Đề tài Một số giải pháp phát triển kinh tế hộ nông dân huyện Thanh Miện - Tỉnh Hải Dương

Tài liệu Đề tài Một số giải pháp phát triển kinh tế hộ nông dân huyện Thanh Miện - Tỉnh Hải Dương: Lời nói đầu Trong hơn một thập kỷ vừa qua, dưới ánh sáng nghị quyết đại hội VI của đảng; chỉ thị 100 của ban bí thư và đặc biệt là nghị quyết 10 của Bộ chính trị, kinh tế hộ nông dân nước ta đã đạt được những thành quả to lớn, góp phần quan trọng tạo lên sự tăng trưởng vượt bậc của nền kinh tế đất nước. Khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực trong nông nghiệp - nông thôn, phát huy những lợi thế vốn có của đất nước, tạo công ăn việc làm, từng bước tăng thu nhập cho lao động làm nông nghiệp là những mục tiêu mà kinh tế hộ nông dân nước nhà về cơ bản đã làm được trong thơì gian vừa qua. Tuy nhiên, cũng từ những kết quả đã đạt được đó, trên con đường phát triển của mình kinh tế hộ nông dân nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi chúng ta cần làm tốt hơn nưã trong thời gian sắp tới như ruộng đất cho người nông dân; vốn, tín dụng cho các hộ; chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi; thị trường đầu vào, đầu ra; nâng cao trình độ của người lao động trong nông nghiệp... Thanh Miện là một huyện th...

doc100 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1124 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp phát triển kinh tế hộ nông dân huyện Thanh Miện - Tỉnh Hải Dương, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Trong hơn một thập kỷ vừa qua, dưới ánh sáng nghị quyết đại hội VI của đảng; chỉ thị 100 của ban bí thư và đặc biệt là nghị quyết 10 của Bộ chính trị, kinh tế hộ nông dân nước ta đã đạt được những thành quả to lớn, góp phần quan trọng tạo lên sự tăng trưởng vượt bậc của nền kinh tế đất nước. Khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực trong nông nghiệp - nông thôn, phát huy những lợi thế vốn có của đất nước, tạo công ăn việc làm, từng bước tăng thu nhập cho lao động làm nông nghiệp là những mục tiêu mà kinh tế hộ nông dân nước nhà về cơ bản đã làm được trong thơì gian vừa qua. Tuy nhiên, cũng từ những kết quả đã đạt được đó, trên con đường phát triển của mình kinh tế hộ nông dân nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi chúng ta cần làm tốt hơn nưã trong thời gian sắp tới như ruộng đất cho người nông dân; vốn, tín dụng cho các hộ; chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi; thị trường đầu vào, đầu ra; nâng cao trình độ của người lao động trong nông nghiệp... Thanh Miện là một huyện thuần nông nằm ở vị trí trung tâm của đồng bằng sông Hồng. Cũng như những huyện thuần nông khác trong cả nước hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu trong nông nghiệp của huyện là kinh tế hộ nông dân. Nông nghiệp là ngành luôn đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế của toàn thể nhân dân và hộ nông dân cũng luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số hộ gia đình có trong toàn huyện. Trong quá trình phát triển kinh tế hộ nông dân nơi đây cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết nhằm khai thác tốt hơn nữa những nguồn lực trong nông nghiệp -nông thôn, không ngừng nâng cao chất lượng lao động và cuộc sống của người nông dân. Theo em, Thanh Miện là một môi trường thuận lợi và có tính đại diện cao khi chúng ta tìm hiểu và nghiên cứu về kinh tế hộ nông dân. Vì vậy trong giai đoạn thực tập này em đã chọn đề tài “Một số giải pháp phát triển kinh tế hộ nông dân huyện Thanh Miện - tỉnh Hải Dương”. Với đề tài “Một số giả pháp phát triển kinh tế hộ nông dân huyện Thanh Miện - tỉnh Hải Dương” em hy vọng: - Củng cố kiến thức đã học, từng bước nâng cao trình độ tiếp cận những vấn đề thực tiễn của bản thân. -Vận dụng kiến thức đã có, tập xem xét, đánh giá và nghiên cứu một vấn đề cụ thể trong thực tiễn. -Góp phần thực hiện chủ trương xoá đói, giảm nghèo, phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất của các hộ nông dân huyện Thanh Miện. -Góp ý kiến của mình vào tiếng nói chung, thúc đẩy sự phát triển kinh tế hộ nông dân ở nước ta niện nay. Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu đề tài em đã sử dụng những phương pháp chủ yếu sau: -Phương pháp thống kê. -Phương pháp nghiên cứu điển hình. -Phương pháp điều tra. -Phương pháp phân tích, xử lý số liệu và phân tích tổng hợp. -Phương pháp khảo nghiệm kinh tế. Bằng kiến thức đã được học, vận dụng vào thực tiễn nghiên cứu một vấn đề cụ thể nhằm đạt được những mục đích nêu trên, nội dung bài viết gồm 3 chương, đó là: Chương I: Cơ sở khoa học phát triển kinh tế hộ nông dân. Chương II: Thực trạng phát triển kinh tế hộ nông dân ở huyện Thanh Miện tỉnh Hải Dương. Chương III: Một số giải pháp phát triển kinh tế hộ nông dân huyện Thanh Miện tỉnh Hải Dương. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo đã giúp đỡ và hướng dẫn em hoàn thành bài viết này. Chương I: Cơ sở khoa học Phát triển kinh tế hộ Nông Dân I- Những lý luận chung: 1- Khái niệm, bản chất, đặc trưng, vai trò của kinh tế hộ nông dân. a. Khái niệm bản chất. Kinh tế hộ nông dân là khái niệm đã được đề cập đến từ rất sớm trong lịch sử phát triển của loài người. Từng hình thái phát triển nền kinh tế khác nhau trôi qua, lại cho chúng ta hiểu sâu sắc hơn về kinh tế hộ nông dân ở thời kỳ lịch sử đó. Tuy nhiên, kinh tế hộ nông dân chỉ thực sự được quan tâm và bàn đến khi vị trí và vai trò của nó dần được khẳng định trong nền kinh tế nói chung và trong nông nghiệp - nông thôn nói riêng. Với ý nghĩa to lớn của việc phát triển kinh tế hộ nông dân đã được chứng minh trong lịch sử. Có rất nhiều nhà kinh tế, những học giả, học thuyết và cả những nhà chính trị đã bàn đến kinh tế hộ với vai trò là thành phần kinh tế chủ yếu trong nông nghiệp - nông thôn. Và tất nhiên, tuỳ từng thời kỳ phát triển khác nhau, tuỳ từng cách tiếp cận khác nhau mà chúng ta nhận được những lý thuyết không hoàn toàn giống nhau về kinh tế hộ nông dân. -Tư tưởng của C.Mác và Ph-Anggen. Đối với vấn đề nông dân, cả Mác và Anggen đều tỏ thái độ hết sức thận trọng. +Lúc đầu, khi nghiên cứu con đường công nghiệp hoá đặc thù của nước Anh, nhận thấy quá trình người nông dân bị tách khỏi ruông đất một cách ồ ạt, Mác đã tuyên đoán giai cấp nông nhân sẽ bị xoá bỏ cùng với sự phát triển của đại công nghiệp. Nông nghiệp sẽ được tổ chức lại thành nền đại sản xuất như trong công nghiệp. +Nhưng sau đó, bất chấp xu hướng diễn ra trong thời kỳ công nghiệp hoá nhanh chóng ở nước Anh, nông trại gia đình về căn bản không dựa trên lao động làm thuê, vẫn tỏ rõ sức sống và hiệu quả của nó. Từ đó trong quyển III của bộ tư bản, Mác đã viết “ Ngay ở những nước siêu công nghiệp... với thời gian cho đến nay đã khẳng định rằng hình thức lãi nhất không phải là nông trại công nghiệp hoá mà là nông trại gia đình không dùng lao động làm thuê. Những nước còn giữ hình thức tư hữu chia đất thành khoảnh nhỏ, giá cả ngũ cốc trong những nước mà chế độ sở hữu ruộng đất nhỏ còn chiếm địa vị thống trị thường thấp hơn so với những nước có nền sản xuất tư bản chủ nghĩa”. -Tư tưởng của V.L.Lê nin: Với tư duy biện chứng và hoạt động thực tiễn,V.L.Lê nin đã có những đóng góp quan trọng vào những luận điểm nêu trên của Mác và Angghen. Năm 1908, khi bàn về việc lựa chọn con đường phát triển của nông nghiệp nước Nga, Lênin đã nhận thấy rằng: Không thể phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa kiểu Phổ vì đó là kiểu phát triển kém hiệu quả, mà phải là theo kiểu một chủ trại tự do trên mảnh đất tự do, nghĩa là mảnh đất đó được dọn sạch khỏi những tàn tích trung cổ, đó là kiểu Mĩ. Lênin cho rằng Cauxky đã đặt vấn đề rất chính xác và đúng đắn khi nói rằng: Nông nghiệp không phát triển theo cùng một kiểu với công nghiệp. +Thực tế cho đến nay, ngày càng khẳng định sự phát triển thắng thế của con đường khác với kiểu “Nông trại kỹ nghệ” ở Anh hoặc “Đại điền trang kiểu Phổ” mà Mác và Lênin đã phán đoán ở nhiều nước. -Tư tưởng của A.V.Traianôp. +Kinh tế hộ nông dân là một hình thức kinh tế phức tạp của tổ chức sản xuất nông nghiệp. Đó là những doanh nghiệp hàng hoá gia đình nông dân không thuê nhân công mà chiếm đại bộ phận nông hộ ở nước Nga trước cách mạng cũng như trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hôị ở Liên xô. +Kinh tế nông dân gắn bó hữu cơ với gia đình nông dân vì thế có thể coi kinh tế nông dân là kinh tế gia đình. Đó là một thứ xí nghiệp lao động gia đình sống theo những quy luật của nó, khác với những quy luật tư bản chủ nghĩa dựa trên cơ sở lao động làm thuê. Trong kinh tế gia đình, người nông dân vừa là người chủ, vừa là người lao động. Mục đích sản xuất không phải vì lợi nhuận mà là để thoả mãn những nhu cầu của gia đình. +Khi vượt khỏi kinh tế nửa tự nhiên (nửa tự cung tự cấp) người nông dân bắt đầu cảm thấy rõ sự cần thiết của tín dụng, kỹ thuật và công nghệ tiến bộ. Nhưng mặt khác, các quá trình thuần tuý sinh học (trong trồng trọt cũng như trong chăn nuôi) lại đòi hỏi một sự chăm sóc của từng cá nhân và điều đó lại hạn chế sự phát triển theo chiều rộng của doanh nghiệp nông dân. +Mỗi ngành có một giới hạn tối ưu cần thiết. Khi giới hạn tối ưu vượt quá khuôn khổ kinh tế của gia đình nông dân, lúc đó, nông dân tìm cách hợp tác với nhau để đạt giới hạn tối ưu mới , bằng cách đó là chuyển dần lên sản xuất lớn. Nói cách khác, do không có khả năng tập trung vô hạn theo chiều sâu như trong công nghiệp nên sản xuất nông nghiệp chỉ có thể tập trung theo chiều rộng từ quá trình này đến quá trình khác. Như vậy người nông dân khi làm chủ và người lao động sẽ đi tới chỗ liên kết các quá trình và các ngành “tách rời nhau” cùng nhau mua sắm tư liệu sản xuất, thành lập các nhóm sử dụng máy móc và tiêu thụ sản phẩm, cải tạo đất đai. Và bằng cách đó mà thay đổi cách kinh doanh của mình. -Tư tưởng của Frank Elliss: Kinh tế hộ nông dân là sản xuất của các hộ gia đình nông nghiệp, có quyền sinh sống trên các mảnh đất đai, sử dụng chủ yếu sức lao động của gia đình. Sản xuất của họ thường nằm trong hệ thống sản xuất lớn hơn và tham gia ở mức độ không hoàn hảo và hoạt động của thị trường. -Quan điểm của Liên Hợp Quốc: +Về phương diện thống kê: Liên hợp quốc cho rằng: hộ là những người cùng sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung và có cùng một ngân quỹ. +Về phương diện sản xuất: Liên hợp quốc cho rằng: kinh tế hộ là một hình thức tổ chức cơ sở của nền sản xuất hàng hoá. Nó hoạt động sản xuất kinh doanh theo hộ gia đình, có một hoặc một số người lao động tự đầu tư theo khả năng về vốn để trang bị tư liệu sản xuất, sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ theo yêu cầu sản phẩm cho sự sinh tồn của họ trên thị trường. Mỗi tư tưởng, mỗi quan điểm cho ta một cách nhận thức tổng quát về kinh tế hộ nông dân hoặc kinh tế hộ nông dân trên một mặt nào đó. Tuy vậy, chúng ta có thể hiểu: Kinh tế hộ nông dân là tế bào kinh tế - xã hội được hình thành trên cơ sở các mối quan hệ: hôn nhân, huyết thống, phong tục, tâm linh, tâm lý, đạo đức. Là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nông dân và nông thôn. Kinh tế hộ nông dân đã tồn tại từ rất lâu ở các nước nông nghiệp, tự chủ trong sản xuất - kinh doanh nông nghiệp, là pháp nhân kinh tế, bình đẳng trước pháp luật và là chủ thể nền kinh tế thị trường. +Hộ là hình thức kinh tế có quy mô gia đình, các thành viên trong hộ gắn bó với nhau chặt chẽ trước tiên bằng quan hệ hôn nhân và huyết thống. +Trong các tư liệu sản xuất của hộ nông dân, ruộng đất là tư liệu sản xuất quan trọng nhất, là tư liệu sản xuất chủ yếu và không thể thay thế. +Kinh tế hộ nông dan chủ yếu dựa vào sức lao động của gia đình, không hoặc rất ít thuê lao động ngoài, các lao động trong gia đình mang tính tự giác cao. Ngoài các lao động chính thì kinh tế hộ nông dân còn có những lao động phụ đó là những lao động trẻ em và người già. +Người chủ hộ vừa là người quản lý điều hành sản xuất,vừa trực tiếp lao động nên mọi người trong hộ đều gắn bó với nhau chặt chẽ trong quá trình sản xuất. Từ đó các thông tin, các quyết định được xử lý nhanh và kịp thời, mang tính hợp lý cao. +Tính tư hữu của người lao động liên hệ với lợi ích cá nhân một cách chặt chẽ, nó vừa là mục đích, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế hộ phát triển. Từ những tư tưởng, những quan điểm, khái niệm và những đặc điểm của kinh tế hộ nông dân như đã nêu ở trên chúng ta có thể rút ra được bản chất của kinh tế hộ nông dân thể hiện ở những khía cạnh sau: + Kinh tế hộ nông dân là đơn vị kinh tế, trong đó các thành viên hoạt động và làm việc một cách tự chủ, tự nguyện vì lợi ích của bản thân, của gia đình và của toàn xã hội. +Kinh tế hộ nông dân là loại hình kinh tế thích nghi nhất với đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, nơi mà các cây trồng, vật nuôi đòi hỏi sự quan tâm sát sao, sự chăm sóc đúng lúc của con người. Đất đai và các tư liệu sản xuất khác đòi hỏi một sự bảo quản và bồi dưỡng hợp lý từ người sử dụng, một yêu cầu mà không hình thức sản xuất nào khác đáp ứng được. + Kinh tế hộ nông dân là loại hình kinh tế phổ biến mang tính chất đặc thù ở mỗi vùng, mỗi khu vực và mỗi nước trên thế giới. Kinh tế hộ nông dân là đơn vị kinh tế cơ sở vừa sản xuất, vừa tiêu dùng (mà người ta thường gọi tự cấp tự túc) sản phẩm mà hộ làm ra có thể được tiêu dùng luôn với vai trò là tư liệu sản xuất hoặc sản phẩm tiêu dùng. +Cũng như những thành phần kinh tế khác, Kinh tế hộ nông dân phải vận dụng tổng hợp các quy luật tự nhiên và quy luật kinh tế khách quan trong quá trình tồn tại và phát triển của mình. +Kinh tế hộ nông dân không những giải quyết tốt các mục tiêu của hộ nông dân mà còn giải quyết tốt vấn đề môi trường sinh thái và vấn đề xây dựng nông thôn mới. b- Đặc trưng của kinh tế hộ nông dân. Kinh tế hộ nông dân đang tồn tại và phát triển với vai trò là một đơn vị sản xuất cơ sở của nông nghiệp - nông thôn. Là một thành phần kinh tế độc lập, tự chủ cùng các thành phần kinh tế khác hình thành lên nền kinh tế thị trường của nước ta hiện hay. Kinh tế hộ nông dân sẽ luôn là một tế bào bền vững và phát triển lành mạnh trong nền kinh tế, nó mang những đặc trưng cơ bản sau đây: -Đặc trưng về sở hữu: Tuy không được sở hữu về đất đai nhưng hộ nông dân lại được nhà nước giao quyền sử dụng ổn định và lâu dài. Đó là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của mọi quá trình sản xuất trong nông nghiệp. Mọi tư liệu sản xuất khác đều thuộc quyền sở hữu của các thành viên trong hộ, và tất nhiên mọi sản phẩm làm ra đều thuộc quyền sở hữu của gia đình. Tất cả những điều này tạo lên sự khác biệt giữa sở hữu hộ nông dân và sở hữu tư nhân trong sở hữu tập thể. -Đặc trưng về mục đích sản xuất. Mục đích sản xuất của kinh tế hộ nông dân được xác định chủ yếu trên cơ sở đảm bảo nhu cầu về lương thực và thực phẩm cho hộ, một số ít dư thừa được đem ra để trao đổi. Tuy nhiên cùng với quá trình phát triển, mục tiêu đảm bảo nhu cầu của hộ sẽ giảm dần và thay vào đó là sản xuất hàng hoá nhằm nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho các thành viên, phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu về vật chất và tinh thần của các thành viên trong gia đình. -Đặc trưng về lao động: +Thường thì các hộ nông dân không thuê lao động mà chỉ sử dụng những thành viên trong gia đình. Trong các ngành kinh tế khác, việc sử dụng lao động là trẻ em và người lớn tuổi là không được phép nhưng trong kinh tế hộ nông dân thì lao động trẻ em và người lớn tuổi đóng một vai trò rất đáng kể ,hai lao động trẻ em hoăc người lớn tuổi được tính bằng một lao động chính. +Mọi lao động trong hộ nông dân làm việc với tính tự giác cao, tự chủ vì lợi ích của bản thân, của gia đình và của toàn xã hội. -Đặc trưng về mặt tổ chức: +Tổ chức của hộ nông dân rất đơn giản, gọn nhẹ chỉ bao gồm những người trong gia đình, trong bộ tộc có quan hệ hôn nhân và huyết thống. +Tổ chức của hộ nông dân rất chặt chẽ, điều khiển mọi quá trình sản xuất chủ yếu là người chủ gia đình trên cơ sở thứ bậc, hiệu lực cao bởi kỷ cương, lề nếp mang tính truyền thống. -Đặc trưng về hoạt động kinh tế hộ: +Hoạt động kinh tế của hộ nông dân khá đa dạng và phong phú, có thể tiến hành sản xuất kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, nhiêù ngành nghề . +Có tính phù hợp và tự điều chỉnh cao, với mỗi thay đổi của môi trường sản xuất kinh doanh thì hoạt động kinh tế của hộ có thể tự điều chỉnh để phù hợp .Tuy nhiên sự tự phù hợp đó nhanh hay chậm, chính xác hay không còn phụ thuộc vào điều kiện và khả năng của mỗi thành viên trong hộ. -Đặc trưng về phân phối: Các sản phẩm do hộ nông dân sản xuất ra trước hết được phân phối đều theo nhu cầu của các thành viên trong gia đình, phần còn dư thừa được đem bán hoặc trao đổi theo sự thống nhất giữa mọi thành viên trong gia đình. Với sáu đặc trưng như đã nêu ở trên, kinh tế hộ nông dân thực sự là thành phần kinh tế phù hợp với yêu cầu của mọi nền kinh tế đang tồn tại, nó là một trong năm thành phần kinh tế của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội. c-Vai trò của kinh tế hộ nông dân. Kinh tế hộ nông dân là một trong những thành phần cấu tạo lên nền kinh tế quốc dân của mỗi nước, nó không chỉ tự phát triển, tự ảnh hưởng mà còn ảnh hưởng tới và chịu sự ảnh hưởng tác động của tất cả các thành phần kinh tế khác. Sự tồn tại và phát triển của kinh tế hộ ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. Trong các học thuyết, các quan điểm của mình, các nhà kinh tế, các nhà chính trị đã phần nào nêu lên những chính kiến của mình về vai trò của kinh tế hộ. Trong bất kỳ thời đại nào, bất kỳ thời điểm lịch sử nào kinh tế hộ nông dân vẫn luôn đóng vai trò quan trọng. -Cung cấp lượng lương thực, thực phẩm chủ yếu phục vụ cho đời sống và nhu cầu của con người: +Hàng năm trên toàn thế giới, với sự ổn định khoảng 300 triệu hộ nông dân đã đóng góp, giữ vai trò là lực lượng chủ đạo trong nền nông nghiệp toàn cầu. Sản xuất ra khoảng trên 2000 triệu tấn lương thực, trên 200 triệu tấn hạt có dầu và khoảng 1000 triệu tấn thịt, sữa, trứng, hàng tỷ tấn rau, quả cung cấp cho gần 6 tỷ người. +ở Mĩ, chỉ với khoảng 65% đất nông nghiệp, kinh tế hộ nông dân đã tạo ra một lượng nông sản chiếm khoảng 70% giá trị sản phẩm nông nghiệp, 50% sản lượng ngô toàn thế giới. +ở Nhật Bản, kinh tế hộ nông dân đã sản xuất ra một khối lượng sản phẩm đủ cung cấp cho nhu cầu của cả nước với khối lượng: 100% nhu cầu về gạo; 81% nhu cầu về thịt; 98% nhu cầu về trứng; 90% đến 95% nhu cầu về rau, quả... +ở Việt Nam chúng ta với trên 10 triệu hộ nông dân, hàng năm đã tạo ra một khối lượng nông sản thực phẩn cực lớn với sự tiến bộ vượt bậc, theo thống kê năm 2000 thì khối lượng sản phẩm của toàn ngành nông nghiệp là: 35,36 triệu tấn lương thực quy thóc, xuất khẩu đạt 3,6 triệu tấn gạo, đã trồng được 717 nghìn ha ngô, sản lượng xuất khẩu cà phê đạt 694 nghìn tấn, cao su đạt 280 nghìn tấn, sản lượng thịt, trứng liên tục tăng với tốc độ cao, chúng ta không những đảm bảo nhu cầu lương thực, thực phẩm cho nhân dân cả nước mà còn vươn lên trở thành một trong những nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới. -Hình thành đơn vị tích tụ vốn của xã hội. Kinh tế hộ nông dân với đặc điểm là đơn vị sản xuất cơ sở và tự chủ đã đóng vai trò là đơn vị tích tụ vốn của xã hội, cùng vời các đơn vị trong các thành phần kinh tế khác tạo lên một tổng thể các nguồn vốn phục vụ cho nhu cầu về vốn của toàn xã hội. Nguồn vốn mà các hộ nông dân tích tụ được là cơ sở cho việc chuyển từ kinh tế tự túc tự cấp sang kinh tế hàng hoá với hiệu quả cao mang lại. Kết quả ấy sẽ tạo điều kiện cho việc chuyển dịch cơ cấu ngành nghề trong nông nghiệp, góp phần tích cực và to lớn vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Trong quá trình sản xuất kinh doanh của minh, kinh tế hộ nông dân vừa là đơn vị tích tụ vốn, vừa đóng vai trò là đơn vị giải ngân nguồn vốn đó vào việc tái sản xuất hoặc mở rộng ngành nghề, tạo nguồn đầu tư vào các ngành khác. -Tạo công ăn việc làm cho người lao động. Trong quá trình sản xuất, kinh tế hộ nông dân cần sử dụng nhiều lao động với số ngày công rất cao. Tuy nhiên với mỗi dạng hộ khác nhau, ở mỗi thời điểm và thời kỳ phát triển của hộ khác nhau mà có nhu cầu về lao động không giống nhau: +Sử dụng lao động gia đình: Hộ nông dân chủ yếu sử dụng lao động trong gia đình và lao động trong gia đình cũng là nguồn chủ yếu cung cấp cho nhu cầu của hộ, chúng ta phải nói rằng đa số lao động trong hộ đều làm việc cho sự phát triển và mục tiêu sản xuất cũng như quá trình sản xuất của hộ nông dân. +Sử dụng lao động gia đình ngoài độ tuổi lao động. Hiện nay, một tình trạng khá phổ biến là ở các hộ nông dân, việc sử dụng lao động ngoài độ tuổi lao động, đó là các trẻ em và người lớn tuổi, với cách tính cứ hai lao động này bằng một lao động chính đã góp phần tăng thu nhập cho hộ, giải phóng dần lực lượng lao động chính ra khỏi nông nghiệp đến một mức hợp lý. +Sử dụng lao động làm thuê: Việc sử dụng lao động làm thuê rất ít khi xẩy ra ở những hộ tự túc tự cấp, sản xuất nhỏ nhưng lại là việc làm khá phổ biến ở các hộ nông dân sản xuất hàng hoá và sản xuất lớn. Những hộ nông dân này việc thuê mướn thêm lao động thường xuyên hoặc vào thời vụ là điều cần thiết với tiền công hợp lý đã tạo ra một số lượng công ăn việc làm khá lớn cho những lao động dư thừa ở nông thôn hiện nay. Kinh tế hộ nông dân, trong quá trình sản xuất và phát triển của mình cần rất nhiều ngày công lao động. Thực tế đã chứng minh qua những năm vừa qua, kinh tế hộ nông dân đã giải quyết cho hàng triệu lao động ở nông thôn nước ta, góp phần quan trọng vào công cuộc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. -Thực hiện phân công lao động theo đơn vị kinh tế hộ nông dân. Cùng với quá trình phát triển của mình kinh tế hộ nông dân ngày càng có điều kiện để tích luỹ tái sản xuất theo cả chiều rộng và chiều sâu, khoa học kỹ thuật và công nghệ cũng như máy móc được áp dụng và sử dụng vào sản xuất ngày càng nhiều. Trình độ, kỹ năng, kinh nghiệm của người nông dân ngày càng được nâng lên rõ rệt thêm vào đó là sự phù hợp trong cơ chế và các chính sách của nhà nước sẽ giúp cho sản xuất ngày càng phát triển số lao động phục vụ cho nhu cầu của kinh tế hộ về nông nghiệp ngày càng giảm, sẽ dẫn đến tình trạng dư thừa lao động trong nông nghiệp. Số lao động dư thừa này với trình độ ngày càng được nâng lên sẽ chuyển dịch sang làm việc tại các ngành, nghề khác, nhất là các ngành nghề truyền thống sẽ ngày càng phát triển. Tất cả những điều này sẽ dẫn tới diện tích đất nông nghiệp trên đầu người sẽ tăng, năng xuất lao động tăng và hiệu quả sản xuất của một lao động sẽ không ngừng được nâng lên. -Đổi mới kỹ thuật sản xuất. Sự tồn tại và phát triển của kinh tế hộ nông dân với tư cách là một thành phần kinh tế tồn tại và luôn đổi mới cùng với quá trình đổi mới, phát triển của nền kinh tế nói chung. Kinh tế hộ nông dân chịu sự ảnh hưởng tác động của các thành phần kinh tế khác, của nhiều yếu tố khác. Qua quá trình hoạt động, nó luôn phát triển hướng tới hoàn thiện mình, mà đổi mới về kỹ thuật sản xuất chỉ là một mặt đổi mới của nó. Sự đổi mới về kỹ thuật sản xuất có được là do các nguyên nhân tác động sau đây: +Người nông dân với kinh nghiệm sản xuất của mình ngày càng làm tốt hơn công việc của mình, phát hiện những khó khăn cần khắc phục và những thuận lợi cần khai thác phát huy. +Cùng với quá trình phát triển của mình, việc đầu tư cho đổi mới trang thiết bị sản xuất là điều tất yếu mà việc học hỏi khoa học kỹ thuật mới là việc làm thực sự cần thiết. +Trong đời sống kinh tế hộ nông dân thì việc cạnh tranh lành mạnh, sự ghanh đua với những kết quả đạt được sẽ là động lự là nhân tố tích cực đầu tư và học hỏi. +Cùng với sự quan tâm về giáo dục của nhà nước, các mạng lưới khuyến nông ngày càng hoạt động có hiệu quả thì một hệ quả là trình độ của người lao động trong hộ nông dân ngày một nâng lên. Điều này thực sự là nhân tố tích cực giúp vận dụng tốt những điều kiện vốn có những tư liệu sản xuất trong nông hộ được kết hợp có khoa học mang lại hiệu quả kinh tế cao. +Qua thời gian và sự phát triển của nền kinh tế, đầu tư của nhà nước cho nông nghiệp cũng ngày một tăng, góp phần khai thác tốt những tiềm năng, ưu thế riêng có của hộ. Tất cả những điều nói trên kết hợp với nhau một cách hài hoà, khoa học, kinh nghiệm truyền thống kết hợp với kỹ thuật hiện đại làm cho sản phẩm sản xuất ngày càng nhiều hơn, chất lượng tốt hơn, giá thành hạ hơn, lợi nhuận thu được cao hơn. Đó cũng là mục tiêu cho sự tồn tại và phát triển của kinh tế hộ nông dân. Sản xuất hàng hoá có thể sớm được áp dụng những tiến bộ khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất. -Giữ gìn và làm trong sạch môi trường sinh thái. Vấn đề môi trường và ô nhiễm môi trường ngày nay đang được toàn thể nhân loại quan tâm cùng giải quyết. Giữ gìn và làm trong sạch môi trường là vấn đề đang được đặt nên vị trí hàng đầu hiện nay. Kinh tế hộ nông dân, hàng năm với hàng triệu ha cây xanh các loại được gieo trồng đã góp phần to lớn vào công cuộc bảo vệ môi trường trên thế giới. Đó là điều mà không ai trong chúng ta có thể phủ nhận. Từ sự tìm hiểu về bản chất, đặc trưng và vai trò của kinh tế hộ nông dân như đã nêu ở trên, chúng ta có thể khẳng định kinh tế hộ nông dân sẽ tồn tại và luôn là một thành phần kinh tế quan trọng của mọi quốc gia, sự phát triển của nó không những làm cho đời sống của người dân ngày càng được nâng cao, các nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp ngày càng được khai thác đầy đủ mà còn có tác dụng to lớn thúc đẩy sự phát triển của các thành phần, các ngành kinh tế khác: Đối tượng sản xuất của kinh tế hộ nông dân có đặc điểm riêng biệt đó là cây trồng và vật nuôi, là những cơ thể sống, chúng sinh trưởng và phát triển theo những quy luật sinh học nhất định. Là các cơ thể sống, vì vậy chúng rất nhạy cảm với môi trường tự nhiên mỗi sự thay đổi về thời tiết, khí hậu, về sự chăm sóc của con người đều có tác động trực tiếp đến quá trình phát sinh và phát triển của chúng, và tất nhiên là ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng của sản xuất. Do chúng có đặc điểm như vậy nên muốn đạt hiệu quả cao nhất thiết phải có sự quan tâm đúng mực, thường xuyên và thực sự sát sao của con người. Mỗi sự biến đổi, thay đổi nhỏ của những cơ thể sống này con người đều phải biết, chúng cần phải được chăm sóc đúng lúc đúng chỗ, đúng khoa học. Để làm tốt những điều này không một chủ thể nào khác mà chỉ có hộ nông dân đảm đương nổi. Đặc điểm có đó chỉ phù hợp với trách nhiệm, chất lượng của lao động gia đình, phù hợp với kiểu tổ chức sản xuất của kinh tế hộ nông dân. -Thực tế phát triển kinh tế hộ nông dân đã cho thấy nhiều ưu điểm mà không một chủ thể nào có được, hơn thế nữa phát triển kinh tế hộ nông dân còn giúp phát triển lực lượng sản xuất, tạo công ăn việc làm và giải phóng lực lượng ,năng lực sản xuất ở nông thôn. đây là việc làm thực sự có ý nghĩa với bất kỳ một nền kinh tế nào, với bất kỳ một xã hội nào. Việc phát triển lực lượng sản xuất, tạo công ăn việc làm là điều cần thiết cho sự phát triển của xã hội, của con người. Năng lực sản xuất ở nông thôn, nhiều khi còn bị bó buộc, nhưng nay nó đã được giải phóng, được phát huy tác dụng qua sự phát triển của kinh tế hộ nông dân. -Phát triển kinh tế hộ nông dân sẽ giúp khai thác hết mọi tiềm năng, tiềm lực trong nông nghiệp-nông thôn. Khai thác và sử dụng có hiệu quả những tư liệu sản xuất như đất đai, công cụ lao động...những yếu tố mà chỉ có kinh tế hộ mới sử dụng có hiệu quả nhất.Sản xuất của hộ nông dân mang tính đa dạng, tính thích ứng cao. Sự phân bố của kinh tế hộ mang tính rộng khắp. Sản phẩm của nông nghiệp mang tính liên tục, không phân chia thành các bán thành phẩm, không tính toán được kết quả ngay ở mỗi giai đoạn. Kinh tế hộ nông dân tồn tại và phát triển khắc phục được những khó khăn tưởng chừng không khắc phục nổi, khai thác được những tiềm năng mà không một chủ thể nào khác khai thác được. Thực tế phát triển của mỗi nền kinh tế trong thời gian vừa qua đã chứng minh sự tồn tại và phát triển của kinh tế hộ nông dân là một tất yếu, khách quan, phù hợp với quy luật của sản xuất nông nghịêp. Bằng những luận giải như đã nói ở trên, chúg ta phải công nhận rằng kinh tế hộ nông dân có những ưu điểm mà không chủ thể kinh tế nào có được. Điều này đặc biệt đúng trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn-nơi mà những tiền đề cho sự phát triển vẫn còn khiêm tốn, đòi hỏi nhiều công sức đầu tư cũng như cần có sự quan tâm đúng mức của nhà nước thì sự phát triển của hình thức kinh tế này là một tất yếu. Nông nghiệp là một trong ba ngành chính cấu thành lên toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tuy từng thời kỳ và ở mỗi nước khác nhau nó có vị trí không giống nhau, tuy nhiên chúng ta phải nói rằng nông nghiệp luôn đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của nhân dân mỗi nước. Sự phức tạp của nông nghiệp chỉ phù hợp với một loại hình sản xuất kinh doanh, mà ở đó mang lại hiệu quả kinh tế cao đó là kinh tế hộ nông dân. Thực tế phát triển nền kinh tế của đất nước chúng ta cũng cho thấy những điều tương tự. Qua nhiều năm kinh tế hộ nông dân không được khuyến khích phát triển, thậm chí còn có thời kỳ bị đưa vào đối tượng cần cải tạo và loại bỏ đã làm cho bức tranh kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng thực sự đen tối, đời sống của người nông dân thực sự đã phải trải qua nhiều khó khăn. Nhận thức được sai lầm này, cùng vời hàng loạt sự đổi mới, trong văn kiện Đại hội VI của Đảng (1986) và trong Hiến pháp của nước CHXHCN Việt nam năm 1992, kinh tế hộ nông dân đã được công nhận và được coi là một thành phần kinh tế tồn tại tất yếu, bình đẳng và lâu dài. Trong những năm đổi mới vừa qua, nền kinh tế và nông nghiệp nước ta đã khởi sắc, đạt được những thành tựu to lớn, điều đó có được có một sự đóng góp rất lớn của kinh tế hộ nông dân. Điều này càng một lần nữa khẳng định sự tồn tại và phát triển của kinh tế hộ nông dân là một tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật của sản xuất nông nghịêp. 2- Những nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của kinh tế hộ nông dân. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của kinh tế hộ nông dân như điều kiện tự nhiên, khí hậu, đất đai, trình độ phát triển của nền kinh tế các chính sách vĩ mô của nhà nước... mà chúng ta có thể phân tích ứng với mỗi nội dung phát triển của kinh tế hộ. Tuy nhiên, ở đây chúng ta chỉ đề cập đến một số nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới việc chuyển kinh tế hộ từ tự cấp tự túc, sản suất nhỏ lên sản xuất hàng hoá , kinh tế trang trại-mục tiêu mà kinh tế hộ nông dân cần vươn tới trên con đường phát triển của mình. a-Nhóm những nhân tố khách quan: -Quy mô và diện tích ruộng đất: chúng ta đều biết rằng ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu và không thể thay thế đối với nông nghiệp nói chung và kinh tế hộ nông dân nói riêng. Mọi hoạt động sản xuất của hộ nông dân chủ yếu diễn ra trên mảnh đất mà họ đang có quyền sử dụng. Tuy nhiên, để có thể tiến hành sản xuất lớn , sản xuất hàng hoá được thì hộ nông dân cần có sự tích tụ và tập trung đến một mức độ đủ lớn và hợp lý đất đai. Tuỳ từng hộ, tuỳ từng loại hình sản xuất kinh doanh mà cần quy mô ruộng đất khác nhau nhưng chúng cần liền khoảnh và đủ lớn. -Có sự tác động tích cực và phù hợp trong các chính sách của nhà nước. Đây là nhân tố thực sự quan trọng đối với việc phát triển kinh tế hộ nông dân. Mỗi chủ trương, chính sách của nhà nước đưa ra đều nhằm tác động tới một mặt nào đó của đời sống xã hội. Và chính sách đối với việc phát triển kinh tế hộ nông dân cũng vậy, cũng nhằm đạt được mục tiêu nào đó mà nhà nước đề ra. Các chủ trương, chính sách của nhà nước có thể thúc đẩy kinh tế hộ nông dân phát triển mạnh mẽ nhưng cũng có thể kìm hãm sự phát triển của nó. Các chính sách quan trọng như: chính sách về đất đai, chính sách về thị trường, chính sách về vốn, chính sách về đầu tư... -Có sự phát triển nhất định của cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng cũng là một nhân tố quan trọng trong sự phát triển của kinh tế hộ nông dân.quá trình từ sản xuất, tiêu thụ, trao đổi, chuyển đổi các sản phẩm của kinh tế hộ có được diễn ra bình thường, suôn sẻ, thuận lợi hay không phần lớn phụ thuộc vào hệ thống cơ sở hạ tầng này. Cơ sở hạ tầng cũng có ảnh hưởng rất lớn đến giá thành các sản phẩm của hộ nông dân. -Sự hình thành các vùng sản xuất chuyên môn hoá. Hình thành các vùng sản xuất chuyên môn hóa thực sự là điều cần thiết trong quá trình phát triển từ hộ tự cấp tự túc lên hộ sản xuất hàng hoá. Hình thành các vùng chuyên môn hoá sẽ đem lại nhiều thuận lợi cho các hộ nông dân, giúp thúc đẩy phát triển sản xuất,tiêu thụ sản phẩm, tập trung đồng nhất thị trường đầu vào, đầu ra... Tuy nhiên sự hình thành các vùng sản xuất chuyên môn hoá hoàn toàn phải dựa trên đòi hỏi khách quan, hợp lý của vùng và tình hình kinh tế. -Công nghiệp chế biến: Đi đôi với việc phát triển sản xuất hàng hoá rộng khắp của các hộ nông dân, việc hình thành các vùng sản xuất chuyên môn hoá thì một yêu cầu đặt ra là thị trường tiêu thụ cần được quan tâm thỏa đáng, đảm bảo đem lại hiệu quả sản xuất cho người nông dân. Muốn vậy công nghệ chế biến cần đi trước một bước, hình thành tại những vùng nguyên liệu, tại những khu trung tâm, trục đường giao thông thuận tiện. Nhằm nâng cao giá trị và chất lượng sản phẩm mà người nông dân sản xuất ra. -Quá trình hợp tác, liên doanh, liên kết và sự hoạt động của hệ thống khuyến nông từ trung ương tới cơ sở. Trong quá trình sản xuất lớn, sản xuất hàng hoá thì việc hợp tác, liên doanh, liên kết là điều thực sự cần thiết. Sự hoạt động của hệ thống khuyến nông cũng có vai trò rất lớn trong việc thúc đẩy quá trình này. Bằng những hoạt động cụ thể của mình, hệ thống khuyến nông có thể làm nhanh hay chậm quá trình chuyển từ sản xuất tự cấp tự túc của các hộ nông dân sang sản xuất hàng hoá. b-Nhóm nhân tố chủ quan: -Kinh nghiệm sản xuất của người lao động cùng với trình độ học vấn kỹ năng của họ tạo thành nhân tố vô cùng quan trọng trong việc phát triển này. Người lao động bằng kinh nghiệm thực tế đã trải qua cùng với những vấn đề khoa học kỹ thuật mới tiếp thu sẽ có cách kết hợp tốt nhất mọi tư liệu sản xuất và mọi tiềm năng mà mình có. Tuỳ từng mức độ thuần thục và trang bị kiến thức khác nhau mà đem lại hiệu quả không giống nhau trong quá trình sản xuất những nhân tố chủ quan này thực sự đóng vai trò quan trọng trong việc đi lên của các hộ nông dân, đặc biệt là trình độ hạch toán của chủ hộ góp phần rất lớn vào sự thành công của công việc. -Vốn đã tích tụ được và mức độ trang bị tư liệu sản xuất của các hộ nông dân cũng sẽ quyết định sự thuận lợi hay không trong việc đầu tư sản xuất, chuyển dịch nhanh hay chậm của quá trình chuyển sang sản xuất hàng hoá. Nhận biết được những nhân tố khách quan và chủ quan chủ yếu này chúng ta có thể khai thác được những điểm mạnh mà chúng ta đã có và không ngừng khắc phục những tồn tại mà chúng ta vẫn còn, như vậy chúng ta sẽ đẩy nhanh được quá trình chuyển từ kinh tế hộ tự cấp tự túc, sản xuất nhỏ lên sản xuất hàng hoá lớn, kinh tế trang trại. II- Khái quát sự phát triển của kinh tế hộ nông dân ở một số nước trên thế giới và nước ta. 1- Sự phát triển kinh tế hộ nông dân ở một số nước trên thế giới. Kinh tế hộ nông dân đã tồn tại từ rất sớm trong lịch sử và trải qua nhiều bước thăng trầm cùng với các hình thái kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, nó chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ ở ba thế kỷ trở lại đây khi mà các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã tạo ra hàng loạt những công nghệ, kỹ thuật và công cụ sản xuất mới, tạo ra bước đột phá trong nền nông nghiệp của thế giới. Hộ nông dân cho đến nay đã tồn tại phổ biến trên thế giới, ở tất cả các nước có sản xuất nông nghiệp. Nhưng chủ yếu nó đang tồn tại ở dạng hộ nông dân sản xuất hàng hoá và kinh tế trang trại. Sau đây, để giúp cho việc nghiên cứu và việc định hướng phát triển cho kinh tế hộ nông dân ở nước ta phù hợp với quy luật phát triển nông nghiệp nói chung, chúng ta sẽ xem xét tình hình phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại ở một số nước trên thế giới. Từ đó chúng ta có thể rút ra được những kinh nghiệm và xu hướng phát triển của kinh tế hộ nông dân. -Vương quốc Hà Lan. Là một đất nước nhỏ bé với diện tích 41500 km2, dân số 14806000 người trong đó số lao động nông nghiệp chỉ chiếm 5,7% dân số, nhưng hàng năm đã sản xuất ra một lượng lương thực-thực phẩm không những đáp ứng đủ nhu cầu trong nước mà con xuất khẩu 48,3 tỷ Gulden sản phẩm nông nghiệp năm 1990. Mỗi một lao động nông nghiệp ở Hà Lan có thể nuôi được 112 người. Toàn bộ sản xuất nông nghiệp ở Hà Lan được tổ chức chủ yếu theo nông trại. Năm 1960 có 300 nghìn nông trại thì đến năm 1985 chỉ còn 138 nghìn. Các nông trại tổ chức gọn với diện tích trung bình khoảng 10ha đất canh tác, sử dụng lao động gia đình là chính. Các nông trại được trang bị đầy đủ mọi dụng cụ, máy móc cần thiết, số nông trại chăn nuôi chiếm 17%. -ở Pháp: đơn vị sản xuất phổ biến trong nông nghiệp là nông trại gia đình. Năm 1956 đã có khoảng 2,5 triệu nông trại với 4 triệu lao động canh tác trên diện tích 32 triệu ha.Quy mô canh tác bình quân của một nông trại truớc đây là 15 đến 20ha, nay tăng lên 20đến50ha. Có 70% nông trại chăn nuôi từ 20 bò sữa trở lên.Nông trại ở Pháp chủ yếu sử dụng lao động và công cụ máy móc của gia đình . -ở Đan Mạch: Dân số củaĐan Mạch là 5 triệu người, trong đó lao động nông nghiệp chiếm 6% lực lượng lao động toàn xã hội. Nền nông nghiệp của Đan Mạch chủ yếu cơ cấu theo các đơn vị hộ và trang trại. Khoảng 87% các đơn vị sản xuất này sử dụng lao động là các thành viên trong gia đình và họ hàng thân thiết làm ở tất cả các khâu sản xuất.Chỉ có 13% số đơn vị có thuê lao động song cũng thường xuyên từ 2 người trở lên.Nghành chăn nuôi của Đan Mạch phát triển khá mạnh, cả nước hiện nay có khoảng 34 nghìn đàn bò sữa.Một điều khá đặc biệt ở đây là có các hệ thống trường học và các tổ chức riêng của nông dân chịu trách nhiệm đào tạo nghề nghiệp cho thanh niên nông thôn. Một nông dân Đan Mạch có thể sản xuất một lượng nông sản đủ cung cấp cho khoảng 160 người. -ở Thuỵ Điển: Nông lâm nghiệp ở nước này được tổ chức chủ yếu theo đơn vị nông trại gia đình. Hiện nay cả nước có khoảng 100 nghìn nông trại các loại. Quy mô bình quân một nông trại là 30ha đất canh tác và 30 đầu gia súc lớn. Một nông trại loại khá thường canh tác 40ha đất, chăm sóc 60 ha rừng và nuôi 25 bò sữa, 25 bò thịt.Các nông trại thường canh tác trên đất riêng hoặc thuê của nhà nước thời hạn từ 5 đến 25 năm.Mỗi nong trại bình quân có 2 lao động và hai máy kéo. Hàng năm, đại diện của nông dân, của người tiêu dùng và đại diện chính phủ họp lại để định giá bán lẻ các loại nông sản thực phẩm trong năm. -ở Mĩ: Hoa Kỳ là nước từ nhiều năm nay dẫn đầu thế giới về sản xuất nông nghiệp. Năm 1987, xuất khẩu nông phẩm của Hoa kỳ đạt 46 tỷ đôla, đó là con số cực kỳ lớn nói lên vị trí dẫn đầu của họ. Ngoài điều kiện thiên thuận lợi, kết quả ấy còn do yếu tố tổ chức sản xuất hợp lý mang lại. Người Mĩ thừơng nói “nông trại gia đình là linh hồn, là tế bào của nền nông nghiệp Hoa kỳ” và quả thực đúng như vậy. Năm 1976, toàn nước Mĩ có 28 triệu nông trại với khoảng 4,4 triệu lao động nhưng đến năm 1987 con số này chỉ còn 2.176 nghìn nông trại với 3,208 triệu lao động (chưa đầy 2% dân số). Do quy mô và năng suất lao động tăng nên số nông trại và số lao động nông nghiệp ngày càng giảm. Trong số 1.733.683 nông trại loại nhỏ có 1.721.816 nông trại gia đình (99,3%) do kỹ thuật ngày càng hiện đại nên quy mô trung bình của một nông trại cũng không ngừng tăng lên: 1940 là 40 ha; 1950 là 80 ha; 1960 là 120 ha; những năm 80 từ 150 đến 200 ha và hiện nay khoảng 217 ha. Các nông trại gia đình sở hữu 228.576.692 ha đất canh tác, nhưng canh tác tới 362.430.000 ha. Những nông trại lớn, những tập đoàn sản xuất có trên 10 lao động chỉ có 1.797 đơn vị, sở hữu 4.527.466 ha, canh tác 5.811.539 ha. ở Hoa kỳ các nông trại chủ yếu chỉ sử dụng lao động gia đình, Tuy nhiên họ được hỗ trợ bởi một hệ thống công cụ và thiết bị vô cùng hiện đại. Hàng năm, một số nông trại bị phá sản, có khoảng 50.000 chủ đất bị vỡ nợ. -ở một số nước Châu á: Biểu 1: Số lượng và quy mô nông trại ở một số nước Châu á Nước Số lượng nông trại (triệu) Quy mô nông trại (ha) 1970 1955 1970 1985 1-Nhật Bản 2-Hàn Quốc 3-Đài Loan 4-Thái Lan 5-Inđônêxia 6-Philipin 7-Mianma 8-Ân Độ 9-Pakistan 10-Srilanca 11-Nêpan 5,300 - 0,877 3,214 2,168 12,148 - 61,500 12,155 1,174 1,496 4.200 2,300 0,870 4,500 4,400 - 4,300 81,600 - - - 1,06 0,9 1,11 - - - - 2,62 2,37 1,59 1,22 1,20 - 1,00 5,60 3,66 1,88 2,00 2,60 3,80 - - Nguồn: Hợp tác hoá nông nghiệp Việt Nam-NXB Sự Thật, 1992, trang 111. Nhìn chung quy mô nông trại ở các nước Châu á vào loại thấp có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó nguyên nhân chủ yếu là do Châu á chủ yếu canh tác lúa nước nên quy mô khoảng từ 1,5 đến 2 ha là hợp lý và hiệu quả. Qua tìm hiểu ở các nước phát triển và đang phát triển về kinh tế hộ nông dân, ta có thể rút ra một số nhận xét sau đây: -Nông trại gia đình tuy quy mô không lớn và phân tán ở nông thôn nhưng nó đã tạo ra năng suất, sản lượng nông sản cao và tập trung. Sự tồn tại và phát triển lâu dài của nông trại là do tính đặc thù của sản xuất nông nghiệp quy định. -Các nông trại trong nền sản xuất hàng hoá là lực lượng sản xuất hàng hoá chủ yếu trong nông nghiệp, sản xuất là hướng ra thị trường nó khác hẳn với kinh tế tiểu nông. -Cơ cấu sản xuất kinh doanh của các nông trại rất đa dạng có nông trại chuyên sản xuất 1-2 loại sản phẩm ngũ cốc hoa quả, cà phê, cao su hay chăn nuôi bò, lợn, gà... có nông trại sản xuất kinh doanh tổng hợp, kết hợp trồng trọt với chăn nuôi, với nghề rừng hoặc với các ngành phi nông nghiệp. -Đa số các nông trại chỉ sử dụng lao động gia đình là chủ yếu, số nông trại thuê lao động không nhiều, nếu có chủ yếu chỉ thuê theo thời vụ và số lượng thuê không nhiều. Vì là nông trại gia đình nên có nông trại gồm nhiều thế hệ. -Phần lớn nông trại canh tác trên ruộng đất của riêng, cha truyền con nối. Cũng có một phần nông trại canh tác ruộng đất thuê dài hạn của nhà nước hay tư nhân. Quy mô của các nông trại tuỳ vào trình độ tranh bị tiến bộ khoa học kỹ thuật mà có sự khác nhau. Diễn biến về quy mô và số lượng diễn ra từ từ trong một thời gian dài và không ảnh hưởng tới sản xuất, và năng xuất ngày càng được nâng lên. -Hình thức sử dụng công cụ lao động cũng có sự khác nhau, có nông trại tự bỏ vốn mua riêng máy móc tự sản xuất cũng có nông trại sử dụng hình thức hợp tác hoặc đi thuê. 2- Sự phát triển kinh tế hộ nông dân ở nước ta. Trong hơn một thập kỷ vừa qua, cùng với quá trình đổi mới và sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế, nông nghiệp nước ta đã có một bước tiến dài trên con đường phát triển của mình. Đạt được những thành tựu to lớn trên tất cả các mặt. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, thường xuyên phải nhập lương thực, thực phẩm từ nước ngoài, đến nay chúng ta đã hoàn toàn tự túc được số lượng lương thực và thực phẩm cho nhu cầu trong nước. Bảo đảm sự ấm no trong đời sống của nhân dân và an ninh lương thực quốc gia với mức đọ tăng trưởng hàng năm đạt 4,3%. Năm 1997 so với năm 1987 sản lượng lương thực tăng 1,8 lần, cà phê tăng 20 lần, cao su tăng 3,5 lần, chè tăng 1,8 lần.Không những thế, sản phẩm nông nghiệp thường xuyên chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, thường xuyên chiếm 40 đén 50% với mức tăng trung bình đạt sấp xỉ 20% năm. Hàng năm thu về hàng tỷ đô la, góp phần quan trọng đưa đất nước vượt qua khủng hoảng kinh tế, ổn định xã hội, tạo điều kiện và tiền đề tiến hành những cải cách sâu rộng khác để bước vào thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Góp phần vào những thành tựu to lớn đó, kinh tế hộ nông dân Việt nam đang dần khảng định vai trò và vị trí của mình đối với đất nước. Tuy nhiên, không phải dễ dàng mà chúng ta có những thành tựu này, đó là cả một quá trình mà kinh tế hộ nông dân đã phải trải qua, có những lúc khó khăn, gian khổ, tưởng chừng không thể thay đổi, nhưng chúng ta vẫn vượt qua để có ngày hôm nay. Sau đây chúng ta sẽ đề cập đến và phân tích từng quá trình mà kinh tế hộ nông dân nước ta đã phải trải qua. a-Hộ nông dânViệt nam dưới chế độ phong kiến, thực dân. Theo số liệu thống kê trước cách mạng tháng tám - 1945, nông dân ta chiếm 97% tổng số nông hộ, nhưng chỉ có 36% diện tích ruộng đất. Khoảng 40% số hộ nông dân có chút ít ruộng tư, còn lại 1/2(ở Bắc kỳ và Trung kỳ) và 2/3 số hộ (ở Nam kỳ) không có lấy một “mảnh đất cắm dùi”. Theo số liệu của Yves Henry(1930) thì: -ở Bắc kỳ số hộ có dưới 0,36 ha chiếm 61,8% người có ruộng,số có từ 0,36 đến 1,8 ha chiếm 28,8%. -ở Trung kỳ số hộ có dưới 0,5ha chiếm 68,5%người có ruộng, có 0,5 đén 2,5 ha là 25,3% tổng số chủ ruộng. -ở Nam kỳ số hộ có dưới 1ha chiếm 33,6%, còn số hộ có 1 đến 3 ha là 38%. Như vậy phần lớn nông dân có ruộng ở Việt nam thời kỳ này chỉ có dưới 1 ha, mà số này lại không đông, tầng lớp nông dân trong xã hội bị phân hoá thành nhiều thành phần: +Cố nông: vì không có ruộng nên chuyên sống bằng nghề làm thuê.Họ thường chỉ có việc làm vào hai tháng trong năm đó là hai vụ tháng năm và tháng mười. Thành phần này phải ăn đói tới 7 đến 8 tháng trong năm. +Bần nông và trung nông lớp dưới: Thành phần này có chút ít ruộng đất và công cụ sản xuất. Thường phải lãnh canh ruộng đất của địa chủ để cày cấy thêm. Việc làm thuê chỉ là phụ đối với tầng lớp này. Những người lĩnh canh ruộng đất của địa chủ được gọi là những tá điền. Họ phải chịu bao phí tổn từ lúc cày bừa, chăm sóc...Vậy mà sau mỗi vụ gặt tá điền thường phải nộp cho địa chủ 50 đến75% hoa lợi. Ngoài địa tô chính tá điền còn phải nộp cho địa chủ nhiều khoản địa tô như tô trâu;tô nước; tô nông cụ. Thành phần nông dân này thường phải chịu đói từ 3 đến 6 tháng trong một năm. Trong thời kỳ phong kiến và thực dân này đời sống của người nông dân vô cùng cực khổ, kinh tế hộ nông dân không có cơ may phát triển. Tô cao, tức nặng, sưu thuế chồng chất làm cho người nông dân không đủ nuôi sống mình và càng không có điều kiện cải tiến công việc đồng áng. Ruộng đất manh mún, công cụ sản xuất cũ kỹ, lạc hậu như ngàn năm trước, phần lớn bằng tre, gỗ, ít cái bằng kim loại nên vừa nặng nề, vừa mau hỏng. Người ta dùng trâu bò để kéo cầy, không có trâu bò thì người kéo thay. Các khâu của quá trình sản xuất vô cùng lạc hậu nhất là các vùng núi và dân tộc ít người. Đã thế, những năm mưa thuận gió hoà thì ít những năm có bão lụt,sâu bệnh...thì nhiều áp bức bóc lột cùng với sự tàn phá của thiên nhiên đã kìm hãm ghê ghớm sức sản xuất của hàng triệu nông dân lao động. Năng xuất cây trồng lao động rất thấp, trung bình lúa chỉ đạt 10-12 tạ/ha. Tóm lại, dưới chế độ thực dân phong kiến, nông dân nước ta rơi vào cảnh “một cổ đôi ba tròng”. Họ bị các tầng lớp ăn bám trong xã hội là đế quốc, phong kiến và tư sản sâu xé. Làm việc cực nhọc mà không được hưởng kết quả do mình làm ra, cuộc sống vô cùng khó khăn và vất vả. b. Kinh tế hộ nông dân Việt Nam từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945. Cách mạng tháng 8 năm 1945 là mốc lịch sử quan trọng đánh dấu sự thay đổi cơ bản của xã hội Việt nam, đồng thời là sự đổi đời của nông dân Việt nam, tạo lên một tiền đề quan trọng cho sự phát triển của kinh tế hộ nông dân nước ta. -Từ sau cách mạng tháng 8, Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông nam á đã từng bước giải quyết những vấn đề ruộng đất theo khẩu hiệu “người cầy có ruộng” của Đảng cộng sản, giảm tô, xoá nợ... -Đầu năm 1954, kháng chiến thực dân phấp thắng lợi. Qua cải cách ruộng đất, nông dân miềm Bắc được chia 810.000 ha ruộng đất tịch thu của địa chủ. ở miền Nam, nông dân được chia cấp 750.000 ha ruộng đất các loại, riêng ở Nam bộ 564.547 ha đã về tay nông dân làm chủ. Thời kỳ 1955-1957, hộ nông dân ở miền Bắc đã thực sự đóng vai trò điều hành sản xuất theo đúng nghĩa là đơn vị kinh tế tự chủ. Thời gian này nông nghiệp miền Bắc đã đạt được những thành tựu lớn. So với thời kỳ năm 1939 thì các chỉ tiêu của những năm 1955-1957 đạt như sau: +Sản lượng quy thóc tăng 57%, riêng thóc tăng 53%. +Năng suất lúa tăng 30,8%, lương thực bình quân đầu người tăng 43,6%. +Đàn trâu tăng 44%, đàn bò tăng 39%, đàn lợn tăng 20%. -Từ năm 1958 đến 1980, chủ trương hợp tác hoá thực chất là tập thể hoá nông nghiệp đã làm lu mờ dần vai trò của kinh tế hộ nông dân. Toàn bộ công việc từ sản xuất tới phân phối sản phẩm đều do HTX nông nghiệp điều hành. -Từ năm 1981 đến 1987. Cùng với sự ra đời của chỉ thị 100 của Ban bí thư trung ương Đảng, nông nghiệp nước ta đã có sự khởi sắc bước đầu. Hộ nông dân đã được đảm nhận một số khâu công việc trong quá trình sản xuất. Gắn quyền lợi và trách nhiệm của người nông dân với kết quả cuối cùng nên đã đạt được một số thành tựu to lớn: Thời kỳ 1981-1985 so với thời kỳ 1976-1980, sản lượng lương thực quy thóc tăng 27% năng xuất lúa tăng 23,8%, diện tích cây công nhiệp tăng 62,1%, đàn bò tăng 33,2%, đàn lợn tăng 22,1%, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng 5%/năm sản lượng lương thực bình quân tăng 4,83%/năm, lượng lương thực bình quân đầu người liên tục tăng qua các năm. 1981: 273kg; 1982: 299 kg; 1983: 296 kg; 1984: 303 kg; 1985: 305 kg... đời sống của người nông dân đã được cải thiện một bước đáng kể. Mặc dù vậy nhưng tính tích cực của cơ chế thoáng 100 chỉ phát huy được trong một thời gian ngắn, có nhiều tiêu cục xảy ra và cần có sự sửa đổi. -Thời kỳ 1988 tới nay: Đứng trước tình hình đó, tháng 4 năm 1988, Bộ chính trị đã ra Nghị quyết số 10 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, xác lập vị trí tự chủ cho hộ nông dân ở nước ta. Sản xuất nông nghiệp nước ta đã có những chuyển biến quan trọng,ở các địa phương ruộng đất đã được giao cho hộ nông dân sử dụng lâu dài. Quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cùng với quyền sử hữu tư liệu sản xuất khác là nguồn gốc tạo ra động lực mới thúc đẩy hộ nông dân chăm lo sản xuất, đồng thời khắc phục tình trạng vô chủ trong quản lý sử dụng đất đai và các tư liệu sản xuất khác trong nhiều năm ở nông thôn. Hiện nay ở nước ta có trên 10 triệu hộ nông dân với 70% lao động cả nước và 84% lao động ở nông thôn. Theo số liệu điều tra của Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp tại 26 huyện thuộc các vùng khác nhau trong cả nước nhằm nghiên cứu thực trạng kinh tế của các hộ nông dân, chúng ta có những số liệu như sau: +Bình quân nhân khẩu và lao động của mỗi hộ ở các vùng có sự khác nhau. ở Trung du và miền núi phía Bắc trung bình một hộ nông dân có từ 4 đến 5 nhân khẩu và từ 2 đến 3 lao động thì ở đồng bằng sông Hồng và khu 4 cũ các con số này tương ứng là 4 đến 5 và 1 đến 3, ở Duyên hải trung bộ và đồng bằng sông Cửu long là 6 đến 7 và 3 đến 4; 70 đến 80% chủ hộ là nam giới. Trình độ văn hoá trung bình ở đồng bằng sông Hồng là lớp 6 đến 7; ở khu 4 cũ, Trung du miền núi phía Bắc và Duyên hải trung bộ là lớp 5 đến 6; đồng bằng sông Cửu long là lớp 3 đến 4. +Diện tích canh tác trung bình của một hộ: ở phía Bắc: 0,3-0,4 ha. Duyên hải trung bộ: 0,4-0,6 ha. Đồng bằng sông Cửu long: 0,6-1 ha. +Công cụ lao động của hộ nông dân chủ yếu là thô sơ, số cơ giới hoá, có máy móc phục vụ sản xuất rất ít. +Hiện nay cả nước chúng ta có: 14,8% số hộ nông dân nghèo (khoảng 1,5-1,6 triệu hộ) đang còn ở trình độ sản xuất tiểu nông tự cấp tự túc, nhiều khi không đủ ăn. 62,8% số hộ nông dân trung bình (khoảng 6,3-6,5 triệu hộ) chủ yếu là sản xuất tự túc, đủ ăn, có một ít nông sản hàng hoá không đáng kể. 22,4% số hộ khá và giàu (khoảng 2,2-2,3 triệu hộ), bước đầu vượt ra khỏi quỹ đạo của nền kinh tế tiểu nông tự cấp tự túc để đi vào sản xuất hàng hoá với các mức độ khác nhau. + Chúng ta thực sự vui mừng là cùng với các chính sáh đổi mới và khuyến khích hộ nông dân phát triển, đến nay cả nước chúng tá có trên 100.000 trang trại các loại. Con số này tuy không lớn đối với một số nước trên thế giới nhưng đối với chúng ta nó là một sự thành công ghi nhận sự phát triển bước đầu lên sản xuất lớn, sản xuất hàng hoá của hộ nông dân Việt nam. Kinh tế trang trại đang được quan tâm phát triển trên khắp cả nước, số trang trại ngày càng nhiều, hiệu quả mang lại ngày càng cao. Chúng ta có quyền hy vọng vào một tương lai tươi sáng của nền nông nghiệp nước nhà. Qua thực tế phát triển kinh tê hộ nông dân ở nước ta hiện nay, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét sau đây: -Hộ nông dân sản xuất nhiều nông sản hàng hoá xuất hiện ở hầu hết các địa phương. Kinh tế trang trại đang dần khẳng định vai trò và vị thế của mình. -Các hộ sản xuất hàng hoá bao gồm nhiều dân tộc ở khắp mọi miền của tổ quốc. -Các hộ sản xuất nhiều hàng hoá có cơ cấu sản xuất đa dạng với nhiều ngành nghề khác nhau. Có hộ sản xuất chuyên canh nhưng cũng có những hộ sản xuất tổng hợp. -Quy mô sản xuất của các hộ nông dân nước ta nói chung là nhỏ, kể cả về ruộng đất, vốn liếng cũng như khối lượng sản phẩm và thu nhập. -Lao động của hộ nông dân nước ta bình quân là 2 lao động chính với trình độ văn hoá có nơi còn rất thấp. -Khả năng phát triển sản xuất hàng hoá của các hộ nông dân nước ta rất cao. Như vậy, kinh tế hộ nông dân nước ta đang phát triển từ kinh tế tiểu nông tự cấp tự túc lên kinh tế trang trại sản xuất hàng hoá, phù hợp với quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường và xu hướng phát triển của nền nông nghiệp thế giới. III- Xu hướng phát triển của kinh tế hộ nông dân và những bài học kinh nghiệm rút ra. 1- Xu hướng phát triển của kinh tế hộ nông dân. Kinh tế hộ nông dân là hình thức sản xuất phổ biến trong nông nghiệp, nó tồn tại ở tất cả các nước, tất cả các vùng và trên toàn thế giới. Tuỳ từng điều kiện sản xuất nông nghiệp khác nhau, tuỳ theo trình độ và mức độ phát triển kinh tế hộ khác nhau, tuỳ từng chính sách phát triển ở mỗi nước có sự khác nhau mà xu hướng phát triển của kinh tế hộ nông dân ở những nơi đó trong thời gian sắp tới không hoàn toàn giống nhau. Tuy nhiên chúng ta có thể rút ra được những đặc điểm cơ bản, những đặc điểm chung nhất của xu hướng phát triển kinh tế hộ nông dân hiện nay trên toàn thế giới: -Kinh tế hộ nông dân từ sản xuất tự cung, tự cấp, hàng hoá nhỏ từng bước tiến lên sản xuất hàng hoá lớn, kinh tế trang trại: đây là xu hướng nổi bật của kinh tế hộ nông dân, các hộ không ngừng tích tụ và tập trung đất đai, tiền vốn, lao động, khoa học công nghệ và các nhà nước cũng không ngừng đầu tư về tiền vốn, tín dụng ưu đãi, xây dựng cơ sở hạ tầng, có chính sách phát triển... với cùng một mục đích là thúc đẩy hộ nông dân sản xuất hàng hoá ra đời và phát triển. Điều đó là phù hợp với quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường và xu hướng phát triển của nền nông nghiệp thế giới. -Trình độ tổ chức sản xuất của hộ nông dân ngày càng được nâng cao: Cùng với quá trình tiến nên sản xuất hàng hoá, trình độ tổ chức sản xuất của hộ cũng ngày càng được nâng cao. Đó là đòi hỏi tất yếu của một nền sản xuất hàng hoá, có như vậy hộ nông dân mới mang lại được hiệu quả kinh tế cao, mới đáp ứng được yêu cầu đặt ra của quá trình phát triển. Hộ nông dân không những chỉ làm, chỉ sản xuất độc canh một loại cây trồng nào đó mà sẽ sản xuất tổng hợp nhiều loại cây trồng, vật nuôi theo yêu cầu của thị trường. Sẽ không những kinh doanh một ngành nhất định mà còn vươn tới hoạt động trên nhiều ngành khác nhau: nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp theo yêu cầu hiệu quả kinh tế đặt ra. Một điều tất yếu đi đôi với trình độ tổ chức sản xuất của hộ nông dân được nâng cao là việc trình độ của người lao động sẽ không ngừng được cải thiện, số lao động làm nông nghiệp sẽ được tinh giản tới mức tối đa. -Số hộ làm nông nghiệp sẽ giảm và thu nhập, đời sống của nông hộ cũng ngày một được nâng lên. Đó là hệ quả tất yếu trong quá trình phát triển của nông nghiệp nói chung và kinh tế hộ nông dân nói riêng. Số hộ, số lao động trong nông nghiệp ngày một giảm đánh giá mức độ phát triển của nông nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Tất cả những xu hướng phát triển chung của kinh tế hộ nông dân như đã nêu ở trên đều là sự đòi hỏi của quá trình phát triển, đòi hỏi của một nền nông nghịêp tiên tiến, hiện đại và đó là một quá trình phát triển khách quan và tất yếu. ở nông thôn nước ta hiện nay hình thành ba loại hộ đó là hộ có khả năng sản xuất hàng hoá; hộ sản xuất tự cấp tự túc và hộ nghèo. Cả ba loại hộ này đều sẽ phát triển theo những xu hướng mà chúng ta đã nêu nên ở trên; tuy nhiên trong những năm trước mắt, xu hướng vận động phát triển chung của kinh tế hộ nông dân nước ta là phải liên kết hợp tác giữa các hộ với nhau, giữa các hộ với thành phần kinh tế khác nhằm tăng nhanh loại hộ sản xuất hàng hoá và thu hẹp loại hộ nghèo. Nhưng tuỳ loại hộ, tuỳ từng điều kiện cụ thể của từng vùng mà xu hướng vận động phát triển của nó mang tính chất riêng biệt. +Đối với những hộ sản xuất hàng hoá: đây là những hộ nông dân có năng lực tổ chức sản xuất kinh doanh, nắm bắt được tiến bộ khoa học và công nghệ, nhạy bén với thị trường... đã vươn lên làm ăn khá giả. Đây cũng sẽ là loại hộ đại diện cho sức sản xuất mới đang phát triển ở nông thôn và là nhân tố cơ bản kích thích quá trình chuyển nền nông nghiệp lạc hậu sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá. Loại hình hộ nông dân này sẽ phát triển theo hướng sản xuất nông trại, trang trại. Sẽ được hình thành và phát triển nhiều ở những nơi còn nhiều đất như vùng Trung du, miền núi, Tây nguyên và đồng bằng sông Cửu long. +Đối với nhóm hộ sản xuất tự cấp tự túc thì xu hướng vận động biến đổi của chúng sẽ là từng bước chuyển dần sang sản xuất hàng hoá. +Đối với nhóm hộ nghèo: là nhóm chỉ chủ yếu độc canh cây lương thực. Họ không có khả năng đầu tư thâm canh và phát triển mới. Vì vậy Đảng, nhà nước và chính quyền địa phương cần quan tâm giúp đỡ tạo điều kiện cho hộ nông dân nghèo có thể vươn lên làm ăn sinh sống bình thường và phấn đấu trở thành khá giả. Nắm bắt được xu hướng vận động và phát triển này, chúng ta sẽ có những chính sách đáp ứng yêu cầu phát triển của mỗi loại hộ. 2- Những bài học kinh nghiệm rút ra. Qua tìm hiểu thực trạng phát triển kinh tế hộ nông dân của một số nước trên thế giới và tình hình phát triển kinh tế hộ nông dân của Việt nam trong nhiều năm. Em rút ra được một số kinh nghiệm phát triển kinh tế hộ nông dân như sau: -Kinh tế hộ nông dân (kinh tế trang trại) là hình thức tổ chức cơ sở trong nông nghiệp. Được phát triển phổ biến và nó cần tạo điều kiện để phát triển vì kinh tế hộ nông dân có nhiều ưu điểm mà các hình thức sản xuất khác không có được. -Không thể áp dụng, áp đặt phương pháp sản xuất công nghiệp vào nông nghiệp, nghĩa là không thể tách quản lý sản xuất ra khỏi sản xuất, các chủ hộ sẽ vừa là người quản lý, vừa là người lao động trực tiếp và vừa là người kinh doanh. Để quản lý nông trại hiện đại, người chủ hộ phải có những kiến thức rộng, phải có năng lực và đặc biệt là phải có thái độ người chủ đồng thời là người thân thiết gần gũi đối với đất đai, vật nuôi, cây trồng. -Con đường phát triển kinh tế hộ nông dân tự cấp tự túc nên kinh tế trang trại không phải là quy luật riêng của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mà là quy luật phát triển chung của nền nông nghịêp thế giới, là một tất yếu khách quan trong quá trình chuyển từ nông nghiệp tự nhiên sang nông nghiệp hàng hoá. -Hộ nông dân chuyển từ sản xuất tiểu nông lên sản xuất hàng hoá, tất yếu phải phát triển theo quy mô trang trại gắn với hình thức hợp tác cần thiết. Nhà nước đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế hộ bằng cơ chế, chính sách, biện pháp hỗ trợ người nông dân của mình. -Tư liệu sản xuất là điều tối cần thiết đối với kinh tế hộ đặc biệt là đất đai và vốn sản xuất. -Các hộ nông dân chủ yếu sử dụng lao động gia đình kết hợp với phương tiện hiện đại mọi xu hướng đi ngược đều không mang lại hiệu quả cao. -Quá trình phát triển kinh tế hộ nông dân phải gắn liền với quá trình tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật trong nông nghiệp. IV- Chủ trương - chính sách của Đảng và nhà nước đối với sự phát triển của kinh tế hộ nông dân ở nước ta. Kể từ ngày giành lại độc lập cho đất nước, ý thức được tầm quan trọng của việc phát triển kinh tế hộ nông dân ở nước ta, Đảng và nhà nước đã có nhiều chủ trương. Chính sách nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân hợp với quy luật khách quan, xu thế phát triển của nông nghiệp và yêu cầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, bước đầu đã đem lại được những kết quả đáng mừng. -Ngay sau khi kháng chiến thực dân pháp thắng lợi (1954) chính phủ Việt nam Dân Chủ Cộng Hoà đã ban hành một số chính sách khuyến khích hộ phát triển. +Bảo đảm quyền sở hữu ruộng đất. +Tự do thuê mướn nhân công, tự do thuê và cho thuê trâu bò. -Năm 1979 tại hội nghị Trung ương lần VI (khoá IV) đã chủ trương tạo điều kiện cho kinh tế hộ nông dân bung ra bằng các giải pháp: +Thừa nhận kinh tế nhiều thành phần. +Cho các hộ xã viên mượn đất nhằm khắc phục tình trạng bỏ đất hoang. +ổn định nghĩa vụ lương thực, điều chỉnh giá mua nông sản, thực hiện mua theo giá thoả thuận. +Bỏ việc phân phối định xuất, thực hiện phân phối theo lao động. +Hạn chế trích lập các quỹ tập thể nhằm tăng thu nhập cho xã viên. +Thừa nhận kinh tế gia đình và coi kinh tế gia đình là một bộ phận hợp thành của kinh tế XHCN. -Chỉ thị 100 của Ban bí thư Trung ương Đảng (1981). Tiếp tục phát triển và khẳng định chủ trương năm 1979. Ngoài ra kinh tế hộ nông dân còn được đảm nhận ba trong tám khâu khoán việc trong quá trình sản xuất. Nhận khoán và nộp thuế. -Nghị quyết số 10 của Bộ chính trị (4/1988) khẳng định: +Thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ nhận khoán. +Nông dân chỉ còn một nghĩa vụ nộp thuế. +Thực hiện chính sách một giá, với nông dân chủ yếu là gía thoả thuận. +Thương mại hoá vật tư. -Luật đất đai 1993 và luật đất đai sửa đổi 1997 nêu rõ: +Toàn bộ quỹ đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý trên phạm vi cả nước. +Ruộng đất do nhà nước giao quyền sử dụng ổn định, lâu dài cho những người làm nông, lâm, ngư nghiệp. Các hộ nông dân có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, cho thuê và thế chấp quyền sử sụng đất trong thời hạn được giao. +Người sử dụng đất có trách nhiệm sử dụng đất đúng mục đích tiết kiệm, có hiệu quả và phải bảo vệ, cải tạo đất. Kiên quyết xoá bỏ những phương thức kinh doanh lạc hậu làm huỷ hoại đất đai. -Ngòai những chính sách đã nêu, nhà nước còn ban hành một số chính sách như: Nghị quyết Trung ương lần thứ V (khoá VII) và Nghị định 14/CP ngày 2/3/1993 của chính phủ về chính sách cho hộ nông dân vay vốn; Nghị định 13/CP ngày 2/3/1993 của chính phủ quy định cụ thể về công tác khuyến nông; Nghị quyết Trung ương lần V (khoá VII) về chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn; Nghị quyết Trung ương IV (1997) và Nghị quyết số 06 năm 1998 của Bộ chính trị về phát triển nông nghiệp nông thôn; Quyết định số 67/1999/QĐ-UB ngày 30/3/1999 về vay vốn không phải thế chấp; Quyết định số 30/1998/NĐ-CP ngày 13/5/1998 về quy định thuế thu nhập; và gần đây nhất là Nghị quyết số 03/2000/QĐ-CP ngày 2/2/2000 về phát triển kinh tế trang trại. -Đặc biệt trong nhiều năm tới đây, Đảng và nhà nước ta cũng sẽ thống nhất quan điểm và tiếp tục khẳng định vai trò của kinh tế hộ nông dân. Điều này được thể hiện thông qua Dự thảo cac văn kiện trình Đại hội IX của Đảng sắp tới đây trong đó nêu rõ sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất hàng hoá là một điều tất yếu và cần được khuyến khích phát triển trên con đường phát triển của đất nước. Với một loạt những chủ trương và chính sách đã có của mình, Đảng và Nhà nước ta đang dần hướng tới một hệ thống chính sách hoàn thiện về phát triển kinh tế hộ nông dân ở nước ta. Điều này đã thực sự tạo tiền đề to lớn cho sự phát triển của nền nông nghiệp nói chung và kinh tế hộ nông dân nói riêng. Bằng những kết quả rực rỡ đã đạt được trong những năm vừa qua, chúng ta hoàn toàn có thể hy vọng vào một tương lai tốt đẹp của kinh tế hộ nông dân trong thời gian sắp tới. Chương II Thực trạng phát triển kinh tế hộ nông dân ở huyện Thanh Miện-tỉnh Hải Dương I- Những điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội chủ yếu của huyện ảnh hưởng tới sự phát triển của kinh tế hộ nông dân. 1- Điều kiện tự nhiên: a-Vị trí địa lý: Thanh miện là một huyện đồng bằng nằm ở phía tây Nam của tỉnh Hải dương.Tổng diện tích đất tự nhiên của toàn huyện là 122 km2 trải dài từ 1060 7’50’’ đến 106016’20” kinh độ đông và từ 20040’45” đến 20050’55’’ vĩ độ bắc. Phía tây bắc giáp với huyện Bình Giang, Phía đông bắc giáp với huyện Gia Lộc, Phía tây giáp với huyện Phù Cừ của Hưng Yên, Phía đông nam giáp với huyện Ninh Giang, Phía nam giáp với tỉnh Thái Bình. Trung tâm huyện Thanh Miện cách Hà Nội 66 km; cách thành phố Hải Dương 23 km và thị xã Hưng yên 30 km theo đường bộ. Với vị trí địa lý như trên, cùng với mạng lưới giao thông tốt, Thanh miện là một huyện có nhiều điều kiện thuận lợi để sản xuất hàng hoá. b-Đặc điểm thời tiết, khí hậu. Do nằm trong vị trí trung tâm của đồng bằng sông Hồng nên Thanh Miện có khí hậu đặc trưng của đồng bằng Bắc bộ đó là khí hậu nhiệt đới gió mùa. Trong năm phân biệt thành bốn mùa rõ rệt. Lượng mưa nhiều chủ yếu vào hai thời kỳ đó là từ tháng 4 đến tháng 9 và mưa rất ít từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa trung bình của huyện trong năm từ 1350 tới 1600 mm (cao nhất 2501 mm (1973); thấp nhất 752,2 mm (1989)). Nhiệt độ trung bình trong năm trên địa bàn huyện là 23,30C số ngày nóng trong năm là 180 đến 200 ngày. Độ ẩm trung bình từ 81 đến 87%. c-Đặc điểm đất đai, địa hình và nguồn nước. Tổng diện tích đất tự nhiên trên địa bàn toàn huyện là 122 km2 , trong đó có 8464 ha đất nông nghiệp. Cơ cấu đất nông nghiệp của huyện rất phức tạp trong đó có 1489,02 ha đất chân cao; 4462,91 ha đất chân vàm; 1757,3 ha đất thấp và 354,84 ha đất triều chũng. Trong tổng số 8464 ha đất nông nghiệp của huyện thì có tới 6.028 ha đất ở độ chua cấp một (PH< 4,5), chiếm tỷ lệ ~ 70%. Nhìn chung đất nông nghiệp nghèo dinh dưỡng, tầng canh tác mỏng, tỷ lệ đất nghèo lân chiếm tới gần 60%. Đất nông nghịêp của huyện ở địa hình dốc từ tây bắc xuống đông nam, có cao trình cao thấp xen kẽ nhau. Cao độ Diện tích (ha) Tỷ lệ (%) 3,0 - 2,0 3500 40,6 2,0-1,5 2200 25,5 1,5-1,0 2004 23,2 dưới 1,0 942 10,7 Nguồn nước tưới tiêu trên địa bàn huyện khá đa dạng và ổn định do Thanh Miện nằm trong hệ thống thuỷ lợi Bắc Hưng Hải. Phía nam huyện giáp sông Luộc với chiều dài 2,8 km. Trong nội đồng có sông Hàng kẻ sặt, sông Cửu an là trục chính Bắc Hưng Hải. Toàn bộ hệ thống sông nội đồng này tiếp giáp với sông ngoài bằng cửa Cầu xe và An thổ. 2- Điều kiện kinh tế - xã hội: Trong những năm vừa qua, hoà chung với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế đất nước, kinh tế huyện Thanh Miện cũng có sự khởi sắc đáng khích lệ. Tốc độ tăng trưởng trung bình của nền kinh tế trong 5 năm 1996-2000 là 8,12%. Năm 2000 dân số toàn huyện là 128.800 người với tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1,1%. Tổng giá trị nội huyện đạt 454,6 tỷ đồng. Giá trị sản phẩm bình quân đầu người đạt 3,5 triệu đồng, tăng 1,42 triệu so với năm 1995. Lương thực bình quân đầu người đạt 710 kg/ người/năm. Tỷ lệ hộ nghèo còn 11,1% vào năm 2000, không còn hộ đói. Cơ cấu kinh tế chung của toàn huyện năm 2000: nông nghiệp đạt 302,2 tỷ đồng chiếm 66,5% tiểu thủ công nghiệp đạt 62,4 tỷ chiếm 13,7%, dịch vụ đạt 90 tỷ chiếm 19,8% tổng giá trị nội huyện. Trong nhiệm kỳ vừa qua, Đảng bộ và nhân dân huyện Thanh Miện đã có sự cố gắng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tuy nhiên tỷ trọng ngành nông nghiệp vẫn lớn, đặc biệt số lao động làm việc trong ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ cao. Theo điều tra năm 2000 thì vẫn còn tới 84,6% số lao động toàn huyện làm việc trong ngành này. Trong khi đó số lao động làm việc trong ngành tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ chỉ có 15,2%. Đây là tỷ lệ không hợp lý mà trong một vài năm tới Thanh Miện sẽ phải cố gắng để cải thiện tình hình này. Nhìn chung hiện nay cơ sở hạ tầng nông thôn trên địa bàn huyện khá đầy đủ và khang trang. Cả huyện có hai trường THPT. Mỗi xã có một trường THCS, một trường tiểu học, mỗi thôn có ít nhất một nhà trẻ mẫu giáo; trạm y tế xã đã được hoàn tất từ lâu. Tất cả các đường giao thông nông thôn đều được dải nhựa, đá, bê tông hoặc gạch ngiêng. Hệ thống công trình thuỷ lợi cũng được hoàn tất và đảm bảo tưới tiêu trên toàn bộ diện tích canh tác của huyện. Đời sống của nhân dân trong huyện ngày càng được cải thiện, số hộ giàu ngày càng nhiều, tỷ lệ hộ nghèo ngày càng giảm. An ninh, trật tự ổn định và đảm bảo. Đời sống văn hoá tinh thần được bảo đảm và không ngừng được nâng cao. II- Thực trạng phát triển kinh tế hộ nông dân huyện Thanh Miện-Tỉnh Hải Dương. 1- Tình hình sản xuất của huyện trong một số năm vừa qua. Trong những năm vừa qua, cùng với sự cố gắng của Đảng Bộ và nhân dân trong toàn huyện, nền kinh tế huyện Thanh Miện đã có những chuyển biến và khởi sắc đáng mừng. Tổng sản phẩm nội huyện liên tục tăng với tốc độ khá. Biểu2: Tốc độ tăng trưởng của các ngành thời kỳ 1997-2000 Đơn vị: triệu đồng Năm Ngành 1997 1998 1999 2000 Tốc độ phát triển (%) 98/97 99/98 00/99 TB GDP 371.800 406.500 431.200 454.600 9,33 6,07 5,42 7,00 1-Nông-nghiệp -Trồng trọt -Chăn nuôi 2-TTCN-XD 3-Dịch vụ-TM 255.600 188.900 66.700 50.600 65.900 275.600 241.000 61.600 55.400 75.500 289.800 219.600 70.200 58.900 83.200 302.200 226.700 75.500 62.400 90.000 7,82 13,28 -7,65 9,48 14,56 5,15 2,61 13,96 6,31 10,20 4,27 3,23 7,55 5,94 8,17 5,70 6,36 4,66 7,24 11,00 Nguồn: phòng thống kê huyện Thanh Miện. Qua biểu số liệu chúng ta nhận thấy tổng sản phẩm nội huyện, trong thời kỳ vừa qua tăng trưởng với tốc độ khá (trung bình 7%). Tuy nhiên không đều, cụ thể là giảm dần trong những năm gần đây. GDP toàn huyện vẫn tăng qua các năm nhưng tốc độ tăng giảm dần, năm 2000 tốc độ tăng chỉ còn 5,42%.Đó là điều chúng ta cần phải suy nghĩ và tìm ra nguyên nhân của nó. Nhìn vào các ngành cụ thể chúng ta cũng thấy tình trạng diễn ra tương tự mặc dù hai ngành là TTCN và Thương mại - dịch vụ có tăng ở tốc độ khá cao. Năm 1998 tốc độ tăng trưởng đạt ở mức cao nhất trong thời kỳ ở tất cả các ngành. Năm 1999 tốc độ tăng trưởng của ngành trồng trọt giảm mạnh từ 13,28%, năm 1998 xuống chỉ còn 2,61% . Điều đó đã có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả chung. Nhưng ngành chăn nuôi lại có sự khởi sắc vào năm này với tốc độ tăng trưởng đạt 13,96%, điều này lại càng có ý nghĩa khi chúng ta biết trước đó, năm 1998 tốc độ tăng trưởng đạt - 7,65%. Năm 2000 tất cả các ngành đều có tốc độ tăng trưởng giảm, tuy nhiên tốc độ giảm đã ít đi. Riêng ngành trồng trọt của huyện đã có bước đầu khởi sắc trở lại với tốc độ 3,23%. Đây thực sự là tín hiệu đáng mừng đối với nền kinh tế Thanh Miện. Tuy tốc độ tăng trưởng của các ngành trong huyện không đều nhưng nhìn chung cả thời kỳ chúng ta vẫn có tốc độ tăng trưởng khá ở tất cả các ngành, phù hợp với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế cả nước. Đặc biệt trong ngành nông nghiệp đã có mức tăng cao hơn (5,7%). Biểu1 cũng cho chúng ta thấy một điều là sự phát triển kinh tế của huyện phụ thuộc rất nhiều vào ngành nông nghiệp, đặc biệt là ngành trồng trọt. Tốc độ tăng trưởng của trồng trọt có ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ tăng trưởng của cả nền kinh tế. Mà thời gian vừa qua ngành trồng trọt có tốc độ tăng trưởng thấp và không đều nhất là các năm 1999 và 2000. Điều này xảy ra có nhiều nguyên nhân, mà một nguyên nhân chủ yếu là bộ giống cây trồng của huyện không có sự thay đổi đột biến tích cực. Nhiều giống cây trồng cho năng xuất không cao vẫn được sử dụng từ nhiều năm nay. Tình trạng xuy giảm nội lực trong toàn bộ nền kinh tế cũng có ảnh hưởng xấu đến tốc độ phát triển của nền kinh tế mà trong một số năm sắp tới, Thanh Miện phải tìm cách cải thiện tình hình này. Cùng với việc giữ nhịp độ phát triển khá của nền kinh tế, huyện Thanh Miện đang phấn đấu tới một cơ cấu kinh tế cân bằng và hợp lý đối với một huyện đồng bằng châu thổ sông Hồng. Biểu3 cho chúng ta thấy một cơ cấu giá trị sản lượng theo ngành trong vài năm trở lại đây. Chúng ta có thể nói rằng nền kinh tế của huyện đang dần tiến tới một cơ cấu hợp lý với việc giảm dần tỷ trọng của nông nghiệp từ 68,8% năm 1997 xuống còn 66,5% vào năm 2000, tăng tỷ trọng ngành TTCN,Xây dựng, dịch vụ, Thương mại từ 31,2% năm1997 lên 33,5% năm 2000. Tuy tốc độ chuyển dịch còn diễn ra rất chậm, nhưng cũng là một Biểu3: Cơ cấu giá trị sản lượng theo ngành thời kỳ 1997-2000. Đơn vị: tỷ đồng Năm Ngành 1997 1998 1999 2000 Gía trị % Gía trị % Gía trị % Gía trị % GDP 371,8 100 406,5 100 431,2 100 454,6 100 1-Nông nghiệp -Trồng trọt -Chăn nuôi-thuỷ sản 2-TTCN-XD 3-DV-TM 255,6 188,9 66,7 50,6 65,9 68,8 73,9 26,1 13,5 17,7 275,6 214,0 61,6 55,4 75,5 67,8 77,64 22,36 13,6 18,2 289,8 219,6 70,2 58,9 83,2 67,1 75,7 24,3 13,6 19,3 302,3 226,7 75,5 62,4 90 66,5 75,0 25,0 13,7 19,8 Nguồn: phòng thống kê huyện Thanh Miện. Tín hiệu đáng mừng đối với nền kinh tế của toàn huyện. Ngành tiểu thủ công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng thấp, lại tăng rất chậm trong những năm vừa qua, năm 1997 chiếm 13,5% thì tới năm 2000 con số này chỉ là 13,7%, một tỷ lệ tăng khá khiêm tốn. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trọng ngành TTCN và xây dựng tăng chậm trong cơ cấu nền kinh tế là vì trong những năm vừa qua Thanh Miện chưa quan tâm đầu tư phát triển đúng mức đối với lĩnh vực này mặc dù giá trị tổng sản lượng vẫn tăng đều qua các năm. Tiểu thủ công nghiệp thì nhỏ bé lại tự phát theo quy mô hộ gia đình chủ yếu chỉ sản xuất các công cụ phục vụ cho nông nghiệp và xây dựng gia đình nên không tránh khỏi việc chiếm tỷ lệ không cao. Ngành nông nghiệp là ngành chủ yếu và truyền thống của vùng cũng như của huyện nên việc nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu GDP toàn huyện đã tồn tại rất lâu. Mặc dù trong năm 2000 này tỷ trọng ngành nông nghiệp đã giảm nhiều, còn 66,5% thấp hơn các thời kỳ trước nhưng đó vẫn là một con số quá lớn so với cơ cấu hợp lý. Ngành dịch vụ và thương mại tuy cũng có tốc độ tăng trưởng cao và dần chiếm vị trí xứng đáng trong GDP toàn huyện từ 17,7% năm 1997 lên đến 19,8% năm 2000 nhưng vẫn còn quá thấp. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng một nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng đó là sự phát triển tự phát của ngành này, chưa có sự quan tâm và quy hoạch đúng mức của huyện. Các ngành dịch vụ chủ yếu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, còn thương mại phục vụ cho nông nghiệp và sinh hoạt của nhân dân nên phần nào khó tránh khỏi tình trạng nhỏ bé như hiện nay. Nhìn vào toàn bộ cơ cấu GDP của huyện chúng ta vẫn thấy một sự chưa hợp lý mà trong thời gian tới cần nhiều công sức để cải thiện nhất là việc chuyển dịch cơ cấu còn diễn ra rất chậm. Qua hai biểu ở trên chúng ta đã thấy được phần nào vị trí của nông nghiệp trong nền kinh tế của huyện Thanh Miện cũng như vị trí độc tôn của ngành trồng trọt trong nông nghiệp. Để hiểu thêm về vấn đề này chúng ta hãy xem biểu sau: Biểu4: Số lượng và cơ cấu diện tích cây trồng và con nuôi của huyện Thanh Miện thời kỳ 1997-2000 Năm Cây trồng vật nuôi ĐV 1997 1998 1999 2000 SL % SL % SL % SL % 1-Trồng trọt -Diện tích cấy lúa -Diện tích ngô -Diện tích khoai lang - Diện tích rau - Diện tích đỗ tương - Diện tích chuyển đổi thành nhãn vải - Diện tích cây trồng khác 2-Chăn nuôi -Số lượng lợn - Số lượng trâu - Số lượng bò - Số lượng gà - Số lượng vật nuôi khác Ha con 18.932,7 15.466 1.315 791 1.104 147 49,3 59,8 485.996 45.815 1.234 4.247 409.100 25.600 100 81,69 6,95 4,17 5,83 0,77 0,26 0,33 100 9,43 0,25 0,87 84,18 5,27 19.111,7 15.402 835 1.043 1.450 156 106,4 119,3 529.264 47.648 1.276 4.440 453.300 22.600 100 80,59 4,37 5,45 7,59 0,81 0,56 0,63 100 9,00 0,24 0,84 85,65 4,27 18.614,1 15.428 487 1,399 839 165 148,6 147,5 542.659 49.134 1.206 4.459 464.100 32.760 100 82,8 2,62 7,59 4,50 0,89 0,80 0,80 100 9,05 0,22 0,82 85,5 4,41 18.673 15.435 520 1410 900 168 148,6 91,4 561.689 51.470 1.150 4.489 485.300 19.280 100 82,6 2,78 7,55 4,82 0,90 0,8 0,49 100 9,16 0,20 0,80 86,4 3,44 Nguồn: phòng thống kê huyện Thanh Miện. Qua biểu số 3 chúng ta đã phần nào thấy được vị trí độc tôn của trồng trọt trong nông nghiệp của Thanh Miện với tỷ trọng về giá trị thường xuyên ở mức trên 73%. Ngành chăn nuôi và thuỷ sản chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ ở mức ~ 26%. Thì ở biểu số 3 này chúng ta sẽ thấy được vị trí của những cây trồng, vật nuôi chủ yếu trong nông nghiệp của huyện. Đứng đầu ngành trồng trọt là vị trí độc tôn của cây lúa cả về giá trị và diện tích gieo trồng. Diện tích trồng lúa của huyện trong những năm vừa qua thường xuyên chiếm trên 80% diện tích gieo trồng. Trồng lúa đã trở thành thế mạnh của Thanh Miện trong những năm trở lại đây với diện tích hàng năm đạt sấp xỉ 15,5 nghìn ha. Hệ số lần trồng ngày càng tăng đạt từ 2,3 đến 2,4 lần tính chung cho toàn diện tích đất nông nghiệp. Đây là hệ số không cao so với một huyện đồng bằng nhưng cũng đã là sự cố gắng của nhân dân trong những năm vừa qua. Ngô là cây trồng, ngày càng giảm cả về diện tích lẫn tỷ trọng trong ngành trồng trọt nhưng nó vẫn giữ vị trí quan trọng trong các cây vụ đông của huyện. Năm 1997 diện tích ngô là 1.315 ha chiếm 6,95% diện tích gieo trồng nhưng tới năm 2000 con số này chỉ còn 520 ha với 2,78%. Sản phẩm hạt ngô của huyện chỉ chủ yếu dùng làm thức ăn cho vật nuôi, rất ít cho sinh hoạt của con người và hầu như không dùng làm nguyên liệu cho công nghiệp. Diện tích khoai lang và đậu tương có tăng qua từng năm nhưng tăng chậm với tốc độ ổn định. Năm 1997 diện tích khoai lang trên địa bàn huyện là 791 ha, chiếm 4,17% tổng diện tích gieo trồng thì đến năm 2000 các con số này đã là 1.410 ha và 7,55%. Sản phẩm củ và dây khoai lang chủ yếu dùng làm thức ăn gia súc trực tiếp tại các hộ. Còn đậu tương năm 1997 có 147 ha chiếm 0,77% tổng diện tích gieo trồng thì tới năm 2000 chỉ tăng chút ít là 168 ha với 0,90% diện tích gieo trồng.Sản phẩm đậu tương chủ yếu dùng làm thực phẩm cho con người, một số để bán nhưng không đáng kể. Diện tích rau cũng thường xuyên chiếm ở mức cao với năm 1997 là 1.104 ha và năm 2000 là 900 ha, cao nhất là năm 1998 với 1450 ha.Rau trên địa bàn huyện chủ yếu được trồng ở xã Phạm Kha, cung cấp cho một số xã và thị trấn trong huyện. Số rau xanh trồng được cũng chỉ chủ yếu đáp ứng nhu cầu rau của vùng, mang lại hiệu quả khá cao nhưng cũng chưa được áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trên quy mô rộng, chủ yếu trồng theo quy mô hộ và diện tích hẹp. Trong những năm vừa qua, huyện đã có sự chỉ đạo của cấp trên duyệt cho phép đến năm 2000 chuyển 196,42 ha đất nông nghiệp sang trồng cây ăn quả chủ yếu là nhãn, vải nhưng tới nay con số này vẫn chưa đạt được. Năm 1997 bắt đầu có chủ trương chuyển dịch nhưng cũng mới làm được 49,3 ha, qua các năm tiếp theo con số này lần lượt là 106,4 ha và 148,6 ha đến năm 2000 vì nhiều lý do khác nhau mà con số này cũng chỉ dừng lại ở mức 148,6 ha chiếm 1,8% tổng diện tích đất canh tác của huyện. Thật là con số khiêm tốn so với hiệu quả đem lại. Biêủ số 4 cũng cho chúng ta một sự hiểu biết về mặt nào đó của ngành chăn nuôi Thanh Miện. Nhìn tổng quan các số liệu trên biểu chúng ta có thể nhận định ngành chăn nuôi của Thanh Miện chủ yếu theo lối tận dụng gia đình, sản xuất lớn cực ít. Số lượng các loại vật nuôi thường ổn định, ít biến động theo một sự sắp đặt có từ rất lâu. Mỗi hộ nông dân ở Thanh Miện có từ 1 đến 2 con lợn, 10 đến 20 con gà. Trâu bò chủ yếu dùng làm sức kéo phục vụ nông nghiệp và vận chuyển. Số lượng trâu bò nuôi rất ít vì hiện nay các công việc phục vụ nông nghiệp đã được cơ giới hoá một phần. Chỉ có một điều đáng quan tâm ở đây là số lượng gà thường xuyên chiếm tỷ trọng cao trong ngành chăn nuôi. Chúng thường xuyên chiếm tới 93 đến 96% số đầu gia cầm nuôi trong nhà. Ngoài ra các vật nuôi khác như dê, ngan, ngỗng, vịt...rất ít được nuôi trong địa bàn huyện, tổng của chúng chỉ chiếm 3,44% số đầu vật nuôi trong năm 2000. Về thuỷ sản, cho chúng ta một bức tranh tương tự như trong chăn nuôi khi mà sản lượng nuôi trồng và đánh bắt thường xuyên ổn định qua một số năm vừa qua. Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng năm 1997 là 425 tấn;năm 1998 là 686 tấn; năm1999 là 735 tấn và năm 2000 là 760 tấn. Tuy tăng với tốc độ khá cao nhưng những con số trên quá nhỏ bé. Sản lượng khai thác năm 1997 là 77 tấn;năm1998 là 135 tấn; năm1999 là 183 tấn và năm2000 cũng chỉ có 183 tấn. Trọng lượng cá chiếm tỷ lệ tuyệt đối trong tổng sản lượng thuỷ sản nuôi trồng và đánh bắt với tỷ trọng thường xuyên ở mức 92 đến 98%. Nhìn chung, qua xem xét cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi của Thanh Miện chúng ta nhận thấy trong những năm tới đây cây trồng chủ lực của huyện vẫn là cây lúa, ngoài ra còn có ngô,khoai, rau, đậu tương và nhãn,vải cũng chiếm tỷ trọng đáng kể. Các cây trồng khác chiếm tỷ trọng rất thấp. Quá trình chuyển dịch cần có sự quan tâm và đầu tư nhiều hơn nữa của nhân dân trong toàn huyện. Vật nuôi chủ yếu vẫn là gà và lợn, đây cũng là hai nguồn thu nhập đáng kể của nông dân trên địa bàn huyện, các vật nuôi khác cho thu nhập không đáng kể. Sản xuất hàng hoá trên địa bàn huyện của ngành chăn nuôi còn quá khiêm tốn, không đóng góp được vai trò quan trọng vào thu nhập của hộ nông dân trong những năm vừa qua. Trong những năm tới đây, cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi chúng ta phải thực sự quan tâm đến những vấn đề này. 2- Cơ cấu các loại hộ nông dân trong huyện. a-Cơ cấu theo loại hình sản xuất. Hiện nay trên địa bàn huyện,hộ nông dân tồn tại ở hai hình thức đó là hộ nông dân thuần nông và hộ nông dân kiêm thương mại- dịch vụ. Biểu 5: Cơ cấu theo loại hình sản xuất hộ nông dân thời kỳ 1997-2000. Đơn vị: hộ Năm Xã thị trấn 1997 1998 1999 2000 Thuần nông Kiêm Thuần nông Kiêm Thuần nông Kiêm Thuần nông Kiêm 1-Lam Sơn 2-Diên Hồng 3-Phạm Kha 4-Thanh Tùng 5-Thị Trấn 6-Tiền Phong 7-Hùng Sơn 8-Chi Lăng Nam 9-Đoàn Tùng 10-Ngũ Hùng 11-Tân Trào 12-Thanh Giang 13-Hồng Quang 14-Lê Hồng 15-Đoàn Kết 16-Ngô Quyền 17-Cao Thắng 18-Chi Lăng Bắc 19-Tứ Cường 1.406 668 1.504 923 1.582 1.105 781 1.218 1.424 1.589 1.492 1.862 1.911 1.664 1.484 1.478 1.206 1.768 2.181 95 39 73 356 504 90 85 131 251 121 97 184 112 138 148 174 94 132 208 1.439 662 1.498 925 1.278 1.097 801 1.099 1.319 1.568 1.665 1.961 1.896 1.688 1.487 1.756 1.235 1.761 2.039 112 48 82 368 491 112 79 126 231 132 148 198 156 196 156 250 86 134 287 1.477 646 1.497 916 1.232 1.092 752 1.095 1.455 1.741 1.528 1.948 1.951 1.647 1.435 1.913 1.131 1.598 2.052 136 45 78 366 476 116 58 121 246 193 139 205 152 175 171 270 97 102 298 1.511 656 1.609 944 1.342 1.108 790 1.153 1.332 1.583 1.597 1.618 1.914 1.685 1.462 1.963 1.119 1.602 2.048 142 47 91 362 458 122 66 13 228 167 141 182 126 178 186 271 81 98 278 Tổng số: SL 27.246 3.032 27.174 3.392 27.106 3.444 27.026 3.356 % 89,996 10,004 88,902 11,098 88,726 11,274 88,953 11,047 Nguồn: Phòng thống kê huyện Thanh Miện. Qua bảng số liệu chúng ta thấy tỷ lệ hộ nông dân kiêm thương mại-dịch vụ trên toàn huyện Thanh Miện hiện nay ở mức thấp, thường xuyên từ 10 đến 11,5% tổng số hộ nông dân. Tỷ lệ này có tăng qua các năm nhưng rất chậm, năm 1997 là 10,004%; năm 1998 là 11,098%; năm1999 là 11,274% và năm 2000 là 11,047%. Tỷ lệ hộ lông dân kiêm thương mại-dịch vụ lại phát triển không đều ở các xã, có những xã, thị trấn như Thị trấn Thanh Miện, Xã Thanh Tùng, xã Đoàn tùng tỷ lệ hộ kiêm rất cao. Nhưng cũng có những xã tỷ lệ này rất thấp như Diên Hồng, Phạm Kha, Ngũ Hùng. Qua xem xét em thấy rằng ở những xã có điều kiện phát triển các phố, thị tứ, Thị trấn, bến xe, chợ thì tỷ lệ hộ nông dân kiêm cao và ngược lại những xã chưa có điều kiện như trên lại có tỷ lệ thấp. Những hộ nông dân kiêm thương mại-dịch vụ ở Thanh Miện chủ yếu là buôn bán và dịch vụ nhỏ. Phục vụ trên địa bàn thôn và xã, chủ yếu cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt hàng ngày. Ngoài những công việc nông nghiệp của gia đình, hộ tận dụng thời gian để tiến hàng các khâu dịch vụ như cầy, bừa, chở thuê...hoặc buôn bán những mặt hàng phục vụ cho sản xuất như lân, đạm, thuốc trừ sâu...hay các mặt hàng khác . Những hộ kiêm này thường là những hộ nông có lực lượng lao động dồi dào có chút ít vốn đầu tư. Thu nhập của họ cao hơn hẳn so với các hộ thuần nông. Một điều chúng ta cần phải giải thích thêm đó là cùng với sự phát triển của dân số, số hộ gia đình sẽ tăng lên và theo đó hộ nông dân cũng tăng qua thời gian. Tuy nhiên chúng ta vẫn không thấy tăng là bao qua biểu số 5, có lúc còn giảm. Em thấy đó cũng là điều đáng mừng khi mà người nông dân đã biết chuyển sang sản xuất ở những ngành khác, họ nhượng lại ruộng đất cho những hộ không có điều kiện này. Đây là cơ sở bước đầu cho việc tích tụ đất đai, số hộ làm nông nghiệp sẽ ngày càng ít đi tương đối. Nắm bắt được tất cả những điều này, chúng ta sẽ có cách thức tác động vào từng loại hộ nông dân và từng xã phù hợp. b-Cơ cấu các loại hộ nông dân theo mức thu nhập và mức sống. Biểu 6: Số hộ nghèo và tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chuẩn mới trong toàn huyện năm 2001 Đơn vị: hộ Chỉ tiêu Xã-thị trấn Tổng số % Hộ gia đình Hộ nông dân Hộ nghèo Trong hộ nông dân Trong hộ gia đình 1-Tiền Phong 2-Đoàn Kết 3-Đoàn Tùng 4-Ngũ Hùng 5-Thanh Tùng 6-Ngô Quyền 7-Cao Thắng 8-Diên Hồng 9-HùngSơn 10-Tân Trào 11-Lê Hồng 12-Chi Lăng Nam 13-Chi Lăng Bắc 14-Hồng Quang 15-Thị Trấn 16-Lam Sơn 17-Thanh Giang 18-Tứ Cường 19-Phạm Kha 1.228 1.667 1.722 1.905 1.310 2.300 1.287 700 865 1.830 1.860 1.285 2.008 2.083 2.145 1.650 2.179 2.470 1.700 1.226 1.648 1.560 1.750 1.306 2.234 1.200 700 856 1.738 1.853 1.285 1.700 2.030 1.800 1.643 1.800 2.326 1700 246 200 112 220 249 226 129 61 68 170 285 99 281 261 161 126 204 223 251 20,10 12,13 7,18 12,57 19,06 10,12 10,75 8,90 7,94 9,78 15,38 7,70 16,53 12,86 8,94 7,67 11,33 9,58 14,70 20,06 11,80 6,50 11,00 19,00 9,80 10,00 8,90 7,90 9,30 15,00 7,40 12,20 13,00 7,30 7,63 10,60 9,00 14,70 Tổng số 32.186 30.355 3.572 11,76 11,10 Nguồn: Phòng tổ chức-lao động-xã hội huyện Thanh Miện. Công cuộc phát triển kinh tế nói chung và kinh tế hộ nông dân nói riêng của huyện Thanh Miện đã được quan tâm thực hiện từ rất sớm. Qua nhiều năm đã đạt được những thành quả to lớn, số hộ giầu, khá tăng nhanh, số hộ nông dân nghèo đã giảm nhiều và số hộ đói không còn nữa. Vấn đề cốt yếu trong việc phát triển kinh tế hộ của huyện hiện nay là giảm dần tiến tới xoá bỏ tình trạng hộ nghèo trên toàn huyện. Theo tiêu chí mới ban hành nhận dạng hộ nghèo thì hiện nay toàn huyện Thanh Miện có 3572 hộ nghèo, chiếm 11,10% trong toàn bộ hộ gia đình và 11,76% trong tổng hộ nông dân. Điều này cũng thật dễ hiểu bởi theo điều tra của phòng tổ chức lao động và xã hội huyện thì gần như toàn bộ những hộ nghèo trên địa bàn huyện là những hộ nông dân. Nếu tính theo chuẩn mới,với tiêu trí chủ yếu là thu nhập của mỗi nhân khẩu trong hộ dưới 100.000 đồng/1tháng thì toàn huyện có 11,10% hộ nghèo. Còn nếu tính theo chuẩn cũ tức là thu nhập của mỗi nhân khẩu trong hộ dưới 20 kg gạo 1 tháng thì trên toàn huyện có khoảng trên 5% số hộ nghèo. Đây là một con số cao đối với một huyện đồng bằng như Thanh Miện, tuy nhiên công cuộc phát triển kinh tế hộ, xoá đói giảm nghèo cũng đã ghi nhận sự cố gắng của toàn Đảng bộ nhân dân trong huyện. Qua biểu số 6 chúng ta nhận thấy rằng, ở một số xã còn tỷ lệ hộ nghèo rất cao như Tiền Phong 20,06%; Thanh Tùng 16,6%; Lê Hồng 15,00%; Phạm Kha 14,7%. Và một số xã có tỷ lệ hộ nghèo khá thấp như Đoàn Tùng 6,50%; Hùng Sơn 7,9%; Thị trấn Thanh Miện 7,3%; Chi lăng Nam 7,40%. Có thể có rất nhiều nguyên nhân dẫn đấn sự chênh lệch này như: cơ cấu hộ, truyền thống sản xuất, địa thế địa hình... nhưng chúng ta không thể không kể tới một số nguyên nhân làm giảm hộ nghèo của các xã có sự chênh lệch khác nhau. Đó là sự hoạt động của các cấp chính quyền, đoàn thể có nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo ở các xã, các tổ chức này hoạt động tốt sẽ dẫn tới sự đầu tư có hiệu quả từ các hộ nghèo, và tình trạng hộ nghèo giảm đi nhanh chóng, và ngược lại, tình trạng nghèo nàn sẽ không được cải thiện nếu sự đầu tư không mang lại hiệu quả. Chúng ta cũng nhận thấy một điều rằng, đa số những hộ nghèo trong huyện đều là những hộ nông dân. Điều này đòi hỏi trong công cuộc giảm nghèo của huyện cần chú trọng và giành sự đầu tư đặc biệt vào các giải pháp phát triển nông nghiệp. Như vậy phần nào sẽ trợ giúp được các hộ nông dân trong việc xoá đói của chính mình. Có rất nhiều lý do để dẫn tới tình trạng nghèo đói của một hộ gia đình như: thiếu vốn; thiếu kinh nghiệm sản xuất; ốm đau... ở Thanh Miện, qua cuộc phỏng vấn và tìm hiểu 3572 hộ nghèo, chúng ta được kết quả về nguyên nhân nghèo như sau: Biểu 7: Số lượng hộ nghèo phân theo nguyên nhân nghèo đói: Đơn vị: hộ Xã-Thị trấn Thiếu kinh nghiệm làm ăn Thiếu lao động Thiếu vốn Thiếu đất Có người ốm, tàn tật, già yếu Có người mắc TNXH Đông người ăn Rủi ro Khác 1-Tiền Phong 2-Đoàn Kết 3-Đoàn Tùng 4-Ngũ Hùng 5-Thanh Tùng 6-Ngô Quyền 7-Cao Thắng 8-Diên Hồng 9-Hùng Sơn 10-Tân Trào 11-Lê Hồng 12-Chi Nam 13-Chi Bắc 14-Hồng Quang 15-Thị Trấn 16-Lam Sơn 17-Thanh Giang 18-Tứ Cường 19-Phạm Kha 25 20 12 22 25 23 13 6 6 17 30 9 30 26 16 13 21 23 25 30 14 13 25 18 28 16 7 8 20 34 11 33 31 19 15 24 26 30 88 82 40 79 91 82 47 80 24 64 102 36 101 94 61 46 75 80 90 10 8 5 4 9 10 5 3 3 8 11 4 11 8 7 5 8 8 10 49 40 23 48 49 46 26 12 8 34 57 20 56 52 32 26 41 45 50 4 2 1 2 4 8 3 2 2 3 4 0 3 3 5 2 4 6 3 29 24 13 28 30 27 15 5 8 21 34 12 33 31 19 15 24 26 30 8 6 3 9 18 2 4 0 6 3 10 7 11 14 2 4 5 7 11 3 4 2 3 5 0 0 0 3 0 3 0 3 2 0 0 2 2 2 Cộng 362 402 1.362 137 714 61 425 130 34 % 10,0 11,1 3,78 3,78 19,68 1,68 11,71 3,58 0,97 Nguồn: Phòng lao động-Tổ chức-xã hội huyện Thanh Miện. Theo số liệu điều tra của phòng tổ chức-lao đông và xã hội huyện Thanh Miện đối với 3572 hộ nghèo. Mỗi hộ có một nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng nghèo đói, được kết quả như ở biểu 7. Qua đây chúng ta sẽ thấy một cách tổng quan những nguyên nhân chính của tình trạng nghèo đói trong các hộ. Đứng đầu nhóm nguyên nhân này là do thiếu vốn sản xuất: 37,5%, sau đó đến có người tàn tật, ốm đau, già yếu: 19,68%; đông người ăn: 11,71% và thiếu lao động 11,1%. Chúng ta cũng phải thấy rằng thiếu vốn sản xuất đang là tình trạng phổ biến đối với các hộ nông dân trong nông thôn hiện nay. Nhưng qua cuộc điều tra này, một lần nữa lại khẳng định tầm quan trọng của vốn sản xuất đối với công cuộc xoá đói giảm nghèo nói chung và ở huyện Thanh Miện nói riêng. Có người ốm, tàn tật, già yếu cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng nghèo đói do chi phí chạy chữa, chăm sóc lớn. Kéo theo đó là những nguyên nhân quan trọng khác như thiếu lao động, đông người ăn. Những điều này thực sự đã trở thành một gánh nặng đối với nguồn thu nhập ít ỏi của các hộ nông dân. Thiếu kinh nghiệm làm ăn cũng là một nguyên nhân đáng kể dẫn đến tình trạng này (10%), tuy nhiên nếu đúng hơn chúng ta phải nói là thiếu kiến thức và hiểu biết do trình độ của những người trong hộ có hạn. Ngoài ra các nguyên nhân khác không đáng kể, chỉ chíêm một tỷ lệ nhỏ. Tình trạng thiếu đất trong các hộ nghèo cũng chiếm một tỷ lệ khá (3,78%), đây không phải là những hộ không làm nông nghiệp mà chủ yếu họ là những vợ chồng khá trẻ, sinh con cái muộn vì vậy không có đất canh tác cho những trẻ em sinh sau này. Nên có những gia đình 4 hoặc 5 người nhưng chỉ có bố mẹ là có ruộng cấy, dẫn đến tình trạng thiếu đất để sản xuất. Phân biệt được những nguyên nhân này, chúng ta sẽ có những giải pháp hữu hiệu nhằm thực hiện công cuộc xoá đói giảm nghèo tốt nhất, đem lại hiệu quả cao nhất. 3- Các yếu tố sản xuất của hộ nông dân trong huyện. 3.1-Đất đai: Tổng diện tích đất nông nghiệp của huyện trong một vài năm trở lại đây thường xuyên ổn định ở mức 8464,1 ha. Gồm nhiều loại đất và ở mỗi cánh đồng đều có cao độ khác nhau. Cao độ đất có ảnh hưởng không nhỏ đến việc tưới tiêu, thiết kế các công trình thuỷ lợi phục vụ cho sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện. Nhưng còn một nguyên nhân khác quan trọng hơn khiến chúng ta phải nghiên cứu cao độ đất trên từng cánh đồng, đó là việc thiết kế, quy hoạch các loại cây trồng ứng với mỗi cao độ cụ thể, phát hiện ra nhừng vùng đất có thể chuyển đổi cơ cấu cây trồng, những cánh đồng có thể canh tác theo kiểu chuyên môn hoá và ứng với mỗi cao độ có những cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Qua biểu 8 chúng ta biết rằng, toàn bộ diện tích đất nông nghiệp trên địa bàn huyện được chia làm 4 loại tuỳ theo cao độ của chúng, theo từng cánh đồng đó là: chân cao, chân vàm, chân thấp và triều chũng. Tổng diện tích đất nông nghiệp ở chân cao là 1487,2 ha, chiếm 18,45% đất nông nghiệp; chân vàm có 462,91 ha chiếm 55,35%; chân thấp có 1737,30 ha chiếm 21,80% và triều chũng có 354,84 ha chiếm 4,4% tổng diện tích đất nông nghiệp của huyện. Xã Hùng Sơn là nơi có cao độ đất nông nghiệp thấp nhất của huyện, chỉ có từ 1 đến 1,6. Và Thị trấn Thanh Miện là nơi đất nông nghiệp có cao độ lớn hơn cả, từ 1,5 đên 2,5. Biểu8: Các loại đất phân theo cao độ đất nông nghiệp trong huyện. Đơn vị: ha Xã-Thị trấn Tổng DTích Chân cao Chân vàm Chân thấp Triều chũng DTích Cốt đất DTích Cốt đất DTích Cốt đất DTích Cốt đất 1-Ngô Quyền 2-Tân Trào 3-Đoàn Kết 4-Hồng Quang 5-Lê Hồng 6-Đoàn Tùng 7-Thanh Tùng 8-Phạm Kha 9-Lam Sơn 10-Thị Trấn 11-Hùng Sơn 12-Tứ Cường 13-Cao Thắng 14-Ngũ Hùng 15-Chi Bắc 16-Chi Nam 17-Diên Hồng 18-Thanh Giang 19-Tiền Phong 669,98 513,57 464,63 641,87 603,76 373,50 352,78 364,68 482,34 407,60 195,71 580,2 382,7 560,25 367,00 304,40 196,68 427,59 172,80 89,42 147,60 125,88 39,93 6,66 73,80 165,50 38,46 40,35 270,85 - 160,30 78,70 53,80 49,10 70,00 64,12 16,45 11,1 2,4-2,55 2,4-2,8 2,2-2,7 2,4-2,7 2,2-2,5 2,2-2,4 2,4-2,5 2,6-3,0 2,4-2,6 2,2-2,5 - 2,0-2,9 2,4-2,9 1,9-2,5 2,0-2,5 1,8-2,2 1,7-1,95 2,0-2,5 1,95-2,1 427,65 221,39 171,00 508,51 465,95 267,6 90,71 272,15 351,51 29,10 34,67 252,80 150,60 337,10 232,30 150,90 23,29 340,00 135,70 1,7-2,4 1,8-2,4 1,8-2,2 2,0-2,4 2,0-2,4 2,0-2,2 2,2-2,4 2,0-2,4 2,1-2,4 2,0-2,2 1,35-1,6 1,5-1,9 1,7-2,3 1,5-1,8 1,5-1,95 1,45-1,7 1,5-1,55 1,3-1,8 1,2-1,5 130,37 130,84 93,52 93,43 72,21 32,20 88,57 41,00 95,44 99,55 155,86 152,30 131,6 133,5 29,80 83,80 106,54 37,70 - 1,5-1,8 1,51-1,8 1,5-1,8 1,8-1,0 1,7-2,0 1,6-2,0 2,0-2,2 1,5-1,8 1,5-2,1 1,7-1,95 1,1-1,35 1,1-1,4 1,4-1,6 1,1-1,4 1,15-1,3 1,05-1,4 1,03-1,4 1,05-1,2 - 22,18 13,74 73,50 - 35,86 - - 13,07 10,64 8,10 5,18 14,80 33,30 36,10 53,60 - 3,03 32,59 - 1,3-1,5 1,2-1,5 1,2-1,5 - 1,5-1,7 - - 1,4-1,5 1,5-1,7 1,5-1,7 1,0-1,1 0,9-1,0 1,2-1,38 0,9-1,0 1,0-1,1 - 0,9 0,8-1 - Tổng 8062,0 1487,2 18,45% 4462,90 55,35% 1757,3 21,80% 354,54 4,4% Nguồn: xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi huyện Thanh Miện. Nhìn chung với cao độ như ở trên, đất nông nghiệp của huyện khá thuận lợi trong việc canh tác nhất là cây lúa. Hiện nay cây lúa giữ vị trí đặc biệt trong những cây trồng nông nghiệp, nó được gieo trồng từ rất lâu và trên hầu hết các diện tích đất nông nghiệp của huyện. Tuy nhiên nếu chúng ta đề cập đến vấn đề hiệu quả thì việc này chưa mang lại hiệu quả cao nhất cho người nông dân. Bởi những diện tích có thể trồng một số loại cây khác cho hiệu quả kinh tế cao hơn. Hiện nay trên đất triều chũng của huyện có cao độ dưới 1 thì việc sử dụng rất khó khăn, người nông dân chỉ có thể cấy một vụ với những giống lúa dài ngày, thân cao, không mang lại hiệu quả lớn, nếu có thể kết hợp với nuôi cá sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Còn đối với chân cao và chân vàm ngoài việc trồng lúa chúng ta hoàn toàn có thể trồng những cây công nghiệp ngắn ngày hoặc cả những cây như nhãn, vải, táo cho hiệu qủa kinh tế cao hơn. Nghiên cứu thêm về những điều này chúng ta sẽ có sự quy hoạch trong việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng hợp lý và hiệu quả. Diện tích đất nông nghiệp của huyện Thanh Miện vài năm trở lại đây thường xuyên ổn định mức 8484,1 ha. Với dân số 128800 người như hiện nay thì diện tích đất bình quân theo đầu người chỉ có 0,0657 ha. Đây là con số không thấp đối với một huyện trung tâm của đông bằng châu thổ sông Hồng. Tuy nhiên cơ cấu các loại đất nếu xét theo việc sử dụng thường xuyên không ổn định. Chúng ta hãy xem biểu đồ số liệu sau: Biểu 9: Số lượng và tỷ trọng từng loại đất nông nghiệp thời kỳ 1997-2000. Đơn vị: ha Xã-Thị trấn 1998 2000 Đất trồng cây hàng năm Đất vườn tạp Đất trồng cây lâu năm Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản Đất trồng cây hàng năm Đất vườn tạp Đất trồng cây lâu năm Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản 1-Tiền Phong 2-Diên Hồng 3-Thanh Giang 4-Ngũ Hùng 5-Chi Lăng Nam 6-Chi Lăng Bắc 7-Tứ Cường 8-Cao Thắng 9-Thị Trấn 10-Lam Sơn 11-Hùng Sơn 12-Phạm Kha 13-Lê Hồng 14-Đoàn Kết 15-Đoàn Tùng 16-Thanh Tùng 17-Hồng Quang 18-Tân Trào 19-Ngô Quyền 165,2 173,2 410,4 520,2 277,5 347,4 591,3 377,3 345,7 476,4 194,6 357,7 618,7 507,9 354,6 338,6 635,8 477,1 680,3 8,39 1,41 - 11,32 17,18 3,31 3,7 4,41 13,48 - 5,4 0,83 10,0 0,08 - - 2,00 - 7,45 - 8,81 0,27 - 5,00 1,29 0,39 5,7 4,0 5,86 - - 3,27 - 3,99 3,5 2,51 - 4,42 11,01 29,08 23,09 35,76 35,74 20,47 33,97 18,88 31,3 24,35 6,45 17,48 41,1 35,86 5,21 25,12 22,34 24,34 21,98 163,9 172,7 403,3 519,5 283,6 348,6 589,6 382 343,6 478 197,2 352,7 624,3 498,3 350,6 339,5 635,8 479,4 373,3 11,11 1,41 - 11,32 17,18 3,31 3,7 4,41 18,24 5,65 5,4 0,75 10,0 7,87 - 5,87 3,86 0,83 0,61 - 7,95 2,13 - 2,42 1,29 0,39 6,27 4,0 4,39 1,59 0,31 7,08 3,41 7,19 0,13 2,51 - 16,8 10,01 31,0 25,16 29,5 30,58 20,8 30,26 19,28 21,44 30,79 8,63 22,7 46,36 37,45 21,28 19,43 18,89 26,44 36,2 Tổng số 7.843 92,46 45,51 476,23 7836 111,5 67,1 486,2 % 92,66 1,1 0,54 5,7 92,2 1,31 0,79 5,70 Nguồn: Phòng địa chính huyện Thanh Miện. Qua biểu số liệu trên, chúng ta đã phần nào thấy được mức độ biến động của cơ cấu đất nông nghiệp trên địa bàn toàn huyện. Nhìn chung thời kỳ 1997-2000 mức độ biến động xảy ra rất ít và theo quy luật khá rõ đó là diện tích đất trồng cây hàng năm giảm dần cả về tuyệt đối lẫn tương đối. Năm 1997, tổng diện tích đất trồng cây hàng năm trên địa bàn huyện là 7910 ha, chiếm 93,45% tổng diện tích đất nông nghiệp. Năm 1998 diện tích còn 7843 ha, chiếm 92,66% và đến năm 2000 các con số này lần lượt là 7836 ha và 92,17%.Chúng ta cũng không nên lo ngại quá về điều này, tuy có giảm qua từng năm nhưng diễn ra rất chậm, tới một mức độ hợp lý nó sẽ dừng lại. Trong khi đó đất vườn tạp lại có xu hướng tăng; năm 1997 là 90,362 ha, chiếm 1,067% tổng diện tích đất nông nghiệp; năm 1998 là 92,46 ha chiếm 1,1% tổng diện tích và năm 2000 các con số này lần lượt là 111,5 ha và 1,31% nhưng cũng tăng với tốc độ rất chậm. Sự tăng lên của đất vườn tạp là điều không hợp quy luật và không hợp lý. Tuy nhiên có thể giải thích hiện tượng đó bằng việc hiện nay trong quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, có một bộ phận hộ cải tạo ruộng cấy không hiệu quả hoặc đất nông nghiệp thành các vườn cây. Nhưng mọi việc chỉ mới ở giai đoạn đầu, do đó cây trồng chính chưa đủ lớn, người ta thường tận dụng diện tích vườn bằng cách trồng kèm theo các loại cây ngắn ngày hoặc những cây cho sản phẩm nhanh hơn vào trước khi cây trồng chính phủ kín diện tích đất. Vì vậy cùng với quá trình tăng lên của các vườn cây là quá trình tăng lên của vườn tạp. Điều này sẽ không còn xảy ra một khi quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng đă hoàn thành. Diện tích đất trồng cây lâu năm cũng có chiều hướng tăng lên: năm 1997 diện tích này là 16,89 ha chiếm 0,2% tổng diện tích đất nông nghiệp thì đến năm 1998 đã tăng lên 45,51 ha với 0,54% và đến năm 2000 đã là 67,1 ha, chiếm 0,79 tổng diện tích đất nông nghiệp. Kết quả này có được là do quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng và cải tạo lại những diện tích đất nông nghiệp sử dụng không có hiệu quả. Tương tự như vậy, diện tích đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản cũng ngày một tăng, năm 1997 có 448,9 ha chiếm 5,28% tổng diện tích đất nông nghiệp; năm 1998 đã là 476,23 ha và đến năm 2000 là 486,2 ha. Tuy tăng chậm nhưng đó cũng là điều đáng mừng bởi đây là kết quả của quá trình kết hợp giữa cấy lúa và nuôi cá cùng với quá trình cải tạo thùng, đấu bấy lâu nay vẫn bỏ hoang. Biểu 9 cũng cho ta một bức tranh khá toàn cảnh về quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp Thanh Miện, tuy diện tích trồng cây hàng năm chuyển dịch không được thể hiện trên biểu nhưng chúng ta có các số liệu về chuyển dịch cây lâu năm. Nhìn về các số liệu ta thấy có những xã có diện tích vườn tạp và vườn cây lâu năm khá cao như Tiền Phong; Ngũ Hùng; Chi Lăng Nam; Thị Trấn...Và đó lại là một điều đáng mừng ghi nhận kết quả bước đầu của việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng. Qua biểu 9 chúng ta thấy vị trí của cây trồng hàng năm trong nông nghiệp Thanh Miện rất quan trọng, thường xuyên chiếm trên 90% tổng diện tích đất nông nghiệp. Điều này một lần nữa lại đòi hỏi một sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng hợp lý hơn. Bình quân đất nông nghiệp của một hộ nông dân trên địa bàn Thanh Miện hiện nay là 2786,4 m2 . Diện tích này có được chủ yếu từ 3 nguồn chính, đó là: đất được giao; đất nhận thầu của HTX và đất nhận thầu của các hộ không còn làm nông nghiệp nhưng vẫn còn đất. Trong đó đất được giao chiếm 88%, đất nhận thầu chiếm 12%, tuy nhiên nguồn đất trung bình của một hộ không đều giữa các xã trong huyện, thậm trí không đều giữa các thôn của một xã. phần đất nhận thầu của các hộ khác và của hợp tác xã không đều nhau giữa các hộ là điều phổ biến. Có những hộ nông dân nhận thầu nhiều, nhưng cũng có những hộ nông dân nhận thầu ít nếu biết sức mình không đảm đương nổi và đa số hộ nông dân không nhận thầu. Có những hộ nông dân thậm trí không nhận thầu mà còn cho thầu hoặc bán bớt ruộng đi. Hiện nay trên địa bàn huyện, tình trạng chuyển nhượng ruộng đất dài hạn đã diễn ra, giá chuyển nhượng được thỏa thuận giữa hai bên, họ có thể chuyển nhượng ba năm, 5 năm hoặc lâu hơn tuỳ theo khả năng và mức độ cần thiết. Họ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc16527.DOC