Đề tài Một số giải pháp phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Thành phố Hà Nội

Tài liệu Đề tài Một số giải pháp phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Thành phố Hà Nội: LỜI NÓI ĐẦU Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nền kinh tế của Việt Nam hơn 10 năm qua chuyển dần từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN. Từ công cuộc đổi mới này, nền kinh tế nước ta đã thu được những thành tựu trên nhiều mặt. Nhữngthành tựu này đã đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới đó là đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Muốn có vốn phục vụ cho quá trình CNH, HĐH đất nước trong giai đoạn hiện nay chúng ta cần phải huy động tối đa nguồn vốn trong và ngoài nước (vốn trong nước là chủ yếu). Để thực hiện được việc này chúng ta cần phải kiện toàn hệ thống ngân hàng, đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống này, trong đó phải phát triển mạnh mẽ thanh toán không dùng tiền mặt. Công tác thanh toán không dùng tiền mặt giữ một vị trí quan trọng và không thể thiếu được trong hoạt động ngân hàng. Thanh toán không dùng tiền mặt liên...

doc47 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1044 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Thành phố Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nền kinh tế của Việt Nam hơn 10 năm qua chuyển dần từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN. Từ công cuộc đổi mới này, nền kinh tế nước ta đã thu được những thành tựu trên nhiều mặt. Nhữngthành tựu này đã đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới đó là đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Muốn có vốn phục vụ cho quá trình CNH, HĐH đất nước trong giai đoạn hiện nay chúng ta cần phải huy động tối đa nguồn vốn trong và ngoài nước (vốn trong nước là chủ yếu). Để thực hiện được việc này chúng ta cần phải kiện toàn hệ thống ngân hàng, đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống này, trong đó phải phát triển mạnh mẽ thanh toán không dùng tiền mặt. Công tác thanh toán không dùng tiền mặt giữ một vị trí quan trọng và không thể thiếu được trong hoạt động ngân hàng. Thanh toán không dùng tiền mặt liên quan mật thiết với quá trình chu chuyển vốn trong nền kinh tế. Tổ chức thanh toán nhanh chóng, kịp thời, chính xác, an toàn và thuận tiện sẽ làm cho vốn của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế quay vòng nhanh, đáp ứng về nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, tiết giảm các chi phí cho đơn vị. Từ đó, đối với xã hội thì nó giảm được tiền mặt trong lưu thông, giảm chi phí in tiền, góp phần ổn định tiền tệ, thúc đẩy sản xuất phát triển. Vì vậy, trong hoạt động ngân hàng, đẩy mạnh công tác thanh toán không dùng tiền mặt là rất cần thiết. Đây là một trong những phương thức huy động và tạo vốn có hiệu quả cao cho đầu tư phát triển, thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình đổi mới công nghệ ngân hàng, góp phần thúc đẩy nhanh sự hội nhập hoạt động ngân hàng nước ta với cộng đồng tài chính tiền tệ trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, trong công tác thanh toán không dùng tiền mặt còn có những hạn chế, đòi hỏi cần có biện pháp giải quyết kịp thời. Với mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào công cuộc đổi mới công nghệ ngân hàng, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Một số giải pháp phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại NHNo và PTNT Thành phố Hà Nội” làm chuyên đề tốt nghiệp. Ngoài lời nói đầu, kết luận chuyên đề được chia thành 3 chương: Chương I: Những lý luận cơ bản về thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường Chương II: Thực trạng thanh toán không dùng tiền mặt tại NHNo & PTNT thành phố Hà Nội Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại NHNo & PTNT thành phố Hà Nội Do trình độ còn hạn chế và thời gian nghiên cứu có hạn, bài viết không tránh khỏi những sai sót. Em mong nhận được ý kiến chỉ bảo của thầy và ban lãnh đạo cùng các đồng chí phòng kế toán Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội. Em xin chân thành cảm ơn thầy TS. Lê Đức Lữ đã hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành chuyên để thực tập tốt nghiệp này. CHƯƠNG I NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG I. SỰ RA ĐỜI KHÁCH QUAN VÀ VAI TRÒ CỦA THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1. Sự ra đời và phát triển của thanh toán không dùng tiền mặt - Thanh toán không dùng tiền mặt là một hình thức thanh toán tiền, hàng hóa, dịch vụ của khách hàng thông qua vai trò trung gian của ngân hàng bằng cách trích từ tài khoản này chuyển trả vào tài khoản khác theo lệnh của chủ tài khoản. - Thanh toán không dùng tiền mặt là một bộ phận không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường. Đó là sự đòi hỏi khách quan của quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa. - Sản xuất hàng hóa thời ban đầu còn mang nặng tính tự cung tự cấp, việc trao đổi hàng hóa còn bị hạn chế. Khi sản xuất hàng hóa phát triển thì việc trao đổi hàng hóa trở nên thường xuyên và phát triển hơn. Do đó việc trao đổi trực tiếp vật lấy vật không còn thuận tiện và phù hợp nữa. Để thuận tiện cho việc trao đổi người ta chọn một loại hàng hóa có tính phổ biến nhất làm vật ngang giá chung để có thể trao đổi trực tiếp với bất kỳ một hàng hóa nào khác. - Lúc đầu, mỗi địa phương có một sản phẩm khác nhau làm vật ngang giá chung. Khi nền kinh tế phát triển thì vật ngang giá được lựa chọn phải là những vật mang tính phổ biến, nó phải thỏa mãn nhu cầu trao đổi của trong nước cũng như ngoài nước. Vì vậy hàng hóa là kim loại đã được dùng làm vật ngang giá chung do kim loại có ưu điểm là dễ chia nhỏ và gộp lại, dễ vận chuyển, dễ bảo quản và có giá trị cao.. Nền kinh tế phát triển, thị trường được mở rộng thì vàng, bạc được giữ vai trò làm vật ngang giá chung vì vàng, bạc có nhiều ưu điểm hơn các kim loại khác. Đến cuối thế kỷ 19, các quốc gia đã lựa chọn vàng làm vật ngang giá chung, để đo lường giá trị của các hàng hóa khác. Khi trở thành vật ngang giá chung duy nhất, vàng đã trở thành tiền tệ. Tiền tệ ra đời là do sự phát triển và lưu thông hàng hóa. - Khi sản xuất hàng hóa phát triển mạnh sử dụng tiền vàng có rất nhiều bất tiện, muốn mua một mặt hàng có giá trị quá nhỏ thì không thể dùng tiền đó được, đồng thời Nhà nước phải dự trữ một khối lượng vàng lớn. Điều này ở những nước kém phát triển không có được. Do vậy tiền giấy đã được ra đời. - Tiền giấy có giá trị thấp nên khi đóng vai trò là tiền tệ thì Nhà nước không phải tổn thất quá nhiều cho việc sản xuất ra tiền giấy, do tiền giấy dễ chia nhỏ và dễ lưu thông, dễ cất giữ nên sử dụng tiền giấy rất có hiệu quả cho nền kinh tế. Nhưng sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển, lưu thông hàng hoá ngày càng mở rộng về quy mô, phạm vi lẫn tính thường xuyên liên tục thì thanh toán bằng tiền mặt sẽ làm cho khối lượng tiền mặt trong lưu thông tăng lên rất lớn. Từ đó nảy sinh khó khăn trong quá trình điều hòa lưu thông tiền mặt. Khối lượng tiền mặt tăng lên sẽ gây sức ép về mặt giá cả rất dễ dẫn đến lạm phát. Mặt khác, thanh toán bằng tiền mặt phải chi phí lớn cho việc in ấn, vận chuyển, đóng gói, bảo quản, kiểm đến.. Bên cạnh đó chức năng phương tiện thanh toán của tiền tệ lại cho phép tiền tệ vận động tách dời với sự vận động của hàng hóa, cho nên không nhất thiết phải dùng tiền mặt mà có thể dùng tiền ghi sổ để thay thế cho tiền mặt trong lưu thông các (đồng tiền ghi sổ là toàn bộ số dư trên các tài khoản tiền gửi của các đơn vị, cá nhân trong nền kinh tế mở tại ngân hàng). Ngân hàng đứng ra làm trung gian thanh toán giữa các khách hàng. Như vậy, thanh toán không dùng tiền mặt ra đời gắn liền với việc ghi sổ đồng tiền. Đó là việc trích tiền từ tài khoản của người chi trả sang tài khoản của người thụ hưởng mở tại ngân hàng hoặc là cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian của ngân hàng. Hình thức thanh toán không dùng tiền mặt sẽ khắc phục được nhược điểm của thanh toán bằng tiền mặt. Thanh toán không dùng tiền mặt sẽ làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông, giảm được chi phí trong các khâu in ấn, kiểm đếm, vận chuyển.. giảm được chi phí lao động xã hội, nâng cao hiệu quả thanh toán trong nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Hiện nay ở nước ta tỷ trọng tiền mặt trong lưu thông còn khá lớn, bất lợi cho ngân hàng thương mại trong huy động tiền gửi thanh toán đồng thời nó cũng gây ra bất lợi trong nền kinh tế. Do đó, việc đẩy mạnh hình thức thanh toán dùng tiền mặt vào quá trình thanh toán thay thế cho tiền mặt trong lưu thông là hết sức cần thiết, vừa đáp ứng được yêu cầu tất yếu khách quan của sản xuất và lưu thông hàng hoá vừa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế hiện đại. Tổ chức tốt công tác thanh toán không dùng tiền mặt là một yêu cầu đặt ra đối với tất cả các đơn vị, các tổ chức trong toàn xã hội, đặc biệt là ngành Ngân hàng với vai trò là trung tâm thanh toán của nền kinh tế quốc dân. 2. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt Trong nền kinh tế thị trường, thanh toán không dùng tiền mặt có vai trò rất quan trọng, nó góp phần đẩy mạnh sự giao lưu, tạo điều kiện rút ngắn khả năng quay vòng của vốn, thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng, từ đó nâng cao tích luỹ cho nền kinh tế quốc dân. Thực hiện mở rộng công tác thanh toán không dùng tiền mặt trong chu chuyển tiền tệ sẽ làm giảm lượng tiền mặt trong lưu thông, giảm được các chi phí cần thiết phục vụ cho lưu thông tiền mặt, tác động trực tiếp đến thị trường giá cả, kiềm chế lạm phát tiến tới ổn định tiền tệ. Tổ chức tốt công tác thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng làm cho Ngân hàng có thể tập trung được vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để sử dụng có kế hoạch nhằm phục vụ cho quá trình tái sản xuất. Công tác thanh toán không dùng tiền mặt càng phát triển, càng mở rộng thì nguồn vốn ngân hàng huy động từ số dư trên các tài khoản tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế sẽ tăng lên, tăng nguồn vốn tín dụng của ngân hàng. Đồng thời qua thanh toán không dùng tiền mặt, ngân hàng nắm được một số cách chính xác, hợp lý tình hình thiếu vốn của các bên tham gia thanh toán kịp thời cho vay, phát triển vay đúng mục đích và có vật tư, hàng hoá đảm bảo. Mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt góp phần thực hiện tốt chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Việc mở rộng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt sẽ giảm được khối lượng lớn tiền mặt trong lưu thông và làm tăng khối lượng tiền ghi sổ. Điều đó giúp cho Ngân hàng có thể sử dụng hữu hiệu các công cụ của chính sách tiền tệ. Bởi vì để điều tiết được khối lượng tiền mặt trong lưu thông một cách linh hoạt là rất khó, chỉ cần thay đổi lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc... là có thể làm tăng hoặc giảm một cách nhanh chóng một khối lượng tiền mặt cần thiết trong lưu thông, phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Như vậy, thanh toán không dùng tiền mặt có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Muốn đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế thì phải đẩy mạnh công tác thanh toán không dùng tiền mặt từng bước hiện đại hoá hoạt động thanh toán theo chương trình đổi mới công nghệ ngân hàng. II. NGUYÊN TẮC TRONG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT 1. Nguyên tắc về tài khoản thanh toán. Để tiến hành trích chuyển tài khoản, quy định đầu tiên là các chủ thể thanh toán phải mở tài khoản tại một hay nhiều tổ chức tài chính trung gian, các khách hàng (gồm các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức đoàn thể, đơn vị vũ trang, công dân Việt Nam và người nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam) được quyền lựa chọn ngân hàng để mở tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán, tài khoản phải luôn có đủ số dư để thanh toán kịp thời và đầy đủ cho người thụ hưởng. Việc mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng và thực hiện thanh toán qua tài khoản được ghi bằng đồng Việt Nam. Trường hợp mở tài khoản và thanh toán bằng ngoại tệ phải thực hiện theo quy chế quản lý ngoại hối của Chính phủ Việt Nam ban hành. Ngoài ra, trong một số hình thức thanh toán còn đòi hỏi phải có hợp đồng kinh tế hay đơn đặt hàng, các chủ thể tham gia thanh toán phải thực hiện đúng theo những điều khoản đã ký trong hợp đồng kinh tế. Hợp đồng kinh tế hay đơn đặt hàng là cơ sở pháp lý để giải quyết khi xảy ra tranh chấp trong quá trình thanh toán. 2.Nguyên tắc về chứng từ thanh toán Tất cả những chứng từ thanh toán của các chủ thể thanh toán đều phải lập trên mẫu in sẵn do ngân hàng in và nhượng bán. Những chứng từ đó phải được lập đủ liên, viết rõ ràng, không được tẩy xóa và phải nộp vào ngân hàng theo đúng quy định. Các ngân hàng có quyền từ chối việc thanh toán hoặc không tiếp nhận các giấy tờ thanh toán trong trường hợp chủ thể thanh toán vi phạm một trong các quy định của chế độ thanh toán hiện hành. 3.Nguyên tắc trách nhiệm của ngân hàng - Các ngân hàng có trách nhiệm hướng dẫn khách hàng làm các thủ tục thanh toán, giám sát khả năng chi trả của khách hàng; cung cấp đầy đủ và kịp thời các loại giấy tờ thanh toán cần thiết cho khách hàng theo chế độ quy định. - Các ngân hàng có trách nhiệm thông báo và đối chiếu thường xuyên với các chủ tài khoản về số dư tài khoản tiền gửi. - Khi nhận được các chứng từ thanh toán của khách hàng gửi đến, các ngân hàng phải kiểm tra khả năng thanh toán của chủ tài khoản trước khi thực hiện thanh toán và có quyền từ chối thanh toán nếu tài khoản không đủ tiền. Ngân hàng phải thanh toán kịp thời chính xác và đảm bảo an toàn tài sản cho khách hàng. Nếu do thiếu sót gây thiệt hại cho khách hàng thì ngân hàng phải bồi thường vật chất cho bên bị hại và tùy theo mức độ vi phạm có thể bị xử lý theo pháp luật. Khi thực hiện các dịch vụ thanh toán cho khách hàng, ngân hàng được thu phí theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Trên đây là một số quy định cơ bản nhằm mục đích vừa đảm bảo cho quá trình thanh toán được thực hiện đúng đắn vừa đảm bảo cho sự kiểm soát bằng đồng tiền của hệ thống Ngân hàng đối với các hoạt động của các chủ thể thanh toán có hiệu quả. III. CÁC HÌNH THỨC THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT QUA NGÂN HÀNG TRONG NỀN KTTT 1. Thanh toán bằng Séc. - Séc là lệnh trả tiền của chủ tài khoản được lập trên mẫu do Ngân hàng Nhà nước quy định yêu cầu đơn vị thanh toán trích một số tiền từ tài khoản tiền gửi thanh toán của mình để trả cho người thụ hưởng có tên ghi trên séc hoặc người cầm séc. - Séc được dùng để thanh toán tiền hàng, dịch vụ nộp thuế trả nợ.. hoặc để rút tiền mặt tại các chi nhánh ngân hàng. Tất cả khách hàngmở tài khoản tại ngân hàng đều có quyền sử dụng séc để thanh toán. Trong hình thức thanh toán bằng séc, việc trả tiền do người trả tiền khởi xướng và kết thúc bằng việc ghi số tiền trên tờ séc vào tài khoản của người nhận tiền. - Séc là công cụ thanh toán ra đời khá sớm và được sử dụng khá phổ biến, được dùng cho cá nhân. Séc thông thường được áp dụng theo nguyên tắc ghi nợ trước, ghi có sau. Theo quy định, đơn vị phát hành séc chỉ được phép phát hành séc trong phạm vi số dư tiền gửi của mình. Phải chấp hành các thủ tục quy định về séc, chịu phạt khi phát hành quá số dư. Thời hạn hiệu lực của séc là 15 ngày kể từ ngày chủ tài khoản phát hành séc đến ngày người thụ hưởng nộp séc vào ngân hàng (gồm cả ngày chủ nhật và ngày lễ). Nếu ngày kết thúc của thời hạn là ngày chủ nhật, ngày lễ thì thời hạn được lùi vào ngày làm việc tiếp theo sau ngày chủ nhật, ngày lễ đó. 1.1. Thanh toán bằng séc chuyển khoản Séc chuyển khoản do người mua trực tiếp phát hành để trao cho người bán đồng thời nhận số hàng tương ứng với số tiền ghi trên séc chuyển khoản. Séc chuyển khoản thường được áp dụng trong trường hợp hai bên mua bán tín nhiệm lẫn nhau về mặt thanh toán. Phạm vi áp dụng: + Đối với khách hàng mở tài khoản tiền gửi cùng một ngân hàng. + Đối với khách hàng mở tài khoản tiền gửi khác ngân hàng (trong cùng hệ thống, khác hệ thống trong cùng địa bàn) có tham gia thanh toán bù trừ. Nguyên tắc thanh toán: Phải thực hiện ghi nợ tài khoản người phát hành trước, ghi có tài khoản người thụ hưởng sau. - Séc chuyển khoản được người phát hành séc giao trực tiếp séc cho người thụ hưởng, tuy nhiên hạn chế bộc lộ rõ nhất là phạm vi thanh toán rất hạn hẹp, séc chuyển khoản chỉ dùng thanh toán trên địa bàn có tham gia thanh toán bù trừ, quy trình luân chuyển séc phức tạp, séc vẫn ghi nợ trước. 1.2. Thanh toán bằng séc bảo chi Séc bảo chi là hình thức thanh toán trước khi người mua trao séc cho người bán thì phải đến ngân hàng để làm thủ tục bảo chi bằng cách trích tài khoản tiền gửi của mình để lưu ký vào tài khoản tiền gửi đảm bảo séc bảo chi. Nguyên tắc hạch toán: + Séc bảo chi thanh toán khách ngân hàng, cùng hệ thống được ghi có ngay cho người thụ hưởng. + Séc bảo chi thanh toán bù trừ với ngân hàng khác trên địa bàn do giám đốc ngân hàng phục vụ người thụ hưởng quy định việc ghi có ngay cho người thụ hưởng hoặc thực hiện theo quy định của ngân hàng chủ trì thanh toán bù trừ. Nếu không thanh toán ngay ngân hàng phục vụ người thụ hưởng làm thủ tục như thanh toán séc chuyển khoản. Phạm vi áp dụng: + Thanh toán cùng ngân hàng + Thanh toán khác ngân hàng cùng hệ thống + Thanh toán khác ngân hàng, khác hệ thống trên cùng địa bàn có tham gia thanh toán bù trừ. - Séc bảo chi do ngân hàng đảm bảo chi trả hộ nên độ an toàn cao song bên trả tiền bằng séc bảo chi phải lưu ký tiền vào tài khoản tại ngân hàng phục vụ mình do vậy dẫn tới tình trạng ứ đọng vốn trong thanh toán. 2. Thanh toán bằng ủy nhiệm chi - chuyển tiền 2.1. Thanh toán bằng ủy nhiệm chi. Ủy nhiệm chi là lệnh trả tiền của chủ tài khoản được lập theo mẫu in sẵn của ngân hàng phục vụ mình (nơi mở tài khoản tiền gửi) trích tài khoản của mình để trả cho người thụ hưởng. Phạm vi áp dụng: + Ủy nhiệm chi được thanh toán cùng ngân hàng (hai bên mua bán cùng mở tài khoản ở cùng một ngân hàng). + Thanh toán bằng ủy nhiệm chi khác ngân hàng nhưng cùng hệ thống. + Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi khác ngân hàng, khác hệ thống có tham gia thanh toán bù trừ. Đây là hình thức phổ biến mà khách hàng sử dụng vì thủ tục đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng, đảm bảo an oàn trong thanh toán và rất phù hợp trong việc thanh toán qua mạng máy tính hiện nay. Thể thức này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng lượng thanh toán không dùng tiền mặt ở NHNo & PTNT. 2.2. Thanh toán bằng Séc chuyển tiền Séc chuyển tiền là một hình thức chuyển tiền theo yêu cầu của khách hàng, trong đó người đại diện đứng tên trên tờ séc trực tiếp cầm và chuyển séc. Thời hạn hiệu lực của séc chuyển tiền là 30 ngày (kể từ ngày phát hành séc đến ngày nộp séc vào ngân hàng thanh toán). Phạm vi áp dụng: Séc chuyển tiền để chuyển tiền giữa hai chi nhánh ngân hàng trong cùng hệ thống. Séc chuyển tiền thủ tục gọn nhẹ, đảm bảo an toàn cho bên mua và bên bán, phạm vi áp dụng rộng rãi trong toàn hệ thống NHNo VN được khách hàng rất ưa chuộng. 3. Thanh toán bằng thư tín dụng: Thư tín dụng là loại văn bản cam kết của người mua có xác nhận của ngân hàng bên mua để uỷ nhiệm cho ngân hàng bên bán thanh toán một số tiền nhất định cho người bán nộp đầy đủ chứng từ thanh toán hợp lệ theo điều kiện và thời hạn của thư tín dụng. Phạm vi áp dụng: Thư tín dụng thanh toán trong nước được thanh toán ở người mua và người bán ở 2 ngân hàng khác nhau, khác địa bàn cùng hệ thống. Trường hợp khác hệ thống thì trên địa bàn của người bán phải có chi nhánh ngân hàng cùng hệ thống với ngân hàng người mua và chi nhánh này tham gia thanh toán bù trừ với ngân hàng bên bán. Điều kiện: + Thời gian của thư tín dụng là 3 tháng. + Hạn mức tối thiểu là 10 triệu đồng. + Một thư tín dụng được mở để thanh toán cho một người bán và thanh toán một lần. Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng trả tiền cho bên thụ hưởng căn cứ vào hoá đơn, vận đơn hoặc chứng từ giao nhận hàng có chữ ký của đại diện người trả tiền, kèm theo giấy ủy nhiệm của người trả tiền do người thụ hưởng xuất trình phù hợp với các điều khoản quy định thống nhất giữa hai bên đã ghi trong thư tín dụng. Sau khi trả tiền cho người thụ hưởng, ngân hàng phục vụ người thụ hưởng phải báo nợ cho ngân hàng phục vụ người trả tiền để tất toán thư tín dụng. Thư tín dụng quy trình thanh toán rườm rà, quy định chặt chẽ, nặng nề về khâu an toàn, không phù hợp với nhịp độ phát triển kinh tế và đòi hỏi của khách hàng là vừa an toàn, nhanh chóng, thuận tiện do vậy khách hàng hầu như không sử dụng hình thức thanh toán này. 4.Thanh toán bằng ủy nhiệm thu Ủy nhiệm thu là giấy ủy nhiệm đòi tiền do người thụ hưởng gửi vào ngân hàng phục vụ mình nhờ để thu tiền về số lượng hàng hóa đã giao, dịch vụ đã cung ứng. Uỷ nhiệm thu được áp dụng thanh toán tiền hàng, dịch vụ giữa các chủ thể mở TK trong cùng một chi nhánh ngân hàng hoặc các chi nhánh ngân hàng cùng hệ thống hay khác hệ thống. Các chủ thể thanh toán phải thỏa thuận thống nhất dùng hình thức thanh toán ủy nhiệm thu với những điều kiện thanh toán cụ thể đã ghi trong hợp đồng kinh tế hay đơn đặt hàng, đồng thời phải thông báo bằng văn bản cho ngân hàng phục vụ chủ thể thanh toán biết để làm căn cứ thực hiện các ủy nhiệm thu. Khi nhận được giấy ủy nhiệm thu, trong vòng một ngày làm việc, ngân hàng phục vụ bên trả tiền phải trích tài khoản của bên trả tiền để trả ngay cho bên thụ hưởng để hoàn tất việc thanh toán. Thanh toán ủy nhiệm thu: Trường hợp các chủ thể thanh toán mở tài khoản tại hai chi nhánh ngân hàng (cùng hoặc khác hệ thống). Thanh toán bằng ủy nhiệm thu phải luân chuyển chứng từ qua nhiều khâu nên quá trình thanh toán bị chậm trễ, hay xảy ra tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau thường bị gây thiệt hại do người bán. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, mối quan hệ giữa các bên tham gia thanh toán trở nên ít tín nhiệm nhau hơn nên hình thức này được sử dụng không nhiều, chủ yếu thu tiền điện, nước, điện thoại, vệ sinh, tiền nhà.. 5.Thanh toán bằng thẻ thanh toán Thẻ thanh toán do ngân hàng phát hành bán cho khách hàng sử dụng để trả tiền hàng hoá, dịch vụ, các khoản thanh toán khác và rút tiền mặt tại các ngân hàng đại lý thanh toán hay các quầy trả tiền mặt tự động. Muốn sử dụng loại thẻ này, khách hàng phải lưu ký tiền vào một tài khoản riêng tại ngân hàng và được sử dụng thẻ thanh toán có giá trị thanh toán bằng số tiền ký gửi quỹ ghi trong thẻ đã lưu ký. Khi sử dụng hết hạn mức tín dụng, hết số dư ký quỹ ghi trong thẻ hoặc hết hạn sử dụng thẻ, nếu có nhu cầu sử dụng thẻ phải đến ngân hàng phát hành thẻ để làm thủ tục sử dụng tiếp. Thẻ thanh toán là một hình thức thanh toán áp dụng công nghệ hiện đại. NHNo VN hiện nay đang xúc tiến rất nhiều dự án để tranh thủ kinh nghiệm thanh toán, cách thức tổ chức hệ thống thanh toán tìm ra sự tương đồng. IV. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC PHÁT TRIỂN THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1. Sự tăng trưởng nền kinh tế Khi nền kinh tế tăng trưởng, nhu cầu của con người ngày càng trở nên đa dạng do vậy nhu cầu cần thiết thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng trở nên cấp bách, bởi vì khi sản xuất hàng hoá phát triển ở trình độ cao thì thanh toán bằng tiền mặt ngày càng bộc lộ những nhược điểm vì phạm vi thanh toán mở rộng, khối lượng thanh toán lớn không thể thanh toán cho nhau bằng tiền được vì phải vận chuyển, bảo quản và kiểm đếm một khối lượng tiền lớn không đảm bảo an toàn, mặt khác khi nền kinh tế phát triển tạo điều kiện trao đổi hàng hoá trong xã hội được mở rộng làm nảy sinh các mối quan hệ kinh tế trở nên đa dạng, chằng chịt và phức tạp. Không đơn giản như trước nữa, thanh toán không ngừng tăng lên cả về khối lượng và số lượng, công tác thanh toán thường diễn ra nhiều hơn thậm chí diễn ra 24/24 giờ. Song có sự khác biệt về thời gian, không gian, giữa sản xuất hàng hoá và tiêu dùng, giữa chu kỳ sản xuất khác, phát sinh mối quan hệ mua bán chịu lẫn nhau trong trường hợp này sự vận động giữa vật tư hàng hoá tách rời nhau, độc lập với sự vận động của tiền tệ. Quá trình tái sản xuất là quá trình liên tục và không ngừng đòi hỏi phải có nhiều hình thức thanh toán tiến bộ hơn đó là quá trình thanh toán không dùng tiền mặt. Vì vậy khi nền kinh tế tăng trưởng là một nhân tố ảnh hưởng lớn đến việc phát triển thanh toán không dùng tiền mặt. 2. Sự đa dạng hoá các hình thức thanh toán. Trong thanh toán không dùng tiền mặt có nhiều hình thái thanh toán bao gồm thanh toán bằng séc, thanh toán bằng uỷ nhiệm chi, thanh toán bằng chuyển tiền thanh toán bằng thẻ thanh toán như vậy các nhiều hình thức thanh toans càng thu hút nhiều khách hàng hơn làm giảm bớt thanh toán bằng tiền mặt thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đối với các ngân hàng thương mại của nước ta cần mở rộng nhiều hơn hình thức thanh toán và giảm bớt những thủ tục thanh toán rườm rà để thúc đẩy việc thanh toán không dùng thương mại phát triển hơn. 3. Sự hiểu biết của khách hàng về thanh toán qua ngân hàng Việc thanh toán không dùng tiền mặt của khách hàng qua ngân hàng còn rất ít do trình độ hiểu biết còn nhiều hạn chế hơn nữa nhiều khách hàng còn ít đến giao dịch với ngân hàng bởi họ sợ mất thời gian, một phần vì họ chưa hiểu biết, và hơn nữa thói quen dùng tiền mặt của dân chúng còn nặng nền do vậy họ ít giao dịch qua ngân hàng hơn. Đây là một nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình thanh toán không dùng tiền mặt. Vậy muốn cho công tác này phát triển mạnh mẽ hệ thống ngân hàng cần phải tuyên truyền rộng rãi dưới mọi hình thức để tăng thêm người dân đến giao dịch nhiều hơn. Bên cạnh đó còn phải cải tiến hơn trong quá trình thanh toán có như vậy mới hạn chế được thói quen dùng tiền mặt trong nhân dân. Đây cũng là nhân tố ảnh hưởng không nhỏ tới công tác thanh toán không dùng tiền mặt của dân chúng. 4. Sự hoàn thiện của thể lệ thanh toán qua ngân hàng. Đây cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến quá trình thanh toán không dùng tiền mặt của nhân dân, để thu hút và khuyến khích khách hàng đến với mối quan hệ nhiều hơn hệ thống ngân hàng cần phải cải tiến nhiều trong thủ tục thanh toán, trong thực tế thủ tục phức tạp, nhiều chỗ không cần thiết song vẫn còn tồn tại do vậy cần phải hạn chế bớt những yếu tố không cần thiết có như mới thúc đẩy nhiều hơn công tác thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng nhiều hơn. 5. Công tác tổ chức và trình độ cán bộ thực hiện thanh toán. Việc tổ chức trong mạng lưới ngân hàng còn chưa thuận tiện đối với khách hàng. Do vậy đây cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến việc phát triển thanh toán không dùng tiền mặt, trình độ cán bộ còn hạn chế gây phiền phức cho khách hàng, phong cách giao dịch chưa đúng mức. Để công tác thanh toán không dùng tiền mặt phát triển, hệ thống ngân hàng phải tổ chức lại và nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ thanh toán viên hơn. Mặc dù đã có tiến bộ hơn trước đây nhưng vẫn còn nhiều bất cập vậy cần phải cải tiến thêm để thu hút ngày càng nhiều khách hàng. 6. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác thanh toán Khi cơ sở vật chất phục vụ công tác thanh toán hiện đại tạo uy tín lớn đối với khách hàng, bởi vì khi giao dịch với ngân hàng khách hàng muốn thủ tục nhanh gọn thuận tiện. Vì vậy hệ thống ngân hàng cần phải cải tiến hơn cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác thanh toán. 7. Ý thức trách nhiệm của ngân hàng và khách hàng. Để tạo lòng tin cho khách hàng phải nâng cao ý thức trách nhiệm hơn. Đây cũng chính là một nhân tố ảnh hưởng đến quá trình thanh toán không dùng tiền mặt có như vậy mới thu hút được nhiều khách hàng hơn. Việc tổ chức hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt có những ưu điểm hình thành một bộ máy hoàn chỉnh, đa năng, trình độ kỹ thuật và nghiệp vụ cao tại trung ương đảm bảo cho sự quản lý điều hành với các giao dịch lớn ở thị trường trong nước và quốc tế, giữ vai trò trọng yếu và quyết định tới sự phát triển của cả hệ thống ngân hàng. Mạng lưới chi nhánh rộng khắp, các nghiệp vụ đa dạng, các giao dịch được hạch toán, quản lý tập trung tại trung ương, hệ thống thông tin đa dạng phục vụ các nhu cầu tư vấn, kinh doanh của khách hàng, đảm bảo cho tính hiệu quả kinh doanh của một ngân hàng, hạn chế rủi ro. Do đó việc áp dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội rất phù hợp với điều kiện hiện tại của Việt Nam và xu hướng phát triển của thời đại. Phương thức thanh toán này nhằm đổi mới, hoàn thiện và hiện đại hoá hệ thống thanh toán qua ngân hàng nói chung và Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội nói riêng trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại háo đất nước. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN THÀNH PHỐ HÀ NỘI. I. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN THÀNH PHỐ HÀ NỘI. 1. Khái quát về công tác tổ chức và hoạt động kinh doanh: Năm 1988 hệ thống ngân hàng Việt Nam chuyển từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Hà Nội ra đời sau và có hiệu lực theo nghị định 53/HĐBT ban hành ngày 26/3/1988. Đây là một Ngân hàng thương mại quốc doanh, là ngân hàng thành viên và hạch toán độc lập của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam với trụ sở đặt tại 77 Lạc Trung - Hà Nội. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội là một ngân hàng cấp thành phố, có địa bàn hoạt động rộng và chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi tình hình kinh tế xã hội của Hà Nội. Từ khi thành lập đến nay Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Hà Nội hoạt động luôn luôn đổi mới để phù hợp với tình hình phát triển của nền kinh tế. Ngân hàng hoạt động luôn tạo được lòng tin đối với khách hàng, kinh doanh có hiệu quả đặc biệt trong chương trình phát triển nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn. Năm 1999 ngân hàng đã đạt được huân chương lao động hạng ba do Nhà nước trao tặng. Để đạt được kết quả khả quan này là do sự nỗ lực của cán bộ công nhân viên, sự phối hợp nhịp nhàng qua các phòng ban và sự đạo sáng suốt của ban lãnh đạo. Về lao động, hiện nay, tổng số cán bộ công nhân viên của ngân hàng là 221 người. Ngân hàng đã thiết lập được mạng lưới đơn vị cơ sở trực thuộc của mình ở hầu hết các quận trong thành phố và khu vực. Số cán bộ có trình độ đại học và trên đại học chiếm tỷ lệ lớn, được bố trí tương đối hợp lý ở các vị trí tương ứng. Để có được thành công này, ban lãnh đạo phải mất một thời gian khá dài rà soát lại toàn bộ nhân viên, từ đó có cơ sở sắp xếp, bố trí cán bộ phù hợp với năng lực, sở trường chuyên môn, tạo điều kiện phát huy được thế mạnh chung của toàn ngân hàng. Ngân hàng thường xuyên quan tâm, chú trọng đào tạo nâng cao trình độ cán bộ về mọi mặt đặc biệt về chuyên môn, nghiệp vụ. 2. Cơ cấu tổ chức: Ngân hàng nông nghiệp do Hội đồng quản trị quản lý và Tổng giám đốc điều hành,thực hiện chức năng kinh doanh đa năng, chủ yếu là kinh doanh tiền tệ tín dụng và các dịch vụ ngân hàng đối với khách hàng trong nước và nước ngoài. Đầu tư các dự án phát triển kinh tế xã hội, uỷ thác tín dụng, đầu tư theo Chính phủ, các chủ đầu tư trong nước và nước ngoài trong các ngành kinh tế, trước hết là trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Về mặt tổ chức: Tổ chức bộ máy hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Hà Nội. * Ngân hàng trung tâm và 8 ngân hàng Quận 3. Tình hình hoạt động kinh doanh: 3.1. Tình hình huy động vốn: Nguồn vốn là yếu tố quan trọng hàng đầu trong kinh doanh của các doanh nghiệp, khác với ngành kinh doanh khác, vốn tự có của Ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn kinh doanh, vốn đi vay chỉ là bổ sung. Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ với phương châm "đi vay để cho vay" thì vốn kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn lại là vốn đi vay. Vì vậy để kinh doanh tiền tệ, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của các ngân hàng thương mại là phải chăm lo nguồn vốn. Để có thể huy động được tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để đầu tư cho phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội đã thực hiện đa dạng hoá các hình thức huy động vốn trên địa bàn. Duy trì các hình thức huy động vốn truyền thống kết hợp với các hình thức huy động mới. Bên cạnh đó Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội luôn thực hiện tốt công tác thanh toán và dịch vụ khác phục vụ khách hàng để thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến giao dịch chuyển tiền, mở tài khoản tiền gửi cá nhân làm tăng thêm nguồn vốn trong thanh toán, mở rộng cho vay. Với mạng lưới quỹ tiết kiệm hiện có, phòng nguồn vốn đã cố gắng chiếm được lòng tin của khách hàng bằng phong cách giao tiếp văn minh, lịch sự, thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội đến 31/12/2001 đã đạt 4.257 tỷ đồng tăng 27,26% so với năm 2000, bình quân đầu người đạt 15,8 tỷ đồng so với những ngày đầu khi mới thành lập với 16 tỷ nguồn vốn, thì ngày nay sau 12 năm thành lập, nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội tăng trưởng 209 lần đã tạo ra thế và lực vững chắc cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội trong việc cung cáap vốn cho các nhu cầu phát triển kinh tế thủ đô của các doanh nghiệp có quan hệ giao dịch với Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội. Ngoài ra trong năm 2001 cũng như nhiều năm trước đó Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội đã cung ứng một khối lượng vốn lớn đáng kể cho toàn ngành để điều hoà chung cả nước, riêng mức điều hoà vốn cho toàn ngành bằng 119% mức vốn điều hoà năm 2001. Để tăng trưởng nguồn vốn ổn định và vững chắc, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội đã thực hiện thu hút mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế, xã hội, các trường học, bệnh viện … nên trong năm, năm 2001 kết cấu các loại nguồn vốn đều tăng trưởng khá ổn định nguồn vốn cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội có thể đầu tư cho các dự án trung dài hạn lớn. Đặc biệt trong năm 2001 Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội đã triển khai huy động nguồn vốn ngoại tệ của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội đã chủ động đáp ứng nhu cầu vay vốn ngoại tệ của các doanh nghiệp. Cụ thể nguồn vốn ở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội được thể hiện qua bảng sau: Bảng 1: Tình hình nguồn vốn qua 3 năm: ĐVT: tỷ đồng Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2000/1999 (%) 2001/2000 (%) Tổng nguồn vốn 2.470 3.345 4.257 135,42 127,26 Trong đó: TGTK 420 357 640 85 179,27 Trái phiếu, kỳ phiếu 2.050 930 1.141 45 122,69 TGTCKT - 704 895 - 127,13 TGTCTD 1.022 1.454 - 142,27 TG kho bạc - 332 127 - 38,25 Theo bảng trên ta thấy nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội trong năm 2001 chiếm 4.257 tỷ đồng với kết cấu như sau: TGTiết kiệm: 640 tỷ đồng chiếm 15% TG kỳ phiếu: 1.141 tỷ đồng chiếm 28% TG tổ chức kinh tế: 895 tỷ đồng chiếm 21% TG tổ chức TD: 1.454 tỷ đồng chiếm 34% TG kho bạc: 127 tỷ đồng chiếm 2%. Với nguồn vốn trên Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội đã chủ động đáp ứng nhu cầu tín dụng các thành phần kinh tế, đặc biệt đã đầu tư các dự án trung, dài hạn, góp vốn đồng tài trợ các dự án lớn. Trong năm 2001 Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội tiếp tục huy động tiền gửi ngoại tệ trên địa bàn đáp ứng được cơ bản nhu cầu vay vốn ngoại tệ của các doanh nghiệp. Thị phần nguồn vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội so với nguồn vốn của các Tổ chức tín dụng trên địa bàn thủ đô: * Tổng nguồn vốn đạt 4257 tỷ/ 95.946 tỷ động chiếm 4,4% - Trong đó: tiền gửi dân cư: 1.781 tỷ/ 33.258 tỷ đồng chiếm 4,1% + Tiền gửi nội tệ: 3.906 tỷ/ 43.095 tỷ đồng chiếm 9.1% + Tiền gửi ngoại tệ:350 tỷ/ 31.389 tỷ đồng chiếm 1,1% 4. Tình hình cho vay : Trong chiến lược phát triển chung trong giai đoạn hiện nay, kinh doanh tín dụng giữ vai trò chủ đạo là cơ sở để tiến hành và thực hiện tất cả các hoạt động khác trong ngân hàng. Ngân hàng xác định kinh doanh không chỉ là nhiệm vụ của cán bộ tín dụng mà với phương châm "toàn quân ra trận" tất cả các bộ, phòng ban kết hợp với nhau tạo thành guồng máy hoạt động nhịp nhàng ăn khớp nhằm thống nhất mục tiêu chung là phục vụ khách hàng. Với những phương thức cho vay mới theo quy ước tín dụng ban hành ngày 30-9-1998 ngân hàng lượt bớt những thủ tục rườm rà, giảm thiểu thời gian duyệt và số lần ký hợp đồng tín dụng, cải thiện cơ bản mối quan hệ giữa ngân hàng với bạn hàng. Trên cơ sở tính lãi suất đầu vào ngân hàng đã áp dụng mức lãi suất ưu đãi phù hợp cho khách hàng tháo gỡ khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong năm 2001, Tổng dư nợ của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội đạt 1.574 tỷ đồng đạt 95% kế hoạch, tăng 21,8% so với năm 2000. Với tổng số 112 doanh nghiệp nhà nước, 103 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, 562 hộ sản xuất, đặc biệt có 7 tổng công ty…, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội đã đầu tư với tỷ trọng: Dư nợ DNNN: 1.267 tỷ đồng chiếm 80% tổng dư nợ, tăng 43,3% so với năm 2000. Dư nợ ngoài quốc doanh: 158 tỷ chiếm 10% tổng dư nợ, tăng 52% so với năm 2000. Dư nợ HTX: 2,9 tỷ chiếm 0,2% tổng dư nợ, giảm 25% so với năm 2000. Dư nợ hộ sản xuất: 48 tỷ chiếm 3% tổng dư nợ, tăng 122% so với năm 2000. Dư nợ vay khác: 97 tỷ chiếm 6.8% tổng dư nợ, giảm 69% so với năm 2000. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội đã đáp ứng tốt mọi nhu cầu tín dụng cho các thành phần kinh tế trên địa bàn, ngoài ra Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội đã thẩm định và giải ngân 2 dự án trung hàn, mở rộng dây chuyền sản xuất bia của nhà máy Bia Hà Nội (đến 31/12/2001 đã giải ngân 40 tỷ đồng). Dự án nhà máy Kính nổi Bình Dương thuộc tổng công ty Thuỷ tinh gốm xây dựng (đến 31/12/2001 đã giải ngân 170 tỷ đồng). Ngoài những sự án lớn Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội đã thẩm định và giải ngân một số dự án trung hạn như mở rộng dây chuyền gạch ốp Nhà máy gạch Hà Nội, dự án dây chuyền sản xuất bao bì xi măng của nhà máy văn phòng phẩm Cửu Long. Việc giữ ổn định số khách hàng hiện có là nhiệm vụ rất quan trọng của toàn chi nhánh, mặt khác Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội đã liên tục tiếp thị và mở rộng thêm khách hàng mới về mở tài khoản và quan hệ tín dụng với Ngân hàng như Công ty dệt Hà Nội, Công ty kinh doanh nước sạch Hà Nội… Cùng với việc đầu tư các doanh nghiệp hiện có, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội còn chỉ đạo tập trung khai thác và tiếp thị các công ty THHH, hộ sản xuất. Đây chính là đối tượng mang lại hiệu quả và an toàn cao tránh rủi ro khi đầu tư. Với tổng dư nợ 1.574 tỷ đồng Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội đã cho vay 1.114 tỷ đồng ngắn hạn, 274 tỷ đồng trung hạn, 186 tỷ đồng dài hạn. Để đạt được những kết quả đáng kể nêu trên, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội đã thực hiện áp dụng nhiều biện pháp: Áp dụng lãi suất ưu đãi đối với doanh nghiệp truyền thống. Liên tục phân loại khách hàng theo tháng, quý, năm qua đó nắm bắt được những khách hàng làm ăn có hiệu quả, kinh doanh có lãi tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp hoà nhập với cơ chế thị trường. Miễn giảm phí dịch vụ, phí chuyển tièn với doanh nghiệp có dư nợ cao kinh doanh có lãi vay, trả sòng phẳng. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội đã và đang tiếp tục mở rộng thị phần khách hàng, mở rộngt hu tiền mặt tại chỗ tiết kiệm cho doanh nghiệp tạo thêm nguồn vốn cho Ngân hàng. Liên tục đổi mới phong cách phục vụ, giao tiếp phương châm "Sự thành đạt của khách hàng là thành công của Ngân Hàng". Với sự hành công đáng kể trên của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội cũng chính là sự đóng góp nhỏ bé của NHNo & PTNT Hà Nội vào sự phát triển kinh tế thủ đô cũng như mở rộng quy mô hoạt động của NHNo & PTNT Việt Nam. Thực hiện chương trình 13 của Thành ủy Hà Nội về việc phát huy nội lực, khai thác nguồn vốn tại chỗ để đầu tư cho nền kinh tế trên địa bàn thủ đô, NHNo & PTNT Hà Nội ngoài việc đáp ứng nhu cầu vốn thương mại cho các thành phần kinh tế đã phối hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền, các quận triển khai cho vay đối với các hộ nghèo thiếu vốn làm ăn. Trong năm 2001, NHNo Hà Nội đã cho 950 hộ vay 1,2 tỷ đồng vốn cho sản xuất kinh doanh, nhiều hộ đã có thu nhập khá, trả nợ ngân hàng được1,7 tỷ đồng. Hiện nay còn gần 1000 hộ nghèo đang có dư nợ vay ngân hàng 1,7 tỷ đồng. Về nợ quá hạn: đến 31-12-2001, tổng dư nợ quá hạn của NHNo Hà Nội đạt 23 tỷ, chiếm 1,8% dư nợ giảm 3,8% so với đầu năm. Trong năm 2000, ngân hàng đã tích cực triển khai các biện pháp thu hồi nợ quá hạn nhất là phát mại tài sản, đặc biệt được NHNo & PTNT Việt Nam xử lý rủi ro trên 40 tỷ đồng nên nợ quá hạn giảm thấp hơn năm 1999. 5. Công tác kế toán thanh toán: Công tác kế toán thanh toán ở NHNo Hà Nội không ngừng được đổi mới với nhiều hình thức phong phú, đã thực hiện tin học hóa công nghệ thanh toán, đội ngũ cán bộ làm công tác kế toán đã làm tốt công tác của mình, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh đồng thời đảm bảo thanh toán thu chi hợp lý đảm bảo quy chế phân phối thu nhập phù hợp cho người lao động. Phòng kế toán đã được tổ chức tốt công tác phát huy hiệu quả công nghệ ngân hàng. Năm 2000 ngân hàng đã thực hiện tốt công tác vốn giữa các ngân hàng trên cùng địa bàn cũng như với các ngân hàng nông nghiệp trong cùng hệ thống không để xảy ra nhầm lẫn, sai sót với doanh số 13.790 tỷ đồng, bằng 136% doanh số thanh toán năm 1999, số lượng khách hàng chuyển tiền qua mạng vi tính ngày càng tăng lên, đặc biệt khi NHNo & PTNT Việt Nam triển khai thực hiện việc chuyển tiền điện tử NHNo Hà Nội, được tham gia thực hiện ngay từ đầu. Tuy còn mới mẻ nhưng ngân hàng đã cố gắng phục vụ khách hàng không có những sai sót, nhầm lẫn đáng tiếc xảy ra. II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TẠI NHNO & PTNT TP HÀ NỘI 1. Tình hình thanh toán nói chung: Xuất phát từ đặc điểm ngân hàng là đơn vị kinh doanh tiền tệ, nguồn vốn chủ yếu là đi vay để cho vay, phục vụ nền kinh tế làm cho vốn tiền tệ sinh sôi. Một trong số các nguồn vốn có khả năng sinh lời nhiều nhất cho hoạt động của ngân hàng là nguồn vốn thanh toán. Để huy động nguồn vốn này ngoài việc mở rộng quy mô hoạt động, ngân hàng còn chú trọng đến việc vận động khách hàng mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng với thủ tục đơn giản, thuận tiện, áp dụng nhiều hình thức thanh toán mới phù hợp với cơ chế thị trường như chuyển tiền điện tử, thanh toán bằng thẻ tín dụng. Ngân hàng có mạng lưới thanh toán hiện đại và rộng khắp toàn quốc, tạo cho khách hàng thanh toán nhanh chóng, chính xác, an toàn. Uy tín của ngân hàng được nâng cao, thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, ngân hàng có thể mở rộng đầu tư làm cho hoạt động tín dụng không ngừng được tăng lên. Ta có thể phân tích tình hình thanh toán của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội qua bảng sau: Bảng 2: Tình hình thanh toán tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội năm 2000 và năm 2001 ĐVT: Triệu đồng. Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Doanh số Tỷ lệ (%) Doanh số Tỷ lệ (%) Thanh toán chung 30.363.374 100 27.218.539 100 Thanh toán bằng tiền mặt. 8.623.198 28,4 7.577.764 27,8 Thanh toán không dùng tiền mặt 21.740.176 71,6 19.640.775 72,2 *( Số liệu trên được lấy từ giao dịch trực tiếp) Qua bảng trên ta thấy thanh toán không dùng tiền mặt chiếm tỷ trọng cao trên 70% trong tổng thanh toán chung. Cụ thể hơn là tình hình thanh toán bằng tiền mặt trong năm 2000 đã giảm từ 28,4% xuống chỉ còn 27,8% trong năm 2001, còn tỷ trọng của tình hình thanh toán không dùng tiền mặt trong năm 2001 đã chiếm tỷ trọng cao hơn năm 2000 trong tổng thanh toán chung. Điều này chứng tỏ trong nền kinh tế thị trường, các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt đã phát huy được vai trò của mình và có những ưu thế để khách hàng chấp nhận và sử dụng. Thanh toán không dùng tiền mặt chiếm tỷ trọng cao còn chứng tỏ tâm lý muốn dùng tiền mặt để thanh toán đã giảm đáng kể. Thanh toán bằng tiền mặt sẽ mất nhiều thời gian kiểm đếm, chi phí vận chuyển cao lại không an toàn. Trong tương lai, thanh toán không dùng tiền mặt sẽ phát triển hơn nữa và trở thành phương tiện thanh toán thiết yếu của mọi đối tượng, góp phần tăng nhanh đồng vốn của đơn vị cá nhân. Thông qua việc thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt giữa các đơn vị mà ngân hàng kiểm soát được quá trình sử dụng vốn và tình hình tài chính của đơn vị, để từ đó có quyết định đúng đắn cho công việc đầu tư. 2. Tình hình áp dụng các hình thức thanh toán tại NHNo & PTNT Hà Nội: Tình hình áp dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội được thể hiện qua bảng sau: Bảng 3: Tình hình áp dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội qua 2 năm 2000 và 2001: Hình thức Thanh toán Năm 2000 Năm 2001 Số món Số tiền Tỷ lệ (%) Số món Số tiền Tỷ lệ (%) Các loại séc: Séc bảo chi - Séc chuyển khoản 1.416 447 969 1.166 29.922 86.304 0,53 0,13 0,4 3.340 1.068 2.272 273.956 87.666 86.290 1,4 0,45 0,95 3. Uỷ nhiệm chi 17.876 13.565.449 62,4 21.448 8.411.509 42,8 4. Uỷ nhiệm thu 8.802 1.478.304 6,8 10.567 2.356.431 12,1 Doanh số TTKDTM 21.740.176 19.640.775 ( Số liệu bảng trên được lấy từ giao dịch trực tiếp) Mặc dù đã áp dụng nhiều phương pháp an toàn, song khách hàng của HNNo Hà Nội đã sử dụng chủ yếu 4 hình thức thanh toán, đó là: Séc thanh toán, ủy nhiệm chi - chuyển tiền, ngân phiếu thanh toán. Sở dĩ như vậy là do các quy định cụ thể của các hình thức khác nhau và một phần do thói quen mang tính truyền thống của các đơn vị kinh tế, một phần do những tồn tại của chế độ thể lệ thanh toán của chính mỗi hình thức khi sử dụng tác động đến. 2.1. Tình hình thanh toán bằng séc. Séc là một trong những phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt rất hữu hiệu. Nó không những làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông mà còn làm giảm các chi phí phát sinh do phải kiểm đếm một khối lượng lớn tiền mặt trong giao dịch. Mặc dù séc đã được sử dụng khá lâu đời và rộng rãi trên thế giới, song đối với Việt Nam việc thanh toán séc trong tầng lớp dân cư vẫn còn là điều mới mẻ. Để khắc phục được một số vướng mắc trong việc sử dụng séc thanh toán trong điều kiện kinh tế thị trường của Việt Nam; đẩy mạnh tốc độ thanh toán và nâng cao chất lượng phục vụ của các ngân hàng từng bước đưa việc sử dụng séc trở thành phổ biến trong các giao dịch thanh toán nói chung, trong đời sống thường ngày của dân cư nói riêng. Qua khảo sát thực tiễn tình hình thanh toán séc tại NHNo Hà Nội, ta thấy mức thanh toán séc tại ngân hàng đã có xu hướng tăng. - Năm 2000: Tổng số món thanh toán bằng séc là 1416 món, tổng giá trị thanh toán bằng séc là 116.226 triệu đồng. - Năm 2001: Tổng số món thanh toán bằng séc là 3.340 món, tổng giá trị thanh toán bằng séc là 273.956 triệu đồng. 2.2. Tình hình thanh toán bằng ủy nhiệm chi - chuyển tiền: Cùng với việc phát triển của công tác thanh toán không dùng tiền mặt. Hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm chi - chuyển tiền ngày càng được mở rộng và chiếm ưu thế hơn hẳn so với các hình thức thanh toán khác. - Năm 2000: Tổng số thanh toán không dùng tiền mặt 30.071 món trong đó thanh toán bằng ủy nhiệm chi - chuyển tiền là17.876 món (chiếm 59,45%). Doanh số thanh toán không dùng tiền mặt là 21.740.176 triệu đồng thì doanh số ủy nhiệm chi - chuyển tiền là 13.565.449 triệu đồng (chiếm 62,4%). - Năm 2001: Tổng số thanh toán không dùng tiền mặt là 37.561 món, trong đó thanh toán bằng ủy nhiệm chi - chuyển tiền là 21.448 món (chiếm 57,1%). Doanh số thanh toán không dùng tiền mặt là 19.640.775 triệu đồng thì doanh số ủy nhiệm chi - chuyển tiền là 8.411.059 triệu đồng (chiếm 42,8%). 3. Kết quả đạt được của công tác thanh toán không dùng tiền mặt Những năm qua Ngân hàng Nhà nước Trung ương luôn quan tâm đến việc hoàn thiện cơ chế thanh toán cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế. Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt được cải thiện và bổ sung. Vì vậy tình hình thanh toán không dùng tiền mặt ở nước ta đã được cải thiện rõ rệt, tốc độ thanh toán nhanh hơn nhiều so với trước, uy tín của ngân hàng được nâng cao. Nền kinh tế càng phát triển, yêu cầu về công tác thanh toán ngày càng cao. Công tác thanh toán không dùng tiền mặt không chỉ dừng lại ở kết quả đã có mà phải không ngừng cải thiện để vươn lên đạt kết quả cao hơn. Tuy nhiên công tác thanh toán không dùng tiền mặt ở các ngân hàng thương mại còn nhiều vấn đề tồn tại. 4. Hạn chế và nguyên nhân của chúng trong công tác thanh toán không dùng tiền mặt Đánh giá chung công tác thanh toán không dùng tiền mặt hiện còn những tồn tại sau: - Việc kiểm tra mở rộng phạm vi thanh toán trong dân cư rất chậm, các phương tiện thanh toán mới chưa phát huy được hiệu quả, thanh toán bằng tiền mặt ngoài hệ thống vẫn còn khá phổ biến và chiếm tỷ trọng lớn. - Tình trạng kém tin cậy và thiếu an toàn của hệ thống truyền thông quốc gia và khả năng phủ mạng còn hạn chế của hệ thống này là những cản trở đối với chuyển tiến điện tử, đôi khi còn gây ra việc chậm trễ trong việc chuyển tiền từ các ngân hàng vùng sâu, vùng xa đặc biệt là các chi nhánh ngân hàng không có đầy đủ các phương tiện truyền thông hữu hiêụ. - Với cơ chế thanh toán hiện hành, hầu hết các khoản thanh toán liên ngân hàng được thực hiện bằng một tổ hợp thanh toán nội bộ ngân hàng, thanh toán bù trừ và thanh toán liên ngân hàng khiến cho thời gian thanh toán bị kéo dài. - Kiến thức và sự hiểu biết cũng như trình độ của các cán bộ ngân hàng về hiện đại hoá ngân hàng còn hạn chế, đây là những nguyên nhân làm hạn chế tốc độ quá trình hiện đại hoá hệ thống thanh toán. - Cơ sở vật chất - kỹ thuật công nghệ thanh toán mặc dù đã có nhưng chưa phải là công nghệ cao, và chưa rộng khắp toàn quốc. - Môi trường pháp lý còn chưa đảm bảo, nhiều nghị định, thông tư còn chưa phù hợp. Văn bản cao nhất là nghị định của chính phủ đó là nghị định 91 về thanh toán không dùng tiền mặt kèm theo nó là thông tư 22 hướng dẫn thi hành. Để tạo điều kiện cho công tác thanh toán không dùng tiền mặt được phát triển chúng ta nên cho ra đời về luật thanh toán là điều cần thiết và cấp bách. Trên dây là tồn tại và nguyên nhân trong công tác thanh toán không dùng tiền mặt của Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT nói riêng và của hệ thống Ngân hàng thương mại nói chung. - Cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ thanh toán mặc dù đã có nhưng chưa phải là công nghệ cao, chứa rộng khắp toàn quốc. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN THÀNH PHỐ HÀ NỘI. I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT CỦA NHNO & PTNT HÀ NỘI Thực hiện chủ trương đổi mới hoạt động ngân hàng sau khi có 2 Pháp lệnh Ngân hàng, công tác thanh toán không dùng tiền mặt trong thời gian qua đã có sự chuyển biến mạnh mẽ và đáng kể song trong công tác này dù sao cũng mới ở giai đoạn đầu của quá trình hiện đại hóa hệ thống thanh toán. Cơ sở vật chất trang bị cho hệ thống thanh toán của chúng ta còn quá non kém, các cơ sở hạ tầng viễn thông cho hệ thống thông tin cũng như hệ thống máy móc xử lý của các trung tâm dữ liệu và tập trung xử lý chuyển mạch hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu, khả năng về vốn để đầu tư thiết bị cho lĩnh vực này kể cả vốn ngân hàng thế giới cho vay còn quá hạn hẹp so với yêu cầu trang bị..(50 triệu USD). Để triển khai thực hiện chiến lược hiện đại hóa của Đảng vào ngành Ngân hàng và để từng bước hòa nhập với hệ thống thanh toán theo thông lệ các nước trên khu vực và trên thế giới, ngành Ngân hàng cần có những giải pháp để thực hiện việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán: - Tiếp tục nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện các văn bản hướng dẫn về việc thanh toán không dùng tiền mặt cho các chi nhánh ngân hàng trực thuộc, nhất là các văn bản liên quan đến chứng từ điện tử, thẻ thanh toán và máy ATM, các quy chế về bảo mật, bảo đảm an toàn trong quá trình thanh toán, các quy trình kỹ thuật nghiệp vụ liên quan đến thanh toán điện tử. - Tập trung vốn cho việc trang bị máy móc hiện đại và công nghệ tiên tiến cho lĩnh vực thanh toán. Xây dựng phần mềm cho việc xử lý nghiệp vụ thanh toán và bảo mật trong thanh toán phù hợp với đặc thù của nước ta. Từ đó xây dựng các trung tâm thanh toán tập trung và trung tâm xử lý dữ liệu của ngành ngân hàng phục vụ cho hoạt động thanh toán hiện đại. - Mở rộng phạm vi thanh toán séc ra ngoài địa bàn tỉnh, thành phố và khác hệ thống ngân hàng thương mại để khắc phục sự hạn chế, bế tắc phạm vi sử dụng séc như hiện nay, tiến tới thực hiện thanh toán bù trừqua hệ thống Ngân hàng Nhà nước trong phạm vi toàn quốc. II.MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 1. Phát triển mở tài khoản tiền gửi thanh toán Để mở rộng tài khoản cá nhân, các ngân hàng thương mại cần phải nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn trong dân cư. Việc mở tài khoản cá nhân thì hầu hết các doanh nghiệp đều có nhưng chưa phát triển mạnh ở bộ phận dân cư. Ngân hàng cần có các hoạt động kinh doanh, linh hoạt nhằm thu hút khách hàng tới mở tài khoản cá nhân. Để làm tốt việc này, ngân hàng cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động rộng rãi trên toàn quốc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt và sử dụngtài khoản tiền gửi cá nhân. Bên cạnh đó, ngân hàng phải đơn giản về thủ tục mở tài khoản và có cơ chế lãi suất hợp lý. Ngân hàng đã có sẵn mối quan hệ với khách hàng thông qua tiền gửi tiết kiệm, đây là điều kiện thuận lợi để khuyến khích khách hàng chuyển đổi sang tài khoản cá nhân. Việc này sẽ giúp cho khách hàng có khả năng tận dụng các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt. Điều đó không những làm cho ngân hàng thắng lợi trong cạnh tranh, trong huy động vốn mà còn đạt được nhiều mục tiêu khác như đề án mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt trong lưu thông, kiềm chế lạm phát.. Ngoài ra các phương pháp tuyên truyền vận động, quảng cáo, khuyến khích khách hàng, các ngân hàng còn phải thực hiện như về tổ chức, về công nghệ... 2. Đổi mới về công nghệ thanh toán - Đầu tư trang bị và nâng cấp kỹ thuật, từng bước tự động hóa các dây chuyền công nghệ thanh toán, gắn hệ thống hạch toán kế toán với kế toán trên cơ sở phát triển những phần mềm ứng dụng tiên tiến để đảm bảo sự chính xác, nhanh nhạy và an toàn số liệu trong các dịch vụ thanh toán. Tranh thủ ứng dụng các phương thức thanh toán trong dân cư như hình thức dùng thẻ nhựa, thanh toán qua máy POS.. tạo thành thói quen không dùng tiền mặt trong dân cư bằng các phương tiện hiện đại. Phát triển ở mức cần thiết các công cụ thanh toán mang tính truyền thống, tranh thủ áp dụng kỹ thuật hiện đại của thế giới để phát triển các công cụ thanh toán hiện đại. - Trang bị kiến thức tin học các cán bộ ngân hàng và tuyên truyền khuyến khích phát triển những ứng dụng công nghệ mới trong dân cư để khai thác có hiệu quả nhất những phương tiện kỹ thuật tiên tiến, nhanh chóng tiếp cận với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. - Thiết kế hệ thống thanh toán đồng bộ, thống nhất liên các ngân hàng ở nhiều giác ngộ, kỹ thuật cũng như các tiêu chuẩn hóa để tránh được những khó khăn kết nối hệ thống kỹ thuật và hạn chế tối đa rủi ro có thể xảy ra do thiếu thống nhất về các tiêu chuẩn kỹ thuật. III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 1. Kiến nghị đối với Ngân hàng NHNo & PTNT Việt Nam - Cần nhanh chóng tin học hóa công tác thanh toán, coi đây là nhiệm vụ sống còn đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong những năm tới tạo tiền đề cho việc hòa nhập với các hoạt động ngân hàng trong khu vực. - Coi trọng việc đào tạo nâng cao trình độ, phẩm chất đội ngũ cán bộ làm công tác kế toán, thanh toán, nhất là đào tạo các ứng dụng tin học, coi đây là yếu tố quyết định cho mọi thành công của Ngân hàng Nông nghiệp. - Tập trung sức lực nhanh chóng đưa ứng dụng tin học vào công tác kế toán, chuẩn hóa chương trình kế toán giao dịch trực tiếp toàn hệ thống, trang bị đủ máy tính cho các chi nhánh giao dịch, có kế hoạch thanh lý số máy đời cũ đã hết khấu hao. Xúc tiến triển khai chương trình kế toán khách hàng trên cơ sở dữ liệu ORACLE, hệ điều hành UNIX, WINDOWNT. - Áp dụng một số dịch vụ thanh toán mới như séc du lịch, ATM, thẻ thanh toán, thí điểm gửi tiền một nơi, lĩnh nhiều nơi. - Đào tạo cho đội ngũ cán bộ tại trung tâm tin học về hệ điều hành UNIX, hệ quản trị cơ sở dữ liệu ORACLE, tiếng Anh chuyên ngành về cơ bản và nâng cao. Đào tạo cho các chi nhánh về hệ thống ứng dụg hiện tại của NHNo và ít nhất có một cán bộ được đào tạo bảo trì thiết bị tại chỗ. - Cùng với việc xử lý sự cố máy tính năm 2000, kiểm tra lại toàn bộ hệ thống thiết bị tin học trong toàn hệ thống nhằm xác định thống nhất phương thức đầu tư, nâng cấp, thay thế toàn bộ thiết bị tin học bị ảnh hưởng sự cố này. Xây dựng chiến lược đầu tư thiết bị phù hợp với việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán và hiện đại hóa nghiệp vụ ngân hàng. Việc xây dựng chiến lược đầu tư thiết bị theo các nguyên tắc. - Tiếp tục xây dựng mạng vi tính cục bộ tại các chi nhánh ngân hàng tạo tiền đề xây dựng mạng tập trung. Trước hết đề nghị cải tiến, thay thế chứng từ thủ công bằng chứng từ điện tử. - Quy định về mẫu chứng từ, các hệ thống thanh toán lưu trữ chứng từ, việc hạch toán và điều chuyển vốn trong hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam, mã chi nhánh, tính bảo mật và xử lý thông tin, vấn đề thanh quyết toán nội bộ. 2.Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Để đảm bảo tính phù hợp giữa yêu cầu hiện đại hóa hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt với khả năng thực tế ở nước ta trong lĩnh vực thanh toán, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần nâng cao và mở rộng hơn nữa vị thế thanh toán bằng séc bằng cách nghiên cứu áp dụng từng bước các thành tựu tổ chức thanh toán bằng séc của khu vực và quốc tế. - Ngân hàng Nhà nước cần sớm nghiên cứu ứng dụng, đẩy nhanh tốc độ hiện đại hóa công nghệ thanh toán ngân hàng, thực hiện việc nối mạng giữa các ngân hàng, tổ chức tín dụng trong và ngoài hệ thống với nhau và với Ngân hàng Nhà nước để thực hiện thanh toán bù trừ toàn quốc qua Ngân hàng Nhà nước hoặc thanh toán trực tiếp giữa các tổ chức tín dụng với nhau. Muốn vậy cần có đơn vị chức năng cho lĩnh vực tổ chức và quản lý thanh toán. - Hoàn thiện các văn bản pháp lý về phát hành và sử dụng thẻ thanh toán cũng như việc thanh toán thông qua các chứng từ điện tử. 3. Kiến nghị đối với Nhà nước - Về môi trường pháp chế cho thị trường thẻ và séc cần được khẩn trương hoàn thiện bảo vệ sự phát triển an toàn, hiệu quả, phát huy ưu thế, tiềm lực, tính năng của các ngân hàng trong định hướng chiến lược phát triển dịch vụ mới hiện đại. - Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích vốn đầu tư và thuế cho các ngân hàng trong thời gian đầu thực hiện các dự án hiện đại hóa hệ thống ngân hàng như trung tâm thanh toán thẻ, séc và hồi phiếu thương mại. KẾT LUẬN Đi kèm với phát triển kinh tế là sự phát triển giao dịch mang tính chất thương mại, mà kết quả là dẫn đến sự gia tăng trong lĩnh vực thanh toán. Sự phát triển kinh tế không bao giờ ngừng cho nên nhu cầu về thanh toán cũng không ngừng tăng mãi, theo đó là công tác thanh toán không dùng tiền mặt của Ngân hàng không thể rút khỏi việc đổi mới mà ngược lại là đổi mới liên tục để đáp ứng yêu cầu đa dạng, phức tạp hiện nay. Bởi vậy tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hình thức thanh toán, nhằm làm cơ chế thanh toán trở nên sôi động hơn vẫn là công việc mà ngân hàng đang và sẽ làm. Thanh toán không dùng tiền mặt là hình thức thanh toán Ngân hàng, nó là một trong ba chắc năng của Ngân hàng : tiền tệ - tín dụng - thanh toán. Thanh toán không dùng tiền mặt là hình thức chủ yếu của Ngân hàng có vai trò vô cùng to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của ngành ngân hàng nói riêng. Đặc biệt việc mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt vào khu vực dân cư là chiến lược hết sức đúng đắn nhằm mục đích đạt sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế bằng nguồn vốn trong nước. Các Ngân hàng thương mại đã không ngừng khuyến khích tư nhân cá nhân mở tài khoản tiền gửi tạo điều kiện tiền đề cho việc mở rộng hơn nữa các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong đời sống kinh tế xã hội. Tuy bước đầu gặp không ít những thiếu sót khó khăn song để khắc phục những điều đó cần phải đưa ra những chính sách và biện pháp phát huy những vai trò của nó nhằm khuyến khích động viên các tổ chức kinh tế và dân chúng sử dụng các hình thức và dịch vụ thanh toán của Ngân hàng. Đạt được những điều trên đây là chủ trương đường lối của chính phủ và của ngành Ngân hàng đề ra nhằm tận dụng tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. Nhằm phát huy hết vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt. Qua quá trình học tập tại nhà trường và sau thời gian thực tập thực tế tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội em đã tiếp thu được những kiến thức lý luận cơ bản và những kinh nghiệm trong thực tế nhất định. Với trình độ hạn chế của mình và thời gian tìm hiểu chưa nhiều về thực tế nên chuyên đề của em chỉ đề cập tới một số vấn đề chung về thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội. Những kết quả mà Ngân hàng đạt được trong năm qua và một vài khiếm khuyết trong việc áp dụng công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội nói riêng và hệ thống ngân hàng nông nghiệp Việt Nam nói chung. Những vấn đề nêu trên sẽ còn nhiều điểm thiếu sót thiếu tính khoa học thực tiễn song em hy vọng nó đề cập đến những vấn đề cấp bách hiện nay cần được nghiên cứu và giải quyết kịp thời góp phần vào sự nghiệp đổi mới của ngành Ngân hàng. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, anh chị em phòng kế toán công tác tại Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn thành phố Hà Nội đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. MỤC LỤC XÁC NHẬN CỦA PHÒNG KẾ TOÁN XÁC NHẬN CỦA BAN GIÁM ĐỐC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC1769.DOC
Tài liệu liên quan