Tài liệu Đề tài Một số giải pháp phát triển loại hình City Tour ở thành phố Hồ Chí Minh: MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu ………………………………………………………………………………………………………………………… 1
Chương I: Cơ sở lý luận về du lịch và City tour ……………………………………………………………. 3
1.1 Cơ sở lý luận về du lịch ……………………………………………………………………………………..…… 3
1.1.1 Bàn về thuật ngữ “du lịch” ………………. …………………………………………………………… 3
1.1.2 Khái niệm “khách du lịch” ……………………………………………………………………………. 3
1.1.3 Khái niệm “sản phẩm du lịch” ……………………………………………………………………… 4
1.1.4 Xu hướng phát triển của du lịch trong tương lai ……………………………………………. 5
1.1.5 Tác động của du lịch đến kinh tế - xã hội ……………………………………………………… 6
1.1.6 Ý nghĩa kinh tế, nhân văn của việc phát triển du lịch ……………………………………. 6
1.2 Cơ sở lý luận về City tour ………………………………………………………………………………………. 8
1.2.1 Khái niệm và vai trò của City tour trong du lịch …………………………………………... 8
1.2.2 Đối tượng khách của City Tour ……………………………………………………………………... 8
1.3 Kinh nghiệm tổ chức City tour của một số thành phố trong khu vực …………………….. 8
1.3.1 Malacca - Malaysia ………………………...
64 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1712 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp phát triển loại hình City Tour ở thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu ………………………………………………………………………………………………………………………… 1
Chương I: Cơ sở lý luận về du lịch và City tour ……………………………………………………………. 3
1.1 Cơ sở lý luận về du lịch ……………………………………………………………………………………..…… 3
1.1.1 Bàn về thuật ngữ “du lịch” ………………. …………………………………………………………… 3
1.1.2 Khái niệm “khách du lịch” ……………………………………………………………………………. 3
1.1.3 Khái niệm “sản phẩm du lịch” ……………………………………………………………………… 4
1.1.4 Xu hướng phát triển của du lịch trong tương lai ……………………………………………. 5
1.1.5 Tác động của du lịch đến kinh tế - xã hội ……………………………………………………… 6
1.1.6 Ý nghĩa kinh tế, nhân văn của việc phát triển du lịch ……………………………………. 6
1.2 Cơ sở lý luận về City tour ………………………………………………………………………………………. 8
1.2.1 Khái niệm và vai trò của City tour trong du lịch …………………………………………... 8
1.2.2 Đối tượng khách của City Tour ……………………………………………………………………... 8
1.3 Kinh nghiệm tổ chức City tour của một số thành phố trong khu vực …………………….. 8
1.3.1 Malacca - Malaysia …………………………………………………………………………………………. 9
1.3.2 Bangkok – Thái Lan ………………………………………………………………………………………... 9
1.3.3 Singapore……………………………………………………………………………………………………..…… 9
Kết luận chương I …………………………………………………………………………………………………………….. 11
Chương II: Thực trạng hoạt động của loai hình City tour ở TP.HCM hiện nay ……... 12
2.1 Khái quát về du lịch Việt Nam ……………………………………………………………………………... 12
2.2 Tiềm năng để phát triển du lịch ở TP.HCM …………………………………………………………. 13
2.2.1. Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm đa văn hóa ……………………………… 13
2.2.2. Thành phố Hồ Chí Minh với nhiều điểm tham quan không thể bỏ qua ……... 13
2.2.3. Thành phố với nhiều dịch vụ vui chơi – giải trí …………………………………………. 14
2.2.4. Ẩm thực Sài Gòn ………………………………………………………………………………………… 14
2.2.5. Mua sắm ……………………………………………………………………………………………………… 15
2.2.6. Khách sạn ……………………………………………………………………………………………………. 15
2.2.7. Lữ hành ……………………………………………………………………………………………………….. 16
2.2.8. Thành phố thuận tiện cho việc khám phá vùng phụ cận …………………………….. 16
2.3 Kết quả hoạt động của ngành du lịch thành phố trong vài năm gần đây …………..……17
2.3.1 Số lượng khách đến TP.HCM …………………………………………………………………….. 17
2.3.2 Doanh thu …………………………………………………………………………………………………….. 18
2.3.3 Thời gian lưu trú ……………………………………………………………………………………………19
2.3.4 Chi tiêu bình quân khách du lịch …………………………………………………………………. 19
2.4 Thực trạng hoạt động City tour ở TP.HCM hiện nay …………………………………………… 19
2.4.1 Hoạt động kinh doanh City tour của một số công ty du lịch tại TP.HCM ……19
2.4.2 Đánh giá dịch vụ CityLook của Global MaiLinh Travel …………………………… 20
2.4.3 Đánh giá tác động của các yếu tố bên ngoài đến hoạt động City tour ………… 22
2.4.4 Đánh giá tác động của các yếu tố bên trong đến hoạt động City tour …………. 27
2.4.5 Đánh giá SWOT về City tour TP.HCM ………………………………………………………. 29
Kết luận chương II …………………………………………………………………………………………………………... 31
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị ……………………………………………………………………….. 32
3.1 Mục đích xây dựng các giải pháp …………………………………………………………………………. 32
3.2 Căn cứ xây dựng giải pháp …………………………………………………………………………………… 32
3.3 Một số giải pháp phát triển loại hình City tour TP.HCM ……………………………………... 34
3.3.1 Nghiên cứu thị trường và chọn lựa thị trường mục tiêu ………………………… 34
3.3.2 Củng cố và đa dạng hóa sản phẩm City tour thành phố ……………………….…35
3.3.3 Cải thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ ……………………………………………… 37
3.3.4 Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến và quảng bá ……………………………………………. 40
3.3.5 Giải pháp về nguồn vốn ………………………………………………………………………… 43
3.3.6 Mô hình phát triển City tour ở TP.HCM ……………………………………………….. 43
3.4 Một số kiến nghị của nhóm đối với các cơ quan quản lý ….………………………………….. 46
3.4.1 Một số kiến nghị với Ủy Ban Nhân Dân TP.HCM ……………………………….. 46
3.4.2 Môt số kiến nghị với Sở Du lịch TP.HCM ……………………………………………. 46
3.4.3 Một số kiến nghị với Hiệp Hội Du lịch TP.HCM …………………………………. 47
3.4.4 Kiến nghị với các công ty du lịch …………………………………………………………. 47
Kết luận chương III …………………………………………………………………………………………………………... 49
Kết luận ………………………………………………………………………………………………………………………………….. 50
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục
DANH MỤC BẢNG BIỂU
-------------------------
Bảng 2.1 Số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam (nghìn lượt) ………………………. 13
Bảng 2.2. Lượt khách quốc tế đến TP.HCM ………………………………………………………………. 17
Bảng 2.3. Khách du lịch trong nước do ngành du lịch phục vụ.………………………………….. 18
Bảng 2.4 Doanh thu ngành du lịch TP.HCM (tỷ đồng) ………………………………………………..18
LỜI MỞ ĐẦU
Ý nghĩa của đề tài: Trong xu thế phát triển ngày nay, du lịch trở thành một trong những ngành
được Đảng và Nhà nước lựa chọn là ngành kinh tế mũi nhọn. Đặc biệt, khi đời sống vật chất và
tinh thần của con người ngày càng được nâng cao thì nhu cầu du lịch ngày càng gia tăng. Đây
thật sự là một biểu hiệu đáng mừng đối với du lịch cả nước nói chung và du lịch TP.HCM nói
riêng.
Hơn 300 năm hình thành và phát triển, TP.HCM được vinh danh là “hòn ngọc viễn
đông” và thật sự “hòn ngọc” này đang tỏa sáng, trở thành trung tâm du lịch lớn của cả nước với
nhiều loại hình du lịch phong phú như MICE, Carnavan, các loại hình du lịch truyền thống như
du lịch văn hóa, nghỉ dưỡng, mua sắm, du lịch sinh thái... đặc biệt là loại hình City tour đã góp
phần quan trọng trong việc quảng bá hình ảnh thành phố đến bạn bè khắp nơi trên thế giới. Tuy
nhiên, nếu so sánh City tour của TP.HCM với City tour của các thành phố lớn trong nước như
Đà Nẵng hay trong khu vực như Pattaya, Bangkok của Thái Lan hoặc thủ đô Singapore và
Malacca của Malaysia thì kết quả này vẫn còn chưa tương xứng với tiềm năng to lớn của
TP.HCM do chưa được quan tâm đúng mức và khai thác hiệu quả.
Mặc dù đã có khá nhiều đề tài nghiên cứu về du lịch TP.HCM và bước đầu đạt được
những kết quả khả quan nhưng chưa có nhiều đề tài thật sự đi sâu vào nghiên cứu loại hình
City tour. Và thực trạng đáng quan tâm hiện nay là lượng du khách đến tham quan thành phố
có tăng, nhưng lượng khách trở lại rất thấp. Chúng ta đang loay hoay trong cách làm du lịch
“ăn xổi ở thì”. Do đó, việc nghiên cứu về City tour thành phố vào thời điểm này là vô cùng cần
thiết. Trước nhiều cơ hội và thách thức mới cũng như những thuận lợi và khó khăn tác động
đến họat động kinh doanh City tour của thành phố, nhóm bắt tay thực hiện nghiên cứu đề tài
“Một số giải pháp phát triển loại hình City Tour ở TP.HCM”.
Mục đích nghiên cứu: Đề tài này phân tích, đánh giá các dữ liệu thứ cấp và sơ cấp, hướng đến
việc tìm ra những giải pháp mang tính thực tiễn để ứng dụng vào thực tế nhằm tăng sức hút,
khả năng cạnh tranh của City tour trong các sản phẩm du lịch hiện nay; đồng thời khai thác và
bảo tồn hiệu quả các tiềm năng du lịch hiện có của TP.HCM để thu hút khách đến và trở lại
thành phố năng động và xinh đẹp này. Cụ thể:
Tìm ra một số giải pháp để cải thiện thực trạng hoạt dộng của city tour hiện nay bằng
cách khai thác các tiềm năng du lịch hiện có của thành phố.
Đưa ra một số giải pháp phát triển loại hình City tour mà thành phố có thể khai thác
nhằm đa dạng và làm mới các chương trình của City tour truyền thống để gia tăng sức thu hút
đối với du khách trong và ngoài nước.
Xây dựng City tour trở thành một thương hiệu mạnh, một loại hình du lịch độc đáo
của TP. HCM.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: trong phạm vi đề tài này, nhóm xác định đối tượng nghiên cứu là
du khách trong và ngoài nước về nhu cầu, thị hiếu, sở thích du lịch của họ. Đồng thời, nhóm
cũng cần đến sự hỗ trợ của các đơn vị đang quản lý cũng như khai thác loại hình city tour hiện
nay.
Về không gian, phạm vi nghiên cứu được giới hạn trên địa bàn thành phố HCM, và có
sự so sánh với một số thành phố khác trong khu vực: Bangkok (Thái Lan), Malacca (Malaysia),
Singapore. Đề tài sử dụng số liệu thống kê trong khoảng 10 năm gần đây.
Phương pháp nghiên cứu: Với tính chất là một đề tài thuộc nhóm ngành kinh tế - xã hội,
nhóm vận dụng đồng thời nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng.
o Nguồn thông tin thứ cấp: tài liệu, số liệu thống kê và bảng báo cáo kết quả hoạt động
của ngành du lịch thành phố, kết quả khai thác loại hình City tour trong 5 năm vừa qua. Những
dữ liệu này được khai thác từ Sở Du lịch, các bài viết của các chuyên gia trên các báo, phương
tiện truyền thông của ngành.
o Nguồn thông tin sơ cấp: kết quả điều tra, phỏng vấn du khách bằng bảng câu hỏi.
Trên cơ sở thống kê các thông tin cần tìm kiếm cũng như có thể phục vu cho bài nghiên cứu,
nhóm thiết kế một bảng câu hỏi bao gồm những câu hỏi định tính và những câu hỏi định lượng.
Các câu hỏi định lượng được tập trung vào thang định danh và thang đo khoảng (thang Likert).
Mẫu nghiên cứu
o Cỡ mẫu: 120
o Cơ cấu: Khách quốc tế 60
Khách nội địa 60
Phương pháp thu thập dữ liệu: khảo sát, phỏng vấn trực tiếp du khách, công ty, đơn vị
sự nghiệp để lấy thông tin sơ cấp; sử dụng các công cụ hỗ trợ như Internet, máy tính để thu
thập thông tin thứ cấp từ các sở, các hiệp hội, các công ty ở TP.HCM.
Phương pháp xử lý thông tin: phương pháp tổng hợp và xử lý bằng chương trình
Microsoft Excel, so sánh kết quả hoạt động của các năm rồi đi đến kết luận. Phương pháp quy
nạp: tổng kết kết quả điều tra thực tế.
Phương pháp phân tích thống kê dựa trên cơ sở các số liệu, dữ liệu, các yếu tố tác động
vào môi trường hoạt động của du lịch thành phố và loại hình city tour mà nhóm đã thu thập.
Tính mới của đề tài
Đề tài cập nhật những thông tin, số liệu mới, mang lại những giải pháp mới phù hợp với tình
hình hiện nay, khắc phục được một số hạn chế của các đề tài về du lịch TP.HCM trước đó.
Đề tài nghiên cứu chuyên sâu về City tour và có những giải pháp cụ thể, vừa làm mới được
City tour, vừa góp phần làm tăng sức cạnh tranh của các loại hình du lịch tại thành phố và các
vùng lân cận khác.
Bố cục: đề tài được chia thành ba chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về du lịch và City tour
Chương II: Thực trạng hoạt động của loai hình City tour ở TP.HCM hiện nay
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị
1.1 Cơ sở lý luận về du lịch
1.1.1 Bàn về thuật ngữ “du lịch”
Du lịch là một ngành kinh tế đã hình thành và phát triển khá lâu đời trên thế giới, tuy
nhiên, vẫn chưa có một khái niệm thống nhất nào giữa các quốc gia, các khu vực trên thế giới
về thuật ngữ “du lịch”. Dựa theo Giáo trình kinh tế Du lịch của trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân
do GS.TS Nguyễn Văn Đính và PGS.TS Trần Thị Minh Hòa đồng chủ biên, NXB ĐH Kinh Tế
Quốc Dân xuất bản năm 2008, chúng ta có thể thấy một số khái niệm về du lịch cả trong nước
và trên thế giới như sau:
Trên thế giới, đinh nghĩa về du lịch của Hội Nghị quốc tế về thống kê du lịch ở Otawa,
Canada (6/1991): “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường thường
xuyên (nơi ở thường xuyên của mình) trong một khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã
được các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của chuyến đi không phải là để tiến hành
kiếm tiền trong phạm vi vùng tới thăm”.
Trong định nghĩa này có 3 điểm cần chú ý. Thứ nhất, “môi trường thường xuyên” có nghĩa là
là loại trừ các chuyến đi trong phạm vi nơi ở thường xuyên và các chuyến đi có tổ chức thường
xuyên hàng ngày. Thứ hai, “khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức du
lịch quy định trước”, sự quy định này nhằm loại trừ di cư trong một thời gian dài. Thứ ba,
“không phải là tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng tới thăm”, để loại trừ
trường hợp hành nghề lâu dài hay tạm thời.
Theo quan niệm đầy đủ về góc độ kinh tế và kinh doanh của du lịch, Khoa Du lịch và
khách sạn (Trường ĐH Kinh tế quốc dân Hà Nội) đã đưa ra định nghĩa trên cơ sở tổng hợp
những lý luận và thực tiễn của hoạt động du lịch trên thế giới và Việt Nam trong những năm
gần đây: “Du lịch là một trong những ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động tổ chức hướng
dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hoá và dịch vụ của những doanh nghiệp, nhằm đáp ứng nhu
cầu về đi lại, lưu trú, ăn uống, tham quan, giải trí, tìm hiểu và nhu cầu khác của khách du lịch.
Các hoạt động đó phải đem lại những lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội thiết thực cho nước làm
du lịch và bản thân doanh nghiệp”.
Trong Pháp lệnh Du lịch của Việt Nam, tại điều 10, thuật ngữ “du lịch” được hiểu như
sau: “Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu
tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định".
Như vậy, du lịch là một hoạt động có nhiều đặc thù, nhiều thành phần tham gia, tạo thành một
tổng thể hết sức phức tạp. Nó vừa mang đặc điểm của ngành kinh tế, vừa có đặc điểm của
ngành văn hóa – xã hội.
1.1.2 Khái niệm “khách du lịch”
Định nghĩa của quốc tế về Khách du lịch:
Ngày 4/3/1993, theo đề nghị của Tồ chức Du lịch thế giới, Hội đồng thống kê Liên Hiệp Quốc
đã công nhận những thuật ngữ sau để thống nhất việc soạn thảo thống kê du lịch:
Khách du lịch quốc tế (International tourist):
Khách du lịch quốc tế đến (Inbound tourist): bao gồm những người khách từ nước
ngoài đến du lịch một quốc gia.
Khách du lịch quốc tế ra nước ngoài (Outbound tourist): gồm những người đang sống
trong một quốc gia đi du lịch nước ngoài.
Khách du lịch trong nước (Internal tourist): gồm những người là công dân của một
quốc gia và người nước ngoài đang sống trên lãnh thổ của quốc gia đó đi du lịch trong nước.
Khách du lịch nội địa (Domestic tourist): bao gồm khách du lịch trong nước và khách
quốc tế đến. Đây là thi trường cho các cơ sở lưu trú và các nguồn thu hút du khách trong một
quốc gia.
Khách du lịch quốc gia (National tourist): bao gồm khách du lịch trong nước và khách
quốc tế ra nước ngoài. Đây là thị trường cho các đại lý lữ hành và các hãng hàng không.
Xét một cách tổng quát, khách du lịch có đặc điểm nổi bật như sau: Khách du lịch phải là
người khởi hành rời khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình (ở đây, tiêu chí quốc tịch không
quan trọng, mà là tiêu chí nơi ở thường xuyên). Khách du lịch có thể khởi hành với nhiều mục
đích khác nhau loại trừ mục đích lao động kiếm tiền ở nơi đến.
Những người sau đây không được xem là khách du lịch: Những người đi học, những người di
cư, tị nạn, những người làm việc tại các đại sứ quán, lãnh sự quán. Những người thuộc lực
lượng bảo an của LHQ và một số đối tượng khác.
Định nghĩa về khách du lịch của Việt Nam:
Trong pháp lệnh Du lịch của Việt Nam năm 1999, quy định:
Tại điểm 2, điều 10, chương I: “Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du
lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến”.
Tại điều 20, chương IV: “Khách du lịch bao gồm khách du lịch nội địa và khách du lịch
quốc tế”.
“Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam và người nước ngoài cư trú tại Việt Nam
đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam”.
“Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào
Việt Nam du lịch và công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam ra nước ngoài
du lịch”.
1.1.3 Khái niệm “sản phẩm du lịch”
Khái niệm: sản phẩm du lịch là các dịch vụ, hàng hóa cung cấp cho du khách, được tạo
nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc sử dụng các nguồn
lực: cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động tại một cơ sở, một vùng hay một quốc gia nào đó.
Các yếu tố hợp thành sản phẩm du lịch:
Sản phẩm du lịch bao gồm yếu tố vô hình và yếu tố hữu hình. Yếu tố hữu hình là hàng hóa,
yếu tố vô hình là dịch vụ.
Xét theo quá trình tiêu dùng của khách du lịch trên chuyến hành trình du lịch thì chúng ta có
thể tổng hợp các thành phần của sản phẩm du lịch theo các nhóm cơ bản sau:
Dịch vụ vận chuyển, dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống,
Dịch vụ tham quan, giải trí,
Hàng hóa tiêu dùng và đồ lưu niệm,
Các dịch vụ khác phục vụ khách du lịch.
Các nét đặc trưng cơ bản của sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch về cơ bản là không cụ thể, không tồn tại dưới dạng vật thể. Thành
phần chính của sản phẩm du lịch là dịch vụ (thường chiếm 80-90% về mặt giá trị), hàng hóa
chiếm tỉ trọng nhỏ. Do vậy, việc đánh giá chất lượng sản phẩm du lịch rất khó khăn, vì thường
mang tính chủ quan và phần lớn không phụ thuộc vào người kinh doanh mà phụ thuộc vào
khách du lịch. Chất lượng sản phẩm du lịch được xác định dựa vào sự chênh lệch giữa mức độ
kì vọng và mức độ cảm nhận của khách về chất lượng sản phẩm du lịch.
Sản phẩm du lịch thường được tạo ra gắn liền với các yếu tố tài nguyên du lịch. Do vậy,
sản phẩm du lịch không thể dịch chuyển được. Trên thực tế, không thể đưa sản phẩm du lịch
đến nơi có khách du lịch mà bắt buộc khách du lịch phải đến nơi có sản phẩm du lịch để thỏa
mãn nhu cầu của mình thông qua việc tiêu dùng sản phẩm du lịch.
Đặc điểm này của sản phẩm du lịch là một trong những nguyên nhân gây khó khăn cho các
nhà kinh doanh du lịch trong việc tiêu thụ sản phẩm du lịch.
Phần lớn quá trình tạo ra và tiêu dùng sản phẩm du lịch trùng nhau về thời gian và
không gian. Chúng không thể được cất đi, tồn kho như các hàng hóa thông thường khác. Do
vậy, để tạo sự ăn khớp giữa sản xuất về tiêu dùng là rất khó khăn. Việc thu hút khách du lịch
nhằm tiêu thụ sản phẩm du lịch là vấn đề vô cùng quan trọng đối với các nhà kinh doanh du
lịch.
Việc tiêu dùng sản phẩm du lịch thường không diễn ra đều đặn mà có thể chỉ tập trung
vào những thời gian nhất định trong ngày (đối với sản phẩm ở bộ phận nhà hàng), trong tuần
(đối với sản phẩm của thể loại du lịch cuối tuần), trong năm (đối với sản phẩm của một số loại
hình như: du lịch nghỉ biển, du lịch nghỉ núi…)
Vì vậy, trên thực tế, hoạt động kinh doanh du lịch thường mang tính mùa vụ. Sự dao động về
thời gian trong tiêu dùng du lịch gây khó khăn cho việc tổ chức hoạt động kinh doanh và từ đó
ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của nhà kinh doanh du lịch. Khắc phục tính mùa vụ trong
kinh doanh du lịch luôn là vấn đề trăn trở cả về mặt thực tiễn cũng như về mặt lý luận.
1.1.4 Xu hướng phát triển du lịch trong tương lai
Xu hướng phát triển của cầu du lịch
Du lịch đang và sẽ trở thành nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống của con người vì đời sống
người dân ngày càng được cải thiện. Ở các nước có nền kinh tế phát triển, du lịch trở thành tiêu
chuẩn đánh giá mức sống và chất lượng cuộc sống của các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Sự thay đổi về hướng và về phân bố của luồng khách du lịch quốc tế: việc quần chúng
hóa trong hoạt động du lịch và khả năng đi du lịch xa hơn kéo theo nhiều biến đổi trong hướng
vận động của khách là khắp trên toàn cầu.
Khu vực Đông Nam Á - Thái Bình Dương có tốc độ phát triển của ngành du lịch cao hơn rất
nhiều so với tốc độ phát triển trung bình của toàn ngành du lịch trên thế giới.
Sự thay đổi trong cơ cấu chi tiêu của khách du lịch: những năm trước đây, tỷ trọng chi
tiêu của khách du lịch cơ bản (ăn, ở, vận chuyển) chiếm phần lớn. Hiện nay thì tỷ trọng chi tiêu
của khách cho dịch vụ bổ sung (mua sắm hàng hóa, đồ lưu niệm; tham quan, giải trí) tăng lên.
Sự thay đổi trong hình thức tổ chức chuyến đi của khách du lịch: khách chỉ sử dụng một
phần dịch vụ các tổ chức kinh doanh mà không mua chương trình du lịch trọn gói.
Sự hình thành các nhóm khách theo độ tuổi: khách du lịch là học sinh, sinh viên; khách
du lịch là người trong độ tuổi lao động và khách cao tuổi.
Sự gia tăng các điểm đến du lịch trong một chuyến đi du lịch: trong những năm gần đây
khách có xu hướng đi nhiều nước, thăm nhiều điểm du lịch trong chuyến đi du lịch của mình.
Xu hướng phát triển hướng phát triển của cung du lịch:
Đa dạng hóa sản phẩm du lịch: do sự cạnh tranh để thu hút khách du lịch nên các quốc gia
phát triển du lịch đưa ra thị trường nhiều sản phẩm du lịch độc đáo và mang cả bản sắc văn hóa
riêng của riêng mình.
Phát triển hệ thống bán sản phẩm du lịch: bán các chương trình đi du lịch đến tận nhà, qua
mạng Internet, các doanh nghiệp tổ chức đón khách từ nước thứ ba ngày càng được khẳng định.
Tăng cường hoạt động truyền thông trong du lịch: công nghệ thông tin ngày càng phát
triển, khách du lịch có thói quen đến nơi mà họ được nghe và xem quảng cáo nhiều, do đó vai
trò của hoạt dộng tuyên truyền và quảng cáo trong du lịch quốc tế ngày càng được nâng cao.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa trong du lịch: đội ngũ lao động có kiến thức
chuyên sâu, hiểu biết rộng; ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ phục vụ từng lĩnh vực ngày
càng được cải tiến và nâng cao, đi vào chuyên môn hóa ngành nghề.
Đẩy mạnh quá trình khu vực hóa, quốc tế hóa: các tuyến du lịch giữa các nước được gắn
kết với nhau đáp ứng nhu cầu đi du lịch nhiều nước trong chuyến hành trình của khách. Sản
phẩm và dịch vụ du lịch đã được quốc tế hóa cao.
Hạn chế tính thời vụ trong du lịch: các quốc gia có xu hướng giảm tới mức tối thiểu các
thủ tục: thị thực, hải quan… nhằm tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng cho du khách tham quan
nghỉ ngơi.
1.1.5 Tác động của du lịch đến kinh tế - xã hội
Du lịch là nguồn thu lớn nhất trong khối dịch vụ đóng góp vào GDP và tạo ra nhiều việc
làm cho xã hội.
Nhu cầu trong tiêu dùng là những nhu cầu đặc biệt: nhu cầu hiểu biết về lịch sử, văn hóa;
nhu cầu về hàng hóa (thức ăn, mua sắm….); nhu cầu về dịch vụ (lưu trú, vận chuyển hành
khách, dịch vụ y tế, giải trí…)
Việc tiêu dùng các dịch vụ du lịch và hàng hóa (chủ yếu là thức ăn) xảy ra trong cùng một
thời gian và tại cùng một địa điểm xảy ra chúng, thông thường theo thời vụ.
Những đặc điểm trên hình thành mối quan hệ trong tiêu dùng du lịch: các mối quan hệ vật
chất nảy sinh khi khách đến nơi du lịch và mua dịch vụ, hàng hóa ở đó bằng tiền tệ; các mối
quan hệ phi vật chất nảy sinh khi khách tiếp xúc với con người, với văn hóa, phong tục và tập
quán của người địa phương.
1.1.6 Ý nghĩa kinh tế, nhân văn của việc phát triển du lịch
Trong nước
Tham gia tích cực vào quá trình tạo nên thu nhập quốc dân (sản xuất ra đồ lưu niệm, chế
biến thực phẩm, xây dựng các cơ sở vật chất kỹ thuật…) làm tăng thêm tổng sản phẩm quốc
nội.
Tham gia tích cực vào quá trình phân phối lại thu nhập quốc dân giữa các vùng. Hay nói
cách khác, du lịch tác động tích cực vào việc làm cân đối cấu trúc của thu nhập và chi tiêu của
nhân dân các vùng.
Du lịch nội địa phát triển sẽ góp phần củng cố sức khỏe cho nhân dân lao động và góp
phần làm tăng nâng suất lao động xã hội.
Quốc tế:
Làm tăng thu nhập quốc dân thông qua thu ngoại tệ, đóng vai trò quan trọng trong việc
cân bằng cán cân thanh toán quốc tế.
Cùng với hàng không dân dụng, kiều hối, cung ứng tàu biển, bưu điện quốc tế, chuyển
giao công nghệ và các dịch vụ thu ngoại tệ khác. Đây là tác động trực tiếp nhất của du lịch đối
với nền kinh tế, nhiều nước trong khu vực và trên thế giới đã từng thu hàng tỷ USD mỗi năm
thông qua việc phát triển du lịch.
Du lịch là hoạt động xuất khẩu có hiệu quả cao nhất. Hàng hóa được trao đổi qua con
đường du lịch được xem là hàng hóa “ xuất khẩu tại chỗ” không phải chịu hàng rào thuế quan
mậu dịch quốc tế và được bán với giá bán lẻ cao hơn nhiều với giá bán qua xuất khẩu. Đặc biệt
du lịch còn là ngành “xuất khẩu vô hình” vì hàng hóa là cảnh quan thiên nhiên, văn hóa lịch
sử… sẽ không bị mất đi qua mỗi lần bán thậm chí giá trị và uy tín của nó còn tăng lên qua mỗi
lần đưa ra thị trường nếu như chất lượng phục vụ du lịch cao.
Du lịch khuyến khích và thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Quy luật có tính phổ biến của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên thế giới hiện nay
là giá trị ngành dịch vụ ngày càng chiếm tỉ lệ cao trong giá trị tổng sản phẩm xã hội và trong
cơ cấu lao động. Du lịch là một trong những ngành thu hút nhiều vốn đầu tư nhất hiện nay vì tỉ
suất sinh lợi cao do vốn đầu tư vào du lịch tương đối ít so với các ngành công nghiệp nặng,
giao thông vận tải mà khả năng thu hồi vốn cao, kĩ thuật không phức tạp. Đặc biệt trong lĩnh
vực kinh doanh dịch vụ bổ sung thì nhu cầu về vốn đầu tư lại càng ít hơn (so với lĩnh vực kinh
doanh dịch vụ cơ bản), mà lại thu hút lao động nhiều hơn, thu hồi vốn nhanh hơn.
Du lịch góp phần củng cố và phát triển các mối quan hệ kinh tế quốc tế.
Các tổ chức quốc tế mang tính chính phủ và phi chính phủ về du lịch tác động tích cực
trong việc hình thành các mối quan hệ quốc tế.
Du lịch quốc tế phát triển tạo nên sự phát triẻn đường nối giao thông quốc tế.
Du lịch quốc tế như một đầu mối “xuất nhập khẩu” ngoại tệ góp phần làm phát triển quan
hệ ngoại hối quốc tế.
Ý nghĩa về mặt xã hội của việc phát triển du lịch đối với đất nước
Du lịch góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người dân.
Du lịch làm giảm quá trình đô thị hóa ở các nước kinh tế phát triển chậm.
Du lịch là phương tiện tuyên truyền hiệu quả cho các nước chủ nhà.
Du lịch đánh thức các nghề thủ công cổ truyền của các dân tộc.
Du lịch làm tăng thêm tầng hiểu biết về xã hội của du khách thông qua người ở địa phương.
Du lịch làm tăng thêm tình đoàn kết hữu nghị, mối quan hệ, hiểu biết của nhân dân giữa. Các
vùng với nhau và giữa nhân dân của các quốc gia với nhau.
Các tác hại về kinh tế - xã hội do việc khai thác du lịch quá mức gây ra
Phát triển du lịch quốc tế thụ động quá tải dẫn đến việc mất cân bằng cho cán cân thanh
toán quốc tế, gây áp lực gia tăng lạm phát. Vì lý do đó, một số nước trên thế giới đã phải dùng
các biện pháp ngăn chặn như hạn chế các chuyến du lịch, ví dụ như quy định cho mỗi công dân
một năm chỉ được đi du lịch ra nước ngoài một lần, trong mỗi chuyến đi chỉ được phép mang
ra khỏi biên giới một số lượng tiền và ngoại tệ mạnh nhất định.
Tạo ra sự phụ thuộc của nền kinh tế vào ngành dịch vụ du lịch. Ngành du lịch là ngành tạo
ra dịch vụ là chủ yếu.Việc tiêu thụ dịch vụ phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan
(khách du lịch tiềm năng rất dễ từ chối một chuyến đi du lịch đã định). Do vậy, việc đảm bảo
doanh thu và phát triển của ngành du lịch là khó khăn hơn so với các ngành khác. Nếu tỉ trọng
của ngành du lịch là lớn trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của một nước thì nền kinh tế của
nước đó có nhiều khả năng bấp bênh hơn.
Tạo ra sự mất cân đối và mất ổn định trong một số ngành và trong việc sử dụng lao động
của du lịch. Nguyên nhân chính ở đây là do ngành du lịch có liên kết mật thiết với nhiều ngành
của nền kinh tế quốc dân mà thường thì tiêu dùng du lịch lại xảy ra theo thời vụ. Chính tính
thời vụ đó cũng làm ảnh hưởng đến việc sử dụng lao động của du lịch.
Làm ô nhiễm môi trường hoặc tài nguyên thiên nhiên của đất nước; gây ra một số tệ nạn
xã hội (do kinh doanh các hình thức du lịch không lành mạnh) và các tác hại sâu xa khác trong
đời sống tinh thần của một dân tộc.
1.2 Cơ sở lý luận về City tour
1.2.1 Khái niệm và vai trò của City tour trong du lịch
City tour (hay tour tham quan thành phố) là sản phẩm du lịch mà các thành phố có nền du
lịch phát triển chú trọng, quan tâm và các doanh nghiệp lữ hành cố gắng khai thác sản phẩm
những đặc thù của thành phố. Du khách tham quan, tìm hiểu về văn hóa, đời sống của người
dân ở thành phố mà họ đến thăm. Thời gian tham quan thường từ nửa ngày đến một ngày. Du
khách chỉ cần mua vé một lần là có thể tham quan thành phố cả ngày bằng các phương tiện
chuyên dùng cho City tour. Những phương tiện này có thể là xe buýt, xe điện hay các phương
tiện đặc trưng của thành phố, có lộ trình cố định ngang qua các địa điểm tham quan chính của
TP. Thời gian khoảng cách các chuyến là khoảng 30 phút.
City tour góp phần làm đa dạng những sản phẩm du lịch của địa phương và tăng sức thu
hút du khách. City tour cũng góp phần khai thác hiệu quả các tài nguyên du lịch của địa
phương và đóng góp vào doanh thu và quảng bá du lịch ở thành phố đó.
1.2.2 Đối tượng khách của City tour
Phần lớn là lượng khách quốc tế có thời gian lưu trú lại thành phố từ 24 giờ trở lên; các
nhóm khách tàu biển, khách MICE cũng là những đối tượng có thể trở thành thị trường tiềm
năng của City tour. Bên cạnh đó, City tour cũng phục vụ cho đối tượng khách nội địa, thích tìm
hiểu thêm về văn hóa, lịch sử hình thành và phát triển… của thành phố đó.
1.3 Kinh nghiệm tổ chức City tour ở một số thành phố trong khu vực
Trên cơ sở nhận thấy được những nét tương đồng giữa TP.HCM và các thành phố khác
trong khu vực cũng như những điểm mạnh của các thành phố có thể khai thác vào City tour,
nhóm nghiên cứu chọn lọc những kinh nghiệm thành công của những thành phố này để giới
thiệu vào đề tài.
1.3.1 Malacca - Malaysia
Đến Malacca (Malaysia), du khách rất thích thú khi ngắm nhìn những chiếc xe xích lô
du lịch tại khu vực quảng trường Hà Lan (Dutch Square) mà người dân địa phương gọi là xe
beca (trishaw). Xe được trang trí bằng những vòng hoa nhựa nhiều màu sắc, các vòng cườm và
nhiều thứ khác. Nó cũng được gắn loa và ampli phát nhạc từ một bình ắc quy gắn bên dưới
gầm xe. Hình dạng xe khá màu mè, thế nhưng khách Tây lại rất thích, người nào cũng muốn
ngồi lên chạy một vòng, hoặc chí ít cũng ngồi lên xe để chụp vài bức ảnh. Một cuốc xe trishaw
thường có giá 10-15 ringit (44 ngàn đến 66 ngàn đồng VN) với lộ trình bao gồm: quảng trường
Hà Lan – bảo tàng hàng hải – pháo đài A’Famosa –nhà thờ thánh Francis Xavier - khu phố cổ...
Các điểm tham quan ở đây giữ được vẻ đẹp vốn có của nó kết hợp với nét đẹp sắc sảo của
chiếc xe xích lô du lịch tham quan quanh thành phố cùng với những dịch vụ thân thiện với môi
trường đã tạo nên một sản phẩm đặc thù của City tour Malacca.
1.3.2 Bangkok – Thái Lan
Đến Bangkok (Thái Lan), du khách có thể di chuyển bằng xe tuk tuk để tham quan thủ đô
Bangkok, đây là một trong những City tour được đánh giá cao.
Giá cả: 2000THB/người, 1100THB/2-3 người, 800THB/4-5 người, 700THB/ 6 người trở lên.
Du khách có thể tham quan Bangkok từ 8 giờ sáng đến 12 giờ trưa và từ 12 giờ 30 đến 16 giờ
30.
Du khách có thể tham quan các địa điểm như Chùa vàng, Hoàng cung, các trường đại học,
ngắm Băngkok từ trên cao… Ăn uống các thức ăn truyền thống của Thái nhưng cũng không
thiếu các món ăn phổ biến các nước khác.
Mặc dù tình trạng ùn tắt xe cộ ở thủ đô Bangkok gần giống như ở TP.HCM nhưng chính quyền
ở Bangkok có cách quản lý tốt hơn, cơ sở hạ tầng ở đây cũng tốt hơn nên xe cộ lưu thông khá
trật tự. Mặt khác, tại thủ đô Bangkok, khách du lịch có thể di chuyển bằng thuyền nên tạo ra sự
độc đáo riêng biệt thu hút khách.
(Xem hình 1.3.2A và 1.3.2B: Giao thông ở Thái Lan trong phần phụ lục).
1.3.3 Singapore
Mặc dù là đảo quốc có diện tích khiêm tốn (692.7 km2) nhưng kinh nghiệm làm du lịch thành
phố của Singapore rất chuyên nghiệp và có thể tham khảo.
Giao thông: Đầu tiên là hệ thống giao thông tiên tiến bậc nhất thế giới, thuận tiện cả đường
hàng không, đường biển và đường bộ. Từ sân bay Changi ở cửa ngõ chính liên kết Singapore
với thế giới, du khách có thể di chuyển giữa các nhà ga T1, T2 và các nhà ga phục vụ hàng
không giá rẻ bằng xe trung chuyển miễn phí. Du khách có thể mua thẻ EZ Link (có thể dùng để
đi tất cả các tuyến xe buýt, MRT – một loại gần giống tàu điện ngầm, hoặc thành toán tại các
quầy thức ăn nhanh (như MacDonald’s) trị giá 15SGD. Đi lại ở Singapore vô cùng dễ dàng vì
bản đồ đường sá được phát miễn phí ở các sân bay, nhà ga, trạm xe buýt hay ga MRT bằng cả
ba thứ tiếng: Anh, Hoa, Tamil.
Tại Singapore cũng có trishaw tour nhưng cách làm bài bản và quy mô cũng lớn hơn nhiều. Họ
có rất nhiều brochure phát hành tại khách sạn, sân bay, nhà hàng… có tuyến đường phù hợp
cho du lịch. Hiện có 2 tuyến, một chạy trong Chinatown và một chạy trong khu Little India,
qua những địa điểm, công trình kiến trúc văn hóa, tôn giáo nổi bật, khu trung tâm… Cứ đến
giờ thì đoàn xe xuất phát. Một chuyến trishaw kéo dài 30-40 phút. Giá 25-35 đô la Singapore,
khách đi theo nhóm sẽ được giảm giá. Có 4 công ty điều hành được cấp giấy phép là
Alphaland Travel Services Pte Ltd, Pedicab Tours Pte Ltd, Triwheel Tours Pte Ltd và
Singapore Explorer Pte Ltd. Trishaw tour của Singapore được du khách quốc tế biết đến rộng
rãi và đã được định hình.
Môi trường: Singapore có môi trường trong lành, sạch sẽ nhờ vào ý thức cao của người dân.
Đây cũng là một “sản phẩm du lịch” hấp dẫn du khách đến đây. Chính phủ Singapore có chính
sách xử phạt nặng các trường hợp vi phạm dù là khách nước ngoài hay dân bản xứ. Ở các nơi
công cộng đều có những bảng quy định các hành vi sẽ bị xử phạt.
Một kinh nghiệm quý báo đó là Singapore áp dụng chính sách đồng giá, tuyệt nhiên không có
cảnh “chặt chém” du khách, dù là người Singapore hay du khách đều trả một giá như nhau, và
tất nhiên là cũng không có cảnh chèo kéo, ăn xin như ở thành phố chúng ta hiện nay.
Mặc dù diện tích đất nước khá nhỏ nhưng sản phẩm du lịch của Singapore vô cùng phong phú.
Mất 3 SGD vé vào cửa là du khách có thể tận hưởng những thú vị của đảo Sentosa – một hòn
đảo thu hút nhiều du khách nhất Singapore hiện nay như xem cá heo hồng biểu diễn, ngắm
nhìn tàu ra vào eo biển Malacca, ngắm nhìn các loài sinh vật biển và chiêm ngưỡng vẻ đẹp của
Singapore trên cao, 30 SGD để tham quan vườn thú Singapore và Night Safari, Vịnh Marina
vớ tượng sư tử biển ngày đêm phun nướclà biểu tượng của đảo quốc này, hay nhà hát hình trái
sầu riêng Esplanade, chụp hình các tác phẩm điêu khắc ngộ nghĩnh, những màn trình diễn laser
ở Fountains of Wealth…
Singapore Flyer: là chiếc vòng quay lớn nhất Đông Nam Á. Khánh thành vào quý 2 năm 2008,
Singapore Flyer được xây dựng với một công nghệ tân tiến nhất so với các vòng xoay hiện hữu.
Singapore Flyer được dự đoán là một trong những điểm thu hút khách du lịch nhiều nhất tại
Châu Á trong năm 2008.
Singapore Night Safari: vườn thú đêm Singapore là vườn thú đầu tiên trên thế giới được thiết
kế để tham quan vào ban đêm. Bằng công nghệ chiếu sáng tiên tiến, khách tham quan có thể
thấy được tận mắt các hoạt động về đêm của hơn 1000 động vật một cách tự nhiên nhất.
Singapore Discovery Centre: xây dựng trên một doanh trại quân đội cũ, Singapore Discovery
Centre được chính phủ đầu tư nhằm trở thành một trung tâm giáo dục vui chơi giải trí hàng đầu
Singapore. Tại đây khách tham quan sẽ dần khám phá Singapore qua các trò chơi cực kỳ sôi
động và hấp dẫn.
Sentosa: Sentosa là bãi biển nổi tiếng nhất Singapore, không chỉ vì vẻ đẹp mà còn bởi vì đây
là bãi biển hoàn toàn nhân tạo! Để khám phá hết các hoạt động vui chơi tại Sentosa, du khách
phải mất hơn một ngày. Sentosa còn nổi tiếng khắp thế giới bởi chương trình nhạc nước lazer
sống động.
Ducktour & City Tours: đây là chương trình du lịch được giải thưởng về sáng tạo và độc đáo
của bộ du lịch Singapore. Ducktour & City Tours cung cấp cho khách tham quan một cái nhìn
tổng thể và thú vị nhất về Singapore.
Việc mua sắm cũng vô cùng thú vị, du khách có thể mua nhiều thứ ở đại lộ Orchard, với bề
dày lịch sử hơn 30 năm, Orchard Road được mệnh danh là thiên đường mua sắm tại Singapore.
Trải dài dưới một cây số, Orchard Road bao gồm hơn 30 trung tâm mua sắm và dịch vụ. Hay
du khách có thể mua sắm tại siêu thị lớn nhất Singapore IMM với hầu hết các mặt hàng nhãn
hiệu được bày bán Các cửa hàng mở của từ 10 giờ đến 21 giờ. Trung tâm mua sắm Mustafa ở
khu Little Indian mở cửa 24/24. Đường phố ban đêm ở đây cũng rất an toàn. Giá cả và các
chương trình khuyến mãi được thông tin trên các tờ báo địa phương. Các cửa hàng đều niêm
yết giá cố định. Ở đây, thẻ tín dụng và thẻ thanh toán được chấp nhận rộng rãi.
Như vậy với tất cả những tour cũng như những dịch vụ được nêu ra như trên đã tạo nên một
city tour Singapore vô cùng độc đáo, du khách sẽ cảm nhận được ngay sự hiện đại, tiện nghi
cao nhất mà thành phố này mang lại cho họ.
(Xem hình 1.3.3A và 1.3.3B ở phần phụ lục)
Kết luận chương I
Du lịch là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia và đã đóng góp
một phần không nhỏ vào tỉ trọng thu nhập quốc dân và đồng thời nâng cao mức sống con
người.
Sản phẩm du lịch thành phố Hồ Chí Minh rất đa dạng trong đó City tour là loại hình có
tiềm năng phát triển và thu hút được nhiều du khách trong và ngoài nước. Trong chương I bài
nghiên cứu đã trình bày những vấn đề về sản phẩm du lịch, những đặc trưng của sản phẩm du
lịch, về City tour và sự cần thiết của City tour đối với ngành du lịch TP.HCM. Đặc biệt, nhóm
đã giới thiệu đôi nét về kinh nghiệm kinh doanh loại hình City tour ở Malaysia, Thái Lan và
Singapore; một điều dễ dàng nhận thấy ở cả ba quốc gia du lịch nàylà họ biết tận dụng và khai
thác tốt các thế mạnh, tiềm năng, những đặc trưng của mình để làm nên một City tour đậm đà
bản sắc quốc gia.
Trên cơ sở những khái niệm, những kinh nghiệm đã được trình bày ở chương I, bài
nghiên cứu sẽ tập trung phân tích những thực trạng hoạt động của City tour TP.HCM hiện nay
ở chương II.
2.1 Khái quát về du lịch Việt Nam
Trong những năm qua, ngành du lịch Việt Nam không ngừng phát triển, đó là nhận định
của các chuyên gia trong Ngành Du lịch và Khách sạn quốc tế trên hãng tin AFP gần đây bởi
vì Việt Nam vẫn giữ được bản sắc Á Đông đặc trưng mà nhiều nước châu Á khác đang để mai
một dần. Cũng giống như nhận xét của Đại sứ Italia tại Việt Nam, ngài Alfredo Mattacotta cho
biết Ngài đã đi du lịch rất nhiều nơi ở châu Á như: Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc...; tuy
nhiên, ngài nhận thấy, Việt Nam có một nền văn hóa lâu đời, đậm đà bản sắc dân tộc, phong
phú và đa dạng, đặc biệt nhất là các ngôi nhà cổ và phố cổ của Việt Nam rất đẹp và có một nét
rất riêng mà không thể trộn lẫn; con người Việt Nam thì thân thiện, cởi mở... Ngài nghĩ rằng,
Việt Nam là một trong những địa chỉ du lịch hấp dẫn, an toàn mà du khách quốc tế cần tới
thăm.
Tốc độ tăng trưởng của nguồn khách quốc tế đến Việt Nam tương đối nhanh do Việt Nam
chứa đựng những lợi thế về vị trí địa lý, khí hậu; chứa đựng những tài nguyên du lịch phong
phú, những giá trị văn hóa đặc sắc cùng với sự định hướng đúng đắn của Nhà nước về du lịch
và sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban ngành, các tổ chức trong và ngoài nước. Các sản phẩm
du lịch từng bước được các công ty du lịch đầu tư đã thu hút ngày càng nhiều các dự án đầu tư
phát triển du lịch trong nước cũng như ngoài nước. Đồng thời, Việt Nam cũng đạt được những
thành công trong việc hợp tác phát triển du lịch với các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Bảng 2.1 Số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam (nghìn lượt)
Chỉ
tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
5tháng
đầu
2008
Lượng
khách 2140,1 2330,8 2628,2 2429,6 2927,9 3477,5 3583,5 4171,6
2100,0
Tốc độ
tăng
(%)
8,91 12,76 -7,56 20,51 18,77 3,05 17,2 16,6
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Năm 2003 và 2004, do ảnh hưởng bởi các yếu tố khách quan như: dịch SARS, dịch cúm
gia cầm… đã làm cho ngành du lịch bị thiệt hại nặng nề, điển hình là vào năm 2003, lượng
khách quốc tế đến Việt Nam có mức tăng trưởng âm do lượng khách đã bị giảm sút gần 200
lượt so với năm 2002. Tuy nhiên, theo dự báo của Hội đồng Thương mại và Du lịch Thế giới,
Việt Nam sẽ là một trong 10 điểm đến du lịch năng động nhất trong thập kỷ tới và thật sự đã
đạt được danh hiệu này vào giữa năm 2008. Còn tạp chí Nhà Kinh tế của Anh có bài viết về sự
phát triển nhanh chóng của Ngành Du lịch Việt Nam, trong đó nhận xét Du lịch Việt Nam có
thể đang bùng nổ. Cũng trong khảo sát hàng năm gần đây nhất do Hội đồng Du lịch Thế giới
(WTTC) đưa ra, Việt Nam là nước đứng thứ 4 trong danh sách các nước có lượng khách du
lịch đến tham quan tăng nhiều nhất. Năm 2007, Việt Nam đã đón 4,2 triệu lượt khách du lịch
nước ngoài, tăng 17,2% so với năm 2006; khách nội địa đạt 19,2 triệu lượt , tăng 9,7% so với
năm 2006. Th nhập xã hội về du lịch đạt trên 56.000 tỉ đồng, tăng 9,8% so với năm 2006.
(Thông tin từ số liệu thống kê của Tổng Cục Du lịch). Và trong 5 tháng đầu năm 2008, khách
quốc tế đến Việt Nam ước đạt 2,1 triệu lượt, tăng 16,6% so với cùng kỳ năm 2007.
Kết quả điều tra đã cho thấy lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam từ lần thứ 2, thứ 3
trở đi đã tăng đáng kể kể từ năm 2003 đến nay. Trong năm 2005, tỷ lệ du khách đến Việt Nam
lần thứ 2 tăng 6,4% so với năm 2003 và đến lần thứ 3 tăng 3% chủ yếu từ các nước châu Á và
trong khu vực ASEAN như: Campuchia, HongKong, Đài Loan, Trung Quốc, Malaysia… Điều
này chứng tỏ du lịch Việt Nam ngày càng hấp dẫn và thu hút hơn đối với du khách quốc tế.
Bên cạnh những thuận lợi đó, du lịch Việt Nam vẫn còn tồn tại các yếu tố bất lợi gây nhiều
khó khăn và làm giảm hiệu quả kinh doanh du lịch của nước nhà như: cơ sở hạ tầng và cơ sở
vật chất kỹ thuật còn hạn chế, chất lượng dịch vụ và môi trường chung chưa cao, việc quản lý
và thực hiện những quy định và quy hoạch còn chưa nghiêm túc và hiệu quả, các hoạt động
quảng bá, thông tin du lịch còn hạn chế, hiệu quả thấp, sản phẩm du lịch chưa phong phú…
Nền kinh tế tăng trưởng nóng cũng đã kìm nén tốc độ tăng trưởng của du lịch. Tỉ lệ lạm phát
hai con số, khả năng cung ứng các dịch vụ lưu trú, du lịch còn hạn chế đã và đang đặt ra nhiều
thách thức mới, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam đã có vị thế cao trên tường quốc tế.
(Xin xem thêm phụ lục 3: chương trình hành động của ngành du lịch sau WTO)
2.2 Tiềm năng để phát triển du lịch ở TP.HCM
2.2.1. Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm đa văn hóa
Đất Sài Gòn - Gia Định là nơi hội tụ nhiều dòng chảy văn hóa (Việt, Hoa, Âu, Chăm,
Khmer), thuộc vùng văn hóa Nam, là "cơ cấu kiến trúc" Việt - Hoa - Châu Âu. Vì trên 300
năm trước, Bến Nghé – Sài Gòn xưa là nơi tiếp nhận các nguồn lưu dân từ Trung, Bắc đến
lập nghiệp, rồi các di dân người Hoa vào định cư cùng hội tụ với dân cư bản địa. Sau đó, Sài
Gòn trở thành một trong những trung tâm của cả nước đón nhận những ảnh hưởng của văn
hóa Pháp, Mỹ qua các giai đoạn thăng trầm của đất nước.
Nhờ sự giao thoa, hội tụ của những người cần cù vượt khó, hội tụ tài năng và sức lực cả
nước đã biến Sài Gòn thành một phức thể văn hóa thông qua phong tục tập quán, cách thức
ăn uống, trang phục, sinh hoạt ma chay, cưới hỏi, tôn giáo tín ngưỡng; tinh thần đoàn kết dân
tộc, năng động sáng tạo; kiên cường bất khuất, lòng yêu nước, ý chí tự lực tự cường; tinh
thần tương thân tương ái; tính chất hòa đồng, nhạy cảm, dễ tiếp cận và hòa nhập; cá tính bộc
trực, thẳng thắn, trọng nghĩa khinh tài... vốn là truyền thống, phẩm chất tốt đẹp của dân tộc và
con người Thành phố.
2.2.2. Thành phố Hồ Chí Minh với nhiều điểm tham quan không thể bỏ qua
Với hệ thống 11 bảo tàng, thành phố Hồ Chí Minh là nơi có số bảo tàng nhiều nhất so với
các tỉnh, thành trong cả nước. Nội dung trưng bày của các bảo tàng khá phong phú, và không
chỉ về lịch sử và văn hóa địa phương, mà của cả Nam bộ, quốc gia và khu vực Đông Nam Á,
cung cấp nhiều kiến thức lý thú. Đây là tiềm năng to lớn để thành phố khai thác loại hình du
lịch văn hóa.
Trên 1.000 ngôi chùa, đình, đền và miếu được xây dựng qua nhiều thời kỳ cũng là những
tài sản quý về văn hóa, kiến trúc và nghệ thuật. Bạn sẽ tìm thấy những chùa Phật giáo Nam bộ
tiêu biểu, những ngôi đình xưa gắn liền với lịch sử khẩn hoang mở đất. Bên cạnh đó là những
chùa "cách tân" lớn nhất và đẹp nhất trong cả nước, kết hợp nhuần nhuyễn giữa phong cách
hiện đại với kiến trúc chùa cổ truyền. Nhiều chùa đã được công nhận di tích lịch sử - văn hóa
của thành phố và quốc gia.
Người Pháp đã để lại nhiều công trình đẹp và đa dạng. Có thể nói hiếm có đô thị nào ở
Đông Nam Á lại có nhiều dạng kiến trúc, nhiều trường phái, phong cách nghệ thuật phương
Tây như Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh. Điển hình như trụ sở Ủy ban Nhân dân Thành
phố theo phong cách Đệ Tam Cộng hòa Pháp, Ngân hàng Nhà nước chịu ảnh hưởng trào lưu
Tân Nghệ thuật, Nhà Thiếu nhi với phong cách Tân Cổ điển, Nhà Rồng phong cách Đông
Dương, Bưu điện thành phố với trường phái Chiết Trung, nhà thờ Đức Bà với nghệ thuật
Rôman, nhà thờ Huyện Sĩ theo Tân Gôtic…
Mảng kiến trúc đương đại, đang bùng nổ, trăm màu trăm vẻ, tạo cho thành phố một diện
mạo vui mắt, trong đó có một số tòa nhà đẹp, có giá trị thẩm mỹ cao.
Điểm du lịch độc đáo nhất của thành phố vẫn là Địa đạo Củ Chi, một công trình độc đáo
trong lịch sử quân sự thế giới, biểu tượng của ý chí sắt đá và thông minh mưu trí của quân dân
thành phố trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Lẫy lừng không kém là rừng ngập mặn
Cần Giờ với những trận chiến phá tàu giặc trên cửa sông Sài Gòn, nay là một điểm du lịch sinh
thái tuyệt vời với những cánh rừng đước xanh vô tận.
Nói về không gian xanh thì thành phố có nhiều công viên, khu vui chơi như Thảo cầm
viên, công viên văn hóa Đầm Sen, công viên Tao Đàn, công viên 30/4, Lê Văn Tám… là
những mảng phổi xanh của thành phố, vừa làm điều hòa nhiệt độ và môi trường vừa là nơi vui
chơi giải trí, bộ mặt văn minh, vẻ mỹ quan của thành phố.
2.2.3. Thành phố với nhiều dịch vụ vui chơi – giải trí
Cùng với sự phát triển kinh tế, mức sống được nâng cao, hoạt động vui chơi giải trí ngày
càng được quan tâm hơn để đáp ứng nhu cầu thư giãn, nghỉ ngơi của người dân thành phố sau
những giờ lao động căng thẳng. Sự phát triển về du lịch nảy sinh yêu cầu phục vụ du khách
cũng đã góp phần làm phong phú thêm lĩnh vực dịch vụ này.
Các hoạt động vui chơi giải trí của thành phố khá đa dạng và luôn có sự đổi mới, sáng tạo,
chất lượng phục vụ không ngừng được nâng cao. Không lâu sau chính sách mở cửa, các điểm
vui chơi đã nhanh chóng nắm bắt các công nghệ giải trí hiện đại của thế giới, từ các trò chơi
cảm giác mạnh, trò chơi cảm giác ảo, trò chơi dưới nước, kỹ thuật ánh sáng laser cho đến
những tạp kỹ xuất xứ từ những miền đất lạ như xiếc cá heo, xiếc cá voi… Ngay các quán cà
phê, karaoke hay bar, discotheque cũng không ngừng nâng cấp trang thiết bị âm thanh, ánh
sáng, tạo phong cách và không khí riêng. TP.HCM được xem là nơi phồn hoa nhất nước, tập
trung nhiều dịch vụ vui chơi giải trí từ bình dân đến cao cấp, thỏa mãn nhu cầu của đủ tầng lớp
nhân dân.
Bên cạnh đó là xu hướng quay về với thiên nhiên và phát huy văn hóa dân tộc. Cùng với
việc mở rộng nội ô thành phố, đã có thêm một số công viên và khu du lịch mới với không gian
xanh và thoáng đãng, với kiến trúc và trang trí dân gian, là những điểm nghỉ ngơi, thư giãn thú
vị.
Các sân khấu ca nhạc hàng đêm vẫn thu hút đông khán giả. Bên cạnh Hà Nội, thành phố
Hồ Chí Minh là nơi có các sân khấu kịch nói, nhạc thính phòng, múa rối nước biểu diễn
thường xuyên. Cơ sở vật chất cho hoạt động thể dục thể thao khá đa dạng, nổi lên trong giai
đoạn gần đây là hồ bơi, sân quần vợt, bowling, golf và nhiều câu lạc bộ sức khỏe.
2.2.4. Ẩm thực Sài Gòn
Là trung tâm của vùng đất phương Nam trù phú, sản vật dồi dào, nên món ăn Sài Gòn rất
đa dạng. Lại thêm là nơi hội tụ của cư dân từ mọi miền đất nước và cửa ngỏ tiếp xúc với thế
giới bên ngoài, nên thành phố đã tiếp nhận thêm các dòng ẩm thực của cả nước và thế giới,
chọn lọc tinh hoa thành một nền ẩm thực phong phú và hấp dẫn.
Ngày nay, người ta dễ dàng tìm thấy ở Sài Gòn vô số đặc sản Bắc, Trung, Nam hay quốc
tế, theo đúng nguyên bản cũng có, nhưng phổ biến hơn vẫn là những món đã được "Sài Gòn
hóa" để hương vị thêm phong phú, đậm đà. Chất Sài Gòn thường thể hiện ở vị ngọt, nhiều rau
xanh và nhiều thủy hải sản tươi sống.
Khuynh hướng gần đây tìm về những món dân dã chốn đồng quê, món ăn của thời khẩn
hoang mở cõi. Kể cả thực đơn của các nhà hàng sang trọng nay có cả món chuột đồng rô ti,
châu chấu chiên giòn, lươn hấp trái bầu, ếch xào lăn, cá rô kho tộ, cá bống dừa kho tiêu… Món
lẫu sành điệu phải đủ hai mươi mấy thứ rau đồng nội như cù nèo, tai tượng, càng cua, bông so
đũa, bông điên điển… Và người Sài Gòn vẫn không ngừng sưu tầm để bổ sung vào thực đơn
của mình những món ăn đã một thời bị quên lãng cũng như những món mới từ khắp bốn
phương trời. Nếu Singapore thu hút du khách bởi các khu phố ẩm thực như Little Indian, China
town thì TP.HCM có các phố ẩm thực Bắc, Trung, Nam như các nhà hàng món ăn Hà Nội,
món ăn miền Trung như Quảng Nam (khu Tân Bình), món Huế (trung tâm thành phố, Q.3, Gò
Vấp), các nhà hàng món ăn Nam Bộ lại càng phong phú, mỗi nơi mỗi vẻ. Đó là chưa kể đến
những nhà hàng món Tây, món Ấn, Brazil (Âu Lạc) ở các nhà hàng, khách sạn. Tất cả, tất cả
làm nên một Sài gòn đa dạng về phong cách ẩm thực.
2.2.5. Mua sắm
Một trong những thú vui khi đến thành phố Hồ Chí Minh là đi dạo phố và mua sắm.
Hàng hóa thật phong phú, đủ màu sắc, đủ chủng loại, từ những vật dụng thông thường hàng
ngày cho đến những đặc sản nổi tiếng của mọi miền đất nước, từ hàng sản xuất trong nước đến
những nhãn hiệu quốc tế có uy tín trên thế giới. Cửa hàng thường trang trí rất đẹp, nhất là các
cửa hàng thủ công mỹ nghệ và thời trang, mỗi cửa hàng như một tác phẩm nghệ thuật nho nhỏ.
Chợ Lớn đã nổi tiếng từ bao đời nay với tay nghề tiểu thủ công nghiệp. Vì thế, không lạ khi
hàng hóa ở đây rất dồi dào. Nhưng có lẽ bạn cũng vẫn ngạc nhiên khi phát hiện việc tìm mua
một đặc sản địa phương ở Sài Gòn có khi còn dễ dàng hơn là tại chính nơi xuất xứ; hoặc phát
hiện khá nhiều các sản phẩm địa phương nay được sản xuất tại Sài Gòn với chất lượng cao
hơn. Ngoài chợ Bến Thành, du khách có thể mua sắm ở bất cứ cửa hàng nào trên các con
đường như Đồng Khởi, Đông Du hay một cửa hàng nào với giá cả phải chăng.
Ngày nay, khó có thể nói cái gì là đặc sản của thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng chắc chắn
hàng hóa phong phú và đa dạng ở đây sẽ làm hài lòng du khách gần xa.
2.2.6. Khách sạn
Hệ thống khách sạn bao gồm từ những khách sạn cao cấp do các tập đoàn quốc tế hàng đầu
như Accor, Furama, Mariot hay Shareton quản lý, các khách sạn đã có quá trình hoạt động cả
trăm năm mà dịch vụ được ngay cả các vị nguyên thủ quốc gia, các doanh nhân tầm cỡ khen
ngợi, được các tổ chức quốc tế về du lịch trao tặng nhiều giải thưởng và danh hiệu về chất
lượng cao cho đến các khách sạn bình dân đáp ứng nhiều nhu cầu linh động và đa dạng của
khách.
Phần lớn các khách sạn đều chiếm những vị trí đẹp nhất trong trung tâm thành phố, gần các
khu thương mại, cận kề sân bay, nhà ga, bến xe… Và đặc điểm chính là các khách sạn đều có
tính chuyên nghiệp cao, từ cơ sở vật chất và trang thiết bị cho đến các dịch vụ và phong cách
phục vụ. Mỗi khách sạn thường lựa chọn một ấn tượng riêng: Caravelle là khách sạn thương
nhân tuyệt hảo, Rex là "Ngôi nhà Việt Nam", Majestic với vẻ thanh lịch cổ điển phương Tây,
Bông Sen gây ấn tượng bằng ẩm thực "buffet gánh", Đệ Nhất nổi tiếng với dịch vụ tiệc cưới…
Ngay những khách sạn nhỏ cũng tạo phong cách như sự phục vụ tận tâm, thân tình như trong
gia đình, hay những dịch vụ đáp ứng mọi yêu cầu nho nhỏ của khách.
2.2.7. Lữ hành
Tính đến năm 2007, trên toàn thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 275 công ty lữ hành quốc tế
đón khách từ nước ngoài vào du lịch Việt Nam và đưa khách từ Việt Nam ra du lịch nước
ngoài, và khoảng 266 công ty lữ hành nội địa chuyên phục vụ khách trong nước.
Các công ty lữ hành tổ chức tour trọn gói hoặc tour từng phần, bao gồm các tour trong
thành phố, tour đến mọi miền đất nước, cho thuê hướng dẫn viên, thuê xe, đặt phòng khách
sạn, mua vé máy bay, gia hạn visa… cho đến những dịch vụ rất nhỏ như giúp làm thủ tục sân
bay, đưa khách cùng hành lý từ trong sân bay ra bên ngoài…
Đặc điểm nổi bật của các công ty lữ hành là tính sáng tạo, không ngừng đưa vào chương
trình tour những điểm mới cũng như những dịch vụ mới. Bên cạnh các tour truyền thống, còn
có những loại hình phục vụ sở thích và nhu cầu đa dạng của du khách: Tour dã ngoại dành cho
giới thanh niên yêu thích mạo hiểm, tour nghiên cứu học tập cho học sinh, tour báo hiếu là quà
tặng của con cái dành cho cha mẹ lớn tuổi, tour trăng mật cho những đôi vợ chồng mới cưới,
tour hành hương, tour leo núi, tour xuyên Việt bằng xe gắn máy, tour du lịch kết hợp nghiên
cứu thị trường, tour du lịch kết hợp công tác xã hội… Và tất nhiên, các công ty cũng sẵn sàng
tổ chức tour theo yêu cầu cụ thể của khách.
Thành phố có một đội ngũ hướng dẫn viên du lịch gồm khoảng hơn 400 người đã được cấp
thẻ hướng dẫn viên quốc tế cùng hàng ngàn hướng dẫn viên nội địa mà kiến thức và kinh
nghiệm nghề nghiệp luôn được đánh giá cao. Các công ty cũng quan tâm việc trang bị xe mới,
từ loại xe 4 đến 50 chỗ ngồi.
Cũng vì thế mà hàng năm, thành phố luôn có từ 6 đến 7 công ty lữ hành được Tổng Cục Du
lịch xếp hạng TOP TEN trong cả nước.
2.2.8. Thành phố thuận tiện cho việc khám phá vùng phụ cận
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm điểm của khu vực phía Nam, nằm trên giao điểm của
những quốc lộ trọng yếu nối những vùng du lịch hấp dẫn, mỗi nơi một vẻ độc đáo riêng.
Đồng bằng sông Cửu Long nằm về phía tây nam, với những đặc trưng thú vị của miền sông
nước mênh mang, kênh rạch chằng chịt.
Tây Ninh, ở phía tây bắc, với cảnh rừng núi hữu tình, văn hóa đặc sắc và bề dày truyền
thống cách mạng hào hùng.
Bà Rịa Vũng Tàu, xuôi hướng đông nam, được biết đến với hàng loạt bãi biển đẹp trải dài
men theo đồi núi.
"Thành phố Hoa" Đà Lạt, ngược hướng đông bắc, nổi tiếng là một địa điểm nghỉ mát tuyệt
vời với khí hậu mát mẻ, không khí trong lành và cảnh thiên nhiên thơ mộng.
(Xin xem thêm phụ lục 4: Giới thiệu tổng quát về TP.HCM)
2.3 Kết quả hoạt động của ngành du lịch thành phố trong vài năm gần đây
2.3.1 Lượng khách đến TP.HCM
Bảng 2.2. Lượt khách quốc tế đến TP.HCM
Năm
Lượt khách
QT đến
TP.HCM
Tốc độ tăng
trưởng (%)
Phương tiện vận chuyển
Đường không Đường biển Đường bộ
2001 1.226.400 +11,5 1.066.645 12.581 147.174
2002 1.433.000 +16,8 1.279.782 10.272 142.946
2003 1.302.000 -9,00 1.130.689 4.002 167.309
2004 1.580.000 +21,0 1.380.000 15.000 185.000
2005 2.000.000 +27,0 1.753.784 6.587 239.629
2006 2.350.000 +17,5 1.858.000 20.000 472.000
2007 2.700.000 +14,8 2.100.000 50.000 600.000
6 tháng đầu
2008 1.487.000 +16,0 1.200.000 21.000 266.000
Nguồn: Sở Du lịch TP.HCM
Năm 2003, lượng khách quốc tế đến Tp.HCM giảm gần 9% so với năm 2002 do ngành du lịch
thành phố chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch viêm đường hô hấp cấp (SARS) trong quý II/2003
làm số lượng khách đến TP.HCM từ tháng 4 đến tháng 8-2003 giảm mạnh so với cùng kỳ.
Nhiều nước châu Á khác cũng bị ảnh hưởng nặng nề: lượng khách quốc tế đến Trung Quốc
giảm 10,4%; HongKong giảm 6,2%; Indonesia giảm 11,2%; Malaysia giảm 20,43%;
Singapore giảm 18,5%, Thái Lan giảm 8% (số liệu: WTO, Tourism Market Trends, 2005
Edition – Annex). Ngoại trừ năm 2003, từ năm 2000 đến nay lượng khách quốc tế đến
TP.HCM tăng với tốc độ ngày càng nhanh , đặc biệt là năm 2005, lượng khách quốc tế đến
TP.HCM tăng đến 27% trong khi cả nước chỉ tăng 18,4%. Khách du lịch quốc tế đến TP.HCM
chủ yếu bằng đường hàng không. Năm 2006, thành phố đón tiếp hơn 2,3 triệu lượt khách quốc
tế, trong đó có khoảng hơn 1,8 triệu khách đến bằng đường hàng không, chiếm 79,06%; 20
nghìn khách đến bằng đường biển, chiếm khoảng 0,85% và 472 nghìn du khách đến bằng
đường bộ, chiếm khoảng 20,09%. Năm 2007, có khoảng 2,7 triệu du khách đến TP.HCM, đạt
mức tăng trưởng 14,8% so với năm 2006, trong đó khoảng 2,1 triệu khách đến bằng đường
hàng không, chiếm 77,78%, khoảng 50.000 khách đến bằng đường biển, chiếm khoảng 1,85%
và 600.000 khách đến bằng đường bộ, chiếm khoảng 22,22% và trong 4 tháng đầu năm 2008
khách quốc tế đến TP.HCM đạt 1,1 triệu du khách. Như vậy, việc tăng trưởng mạnh lượt khách
đến Việt Nam cho thấy kết quả bước đầu của một vài các chính sách như: miễn visa du lịch,
mở thêm nhiều tuyến bay giá rẻ và đặc biệt là một số chương trình quảng bá xúc tiến ngành du
lịch mà thành phố đã thực hiện thời gian qua.
Đối với khách trong nước, để đánh giá sự phát triển của hoạt động du lịch nội địa thành phố có
thể dựa vào các chỉ tiêu sau: Khách du lịch trong nước do các cơ sở lưư trú phục vụ và khách
du lịch trong nước do các cơ sở lữ hành phục vụ.
Năm 2007, lượng khách quốc tế đến thành phố ước đạt 2.700.000 lượt, tăng 14.8 % so cùng kỳ
năm 2006, đạt 102 % kế hoạch dự kiến năm.
Xét về phương tiện, khách đến bằng đường hàng không ước đạt 2.100.000 lượt, tăng
17 % so cùng kỳ. Khách đến bằng các đường khác ước đạt 600.000 lượt, tăng 14 % so cùng kỳ.
Trong đó khách đến bằng đường biển ước đạt 50.000 lượt tăng 150% so cùng kỳ. Bên cạnh đó,
lượng khách đến bằng đường bộ tiếp tục tăng ổn định là do tuyến đường xuyên Á phía Việt
Nam đã được hoàn chỉnh với chất lượng tốt, thêm nhiều cửa khẩu quốc tế được đầu tư nâng
cấp tại các tỉnh miền Đông và Tây Nam bộ, hiệu ứng từ việc quảng bá tour du lịch đường bộ
caravan của ngành du lịch thành phố.
Xét về mục đích, khách đến du lịch, nghỉ ngơi là 1.600.000 lượt, tăng 15 %; khách đến
đầu tư thương mại là 580.000 lượt, tăng 15 %; khách đến vì các mục đích khác là 520.000 lượt ,
tăng 5%.
Xét về thị trường khách trong 6 tháng đầu năm 2008, 10 thị trường khách hàng đầu (theo
thứ tự) là: Mỹ (tăng 11%), Nhật (giảm 7%), Đài Loan (tăng 8%), Hàn Quốc (tăng 8%), Úc
(tăng 8%), Trung Quốc (tăng 33%), Singapore (tăng 31%), Pháp (tăng 25%), Malaysia (tăng
32%), Canada (tăng 12%). Các thị trường khách đều có tỷ lệ tăng trưởng khá từ 10 – 15% so
với cùng kỳ. Trong đó tăng mạnh và ổn định nhất là các thị trường Trung Quốc, Singapore, Úc,
Malaysia, Hàn Quốc.Trong khi đó thị trường Nga – chủ yếu là khách đoàn đi theo loại hình
MICE- tuy chưa nằm trong 10 thị trường hàng đầu nhưng tiếp tục có mức tăng trưởng khá cao
(66%) hứa hẹn sẽ có bước phát triển nhanh nếu như làm tốt công tác quảng bá hình ảnh Việt
Nam ngay tại Nga.
Căn cứ vào xu hướng phát triển du lịch của thế giới, đồng thời dựa trên những thành tựu đã đạt
được năm 2007, Ngành du lịch TP.HCM đã xây dựng các mục tiêu phấn đấu trong năm 2008:
lượng khách quốc tế phải đạt 3 triệu lượt, tăng 11% so với năm 2007, tổng doanh thu tăng 20%
so với năm 2007.
Bảng 2.3. Khách du lịch trong nước do ngành du lịch phục vụ
Năm Lượt khách nội địa TP.HCM Tốc độ tăng trưởng (%)
2003 2.400.000
2004 2.500.000 +4,17
2005 3.000.000 +20
2006 3.800.000 +26,67
Nguồn: Sở Du lịch Tp.HCM
2.3.2 Doanh thu: Bảng 2.4 Doanh thu ngành du lịch TP.HCM (tỷ đồng)
Năm Doanh thu ngành du lịch TPHCM Tốc độ tăng trưởng (%)
2002 2.580
2003 6.459 +150,35
2004 10.800 +67,21
2005 13.350 +23,60
2006 16.200 +21,30
2007 24.000 +45,00
6 tháng đầu 2008 14.600 +40,00
Hệ thống dịch vụ du lịch ngày càng phát triển và mở rộng, quy mô của ngành du lịch ngày
càng lớn cộng thêm khách du lịch quốc tế ngày càng tăng đã góp phần tăng doanh thu đáng kể.
Tổng doanh thu du lịch ước thực hiện trong năm 2007 là 24.000 tỷ đồng, tăng 45% so cùng
kỳ năm 2006, đạt 123% kế hoạch năm 2007. Trong đó khối khách sạn - nhà hàng ước đạt
18.400 tỷ đồng, tăng 42 % so cùng kỳ, khối lữ hành ước đạt 5.600 tỷ đồng, tăng 12 % so cùng
kỳ.
2.3.3 Thời gian lưu trú
Trong tổng số ngày lưu trú ở Việt Nam, khách du lịch quốc tế ở TP.HCM lưu trú dài nhất là
7,8 ngày. Đối với khách đi theo tour, thời gian lưu trú dài nhất ở thành phố là 4 ngày. Đối với
khách tự sắp xếp đi thời gian lưu trú nhiều nhất là 9,1 ngày.
2.3.4 Chi tiêu bình quân khách du lịch
TP.HCM có mức chi tiêu bình quân của một khách là 107,7 USD/ngày. Trong cơ cấu các
khoản chi tiêu của du khách, khoản chi cho phương tiện đi lại chiếm lớn nhất, chiếm gần 1/3
(năm 2005: 32%), tiếp đến là chi cho cơ sở lưu trú để nghỉ ngơi gần 1/4 (năm 2005: 21,8%),
thứ ba là chi cho ăn uống và mua sắm, chiếm khoảng 15%. Còn lại là các khoản chi cho nhu
cầu văn hóa, thể thao, vui chơi, giải trí,…
(Xin xem Phụ lục 5: Báo cáo tổng kết ngành du lịch TP năm 2007)
2.4 Thực trạng hoạt động City tour ở TP.HCM hiện nay
2.4.1 Hoạt động kinh doanh City tour của một số công ty du lịch tại TP.HCM
Ở các nước phát triển thì City tour được tập trung khai thác rất hiệu quả vì đâylà cơ hội
để quảng bá thành phố tạo nhu cầu mua sắm cho khách giúp phát triển kinh tế địa phương
nhưng TP.HCM chưa khai thác tôt.
Với ưu thế là thành phố năng động nhất Việt Nam và tiềm năng du lịch phong phú nên từ
lâu đã hình thành loại hình City tour nhưng chỉ mang tính nhỏ lẻ, và chỉ phát sinh khi khách có
nhu cầu. Mặt khác cơ sở vật chất của thành phố còn nhiều vấn đề và đang trong giai đọan nâng
cấp nên chưa đáp ứng nhu cầu hoạt động của City tour.
Hiện nay Sở du lịch và các ngành có chức năng đang cố gắng tiến hành các chính sách
phát triển các điểm du lịch và các lễ hội nhằm phục vụ cho nhu cầu du lịch thành phố nói
chung và phục vụ cho chương trình City tour nói riêng. Đây là những tín hiệu đáng mừng cho
hoạt động City tour nhưng việc tiến hành khai thác và đưa vào hoạt động còn gặp rất nhiều khó
khăn vì còn cần sự phối hợp của các đơn vị trong việc tạo ra môi trường du lịch an toàn và tạo
được sự thu hút của du khách.
Để đáp ứng nhu cầu tham quan của du khách thì hầu hết các công ty du lịch đều có
chương trình city tour riêng nhưng chỉ giới thiệu khi khách hỏi đến chứ không phải là chương
trình tour được quảng bá rộng rải. Các công ty chưa có các brochure giới thiệu về các chương
trình cũng như điểm đến của City tour.
Các công ty du lịch chỉ tập trung đón khách từ sân bay Tân Sơn Nhất về khách sạn và tập
trung giới thiệu các điểm đến lớn như Vũng Tàu, Đà Lạt, Nha Trang … Mà chưa chú trọng đến
việc khai thác điểm đến đầu tiên quan trọng là thành phố, đây là sự bỏ ngõ về việc kinh doanh
của nhiều công ty du lịch, nếu có thì chỉ sơ sài và chưa tạo được sự thu hút hay tò mò từ du
khách. Vì loại hình city tour chưa được các công ty chú trọng và đưa vào hoạt động quảng bá
nên nhóm nghiên cứu không có số liệu cụ thể thống kê các công ty có kinh doanh loại hình city
tour và số lượng khách tham gia chương trình tour.
Như đã phân tích ở phần trên thì city tour vẫn có hoạt động nhưng chỉ khi khách có yêu
cầu và chưa có các brochure quảng cáo, giới thiệu đến du khách trong và ngoài nước. Theo
khảo sát đối với khách du lịch nội địa và quốc tế cho thấy du khách biết đến TP.HCM thông
qua website của các công ty du lịch chiếm 28,6%; thông qua sách, tạp chí chiếm 25,1%; thông
qua giới thiệu của người thân bạn bè chiếm 1,2%; các nguồn khác chiếm 45,3%, trong đó:
phương tiện truyền thông chiếm 41,7%, tự tìm chiếm 3,6%. (xin xem chi tiết ở phụ lục 2B)
Mặc dù là một trong những loại hình du lịch đầy tiềm năng của du lịch thành phố nhưng vẫn
chưa có hoạt dộng xúc tiến riêng biệt và cụ thể nào. Việc quảng bá city tour vẫn lệ thuộc vào
các hoạt động tuyên truyền quảng bá của du lịch thành phố qua các sự kiện thường niên.
o Lễ hội đường hoa Nguyễn Huệ nhân dịp tết nguyên đáng (xin xem phụ lục 6)
o Ngày hội du lịch vào tháng 4 hàng năm (xem phụ lục 7 và Hình ảnh từ 2.4.1.1K đến
2.4.1.1.L)
o Lễ hội trái cây Nam Bộ vào tháng 6 hằng năm
o Hội chợ du lịch quốc tế vào tháng 10 hằng năm (xem phụ lục 7)
o Liên hoan ẩm thực món ngon các nước vào tháng 12
2.4.2 Đánh giá dịch vụ CityLook của Global MaiLinh Travel
Tháng 11/2007, công ty du lịch MaiLinh Toàn cầu đưa vào kinh doanh sản phẩm City Look.
Đây là hệ thống xe buýt – trạm dừng riêng được thiết kế đẹp với tông màu chính là xanh lá và
vàng, nhiều tiện ích, chuyên vận chuyển khách đến các điểm tham quan trong thành phố. City
Look gồm nhiều x bus có lộ trình khép kín, giãn cách 30 phút/xe, đưa đón du khách đến 11
điểm tham quan trong thành phố.
Trước khi đưa phần đánh giá về City Look thì nhóm nghiên cứu xin giới thiệu sơ lược về dịch
vụ City look của công ty Mai Linh như sau:
Sản phẩm: CITYLOOK là sản phẩm đáp ứng nhu cầu đi lại, khám khá bằng phương tiện công
cộng đạt chuẩn:
o Sử dụng xe Isuzu 21 chỗ với thiết kế bắt mắt
o Thuyết minh điện tử trên xe bằng hai ngôn ngữ Việt và Anh
o Chi phí hợp lý, thoải mái và tiện nghi
o Thuận tiện về mặt thời gian
o An toàn khi đi trên đường phố
o Đội ngũ phục vụ tận tình và chu đáo
Quy trình: Xuất phát từ khu phố tây nhộn nhịp: Phạm Ngũ Lão - Đề Thám - Bùi Viện
CITYLOOK đưa du khách đi qua các điểm du lịch, mua sắm nổi tiếng của TP.HCM bao gồm
11 điểm dừng với tấm bản đồ CITYLOOK trên tay bạn sẽ toàn quyền quyết định mình tham
quan điểm nào, hay chọn những khu trung tâm nổi tiếng, du khác muốn tham quan, lang thang
hoặc shopping mua sắm thì bạn chỉ cần xuống xe tại bất kỳ mọi điểm dừng quy định và thoải
mái với thời gian của mình có thể là chỉ 30 phút, 1 tiếng hoặc 2 tiếng và để tiếp tục những
điểm khác. Du khách quay lại điểm xuống xe để đón chuyến CITYLOOK kế tiếp hoặc đến
điểm kế tiếp (cách 30 phút sẽ có một chuyến đi qua mỗi điểm dừng). Bạn lập lại cho đến khi
tham quan hết 11 điểm để kết thúc chuyến đi đầy thú vị của mình. Thời gian họat động từ 8 am
- 18 pm.
Cách thức mua vé: Du khách sẽ mua vé tại:
1 - 32 Nguyễn Cư Trinh, P.Phạm Ngũ Lão, Q1 - DT: 08.8370.888
2 - 64 - 68 Hai Bà Trung, Q1 - DT: 08. 8248.166
3 - Tại bất kỳ điểm đại lý hoặc đón xe tại bất kỳ mọi điểm dừng và mua vé trên xe
Giá vé: Giá vé ngày: 75.000 VNĐ/vé ; Giá vé chặng: 25.000 VND/vé
Mười một điểm dừng tham quan và lộ trình xe CITYLOOK:
1- Khu phố Tây: Nhà chờ xe búyt đối diện số 211 Phạm Ngũ Lão, Q1
2- Bảo tàng Mỹ thuật: Nhà chờ xe búyt trước cổng bảo tàng Mỹ Thuật(97A Phó Đức Chính, Q1
3- Chợ Bến Thành : Nhà chờ xe búyt trước số 125 Lê Lợi, Q1
4- Dinh Thống Nhất: Trạm chờ xe Búyt trước số 33 Hàn Thuyên, Q1
5- Nhà thờ Đức Bà: Trạm chờ xe buýt trước trường Tiểu học Hòa Bình(1 Công xã Paris)
6- Đại lộ Nguyễn Huệ: Trạm chờ xe buýt trước số 125 Nguyễn Huệ, Q1
7- Bảo tàng lịch sử Việt Nam: Trạm tại BT Lịch sử Việt Nam ( 2 Nguyễn Bỉnh Khiêm,Q1
8- Chùa Ngọc Hoàng: Trạm chờ xe búyt trước 47 - 49 Nguyễn Văn Giai, Q1
9- Bảo tàng chứng tích chiến tranh: Trước cửa Bảo tàng (28 Võ Văn Tần)
10- Chùa bà Thiên Hậu: Trạm dừng tại 135 - 137 Triệu Quang Phục, Q5
11- Chợ Bình Tây: Trạm dừng tại số 25 - 29 Tháp Mười, Q6.
(Xin xem thêm phụ lục 8 và bản đồ City Look)
Nhóm nghiên cứu đã tham gia thực tế chương trình tham quan thành phố cùng CITY LOOK
và đưa ra các nhận xét như sau:
Điểm mạnh
o Xe bus du lịch được trang trí bắt mắt, sạch sẽ và thoải mái, tạo sự thích thú cho du
khách.
o Nhân viên phục vụ tận tình chu đáo.
o Ý tưởng độc đáo.
Điểm yếu:
o Tour không hợp lí, những điểm quá gần mà vẫn phải đi xe bus. Ví dụ như Bảo tàng Mỹ
thuật và chợ Bến Thành, Nhà thờ Đức Bà và Dinh Thống Nhất.
o Phần giới thiệu bằng máy trên xe về các điểm đến không trùng khớp với thực tế điểm
đến của du khách.
o Thời gian chờ đợi từng trạm thì quá lâu (từ 30-45 phút), trạm chờ cũng chưa bắt mắt.
o Chưa có dịch vụ hướng dẫn viên trên xe để khách dễ dàng hỏi thêm thông tin, trình độ
ngoại ngữ nhân viên chưa được tốt trong việc giải quyết những khó khăn cũng như thắc mắc
của du khách.
o Cần đến những điểm vui chơi giải trí cũng như các trung tâm mua sắm.
Nguyên nhân làm cho Sản phẩm City Look không hiệu quả:
Nguyên nhân khách quan:
Cơ sở hạ tầng của TP.HCM chưa hoàn thiện (còn nhiều công trình đang nâng cấp,
đường sá nhỏ hẹp).
Kinh tế phát triển nhưng kéo theo lạm phát gia tăng, giá dịch vụ ở TP.HCM cao hơn
nhiều nước trong khu vực nên lượng khách đến TP.HCM 6 tháng đầu năm 2008 có dấu hiệu
chựng lại.
Khả năng cạnh tranh của du lịch TP.HCM và City Look thấp, du khách không chọn
TP.HCM mà chọn Campuchia hay Lào trong hành trình của mình.
Giao thông trong thành phố không thuận lợi, thường xuyên xảy ra kẹt xe nên không chỉ
ảnh hưởng đến lịch trình chuyến du lịch của khách mà còn tạo hình ảnh không tốt về City Look
trong lòng du khách.
Giá cả gia tăng (giá xăng, giá hàng hóa) làm cho các công ty du lịch cải biến sản phẩm
của mình để tránh lỗ lã.
Môi trường ô nhiễm, thời tiết không thuận lợi cho du khách khám phá thành phố (mưa
nhiều, nắng gắt, khói bụi, tiếng ồn…) làm cho khách không hứng thú tìm hiểu thành phố.
Nạn ăn xin, chèo kéo khách, bán hàng rong là một trong những nguyên nhân làm cho
70% du khách không trở lại lần sau.
Cúm gia cầm vẫn còn đe dọa, an toàn vệ sinh thực phẩm vẫn chưa được quản lý tốt và
là mối đe dọa sức khỏe du khách.
“Năm 2008 – năm thực hiện nếp sống văn minh đô thị” nhưng rác là một trong những
yếu tố làm mất đi mỹ quan thành phố và gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người, nhất là
du khách.
Nguyên nhân chủ quan:
Sản phẩm City Look còn quá nghèo nàn, chỉ có dịch vụ vận chuyển du khách đến các
địa điểm tham quan và thuyết trình trên xe.
Chưa đánh đúng vào nhu cầu và sở thích của du khách là thích tự khám phá thành phố
hơn là đi theo tour.
Địa điểm tham quan còn hạn chế (chỉ có 11 điểm tham quan), chưa kết hợp hoạt động
tham quan với giải trí, mua sắm…
City Look là một sản phẩm khá mới mẻ nhưng chưa được quảng bá rộng rãi, còn ít
người biết đến.
Nằm trong thực trạng chung của nhân lực du lịch hiện nay, trình độ ngoại ngữ và kiến
thức chuyên môn của nhân viên City Look vẫn chưa đạt đến sự chuyên nghiệp.
2.4.3 Đánh giá tác động của các yếu tố bên ngoài đến hoạt động City tour
2.4.3.1 Các yếu tố kinh tế
Trong khi tỷ lệ tăng trưởng GDP trong năm 2007 là 12,6% thì tỷ lệ tăng trưởng GDP
trong 6 tháng đầu năm 2008 ước chỉ khoảng 10%, rất khó trong việc đạt được chỉ tiêu trong năm
2008 là từ 12,5 – 13%, CPI tăng 16.38%, CPI tăng gần gấp đôi so với tốc độ tăng trường GDP,
do đó tuy tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tăng nhưng không ổn định, nền kinh tế đang lạm phát ở mức
cao. Lãi suất VND/USD tăng, giá cả nhều mặt hàng tăng cao. Lạm phát tăng đã làm cho giá
phòng khách sạn tăng cao, từ đó dẫn đến giá tour tăng cao, gây ảnh hưởng hầu hết các công ty lữ
hành trong thành phố. Giá bán phòng bình quân khối khách sạn 3 - 5 sao ở TP.HCM ước tăng
31% so với cùng kỳ trong đó mức tăng giá của nhóm khách sạn 5 sao đạt cao nhất 32%.
Thông thường, khi giá cả gia tăng, nền kinh tế đang lạm phát cao thì du lịch là một trong
những ngành bị ảnh hưởng đầu tiên. Giá tour tăng theo giá cả các mặt hàng khác (giá sinh hoạt,
khách sạn, vé máy bay…) và hậu quả là lượng du khách sẽ giảm, họ không chọn Việt Nam trong
lịch trình mà thay vào đó là Campuchia hay Thái Lan hay bất kỳ một quốc gia nào khác. Nghịch
lý xảy ra tại VN là lượng khách vẫn tăng là do việc quảng bá hình ảnh chúng ta làm khá tốt, vị
thế của Việt Nam tăng cao và do thói quen du lịch của du khách. Số lượng khách du lịch quốc tế
đến TP.HCM trong năm 2007 đã lên đến 2,7 triệu, tăng 14,8% so với năm 2006 và 4 tháng đầu
năm 2008, số lượng du khách đến TP.HCM đạt 1,1 triệu du khách. Điều đó chứng tỏ rằng du
lịch Việt Nam nói chung và du lịch TP.HCM nói riêng ngày càng tạo nên những bước phát triển
mạnh mẽ và thu hút ngày càng nhiều du khách quốc tế.
Nhưng cuối cùng, các công ty du lịch vẫn chưa có cách giữ khách và kéo họ trở lại do
chất lượng sản phẩm du lịch sụt giảm do giá tăng. Các doanh nghiệp kinh doanh du lịch để giảm
lỗ chắc chắn phải điều chỉnh chất lượng tour, tuyến, ăn ở của khách. Hoặc là, không chú trọng
vào phân khúc khách City tour mà tập trung vào các đoàn khách Inbound, Outbound, tàu biển
hơn để tiết kiệm chi phí và mục tiêu lợi nhuận.
Ví dụ, khách đến TP.HCM, đặt vé máy bay của Pacific Airlines (PA) đi Đà Nẵng sau khi
tham quan TP.HCM. Trên đường ra sân bay thì bị kẹt xe, đến được sân bay, làm xong thủ tục thì
mới hay chuyến bay bị hoãn vì không có…xăng. Đây là một trong những sự kiện nổi trội của
hoạt động hàng không và kinh doanh độc quyền trên mặt báo gần đây. Vinapco và Pacific
Airlines không thỏa thuận được giá vì giá nhập khẩu xăng dầu tăng (và cả yếu tố độc quyền) nên
Vinapco không cung cấp xăng cho các chuyến bay của PA. Hậu quả không chỉ là uy tín hãng
hàng không PA bị ảnh hưởng mà sự rối ren này trì hoãn chuyến đi của khách, gây ảnh hưởng
lớn đến hình ảnh Việt Nam trong lòng du khách quốc tế.
Hiện tượng Dollar hóa không chính thức ở Việt Nam xuất phát từ hoạt động kinh doanh
du lịch. USD là ngoại tệ mạnh nên dễ mang theo khi đi du lịch. Ở những nước không được phép
thanh toán trực tiếp bằng USD, du khách cần đổi sang nội tệ để chi tiêu nhưng thực tế thời gian
qua ở Việt Nam, rất nhiều du khách (trong và ngoài nước) có thể tiêu xài trực tiếp ngoại tệ rất
thoải mái và không cần suy nghĩ nhiều. Việc này làm tăng lượng ngoại tệ lưu thông trong nền
kinh tế. Theo IMF, Việt Nam đang bị đô la hóa không chính thức – không có sự thừa nhận của
Nhà nước và việc sử dụng song song đồng VND và USD sẽ buộc Ngân hàng Trung ương phải
mua ngoại tệ vào dự trữ để tránh hiện tượng thiếu hụt tiền đồng khi ngoại tệ mất giá. Cuối năm
2007, Ngân hàng Nhà nước đã bỏ ra 145.000 tỉ đồng để mua vào 9 tỉ USD. Các khách sạn, nhà
hàng, công ty du lịch muốn “sang trọng hơn” nên dùng USD như một phương thức thanh toán
chính, mặc cho các chỉ thị, luật … đều cấm sử dụng trực tiếp ngoại tệ thậm chí bị truy tố pháp
luật vì tội mua bán ngoại tệ trái phép trên lãnh thổ Việt Nam. Do việc quản lý lỏng lẻo của
ngành du lịch, buông lỏng kỷ luật về quản lý ngoại tệ nên khi ngoại tệ mất giá, không chỉ có
USD thậm chí có cả EUR, JPY khi thanh toán cho khách Âu và Nhật đều quy ra USD rồi mới
tính sang tiền Việt theo tỉ giá mua của ngân hàng.
Ví dụ, một thông báo của Trung tâm lữ hành quốc tế T.N.T (thuộc cty TNHH T.N.T) là từ
nay yêu cầu thanh toán bằng tiền VND hoặc trả bằng USD thì cộng thêm 2.09% phí chuyển đổi
ở ngân hàng. Ngay cả khách sạn New World (TP.HCM) cũng yêu cầu khách thanh toán tiền ăn
bằng VND, nhưng lượng tiền Việt danh nghĩa này được quy ra từ USD theo tỉ giá mua của Ngân
hàng. Vậy là phải thanh toán qua USD rồi từ USD chuyển sang VND theo tỉ giá mua của Ngân
hàng. Như vậy, ngoài những thiệt hại về kinh tế đồng thời làm cho lạm phát gia tăng.
2.4.3.2 Các yếu tố chính trị - pháp luật
Trong những năm gần đây, tình hình khủng bố, thiên tai thường xuyên xảy ra ở một số quốc
gia trong khu vực châu Á như: Indonesia, Thái Lan và gần đây nhất chính là trận động đất dữ
dội tại Tứ Xuyên-Trung Quốc…đã làm cho một bộ phận không nhỏ du khách đã bắt đầu
chuyển hướng đến Việt Nam. Với một điểm đến an toàn trong môi trường biến động của thế
giới cùng với những sản phẩm du lịch độc đáo, Việt Nam đã góp phần thu hút được đông đảo
du khách đến mình.
Việt Nam đang tiến đến xóa bỏ Visa đối với các nước trong ASEAN và một số nước khác ở
châu Á, cụ thể là miễn thị thực cho công dân Hàn Quốc và Nhật Bản đã có hiệu lực từ ngày
01/07/2007 và đây cũng chính là cơ hội để ngành du lịch thành phố khai thác phát triển.
Luật Du lịch ra đời cũng góp phần vào việc xây dựng môi trường kinh doanh du lịch lành
mạnh, công bằng. Tuy nhiên Luật du lịch vẫn còn nhiều bất cập cần phải được hoàn thiện và
chỉnh sửa để phù hợp với xu thế phát triển của ngành du lịch thành phố hiện nay.
2.4.3.3. Các yếu tố tự nhiên
Do việc đô thị hóa không thể kỉểm soát theo quy hoạch, việc phát triển các khu công
nghiệp và nâng cấp cơ sở hạ tầng thiếu tầm nhìn chiến lược làm diện tích không gian xanh của
thành phố bị thu hẹp nên thời tiết, khí hậu ở TP.HCM ngày càng nóng. Đây là nguyên nhân làm
cho nhiệt độ trung bình luôn cao (trên 32oC), xuất hiện thêm nhiều bệnh tật do không khí bị ô
nhiễm như ưng thư da, dị ứng, đặc biệt là khách nước ngoài. Ví dụ, việc quy hoạch công viên 23
– 9 thành bãi đỗ xe ngầm tuy giải quyết được vấn đề thiếu chỗ gửi xe, nhưng thành phố đã cắt đi
một phần “lá phổi” của mình; các công trình lớn đang thi công, mảng xanh bị thu hẹp, nhiệt độ ở
thành phố luôn trên 320C, thậm chí 35 -360C. Cũng do việc đô thị hóa quá mức và cơ sở hạ tầng
hạ tầng chưa theo kịp tốc độ phát triển nên thành phố ngoài bị ô nhiễm không khí, TP đang bị ô
nhiễm bởi bụi và tiếng ồn nghiêm trọng.
Với số lượng phương tiện giao thông tăng cao, thêm tình trạng kẹt xe gia tăng khiến nhiên
liệu tiêu hao cao, lượng khí thải vào không khí dự báo sẽ ngày nhiều hơn và tình trạng ô nhiễm
sẽ trầm trọng hơn. Du khách cảm thấy thật không hứng thú để tham quan một thành phố vừa ô
nhiếm, vừa quá ồn, ảnh hưởng quá nhiều đến sức khỏe. Đồng thời các vụ tai nạn giao thông tại
TP.HCM đang tăng cao. Theo báo cáo của Ban An toàn giao thông TP.HCM, trong tháng 1-
2008, số vụ tai nạn giao thông là 106, giảm 12 vụ so với tháng 12-2007; tuy nhiên số người chết
vì tai nạn giao thông lại tăng 9 người so với 81 người trong tháng 12-2007. Từ đầu năm 2008
đến nay, TP.HCM xảy ra 153 vụ tai nạn giao thông, làm chết 132 người, bị thương 53 người.
Nguyên nhân là do người điều khiển phương tiện lưu thông chưa nâng cao ý thức chấp hành luật
giao thông. Một lý do khác là cơ sở hạ tầng về đường giao thông ở TP hiện đang nâng cấp nên
hạn chế lưu lượng xe lưu thông trong khi só xe gắn máy tham gia lưu thông ngày àng tăng. Cả
thành phố hiện có trên 3.5 triệu xe gắn máy, tỉ lệ 2người/xe. Số vụ tai nạn giao thông tuy có
giảm về số lượng nhưng mức độ thiệt hại ngày càng gia tăng.
Mặt khác, TP.HCM là khu vực lưu chuyển nước của nhiều con sông: sông Đồng Nai,
Soài Rạp, Sài Gòn… nên chịu ảnh hưởng của thủy triều rất rõ nét. Do hạ tầng của thành phố đã
hơn 300 tuổi nên trước tình trạng khí hậu thay đổi, mực nước trung bình dâng cao nên thành phố
thường xuyên bị ngập trên diện rộng mỗi khi trời mưa hay thủy triều lên. Năm 2007 được đánh
giá là năm thành phố bị ngập nặng nề nhất trong vòng 50 năm qua. (các huyện ngoại thành từ
1.4 -2m, các quận nội thành từ 0.8-1.4m). Nhiều con đường ở trung tâm và là bộ mặt thành phố
như Nguyễn Hữu Cảnh, Lê Lợi nhiều lần chìm trong nước do mưa kết hợp với thủy triều. Điều
này cản trở việc đi lại và ảnh hưởng lớn đến hoạt động du lịch – đặc biệt là city tour.
2.4.3.4. Các yếu tố văn hóa, xã hội
Năm 2008 được TP chọn là năm thực hiện nếp sống văn minh đô thị nhưng sang tháng
7 bộ mặt thành phố chưa thật sự khởi sắc. Các hoạt động tuyên truyền quá nặng về hình thức
và thành tích nên bên cạnh những tồn đọng chưa giải quyết cũng đã phát sinh nhiều bất cập
mới mà có sự ảnh hưởng nghiêm trọng đến cái nhìn của khách về TP.HCM.
Trước hết, TP.HCM là nơi tập trung khá nhiều ăn xin; hoạt động ăn xin diễn ra khắp
nơi và tập trung cao ở những nơi có nhiều khách tham quan như bảo tàng, các khu ăn uống,
mua sắm. Từ ngày 1/1/2008, thành phố cấm các việc mua bán hàng rong, lấn chiếm lòng lề
đường, kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm của các cửa hàng ăn uống. Nhưng vì thành phố
chưa kiên quyết và kiểm tra quá hình thức nên mọi việc vẫn chưa được giải quyết triệt để. Bán
rong mặc dù đáp ứng được nhu cầu nhanh chóng của du khách (khách cần bản đồ, có ngay).
Nhưng tác động xấu của việc này thì còn lớn hơn những gì việc này mang lại. Việc chèo kéo
khách và bán giá quá đắt tạo sự bực bội và bất mảng trong du khách. Cướp giật cũng là một
trong những vấn nạn chung của thành phố và làm suy giảm sự yên bình của thành phố. Tỷ lệ
người nghiện vẫn cứ tăng cao hàng năm. Nếu như năm 2000, thành phố có 16.216 người
nghiện có hồ sơ quản lý, thì con số này là 36.000 vào năm 2007. Nữ giới nghiện ma túy cũng
đang có xu hướng tăng. Trong số con nghiện là nữ, trên 60% thường xuyên hoạt động mại dâm,
50% đã nhiễm HIV. Tỷ lệ người nghiện sử dụng đường tiêm chích là 86,3%, so với 46,4% năm
2001. Dù cũng một phần do du khách (nếu không giữ mình), nhưng đây cũng là vấn nạn đối
với du lịch thành phố. Theo một điều tra gần đây, khu phố Tây là một địa chỉ tập trung nhiều
đối tượng mại dâm nam trong vỏ bọc những người hành nghề massage – một hình ảnh không
đẹp về du lịch TP.HCM.
Tiếp theo là vấn đề về rác thải và vệ sinh môi trường: Rác có mặt ở khắp nơi mặc dù
thành phố đã trích một khoản lớn kinh phí để lắp đặt hệ thống thùng rác trên nhiều trục đường:
Trần Hưng Đạo, Võ Văn Tần, Nguyễn Đình Chiểu… Vấn đề mấu chốt là ý thức người dân.
Một hình ảnh không đẹp là rác thải trên đường, rác có măt ở khắp nơi, xe chở rác vương vãi
nước thải trên đường. Hàng ngày, thành phố đã tạo ra gần 7000 tấn rác, các khu xử lý rác dều
qua tải nên rác tòn đọng trong thành phố thời gian lâu hơn, gây ra ô nhiễm nhiều hơn.
Vấn đề nổi bật khác nữa là nạn phóng uế bừa bãi. Nguyên nhân là do tình trạng thiếu
Nhà vệ sinh công cộng và ý thức người dân. Hệ thống nhà vệ sinh công cộng vừa thiếu thốn
vừa mất vệ sinh. Thật khó để tìm một nhà vệ sinh công cộng đảm bảo vệ sinh sạch sẽ. Việc
quản lý lỏng lẻo nên chúng xuống cấp trầm trọng.
Mặt khác, bộ mặt thành phố đang trong tình trạng nham nhở do các công trình nâng cấp
đường sá. Hàng loạt con đường đang trong tình trạng bị đào bới bởi các cty xây dựng chậm
tiến độ. Đường Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng, Nam kỳ khởi nghĩa, Nguyễn Văn Trỗi, Điện
Biên Phủ, ngõ vào chợ lớn Châu Văn Liêm…các nhà thầu vây đường để thi công làm thu hẹp
mặt đường vốn không rộng rãi gì. Đây là một trong những nguyên nhân chính làm mức độ kẹt
xe, ùn tắt giao thông nghiêm trọng hơn và bộ mặt du lịch thành phố càng nhếch nhát hơn.
Theo khảo sát của nhóm nghiên cứu cho thấy, đại đa số thích nhất con người ở
TP.HCM năng động, nhiệt tình (chiếm khoảng gần 60%); khách du lịch không thích ở
TP.HCM: 94,11% trả lời là vấn đề giao thông, chứng tỏ giao thông tồi tệ ở thành phố hiện nay
đang cản trở sự phát triển của du lịch thành phố và đặc biệt là City tour. (Xin xem phụ lục 2B)
Đồng thời, dịch bệnh, an toàn vệ sinh thực phẩm cũng là một vấn đề đáng quan tâm và
ảnh hưởng rất lớn đến hình ảnh TP.HCM. Năm qua, cả nước nói chung và thành phố nói riêng
xuất hiện nhiều dịch bệnh và vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm. Theo lãnh đạo Sở Y tế, mặc dù
dịch cúm gia cầm cũng như dịch cúm A- H5N1 ở người đã không xuất hiện trên địa bàn thành
phố từ năm 2005. Tuy nhiên, việc vận chuyển gia cầm, thủy cầm về thành phố không kiểm
soát được chặt chẽ nên đây là nguồn lây lan dịch bệnh từ các tỉnh lân cận. Nước chấm có 3-
MCPD, dịch tiêu chảy cấp, heo tai xanh gây hoang mang dư luận và du khách. Theo ông
Nguyễn Quốc Bình – Giám Đốc công ty Viettravel đánh giá, dịch bệnh đã làm cho du lịch Việt
Nam bị thụt lùi 5 năm. Điều tra mới đây của Bộ Y tế về thức ăn đường phố tại 11 địa phương
cho thấy, hầu hết bàn tay của người kinh doanh, chế biến thức ăn đường phố đều bị nhiễm vi
khuẩn E.coli. Ở TPHCM là 67,5%, Đà Nẵng 70,7%. Nguy hiểm hơn, các thực phẩm, thức ăn
cho dù đã được nấu chín nhưng qua kiểm tra vẫn phát ra nhiều vi khuẩn gây bệnh nguy hại.
Tại TPHCM là 90% bị nhiễm E.Coli.
Cuối cùng môi trường văn hóa cũng ảnh hưởng rất lớn đến bộ mặt thành phố trong lòng
du khách quốc tế. TP HCM là một trung tâm văn hóa lớn, dân số thành phố hiện nay khoảng
8,2 triệu người (năm 2006 là 6.45 triệu người) trong đó dân nhập cư từ khắp nơi mang theo văn
hóa vùng miền của mình làm đa dạng thêm văn hóa thành phố. Tuy nhiên, sự đa dạng này đã
mang đến một rủi ro lớn: mặt bằng văn hóa không giống nhau, sự chênh lệch trình độ văn hóa,
cách cư xử khác nhau. Thời đại thông tin tạo điệu kiện cho việc giao lưu trao đổi thông tin dễ
dàng. Chính vì vậy nên việc tiếp nhận văn hóa thiếu chọn lọc của một bộ phận người làm cho
văn hóa truyền thống bị “loãng”. Du khách đến thành phố sẽ khó tìm được nét độc đáo riêng
thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng.
(Xin xem phụ lục hình ảnh)
2.4.3.5 Các yếu tố về công nghệ
Hiện nay, công nghệ phục vụ trong ngành du lịch TP.HCM ngày càng trở nên hiện đại và phát
triển vượt bậc như: Những kiốt thông tin hiện đang phục vụ khách du lịch quốc tế tại Bảo tàng
chiến tích chiến tranh và Hùng Vương Plaza, Những thiết bị thuyết minh điểm đến du lịch
dành cho khách nước ngoài và khách nội địa trong chương trình tour thành phố mang tên CITY
LOOK của công ty Mai Linh, và nhiều thiết bị hỗ trợ phục vụ cho du khách như: Máy ảnh,
máy quay video, camera, máy thu âm và nhiều thiết bị hỗ trợ khác. Nổi bật trong hoạt động
quảng bã Citytour là hệ thống kios phục vụ du khách tra tìm điểm đến bằng bảng đồ điện tử.
Tuy nhiên, số lượng các kios hiện còn rất ít và phân bố không đều. (xin xem hình 2.4.3.5: Kios
thông tin trước Parkson Plaza)
2.4.3.6 Các đối thủ cạnh tranh
Ngành du lịch Việt Nam đã có những tiến bộ đáng kể trong những năm qua, đặc biệt là du lịch
thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực, du lịch Việt Nam chỉ đạt ở
mức thấp. Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế, văn hóa và là trung tâm du lịch lớn
nhất nước ta, vì thế đối thủ cạnh tranh của thành phố chính là các thành phố phát triển khác
trong khu vực ASEAN và châu Á như:
Singapore: nổi tiếng là quốc gia – thành phố đẹp và sạch nhất thế giới, thu hút khoảng 8 triệu
khách hàng năm, tạo nên thu nhập khoản 11 tỷ Đôla Singapore và 150.000 việc làm. Singapore
đang tập trung xây dựng thành trung tâm triển lãm và hội nghị hàng đầu châu Á, trung tâm
dịch vụ và giải trí bậc nhất nhằm đạt đến mục tiêu tăng du khách lên 17 triệu và thu nhập từ du
lịch tăng lên 30 tỷ Đôla Singapore và tạo 250.000 việc làm vào năm 2015.
HongKong: là điểm đến du lịch vô cùng độc đáo và lý tuởng của Đông Nam Á, với số lượng
du khách thu hút hàng năm ngày càng tăng và luôn dẫn đầu trong khu vực. HongKong nổi
tiếng với nhiều công trình giải trí quy mô lớn như Disneyland, Bảo tàng Madame Tussaud...
ngoài ra còn có những trung tâm mua sắm, thương mại, những công trình văn hóa nổi tiếng và
những tòa kiến trúc hiện đại vào bậc nhất.
Bangkok: được bình chọn là thành phố du lịch tốt nhất châu Á nổi tiếng với các công trình
Hoàng cung, chùa Vàng, chùa Bạc và những thiên đường mua sắm. Bangkok cũng đã được xếp
vào hàng thứ ba trong danh sách những thành phố du lịch hàng đầu thế giới.
Kuala Lumpur: là thủ đô của Malaysia. Với môi trường trong lành, sạch đẹp, nhiều nhà công
trình hiện đại, Kuala Lumpur đã thu hút hàng chục triệu du khách tới đây.
2.4.4 Đánh giá tác động của các yếu tố bên trong đến hoạt động City tour
2.4.4.1 Cơ sở hạ tầng
Đường sắt: Ga Sài Gòn là đầu mối giao thông quan trọng và nhộn nhịp nhất trong nước,
phục vụ các tuyến vận tải Bắc Nam. Trong năm qua, ngành đường sắt đã chủ động nâng cấp và
đưa vào họat động đoàn tàu du lịch chất lượng cao Sài Gòn – Nha Trang mở ra một kênh vận
chuyển mới với chất lượng cao cho du lịch.
Do mật độ lao động nội thị cao, việc xây dựng các tuyến tàu điện ngầm và đường sắt
trên cao (monorail) đang được triển khai như: tuyến Bến Thành – Biên Hòa, Bến Thành – bến
Thành bến xe Miền Tây, Bến Thành – Tân Sơn Nhất – An Sương... đang được các đối tác nước
ngoài (Nhật, Phát, Nga, Đức) đệ trình phương án đầu tư.
Đường thủy: Các hệ thống cảng Sài Gòn, Tân Cảng đáp ứng được yêu cầu tiếp nhận
các tàu trọng tải lớn. Tuy nhiên, do nằm trên nội đô nên ảnh hưởng lớn đến giao thông đô thị
và đang được di dời ra khỏi nội thành. Các Cảng container mới, hiện đại đang được triển khai
như: Cụm cảng Hiệp Phước, cảng Cát Lái...
Đường bộ: Hệ thống đường bộ dày đặc do sự gia tăng dân số quá nhanh nên chưa đáp
ứng được yêu cầu. Để giải quyết vấn nạn tắc nghẽn giao thông, thành phố đã triển khai và hoản
tất nhiều dự án giao thông quan trọng như: Đại lộ Đông Tây, cầu Thủ Thiêm, hầm Thủ Thiêm,
cầu Phú Mỹ, đường Xuyên Á, đường cao tốc TP.HCM – Long Thành – Dầu Dây và TP.HCM
– Vũng Tàu, đường cao tốc đi Trung Lương, đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Một số dự án lớn
đang giai đoạn chuẩn bị triển khai: các đường vành đai 1,2,3; Đường trên cao Thị Nghè - Sân
bay; cầu đường Bình Triệu...
Đường hàng không: Thành phố có sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất, cho đến tháng 3
năm 2006 là sân bay lớn nhất Việt Nam. Năm 2005, tiếp nhận lượng khách quốc tế đến bằng
đường hàng không chiếm 2/3 tống lượng khách đến các sân bay quốc tế tại Việt Nam. Sân bay
này phục vụ 7 triệu khách sử dụng sân bay tại Việt Nam. Nhà ga quốc tế mới với năng lực 8-10
triệu khách năm dự kiến hoàn thành cuối năm nay.
Bưu chính viễn thông: TP.HCM là nơi có cơ sở hạ tầng bưu chính viễn thông, hệ
thống thông tin liên lạc tốt nhất cả nước. Tới đây sẽ hức hẹn dịch vụ sẽ được cung cấp tốt hơn
với giá cước ngày càng thấp khi Nhà nước đang có nhiều chính sách cho các doanh nghiệp tư
nhân đầu tư vào lĩnh vực này để cạnh tranh với các nước trong khu vực.
Mặc dù cơ sở phục vụ dulịch có nhiều điểm thuận lợi để thu hút du khách nhưng theo khảo sát
cho biết đa số khách du lịch cho rằng giao thông tại TP.HCM không được thuận lợi và an tòan
(khách nội địa chiếm 94.09%, khách quốc tế chiếm 94,11%) (Xin xem phụ lục 2B)
2.4.4.2 Cơ sở vật chất-kỹ thuật phục vụ du lịch
Tính đến ngày 31/12/2007 toàn ngành du lịch Thành phố có:
Về doanh nghiệp lưu trú: (xin xem thêm Phụ lục 9)
Hiện thành phố có 965 doanh nghiệp lưu trú với 1.054 cơ sở lưu trú và 25.769 phòng
tăng 182 cơ sở và 3.769 phòng so với cùng kỳ năm 2006.
Tính chung, đến nay đã có tổng cộng 948 cơ sở lưu trú du lịch với 23.940 phòng đã được
phân loại, xếp hạng theo nghị định 39/CP, đạt tỷ lệ 90 %. Trong đó:
289 khách sạn với 13.533 phòng từ 1 đến 5 sao, tăng 118 khách sạn và 2.505 phòng so
với cùng kỳ năm 2006 - trong đó có 44 khách sạn từ 3-5 sao với 7.015 phòng, tăng 06 khách
sạn và 748 phòng so với cùng kỳ năm 2006.
659 cơ sở lưu trú du lịch với 10.407 phòng đạt tiêu chuẩn tối thiểu của ngành du lịch,
tăng 29 cơ sở và 453 phòng so với cùng kỳ năm 2006.
Nhà hàng : Trên địa bàn Thành phố hiện có trên 200 nhà hàng thuộc các công ty du
lịch. Nhiều nhà hàng phục vụ các món ăn dân tộc và các món Âu Á phục vụ cho khách du lịch
tự túc, khách ba lô chủ yếu tập trung ở quận 1 và quận 3.
Phương tiện vận chuyển khách du lịch: Hiện nay, tại Thành phố có trên 100 doanh
nghiệp có chức năng vận chuyển khách du lịch với trên 1.000 đầu xe và 11 tàu du lịch. Các
phương tiện vận chuyển thuộc các công ty vận chuyển, các công ty du lịch, các khách sạn,
công ty ngoài quốc doanh ...
2.4.4.3 Nguồn nhân lực
Theo thống kê của Sở du lịch TP.HCM, toàn ngành du lịch có khoảng 20.000 lao động,
trong đó: 44% là lao động nữ, 56% là lao động nam. Độ tuổi từ 18-30 chiếm 43%, từ 31-45
chiếm 46%, trên 45 chiếm 11%. Số lao động hoạt động tại các nhà hàng – khách sạn là 12.639
lao động, trong đó 4.898 là lao động khối khách sạn nhà nước, 4.281 là lao động khối khách
sạn liên doanh và 3.360 là lao động khối khách sạn tư nhân. Trình độ đại học trong ngcành du
lịch chỉ chiếm 2,8%, để ngành du lịch có thể phát triển tốt thì cần phải được nâng cao trong
thời gian sớm nhất.
Nhìn chung công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực đã phát huy được hiệu quả, có
sức ảnh hưởng mạnh đến các doanh nghiệp, các cán bộ quản lý, hướng dẫn viên,…Tuy nhiên,
do chức năng về đào tạo nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế cũng như chưa có nghiên cứu
thường xuyên nên định hướng đào tạo phát triển nguồn nhân lực của ngành chưa chủ động, còn
phụ thuộc vào nhu cầu cấp bách của về sự biến động của thị trường khách.
Theo khảo sát của nhóm nghiên cứu đối với khách du lịch nội địa và quốc tế, du khách
đánh giá về đội ngũ hướng dẫn viên như sau: trình độ ngọai ngữ tốt chi chiếm 33,33%, kiến
thức chuyên môn cao chiếm 84,52%, kỹ năng giao tiếp tốt chỉ chiếm 20,84% và sự nhiệt tình
chiếm 16,67%. (Xin xem kết quả ở bảng phụ lục
2B)
Về đội ngũ khách sạn: trình độ ngọai ngữ tốt chi chiếm 29%, kiến thức chuyên môn cao chỉ
chiếm 30,5%, kỹ năng giao tiếp tốt chỉ chiếm 21% và sự nhiệt tình chiếm 20%.
(Xin xem kết quả ở bảng phụ lục 2B)
Như vậy về trình độ chuyên môn cũng như trình độ ngọai ngữ của đội ngũ lao động trong
ngành du lịch thành phố cỏn nhiều hạn chế và chưa có chương trình đào tạo hợp lý.
(xin xem thêm phụ lục 10)
2.4.4.4 Vốn đầu tư
Hàng năm thành phố dành 20% thu ngân sách từ hoạt động du lịch cho phát triển hạ tầng và
giao cho ngành du lịch tổ chức thực hiện.
Các doanh nghiệp đã đầu tư xây dựng các cơ sở kinh doanh lưu trú mới đáp ứng nhu cầu đa
dạng về ăn nghỉ của du khách, các tuyển điểm phục vụ khách vui chơi, giải trí và hoạt động
hấp dẫn khác.
Tuy nhiên, việc sử dụng vốn đầu tư không được hiệu quả cộng với sự phát triển hạ tầng thởi
gian qua vẫn còn nhiều bất cập và chỉ đáp ứng một số yêu cầu trước mắt, chưa có định hướng
và nguồn lực tập trung để tạo cơ sở vững chắc ngành du lịch.
2.4.4.5 Môi trường tổ chức – quản lý:
Sở Du lịch thành phố Hồ Chí Minh là cơ quan chuyên môn giúp Ủy ban Nhân dân
Thành phố thực hiện chức năng Quản lý Nhà nước đối với các hoạt động du lịch, dịch vụ du
lịch trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đối với mọi thành phần kinh tế.
Sở Du lịch Thành phố chịu sự quản lý toàn diện và trực tiếp của Ủy ban Nhân dân Thành phố
và chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra của Tổng cục Du lịch về chuyên môn, nghiệp vụ du
lịch.
Sở Du lịch 06 phòng chuyên môn nghiệp vụ và 01 đơn vị trực thuộc:
o Văn phòng
o Phòng Quản lý Du lịch
o Phòng Quản lý Khách sạn
o Phòng Nghiên cứu Phát triển Du lịch
o Phòng Xúc tiến Du lịch
o Thanh tra
o Tạp chí Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh
2.4.5 Đánh giá SWOT về City tour TP.HCM
Điểm mạnh (Strengths):
Vị trí địa lý thuận lợi (đối với quốc gia và khu vực)
Khí hậu ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động liên tục và hiệu
quả
Có nhiều bảo tàng, di tích lịch sử, di tích văn hóa đặc sắc như: múa, hội họa, âm nhạc,
nghệ thuật dân gian…
Ẩm thực đa dạng và phong phú.
Có du lịch sinh thái rừng ngập mặn Cần Giờ, đồng bằng sông Cửu Long
Các khu vui chơi giải trí hiện đại như: Đầm Sen, Suối Tiên…
Chính quyền quan tâm đến việc quy hoạch và phát triển du lịch thành phố, trong đó có
loại hình city tour.
Mạng lưới giao thông thuận lợi về cả đường bộ, đường biển, đường sắt và đuờng hàng
không.
Con người thành phố thân thiện và năng động.
Điểm yếu (Weaknesses)
Thiếu sự phối hợp đồng bộ và chặt chẽ giữa ngành du lịch với Sở du lịch và các Ban
ngành có liên quan.
Vệ sinh môi trường bị ô nhiễm và tiếng ồn.
Trật tự, an toàn giao thông chưa được quản lý chặt chẽ.
Sản phẩm du lịch hạn chế về số lượng và chất lượng.
Chất lượng dịch vụ chưa đồng bộ và còn hạn chế.
Hoạt động quảng bá, giới thiệu thành phố ra nước ngoài còn chưa mạnh.
Ít tổ chức những sự kiện mang tính quốc tế cao.
Trình độ phần lớn nguồn lao động trong ngành du lịch chưa cao, khả năng ngoại ngữ
kém, chưa có kỹ năng chuyên môn và kiến thức vững chắc về du lịch.
Cơ hội (Opportunities)
Việc cụ thể hóa luật du lịch tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho môi trường kinh doanh
cạnh tranh lành mạnh.
Tốc độ tăng trưởng của ngành du lịch thành phố ổn định.
Công nghệ phục vụ cho ngành du lịch thành phố nói chung và loại hình city tour nói
riêng ngày càng hiện đại và quy mô lớn.
Việc mở rộng thêm mạng lưới giao thông, đặc biệt là các đường bay quốc tế tạo cơ hội
thu hút một số lượng ngày càng đông du khách quốc tế đến TP.HCM.
Đe dọa (Threats)
Tỷ lệ tăng trrưởng GDP không ổn định và lạm phát tăng cao, dẫn đến giá tour tăng cao.
Cơ sở hạ tầng và phương tiện vận chuyển chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ của
khách du lịch; việc quy hoạch, xây dựng các công trình kiến trúc, cao ốc, các khu vực mua sắm,
giải trí… ngày càng trở nên khó quản lý và chiếm nhiều thời gian.
Môi trường hoạt động du lịch chưa tốt thể hiện ở việc chưa bảo đảm được vệ sinh môi
trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, trật tự an toàn giao thông… cho khách du lịch.
Sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty du lịch trong nước với các công ty lữ hành có
vốn đầu tư nước ngoài cũng như sự cạnh tranh giữa Việt Nam với các nước trong khu vực như:
Lào, Campuchia…
Nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch đối với những sản phẩm và dịch vụ du lịch
ngày càng đa dạng và cao cấp.
Kết luận chương II
Chương này trình bày những kết quả đạt được của du lịch Việt Nam nói chung và du
lịch TP.HCM nói riêng. Trên cơ sở lý luận của chương I, nhóm nghiên cứu tập trung đi vào
phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh loại hình du lịch City tour ở TP.HCM cũng như
những điểm yếu kém của loại hình này đang được tổ chức và hoạt động tại TP.HCM.
Đồng thời nhóm cũng có đưa vào trong bài nghiên cứu những đánh giá của du khách
đối với loại hình City tour tại TP.HCM thông qua những bảng khảo sát đối với khách du lịch
trong nước và ngoài nước. Từ đó đánh giá vị thế của loại hình này trên thị trường.
Như vậy, chương II chính là cơ sở để đề ra những giải pháp để phát triển loại hình du
lịch City tour ở TP.HCM, đồng thời đưa ra mô hình mới cho loại hình này nhằm khai triển và
phát triển trong thởi gian tới.
3.1 Mục đích xây dựng các giải pháp
o Đối với du lịch TP.HCM
Đẩy mạnh phát triển và đưa du lịch thành ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của thành phố góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo
vệ môi trường an ninh quốc phòng.
Xây dựng du lịch thành phố thành một trung tâm du lịch hấp dẫn với tiện nghi cao, một
trung tâm du lich hàng đầu của cả nước và tầm cỡ của khu vực, phấn đấu đạt trình độ phát triển
khá về du lịch trong số các nước Đông Nam Á và thực hiện chức năng trung tâm trung chuyển
khách du lịch cho các khu vực lân cận.
Tiếp tục giữ vững tốc độ thu hút số lượng lớn khách du lịch quốc tế và phát triển mạnh
du lịch nội địa. Tăng độ dài lưu trú và chi tiêu bình quân. Tăng nhanh về doanh thu, đóng góp
ngân sách nhà nước để ngành du lịch thành phố từ 2008 – 2015 tiếp tục phát huy và thực sự là
một ngành kinh tế trọng điểm.
o Đối với City tour
Từ việc phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của City tour TP.HCM hiện nay,
nhóm đề xuất một số giải pháp để cải thiện chất lượng các tour tham quan trong thành phố; đẩy
mạnh tốc độ phát triển City tour trở thành một trong những sản phẩm trọng điểm của ngành du
lịch TP.HCM.
Xây dựng City tour phong phú, độc đáo mang sắc thái riêng của Sài Gòn, góp phần đưa
thành phố trở thành trung tâm du lịch dẫn đầu cả nước và tầm cỡ khu vực.
Xây dựng City tour phong phú, độc đáo mang sắc thái riêng của Sài Gòn, góp phần đưa
thành phố trở thành trung tâm du lịch dẫn đầu cả nước và tầm cỡ khu vực.
3.2 Căn cứ xây dựng giải pháp
Quan điểm phát triển du lịch thành phố Hồ Chí Minh
City tour là một trong những loại hình du lịch gắn liền với diện mạo thành phố. Do đó, các giải
pháp phát triển du lịch thành phố cũng là giải pháp phát triển City tour. Trước khi đưa ra các
giải pháp cụ thể phát triển city tour nhóm nghiên cứu xin đề xuất các giải pháp phát triển du
lịch thành phố để tạo nên các điểm đến, các điểm du lịch, mua sắm, tham quan… nhằm đa
dạng các chương trình tour cho du lịch thành phố.
Ngành du lịch thành phố Hồ Chí Minh phát triển dựa trên những quan điểm đã được đề ra
trong chỉ thị 46/CT- TW của ban bí thư Trung ương Đảng về lãnh đạo đổi mới và phát triển du
lịch trong tình hình mới:
o Du lịch là ngành kinh tế mang tính tổng hợp cao, việc phát triển du lịch phải lấy hiệu
quả kinh tế xã hội làm mục tiêu chính, giữ vững an ninh trật tự, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.
o Hoạt động du lịch mang tính đa ngành, muốn phát triển du lịch tốt đòi hỏi phải có sự
phối hợp chặc chẽ, đồng bộ, thống nhất nhất giữa các ngành, các cấp.
o Khuyến khích nhiều thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh du lịch nhằm xã
hội hoá họat động du lịch, khai thác tốt mọi nguồn lực cho phát triển du lịch.
o Coi trọng việc phát triển thị trường du lịch trong nước, đồng thời mở rộng khai thác thị
trường du lịch quốc tế.
Mục tiêu tổng quan
o Đẩy mạnh phát triển và đưa du lịch thành ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của thành phố góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo
vệ môi trường an ninh quốc phòng.
o Xây dựng du lịch thành phố thành một trung tâm du lịch hấp dẫn với tiện nghi cao, một
trung tâm du lich hàng đầu của cả nước và tầm cỡ của khu vực, phấn đấu đạt trình độ phát triển
khá về du lịch trong số các nước Đông Nam Á và thực hiện chức năng trung tâm trung chuyển
khách du lịch cho các khu vực lân cận.
o Tiếp tục giữ vững tốc độ thu hú
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bai hoan chinh (3).pdf