm cho Công ty thường hay rơi vào tình trạng khan hiếm ngoại tệ cho các hợp đồng nhập khẩu, không chủ động trong việc sử dụng ngoại tệ.
Với chính sách quản lý ngoại hối mới, ngay khi có giấy báo Có của ngân hàng thông báo về việc khách ngoại trả tiền hàng thì 100% lượng ngoại tệ đó được hạch toán vào tài khoản USD của Công ty. Khi cần có nhu cầu ngoại tệ cho các hợp đồng Công ty sẽ tiến hành trích ra từ tài khoản này để thực hiện hợp đồng, khi cần nội tệ thì Công ty thực hiện việc bán ngoại tệ trao ngay cho các ngân hàng. Như vậy, Công ty phần nào đã đáp ứng được nhu cầu ngoại hối cho các hợp đồng nhập khẩu của mình đồng thời cũng vẫn có bán ngoại tệ cho các ngân hàng. Điều này khẳng định chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong việc quản lý ngoại hối thời gian qua.
2.2.4.Thuế và các ưu đãi về thuế
Với vai trò là một công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế, chính sách thuế thông qua việc thực hiện ưu đãi về thuế gián thu và thuế trực thu đã tạo điều kiện cho Công ty giảm chi phí sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu.
Việc áp dụng thuế suất 0% thuế GTGT, thuế xuất khẩu và không áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hầu hết các sản phẩm xuất khẩu; không thu thuế, hoàn thuế GTGT hàng xuất.. đã tạo điều kiện cho Công ty hạ giá thành, tăng khả năng cạnh tranh về giá của hàng xuất khẩu so với hàng hoá cùng loại của các nước khác.
Trong năm 2003 với tổng doanh thu đạt 595 tỷ đồng, kim ngạch xuất khẩu đạt 24.224.770 USD Công ty đã được hoàn thuế cho 8 tháng đầu năm 2003 là : 3.971.833.252 đồng.
Tuy nhiên, thủ tục hoàn thuế còn nhiều phức tạp, thời gian hoàn thuế thường kéo dài, gây không ít khó khăn cho Công ty. Thường sau khi gửi công văn đề nghị hoàn thuế GTGT thì 3 tháng sau DN mới nhận được quyết định hoàn thuế của Cục thuế Thành phố Hà nội. Điều này khiến cho vốn của Công ty bị đọng lại quá lâu, trong khi đó Công ty vẫn đang phải đi vay vốn của ngân hàng cho từng hợp đồng xuất khẩu, gây ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả kinh doanh.
Việc áp dụng chế độ miễn thuế đối với toán bộ nguyên liệu nhập khẩu trong 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất đối với các DN xuất khẩu trên 80% tổng số sản phẩm sản xuất được hoặc đầu tư vào các địa bàn hay những dự án được Nhà nước khuyến khích đầu tư đã giúp Công ty mạnh dạn đầu tư cho Xí nghiệp gốm Chu Đậu sản xuất hàng xuất khẩu, nâng cao giá trị và kim ngạch xuất khẩu của Công ty trong thời gian tới, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xã hội theo định hướng phát triển của Nhà nước. Việc quy định các khoản chi hoa hồng giao dịch, môi giới xuất khẩu trả người nước ngoài đã giúp cho DN bán được hàng, tăng thêm kim ngạch xuất khẩu được coi là chi phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN đã tạo điều kiện để Công ty tăng lợi nhuận sau thuế, khuyến khích Công ty tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Việc áp dụng thuế suất ưu đãi hoặc miễn giảm thuế TNDN đối với các DN có tỷ trọng sản phẩm xuất khẩu cao và sử dụng nhiều nguyên liệu trong nước đã tạo điều kiện cho Công ty mạnh dạn đầu tư vào sản xuất chế biến hàng xuất khẩu đặc biệt là những ngành sử dụng nhiều nguyên liệu trong nước có giá trị gia tăng cao như ngành gốm, thủ công mỹ nghệ.
Ngoài ra, việc thực hiện ưu đãi về thuế sử dụng đất, miễn khoản thu về thuế đối với DN sản xuất, kinh doanh hàng hoá xuất khẩu đạt giá trị trên 30% giá trị hàng hoá sản xuất kinh doanh của DN cũng đã góp phần khuyến khích Công ty đầu tư vào các dự án sản xuất chế biến hàng xuất khẩu.
Như vậy, chính sách ưu đãi về thuế nói trên đã góp phần tạo điều kiện để Công ty hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh về giá của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế, khuyến khích đầu tư sản xuất chế biến hàng xuất khẩu.
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động kinh doanh xuất khẩu Công ty còn gặp nhiều khó khăn do sự phức tạp, rườm rà trong thủ tục xin ưu đãi, vì vậy đã hạn chế những khuyến khích từ phía Chính phủ cho các DN xuất khẩu.
2.2.5. Phương thức thanh toán và điều kiện giao hàng
2.2.5.1. Phương thức thanh toán
Phương thức thanh toán được sử dụng trong các hợp đồng xuất khẩu của Công ty rất đa dạng bao gồm: phương thức chuyển tiền ( TT/TTR), phương thức tín dụng chứng từ (L/C), nhờ thu kèm chứng từ (DP). Việc thoả thuận sử dụng phương thức thanh toán nào tuỳ thuộc vào từng đối tượng khách hàng, từng mặt hàng xuất khẩu và nhu cầu vốn của Công ty trong từng thời kỳ.
Đối với những khác hàng có sự hiểu biết và tin cậy cao Công ty thường sử dụng phương thức thanh toán đơn giản, tiết kiệm chi phí và thời gian như phương thức chuyển tiền hay nhờ thu.
Đối với những khách hàng có quan hệ lần đầu chưa hiểu rõ về nhau thì Công ty thường sử dụng phương thức tín dụng chứng từ (loại L/C không huỷ ngang)
Đối với những sản phẩm hàng hoá mới bán lần đầu để tìm kiếm thị trường mới Công ty thường áp dụng các phương thức thanh toán tạo điều kiện ưu đãi cho người nhập như phương thức L/C trả chậm, phương thức chuyển tiền hay nhờ thu dựa trên chấp nhận chứng từ (DP). Có thể thấy tỷ lệ sử dụng các phương thức thanh toán tại Công ty HAPRO thông qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 2.1* Nguồn: theo số liệu phòng Kế toán tài chính
Như vậy trong các phương thức thanh toán được sử dụng tại Công ty HAPRO thì phương thức thanh toán chuyển tiền được sử dụng nhiều nhất, điều này hoàn toàn phù hợp với Công ty nhằm nhanh chóng thu hồi vốn cho các hợp đồng tiếp theo.Tuy nhiên với hình thức thanh toán này Công ty thường phải trả một khoản phí dịch vụ cao hơn so với các hình thức khác, điều này có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của hợp đồng xuất khẩu. Với những ưu điểm của mình phương thức thanh toán bằng LC chiếm 34% trong tổng số các hợp đồng xuất khẩu, nhưng phần lớn là những LC trả chậm vì vậy thời gian thu hồi vốn từ các hợp đồng xuất khẩu này thường chậm khoảng 2-3 tháng. Phương thức nhờ thu DP tuy ít tốn kém hơn hai phương thức trên nhưng không được Công ty sử dụng nhiều do độ an toàn thường không cao. Công ty thường sử dụng phương thức này đối với những khách hàng quen thuộc lâu năm của mình.Nhìn chung do các bạn hàng của Công ty đều là quen thuộc, lâu năm nên các phương thức thanh toán được sử dụng rất linh hoạt phù hợp với từng đối tượng khách hàng và từng loại mặt hàng.
2.2.5.2. Điều kiện giao hàng
Mỗi điều kiện giao hàng khác nhau đều quy định quyền và nghĩa vụ của bên bán và bên mua khác nhau. ở nước ta hiện nay, các nhà xuất khẩu thường thích chọn bán theo giá FOB hơn là theo giá CIF xuất phát từ nhiều lý do như: chưa có hiểu biiết về các hãng vận tải và các mua bảo hiểm nên không muốn thực hiện những việc này. Tại Công ty HAPRO cũng vậy, phần lớn các hợp đồng xuất khẩu được thực hiện theo giá FOB tại các cảng Hải phòng, sân bay Nội Bài…, ngoài ra còn thực hiện bán theo giá CNF và CF ( giá mua + bảo hiểm), theo giá CIF nhưng không nhiều.
Chỉ tính riêng Công ty SX-DV& XNK Nam Hà Nội tại Hà Nội thì trong tổng số 184 hợp đồng xuất khẩu có đến 117 hợp đồng được thực hiện theo giá FOB với trị giá là 15.486.570 USD, 55 hợp đồng được thực hiện theo giá CFvà CNF với trị giá là 8.518.600 USD, 12 hợp đồng thực hiện theo giá CIF với trị giá là 2.129.600 USD.
Bảng 2.7Nguồn: tính toán theo số liệu phòng Kế toán tài chính
Các điều kiện thanh toán được sử dụng trong năm 2002-2003
Đơn vị tính: USD
Điều kiện thanh toán
năm 2002
năm 2003
Số hợp đồng thực hiện
Giá trị hợp đồng thực hiện
Tỷ lệ % tính theo giá trị thực hiện
Số hợp đồng thực hiện
Giá trị hợp đồng thực hiện
Tỷ lê % tính theo giá trị thực hiện
FOB
128
10.784.250
70%
117
15.486.570
66%
CF&CNF
45
3.315.600
22%
55
8.518.600
25%
CIF
6
1.285.231
8%
12
2.129.600
9%
Tổng
159
15.385.081
184
24224770
Biểu đồ 2.2
Từ bảng trên ta có thể thấy được sự chuyển biến tích cực trong việc sử dụng các điều kiện thanh toán quốc tế tại Công ty HAPRO. Hình thức bán hàng theo giá FOB đã giảm dần, thay vào đó tỷ lệ bán hàng theo giá CIF và CF&CNF đã tăng lên. Với điều kiện giao hàng này thì trách nhiệm của Công ty sẽ tăng
lên, phải thuê tàu, mua bảo hiểm theo điều kiện tối thiển và vận chuyển hàng tới cảng đúng quy định, nhưng với cách này thì Công ty sẽ bán được với giá cao hơn và được hưởng nhiều lợi hơn. Hơn nữa, tỷ lệ bán hàng theo giá CIF và CNF tăng lên sẽ tạo điều kiện cho nước ta tăng thu ngoại tệ và các hãng bảo hiểm Việt Nam có điều kiện cạnh tranh với bảo hiểm nước ngoài.
Chương III
Một số giải pháp tài chính nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng hoá tại công ty sx-dv & xnk nam hà nội
3.1. Phương hướng đẩy mạnh xuất khẩu của Công ty
3.1.1.Phương hướng xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2001-2010
Thực hiện chính sách “mở của” và hội nhập kinh tế quốc tế đã đem lại những kết quả rất quan trọng trong lĩnh vực ngoại thương. Trong 10 năm gần đây (1900-2000) kim ngạch xuất khẩu tăng 5.6 lần, nhịp độ tăng trưởng bình quân 18.4%/năm. Cơ cấu xuất khẩu đã được cải thiện theo hướng tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, tạo được một số mặt hàng có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định. Tuy nhiên hoạt động xuất khẩu trong những năm qua còn nhiều hạn chế:
- Tuy tốc độ xuất khẩu tăng nhanh trong vài năm gần đây nhưng quy mô còn rất nhỏ bé so với các nước trong khu vực, xét cả về tổng kim ngạch tính theo đầu người mà năm 2000 mới đạt 180 USD, chưa đáp ứng được nhu cầu nhập khẩu của nền kinh tế.
- Cơ cấu xuất khẩu thay đổi rất chậm chạp. xuất khẩu đại bộ phận là hàng hoá ở dạng sơ chế. Trong số các sản phẩm công nghiệp chế tạo, hàng gia công còn chiếm tỷ trọng lớn. Khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu của ta rất yếu.
- Hàng xuất khẩu còn manh mún, mặt hàng xuất khẩu chủ lực còn quá ít.
- Sự hiểu biết về thị trường bên ngoài còn hạn chế. Nhà nước bao gồm các cơ quan quản lý trong nước lẫn các cơ quan đại diện nước ngoài chưa cung cấp thông tin đầy đủ cho các DN. Đối với một số thị trường, hàng xuất của ta vẫn phải qua thị trường trung gian
Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001-2010 khẳng định “Phát huy cao độ các nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu quả các sản phẩm, các ngành, các lĩnh vực mà ta có lợi thế, đáp ứng cơ bản nhu cầu thiết yếu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu”và cụ thể hoá hơn một buớc về định hướng chiến lược xuất khẩu 10 năm tới:
“Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ, có cơ chế bảo hiểm hàng hoá xuất khẩu đặc biệt là nông sản; đầu tư cho hoạt động hỗ trợ xuất khẩu. Phát triển mạnh những sản phẩm hàng hoá dịch vụ có khả năng cạnh tranh, giảm mạnh sản phẩm thô và sơ chế, tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm chế biến, tăng nhanh tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm, nâng dần tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Phát triển du lịch quốc tế, xuất khẩu lao động và các dịch vụ thu ngoại tệ khác. Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu tiến tới cân bằng xuất nhập. Khuyến khích sử dụng hàng hoá thiết bị trong nước. Thực hiện chính sách bảo hộ có chọn lựa, có thời hạn”
Về thị trường xuất khẩu chiến lược 10 năm 2001-2010 yêu cầu: “Chủ động và tích cực thâm nhập thị trường quốc tế, chú trọng thị trường các trung tâm kinh tế tỷ giá, mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, tranh thủ cơ hội mở thị trường mới. Từng bước hiện đại hoá phương tiện kinh doanh phù hợp với xu thế mới của thương mại thế giới”
Chiến lược xuất khẩu 10 năm tới đã xác định mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu nhanh gấp đôi nhịp độ tăng trưởng GDP tức là khoảng 14.4%/năm, đến 2010 kim ngạch nông sản chế biến xuất khẩu đạt 6-7 tỷ USD, khoáng sản đạt khoảng 3 tỷ USD, sản phẩm công nghiệp chiếm 70-80% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Bảng 3.1* Nguồn: Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010- Bộ Thương mại
Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá( tỷ USD)
Năm 2000
Năm 2005
Năm 2010
14.5
28.4
54.6
Tốc độ tăng trưởng:
- Từ năm 2001 đến 2005 đạt16%
- Từ năm 2005 đến 2010 đạt14%
- Từ năm 2001 đến 2010 đạt 15%
Bảng 3.28
Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ(tỷ USD)
Năm 2000
Năm2005
Năm2010
2.0
4.0
8.1
Tốc độ tăng trưởng: 2001-2010 là 15%
Bảng 3.38
Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ (tỷ USD)
Năm 2000
Năm 2005
Năm 2010
16.5
32.4
62.7
Bảng 3.4:8
Kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu dự kiến tới năm 2010
STT
Nhóm hàng
Kim ngạch 2010(triệu USD)
Tỷ trọng(%)
2000
2010
1
Nguyên nhiên, vật liệu
1.750
20.1
3-3,5
2
Nông sản, hải sản
8000-8.600
23.3
16-17
3
Chế biến, chế tạo
20.000 – 21.000
31.4
40-45
4
Công nghệ cao
7000
5.4
12-14
5
Hàng khác
12.500
19.8
23-25
Tổng kim ngạch hàng hoá
48.000 - 50.000
100
Tổng kim ngạch dịch vụ
8.100 - 8.600
Như vậy trong giai đoạn tới, xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm qua chế biến, chế tạo sẽ tăng nhanh hơn so với trước nhằm khuyến khích đổi mới sản xuất, xuất khẩu các sản phẩm nguyên nhiên vật liệu sẽ hạn chế dần nhằm nâng cao giá trị xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam
bảng 3.5* Nguồn: Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010- Bộ Thương mại
tỷ trọng của thị trường xuất khẩu dự kiến đến năm 2010
Thị trường
Tỷ trọng 2000(%)
Tỷ trọng 2010(%)
Châu á
57-60
46-50
Trong đó: Nhật Bản
15-16
17-18
ASEAN
23-25
15-16
Trung Quốc, Đài Loan,
Hồng Kông
16-18
27-30
Châu Âu
26-27
27-30
Trong đó: EU
21-22
25-27
SNG và Đông Âu
1.5-2
3-5
Bắc Mỹ ( chủ yếu Mỹ)
5-6
15-20
australia&New Zealand
3-5
5-7
Các khu vực khác
2
2-3
Qua số liệu trên có thể thấy trong những năm tới chính sách kinh tế của nước ta sẽ giảm đần xuất khẩu vào các thị trường khu vực Châu á, tăng dần xuất khẩu hàng hoá vào thị trường Châu Âu và thị trường Trung Quốc, thị trường các nước SNG và Đông Âu. Đây được coi là những thị trường tiềm năng cho xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam giai đoạn 2001-2010.
3.1.2. Phương hướng phát triển & nhiệm vụ của Công ty trong thời gian tới
Tuy đã đạt được nhiều thành tích trong hoạt động kinh doanh và được sự khen thưởng của các Bộ, Ban, Ngành nhưng Công ty vẫn không ngừng phấn đấu tăng lên cả về chiều rộng và chiều sâu. Tổ chức sản xuất kinh doanh ngày càng được hoàn thiện hơn để đạt được hiệu quả cao nhất. Công ty đã nhanh chóng đề ra phương hướng và nhiệm vụ năm 2004 và những năm tiếp theo cho mình:
Quyết tâm hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch cấp trên giao và Công ty đề ra
Thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm 2001-2005, làm nền tảng tạo đà cho chiến lược phát triển Công ty 5 năm tiếp theo 2006-2010, chào mừng kỷ niệm 1000 năm Thăng Long.
bảng 3.6 Nguồn: số liệu phòng Tổ chức hành chính
:
Kế hoạch năm 2004
Chỉ tiêu
Giá trị
2004 so với 2003 (%)
Doanh thu
800 tỷ đồng
34.5%
Trong đó: Doanh thu XNK
700 tỷ đồng
40%
Doanh thu nội địa
100 tỷ đồng
29%
Kim ngạch XNK
55 triệu USD
19.3%
Trong đó: Xuất khẩu
30 triệu USD
23%
Nhập khẩu
25 triệu USD
15%
Lợi nhuận trước thuế
3 tỷ đồng
20%
Các khoản phải nộp ngân sách Nhà nước
3.335 tỷ đồng
15%
Thu nhập bình quân/người
2 triệu đồng
8.1%
Về thị trường, trong thời gian tới Công ty sẽ đẩy mạnh mở rộng sang thị trường Mỹ, Nga và Đông Âu. Đây là các thị trường mà kim ngạch xuất khẩu của Công ty còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng của các thị trường này
Tiếp tục củng cố, phát triển và mở rộng hệ thống kinh doanh nội địa trên toàn quốc, không bỏ qua thị trường trong nước.
Không ngừng đào tạo nâng cao năng lực quản lý và trình độ nghiệp vụ cho CBVNV. Xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001-2000.
3.2. Các giải pháp tài chính nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng hoá tại Công ty HAPRO.
3.2.1. Tín dụng xuất khẩu
Trong những năm qua, các tổ chức tín dụng đã có vai trò đóng góp đáng kể vào việc thực hiện chiến lược xuất khẩu của Nhà nước, đưa nước ta trở thành một nước hướng tới xuất khẩu, góp phần thực hiện tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế. Các tổ chức tín dụng đã cho vay vốn đối với mọi khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế, đặc biệt có sự ưu đãi đối với các DN kinh doanh xuất khẩu.
Để thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế từ 2001-2010 cần sự nỗ lực phấn đấu không chỉ từ phía các DN kinh doanh xuất khẩu mà từ tất cả các Bộ, Ban, Ngành. Để chính sách tín dụng xuất khẩu trở thành một đòn bẩy cho hoạt động xuất khẩu ở nước ta thì trong những năm tới cần có sự hoàn thiện hơn nữa.
Về phía Nhà nước cần:
- Cần nhanh chóng triển khai việc hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho các dự án sản xuất hàng xuất khẩu. Một thực tế hiện nay là Quỹ hỗ trợ xuất khẩu đến nay vẫn chưa triển khai hình thức hỗ trợ này, vì vậy các DN có dự án sản xuất hàng xuất khẩu chưa được hưởng những ưu đãi từ phía Chính phủ.
- Quỹ hỗ trợ phát triển cần mở rộng cả về số lượng và chất lượng các khoản vay ngắn hạn cho các DN xuất khẩu thông qua việc tạo điều kiện thuận lợi cho các DN này vay vốn tại Quỹ. Các quy chế và thủ tục vay vốn cần được đơn giản hoá hơn nữa để tránh tình trạng DN cần vốn nhưng lại ngại đi vay vì quá mất thời gian.
Về phía Công ty: để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, đạt được mục tiêu kế hoạch đề ra trong thời gian tới cần:
- Tận dụng tối đa các ưu đãi từ phía Chính phủ cho hoạt động kinh doanh của mình. Để có được những sự ưu đãi đó từ phía Chính phủ thì Công ty cần đảm bảo đủ các điều kiện cần thiết theo quy định. Cụ thể là phải đảm bảo sao cho mọi lô hàng đều được cấp tín dụng xuất khẩu. Có như vậy thì Công ty mới có thể sử dụng được số vốn kinh doanh của mình đạt hiệu quả cao nhất.
- Không ngừng nâng cao uy tín và danh tiếng của mình đối vói các Bộ, Ban, Ngành và các ngân hàng nhằm tạo sự tin tưởng, tạo thuận lợi trong quá trình vay tín dụng.
3.2.2. Trợ cấp xuất khẩu
Về phía Nhà nước
Tại Việt Nam hoạt động trợ cấp xuất khẩu chủ yếu được thực hiện thông qua Quỹ trợ cấp xuất khẩu. Kể từ khi được thành lập đến nay, Quỹ trợ cấp xuất khẩu đã có nhiều hoạt động hỗ trợ kịp thời cho các DN xuất khẩu trong kinh doanh xuất khẩu của mình. Để thực hiện tốt chiến lược xuất khẩu 2001-2010 của Đảng và Nhà nước thì trong thời gian tới Quỹ hỗ trợ xuất khẩu cần tiếp tục hỗ trợ cho các DN xuất khẩu để tạo nguồn động viên khuyến khích, động lực cho các DN xuất khẩu hàng hoá đạt kim ngạch xuất khẩu ngày càng cao.
- Hỗ trợ tổ chức thưởng xuyên cho các DN Việt Nam tham gia các cuộc hội chợ, triển lãm, quảng cáo trong và ngoài nước, khảo sát tìm hiểu thị trường nước ngoài.
- Tổ chức tốt công tác thông tin về thị trường, hàng hoá, giá cả: tổ chức thông tin thông suốt thường xuyên, nhiều chiều giữa Bộ Thương mại - Thương vụ - Doanh nghiệp. Thông tin trong thời gian tới phải đạt chất lượng cao cụ thể là: phản ánh diễn biến tình hình cung cầu thị trường kịp thời, có tính dự báo và hướng dẫn kinh doanh.
- áp dụng chế độ thưởng xuất khẩu cả bằng tiền, bằng hạn ngạch, bằng thuế, bằng ưu tiên nhập khẩu các mặt hàng nhạy cảm, bằng lãi vay ngân hàng… đối với các DN thâm nhập thị trường mới, xuất khẩu được mặt hàng mới… nhất là đối với các thị trường nhập siêu lớn.
Về phía Công ty:
Để được trợ cấp từ phía Chính phủ cần:
- Tiếp tục và không ngừng phấn đấu nâng cao kim ngạch xuất khẩu, hiệu quả xuất khẩu, luôn trong khối dẫn đầu về kim ngạch để nhận được xét thưởng và sự hỗ trợ khác từ Quỹ trợ cấp xuất khẩu.
- Đẩy mạnh hơn nữa công tác xúc tiến thương mại, tìm hiểu thị trường và khách hàng, giữ vững thị trường cũ nhưng không bỏ qua những thị trường mới, thị trường tiềm năng.
- Tranh thủ những điều kiện thuận lợi trong quan hệ ngoại giao với các nước để tiến hành mở rộng thị trường xuất khẩu. Cụ thể trong thời gian tới Công ty cần tận dụng tối đa những ưu đãi từ hiệp định thương mại Việt Nam để thâm nhập vào thị trường Mỹ, bởi đây là một thị trường có nhu cầu lớn về nông sản và thủ công mỹ nghệ. Đó đều là những mặt hàng Công ty có thế mạnh xuất khẩu.
- Để nâng cao hiệu quả xuất khẩu đòi hỏi hàng hoá xuất khẩu cũng phải được nâng cao cả về chất lượng, mẫu mã và giá cả. Điều này đòi hỏi công tác thu mua hàng hoá xuất khẩu phải cẩn thận, tỷ mỷ, tìm đúng nguồn hàng và duy trì được mối quan hệ tốt đẹp với các bạn hàng trong nước đẻ tạo nguồn hàng ổn định cả về chất lượng và số lượng.
3.2.3.Chính sách tỷ giá hối đoái và quản lý ngoại hối
Về phía Nhà nước
Để thực hiện tốt kế hoạch 2001-2010, về phía Nhà nước cần:
- Duy trì chính sách tỷ giá và quản lý ngoại hối linh hoạt, có tác dụng khuyến khích DN trong n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24270.DOC