Đề tài Một số giải pháp phát triển thị trường sức lao động ở Việt Nam hiện nay

Tài liệu Đề tài Một số giải pháp phát triển thị trường sức lao động ở Việt Nam hiện nay: Lời mở đầu Chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một cơ cấu kinh tế cũ sang cơ cấu kinh tế mới hợp lí vừa là điều kiện vừa là mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia. Từ năm 1986, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới trên tất cả các lĩnh vực và thu được những thành công đáng kể nhưng nhìn chung nước ta vẫn là một nước nông nghiệp, nền kinh tế chưa có bước phát triển vững chắc, còn gặp nhiều khó khăn đặc biệt trong khu vực nông thôn. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là chúng ta chưa có một thị trường sức lao động nông nghiệp nông thôn phát triển để đáp ứng yêu cầu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở khu vực này. Một thị trường sức lao động phát triển cả về số lượng và chất luợng không những giúp tăng trưởng kinh tế, thuận lợi cho quá trình chuyển dịch mà còn đảm bảo cho quá trình chuyển dịch ổn định, bền vững. Đây chính là lí do để em lựa chọn đề tài “Một số giải pháp phát triển thị trường sức lao động ở Việt Nam hiện nay”. Đề tài gồm 3 chương Chương 1: Vai trò của thị trường sứ...

docx38 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1105 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp phát triển thị trường sức lao động ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một cơ cấu kinh tế cũ sang cơ cấu kinh tế mới hợp lí vừa là điều kiện vừa là mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia. Từ năm 1986, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới trên tất cả các lĩnh vực và thu được những thành công đáng kể nhưng nhìn chung nước ta vẫn là một nước nông nghiệp, nền kinh tế chưa có bước phát triển vững chắc, còn gặp nhiều khó khăn đặc biệt trong khu vực nông thôn. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là chúng ta chưa có một thị trường sức lao động nông nghiệp nông thôn phát triển để đáp ứng yêu cầu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở khu vực này. Một thị trường sức lao động phát triển cả về số lượng và chất luợng không những giúp tăng trưởng kinh tế, thuận lợi cho quá trình chuyển dịch mà còn đảm bảo cho quá trình chuyển dịch ổn định, bền vững. Đây chính là lí do để em lựa chọn đề tài “Một số giải pháp phát triển thị trường sức lao động ở Việt Nam hiện nay”. Đề tài gồm 3 chương Chương 1: Vai trò của thị trường sức lao động đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Chương 2: Thực trạng thị trường sức lao động đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nước ta. Chương 3: Giải pháp phát triển thị trường sức lao động phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Chương 1 Vai trò của thị trường sức lao động đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và nông thôn 1.1. Một số vấn đề lý luận chung 1.1.1. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn Sự phát triển của một nền kinh tế gắn với sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế, đặc biệt là một quốc gia đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá như Việt Nam. Yêu cầu của sụ phát triển luôn đòi hỏi một cơ cấu kinh tế hợp lý, nội dung là xác định các bộ phận hợp thành và quan hệ tỷ lệ giữa các bộ phận đó. Cụ thể xác định rõ mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế quốc dân, quan hệ giữa các thành phần kinh tế, quan hệ giữa các vùng kinh tế. Cơ cấu kinh tế là tập hợp các bộ phận (các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế) cấu thành tổng thể các ngành sản xuất kinh doanh và mối tương quan tỷ lệ giữa các bộ phận cấu thành so với tổng thể. Khối ngành nông nghiệp và khu vực nông thôn đóng góp 30% GDP và chiếm hơn 76% dân số cả nước. Vì vậy, cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn là một bộ phận cấu thành vô cùng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, có ý nghĩa rất to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội nước ta. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn là một tổng thể các mối quan hệ kinh tế trong khu vực nông thôn. Các bộ phận hợp thành cơ cấu có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau theo những tỉ lệ nhất định về mặt luợng và liên quan chặt chẽ về mặt chất trong không gian và thời gian nhất định, phù hợp với những điều kiện kinh tế nhất định, tạo thành một hệ thống kinh tế ở nông thôn – một bộ phận hợp thành không thể tách rời của hệ thống kinh tế quốc dân. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn bao gồm: - Cơ cấu ngành và cơ cấu nội bộ ngành Ngành là một tổng thể các đơn vị kinh tế cùng thực hiện một loại chức năng trong hệ thống phân công lao động xã hội. Các ngành trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn bao gồm: + Nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm Nông nghiệp (trồng trọt chăn nuôi, Lâm nghiệp và Thuỷ sản. + Công nghiệp nông thôn: là một bộ phận cấu thành nền kinh tế lãnh thổ, là ngành bao gồm hoạt động của thợ thủ công chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp, các doanh nghiệp tư nhân,các công ty trách nhiệm hữu hạn, các hợp tác xã, các tổ hợp, tổ chức sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp, các xí nghiệp quốc doanh chế biến lương thực, thực phẩm hoặc các xí nghiệp công nghiệp khác có quy mô vừa và nhỏ mà hoạt dộng của nó trực tiếp gắn với kinh tế trên địa bàn nông thôn. Công nghiệp nông thôn bao gồm: công nghiệp chế biến nông, lâm thuỷ sản, sản xuất công cụ thường, công cụ cải biến và sửa chữa máy móc trong nông thôn, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, ngành thủ công mỹ nghệ Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, các ngành nghề công nghiệp tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn được phát triển thành các ngành nghề độc lập nhưng có quan hệ chặt chẽ với các hoạt động kinh tế khác ở nông thôn. Ngành này có xu hướng tăng tỉ trọng trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. + Dịch vụ: là một bộ phận của ngành dịch vụ cả nước, là một bộ phận cấu thành kinh tế lãnh thổ nông thôn. Dịch vụ nông thôn bao gồm nhiều loại: ngân hàng, tín dụng, bưu điện, thông tin liên lạc, cung ứng điện nước, và tiêu nước, sửa chữa máy móc và công cụ sản xuất; cung ứng giống cây trồng, gia súc, phòng trừ sâu bệnh cây trồng gia súc, khám chữa bệnh gia súc... Những hoạt động dịch vụ đầu vào đầu ra ngày càng được mở rộng, tỉ trọng của nó trong cơ cấu nông nghiệp nông thôn ngày càng lớn hơn. - Cơ cấu các thành phần kinh tế: Bao gồm nhiều thành phần kinh tế khác nhau như thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, tư nhân họ gia đình. Trong đó hộ gia đình và các trang trại gia đình đóng vai trò quan trọng để sản xuất nông sản phẩm. - Cơ cấu kinh tế vùng là sự phân công lao động theo lãnh thổ. Sự phân công lao động theo lãnh thổ gắn liền với những không gian nhất định. Trên các vùng không gian nhất định có sự bố trí các ngành và sự hoạt động của các thành phần kinh tế. Cơ cấu vùng hợp lí cho phép khai thác và sử dụng có hiệu quả tiềm năng của vùng. Hình thành các vùng chuyên môn hoá để sản xuất khối lượng hàng hoá lớn phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu là một xu thế tất yếu. 1.1.2. Tính tất yếu khách quan của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn 1.1.2.1. Lí luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn Xác định cơ cấu kinh tế đã bao trùm cả chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đây không chỉ đơn thuần là sự thay đổi vị trí mà là sự biến đổi cả về số lượng và chất lượng. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải dựa trên một cơ cấu kinh tế hiện có, do đó nội dung của nó là cải tạo cơ cấu cũ lạc hậu chưa phù hợp để xây dựng một cơ cấu kinh tế tiên tiến, hoàn thiện bổ sung hơn cơ cấu cũ thành cơ cấu mới cho phù hợp hơn. Sự thay đổi về lượng đển một mức độ tích luỹ nhất định sẽ dẫn đến sự biến đổi về chất. Quá trình chuyển hoá từ cơ cấu cũ thành cơ cấu mới đòi hỏi phải có thời gian và phải qua các thang bậc nhất định của sự phát triển. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng của các hoạt động công nghiệp, dịch vụ, là quá trình thay đổi phương pháp, công cụ và công nghệ sản xuất chủ yếu còn tự túc, tập quán sống cổ truyền ở nông thôn bằng các phương pháp công cụ và công nghệ tiên tiến đạt hiệu quả cao đi dần lên hiện đại trong đó thuỷ lợi hoá, cơ khí hoá, điện khí hoá, sinh học hoá và những nội dung then chốt nhất và tập quán sống văn minh lành mạnh của nền văn minh công nghiệp mang nặng bản sắc dân tộc. 1.1.2.2. Một số vấn đề có tính quy luật trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn Dù là cơ cấu kinh tế của cả nước hay cơ cấu kinh tế nông thôn đều mang tính khách quan, một cơ cấu kinh tế hợp lý, bao giờ cũng phù hợp với quy luật vận động khách quan của nền kinh tế. Con người thông qua nhận thức quy luật khách quan tìm ra phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả nhất. Trong thời đại ngày nay, khi xây dựng một cơ cấu kinh tế của một nước, không thể không xem xét mối quan hệ của nó với thế giới bên ngoài. Sự phát triển đan xen, cũng như sự phân công lao động quốc tế, sự thâm nhập kinh tế giữa các nước với nhau, đều chỉ rõ tính đa dạng phương pháp và tính quốc té của một cơ cấu kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường mở cửa, nếu không chú ý đúng mức đến đặc trưng này sẽ hạn chế sự phát huy các nội lực bên trong. Trên cơ sở nghiên cứu các đặc trưng của cơ cấu kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành cơ cấu kinh tế, ta thấy một số vấn đề có tính quy luật trong việc xác lập và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn như sau: - Cơ cấu kinh tế nông thôn cần được xác lập và dịch chuyển theo hướng từ một nền nông nghiệp độc canh chuyển sang một nền nông nghiệp đa canh, phát triển sản xuất hàng hoá với ngành nghề đa dạng, Tỷ trọng nông nghiệp ngày càng giảm và tỷ trọng các ngành công nghiệp và tiểu thủ nghiệp và dịch vụ càng tăng. - Nông nghiệp hàng hoá chỉ có thể phát triển với sự tác động mạnh mẽ của công nghiệp. Công nghiệp hoá nông nghiệp là một tất yếu. - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một nước không thể tách rời với sự phát triển kinh tế của cộng đồng quốc tế cũng như sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn không thể tách rời cơ cấu kinh tế vùng và cơ cấu kinh tế chung của cả nước. - Phân công lại lao động theo hướng lao động nông nghiệp ngày càng giảm và lao động các ngành nghề khác (công nghiệp, thương mại, dịch vụ) ngày càng tăng, là hiện tượng khách quan, thể hiện sự tiến bộ về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông thôn nói riêng. - Phát triển kinh tế hộ gắn với phát triển kinh tế hợp tác - Xu hướng tích tụ ruộng đất - Sự phân hoá giàu nghèo vừa là kết vừa là động lực thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 1.1.2.3. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp: Từ vấn đề có tính quy luật trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, Đảng và Nhà nước ta có đề ra xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn như sau. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Từ chỗ năng về trồng trọt chủ yếu là cây lương thực sang sản xuất các cây trồng vật nuôi có giá trị hàng hoá cao, từ chỗ chủ yếu làm nông nghiệp sang phát triển các ngành công nghiệp tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ.Cần tập trung phát triển sản xuất lương thực ở những vùng và tiểu vùng trọng điểm; phấn đấu tăng sản lượng lương thực bình quân đầu người; nâng cao chất lượng sản xuất và chế biến lương thực dáp ứng nhu cầu chăn nuôi, dự trữ và xuất khẩu.Trong đó phải giải quyết tốt các mối quan hệ cơ bản như quan hệ trồng trọt với chăn nuôi, giữa nông nghiệp với nông nghiệp, giữa nông nghiệp với lâm nghiệp, giữa nông lâm nghiệp với công nghiệp và dịch vụ, giữa đẩy mạnh sản xuất hàng hoá với mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm... nhằm tạo ra thế chủ động và hành lang an toàn thực phẩm, nâng cao thu nhập, xoá đói giảm nghèo, xây dựng xã hội nông thôn nước ta văn minh hiện đại. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu nông thôn nước ta - Chuyển dịch cơ cấu nông thôn theo hướng phát triển sản xuất hàng hoá; từng bước hình thành các vùng, tiểu vùng sản xuất chuyên môn hoá, khôi phục và phát triển các làng nghề, các tụ điểm công nghiệp – thương mại – dịch vụ cho nông thôn, tăng nhanh tỷ trọng các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ trong cơ cấu kinh tế nông thôn. - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá: phát triển công nghiệp chế biến và bảo quản nông – lâm – thuỷ sản, phát triển các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ có tính chất trực tiếp phục vụ sản xuất nông- lâm – ngư nghiệp hoặc sử dụng nguyên liệu của các ngành này. Cân phải đưa máy móc thiết bị hiện đại vào thay thế lao động thủ công và công cụ lao động thô sơ nhưng chủ yếu là nâng cao trình độ kĩ thuật và công nghệ bằng cách nghiên cứu, ứng dụng các công nghệ mới nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động, đồng thời phù hợp lao động thủ công - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn trên cơ sở phát huy vai trò và tác dụng tích cực của mọi thành phần kinh tế trong nông thôn. - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn trên nguyên tắc bảo đảm khai thác hợp lí, có hiệu quả các nguồn tài nguyen và bảo vệ môi trường sinh thái. - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn cần phải lựa chọn các vùng ưu tiên, ngành ưu tiên để đầu tư phát triển có hiệu quả. Trong thời gian chúng ta vừa tiến hành mở cửa nền kinh tế, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, xu hướng chung chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn còn chịu sự tác động của nhiều nhân tố như: thị trường, trình độ phát triển của các ngành kinh tế liên quan, nguồn nhân lực, khoa học công nghệ, nhân tố tự nhiên, vấn đề đối ngoại, ….Vì vậy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải dựa trên cơ sở phát huy các thế mạnh và các lợi thế so sánh của đất nước, tăng sức cạnh tranh, gắn với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước, nhu cầu đời sống nhân dân và quốc phòng, an ninh. 1.2. Vai trò của thị trường sức lao động đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Thị trường là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế trước hết là cơ cấu kinh tế ngành bởi thị trường hàng hoá, thị trường vốn, thị trường lao động… là yếu tố hướng dẫn, điều tiết các hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung của các doanh nghiệp. Dù là hoạt động trong lĩnh vực nào của nền kinh tế quốc dân (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ) thì các doanh nghiệp luôn phải hướng ra thị trường, xuất phát từ quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường để định hướng chiến lược kinh doanh của mình. Sự thay đổi trong chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để thích ứng với điều kiện của thị trường từng bước dẫn đến thúc đẩy sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Như vậy, thị trường thông qua quan hệ cung cầu mà tín hiệu của nó là giá cả hàng hoá sẽ thúc đẩy hay hạn chế sản xuất và tiêudùng. 1.2.1.Thị trường sức lao động Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở mỗi nước đều chịu sự tác động của nhiều nhân tố trên thị trường khác nhau ở mức độ khác nhau. Trong đó, thị trường sức lao động với tư cách là một bộ phận hợp thành hữu cơ của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn nói riêng đã đóng vai trò quan trọng trong việc xác lập và hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lí. Thị trường sức lao động là một không gian của sự trao dổi tiến tới thoả thuận giữa người sở hữu sức lao động và người cần có sức lao động để sử dụng. Kết quả của quá trình trao đổi thoả thuận đó là tiền công được xác lập cùng với điều kiện làm việc cho một công việc cụ thể. Đó chính là sự mua và bán về sức lao động giữa hai chủ thể. Thị trường sức lao động phát triển cả về số lượng và chất lượng sẽ đảm bảo đáp ứng nhu cầu về nguồn lực con người cho các ngành nghề sản xuất kinh doanh một cách kịp thời, đầy đủ với chất lượng cao và giá cả hợp lí. Mỗi một ngành sản xuất kinh doanh, mỗi một doanh nghiệp đều có yêu cầu khác nhau về yếu tố lao động tuỳ theo đặc điểm sản xuất của ngành, của doanh nghiệp: một số ngành, lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao đòi hỏi trình độ chuyên môn người lao động rất cao, một số ngành khác chỉ cần những kĩ thuật đơn giản… Vì vậy khi xây dựng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế vào bất cứ ngành nào, không một doanh nghiệp nào lại không xem xét, phân tích và đánh giávề khả năng cung ứng của thị trường sức lao động. Thị trường sức lao động cùng với yếu tố lao động càng phát triển và hoàn thiện sẽ thúc đẩy quá trình tăng trưởng, phát triển kinh tế, do đó làm sâu sắc thêm quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không thể có được một chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế đáng kể nếu không có các điều kiện hỗ trợ cần thiết về mặt nguồn lực con người. Mặt khác, ta cũng nhận thấy rằng cơ cấu kinh tế mang tính khách quan nhưng nó hình thành nhanh hay chậm, hợp lí hay không hợp lí là do sự tác động chủ quan của con người. Rõ ràng là ở đâu trình độ dân trí thấp kém, thị trường sức lao động còn manh mún, kém phát triển thì ở đó việc xác lập và chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ gặp rất nhiều khó khăn và khó tránh khỏi sai lầm. Sở dĩ như vậy là do muốn xác lập và chuyển đổi cơ cấu kinh tế hợp lí thì phải có con người với trình độ cao để nắm vững quy luật khách quan và vận dụng quy luật, để dự báo và nắm bắt được những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế trước mắt và lâu dài, tình hình trong nước và quốc tế, để vạch được chiến lược sát đúng và thực hiện có hiệu quả chiến lược đó…Con người thông qua nhận thức các quy luật khách quan, tìm ra phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả nhất. Một trong những yêu cầu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó là phải đảm bảo phát triển kinh tế bền vững, ổn định. Để đạt được yêu cầu này không còn cách nào khác là phải phát triển nguồn lực, phát triển thị trường sức lao động bởi vì đây là nhân tố quyết định việc tổ chức và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khác. Không dựa trên nền tảng phát triển cao của thị trường sức lao động và yếu tố nguồn lao động về thể chất, trình độ văn hoá, tri thức và kĩ năng nghề nghiệp, kinh nghiệm quản lí và lòng nhiệt tình… thì sẽ sử dụng lãng phí không chỉ bản thân nguồn lực con người mà còn có thể làm lãng phí, cạn kiệt và huỷ hoại các nguồn lực khác. Trên ý nghĩa này thị trường sức lao động có vai trò quyết định đến quá trình phát triển, tăng trưởng kinh tế do đó sẽ quyết định đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 1.2.2. Thị trường sức lao động phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn Như ở trên chúng ta đã tìm hiểu, thị trường sức lao động đã vô cùng cần thiết cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế quốc dân; nhưng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vai trò của thị trường này còn quan trọng hơn rất nhiều. Nông nghiệp, nông thôn là lĩnh vực chỉ sử dụng hai nguồn lực chính là đất đai và lao động. Đất đai là yếu tố thụ động và bị giới hạn, nguồn lực lao động quyết định đến việc sử dụng đất đai có hiệu quả do vậy trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn cần đặc biệt chú trọng đến phát triển thị trường sức lao động. Thị trường sức lao động và yếu tố nguồn lao động là nhân tố đầu vào không thể thiếu được trong nông nghiệp, nông thôn. Đây là lĩnh vực ở trình độ thủ công lạc hậu, trình độ khoa học công nghệ còn rất thấp cho nên huy động số lượng lớn lao động vào quá trình phát triển. Bên cạnh đó, để thực hiện thành công quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đòi hỏi thị trường sức lao động phải phát triển về chất lượng, đặc biệt là về trình độ kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm nghề nghiệp, tính năng động sáng tạo của nguồn lao động. Trình độ học vấn của người lao động sẽ cho họ khả năng lĩnh hội được những kiến thức, kinh ngiệm sản xuất kinh doanh từ các chương trình khuyến nông, khả năng làm được những ngành nghề mới xuất hiện trong quá trình chuyển dịch. Một khi thị trường sức lao động phát triển, cung cấp được những lao động có trình độ chuyên môn, kĩ thuật cao phù hợp với nhiều ngành nghề mới hiện nay, các vùng nông thôn và các vùng phụ cận sẽ thu hút được nhiều doanh nghiệp, các liên doanh với nước ngoài tiến hành sản xuất kinh doanh ở đây. Từ đấy thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh chóng. Do vậy thị trường sức lao động (xét cả về mặt chất lượng cũng như số lượng) là yếu tố hết sức quan trọng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Mặt khác, ta cũng nhận thấy rằng ở nông nghiệp, nông thôn một số lượng lớn người lao động có trình độ trung bình sẽ điều hành công việc riêng của họ nhưng những người có trình độ cao hơn sẽ đi làm thuê với mức lương hấp dẫn hơn. Điều đó cũng có nghĩa là khi thị trường sức lao động phát triển về chất lượng, số lượng người tự điều hành công việc của mình sẽ giảm, trình độ của họ được nâng lên, họ có nhu cầu đi làm thuê nhiều hơn; qua đó cũng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Chương 2 Thực trạng thị trường sức lao động đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn nước ta 2.1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn Nông thôn Việt Nam có số hộ thuần nông bao gồm cả nông nghiệp, ngư nghiệp chiếm 62,3%, số hộ kiêm nông nghiệp và ngành nghề chiếm 26,5%, số hộ và doanh nghiệp chuyên ngành nghề phi nông nghiệp chỉ chiếm 11,3%. Ngành nghề nông thôn rất đa dạng phong phú, có hàng trămn ngành ngghề khác nhau. Theo kết quả khảo sát của Cục chế biến nông – lâm sản và ngành nghề nông thôn (Bộ Nông nghiệp vsà phát triển nông thôn) cad ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn, hiện nay có khoảng 17,26% số cơ sở thuộc nhóm chế biến nông – lâm – thuỷ sản, 32,86% thuộc nhóm công nghiệp thủ công nghiệp xây dựngvà 49,88% thuộc nhóm các ngành nghề dịch vụ. Trong tổng số 1.350.000 đơn vị cơ sở chuyên ngành nghề phi nông nghiệp, chỉ cóa 3% là các doanh nghiệp còn lại 97% là các hộ gia đình, đại bộ phận tập trung trong các làng nghề.Trong số 3%, cơ sở là doanh nghiệp nhà nước là 14,16%; hợp tác xã 5,73%, doanh nghiệp tư nhân 80,08%. Kinh tế hộ gia đình ở nông thôn là chính. 2.1.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong nông nghiệp nông thôn Cơ cấu nông-lâm nghiệp- thuỷ sản đã có sự chuyển dịch theo hướng hiệu quả, tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích - Cơ cấu giữa trồng trọt và chăn nuôi tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát triển chăn nuôi, đưa chăn nuôi trở thành ngành chính trong nông nghiệp.Tỷ trọng chăn nuôi tăng từ 16,5% năm 2000,16,8% năm 2001 lên 17,5% năm 2002 - Ngành thuỷ sản đã chuyển hoạt động sản xuất kinh doanh sang cơ chế thị trường, thực hiện tự cân đối tự trang trải, vừa phát triển đánh bắt ven và xa bờ, vừa phát triển nuôi trồng, tạo ra những chuyển biến lớn trong cơ cấu kinh tế thuỷ sản và kinh tế nông nghiệp vùng ven biển. Tỷ trọng của thuỷ sản trong tổng giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp – thuỷ sản đã tăng từ 10,9% năm 90, lên 13,4% năm 1995, 15,6%năm 2000, 17,4% năm 2001 và 17,8% năm 2002. Tỷ trọng giá trị sản xuất nuôi trồng trong tổng giá trị sản xuất thuỷ sản đã tăng từ 31,9% năm 1995, lên 36,2% năm 2000, 43,7% năm 2001 và 47,2% năm 2002 Trong lĩnh vực lâm nghiệp, chuyển từ lâm nghiệp nhà nước sang lâm nghiệp xã hội. Nhà nước giao khoán rừng cho các hộ quản lí, gắn trách nhiệm người bảo vệ, quản lí tài nguyên rừng với lợi ích do rừng đem lại, kết hợp trồng rừng với trồng cây công nghiệp, làm vườn và chăn nuôi, góp phần tạo ra sự bền vững về sinh thái và xã hội để phát triển rừng. Trên 1 triệu ha đất lâm nghiệp đã được giao cho các hộ gia đình hơn 5 triệu ha cho các tổ chức kinh tế xã hội quản lí. Tuy nhiên tỷ trọng lâm nghiệp trong cơ cấu giá trị toàn ngành nông nghiệp vẫn nhỏ bé và ngày càng có xu hướng giảm. Năm 1991 là 7,99%, năm 1995 là 6,41%, năm 1997 là 5,5%. Tốc độ tăng và cơ cấu giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp – thuỷ sản (giá so sánh) qua các năm (%) Năm Toàn khu vực Các ngành Nông nghiệp Lâm nghiệp Thuỷ sản Tổng số Trong đó Tổng số Chia ra Trồng trọt Chăn nuôi Khai thác Nuôi trồng 1990 1,9 (100) 1,6 (82,5) 1,4 2,4 2,8 (6,6) 3,7 (10,9) -4,9 9,0 1991 4,1 (100) 2,7 (81,4) 3,3 0,1 3,8 (6,7) 14,4 (11,9) 17,9 6,8 1992 7,4 (100) 8,4 (82,2) 7,6 13,2 -1,2 (6,1) 5,3 (11,7) 6,2 3,1 1993 6,5 (100) 6,6 (82,3) 6,8 5,6 -1,0 (5,7) 9,3 (12,0) 8,1 12,1 1994 6,8 (100) 4,9 (80,9) 4,7 5,6 3,3 (5,4) 21,7 (13,7) 21,2 22,8 1995 5,9 (100) 6,9 (81,6) 7,3 4,8 -3,3 (5,0) 3,8 (13,4) 1,0 10,3 1996 7,7 (100) 6,5 (80,7) 6,9 5,3 11,8 (5,2) 13,6 (14,1) 17,2 6,1 1997 6,4 (100) 7,0 (81,7) 7,0 7,8 -3,2 (4,8) 6,3 (14,1) 7,3 4,1 1998 4,9 (100) 5,7 (81,7) 6,0 4,8 -3,5 (4,3) 3,5 (14,0) 2,1 7,1 1999 7,4 (100) 7,3 7,6 7,0 7,0 7,9 7,0 10,0 2000 7,3 (100) 5,4 (80,2) 5,3 6,4 4,9 (4,2) 19,3 (15,6) 9,9 40,4 2001 4,9 (100) 2,6 (78,5) 2,3 4,2 1,9 (4,1) 17,4 (17,4) 3,5 41,9 2002 5,4 (100) 5,2 (78,3) 4,3 9,9 0,2 (3,9) 7,3 (17,8) 0,7 15,8 Nguồn: Kinh tế 2002-2003 Việt Nam và thế giới- Thời báo kinh tế Việt Nam Trong cơ cấu kinh tế nông thôn, các ngành phi nông nghiệp (công nghiệp, ngành nghề và dịch vụ) tăng dần từ dưới 10% năm 1989 lên 30% năm 1999 trong GDP nông thôn. Trong nông nghiệp đang hình thành các mô hình kinh tế trang trại, mô hình kinh tế vườn + ao + chuồng + rừng đã và đang tạo ra nhiều nông, lâm, thuỷ sản có giá trị tiêu dùng và xuất khẩu. Thời kì 1991-1995, trong tổng số 10 mặt hàng xuất khẩu có giá trị lớn nhất thì nông lâm thuỷ sản có 6 mặt hàng, đó là thuỷ sản, gạo, cà phê, cao su, hạt điều và lạc nhân. 2.1.2. Chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế trong nông nghiệp nông thôn Kinh tế hộ nông dân trở thành đơn vị tự chủ sản xuất kinh doanh, người nông dân đã bắt đầu tính toán và quyết định cơ cấu sản xuất cây con, ngành nghề, gắn với quyền làm chủ đất đai đồng ruông, vườn đồi. Điều đó cho phép tạo ra nghiều nông sản hàng hoá. Kinh tế hợp tác và kinh tế quốc doanh trong nông nghiệp cũng đã đổi mới cả về nội dung và tổ chức hoạt dộng. Hộ gia đình là cơ sở của kinh tế hộ gia đình cá thể, không chỉ có trong nông nghiệp mà còn trong cả lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp. Kinh tế hộ gia đình cá thể nói chung và hộ gia đình nông dân cá thể mang tính chất tự cấp, tự túc. Tính đến năm 2000, cả nước có đến hơn 12 triệu hộ nông dân cá thể. Hình thức hộ gia dình cá thể đang có sự chuyển biến sâu sắc, là nguồn bổ sung cho các hình thức kinh doanh. Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Hợp tác xã dựa trên chế độ tư hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ, các thành phần kinh tế. Các hợp tác xã trong nông nghiệp nông thôn được tổ chức lại, chuyển đổi thành các hợp tác xã “dịch vụ nông nghiệp” hay “hợp tác xã chế biến nông sản”, “hợp tác xã vận tải”…Các hợp tác xã mới hoạt động đã làm giảm chi phí đầu vào cho các hộ nông dân và giảm giá một số dịch vụ, tăng thêm hiệu quả kinh tế của các hộ gia đình nông dân. Các hợp tác xã dịch vụ đảm nhiệm 1-2 công việc chiếm 30%, các hợp tác xã dịch vụ đảm nhiệm nhiều khâu chiếm 60%, các hợp tác xã dịch vụ sản xuất kinh doanh tổng hợp chiếm 10%. Kinh tế trang trại: chúng ta có trên 110.000 trang trại, trong đó riêng các tỉnh phía Bắc có 67.000. Trong 3.044 trang trại điều tra ở 15 tỉnh: Hướng sản xuất kinh doanh chủ yếu là: Cây công nghiệp lâu năm (1588trang trại)rải đều trên cả 3 vùng: Miền Bắc, Tây Nguyên và Duyên hải miền Trung, Nam Bộ; sau đó là đến cây hàng năm (42 trang trại)tập trung ở miền Bắc và Nam Bộ; cây ăn quả (344 trang trại); chăn nuôi lợn, gia cầm, gia súc… 2.1.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng Cùng với sự chuyển biến của nền kinh tế, trên tất cả các vùng thành thị và nông thôn đều có nhiều chuyển biến, bộ mặt thành thị và nông thôn đã khởi sắc. Riêng trong nông thôn có thể thấy rõ sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo các vùng như sau - Nông nghiệp đã giải quyết về cơ bản mục tiêu lương thực, đảm bảo đủ lương thực cho nhu cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu với số lượng ngày càng tăng. Các vùng đất cạn, vùng trung du và miền núi đã quan tâm phát triển các cây công nghiệp, cây ăn qủa và chăn nuôi đại gia súc.Vùng đồng bằng kết hợp giữa luân canh cây lúa với đa dạng các cây công nghiệp ngắn ngày, trồng rau, trồng các cây có giá trị kinh tế cao. Vùng đồng bằng ven biển và mặt nước có thể cải tạo kết hợp phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản. - Nhà nước đã có những chương trình đầu tư trọng điểm khai thác tiềm năng và thế mạnh của các vùng kinh tế – sinh thái trong cả nước, taok động lực thúc đẩy kinh tế của các vùng. - Trong nông thôn đã phục hồi và chấn hưng các làng nghề truyền thống, phát triển đa dạng các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, thủ công mỹ nghệ truyền thống và một số ngành mới như chế biến nông sản, sản xuất vật liệu xây dựng, may mặc… Thay đổi kết cấu các ngành sản xuất trong nông thôn theo hướng “ly nông bất ly hương”. - Trông khu vực nông thôn các hoạt động dịch vụ cũng được mở mang, bao gồm cả dịch vụ phục vụ sản xuất, dịch vụ công cộng và đời sống * Tuy nhiên, cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn vẫn còn tồn tại những bất cập sau: Cơ cấu kinh tế nông thôn nói chung và cơ cấu kinh tế ngành và cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nói riêng còn chuyển biến rất chậm. Hiện nay có khoảng 80% số hộ nông thôn sống chủ yếu bằng nghề nông. Trong cơ cấu GDP nông thôn, tỷ trọng nông nghiệp vẫn chiếm ưu thế tuyệt đối. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp chưa thoát khỏi tình trạng độc canh tự cấp tự túc, trình độ sản xuất hàng hoá vẫn còn thấp, tính chất quảng canh còn khá phổ biến và hiệu quả sản xuất thấp. Sản xuất hàng hoá còn kém phát triển, nhiều vùng, nhiều địa phương, trồng trọt chăn nuôi theo hướng tự cấp tự túc là chính. Trong sản xuất nông nghiệp, trồng trọt thuần nông vẫn còn là phổ biến. Trong trồng trọt, lương thực vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất, còn cây ăn quả, cây công nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ. Thuỷ sản có phát triển nhưng chưa tương xứng với tiềm năng. Lâm nghiệp còn kém phát triển. Nhìn chung cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp chưa thoát khỏi tình trạng độc canh, tự cấp tự túc và sản xuất hàng hoá nhỏ. Công nghiệp nông thôn mới bước đầu phát triển còn rất nhiều yếu kém. Tình trạng phổ biến ở nông thôn là thủ công, phân tán và công nghệ lạc hậu và có nguy cơ huỷ hoại môi trường sinh thái. Tỷ trọng nông sản được chế biến công nghiệp còn quá thấp, mới chỉ đạt 30% sản lượng mía, gần 60% chè, 5% rau quả, 1% thịt hơi… Nhìn chung ngành công nghiệp chế biến và công nghệ sau thu hoạch chưa theo kịp tốc độ sản xuất nguyên liệu và có khoảng cách xa so với yêu cầu về nâng cao chất lượng, hiệu quả nông sản. Các ngành nông – lâm – ngư nghiệp chưa gắn bó với nhau trong một cơ cấu kinh tế thống nhất. Tình trạng phổ biến trong các mô hình công nông nghiệp, mô hình nông nghiệp – công nghiệp chế biến là phát triển rời rạc chưa tạo thành tổng thể chặt chẽ, thậm chí còn xảy ra tình trạng gây trở ngại mâu thuẫn cho nhau. Tổ chức tiêu thụ nông sản chưa đáp ứng kịp tốc độ phát triển sản xuất hàng hoá… Như vậy cơ cấu kinh tế nông nghiệp còn chưa gắn chặt với cơ cấu kinh tế nông thôn, chưa hướng tới công nghiệp hoá, cơ sở hạ tầng còn nhiều điểm chưa phù hợp và đồng bộ gây trở ngại cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. 2.2. Thị trường sức lao động đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn nước ta thời gian qua 2.2.1.Những thành tựu của thị trường sức lao động nông nghiệp, nông thôn. Để phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, thị trường sức lao dộng nông nghiệp nông thôn đã bước đầu hình thành và thu được những kết quả đáng khích lệ. Trước đây, nền nông nghiệp nước chủ yếu là thuần nông, ngày nay trình độ của người lao động nông nghiệp, nông thôn đã phát triển có thể đáp được nhiều ngành nghề khác của thị trường. Hoạt động của thị trường này bắt đầu trở nên sôi động.Mặc dầu tỷ lệ còn thấp song chủ kinh tế hộ gia đình hoặc chủ các công việc đã bước đầu thuê mướn lao động thường xuyên. Xét về mặt số lượng, nguồn cung ứng lao động ở nông thôn nước ta rất dồi dào. Lao động nông thôn chiếm hơn 3/4 lao động của cả nước. Hiện nay có khoảng 30 triệu lao động và hàng năm có thêm gần 1 triệu lao động bổ sung. Số nhân khẩu từ 15 tuổi trở lên chiếm 70% năm 2000.Số nhân khẩu trong độ tuổi lao động là 69,1% chiếm tỷ lệ cao so với tổng lực lượng lao động trong cả nước. Lao động nông thôn hầu hết là những người rất cần cù chịu khó và do mức sống còn nghèo nên họ khát khao được làm việc thậm chí chỉ với mức lương rất thấp. Đây là một nguồn lực rất đáng quý cho quá trình chuyển dịch nếu chúng ta biết tận dụng tốt. Xét về mặt chất lượng. Trong những năm vừa qua, tuy chất lượng lao động nông nghiệp, nông thôn còn yếu kém nhưng đã được nâng cao từng bước. Năm 1997, tỷ lệ chưa biết chữ ở nông thôn là 5,94%, tốt nghiệp trung học cơ sở là 33,1% và tốt nghiệp trung học phổ thông là 9,47%. Năm 2000 tỷ lệ tương ứng là 4,79%, 34,59% và 11,18%. Tỷ lệ sử dụng quỹ thời gian lao động ở nông thôn đang ngày càng tăng. Tỷ lệ này năm 2002 là 75,29% tăng 0,99% so với năm 2001. Số liệu thống kê hàng năm cho thấy, tỷ lệ lao động nông thôn có việc làm thường xuyên đã qua đào tạo từ công nhân kĩ thuật trở lên hàng năm đều tăng (mặc dầu chậm). Một điều ai cũng thừa nhận rằng sản xuất nông nghiệp tạo ra hầu hết công ăn việc và tăng thu nhập cho phần lớn nhân dân. Theo tổng cục thống kê, từ năm 1990 – 1997 mặc dù trong lĩnh vực công nghiệp GDP tăng 12-14%/năm nhưng chỉ tăng thêm được 200 nghìn chỗ làm. Trong khi đó, với mức tăng trưởng bình quân 4-5%/năm, lĩnh vực nông nghiệp tăng thêm tới 2,9 triệu chỗ làm cho nhân dân. Thu nhập danh nghĩa của người dân nông thôn tăng 12% một năm trong thời kì 1992/1993 đến 1997/1998. Giá trị ngày công ở nông thôn tuy còn thấp hơn thành thị song đang từng bước nâng cao. Lao động nông nghiệp nông thôn bắt đầu có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ: tăng tỷ trọng lao động ở thành thị và giảm tỷ trọng lao động ở nông thôn, tỷ trọng lao động sản xuất trong các ngành công nghiệp, dịch vụ sản xuất phi nông nghiệp tăng trong tổng số lao động ở nông nghiệp nông thôn, lao động nông nghiệp nông thôn chuyển dịch và phát triển về trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ văn hoá,...Mặc dù vậy, lao động nông nghiệp nông thôn còn tồn tại nhiều bất cập. 2.2.2. Những tồn tại của thị trường sức lao động nông nghiệp, nông thôn Mặc dù đã hình thành song thị trường sức lao động nông nghiệp nông thôn vẫn còn manh mún, chắp vá, và không ổn định. Đó là nơi hầu hết người dân vẫn giữ nguyên công việc và nơi sinh sống suốt đời và tập quán giữ nguyên ngành nghề như vậy không thay đổi nhiều trong thời kì đổi mới. Cơ cấu lao động ở nông thôn không hợp lí. Sự phân công lao động còn ở trình độ rất thấp, tỷ lệ thuần nông còn rất nặng: ở ĐBSCL là hơn 70%, ở Đông Nam Bộ trên 50%, các nơi khác và trung du, miền núi từ 80 đến 90%. Người nông dân vừa sản xuất lương thực, vừa phải sản xuất các thứ khác, tức là “nhỏ mà đủ”. Không những thế, họ còn phải làm đủ các việc từ trồng trọt, đến thu hoạch và cả tiêu thụ… Sau khi nông hộ nhận khoán ra đời và hợp tác xã được tổ chức theo kiểu mới xuất hiện, tình hình ấy tuy có cải thiện, nhưng không nhiều. Số lượng lao động nông thôn khá lớn, chiếm 70% lao động và 80% nhân khẩu xã hội, nhưng sản xuất và tiêu dùng dựa chủ yếu vào nông nghiệp với giá trị thu nhập thấp. Nếu tính GDP bình quân trên một lao động nông nghiệp là 1 thì GDP bình quân một lao động công nghiệp là 6,5 và dịch vụ là 6 lần. Nông dân sản xuất lương thực chỉ đủ ăn, không thể làm giàu được. Chất lượng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn còn rất thấp. Lực lượng lao động nông thôn qua đào tạo (sơ cấp và học nghề trở lên) mới chỉ chiếm 9,28% (thấp hơn so với tỷ lệ chung của cả nước 3,6%) còn lại hơn 90% chưa qua đào tạo, sản xuất tự phát chủ yếu dựa vào kinh nghiệm cổ truyền, cha truyền con nối, năng suất lao động thấp. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, số lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn được đào tạo trung học chuyên nghiệp chỉ chiếm 2,9%, số được đào tạo cao đẳng và đại học chỉ chiếm 0,93%. Bên cạnh đó, lao động nông nghiệp qua đào tạo chiếm tỷ lệ thấp lại phân bố không đồng đều. ở các khu vực càng xa đô thị thì lực lượng lao động không qua đào tạo chiếm tỷ lệ càng cao. Số có trình độ tập trung ở những ngành chuyên môn, các cơ quan quản lí cấp tỉnh, huyện đến các doanh nghiệp. Việc đào tạo trước đây chỉ hướng vào đẩy mạnh cơ giới hoá nông nghiệp, nay do cơ chế đã thay đổi đẩy một số cán bộ kĩ thuật ra khỏi ngành dẫn tới mất cân đối nghiêm trọng. Đến tháng 10 năm 2000 vẫn còn rất ít lao động ở các tỉnh đã qua đào tạo như Lai Châu chỉ có gần 3000 người trong tổng số 881 ngàn người, số cán bộ kĩ thuật có tay nghề, có trình độ chuyên môn ở Sơn La chỉ chiếm 0,47%, ở Kiên Giang chiếm 0,4%. Còn có tới 1,3-1,6% chủ hộ không biết chữ, trình độ học vấn bình quân lớp 7 – 8/12. Tỷ lệ chủ hộ chưa qua đào tạo kiến thức kinh doanh chiếm tới 51,5% - 69,8%, các chủ doanh nghiệp chưa qua đào tạo cũng chiếm tới 43,55%. Không ít các chủ nhiệm Hợp tác xã nhất là ở những vùng sâu vùng xa và miền núi chỉ qua trình độ văn hoá cấp I, chuyên môn kĩ thuật kém, kế toán trưởng mới chỉ qua lớp tập huấn ngắn hạn. Do chất lượng lao động còn thấp nên thị trường lao động nông nghiệp, nông thôn không có khả năng cung cấp nhân lực đáp ứng nhu cầu tuyển dụng lao động của nhiều khu công nghiệp và các liên doanh với nước ngoài đầu tư vào các vùng nông thôn hoặc các vùng phụ cận. Chính vì vậy, lao động nông thôn nước ta chủ yếu là lao động thuần nông, lao động nông nghiệp kiêm thêm ngành nghề khác, lĩnh vực khác không nhiều, khoảng 10,88 triệu người với thời gian làm việc khác nhau trong năm. Đây cũng là một yếu tố chứng minh thị trường lao động ở khu vực này kém phát triển. Vấn đề di dân tự do từ nông thôn ra thành thị và thiếu việc làm cao tiềm ẩn những nhân tố bất ổn định đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn(%) Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động (%) 72,11 73,14 71,13 73,49 73,86 74,37 75,41 Nguồn:Kinh tế Việt Nam 2002-2003 Việt Nam và thế giới- Thời báo kinh tế Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động có tăng theo mỗi năm: từ 72,11% năm 1996 đến 75,41% năm 2002 chứng tỏ tỷ lệ lao động có việc làm ở nông thôn đang tăng lên theo chiều hướng tích cực nhưng vẫn còn chậm và chưa tăng đều qua các năm. Tỷ lệ lao động trong năm thiếu việc làm giảm nhưng vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lao động thiều việc làm ở nông nghiệp nông thôn. Chính vì tình trạng đó dẫn đến hiện tượng di chuyển lao động tự do ra thành phố để tìm việc làm. Lao động di chuyển tự do vào thành phố có thể làm bất cứ việc gì, với giá cả thấp đến mức mà người không có việc làm ở thành phố cũng không muốn làm song mức thu nhập thấp ấy vẫn hơn hẳn mức thu nhập ở quê nhà hay so sánh với chi phí cơ hội của thời gian không lao động lúc nông nhàn hay lúc giá nông sản xuống quá thấp. Lao động tự do di chuyển vào thành phố đáp ứng được nhu cầu về lao động giản đơn ở thành phố nhưng cũng gây ra không ít những khó khăn và vấn đề phức tạp nảy sinh như ách tắc giao thông, tệ nạn xã hội, suy đồi lối sống, mức tiền công rẻ mạt gây khó khăn cho người lao động,... Không những vậy, trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, nền kinh tế nông nghiệp nông thôn sẽ bị mất cân đối vì thiếu cả số lượng và chất lượng lao động cần thiết. Cung và cầu trên thị trường sức lao động nông nghiệp, nông thôn mất cân đối nghiêm ttọng. Xét về cung lao động ta thấy: năm 2001 chúng ta có khoảng 30,307 triệu lao động nông nghiệp, tỷ lệ tăng dân số ở nông thôn còn cao (trên 2%/năm), mỗi năm bổ sung thêm khoảng 1 triệu lao động. Lao động ở khu vực nông thôn còn tăng lên bởi một số lí do khác như một lực lượng đáng kể thuộc diên giảm biên chế ở khu vưc nhà nước, bộ đội xuất ngũ, học sinh bỏ học… trở về nông thôn. Trong khi đó, đối tượng sản xuất (đất đai) hạn chế, ngành nghề chậm phát triển, công nghiệp nông thôn, dịch vụ mới bước đầu phát triển hoặc tuy một số khu công nghiệp và đô thị được hình thành nhưng trình độ lao động nông thôn thấp không thể tuyển vào làm việc. Do đó đã dẫn đến tình trạng dư thừa lao động. Năm 1990 tỷ lệ lao động chưa có việc làm là 2,98%, năm 1992 là 3,28%, năm 1994 là 4%, năm 1996 là 4,5% và năm 1998 là 3,9% trong tổng số lao động thuộc khu vực nông nghiệp nông thôn. Số ngày làm việc trong năm bình quân của lao động nông thôn (theo nghiên cứu của Trung tâm dân số và nguồn lao động) năm 1992 là 195 ngày (chiếm 75% quỹ thời gian lao động trong năm), nhưng đến năm 1994 chỉ còn bình quân có 180 ngày, tức là mới sử dụng hết 69% quỹ thời gian trong năm và cho đến năm 1999 thì mới sử dụng hết 73,49% quỹ thời gian. Với tổng số 30,307 triệu lao động nông nghiệp (năm 2001) nếu tính quỹ thời gian thì còn tương đương khoảng 7,6 triệu lao động chưa được sử dụng đó là còn chưa kể số lao động chưa có việc làm trong nông thôn ước tính khoảng từ 1,2-1,5 triệu người. Hiện nay nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn nước ta so với nhu cầu dư thừa trên 30%. Do cung cầu thấp nên mức lao động cân bằng trên thị trường thấp. Lượng lao động ở nông thôn thấp so với thành phố. Một vấn đề vẫn còn tồn tại hiện nay đó là tiền công của thị trường lao động nông nghiệp nông thôn rất thấp. Năm 1997 ở khu vực thành thị có 52,81% số người nhận được mức lương trên 300.000 đồng/tháng trong khi đó tỷ lệ này ở khu vực nông thôn chỉ có 45,88%. Số người nhận mức lương dưới 200.000 đồng/tháng trở xuống ở thành thị chỉ có 22,72% trong khi ở nông thôn là 35,53%. Từ đó dẫn đến hiện tượng các học sinh giỏi ở nông thôn sau khi tốt nghiệp đại học, trung học chuyên nghiệp đều muốn kiếm việc làm ở thành phố, muốn thoát ly khỏi nông thôn hay còn gọi là hiện tượng “chảy máu chất xám ở nông thôn”. Các mục tiêu của Đại hội VIII của Đảng đề ra là nâng số lao động có chuyên môn kĩ thuật lên 22-28% vào năm 2000 đã không thực hiện được. Các yếu tố cấu thành thị trường sức lao dộng còn thiếu, chưa hoàn chỉnh nhất là các quyết định trả lương cho người lao động. Hệ thống thông tin thị trường chưa phát triển… Thị trường lao động nông nghiệp nông thôn bắt đầu có sự dịch chuyển phù hợp với hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Thể hiện ở sự di chuyển sức lao động vào ngành nghề công nghiệp, dịch vụ, sản xuất phi nông nghiệp, song sự chuyển dịch này còn chưa đồng đều, chưa thống nhất trong cả nước. Trong sự phát triển các ngành nghề ở nông nghiệp nông thôn thì kinh tế làng nghề trở thành nhân tố tích cực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông ngiệp nông thôn. Đồng bằng sông Hồng là nơi tập trung tới trên 700 làng nghề (chiếm 50% của cả nước), thu hút gần 600 000 lao động, tạo ra hàng nghìn tỉ đồng doanh thu mỗi năm. Tuy nhiên sự khôi phục và phát triển làng nghề ở nông thôn trong thời gian qua vẫn còn nổi cộm lên một số vấn đề khó khăn, yếu kém như: khó khăn về thị trường tiêu thụ sản phẩm, thiếu vốn đầu tư cho mặt bằng sản xuất kinh doanh, công nghệ của làng nghề còn lạc hậu, tình trạng ô nhiễm môi trường còn cao... Do vậy, nó làm nản lòng người lao động khi muốn tham gia phát triển các loại hình làng nghề phục vụ cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Tóm lại, thị trường sức lao động nông nghiệp, nông thôn tuy đã hình thành nhưng chưa phát triển hoàn chỉnh đủ để có khả năng thu hút các hoạt động đầu tư bên ngoài (cả trong nước và ngoài nước) nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong lĩnh vực này theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại trong thị trường sức lao động nông nghiệp, nông thôn Trong những tồn tại của thị trường sức lao động nông nghiệp, nông thôn ta thấy nổi lên hai vấn đề chính: chất lượng của thị trường sức lao động còn thấp và mâu thuẫn cung cầu trên thị trường dẫn đến việc dư thừa lao động. Nguyên nhân của tình trạng trên như sau: Đối với vấn đề chất lượng của thị trường sức lao động nông nghiệp nông thôn chưa đáp ứng được yêu cầu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế có những nguyên nhân sau: Thứ nhất: Đây là khu vực có trình độ dân trí thấp, rất nhiều người chưa nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục đào tạo và khoa học kĩ thuật, kinh nghiệm quản lí, chuyên môn kĩ thuật đối với việc nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Cũng có những người tuy nhận thức được tầm quan trọng của việc đầu tư cho giáo dục đào tạo, đầu tư cho ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến nhưng do kinh tế còn khó khăn họ không thể thực hiện được. Thậm chí có một số người muốn học nghề nhưng họ cũng không biết tìm ở đâu để học. Thứ hai: Chưa có đầu tư thoả đáng để tăng cường đội ngũ giáo viên tốt, phát triển cơ sở vật chất và kỹ thuật đầy đủ đảm bảo cho việc dạy và học. Cả nước có 20/61 tỉnh thành có cơ sở đào tạo cán bộ ngành nông, lâm, thuỷ sản nhưng phần lớn các cơ sở này đang gặp khó khăn vì thiếu trang thiết bị, cơ sở vật chất. Khu vực nông thôn, nhiều nơi còn thiếu cả phòng học, thiếu nhà văn hoá, thiếu sách báo tham khảo đặc biệt thiếu tài liệu về kĩ thuật chuyên môn sản xuất nông nghiệp, giới thiệu các loại cây trồng vật nuôi mới cho năng suất và chất lượng tăng. Mặt khác, đây là khu vực khó tiếp nhận được các thông tin qua các chương trình thông tin đại chúng. Thứ ba: Giáo dục đào tạo chưa gắn với nhu cầu của từng vùng, từng địa phương, chưa phù hợp với đối tượng nông dân. Các hình thức đào tạo chưa đa dạng phong phú. Tài liệu, giáo trình phục vụ giáo dục còn chưa cập nhật, thiếu tính thực thi. Thực hành chưa được coi trọng đúng mức. Cơ cấu đào tạo không hợp lí, kéo dài trong nhiều năm cũng là một nguyên nhân quan trọng làm cho việc đầu tư vào giáo dục thiếu cơ sở khoa học, hiệu quả thấp. Thứ tư: Vốn đầu tư của nhà nước cho dạy nghề còn ít. Mặc dù nhà nước đã tăng vốn đầu tư từ 240,8 tỷ đồng năm 1997 lên 350 tỷ đồng năm 2001, nhưng xét trên bình diện quốc gia, với một lực lượng lao động nông thôn rất hùng hậu đặc biệt là lao động trẻ thì số vốn này vẫn còn quá hạn hẹp. Do đó rất nhiều vùng nông thôn số vốn này vẫn chưa vươn được đến nơi. Thứ năm: Do chính sách ở nhiều địa phương chưa coi trọng việc đào tạo cán bộ kĩ thuật có tay nghề và trình độ chuyên môn cao; chưa có những chính sách khuyến khích hợp lí như tiền lương, tiền thưởng và các ưu đãi khác để thu hút những người dã qua đào tạo về làm việc trong nông nghiệp, nông thôn. Do vậy hiện nay có rất nhiều con em nông thôn sau khi học xong không muốn nhận công tác ở nông thôn, đặc biệt là ở vùng xa, vùng cao. Đối với tình trạng dư cung trên thị trường sức lao động nông thôn ngoài việc do chất lượng lao động thấp như đã được tìm hiểu ở trên còn do các nguyên nhân sau: Một là: Dân số tăng rất nhanh. Dân số nước ta đến hết năm 2001 đạt 78,7 triệu người, trong đó nông thôn chiếm 59,2 triệu người. Tính chung từ năm 1998 đến nay, dân số nước ta đã tăng hơn 16 triệu người, bình quân mỗi năm tăng 1,2 triệu người và phần lớn dân số sống ở nông thôn. Năm 1989 tỷ lệ dân số nông thôn 79,7%; năm 1993 là 80,6%; năm 1995 là 79,2% và đến năm 2001 là 75,24%. Như vậy bình quân mỗi năm dân số nông thôn tăng lên khoảng 1 triệu người. Điều này tạo ra sức ép rất lớn về giải quyết việc làm. Hai là hiệu quả sử dụng đất thấp và sự suy giảm đáng kể của diện tích đất canh tác. Diện tích đất lúa và hoa màu giảm do sử dụng vài việc phát triển giao thông, thuỷ lợi, xây dựng cơ bản, mở mang đô thị và làm đất thổ cư. Đất chuyển đổi mục địch sử dụng ngày càng tăng lên trong đó đất giao thông tăng 11,6%, đất thuỷ lợi tăng 39,1%, đất xây dựng và nhà ở cả nông thôn và thành thị tăng 5,8% (ở nông thôn 80% đất ở lấy từ quỹ đất nông nghiệp, trong đó 50-60% lấy từ đất canh tác). Diện tích đất canh tác có hạn trong khi dân số tăng nhanh làm cho diện tích đất canh tác, đất nông ngiệp bình quân trên dầu người giảm. Đất nông nghiệp bình quân nhân khẩu cả nước là 1034 mét vuông và bình quân lao động nông nghiệp là1983 mét vuông. So với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới diện tích đất nông nghiệp cũng như lâm nghiệp tính theo đầu người của nước ta còn quá thấp. Quỹ đất đai không chỉ giảm về số lượng mà còn suy giảm về cả chất lượng. Tình trạng đất đai không được làm tăng độ phì, bị bóc lột quá mức dẫn tới hiện trạng đất bị hoang hoá trở lại không còn là hiện tượng xa lạ với các địa phương.Và đối với một gia đình có tới 2-3 lao động chính thì lượng dất canh tác tương ứng chỉ đủ cho một lao động chính và một lao động phụ. Điều này dẫn đến các lao động khác trở nên dư thừa. Ba là sản xuất chưa phát triển mạnh mẽ và toàn diện. Các thế mạnh của nông nghiệp chưa được khai thác triệt để trong khi đó hoạt động phi nông nghiệp tại địa phương kém phát triển.ở nông thôn thời gian qua so với trước đây tuy sản xuất nông nghiệp đã phát triển tạo ra nhiều nông sản phẩm cho sản xuất, tiêu dùng và xuất khẩu song nhìn chung ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ chậm phát triển, cơ cấu kinh tế chuyển đổi chậm... nên khả năng tạo việc làm còn thấp hay cầu về lao động còn thấp. Từ năm 1988 trở lại đây, sản xuất tiểu thủ công nghiệp và các ngành nghề truyền thống nói riêng bị sa sút đáng kể do khó khăn về đầu ra. Toàn vùng đồng bằng sông Hồng có khoảng 600000 lao động tiểu thủ công nghiệp vào năm 1998 nhưng đến năm 2002 chỉ còn có 320000… Do vậy số lao động dư dôi trong nông nghiệp tiếp tục tăng lên. Mặt khác, mặc dù nhà nước đã có những chính sách trợ giúp nông dân để họ phát triển sản xuất, tăng việc làm và thu nhập nhưng hiện nay các trang trại sản xuất hàng hoá vẫn gặp rất nhiều bất lợi đặc biệt là tình trạng nông sản làm ra khó tiêu thụ, giá thấp không đủ bù chi phí sản xuất ví dụ như niên vụ 2000 – 2001 giá cá phê giảm chỉ còn khoảng 1/4 so với những năm được giá trước đây. Đây là nhân tố kìm hãm đáng kể sự tăng trưởng và do vậy hạn chế khả năng tạo việc làm của bản thân ngành nông, lâm, ngư nghiệp. Ngành công nghiệp nông thôn, dịch vụ mới bước đầu phát triển thu hút số lao động còn thấp. Sở dĩ dẫn đến tình trạng này là do kết cấu kinh tế xã hội nông thôn còn thấp kém, giao thông, điện nước, thông tin liên lạc, trường học bệnh viện, nhà văn hoá còn thiếu và yếu. Mức độ cơ giới hoá và điện khí hoá chậm, với 51% số hộ đã có điện dùng nhưng điện sử dụng trong khu vực nông thôn mới chỉ chiếm gần 8,7% tổng sản lượng điện phát ra. Mạng lưới giao thông kém phát triển ảnh hưởng đến lưu thông vật tư, nông sản hàng hoá. Vốn đầu tư cho công nghiệp chế biến, nông lâm thuỷ hải sản chưa được coi trọng đúng mức. Nông thôn vẫn chưa là địa bàn đầu tư thuận lợi đối với các doanh nghiệp. Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác như hệ thống thông tin về thị trường lao động, việc làm, về cung và cầu lao động còn kém phát triển, chưa cung cấp đầy đủ, cập nhật, được cho người lao động và người sử dụng lao động về các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực… Chương 3 giải pháp phát triển thị trường sức lao động phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn 3.1. Mục tiêu, định hướng phát triển thị trường sức lao động phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Đối với nền kinh tế quốc dân, mục tiêu chủ yếu là phát triển ngày một hoàn thiện thị trường sức lao động. Theo Viện chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, một số chỉ tiêu định hướng phát triển thị trường sức lao động là: Chuyển đổi cơ cấu lao động theo ngành đến năm 2010 công nghiệp, xây dựng chiếm 30%, nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 42% dịch vụ chiếm 28%, và đến năm 2020 các tỉ lệ tương ứng sẽ là 28%, 42%, 30%; về phân bố nguồn lao động giữa thành thị và nông thôn đến năm 2020 chúng ta phấn đấu tỉ lệ dân số sống ở thành thị chiếm 33%, ở nông thôn chiếm 67%. Về phương hướng tạo việc làm trong toàn xã hội: “ Phương hướng quan trọng nhất là Nhà nước cùng toàn dân ra sức đầu tư phát triển, thực hiện tốt kế hoạch hoá và các chương trình kinh tế – xã hội. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đàu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Mọi công dân đều được tự do hành nghề thuê mướn nhân công theo pháp luật. Phát triển dịch vụ việc làm. Tiếp tục phân bố lại dân cư và lao động trên địa bàn cả nước, tăng dân cư trên các địa bàn có tính chiến lược vè kinh tế, an ninh – quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn”. Phấn đấu đến năm 2005, tạo việc làm và ổn định việc làm cho khoảng 7,5 triệu lao động (bình quân trên 1,5 triệu lao động/năm) và đến năm 2010 đưa tỉ lệ thất nghiệp xuống dưới 5%, quỹ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn lên khoảng 80% – 85% nâng tỉ lệ người lao động được đào tạo nghề lên khoảng 40% (đến năm 2020 mục tiêu đặt ra là đạt 50% - 60% lao động qua đào tạo nghề nghiệp). Bên cạnh đó cần phải xây dựng hoàn thiện, phát triển các yếu tố của thị trường lao động. Đối với lĩnh vực nông nghiệp nông thôn mục tiêu tạo ra thị trường lao động phát triển hoàn thiện có đủ khả năng thu hút các hoạt động đầu tư bên ngoài, cũng như đáp ứng được yêu cầu phát triển của nội bộ ngành nông nghiệp nhằm phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Dự tính đến năm 2010, số lao động nông thôn có khoảng 37 triệu người, các ngành kinh tế ở khu vực đô thị sẽ thu hút cho nông thôn khoảng 3 triệu người, còn lại 34 triệu lao động làm việc trong khu vực kinh tế nông thôn. Với cơ cấu kinh tế nông thôn là giảm dần tỉ trọng nông nghiệp, tăng tỉ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, cơ cấu lao động khi đó sẽ là: lao động nông nghiệp chiếm 45%, công nghiệp tiểu thủ công nghiệp 26,5% và dịch vụ 28,5%. Chúng ta phần đấu nâng cao chất lượng lao động nông thôn, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tạo ra nhiều vệc làm, từng bước tăng cầu về lao động và giảm cung lao động. Định hướng cơ bản về giải quyết việc làm cho lao động nông thôn những năm tới là: khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia tạo việc làm, trong đó chú trọng người lao động được quyền chủ động và sáng tạo tự kiếm việc làm và tự tạo thêm việc làm mới trên cơ sở tận dụng các tiềm năng đất đai, mặt nước và các điều kiện sinh thái sẵn có, không ngừng đa dạng hoá các hoạt động sinh thái tại chỗ. Trước hết là đa dạng hoá trong sản xuất nông nghiệp, chuyển dịch sản xuất lúa gạo ở các vùng không phù hợp sang các loại cây trồng, vật nuôi vừa cho sản phẩm có giá trị cao vừa thu hút nhiều lao động tại chỗ, và không ngừng phát triển các hoạt động phi nông nghiệp, kể cả các hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ sản xuất, đời sống ở nông thôn.Mục tiêu đặt ra đến năm 2010 sẽ có 15% lao động nông nghiệp nông thôn qua đào tạo nghề. Phấn đấu tăng tỉ lệ sử dụng quỹ thời gian lao động ở nông thôn lên 80% - 85%. Phấn dấu sử dụng về cơ bản hết số ngày công lao động của số lao động nông thôn trong độ tuổi, có khả năng lao động và nhu cầu hoạt động kinh tế; bảo đảm cơ bản nhu cầu việc làm cho đại bộ phận lao động khu vực nông thôn. Bên cạnh đó cần tăng thu nhập, giá trị ngày công cho lao động nông nghệp, nông thôn, phấn đấu đến năm 2010 xoá hộ đói và về cơ bản không còn hộ nghèo. 3.2. Các giải pháp phát triển thị trường sức lao động phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nước ta Phát triển thị trường sức lao động nông nghiệp, nông thôn Việt Nam hiện nay cần có sự tác động cả vào cung và cầu một cách mạnh mẽ nhằm tạo ra trạng thái cân bằng tích cực. Đây không thể chỉ là việc làm của ngành nông nghiệp hay của từng địa phương mà cần có sự phối hợp đồng bộ giữa chính quyền trung ương, chính quyền địa phương với bản thân ngành nông nghiệp, phải có một hệ thống giải pháp mang tính tổng thể dựa trên một chiến lược lâu dài mới có thể tạo ra những chuyển biến đáng kể ở thị trường này. 3.2.1.Những giải pháp từ phía nhà nước 3.2.1.1.Những giải pháp từ phía chính quyền trung ương Để phát triển thị trường sức lao động nông nghiệp, nông thôn phục vụ cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trước hết cần phải nâng cao chất lượng của thị trường này. Các giải pháp chính để nâng cao chất lượng lao động nông nghiệp nông thôn là: Nhà nước cần xác định đầu tư cho giáo dục đào tạo là đầu tư cho phát triển đầu tư cho tương lai. Một mặt, tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo, mặt khác khuyến khích đầu tư từ nhiều nguồn, thực hiện “xã hội hoá” giáo dục. Tăng đầu tư cho giáo dục để tăng cường cơ sở vật chất kĩ thuật về trường lớp, giáo trình, tài liệu, thư viện, chỗ ăn ở đặc biệt là tăng nhanh số giáo viên có chất lượng. Nhà nước cần đổi mới chương trình đào tạo đại học, cao dẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá. Đổi mới giáo trình cho phù hợp với tình hình thực tế; đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo và năg lực đào tạo của người học, coi trọng thực hành, thực nghiệm; chú trọng phát triển đội ngũ giáo viên thông qua đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng để chuẩn hoá đội ngũ giáo viên. Có thể nói đây không phải là biện pháp riêng để phát triển chất lượng lao động nông thôn mà còn được áp dụng cho thị trường lao động chung của cả nước. Chiến lược giáo dục và đào tạo lao động nông nghiệp nông thôn nước ta phải hướng vào việc xây dựng đội ngũ những người lao động có phẩm chất và năng lực ngày càng cao. Chúng ta phải đổi mới mạnh mẽ giáo dục và đào tạo nghề, trung học chuyên nghiệp và đại học đáp ứng nhu cầu và sự chuyển đổi của thị trường lao động. Hướng con em nông dân sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học thi vào các trường dạy nghề và trung học chuyên nghiệp không nhất thiết phải thi đại học, cao đẳng. Chú trọng giáo dục hướng nghiệp thiết thực cho học sinh giúp các em quan tâm đến việc lựa chọn nghề cho phù hợp với khả năng, trình độ, nhu cầu phát triển của bản thân và yêu cầu phát triển đất nước. Chiến lược đào tạo phải gắn chiến lược quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn theo ngành, theo vùng lãnh thổ. Điều này đòi hỏi nhà nước phải có chiến lược quy hoạch và điều chỉnh mạng lưới các trường đào tạo (từ đại học, cao dẳng, trung cấp kĩ thuật, đến đào tạo nghề) phù hợp với từng vùng, từng địa phương để sử dụng lao động gắn với khai thác tiềm năng lợi thế của vùng theo phương châm “ly nông bất ly hương”. Nên chăng, nhà nước cần đầu tư giúp đỡ mỗi vùng xây dựng các trường đại học, cao dẳng chuyên ngành phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của vùng. Việc làm này không những giúp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực địa phương theo kịp với nhu cầu thị trường mà còn thực hiện được các mục tiêu kinh tế xã hội khác như góp phần giảm chi phí học tập, giảm những khó khăn về đi lại… cho người nông dân. Nhà nước cần chú trọng đào tạo đội ngũ kĩ sư và các nhà khoa học phục vụ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; những lĩnh vực đòi hỏi trình độ cao như công nghệ sinh học, công nghệ chế biến, bảo quản nông, lâm, thuỷ hải sản; cơ giới hoá nông nghiệp. Bên cạnh đó, Nhà nước cần đặt thành một chương trình lớn nhằm hỗ trợ đào tạo nghề cho khu vực nông thôn, đào tạo phải gắn với nhu cầu của nông thôn hiện nay bao gồm đào tạo kiến thức quản lí và kinh doanh cho các chủ doanh nghiệp, chủ các hộ sản xuất – kinh doanh, đào tạo đội ngũ quản lí giúp việc và đào tạo kỹ thuật, bồi dưỡng tay nghề cho người lao động đang làm việc trong các cơ sở ngành nghề và đặc biệt phải trang bị cho đại đa số nông dân trực tiếp sản xuất trên đồng ruộng các kiến thức về kĩ thuật trồng trọt, chăn nuôi. Cần phải cân đối hợp lí giữa đào tạo dài hạn và ngắn hạn, giữa đào tạo tập trung tại các trường nghề với đào tạo tại cơ sở sản xuất; kết hợp các mô hình đào tạo từ dạy nghề đến truyền nghề, bảo đảm sự cân đối giữa các nghề.Trong đào tạo nghề phải có các cấp trình độ: bán lành nghề, lành nghề và lành nghề trình độ cao. Cần chuyển đổi mô hình trước kia: đào tạo – việc làm sang mô hình: đào tạo cơ bản – việc làm - đào tạo lại – vừa làm vừa đào tạo. Để thực hiện chương trình này cần đầu tư vốn để xây dựng mới hoặc nâng cấp các cơ sở dạy nghề, trên cơ sở đó có điều kiện làm tốt chức năng đào tạo, phát triển các cơ sở đào tạo rộng khắp các địa phương, đến từng tỉnh, huyện, tăng cường đào tạo tại chỗ. Khuyến khích hỗ trợ các hiệp hội, đoàn thể, các tổ chức tư nhân hình thành các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp ở nhiều địa phương. Để động viên học sinh nông thôn học đại học, cao đẳng, đặc biệt trung học và học nghề, nếu kinh tế khó khăn được giảm hoặc miễn học phí với điều kiện sau khi học xong phải về làm việc ở nông thôn nếu không phải hoàn trả lại chi phí đào tạo. Đối với học sinh ở vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn, người dân tộc thiểu số ngoài miễn học phí còn được cấp thêm chi phí ăn ở. Cùng với quá trình đào tạo cần phải có chính sách sử dụng lao động qua đào tạo đặc biệt là đội ngũ kĩ sư, các nhà khoa học phục vụ cho nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước cần có chính sách ưu đãi về tiền lương tiền thưởng … để đảm bảo quyền lợi thoả đáng của họ. Chẳng hạn, cùng một trình độ đào tạo như nhau, lương của những người làm việc ở khu vực đô thị là 1, ở vùng nông thôn thuận lợi là 1,2, vùng nông thôn khó khăn là 2, vùng nông thôn đặc biệt khó khăn là 2,5-3. Sau một thời gian làm việc ví dụ như 5 năm họ có thể chuyển vùng theo nguyện vọng. Chính sách giảm cung về lao động: bao gồm chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình, chính sách di dân. Nhà nước cần tuyên truyền sâu rộng đến các tầng lớp dân cư về tác dụng của kế hoạch hoá gia đình và các biện pháp thực hiện kế hoạch hoá ; thực hiện di dân sang những khu vực ít bị sức ép, dư thừa lao động… Chính sách tăng cầu về lao động, cần phải phối hợp thực hiện các biện pháp sau: Giải pháp chính vẫn là tạo việc làm thông qua đa dạng hoá sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp; phát triển các hoạt động công nghiệp,chế biến, phát triển ngành nghề phi nông nghiệp nông thôn và phát triển rộng rãi các hoạt động thương mại và dịch vụ nông thôn. Muốn thực hiện tốt các giải pháp trên nhà nước cần phải từng bước hoàn thiện các chính sách vĩ mô về đất đai, về tạo vốn và tín dụng, về thuế… Nhà nước cần ưu đãi đối với các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp sử dụng nhiều nhân công đầu tư vào địa bàn nông thôn thông qua các chính sách như chính sách thuế, chính sách tín dụng… Các doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn nông thôn đặc biệt là vào các vùng khó khăn nhà nước nên cho vay vốn với lãi suất ưu đãi hoặc không lấy lãi; nhà nước miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong một thời gian nhất định; đơn giản hoá thủ tục vay vốn, tăng thời hạn vay vốn lên tới 3-5 năm là chủ yếu; mở rộng hệ thống dịch vụ tín dụng cho khu vực nông thôn, thiết lập các quỹ tín dụng chuyên doanh, các quỹ bảo lãnh tín dụng phục vụ phát triển công nghiệp nông thôn. Bên cạnh đó cần bảo vệ quyền lợi hợp pháp về tài sản, bí quyết công nghệ, phát minh sáng chế và quyền sở hữu công nghiệp… tăng cường an ninh kinh tế nhằm khuyến khích và thu hút nhuồn vốn đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Đối với các trang trại, hợp tác xã, làng nghề hay chủ hộ sản xuất kinh doanh, nhà nước cần hỗ trợ vốn ban đầu; nới lỏng các hạn chế pháp lí đối với quyền sở hữu ruộng đất dể mở rộng quy mô nông, trang trại đẩy mạnh hoạt động cơ giới hoá; giúp tìm kiếm và mở rộng thị trường thông qua việc cung cấp thông tin thị trường, tổ chức các dịch vụ tư vấn về chiến lược mặt hàng; đơn giản hoá và trợ giúp các cơ sở ngành nghề nông thôn làm tốt các thủ tục xuất khẩu hàng hoá; nhà nước tiến hành lựa chọn công nghệ mẫu thích hợp với các cơ sở ngành nghề nông thôn ở từng địa phương làng xã từ đó nhân rộng ra các nơi khác; thiết lập các trung tâm tư vấn chuyển giao công nghệ, hỗ trợ công nghệ – kĩ thuật tư vấn cho các làng nghề, các hộ sản xuất kinh doanh… Nhà nước xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất hoặc khu công nghệ cao ở các vùng nông thôn hoặc vùng ven đô; chuyển các nhà máy xí nghiệp từ thành thị về nông thôn tạo thêm việc làm đồng thời với việc phát triển nông thôn nước ta. Nhà nước chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông thôn, đặc biệt cho các vùng đã được quy hoạch ở huyện, vã về phát triểncông nghiệp, thương mại và dịch vụ, trước hết là phá triển điện nước, gioa thông. Tích cực mở rộng địa bàn đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài. Nhà nước xây dựng cơ chế hỗ trợ hợp lí đối với cá nhân và tổ chức tham gia đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nớc ngoài, hỗ trợ người lao động vay vốn từ ngân hàng. Các giải pháp khác từ phía nhà nước để phát triển thị trường sức lao động nông nghiệp, nông thôn. Xây dựng chương trình việc làm quốc gia với các chương trình việc làm cụ thể, chi tiết; triển khai có hiệu quả quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm; phát triển hệ thống thông tin về thị trường sức lao động nông nghiệp nông thôn nói riêng và thị trường lao động trong cả nước; nhà nước dần hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động để bảo vệ cả người lao động lẫn người sử dụng lao động; có chính sách hỗ trợ người lao động bị mất việc làm khi tham gia thị trường lao động như hỗ trợ tài chính khi bị mất việc làm, chấm dứt hợp đồng trước thời hạn, đào tạo lại tay nghề cho người lao động… 3.2.1.2. Những giải pháp từ phía chính quyền địa phương Các giải pháp ở tầm vĩ mô của nhà nước có hiệu quả trong thực tiễn hay không phụ thuộc rất lớn vào chính quyền địa phương. Do vậy để phát triển thị trường sức lao động nông nghiệp, nông thôn, chính quyền mỗi địa phương cần vận dụng đúng, sáng tạo các chính sách của Đảng và nhà nước. Phát triển thêm một số cơ sở đào tạo các ngành nghề dịch vụ chất lượng cao theo yêu cầu phát triển của xã hội, các cơ sở đào tạo để bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống. Đặc biệt chú trọng việc khai thác khả năng của các cơ sở đào tạo chuyển giao công nghệ cho nông dân trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế của các địa phương. Những nơi chưa có trung tâm dạy nghề thì xây dựng mới còn những nơi đã có tiếp tục đầu tư củng cố đồng bộ về cơ sở vật chất, phát triển thêm ngành nghề đào tạo để đáp ứng nhu cầu học nghề tại chỗ của lao động xã hội ở các địa phương. Mỗi một địa phương đều có cơ chế khuyến khích cụ thể đối với giáo viên dạy nghề, thu hút học sinh vào học nghề, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở dạy nghề của các thành phần kinh tế. Xuất phát từ đặc điểm của người nông dân là đời sống còn nghèo, trình độ dân trí thấp, phần đông thiếu vốn trong sản xuất, phân bố rất phân tán… do vậy các địa phương cần đưa ra các hình thức đào tạo, thời gian đào tạo và phương pháp đào tạo cho thích hợp. Đào tạo có thể thông qua các trường lớp, tập huấn nghề nghiệp tại chỗ qua các hiệp hội, các tổ chức xã hội, khuyến nông, khuyến lâm; thông qua các phương thức truyền hình, đài phát thanh, báo chí…; có thể tổ chức các lớp học nghề dài hạn, ngắn hạn, hoặc các lớp tập huấn khoảng một tuần, thậm chí chỉ một ngày để những người ở nông thôn trao đổi, học tập kinh nghiệm sản xuất... Chính quyền địa phương sẽ lựa chọn phương thức thích hợp nhất sao cho phù hợp với đặc điểm dân cư và chương trình phát triển kinh tế của địa bàn. Mô hình dạy nghề lưu động đang trở thành một hướng đi phù hợp cho rất nhiều địa phương hiện nay. Đó là hình thức dạy nghề kéo dài từ 15 ngày đến ba tháng do các kĩ sư đang công tác ở địa phương hoặc các doanh nghiệp trên địa bàn hướng dẫn với địa điểm tổ chức linh hoạt đến từng thôn, xóm. Nội dung học nghề gắn liền với yêu cầu của các dự án và yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế cụ thể: đào tạo nghề trong những năm tới hướng vào các ngành nghề sau: điện-điện tử, sản xuất vật liệu xây dựng, dệt may, chế biến nông sản, chế biến thức ăn gia súc, xây dựng, cơ khí, sửa chữa đồ dùng… Các địa phương cần tuyển lựa con em nông dân gửi đi đào tạo tập trung (với những ràng buộc vật chất bắt buộc quay trở về địa phương sau khi đào tạo) để tạo nên lực lượng kĩ thuật ổn định ở địa phương. Bên cạnh đó mỗi địa phương cần thực hiện chính sách “trải thảm đỏ đón nhân tài” để thu hút đội ngũ trí thức, các nhà khoa học về làm việc ở nông thôn như lương cao, cấp nhà ở, tạo công ăn việc làm cho những người trong gia đình… Chính quyền địa phương nên phân công lao động thành hai loại: loại có thể chuyển đổi nghề nghiệp (lao động trẻ, khoẻ, có trình độ văn hoá) và loại lao động không thể chuyển đổi nghề nghiệp (lao động lớn tuổi, trình độ văn hoá hạn chế). Mỗi loại cần có chính sách cho phù hợp. Đối với loại có thể chuyển đổi nghề nghiệp được cần khuyến khích họ tự tìm việc làm mới. Chính quyền địa phương tạo mọi điều kiện cho họ có việc làm. Đối với loại không thể chuyển đổi nghề nghiệp mới, khuyến khích chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ trồng trọt sang chăn nuôi, từ nông nghiệp sang tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ… Mỗi địa phương cần xây dựng chương trình việc làm phù hợp với chương trình việc làm quốc gia và trên cơ sở điều kiện kinh tế – xã hộivà thế mạnh của mỗi vùng. Quỹ hỗ trợ việc làm cần phải được xây dựng ở các vùng, các địa phương để giúp đỡ kịp thời cho người lao động. Chính quyền địa phương cũng nên tổ chức các hội chợ việc làm để tuyyển dụng lao động, nắm bắt được cung cầu lao động của địa phương cũng như cơ cấu ngành nghề để định hướng cho người lao động và cơ sở đào tạo. Địa phương cần quy hoạch lại và tăng cường năng lực hệ thống Trung tâm dịch vụ việc làm, có nhiệm vụ cung cấp các thông tin cầu lao động, tư vấn, giới thiệu việc làm, thông tin về các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, giúp người lao động tăng cơ hội có việc làm… Để tạo ra nhiều việc làm hơn nữa, địa phương cần khai thác triệt để các thế mạnh của địa phương để phát triển hoạt động phi nông nghiệp như phát triển kinh tế hộ gia đình, phát triển trang trại, nông trại, các hợp tác xã, các doanh nghiệp dịch vụ, công nghiệp chế biến…; dựa trên những ưu đãi của nhà nước, các địa phương cũng cần có chính sách thông thoáng hơn để thu hút đầu tư trong và ngoài nước. Từng ngành từng cấp chính quyền có liên quan cần theo dõi và xử lí kịp thời những vướng mắc, điều kiện cần thiết cho sự phát triển các ngành nghề như tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ nông thôn đăng kí thủ tục kinh doanh, chuyển đổi hình thức kinh doanh, tạo môi trường bình đẳng và lành mạnh về việc thuê hoặc cấp đất phục vụ kinh doanh, vay vốn và bảo lãnh tín dụng, lập các hội nghề nghiệp để hỗ trợ lẫn nhau, ưu đãi bằng việc miễn giảm thuế hoặc các khuyến khích vật chất hay tinh thần khác. Mỗi địa phương nên khôi phục và phát triển ngành nghề truyền thống và các ngành nghề mới ở địa bàn mình. Muốn vậy, chính quyền địa phương cần tạo điều kiận thuận lợi cho các cơ sở sản xuất như vay vốn ưu đãi, miễn giảm thuế, hỗ trợ tìm kiếm thị trường tiêu thụ, ưu đãi đối với các nghệ nhân, thợ giỏi, hỗ trợ công tác truyền nghề… Bên cạnh đó các địa phương cũng nên phát triển mạnh các hình thức hiệp hội ngành nghề. Các địa phương và các tổ chức đoàn thể được uỷ quyền quản lí, sử dụng nguồn vốn giải quyết việc làm cần chỉ đạo các đơn vị chức năng phối hợp với Ngân hàng Chính sách Xã hội đuy trì hoạt động cho vay và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, tránh để ách tắc nguồn vốn và dư nợ quá hạn cao. 3.2.2. Các giải pháp từ phía ngành nông nghiệp và các ngành khác Ngành nông nghiệp có vai trò quan trọng trong việc quy hoạch định hướng vấn đề đào tạo, trong việc tăng cầu lao động. Từ nhu cầu của ngành nông nghiệp, ngành giáo dục cần đưa ra các hình thức, phương pháp, hệ thống giáo trình phù hợp để nâng cao chất lượng của lao động; cần ưu đãi cho các giáo viên ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Các chính sách, định hướng về giáo dục đào tạo của nhà nước như đã trình bày ở trên có đi vào hiện thực hay không phụ thuộc vào sự nỗ lực của bản thân ngành giáo dục nhưng bên cạnh đó việc nâng cao chất lượng lao động nông thôn còn chịu tác động rất lớn vào ngành nông nghiệp. Ngành này cần đưa ra các chương trình khuyến nông, khuyến lâm thích hợp cho từng địa bàn dân cư; đặc biệt ngành cần xác định rõ phương hướng ngành nghề cần phát triển để từ đó định hướng cho giáo dục đào tạo. Muốn phát triển được thị trường lao động nông thôn, nông nghiệp phải phát triển mạnh mẽ theo hướng sản xuất hàng hoá gắn với công nghiệp chế biến, đáp ứng được nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu, phát huy lợi thế sinh thái, bảo vệ môi trường và tài nguyên. Ngành nông nghiệp cần xác định rõ mô hình và tạo lập cơ chế để nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi tăng sức cạnh tranh về hàng hoá nông phẩm trên thị trường trong và ngoài nước. Giải pháp chính của ngành nông nghiệp là đưa vào thực hiện các chương trình dự án phát triển nông nghiệp nông thôn như phát triển mạnh kinh tế trang trại, kinh tế vườn đồi, nuôi trồng thuỷ hải sản… Cây công nghiệp, cây lâm nghiệp, cây ăn quả và cây đặc sản là thế mạnh của nước ta cần được phát triển và có quy hoạch đúng đắn gán với chính sách khuyến khích hình thành, phát triển các vùng sản xuất cây công nghiệp, cây lâm nghiệp, cây đặc sản, dược liệu và cây ăn quả đồng thời hình thành các cụm công nghiệp chế biến tại các vùng nguyên liệu để không ngừng nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp phục vụ tiêu dùng, xuất khẩu và hình thành các trung tâm thu hút theo hướng đô thị hoá nông thôn; đẩy mạnh chăn nuôi gia súc gia cầm trên cơ sở phát triển công nghiệp thức ăn gia súc, chú trọng các con đặc sản có giá trị kinh tế cao… từ đó giải quyết được việc làm cho lao động. Ngoài ra, để phát triển thị trường sức lao động nông nghiệp, nông thôn cũng cần có vai trò không nhỏ của ngành y tế (chăm sóc sức khoẻ cộng đồng), ngành bưu chính viễn thông (để phát triển hệ thống thông tin thị trường rộng khắp cả nước), ngành giao thông vận tải ngành công nghiệp (để tạo việc làm)... Tóm lại, cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế nói chung và trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nói riêng, thị trường sức lao động nông nghiệp, nông thôn đã từng bước hình thành và có những bước tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên, vẫn còn không ít hạn chế làm cản trở đến sự phát triển kinh tế xã hội nông thôn mà muốn xoá bỏ những tồn tại đó cần phải có sự phối hợp thực hiện giữa mọi cấp, mọi ngành và Nhà nước. Đây phải được coi là công việc chung của toàn xã hội, của từng người và của từng gia đình nông thôn thì mới có thể hình thành nên một thị trường thống nhất, ổn định và phát triển. kết luận Để phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, một thị trường sức lao động đã bước đầu hình thành và phát triển ở khu vực này. Tuy nhiên thị trường sức lao động nông nghiệp nông thôn vẫn còn rất nhiều tồn tại như tiền lương nhân công thấp và hệ thống thông tin thị trường chưa phát triển đặc biệt là vấn đề chất lượng nguồn lao động thấp, hiện tượng thiếu việc làm. Nguyên nhân của mỗi một tồn tại đều do nhiều yếu tố khác nhau tác động đến. Chất lượng lao động còn thấp do đây là khu vực có trình độ dân trí thấp, cơ sở vật chất cho giáo dục còn yếu kém, giáo dục chưa gắn với nhu cầu từng vùng, từng địa phương, chưa phù hợp với đối tượng nông dân, vốn đầu tư cho dạy nghề còn ít, chính sách sử dụng lao động qua đào tạo ở từng địa phương còn nhiều bất cập. Tình trạng thiếu việc làm do dân số tăng nhanh; do hiệu quả sử dụng đất thấp và diện tích đất đất canh tác ngày càng giảm; do sản xuất chưa phát triển toàn diện và mạnh mẽ… Vì vậy theo nghiên cứu của em, để phát triển thị trường sức lao động nông nghiệp nông thôn chúng ta cần tập trung vào bốn nhóm giải pháp chính là: nâng cao chất lượng nguồn lao động, giảm mức cung ứng và tăng cầu lao động, phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động. Những giải pháp này đòi hỏi phải có sự phối hợp thực hiện đồng bộ của chính quyền trung ương, chính quyền địa phương, các ngành chức năng và bản thân mỗi người lao động nông thôn. “Thị trường sức lao động phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Thực trạng và giải pháp” là một đề tài mang tính thời sự hiện nay, đánh giá đúng thực trạng và tìm ra các giải pháp là đòi hỏi tất yếu khách quan nhằm thực hiện thành công quá trình chuyển dịch cơ cấu trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn góp phần phát triển kinh tế đất nước. Chính vì vậy, việc tìm hiểu về thị trường sức lao động nông nghiệp, nông thôn là rất phức tạp song cũng có nhiều điều lý thú và hấp dẫn cần tiếp tục khám phá và nghiên cứu. Tuy nhiên do hạn chế của bản thân cũng như phương pháp nghiên cứu khoa học, đề tài chắc chắn còn rất nhiều thiếu sót hạn chế. Em kính mong được sự giúp đỡ của các thầy giáo để đề tài có chất lượng hơn. Em xin chân thành cảm ơn. Tài liệu tham khảo 1. Chính sách nông nghiệp nông thôn Việt Nam nửa cuối thế kỉ XX và một số định hướng đến năm 2010 _ Trần Ngọc Bút _ NXB Chính trị Quốc gia 2002. 2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập với khu vực và trên thế giới – Lê Du Phong, Nguyễn Thành Đô NXB Chính trị quốc gia. 3. Kinh tế các ngành sản xuất kinh doanh – TS nguyễn Đình Hợi (chủ biên) – NXB Tài chính 2002. 4. Lao động việc làm và nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 năm đổi mới – NXB Thế giới 2001. 5. Một số vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn - Đặng Kim Sơn, Hoàng Thu Hoài – NXB Thống Kê 2002. 6. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước – PTS Mai Quốc Chánh NXB Chính trị quốc gia. 7. Những biện pháp kinh tế tổ chức và quản lý phát triển kinh tế nông nghiệp hàng hoá và đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn Bắc Bộ – Lương Xuân Quỳ, Nguyễn Đình Hương, Nguyễn Thế Nhã - NXB Nông nghiệp 1996. 8. Nông nghiệp Việt Nam trong giai.đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá - Đặng thọ Xương – NXB Chính trị Quốc gia 1997. 9. Phân tích chính sách nông nghiệp nông thôn. NXB Nông nghiệp 1996. 10. Phát triển toàn diện kinh tế xã hội nông thôn nông nghiệp Việt Nam – Chu Dương Quý – NXB Chính trị Quốc gia 1996. 11. Thị trường sức lao động. Thực trạng và giải pháp. NXB Thống kê Hà Nội 1995. 12. Thực trạng lao động và việc làm ở Việt Nam. Nguyễn Quang Hiên NXB Thống kê 1998. 13. Văn kiện đại hội Đảng IX - NXB Chính trị Quốc gia 2001. 14. Báo lao động và xã hội số192 15. Nghiên cứu Đông Nam á số 6/2003 16. Tạp chí cộng sản số 457/1994; 469/1995; 15, 16, 18/1998; 14/1999; 8/2002. 17. Tạp chí Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương tháng 2/2003. 18. Tạp chí kinh tế phát triển số 59/2002, 64/2002, 66/2002, 70/2003. 19. Tạp chí nông nghiệp và phát triển nông thôn số 5/2002, 6/2202, 10/2002. Mục lục Lời nói đầu 5 Chương I: Vai trò của thị trường sức lao động đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn 5 1.1. Một số vấn đề lý luận chung 5 1.1.1. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn 5 1.1.2. Tính tất yếu khách quan của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn 7 1.1.2.2. Một số vấn đề có tính quy luật trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn 8 1.1.2.3. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp: 10 1.2. Vai trò của thị trường sức lao động đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. 12 1.2.1.Thị trường sức lao động 12 1.2.2. Thị trường sức lao động phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn 14 Chương II: Thực trạng thị trường sức lao động đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn nước ta 16 2.1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn 16 2.1.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong nông nghiệp nông thôn 16 2.1.2. Chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế trong nông nghiệp nông thôn 19 2.1.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng 20 2.2. Thị trường sức lao động đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn nước ta thời gian qua 22 2.2.1. Những thành tựu của thị trường sức lao động nông nghiệp, nông thôn. 22 2.2.2. Những tồn tại của thị trường sức lao động nông nghiệp, nông thôn 24 2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại trong thị trường sức lao động nông nghiệp, nông thôn 29 Chương III: Giải pháp phát triển thị trường sức lao động phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn 34 3.1. Mục tiêu, định hướng phát triển thị trường sức lao động phục vụ quá trình chuyển dịch c cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. 34 3.2. Các giải pháp phát triển thị trường sức lao động phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nước ta 36 3.2.1. Những giải pháp từ phía nhà nước 37 3.2.1.1. Những giải pháp từ phía chính quyền trung ương 37 3.2.1.2. Những giải pháp từ phía chính quyền địa phương 42 3.2.2. Các giải pháp từ phía ngành nông nghiệp và các ngành khác 45 Kết luận Tài liệu tham khảo Đại học quốc gia Hà Nội Khoa kinh tế *********** Công trình nghiên cứu khoa học sinh viên 2003 – 2004 Đề tài: Thị trường sức lao động phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Thực trạng và giải pháp Họ và tên sinh viên: Bùi Mỹ Trinh Lớp: 46 CLC Giáo viên hướng dẫn: PGS TS Lê Danh Tốn Hà Nội, tháng 3 năm 2004

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxKTCT-02.docx
Tài liệu liên quan