Tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam – Hà Tây: LỜI MỞ ĐẦU
Cuối năm 2006, Việt Nam đã chính thức trở thành một thành viên của WTO, đánh dấu một bước tiến và một sự chuyển biến quan trọng về mọi mặt của đất nước.Trong tiến trình gia nhập WTO, nước ta đã có những cải tổ hết sức quan trọng, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là về thị trường tài chính, ngân hàng. Có thể nói thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa bao giờ có sự phát triển với tốc độ nhanh chóng như thời gian vừa qua. Điều đó phù hợp với sự phát triển chung của thế giới cũng như để Việt Nam có đủ điều kiện gia nhập WTO. Tuy nhiên, khi đã trở thành thành viên chính thức WTO, khó khăn đối với thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng Việt Nam không những không giảm bớt mà còn tăng lên vì WTO không chỉ đem đến cho nước ta cơ hội để phát triển mà còn đem đến rất nhiều những thách thức phải đối đầu. Vận hội mới, thách thức mới đã đến đòi hỏi nền kinh tế nói chung và thị trường tài chính, hệ thống ngân hàng nước ta nói riêng phải liên tục đổi mới, phát...
108 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1049 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam – Hà Tây, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Cuối năm 2006, Việt Nam đã chính thức trở thành một thành viên của WTO, đánh dấu một bước tiến và một sự chuyển biến quan trọng về mọi mặt của đất nước.Trong tiến trình gia nhập WTO, nước ta đã có những cải tổ hết sức quan trọng, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là về thị trường tài chính, ngân hàng. Có thể nói thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa bao giờ có sự phát triển với tốc độ nhanh chóng như thời gian vừa qua. Điều đó phù hợp với sự phát triển chung của thế giới cũng như để Việt Nam có đủ điều kiện gia nhập WTO. Tuy nhiên, khi đã trở thành thành viên chính thức WTO, khó khăn đối với thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng Việt Nam không những không giảm bớt mà còn tăng lên vì WTO không chỉ đem đến cho nước ta cơ hội để phát triển mà còn đem đến rất nhiều những thách thức phải đối đầu. Vận hội mới, thách thức mới đã đến đòi hỏi nền kinh tế nói chung và thị trường tài chính, hệ thống ngân hàng nước ta nói riêng phải liên tục đổi mới, phát triển.
Ra đời và phát triển trong giai đoạn đất nước đang có những biến chuyển mạnh mẽ, hệ thống ngân hàng đang có nhiều cơ hội để phát triển cũng như thách thức cần phải vượt qua như vậy, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam – một chi nhánh mới được thành lập không lâu của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Hà Tây – cũng luôn ý thức được nhiệm vụ của mình. Công tác huy động vốn luôn được Ngân hàng đặt lên hàng đầu. Trong hơn 7 năm hoạt động, công tác huy động vốn của ngân hàng đã đạt được những kết quả hết sức khả quan, tuy nhiên cũng còn một số hạn chế cần được tiếp tục cải thiện.
Sau một thời gian được thực tập tại NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam -Hà Tây, nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề huy động vốn tại ngân hàng, em đã lựa chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam – Hà Tây” làm chuyên đề tốt nghiệp.
Nội dung của chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận, bao gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam – Hà Tây.
Chương 3: Giải pháp tăng cường công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam - Hà Tây.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo, các cô chú, anh chị cán bộ, công nhân viên của Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam, đặc biệt là của cô giáo: Th.s.Lê Hương Lan - người đã nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Vì kinh nghiệm thực tiễn cũng như kiến thức của em còn nhiều hạn chế nên chuyên đề này của em không thể tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong nhận được sự thông cảm và những lời góp ý quý báu của các thầy cô giáo để em có thể hoàn thành tốt hơn nữa chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG
HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Tổng quan về Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại và vai trò của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường
Khái niệm Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó Ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng.
Theo các nhà kinh tế học thì sự ra đời của Ngân hàng thương mại trong lịch sử là một tất yếu khách quan. Ngay từ thời kỳ xã hội chiếm hữu nô lệ đã xuất hiện mầm mống sơ khai cho sự ra đời của Ngân hàng thương mại. Đó là hoạt động cho vay nặng lãi. Sau đó nền sản xuất hàng hóa ra đời và khi phát triển đến một mức độ nhất định vào đầu thế kỷ XV thì các NHTM chính thức ra đời. Trong thời kỳ này, các NHTM hoạt động kinh doanh đa năng và đều có các hoạt động như nhau, bao gồm: phát hành giấy bạc ngân hàng; kinh doanh, nhận tiền gửi của khách hàng; chiết khấu và cho vay; thực hiện các dịch vụ thanh toán khác…với mục tiêu vì lợi nhuận.Để tìm kiếm lợi nhuận, các ngân hàng bắt đầu cạnh tranh nhau và trong quá trình cạnh tranh đó, nhều ngân hàng bị phá sản, bị thôn tính cũng như có nhiều ngân hàng lớn dần lên.
Cùng với thời gian, sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa ngày càng phức tạp hơn đòi hỏi các NHTM cũng phải có nhiều thay đổi phù hợp hơn để tồn tại. Sự chuyên môn hóa trong lĩnh vực ngân hàng cũng như hậu quả của những cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã dẫn đến sự ra đời của Ngân hàng trung ương – chuyên quản lý việc phát hành tiền và thực hiện điều tiết nền kinh tế. Điều này đã tách các NHTM ra khỏi chức năng phát hành tiền và thực hiện chuyên sâu vào việc kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ khác. Từ lúc này, nói đến ngân hàng, người ta hiểu có nghĩa là nói đến các NHTM.
Nền kinh tế ngày càng phát triển đòi hỏi các NHTM phải cung cấp các dịch vụ ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Do vậy, các nghiệp vụ ngân hàng cũng không ngừng được cải tiến và hoàn thiện hơn.
Tóm lại, Ngân hàng hay Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Có nhiều cách định nghĩa ngân hàng. Tiếp cận theo các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì ngân hàng được hiểu như sau: Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Khi tiếp cận theo các hoạt động chủ yếu của NHTM thì Luật các tổ chức tín dụng của nước ta ghi như sau: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Đặc điểm của Ngân hàng thương mại
Tham gia kinh doanh trong một lĩnh vực hết sức nhạy cảm là tiền tệ - một lĩnh vực mà các nhà kinh tế học coi là huyết mạch, cung cấp phương tiện lưu thông, thanh toán và chi phối hầu hết các hoạt động của nền kinh tế - các NHTM không chỉ trở thành một bộ phận quan trọng nhất trong guồng quay của bộ máy tuần hoàn vốn của nền kinh tế mà còn trở thành công cụ để Nhà nước có thể điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Bất kỳ một nền kinh tế nào muốn phát triển mạnh và ổn định phải có một hệ thống ngân hàng phát triển và vững mạnh.
Trong báo cáo chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta khẳng định: “Ngân hàng phải là ngành đi đầu với tư cách là động lực và là công cụ tổ chức quản lý cho nền kinh tế ổn định và phát triển…”.
Với những tính chất đặc thù trên, NHTM bao gồm các đặc điểm sau:
Trung gian tài chính:
Ngân hàng là một trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư. Trong nền kinh tế có hai loại cá nhân và tổ chức, đó là: Các cá nhân, tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu và có nhu cầu bổ sung vốn; các cá nhân, tổ chức thặng dư trong chi tiêu và có nhu cầu bảo toàn, sinh lời vốn. Hai loại cá nhân và tổ chức này tạo thành cung cầu về vốn nhưng việc gặp nhau của cung cầu vốn này bị cản trở bởi khoảng cách không gian, thời gian, thông tin…nên khó có thể gặp nhau trực tiếp. Vì vậy, NHTM đứng ra đóng vai trò là một trung gian để giúp cung cầu về vốn gặp nhau. Các NHTM không chỉ khắc phục những khó khăn về không gian, thời gian, thông tin mà còn có khả năng thẩm định thông tin và chia sẻ rủi ro với khách hàng. Đây là một đặc điểm nổi bật của NHTM.
Tạo phương tiện thanh toán:
Một trong những chức năng quan trọng của tiền là tạo phương tiện thanh toán. Kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ nên các NHTM có chức năng tạo phương tiện thanh toán.
Trước đây, khi chưa có Ngân hàng trung ương, các NHTM lớn, có uy tín, có khả năng phát hành tiền của riêng mình và đưa vào lưu thông tạo ra phương tiện thanh toán cho nền kinh tế. Khi Ngân hàng trung ương ra đời, các NHTM không còn phát hành tiền nhưng vẫn có khả năng tạo ra phương tiện thanh toán thông qua việc triển khai dịch vụ thanh toán qua số dư tài khoản của khách hàng. Theo quan điểm hiện đại, khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng hóa dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay, các NHTM đã tạo ra phương tiện thanh toán. Hơn nữa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra phương tiện thanh toán lớn gấp bội thông qua các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này sang ngân hàng khác theo công thức số nhân tiền tệ.
Trung gian thanh toán:
Sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu dẫn đến nhu cầu thanh toán liên quốc gia, liên châu lục. Để tiến hành thanh toán được nhanh chóng, phù hợp, chính xác, các cá nhân và tổ chức ở các nước thường thông qua ngân hàng. Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ. Ngân hàng còn cung cấp đa dạng các hình thức thanh toán cho khách hàng như thanh toán bằng: Séc, ủy nhiệm chi, L/C, các loại thẻ...Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
Vai trò của Ngân hàng thương mại
Vai trò trung gian cung ứng vốn cho nền kinh tế:
NHTM tập trung các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội thành quỹ cho vay và sử dụng quỹ này để cung ứng cho những người có nhu cầu vốn. Thông qua trình độ và kinh nghiệm của đội ngũ nhân viên được đào tạo cũng như của đội ngũ quản lý, ngân hàng có thể khắc phục được hầu hết những khiếm khuyết của thị trường tài chính. Ngoài ra bằng hoạt động giám sát, thẩm định trước, trong và sau khi cho vay, ngân hàng có thể hạn chế được rủi ro đạo đức. Hơn nữa, ngân hàng có thể tập trung được nhiều khoản tiền nhỏ và ngắn hạn để cho vay những khoản lớn hơn, thời hạn dài hơn thông qua nghiệp vụ chuyển hoán kỳ hạn nguồn. Từ đó, ta có thể thấy được vai trò quan trọng của NHTM trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Vai trò trung gian cung ứng các dịch vụ thanh toán:
NHTM thực hiện việc thanh toán hộ cho các khách hàng thông qua các dịch vụ thanh toán đa dạng, giúp cho việc thanh toán của khách hàng được nhanh chóng, chính xác và tiện lợi. Nhờ có NHTM mà việc thanh toán, đặc biệt là thanh toán quốc tế được thực hiện an toàn, tiết kiệm chi phí từ đó nâng cao lợi ích xã hội và thúc đẩy thương mại trong nước và quốc tế phát triển, và ngược lại khi thương mại phát triển thì sẽ thúc đẩy hệ thống NHTM phát triển theo.
NHTM là nguồn cung ứng các sản phẩm dịch vụ tài chính đa dạng nhất:
Khi xã hội phát triển thì nhu cầu của con người về các dịch vụ tài chính ngày càng đa dạng. NHTM là tổ chức có thể đáp ứng được điều đó. NHTM giúp con người thỏa mãn nhu cầu về tài chính, thông qua đó nâng cao mức sống cho người dân. Ngược lại, nhu cầu ngày càng cao của con người cũng giúp NHTM ngày càng hoàn thiện hơn trong việc cung ứng dịch vụ và thu lợi từ phí dịch vụ.
Vai trò thực hiện các chính sách xã hội:
Thông qua hệ thống ngân hàng, Nhà nước có thể thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Các chính sách tiền tệ và tài khóa như chính sách chiết khấu, tái chiết khấu, chính sách dự trữ bắt buộc, chính sách lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở... được Ngân hàng trung ương thực hiện tác động trực tiếp vào hệ thống NHTM làm thay đổi các chính sách của các NHTM, làm thay đổi lượng vốn cung ứng ra nền kinh tế, từ đó tác động đến toàn bộ hoạt động tiết kiệm, chi tiêu và đầu tư của nền kinh tế. Và như vậy thúc đẩy sự tăng trưởng hoặc kìm hãm sự phát triển quá nóng của nền kinh tế và thực hiện các mục tiêu xã hội khác.
Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
Hoạt động huy động vốn:
Huy động vốn từ việc nhận tiền gửi
Nguồn vốn huy động thường xuyên chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của NHTM và nó đóng một vai trò vô cùng quan trọng, không thể thay thế để duy trì hoạt động kinh doanh của NHTM. Các NHTM thường thực hiện huy động vốn thông qua việc nhận tiền gửi của khách hàng. Các loại hình huy động vốn bằng tiền gửi bao gồm:
- Tiền gửi không kỳ hạn: Đây là nguồn vốn có chi phí thấp nhưng lại không ổn định do khách hàng có thể rút tiền ra bất cứ lúc nào. Nguồn tiền này chủ yếu được gửi vào nhằm sử dụng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng, tạo điều kiện cho ngân hàng phát triển các dịch vụ thanh toán và đem lại nguồn thu từ phí dịch vụ cho ngân hàng.
- Tiền gửi có kỳ hạn: đây là nguồn vốn có kỳ hạn xác định nên tương đối ổn định nhưng chi phí để có được và duy trì nguồn này tương đối cao. Mục đích của khách hàng khi gửi tiền vào là để có được sự an toàn vốn và hưởng lãi. Các NHTM đều mong muốn tăng trưởng nguồn này để có thể tiến hành mở rộng khả năng kinh doanh của mình.
- Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Đây cũng là nguồn có thời hạn xác định nên ổn định nhưng chi phí cho nguồn này cũng cao. Mục đích của người dân khi gửi tiền vào ngân hàng là an toàn vốn và có được khoản lợi nhuận từ lãi ngân hàng chi trả. Đối với các NHTM thì đây thường là nguồn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn huy động được.
Huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá
Giấy tờ có giá là các công cụ nợ do ngân hàng phát hành để huy động vốn trên thị trường. Nghiệp vụ này đem lại nguồn vốn tương đối ổn định và giúp ngân hàng có thể có được một khoản vốn lớn trong một thời gian ngắn. Lãi suất của nguồn này phụ thuộc vào tính cấp thiết của việc huy động vốn cũng như lãi suất trên thị trường nên nó thường có lãi suất cao để có thể thu hút vốn được nhanh chóng.
Huy động vốn thông qua nghiệp vụ đi vay
Nguồn vốn đi vay được ngân hàng chủ yếu sử dụng để đảm bảo khả năng thanh khoản và tiện lợi trong việc giao dịch, thanh toán giữa các ngân hàng. Nghiệp vụ này ngày càng trở nên phổ biến và chiếm tỷ trọng không nhỏ đối với các NHTM. Tuy nhiên chi phí cho nguồn đi vay là cao nên nhiều ngân hàng cũng không duy trì tỷ trọngnguồn này ở mức cao. Các NHTM thường đi vay theo hai hình thức là vay từ Ngân hàng Trung ương (Ngân hàng nhà nước) và vay từ các tổ chức tín dụng khác.
Huy động vốn thông qua nghiệp vụ tạo vốn tự có
Vốn tự có thường là nguồn vốn chiếm tỷ trọng nhỏ nhất nhưng lại có nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của NHTM vì nó đóng vai trò là tấm đệm bảo vệ cho các hoạt động đó và tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng, phát triển các hoạt động của mình đồng thời góp phần nâng cao vị thế của ngân hàng trên thương trường. Ngân hàng thường tạo vốn tự có thông qua các nguồn sau: thông qua nguồn vốn nội bộ; thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
Các nghiệp vụ nguồn vốn khác
Ngoài các nguồn vốn trên, NHTM còn có các nguồn vốn khác, đó là: Vốn ủy thác đầu tư, vốn tài trợ, vốn trong thanh toán...
Hoạt động sử dụng vốn:
Tín dụng:
Đây là nghiệp vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các nghiệp vụ của NHTM về mặt giá trị, đồng thời nó là nghiệp vụ đem lại nguồn thu, lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng (chiếm từ 70 - 90% thu nhập của ngân hàng). Tuy nhiên, các NHTM đang có xu hướng làm giảm tỷ trọng về lợi nhuận của hoạt động tín dụng mà phát triển các loại hình dịch vụ khác, nhất là các dịch vụ hiện đại để tăng doanh thu.
Mặt khác, đây cũng là nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro nhất đối với ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng cần phải thực hiện tốt công tác thẩm định trước, trong và sau khi cho vay để hạn chế rủi ro xuống mức tối thiểu, đảm bảo sự an toàn của các khoản tín dụng, tránh gây mất vốn, thất thoát vốn của ngân hàng.
Quản lý ngân quỹ
Nghiệp vụ quản lý ngân quỹ của một NHTM thường bao gồm quản lý dự trữ bắt buộc và quản lý đảm bảo khả năng thanh toán.
+ Quản lý dự trữ bắt buộc: Mục đích là để đáp ứng yêu cầu về mặt pháp lý do Ngân hàng Trung ương đề ra. Ngân hàng Trung ương quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc trên tổng tiền gửi đối với các NHTM, tỷ lệ này thay đổi theo chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương. Mặt khác, mục đích mà Ngân hàng Trung ương đề ra tỷ lệ dự trữ bắt buộc này là để đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng cũng như sự an toàn cho vốn của khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng. Lượng dự trữ bắt buộc này thường được gửi tại Ngân hàng Trung ương.
+ Quản lý ngân quỹ đảm bảo khả năng thanh toán: Dựa vào kinh nghiệm quản lý ngân quỹ trong quá trình hoạt động của chính mình cũng như của các ngân hàng khác mà NHTM xác định một tỷ lệ dự trữ phù hợp, dôi ra ngoài so với dự trữ bắt buộc. Khoản dự trữ này thường được duy trì tại chính ngân hàng đó hoặc gửi tại các NHTM khác. Mục đích của khoản mục này là để đáp ứng nhu cầu thanh toán, rút tiền của khách hàng.
Tóm lại, quản lý ngân quỹ của NHTM mục đích chủ yếu là để duy trì khả năng thanh khoản của ngân hàng. Tuy nhiên, lượng tiền được sử dụng trong quản lý ngân quỹ có khả năng sinh lời rất kém, nhiều khi là khoản tiền chết nên các ngân hàng thường không muốn duy trì khoản mục này ở tỷ lệ cao. Như vậy ngân quỹ là khoản không thể thiếu để hạn chế rủi ro thanh khoản nhưng lại có thể gây lãng phí nguồn lực của ngân hàng. Cân đối hai yếu tố này là nhiệm vụ của ngân hàng.
Đầu tư tài chính
Các NHTM thường đầu tư tài chính vào nhiều lĩnh vực nhưng chủ yếu là đầu tư vào chứng khoán. Mục đích của việc đầu tư này là vì mục tiêu thanh khoản và đa dạng hóa tài sản, cũng như để tăng thu nhập cho ngân hàng. Các loại giấy tờ có giá mà ngân hàng lựa chọn thường là những loại chứng khoán rất có giá trị trên thị trường, tức là khả năng thanh khoản và sinh lời lớn như chứng khoán Chính phủ, chứng khoán của các ngân hàng khác, chứng khoán của các công ty tài chính và chứng khoán của các công ty lớn, có uy tín khác.
Mua bán ngoại tệ
Đây là nghiệp vụ được ngân hàng thực hiện nhằm đề phòng và hạn chế rủi ro hối đoái, tỷ giá cũng như để tạo thêm thu nhập cho ngân hàng. Việc mua bán ngoại tệ thường được ngân hàng thực hiện với các loại ngoại tệ mạnh và thực hiện ở thị trường liên ngân hàng trong nước và thế giới. Nghiệp vụ này đòi hỏi ngân hàng phải có chuyên môn cao cũng như sự nhanh nhạy với thị trường.
Tài trợ cho các hoạt động của Chính phủ
Trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình, các NHTM cũng thường tài trợ cho các hoạt động của Chính phủ theo sự yêu cầu của Chính phủ hoặc có sự tự nguyện từ phía ngân hàng.
Các hoạt động khác:
Bảo quản vật có giá.
Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán.
Cho thuê thiết bị trung và dài hạn.
Cung cấp các dịch vụ ủy thác và tư vấn đầu tư.
Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán.
Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm.
Cung cấp các dịch vụ đại lý.
Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại
Để có thể tiến hành hoạt động kinh doanh, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải có vốn. NHTM cũng vậy, NHTM thực hiện kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ nên đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn, đa dạng hơn các doanh nghiệp khác. Vốn đối với NHTM rất quan trọng. Nó quyết định quy mô, khả năng sinh lời, xu hướng hoạt động và phát triển của ngân hàng. Một NHTM thường có các loại vốn sau:
Vốn chủ sở hữu
Khái niệm
Để bắt đầu hoạt động ngân hàng, chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn mà ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa của ngân hàng.
Vốn chủ sở hữu là vốn thuộc sở hữu của NHTM, được hình thành từ nguồn vốn hình thành ban đầu, nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động và các quỹ của ngân hàng.
Vai trò của vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu (VCSH) của một NHTM đóng vai trò quan trọng sống còn trong việc duy trì các hoạt động thường nhật và đảm bảo cho ngân hàng khả năng phát triển lâu dài.
Thứ nhất, VCSH là điều kiện bắt buộc để ngân hàng có được giấy phép tổ chức và hoạt động trước khi nó có thể huy động được các khoản tiền gửi đầu tiên. Khi mới thành lập, một ngân hàng luôn cần vốn để mua sắm đất đai, xây dựng cơ sở hạ tầng, trang bị những thiết bị, điều kiện làm việc cần thiết, thuê nhân viên...
Thứ hai, VCSH đóng vai trò là một tấm đệm giúp chống lại rủi ro phá sản vì VCSH giúp trang bị những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ cho tới khi ban quản lý có thể tập trung giải quyết các vấn đề, đưa ra các biện pháp hữu hiệu giúp ngân hàng trở lại trạng thái hoạt động bình thường và sinh lời.
Thứ ba, VCSH tạo niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với chủ nợ của ngân hàng về sức mạng tài chính của NHTM. Ngân hàng cần phải đủ mạnh để đảm bảo với những người đi vay rằng ngân hàng có thể đáp ứng được các nhu cầu tín dụng cua rhọ ngay cả trong điều kiện nền kinh tế đang gặp khó khăn.
Thứ tư, VCSH cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển của các hình thức dịch vụ mới, cho những chương trình và trang thiết bị mới. Khi một ngân hàng phát triển, nó cần bổ sung vốn để thúc đẩy sự tăng trưởng và có thể chống đỡ được rủi ro gắn với sự ra đời của các sản phẩm dịch vụ mới.
Cuối cùng, VCSH được xem như một phương tiện điều tiết sự tăng trưởng, giúp đảm bảo rằng sự tăng trưởng của ngân hàng có thể được duy trì ổn định và bền vững. VCSH của ngân hàng cần phải được phát triển tương xứng với sự tăng trưởng của danh mục cho vay và những tài sản rủi ro khác cũng như quy mô của ngân hàng. Do đó, VCSH - tấm đệm dùng để chống đỡ những thua lỗ - cần phải được củng cố, bổ sung tương xứng với quy mô và rủi ro của ngân hàng.
Nguồn hình thành vốn chủ sở hữu
Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn này đa dạng tùy theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường, nhìn chung bao gồm:
Vốn điều lệ (nguồn vốn hình thành ban đầu):
Cũng như hầu hết các doanh nghiệp khác, để thành lập và đi vào hoạt động, chủ sở hữu NHTM phải bỏ ra vốn đầu tư ban đầu và được ghi vào điều lệ doanh nghiệp, được gọi là vốn điều lệ. Vốn điều lệ của NHTM phải lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định, mức vốn tối thiểu mà luật pháp quy định để thành lập ngân hàng. Tùy theo tính chất của ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước, vốn do ngân sách Nhà nước cấp (vốn của Nhà nước). Nếu là ngân hàng cổ phần, vốn do các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu. Nếu là ngân hàng liên doanh, vốn do các bên liên doanh góp. Nếu là ngân hàng tư nhân, vốn do tư nhân bỏ ra.
Vốn điều lệ của mỗi ngân hàng không được nhỏ hơn vốn pháp định. Ở Việt Nam, mức vốn pháp định do Ngân hàng Nhà nước quy định. Còn số vốn điều lệ sẽ khác nhau tùy thuộc vào chủ sở hữu của ngân hàng đó. Vốn điều lệ của ngân hàng thuộc sở hữu và ngân hàng có toàn quyền sử dụng và định đoạt theo quy định của pháp luật.
Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động:
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều phương thức khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể.
Nguồn từ lợi nhuận: Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không, chủ ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Tỷ lệ tích lũy tùy thuộc và cân nhắc của chủ ngân hàng về tích lũy và tiêu dùng. Những ngân hàng lâu năm, thu nhập ròng lớn, nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận sẽ cao so với vốn của chủ hình thành ban đầu.
Nguồn vốn bổ sung từ việc phát hành thêm cổ phiếu, góp thêm, cấp thêm...để mở rộng quy mô hoạt động, để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng nhu cầu gia tăng vốn của chủ do Ngân hàng Nhà nước quy định...Đặc điểm của hình thức huy động này là không thường xuyên, song giúp cho ngân hàng có được lượng vốn sở hữu vào lúc cần thiết.
Các quỹ:
Ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quỹ có mục đích riêng. Trước hết là quỹ dự phòng tổn thất. Quỹ này được trích lập hằng năm và được tích lũy lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra. Tiếp theo là quỹ bảo toàn vốn, được lập nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát. Còn có quỹ thặng dư, là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh lệch giữa mệnh giá và thị giá cổ phiếu của ngân hàng khi phát hành cổ phiếu mới. Tùy theo quy định cụ thể của từng nước, các ngân hàng còn có thể có quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ giám đốc...Những quỹ này được trích từ lợi nhuận hàng năm theo luật định, do vậy tỷ lệ trích, nội dung sử dụng phải theo đúng quy định.
Các quỹ của ngân hàng thuộc sở hữu của chủ ngân hàng. Nguồn hình thành các quỹ này là từ thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên một số quỹ ngân hàng không thể sử dụng lâu dài.
Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần:
Các khoản vay trung và dài hạn của NHTM mà có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận của vốn chủ sở hữu của ngân hàng (nguồn bổ sung) do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
Vốn huy động
Khái niệm:
Hoạt động huy động vốn là hoạt động cơ bản nhất của ngân hàng, không một ngân hàng nào có thể tồn tại và phát triển nếu không có hoạt động huy động vốn. Bởi NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ nên nguồn vốn của ngân hàng là một yếu tố quyết định tới quy mô hoạt động. Uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị trường của ngân hàng. Hoạt động huy động vốn được ví như nguồn nguyên liệu đầu vào cho quá trình tạo ra các sản phẩm của ngân hàng.
Thực chất, hoạt động huy động vốn là hoạt động thu hút nguồn vốn nhàn rỗi của các cá nhân, các tổ chức kinh tế - xã hội dưới dạng tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán hoặc phát hành các chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác. Trong đó, hoạt động nhận tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn nhất và đóng vai trò quan trọng nhất trong tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng.
Vai trò của huy động vốn
Đối với nền kinh tế
Vai trò to lớn nhất của hoạt động huy động vốn của NHTM đối với nền kinh tế là nâng cao được hiệu quả sử dụng các nguồn vốn thông qua động tác tập hợp các nguồn vốn nhỏ lẻ, nhà rỗi hoặc tạm thời nhàn rỗi, hoạt động chưa hiệu quả thành các nguồn vốn có quy mô lớn, đáp ứng các yêu cầu về sử dụng vốn của các chủ thể có dự án hoặc kế hoạch sử dụng vốn với hiệu quả kinh tế cao hơn. Thực hiện nghiệp vụ huy động vốn kết hợp với sự phân bổ lại các nguồn vốn vào nền kinh tế, NHTM đã đảm bảo hiệu quả hoạt động của nền kinh tế, đồng thời giảm thiểu chi phí vốn cho nền kinh tế. Mức độ giảm thiểu chi phí vốn có thể thấy được khi chúng ta tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra trong hoạt động vay mượn khi thiếu đi sự có mặt của NHTM nói riêng và các trung gian tài chính nói chung: người cho vay sẽ gặp những người đi vay có nhu cầu vốn phù hợp với vốn liếng của mình, sau đó phải mất công thẩm định độ tin cây đối với người vay.
Hoạt động huy động của NHTM đem lại thu nhập cho những người gửi tiền dưới hình thức lãi tiền gửi. Những khách hàng nắm giữ kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng ngoài thu nhập từ việc trả lãi của ngân hàng còn có cơ hội sinh lời từ sự chênh lệch giữa giá mua và giá bán chúng.
Bên cạnh vai trò chủ yếu trên, hoạt động huy động vốn của NHTM cũng góp phần hình thành nên tỉ suất lợi nhuận tối thiểu của các doanh nghiệp. Nó buộc các doanh nghiệp phải hoạt động với tỉ suất lợi nhuận lớn hơn so với lãi suất huy động của ngân hàng. Một doanh nghiệp hoạt động với tỉ suất lợi nhuận không đạt yêu cầu trên (trừ những lý do đặc biệt) nên dừng việc sản xuất kinh doanh lại để lấy vốn vào ngân hàng lấy lãi, như vậy có lợi hơn cho bản thân doanh nghiệp và cho nền kinh tế.
Ngoài ra, hoạt động huy động vốn của NHTM tạo điều kiện cho khách hàng tiếp xúc với ngân hàng, có điều kiện sử dụng các dịch vụ của ngân hàng và do đó hình thành nên thói quen và phong cách làm việc hiện đại cho khách hàng.
Đối với bản thân NHTM
Vốn huy động chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn của NHTM, lên tới 70-80%, vì vậy nó đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động của NHTM. Hoạt động huy động vốn là cơ sở để ngân hàng thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình. Nhu cầu vốn của nền kinh tế là rất lớn và liên tục gia tăng. Không có bất kỳ một ngân hàng nào có đủ sức thực hiện cho vay chỉ bằng vốn chủ sở hữu của mình. Mặt khác, bản chất của NHTM là làm trung gian tài chính - đi vay để cho vay. Do đó, nguồn vốn huy động đương nhiên là nguồn vốn chủ yếu quan trọng nhất, giúp ngân hàng thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình. Quy mô, cơ cấu vốn huy động sẽ trực tiếp quyết định khả năng cho vay của một ngân hàng. Các ngân hàng không thể cho vay lớn, kỳ hạn dài trong điều kiện vốn huy động nhỏ, ngắn hạn, không ổn định.
Hoạt động huy động vốn của NHTM góp phần tạo nên uy tín, sức mạnh của ngân hàng. Một trong những chỉ tiêu để đánh giá khả năng cạnh tranh của ngân hàng là tổng nguồn vốn, trong đó có vốn huy động. Nguồn vốn càng lớn, ngân hàng càng có điều kiện để tăng khả năng cạnh tranh, có sức để duy trì các chiến lược cạnh tranh của mình. Dưới con mắt của hầu hết khách hàng , tổng nguồn vốn của ngân hàng lớn có nghĩa là ngân hàng đó lớn và đáng tin cậy. Do vậy, ngân hàng có vốn lớn thường rất thuận lợi trong các hoạt động của mình vì chiếm được lòng tin của công chúng.
Hoạt động huy động vốn giúp tăng cường và mở rộng mối quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng. Qua mối quan hệ này, ngân hàng có cơ hội tìm hiểu về khách hàng của mình và cũng có cơ hội tuyên truyền, quảng bá về ngân hàng của mình cho khách hàng. Điều này sẽ tạo cơ hội cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho nhiều khách hàng hơn với độ thỏa dụng ngày càng cao.
Tóm lại, hoạt động huy động vốn của NHTM có quan hệ chặt chẽ và mang tính hai chiều với tất cả các hoạt động khác của ngân hàng. Hoạt động huy động vốn được làm tốt sẽ tác động tích cực tới các hoạt động khác của ngân hàng và ngược lại. Do vậy cần đảm bảo tất cả các hoạt động của ngân hàng phải được thực hiện tốt và kết hợp được với nhau một cách tối ưu nếu muốn NHTM hoạt động hiệu quả.
Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại
Huy động vốn là một hoạt động vô cùng quan trọng đối với bất kỳ một NHTM nào. Để huy động được vốn, các ngân hàng thương mại áp dụng rất nhiều các hình thức huy động đa dạng khác nhau. Tùy theo đặc điểm và tình hình kinh doanh của mình, mỗi ngân hàng sẽ áp dụng các hình thức huy động phù hợp. Nhưng nhìn chung, huy động vốn thường thông qua các hình thức sau:
Vốn huy động từ tiền gửi:
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế.
Như vậy, tiền gửi là một khoản mục nguồn vốn được tạo ra do nghiệp vụ nhận tiền gửi hay nghiệp vụ nợ của NHTM.
Tiền gửi là nguồn tiền chiếm tỷ trọng lớn nhất (hơn 50%) trong tổng nguồn tiền và là mục tiêu tăng trưởng của ngân hàng. Tiền gửi là đối tượng phải dự trữ bắt buộc, do vậy chi phí tiền gửi thường cao hơn lãi phải trả cho tiền gửi. Ỏ nhiều nước, ngân hàng phải mua bảo hiểm cho tiền gửi.
Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau. Đối với người gửi tiền, mục đích của họ khá đa dạng như bảo toàn và sinh lợi, sử dụng dịch vụ thanh toán. Còn đối với ngân hàng, mục đích của họ là huy động được nguồn vốn rẻ, chất lượng tốt, đa dạng giúp ngân hàng tìm kiếm được lợi nhuận cao.
Tiền gửi của các tổ chức kinh tế:
Đây là số tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh trong quá trình sản xuất, kinh doanh của các tổ chức này và được gửi tại ngân hàng. Nó bao gồm một bộ phận vốn tiền tệ nhàn rỗi được giải phóng ra khỏi quá trình luân chuyển vốn nhưng nhu cầu sử dụng (vốn lưu động) hoặc sử dụng cho các mục tiêu định sẵn vào một thời điểm nhất định (các quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự trữ tài chính, quỹ khen thưởng).
Các tổ chức kinh tế thường gửi tiền vào ngân hàng dưới hai hình thức:
+ Tiền gửi không kỳ hạn:
Đây là loại tiền gửi mà khi gửi tiền vào, người gửi tiền có thể rút tiền ra bất cứ lúc nào để sử dụng và ngân hàng luôn có trách nhiệm phải thỏa mãn nhu cầu rút tiền đó một cách nhanh chóng, chính xác và đầy đủ. Nếu không thực hiện được, ngân hàng sẽ bị coi là vi phạm hợp đồng và phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
Đối với tổ chức gửi tiền thì mục đích chính là để thông qua đó sử dụng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng. Ngoài ra loại tiền gửi này vẫn được hưởng một mức lãi nhất định nên cũng góp phần tăng thu nhập cho người gửi tiền. Mặt khác, người gửi tiền được chủ động trong việc rút tiền nên vẫn đáp ứng được nhu cầu về vốn kinh doanh khi cần thiết.
Đối với NHTM, tiền gửi không kỳ hạn có chi phí trả lãi thấp nhưng chi phí phi trả lãi cao (chi phí quản lý...) nên ngân hàng thường thu phí cho các dịch vụ thanh toán qua tiền gửi không kỳ hạn này. Tỷ trọng của nguồn tiền gửi trong các NHTM thường cao nên ngân hàng nào thu hút được nhiều tiền gửi không kỳ hạn thì sẽ có được chênh lệch lãi suất lớn. Vì vậy, trên thực tế, các NHTM thường lôi kéo các khách hàng lớn như bảo hiểm, dầu khí, kho bạc... mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng mình để thu hút được một lượng tiền khổng lồ với lãi suất thấp và khi thực hiện thanh toán sẽ thu được nhiều phí dịch vụ. Mặc dù tiền gửi không kỳ hạn là nguồn có thời hạn rất ngắn nhưng giữa việc gửi vào và rút ra vấn có sự chênh lệch về thời gian và thực tế ở các NHTM tài khoản này luôn có số dư nên ngân hàng vẫn có thể sử dụng nguồn này, tiến hành chuyển hoán kỳ hạn nguồn để kinh doanh.
Loại tiền gửi không kỳ hạn này được huy động dưới hai hình thức:
Huy động vốn qua các tài khoản tiền gửi phi giao dịch:
Đây là các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của khách hàng được gửi vào ngân hàng nhưng không nhằm mục tiêu giao dịch mà chủ yếu là để bảo toàn vốn. Với loại tài khoản này, người gửi tiền được hưởng một khoản tiền lãi nhưng không được phát hành Séc cho nhu cầu thanh toán.
Huy động vốn qua tài khoản giao dịch của khách hàng:
Đây là tài khoản mà người mở tài khoản được quyền sử dụng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng để phục vụ cho hoạt động thanh toán của mình như ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, các loại Séc, L/C...Do đặc điểm của loại tài khoản này cho phép người gửi có thể thực hiện thanh toán nên ngân hàng thường yêu cầu người gửi tiền thực hiện một tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhất định theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.Khi thực hiện giao dịch thì phải trả phí giao dịch cho ngân hàng.
+ Tiền gửi có kỳ hạn:
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi có sự thỏa thuận giữa ngân hàng và tổ chức gửi tiền về thời hạn gửi tiền, thường là khách hàng đã xác định được khoảng thời gian mà vốn nhàn rỗi. Trong khoản thời gian đó, ngân hàng tùy ý sử dụng khoản tiền này, đến hạn khách hàng sẽ được rút tiền và hưởng một mức lãi suất cao hơn mức lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn và tùy thuộc vào kỳ hạn gửi tiền, thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Khi chưa đến thời điểm rút tiền, nếu khách hàng muốn rút trước hạn thì phải báo trước cho ngân hàng, phải được sự đồng ý của ngân hàng. Trên thực tế, để cạnh tranh, thu hút khách hàng nên các ngân hàng vẫn cho phép khách hàng rút trước hạn nhưng khách hàng không được hưởng lãi hoặc chỉ thu được một khoản tiền với mức lãi suất không kỳ hạn.
Đối với các tổ chức gửi tiền thì tài khoản tiền gửi có kỳ hạn nhằm mục đích chủ yếu để thu lời, nó rât thuận tiện khi đã xác định được khoảng thời gian mà vốn nhàn rỗi. Hơn nữa, nếu cần thì tổ chức gửi tiền vẫn có thể rút được tiền để sử dụng.
Đối với ngân hàng, tổng lượng tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức thường có quy mô không lớn nhưng rất ổn định. Ngân hàng có thể sử dụng nguồn này một cách chủ động để kinh doanh. Tuy nhiên đây là một nguồn tương đối đắt do lãi suất phải chi trả cho nguồn này thường cao. Để thu hút thêm nguồn này, các NHTM thừong đưa ra rất nhiều các loại kỳ hạn khác nhau như: 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng, 18 tháng, 24 tháng, 3 năm, 5 năm với mức lãi suất hấp dẫn tăng theo kỳ hạn gửi.
Tiền gửi của dân cư:
Đây là khoản tiền nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư gửi tại ngân hàng. Loại tiền gửi này chủ yếu bao gồm các loại sau:
+ Tiền gửi tiết kiệm:
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền nhàn rỗi của dân cư gửi vào ngân hàng với mục đích bảo toàn và sinh lời. Loại tài khoản này không được sử dụng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng. Đây là hình thức huy động truyền thống của ngân hàng và chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn huy động của ngân hàng. Trong hình thức này, người gửi tiền được trao một quyển sổ tiết kiệm, sổ này được coi là giấy chứng nhận có tiền gửi vào quỹ tiết kiệm của ngân hàng, đồng thời cũng là chứng từ xác nhận khoản nợ của ngân hàng đối với người gửi tiền. Sổ tiết kiệm này không dùng để thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ nhưng có thể sử dụng để vay vốn nếu được ngân hàng cho phép.
Đối với người gửi tiền thì đây là một cơ hội để bảo toàn vốn và sinh lời mà không cần phải thực hiện đầu tư và mức độ rủi ro không cao. Người gửi tiền mong muốn đến một khoảng thời gian nhất định sẽ tích góp, dành dụm được một số tiền để đảm bảo cho những vấn đề của cuộc sống.
Đối với ngân hàng, đây là một nguồn huy động lớn, độ ổn định thường cao bởi vì kỳ hạn thường dài và khi hết kỳ hạn khách hàng thường có xu hướng mở tiếp một kỳ hạn mới. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho kỹ thuật chuyển hoán kỳ hạn nguồn, cho phép ngân hàng chủ động kinh doanh và đầu tư vào những dự án có thời hạn dài. Tuy nhiên đây là một nguồn đắt và lãi suất của nó cao, cao hơn mức lãi suất trả cho tiền gửi của các tổ chức.
Có hai loại tiền gửi tiết kiệm:
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn:
Loại tiền gửi này mang đặc tính chung của tiền gửi không kỳ hạn là cho phép người gửi tiền có thể rút tiền bất cứ lúc nào, lãi suất của nó thấp hơn lãi suất của tiền gửi có kỳ hạn.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn:
Tương tự, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn cũng mang đặc tính chung của tiền gửi có kỳ hạn là khách hàng chỉ được rút tiền khi đến hạn thanh toán. Nếu rút trước hạn phải thông báo cho ngân hàng, được sự đồng ý của ngân hàng và hưởng mức lãi suất bằng lãi suất không kỳ hạn hoặc không được hưởng lãi.
Đây là nguồn huy động ổn định nhất, rất quan trọng trong chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên, lãi suất mà ngân hàng chi trả cho loại tiền này là cao nhất trong các loại tiền gửi, nên nguồn này có chi phí huy động lớn nhất.
+ Tài khoản tiền gửi cá nhân:
Đây là loại tài khoản mà cá nhân mở để có thể thực hiện các giao dịch thanh toán, sử dụng dịch vụ thanh toán của ngân hàng. Đời sống vật chất của người dân ngày càng được nâng cao, do đó nhu cầu được thực hiện thanh toán qua ngân hàng, đặc biệt là các phương tiện thanh toán hiện đại như visa card, master card...ngày càng tăng. Đây chính là xu thế thanh toán mới và cũng là hướng phát triển mới của dịch vụ ngân hàng.
Tiền gửi khác:
Ngoài hai loại tiền gửi của tổ chức và cá nhân nói trên, tại các NHTM còn có các loại tiền khác như:
Tiền gửi bằng vốn chuyên dùng.
Tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác.
Tiền gửi của Kho bạc Nhà nước.
Vốn huy động từ tiền vay:
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM. Tuy nhiên, khi cần ngân hàng thường vay mượn thêm. Tại nhiều nước, Ngân hàng Trung ương thường quy định tỷ lệ giữa nguồn huy động và vốn của chủ. Do vậy, nhiều ngân hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế.
Tỷ trọng của loại nguồn vốn này trong tổng nguồn thường thấp hơn nguồn tiền gửi. Các khoản đi vay thường với thời hạn và quy mô xác định trước, do vậy tạo thành nguồn ổn định cho ngân hàng. Khác với nhận tiền gửi, ngân hàng không nhất thiết phải đi vay thường xuyên mà ngân hàng chỉ vay lúc cần thiết. Ngân hàng hoàn toàn chủ động quyết định khối lượng vay phù hợp với nhu cầu sử dụng. Nguồn vay có thể không phải chịu dự trữ bắt buộc và bảo hiểm tiền gửi. Tuy nhiên, do rủi ro lớn hơn nên lãi suất phải trả cho tiền vay thường lớn hơn lãi suất trả cho tiền gửi cùng kỳ hạn.
Các nguồn vay mà NHTM có thể huy động là:
Vay từ Ngân hàng Nhà nước (Ngân hàng Trung ương):
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của NHTM. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (dự trữ bắt buộc hoặc dự trữ thanh toán), NHTM thường vay Ngân hàng Nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu của Ngân hàng Nhà nước là tái chiết khấu (hoặc tái cấp vốn). Các thương phiếu đã được các NHTM chiết khấu (hoặc tái chiết khấu) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền, ngân hàng mang các thương phiếu này lên tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của NHTM giảm đi và dự trữ (tiền mặt hoặc tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước) tăng lên. Ngân hàng nhà nước điều hành việc vay mượn này một cách chặt chẽ, NHTM phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông thường Ngân hàng Nhà nước chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng (thời gian đóa hạn ngắn, khả năng trả nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ. Trong điều kiện chưa có thương phiếu, Ngân hàng Nhà nước cho các NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định. Thông qua lãi suất chiết khấu mà Ngân hàng Nhà nước có thể điều chỉnh được cung tiền tệ cũng như cơ cấu nguồn vốn của NHTM.
Các khoản vay Ngân hàng Nhà nước tuy có lãi suất thấp song thường thời hạn ngắn, chỉ đảm bảo thanh toán tức thời khi nhu cầu thanh toán của khách hàng lên cao. Vay Ngân hàng Nhà nước phụ thuộc rất lớn vào chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
Vay từ các tổ chức tín dụng khác:
Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng trong và ngoài nước. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết số dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo khả năng thanh khoản. Như vậy, nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ Ngân hàng Nhà nước. Quá trình vay mượn rất đơn giản. Ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lý (hoặc Ngân hàng Nhà nước). Khoản vay có thể không cần đảm bảo, hoặc được đảm bảo bằng chứng khoán của Kho bạc. Kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và của ngân hàng đi vay tăng lên. Thông thường các khoản vay này là ngắn hạn. Tuy nhiên, lãi suất vay từ các tổ chức tín dụng cao hơn lãi suất vay Ngân hàng Nhà nước. Nghiệp vụ huy động vốn này được thực hiện qua hình thức chủ yếu sau:
+ Vay qua thanh toán bù trừ.
+ Vay qua hợp đồng cầm cố, tái chiết khấu giấy tờ có giá hoặc các hợp đồng tín dụng có chất lượng cao.
+ Vay theo hình thức tín dụng thời vụ.
Việc vay mượn các ngân hàng khác trên cùng địa bàn cũng gặp khó khăn khi nhiều ngân hàng đang thiếu phương tiện thanh toán. Muốn mở rộng quy mô vay mượn trên thị trường liên ngân hàng, một ngân hàng cần vươn tới thị trường liên ngân hàng quốc tế với khả năng phân tích rủi ro lãi suất và rủi ro hối đoái.
Vay trên thị trường vốn (vay thông qua phát hành giấy tờ có giá):
Các giấy tờ có giá là các công cụ Nợ do ngân hàng phát hành để huy động vốn trên thị trường, bao gồm kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi. Nhiều NHTM thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do vậy các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Nguồn vốn này tương đối ổn định. Thông thường đây là khoản vay không có đảm bảo. Những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách này, họ thường phải thông qua ngân hàng đại lý hoặc được bảo lãnh của Ngân hàng Đầu tư. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng. Nghiệp vụ vay mượn tương đối phức tạp. Ngân hàng cần nghiên cứu kỹ thị trường để quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp. Lãi suất của loại nguồn này phụ thuộc vào sự cấp thiết của việc huy động vốn trên thị trường và thường cao hơn lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn thông thường. Các vấn đề về chuyển nhượng, điều chỉnh lãi suất, bảo quản hộ...cũng được các ngân hàng quan tâm.
Các nguồn vốn khác:
Phần lớn các nguồn khác ngân hàng không phải trả lãi, tuy nhiên chi phí để có và duy trì chúng rất đáng kể. Nhìn chung các nguồn khác trong ngân hàng thường không lớn lắm. Việc gia tăng các nguồn này nằm trong chính sách tăng nguồn thu cho ngân hàng. Các nguồn khác bao gồm :
Nguồn vốn đại lý, ủy thác:
Là vốn hình thành do các khách hàng mong muốn tận dụng các quy trình hay các dịch vụ của ngân hàng, bao gồm ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, ủy thác cấp phát, ủy thác giải ngân và thu hộ. Thông thường các ngân hàng lớn mới có nguồn vốn này. Đặc biệt nguồn vốn này có chi phí rất thấp.
Nguồn trong thanh toán:
Là vốn ngân hàng có được từ những nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh từ hoạt động thanh toán (không dùng tiền mặt) của khách hàng trong ngân hàng như Séc trong quá trình chi trả, ký quỹ để mở L/C. Những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư từ tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay.
Nguồn khác:
Vốn tài trợ, vốn liên doanh liên kết, các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả...
Các nhân tố tác động tới công tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại:
Để có nguồn vốn vững chắc, ổn định, đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của ngân hàng là một vấn đề rất phức tạp. Nó đòi hỏi NHTM phải có những nghiệp vụ huy động vốn ngắn, trung và dài hạn một cách linh hoạt, hấp dẫn và thiết thực, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của ngân hàng cũng như các chính sách của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra, mức độ ổn định, quy mô, cơ cấu của nguồn vốn này lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đòi hỏi NHTM phải nghiên cứu các yếu tố này một cách kỹ lưỡng, cả bên trong và bên ngoài, cả chủ quan và khách quan.
Các nhân tố khách quan
Đây là các yếu tố ảnh hưởng chung đến toàn bộ hệ thống NHTM
Sự tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế:
Nếu nền kinh tế đang ở trong giai đoạn tăng trưởng, phát triển cao, nhu cầu về vốn cho đầu tư, phát triển tăng mạnh thì nó tạo điều kiện thuận lợi cho ngành ngân hàng phát triển, nhu cầu huy đọng vốn của ngân hàng tăng cao. Đồng thời khi kinh tế phát triển thì khả năng tích lũy của người dân cũng tăng mạnh. Đó chính là nguồn tài nguyên lớn cho công tác huy động vốn của NHTM. Ngược lại, khi nền kinh tế phát triển chậm, hoặc suy thoái, nhu cầu đầu tư và khả năng tích lũy giảm nên công tác huy động vốn của ngân hàng cũng giảm. Sự ổn định của nền kinh tế cũng ảnh hưởng đến lãi suất, tỷ giá, lạm phát, thu nhập, chu kỳ chi tiêu của người dân. Các yếu tố này đều có tác động không nhỏ đến khả năng huy động vốn của NHTM. Ví dụ như khi thu nhập của người dân gia tăng là điều kiện để gia tăng quy mô và thay đổi kỳ hạn của nguồn tiền. Một ví dụ khác, thời vụ chi tiêu cũng ảnh hưởng đến quy mô và tính ổn định của nguồn tiền. Cụ thể vào các dịp tết, nguồn tiết kiệm của dân cư cũng như tiền gửi của doanh nghiệp có xu hướng giảm sút do nhu cầu chi tiêu gia tăng. Hoặc như ảnh hưởng của yếu tố lạm phát có thể được thấy rất rõ ràng. Trong những giai đoạn lạm phát cao thì người dân có xu hướng thu hút tích trữ vàng, ngoại tệ mạnh và nguồn huy động của ngân hàng cũng theo xu hướng đó. Còn khi lạm phát ổn định thì nguồn huy động của NHTM có xu hướng thu hút được nhiều nội tệ hơn.
Hành lang pháp lý:
Đây cũng là một yếu tố ảnh hưởng nhiều đến khả năng huy động vốn của NHTM. Nếu hành lang pháp lý được mở rộng theo hướng khuyến khích sự phát triển của thị trường tài chính thì các NHTM cũng được phép huy động nhiều hơn so với số vốn chủ sở hữu của mình. Và ngược lại, khi hành lang pháp lý thu hẹp lại theo hướng kìm hãm sự phát triển quá nóng của thị trường tài chính thì lượng vốn mà ngân hàng được phép huy động trên vốn chủ sở hữu sẽ giảm đi.
Các chính sách kinh tế vĩ mô:
Hệ thống NHTM là một phương tiện để qua đó Ngân hàng Nhà nước thực hiện sự điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế. Các chính sách tài chính tiền tệ như chính sách lãi suất chiết khấu, chính sách chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở đều ảnh hưởng đến lượng vốn mà NHTM huy động được. Khi ngân hàng Nhà nước muốn thu hẹp cung tiền thì với các công cụ trên Ngân hàng nhà nước sẽ tác động làm giảm khả năng huy động và lượng vốn khả dụng của các NHTM với mục tiêu kìm hãm sự phát triển quá mức của nền kinh tế. Và ngược lại, khi muốn mở rộng cung tiền, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, với các công cụ trên, Ngân hàng Nhà nước sẽ tác động làm tăng khả năng huy động vốn cũng như lượng vốn khả dụng của các NHTM.
Sự phát triển của thị trường tài chính:
Một quốc gia có thị trường tài chính phát triển là điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng, trong đó có hoạt động huy động vốn. Thị trường tài chính phát triển sẽ tạo ra nhiều công cụ nợ cũng như nhiều sản phẩm dịch vụ mới hữu hiệu và thiết thực cho công tác huy động vốn của ngân hàng. Thị trường tài chính phát triển còn tạo ra sự cạnh tranh giữa các NHTM. Sự cạnh tranh càng gay gắt thì các chính sách mà các ngân hàng đưa ra để thu hút vốn ngày càng nhiều và hiệu quả hơn, góp phần làm hoàn thiện hơn thị trường tài chính, đẩy mạnh sự phát triển kinh tế nói chung và đem lại nhiều lợi ích cho người gửi tiền.
Tâm lý của người dân:
Một quốc gia có dân số cao, tỷ lệ người dân có thu nhập cao lớn là điều kiện thuận lợi cho các NHTM có thể thu hút được một lượng vốn lớn. Ngoài ra, tâm lý người dân cũng ảnh hưởng không nhỏ đến công tác huy động vốn của các NHTM vì nó ảnh hưởng đến việc ra quyết định gửi tiền của người dân. Nếu người dân vẫn còn thói quen tiêu dùng bằng tiền mặt hoặc tích trữ tiền tại nhà thì đó là một khó khăn lớn đối với ngân hàng. Ngược lại, nếu người dân đã quen với việc thanh toán điện tử, thấy được lợi ích của việc gửi tiền vào ngân hàng thì đây là điều kiện tốt cho ngân hàng huy động vốn. Mặt khác, khi người dân dự đoán lạm phát cao hoặc sẽ xảy ra những biến động về kinh tế, chính trị thì nhu cầu tiết kiệm, gửi tiền và nắm giữ nội tệ của người dân giảm, dẫn đến nguồn cho huy động vốn của ngân hàng giảm, cơ cấu huy động thay đổi và ngược lại.
Cạnh tranh giữa các Ngân hàng.
Trong xu thế hội nhập và phát triển như hiện nay, các ngân hàng thương mại đang phải hoạt động kinh doanh trong một môi trường cạnh tranh vô cùng khốc liệt. Bởi các ngân hàng thương mại sử dụng một loại nguyên liệu đặc biệt đó là tiền – loại nguyên liệu có tính xã hội cao và tính nhạy cảm cao. Bằng chứng là chỉ một sự thay đổi nhỏ về lãi suất huy động cũng có thể có sự chuyển dịch của khách hàng từ ngân hàng này sang ngân hàng khác. Thêm vào đó lại rất khó tạo được sự khác biệt trong sản phẩm ngân hàng vì khi một ngân hàng cho ra một sản phẩm mới thì nhanh chóng các ngân hàng bạn cũng có thể tung ra thị trường một sản phẩm tương tự, thậm chí tính năng còn ưu việt hơn do khắc phục được nhược điểm. Để nâng cao hiệu quả huy động vốn, mỗi ngân hàng cần phải nhận thức rõ môi trường kinh doanh, đối thủ cạnh tranh, xác định thị trường mục tiêu, phát huy lợi thế cạnh tranh, đồng thời cũng phải không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ...
Các nhân tố thuộc về chủ quan Ngân hàng thương mại
Uy tín của ngân hàng:
Khi gửi tiền vào NHTM, người gửi thường lo sợ trước biến động thường xuyên của nền kinh tế. Do đó, họ thường có sự cân nhắc lựa chọn ngân hàng nào mà họ cho là an toàn, thuận lợi nhất và đó chính là biểu hiện sự uy tín của ngân hàng đối với khách hàng. Ngân hàng nào uy tín càng cao thì càng thu hút được nhiều khách hàng đến gửi tiền và do đó có cơ hội huy động được lượng vốn càng lớn. Thông thường, người gửi tiền thường đánh giá uy tín của ngân hàng qua các tiêu thức cơ bản sau: sự hoạt động lâu năm, quy mô hoạt động, vốn chủ sở hữu, lượng vốn huy động được, cơ sở vật chất, trình độ quản lý, thái độ của nhân viên giao dịch, công nghệ và các dịch vụ ngân hàng cung cấp. Do đoa, các NHTM cần phải nâng cao các yếu tố này của mình để tăng cường khả năng huy động vốn.
Chính sách lãi suất và cạnh tranh của ngân hàng:
Đây cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định gửi tiền vào ngân hàng nào của khách hàng. Chính sách lãi suất của ngân hàng phải đủ độ linh hoạt, hấp dẫn và cạnh tranh được với các ngân hàng khác, tuy nhiên vẫn phải đảm bảo bù đắp được chi phí và đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Chính sách lãi suất của ngân hàng bao gồm cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Hai loại lãi suất này luôn gắn bó mật thiết với nhau. Thông thường quy mô tiền gửi vào NHTM biến động tỷ lệ thuận với lãi suất huy động nhưng cũng có khi lãi suất huy động giảm mà huy động của NHTM vẫn có thể tăng. Như vậy, lãi suất huy động vốn ảnh hưởng rất lớn đến khả năng huy động vốn của NHTM. đặc biệt là tới tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
Chính sách sản phẩm:
Đời sống của người dân ngày càng được cải thiện và nâng cao nên nhu cầu của người dân cũng ngày càng phong phú và đa dạng. Việc đưa ra nhiều loại sản phẩm dịch vụ để thỏa mãn được ngày càng nhiều nhu cầu đó là vô cùng cần thiết để huy động vốn cho ngân hàng. Các NHTM thường cung cấp các loại hình dịch vụ vừa mang tính chất truyền thống vừa mang tính chất hiện đại như tiền gửi tiết kiệm với nhiều mức kỳ hạn, kỳ phiếu, trái phiếu đa mệnh giá... Đặc biệt, việc phát triển các sản phẩm dịch vụ mới hiện nay đang được các ngân hàng rất coi trọng và được xem như một chiến lược cạnh tranh giữa các ngân hàng. Ngoài ra các sản phẩm mới này còn tạo ra một phong cách tiêu dùng mới cho người dân theo xu hướng hiện đại, giảm việc sử dụng thanh toán tiền mặt (các loại thẻ thanh toán...).
Đặc điểm ngân hàng, mạng lưới chi nhánh, quầy giao dịch:
Đặc điểm ngân hàng cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của NHTM. Một ngân hàng có địa điểm đẹp, nằm tại các dãy phố chính, dân cư đông đúc, sầm uất là một thế mạnh để thu hút những người gửi tiền. Ngoài ra, mạng lưới chi nhánh, số lượng quầy giao dịch cũng có ảnh hưởng không nhỏ. Ngân hàng nào có mạng lưới lớn thì khả năng tiếp xúc, đi sâu đi sát người dân để vận động họ gửi tiền càng lớn.
Chính sách kinh doanh của NHTM:
Khi ngân hàng mở rộng cho vay thì nhu cầu về tiền gửi của ngân hàng tăng lên. Ngân hàng sẽ thực hiện các biện pháp hữu hiệu để huy động vốn và do đó tiền gửi của các cá nhân và tổ chức cũng tăng lên.
Công tác khuyếch chương, quảng cáo, marketing của NHTM:
Trong thời đại hiện nay, thông tin đóng một vai trò hết sức quan trọng. Các NHTM cũng đã nhận ra được sức mạnh của nó. Để tạo được ấn tượng với khách hàng về tên tuổi, uy tín, khả năng phục vụ, trình độ công nghệ, loại hình dịch vụ cung cấp thì các NHTM đã sử dụng các phương tiện quảng cáo trên thông tin đại chúng như vô tuyến truyền hình, đài truyền thanh, biểu ngữ quảng cáo trên đường phố, các đợt khuyến mãi, dự thưởng...Các hoạt động đó đã giúp người dân nắm bắt được các thông tin về dịch vụ hoặc đơn giản là thương hiệu của ngân hàng để từ đó đến với ngân hàng. Đây là điều mà các ngân hàng mong muốn đạt được.
Cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ, trình độ nhân viên của NHTM:
Các yếu tố này là bộ mặt của một ngân hàng. Cơ sở vật chất của ngân hàng càng khang trang, công nghệ càng hiện đại, đội ngũ nhân viên càng nhiệt tình, chu đáo thì khả năng làm vừa lòng khách hàng sẽ càng cao, tạo nhiều niềm tin và sự thoải mái cho khách hàng. Điều này đóng vai trò rất quan trọng trong việc giữ gìn khách hàng truyền thống cũng như thu hút khách hàng mới cho ngân hàng. Từ đó góp phần nâng cao vị thế và khả năng huy động vốn cho ngân hàng.
Chương 2:
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN
TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN THANH XUÂN NAM – HÀ TÂY
2.1. Tổng quan về Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam – Hà Tây
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam - Hà Tây
Theo quyết định số 280/QĐ - NHNN ngày 15/11/1996 của Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ uỷ quyền đổi tên Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam thành Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam.Với tên gọi mới, ngoài chức năng của một Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam đã thể hiện định hướng chiến lược có ý nghĩa quan trọng trong những tháng cuối năm 1996. Trong đó có việc ra đời của một số chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp tại các thành phố lớn, khu đô thị và trung tâm kinh tế trên mọi miền đất nước trong giai đoạn 1996 - 1997 .
Theo quyết định số 2280/CV/NHNo-02 Ngày 14/09/2000 của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam, chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam được thành lập và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 15/09/2000. Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam là Chi nhánh cấp II trực thuộc NHNo&PTNT tỉnh Hà Tây.
Tuy tuổi đời còn rất trẻ nhưng NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam đã không ngừng vươn lên và ngày càng khẳng định được mình về các lĩnh vực như: vốn, tài sản, đội ngũ nhân viên, mạng lưới hoạt động và số lượng khách hàng. Hiện nay NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam đang tập trung giữ vững và phát triển thị trường thành thị với việc nâng cao chất lượng phục vụ cũng như phát triển các dịch vụ tiện ích cung cấp cho khách hàng, mở rộng các phòng giao dịch. Đến nay, ngoài trụ sở chính tại số 565 đường Nguyễn Trãi - Thanh Xuân - Hà Nội, NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam đã mở thêm hai phòng giao dịch với đội ngũ nhân viên nhiệt tình trong công tác, luôn duy trì mối quan hệ tốt với khách hàng. Hai phòng giao dịch tại:
+ Phòng Giao Dịch Thượng Đình - 110 Thượng Đình.
+ Phòng Giao Dịch 539 đường Nguyễn Trãi - Thanh Xuân Nam
Trong những năm đầu mới thành lập, chi nhánh Thanh Xuân Nam đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động vốn nhưng chi nhánh đã đánh dấu được sự trưởng thành trong kinh doanh của mình và đến ngày 30/06/2006 tổng nguồn vốn huy động đạt 211,375 tỷ đồng. Chi nhánh ngày càng thực hiện đa dạng hoá các nghiệp vụ của mình, các hoạt động chính của chi nhánh là:
- Mở tài khoản tiền gửi, nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ đối với các đơn vị, tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài nước. Cho vay ngắn, trung và dài hạn với khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư khác nhau.
- Thực hiện nghiệp vụ hùn vốn, góp vốn liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế, dịch vụ tư vấn và đầu tư phát triển kinh doanh. Thực hiện nghiệp vụ cho vay cầm cố, thế chấp bất động sản và cho vay tiêu dùng đối với mọi đối tượng dân cư, mua lại công trái với giá hợp lý.
- Thanh toán ngoài hệ thống và thanh toán điện tử, chuyển tiền qua mạng vi tính trong hệ thống với thời gian nhanh nhất. Thực hiện nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối, mua bán ngoại tệ, dịch vụ thanh toán quốc tế và chi trả kiều hối cho mọi đối tượng
- Phát hành và thanh toán Thẻ tín dụng nội địa, thẻ ghi nợ ATM (thẻ rút tiền tự động).
Khi mới thành lập Cán bộ viên chức của chi nhánh chỉ gồm 12 người. Ngoài những thành viên trong Ban Giám đốc, Trưởng các phòng kế hoạch, kinh doanh, kế toán, ngân quỹ đã từng có kinh nghiệm trong nghiệp vụ kinh doanh và đã trải qua quá trình công tác thì số cán bộ viên chức còn lại đều bắt đầu làm quen với công việc hoàn toàn mới mẻ nên còn thiếu kiến thức thực tế, lại chưa am hiểu công việc. Vì vậy, chi nhánh còn rất nhiều mặt phải hoàn thiện và phát triển đó là: kiện toàn bộ máy, tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, định hình và hoạch định chiến lược kinh doanh đúng hướng, đào tạo con người, chính sách tìm kiếm và thu hút những khách hàng tiềm năng…
Tính đến ngày 30/06/2007 tổng cán bộ nhân viên tại chi nhánh là 31 người. Trong đó cán bộ viên chức có trình độ trên đại học là 8 người; cán bộ viên chức có trình độ đại học là 19 người; cán bộ có trình độ cao đẳng, trung cấp là 4 người.
Trải qua quá trình hình thành và phát triển cơ cấu tổ chức cán bộ của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Thanh Xuân Nam dần dần trở nên hoàn thiện hơn, xứng đáng là một đơn vị kinh tế điển hình của khu vực Tỉnh Hà Tây. Đáp ứng được nhiệm vụ mà Ngân hàng Nhà nước giao phó. Qua nhiều đợt tuyển dụng và bổ sung cán bộ đến nay cơ cấu tổ chức của ngân hàng đã được biên chế một cách phù hợp theo cơ cấu như sau:
2.1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy của NHNo&PTNT Tỉnh Hà Tây - Chi nhánh Thanh Xuân Nam
* Ban giám đốc gồm:
- Một Giám đốc phụ trách chung
- Ba phó giám đốc:
+ Một phó giám đốc phụ trách kinh doanh
+ Một phó giám đốc phụ trách thanh toán quốc tế
+ Một phó giám đốc phụ trách kế toán ngân quỹ
* Cơ cấu thành ban: Có 6 phòng ban với cơ cấu tổ chức như sau:
Sơ đồ: Cơ cấu tổ chức
Ban giám đốc
Phòng kế hoạch kinh doanh
Phòng
kế toán, ngân quỹ
Phòng thanh toán quốc
tế
Phòng tổ
chức
cán bộ
phòng
tổ
chức
hành
chính
phòng
kiểm tra kiểm soát
nội
bộ
* Chức năng, nhiệm vụ của từng phòng ban
- Phòng kế hoạch kinh doanh: Đảm nhiệm vai trò phụ trách việc nghiên cứu xây dựng chiến lược khách hàng để đưa ra phương án kinh doanh, chuyên thẩm định và đề xuất cho vay các dự án tín dụng và tính toán chiến lược kinh doanh sao cho vừa an toàn, vừa hiệu quả, phải thường xuyên phân loại dư nợ, phân tích nợ quá hạn và tìm nguyên nhân... từ đó đưa ra giải pháp tín dụng và sử lý nợ quá hạn... giúp ban lãnh đạo kiểm tra hoạt động tín dụng một cách chính xác nhất.
- Phòng kế toán ngân quỹ: Có nhiệm vụ kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng các tài sản ngân quỹ, đảm bảo an toàn cho các hoạt động kinh doanh của chi nhánh.
- Phòng thanh toán quốc tế: Có nhiệm vụ kiểm soát các hoạt động thanh toán mang tính chất quốc tế tức là các hoạt động này liên quan đến thu – chi và kết quả kinh doanh của các đồng tiền ngoại tệ, liên quan đến chuyển tiền trên lĩnh vực quốc tế.
- Phòng tổ chức cán bộ: Đây là phòng ban chuyên làm nhiệm vụ đào tạo và tuyển dụng cán bộ, ngoài ra còn nghiên cứu, quản lý cán bộ nhằm đánh giá cán bộ để làm thủ tục nâng lương, chỉnh ngạch bậc cho cán bộ công nhân viên chức.
- Phòng tổ chức hành chính: Có nhiệm vụ xử lý và tiếp nhận các công văn đến, đi sao cho đúng các nguyên tắc thủ tục, đúng đối tượng và thời gian quy định, thực hiện sao cho có khoa học. Ngoài ra phòng còn thực hiện công tác đối ngoại duy trì các mối quan hệ với chính quyền phường và công an phường nhằm giữ trật tự an ninh cho cơ quan và các tài sản của cơ quan.
- Phòng kiểm tra, kiểm soát nội bộ: Có nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát các chứng từ như: cho vay thu nợ, tiết kiệm chi tiêu và một số chứng từ khác...nhằm xử lý các chứng từ sai sót như: thiếu chữ ký của kế toán...Đồng thời, kiểm tra các đơn vị có quan hệ tín dụng với ngân hàng, phân tích và kiểm tra báo cáo tài chính các quý. Từ đó giúp ban giám đốc có biện pháp chỉ đạo kịp thời, chấn chỉnh những vấn đề còn chưa tốt.
2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Hà Tây - chi nhánh Thanh Xuân Nam
a) Môi trường kinh doanh của chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam - Hà Tây
* Thuận lợi: Trụ sở Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam nằm trên đường Nguyễn Trãi, thuộc Quận Thanh Xuân. Đây là địa bàn khá rộng, tập trung nhiều các cơ quan, các công ty, nhà máy, xí nghiệp lớn, nhỏ và nhiều hộ sản xuất kinh doanh cá thể. Đây là điều kiện lý tưởng thuận lợi để huy động vốn cũng như cung ứng vốn để phát triển kinh tế.
* Khó khăn: Là một chi nhánh Ngân hàng nằm giáp danh giữa hai thành phố: Hà Nội và Hà Đông nên chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh hết sức gay gắt của các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác trên địa bàn như: NH Ngoại thương, NH Công Thương, NH Nhà Đồng Bằng sông Cửu Long, NH Kỹ Thương, NH ngoài quốc doanh, NHTMCP Quân đội và một số các NHTM khác.
b) Các hoạt động kinh doanh của Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam - Hà Tây
Các NHTM dù tồn tại dưới hình thức nào cũng luôn đặt lợi nhuận lên hàng đầu, để đạt được điều đó công cụ duy nhất là vốn. Vốn kinh doanh bao gồm: vốn tự có, vốn huy động được dưới nhiều hình thức và các loại vốn khác. Vốn quyết định đến quy mô phạm vi hoạt động của ngân hàng trên thị trường. Nắm được tầm quan trọng của vốn, do vậy chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam – Hà Tây đã thực hiện tốt các công tác, thể hiện như sau:
* Công tác huy động vốn.
Công tác huy động vốn chiếm một vị trí quan trọng, nó không chỉ quyết định đến hiệu quả của nghiệp vụ tín dụng mà còn quyết định đến cả quá trình hoạt động của NH. Để thực hiện cho vay có hiệu quả và chất lượng trước tiên NH phải có vốn, với một nguồn vốn dồi dào NH sẽ đáp ứng được nhu cầu của khách hàng và mở rộng thêm mối quan hệ với khách hàng mới. Thêm vào đó việc huy động vốn tốt sẽ giúp NH tạo được niềm tin với khách hàng, họ sẽ đến với NH khi họ có nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ của NH. Thấy rõ được tầm quan trọng của vốn, NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam luôn chú trọng đến công tác huy động vốn và đặt công tác này lên hàng đầu. Cụ thể tình hình công tác huy động vốn của NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam trong những năm gần đây, em xin được trình bày ở phần 2.2.
* Công tác sử dụng vốn:
Một ngân hàng đạt kết quả tốt không chỉ trong huy động vốn mà còn sử dụng vốn thế nào cho có hiệu quả. Nếu như huy động vốn dồi dào nhưng sử dụng vốn không hết, sử dụng không hiệu quả sẽ gây nên tình trạng ứ đọng vốn hay mất vốn, làm giảm hiệu quả kinh doanh của ngân hàng và của cả nền kinh tế. Cũng như các NHTM khác, công tác điều hành vốn của NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam chủ yếu là hoạt động tín dụng, trong đó hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng lớn và đây cũng là hoạt động mang lại nguồn thu lớn nhất cho chi nhánh. Do đó, nếu mở rộng cho vay và tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro, thực hiện tốt phương châm an toàn và hiệu quả thì sẽ tạo tiền đề cho sự vững mạnh của ngân hàng.
Trong thời gian qua, Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam hết sức quan tâm đến công tác sử dụng vốn, đặc biệt là hoạt động tín dụng luôn luôn được coi là mũi nhọn, là nhiệm vụ hàng đầu trong hoạt động kinh doanh. Thực hiện chỉ đạo của NHNo&PTNT tỉnh Hà Tây, Chi nhánh Thanh Xuân Nam đã xác định các định hướng chính trong hoạt động tín dụng là:
- Tích cực mở rộng đầu tư trong điều kiện cho phép, đảm bảo an toàn và có hiệu quả, phục vụ tốt cho nhu cầu phát triển kinh tế của địa phương, gắn tín dụng thương mại với đầu tư phát triển , kiên trì thực hiện đường lối công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền kinh tế của Đảng và nhà nước.
- Thực hiện hoạt động tín dụng theo cơ chế thị trường và quan hệ cung cầu vốn, áp dụng lãi suất thực dương, đảm bảo đủ bù đắp chi phí và có thực lãi. Tìm kiếm và chuyển dần sang đầu tư theo dự án và chương trình kinh tế có tính khả thi cao.
Hoạt động cho vay của Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam :
Bảng 1: Hoạt động cho vay
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số dư
số dư
So sánh
(%)
số dư
Tổng dư nợ
167,201
166,341
- 0,5
179,011
Nợ quá hạn
36,337
8,327
- 77,1
13,102
Nợ quá hạn / Tổng dư nợ
21,7%
5%
7,3%
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của năm 2005 – 2007)
Nhận xét :
Năm 2005, Nợ quá hạn chiếm tỷ lệ rất cao 21,7% trong tổng dư nợ, chủ yếu là do một số công trình giao thông thuộc các doanh nghiệp nhà nước gặp khó khăn trong thanh toán dẫn đến việc trả nợ Ngân hàng chậm. Ngoài ra, công tác tìm hiểu khách hàng còn sơ sài, công tác thẩm định, quản lý nợ của một số Cán bộ tín dụng ngân hàng còn yếu.
Đến năm 2006 do tình hình kinh tế có sự thay đổi lớn, Việt Nam gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO, nhiều ngân hàng nước ngoài đầu tư vào Việt Nam tạo nên sự cạnh tranh rất gay gắt trong ngành ngân hàng, do vậy tình hình hoạt động của chi nhánh cũng bị ảnh hưởng.
Tuy nhiên tổng dư nợ năm 2006 là 166,341 tỷ đồng chỉ giảm nhẹ so với năm 2005. Đặc biệt nợ quá hạn năm 2006 đã giảm xuống đáng kể, chỉ còn 8,327 tỷ đồng chỉ chiếm 5% trong tổng dư nợ. Chứng tỏ chất lượng tín dụng ngày càng được nâng cao. Có được kết quả đó là do Ngân hàng đã áp dụng các biện pháp như:
Trong quá trình cho vay đã làm tốt việc phân loại và lựa chọn khách hàng, làm tốt công tác phân tích nợ.
Thực hiện công tác đổi miền cán bộ tín dụng.
Tập trung thu nợ các doanh nghiệp nhà nước.
Để hạn chế nợ xấu phát sinh, Chi nhánh đã thành lập 2 tổ thu nợ là: Tổ thu nợ doanh nghiệp và tổ thu nợ hộ sản xuất, đời sống có quy chế hoạt động cụ thể. Vào ngày 05 hàng tháng, Ban lãnh đạo họp với hai tổ thu nợ để phân tích từng món vay, nêu rõ khó khăn, thuận lợi và đưa ra biện pháp thu hồi nợ cụ thể với từng khách hàng. Do vậy nợ xấu của chi nhánh đã giảm dần.
Với việc duy trì những biện pháp trên, công tác tín dụng 6 tháng đầu năm 2007 của chi nhánh tiếp tục được củng cố. Tổng dư nợ 179,011 tỷ đồng tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước; Nợ quá hạn là 13,102 tỷ đồng chiếm 7,3% tổng dư nợ. Dư nợ quá hạn tập trung vào 3 doanh nghiệp trong đó có 2 doanh nghiệp Nhà nước thuộc các công ty công trình giao thông nên việc hạ thấp nợ quá hạn trong 6 tháng đầu năm gặp nhiều khó khăn.
Phân loại dư nợ
- Phân loại theo thời gian:
Bảng 2: Phân loại dư nợ theo thời gian
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Dư nợ
tỷ trọng
dư nợ
tỷ trọng
dư nợ
tỷ trọng
Tổng dư nợ
167,201
100%
166,341
100%
179,011
100%
Ngắn hạn
133,078
79,6%
135,423
81,4%
149,582
83,6%
Trung - dài hạn
34,123
20.4%
30,918
18,6%
29,429
16,4%
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của năm 2005 – 2007)
Nhận xét:
+ Dư nợ cho vay ngắn hạn luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ khoảng 80%, còn dư nợ cho vay trung và dài hạn chỉ chiếm khoảng gần 20% trong tổng dư nợ. Trong khi Ngân hàng chủ yếu huy động từ nguồn trung và dài hạn. Điều này sẽ làm tăng chi phí của Ngân hàng.
+ Dư nợ cho vay ngắn hạn của Ngân hàng có xu hướng tăng dần trong tỷ trọng tổng dư nợ.
- Phân loại theo thành phần kinh tế
Bảng 3: Phân loại dư nợ theo thành phần kinh tế
Đơn vị: Tỷ đồng
Thành phần
kinh tế
2005
2006
2007
dư nợ
tỷ trọng
dư nợ
tỷ trọng
dư nợ
tỷ trọng
Tổng dư nợ
167,20 1
100%
166,341
100%
179,011
100%
DN Nhà nước
63,315
38
12,057
7
11,242
6
DN ngoài QD
76,931
46
112,643
68
115,921
65
Hộ sản xuất
18,364
11
28,428
17
30,560
17
Đời sống
6,381
4
6,539
4
10,408
6
Cầm cố
2,209
1
6,674
4
10,880
6
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của năm 2005 – 2007)
Nhận xét:
- Khách hàng vay vốn chủ yếu tại chi nhánh là các doanh nghiệp Nhà nước và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
- Dư nợ cho vay doanh nghiệp nhà nước năm 2005 khá lớn chiếm 38% tổng dư nợ. Tuy nhiên việc các doanh nghiệp nhà nước chậm thanh toán các khoản nợ với Ngân hàng trong năm 2005 khiến cho tỷ lệ nợ quá hạn của Ngân hàng khá cao nên Ngân hàng phải tập trung thu nợ và thu hẹp phạm vi cho vay đối với các doanh nghiệp Nhà nước.
Mặt khác, Ngân hàng cũng mở rộng cho vay với các thành phần kinh tế khác cho nên tỷ trọng dư nợ của các thành phần kinh tế còn lại liên tục tăng.
* Nghiệp vụ bảo lãnh
Bảng 4: Kết quả của hoạt động bảo lãnh 2005 - 2007
Đơn vị : Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Doanh số bảo lãnh
38,759
27,789
13,700
Doanh số xuất bảo lãnh
34,472
32,772
14
Số dư bảo lãnh
18,699
13,714
13,381
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của năm 2005 – 2007)
Nhận xét:
Trong quá trình bảo lãnh chưa có món nào Ngân hàng phải trả thay hoặc cho vay bắt buộc.
Nghiệp vụ bảo lãnh năm 2005 tăng 29% so với năm 2004, mang lại lợi ích nguồn vốn và tăng doanh thu cho chi nhánh.
Năm 2006 nghiệp vụ bảo lãnh giảm so với năm 2005 do một số doanh nghiệp Nhà nước có khó khăn nên Chi nhánh cũng hạn chế thực hiện bảo lãnh và có một số món bảo lãnh đã tất toán.
- Năm 2007 nghiệp vụ bảo lãnh giảm so với năm 2006; 2005.
* Công tác kế toán và ngân quỹ
Cùng với việc ứng dụng tốt công nghệ tin học trong công tác kế toán, xây dựng phong cách giao dịch mới, làm tốt các dịch vụ thanh toán, những sai sót trong công tác kế toán ngân quỹ đã giảm dần qua các thời điểm, nghiệp vụ kho quỹ thực hiện đảm bảo đúng quy trình nghiệp vụ, đảm bảo đúng an toàn theo quy định. Công tác kế toán ngân quỹ đã thực sự góp phần quan trọng vào kết quả hoạt động kinh doanh chung, đảm bảo tuyệt đối an toàn về tài sản. Trong những thời gian qua, công tác kế toán ngân quỹ đã phát hiện và trả lại nhiều món tiền thừa cho khách hàng, bước đầu gây dựng được lòng tin với khách hàng. Lượng khách hàng có quan hệ thanh toán, tiền gửi ngày càng tăng.
Hiện tại Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam đã thực hiện đựơc nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, mọi giao dịch được rút ngắn thời gian và chi phí cho cả khách hàng và ngân hàng . Đến thời điểm 31/12/ 2007, Chi nhánh Thanh Xuân Nam đang quản lý 798 tài khoản (trong đó, 65 tài khoản của doanh nghiệp nhà nước, 502 tài khoản cá nhân, 231 tài khoản các doanh nghiệp ngoài quốc doanh).
Bảng 5: Doanh số thu - chi tiền mặt nội tệ
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ số
2006
2007
so sánh
Doanh số thu tiền mặt nội tệ
579,813
626,804
+ 46,991
Doanh số chi tiền mặt nội tệ
579,906
625,591
+ 45,685
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của năm 2006 – 2007)
Nhận xét :
Doanh số thu - chi tiền mặt nội tệ năm 2007 tăng so với năm 2006, thể hiện hoạt động kinh doanh của chi nhánh ngày càng phát triển. Công tác hạch toán kế toán, quản lý tài sản đảm bảo an toàn, hạn chế thấp nhất những sai sót phát sinh. Chi nhánh luôn chấp hành tốt chế độ thông tin báo cáo, cung cấp số liệu chính xác cho các cấp trong việc chỉ đạo điều hành.
Bảng 6: Doanh thu ngoại tệ
Chỉ số
2006
2007
so sánh
Doanh số thu tiền mặt USD
3.007.436
4.215.412
+1.207.976
Doanh số thu tiền mặt EUR
398.977
195.005
-203.972
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của năm 2006 - 2007)
Doanh số thu tiền mặt bằng USD của chi nhánh tăng dần đáp ứng nhu cầu cung ứng ngoại tệ cho khách hàng. Tuy nhiên, doanh số thu tiền bằng EUR lại giảm đi do các khách hàng ưa thích thanh toán, dự trữ bằng đồng USD hơn so với EUR.
* Hoạt động Thanh toán quốc tế
Tuy mới đi vào hoạt động song hoạt động thanh toán quốc tế tại chi nhánh đã sớm đi vào ổn định, lượng khách hàng có quan hệ thanh toán ngày càng đông, Ngân hàng tạo được tín nhiệm với khách hàng, hoạt động kinh doanh ngoại tệ càng được chú trọng và ngày càng có hiệu quả:
Bảng 7: Hoạt động TTQT của NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam
. Đơn vị: 1000USD
Chỉ tiêu
31/ 12/ 2006
31/ 12/ 2007
1. Số đơn vị có quan hệ TTQT
15
41
2. Doanh số thanh toán
+ Thanh toán L/C
+ Nhờ thu
+ Chuyển tiền
2,144
16
6,594
22,071
1,196
103,618
3. Doanh số mua bán ngoại tệ
+ Mua ngoại tệ
+ Bán ngoại tệ
2,494
2,335
37,801
38,472
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của năm 2006-2007)
Qua bảng trên cho ta thấy công tác thanh toán quốc tế của chi nhánh hoạt động khá tốt. Đến nay,chi nhánh đã có quan hệ với hơn 300 chi nhánh nước ngoài, phát triển nghiệp vụ thu đổi ngoại tệ cả nhân dân tệ và tổ chức thanh toán biên mậu nhằm đảm bảo lợi nhuận cho khách hàng có quan hệ mua bán, nhờ vậy mà doanh số hoạt động tăng trưởng khá cao.
Trong năm 2007, chi nhánh đã chấp hành tốt các quy định, quy trình nghiệp vụ thanh toán quốc tế, không để xảy ra sai sót, rủi ro trong thanh toán. Tuy trong thời điểm 2007, tỷ giá USD có nhiều biến động nhưng tổng doanh số hoạt động thanh toán quốc tế của chi nhánh đạt tốc độ tăng trưởng khá nhanh, dịch vụ mua bán ngoại tệ tăng lên. Đạt được điều này là do Chi nhánh Thanh Xuân Nam có định hướng cụ thể trong con đường phát triển của mình. Chi nhánh đã nhanh chóng chiếm được lòng tin của khách hàng với dịch vụ đưa ra hoàn hảo, thuận tiện, nhanh chóng, an toàn và lịch sự .
* Các hoạt động khác:
Ngoài các hoạt động chính, NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam còn chú trọng đến các công tác hỗ trợ cho kinh doanh đó là:
- Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ: Để thực hiện tốt mục tiêu an toàn trong kinh doanh, công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ của chi nhánh thường xuyên được duy trì. Trên cơ sở nhiệm vụ kinh doanh, căn cứ vào chương trình kiểm tra của NHNo&PTNT Tỉnh Hà Tây, NHNN, chi nhánh đã chủ động lập chương trình và kiểm soát trên tất cả các mặt nghiệp vụ như: tín dụng, bảo lãnh, quyết toán tài chính, tiền tệ và kho quỹ, giao nhận tiền, chấp hành chế độ tại các quỹ tiết kiệm từ đó đôn đốc việc thực hiện chế độ đi vào nề nếp.
- Công tác đào tạo: Ngân hàng thường xuyên tổ chức đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ như : nghiệp vụ tín dụng, giao dịch, kế toán, vi tính và ngân quỹ.
c) Những ưu điểm trong quá trình hoạt động kinh doanh của chi nhánh thời gian vừa qua
- Tổ chức phân công công việc rõ ràng, cụ thể.
- Hoạt động thu chi tiền mặt đã thực sự thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, luôn đảm bảo thu đúng, chi đủ an toàn và chính xác.
- Công tác hạch toán kế toán, quản lý tài sản được đảm bảo an toàn, hạn chế thấp nhất những sai sót phát sinh.
- Chi nhánh đã xác định công tác kiểm tra, tự kiểm tra là một phương pháp tốt nhất trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh.
- Duy trì tốt hoạt động của các tổ lưu động: tổ thu nợ, tổ huy động tiền gửi tại nhà. Các tổ hoạt động nề nếp, góp phần đem lại hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của chi nhánh.
- Thực hiện việc đổi miền cán bộ tín dụng theo định kỳ và đột xuất để đảm bảo tính khách quan, tăng uy tín với khách hàng.
d) Những nhược điểm trong quá trình hoạt động kinh doanh của chi nhánh thời gian vừa qua
- Doanh thu từ dịch vụ còn khiêm tốn so với doanh thu từ tín dụng.
- Trình độ cán bộ còn yếu đặc biệt là về ngoại ngữ, tin học .
- Trang thiết bị văn phòng còn lạc hậu.
- Hệ thống trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho việc thanh toán bằng thẻ tín dụng còn thiếu.
- Công tác tổng kết, đúc rút kinh nghiệm từ các báo cáo tổng kết ngành, vận dụng tình hình thực tế tại Chi nhánh nhằm bổ sung rút ra những bài học thành công và thất bại, nhằm hoàn thiện từng bước hệ thống lý luận trong quản trị điều hành tác nghiệp phù hợp với những điều kiện hoàn cảnh cụ thể được Chi nhánh thực hiện chưa thường xuyên, chưa thực sự hiệu quả.
e) Các biện pháp khắc phục những nhược điểm
- Trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật tốt phục vụ cho giao dịch, trang bị đủ máy tính hiện đại cho các phòng giao dịch, hỗ trợ phần mềm giao dịch phù hợp với hoạt động đặc thù của Chi nhánh Thanh Xuân Nam.
- Trang bị máy ATM tại các phòng giao dịch để mở rộng dịch vụ rút tiền tự động qua máy ATM và phục vụ trả lương thông qua tài khoản ATM cho các khách hàng lớn của Chi nhánh Thanh Xuân Nam
- Nâng cao trình độ về tin học, ngoại ngữ, hiểu biết pháp luật, khả năng giao tiếp cho đội ngũ cán bộ nhân viên.
2.2. Thực trạng huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam – Hà Tây
NHTM hoạt động chủ yếu không phải bằng nguồn vốn tự có mà chủ yếu bằng nguồn vốn huy động, vì vậy hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh doanh không chỉ của NHNo&PTNT mà của mọi NHTM nói chung.
Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam có địa bàn hoạt động rộng, nằm giáp danh giữa TP Hà Đông - Tỉnh Hà Tây và Thủ đô Hà Nội, nơi tập trung đông dân cư và các tổ chức kinh tế, có mức thu nhập cao và tốc độ phát triển kinh tế nhanh hàng đầu cả nước. Nhận thấy được tầm quan trọng của hoạt động huy động vốn cũng như những ưu thế của mình so với các chi nhánh khác trong hệ thống NHNo&PTNT tỉnh Hà Tây, Chi nhánh Thanh Xuân Nam đã coi trọng hoạt động huy động vốn, xem “ tạo vốn là khâu mở đường, tạo mặt bằng vốn tăng trưởng vững chắc”. Từ khi hoạt động đến nay, Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam đã phát huy được những thuận lợi, khắc phục những khó khăn, dần dần khẳng định được vị thế của mình trên thị trường.
Quy mô vốn
Hiện tại, Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam , đóng tại một địa điểm rất thích hợp ở trung tâm thành phố như vậy, nhưng do mặt bằng hẹp khách hàng quan hệ tiền vay chủ yếu là hộ sản xuất và các tầng lớp dân cư. Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam đã quan hệ với một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh có nguồn vốn lớn được duy trì cơ cấu nguồn vốn như trên đã đáp ứng đủ vốn cho kinh doanh góp phần tạo lãi suất đầu vào tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường tiền tệ.
Từ năm 2005 đến năm 2007 tốc độ tăng trưởng nguồn vốn là tương đối tốt, Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam – Hà Tây đã thực hiện tốt nhiệm vụ được giao của mỗi thời điểm. Ta có biểu đồ tăng trưởng nguồn vốn như sau:
695
852
2464
Biểu đồ 2.1: Tăng trưởng nguồn vốn
Nhìn vào biểu đồ ta thấy:
- Năm 2005 nguồn vốn đạt 695 tỷ đồng.
- Năm 2006 nguồn vốn đạt 852 tỷ đồng, tăng 182 tỷ đồng so với năm 2005
- Năm 2007 nguồn vốn đạt 2.464 tỷ đồng (trong đó huy động hộ TƯ 523 tỷ đồng) vượt 39% so với kế hoạch, tăng 1.162 tỷ đồng (tăng 189%) so với năm 2006.
Như vậy, tăng trưởng nguồn vốn liên tục tăng qua các năm, giai đoạn sau tăng nhiều hơn giai đoạn trước. Cụ thể là 2006-2007 tăng nhiều hơn so với 2005-2006. Đây là một dấu hiệu hoạt động tốt của Ngân hàng.
Cơ cấu nguồn vốn
a) Cơ cấu nguồn vốn theo kỳ hạn gửi tiền
Bảng 8: Cơ cấu nguồn vốn huy động theo kỳ hạn
Chỉ tiêu
31/12/2006
31/12/2007
Số tiền
Tỷ trọng %
Số tiền
Tỷ trọng %
Tổng nguồn vốn
852
100
2.464
100
Tiền gửi không kỳ hạn
49
5,75
169
6,9
Tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng
530
62,2
1.384
56,2
Tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng
273
32,05
910
36,9
Đơn vị: Tỷ đồng
(Nguồn: báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2006, 2007)
Qua bảng 8 ta thấy:
Đến ngày 31/ 12/ 2006 nguồn vốn huy động đạt 852 tỷ đồng.
- Tiền gửi không kỳ hạn: 49 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 5,75% tổng nguồn vốn.
- Tiền gửi có kỳ hạn: 803 tỷ đồng chiếm 94,2% tổng nguồn vốn.
Đến ngày 31/ 12/ 2007, tổng nguồn huy động đạt 2.464 tỷ đồng (trong đó huy động hộ TW 523 tỷ đồng) vượt 39% so với KH, tăng 1.612 tỷ so với thời điểm 31/ 12/ 2006. Trong đó:
- Tiền gửi không kỳ hạn 169 tỷ đồng, tăng 120 tỷ đồng so với năm 2006, chiếm 6,86% trong tổng nguồn vốn.
- Tiền gửi có kỳ hạn 2.294 tỷ đồng, tăng 1.491 tỷ đồng so với năm 2004, chiếm 93,2% tổng nguồn vốn.
Đạt được kết quả trên là do ban lãnh đạo và tập thể cán bộ công nhân viên đã đưa ra nhiều giải pháp như: huy động tiền gửi tại nhà (nhất là những khu vực người dân mới được đền bù trong giải phóng mặt bằng), nâng cao công tác tiếp thị tới từng khu phố, phường xã, kết hợp với chính quyền địa phương phát tờ rơi tới từng gia đình, triển khai kịp thời các văn bản chỉ đạo của NHNo&PTNT Tỉnh Hà Tây; áp dụng lãi suất lỏng, tặng quà khuyến mại, quay số trúng thưởng và nhiều sản phẩm tiền gửi phù hợp (tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm gửi góp) tạo tiện ích cho khách hàng do vậy đã thu hút được khối lượng khách hàng lớn.
Nhìn chung, tốc độ và quy mô tăng trưởng nguồn vốn trong hai năm 2006 và 2007 là khá tốt. Cơ cấu nguồn vốn huy động hợp lý, giảm lãi suất đầu vào, có lợi trong kinh doanh. Chi nhánh Thanh Xuân Nam đã áp dụng nhiều biện pháp như: Đa dạng hình thức huy động đến các tổ chức và các tầng lớp dân cư và điều hành về lãi suất để thu hút nguồn vốn như: Thường xuyên điều chỉnh phù hợp và đa dạng hoá các lãi suất kỳ hạn 1,2,3 tuần, lãi suất 1 tháng đến 24, 36, 60 tháng; phát hành kỳ phiếu huy động nguồn vốn trả lãi trước cho ngân hàng nông nghiệp, cho Chi nhánh Thanh Xuân Nam, huy động vốn dưới hình thức các hợp đồng nhận vốn kỳ hạn với các đơn vị, tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng...với nhiều cơ chế linh hoạt. Trụ sở đặt tại Hà Nội - một địa bàn có rất nhiều doanh nghiệp hoạt động, với các ngành kinh doanh đa dạng và phong phú, đòi hỏi nhu cầu về vốn là rất lớn.Vì vậy, chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam không những luôn chú trọng mở rộng thêm mạng lưới kinh doanh để thu hút nguồn vốn nội tệ đáp ứng nhu cầu tín dụng đa dạng của các doanh nghiệp mà còn tập trung khai thác nguồn ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu thanh toán với các doanh nghiệp xuất khẩu.
Tỷ trọng các nguồn tiền gửi của Ngân hàng như sau:
Bảng 9: Tỷ trọng các nguồn tiền gửi của Ngân hàng giai đoạn 2005-2007
Cơ cấu nguồn vốn
Tỷ trọng trong tổng nguồn vốn(%)
2005
2006
2007
tiền gửi không kì hạn
6,3
5,75
6,9
tiền gửi có kì hạn <12 tháng
63,7
62,2
56,2
tiền gửi có kì hạn >12 tháng
30
32,05
36,9
Nhận xét:
Nguồn TGKKH (nguồn ngắn hạn) chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng và có tính ổn định không cao. Ngược lại nguồn TGCKH (nguồn dài hạn) là nguồn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng. Đây là xu hướng tất yếu vì TGCKH có tính ổn định cao thuận lợi cho việc cho vay trung và dài hạn của Ngân hàng. Trong đó, nguồn TGCKH<12 tháng là nguồn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn do dễ huy động hơn. Tuy nhiên cơ cầu nguồn vốn có sự tăng trưởng khác nhau qua các năm, cụ thể như sau:
- Tiền gửi không kỳ hạn (TGKHH):
TGKHH (chủ yếu là tiền gửi của các tổ chức kinh tế) giảm mạnh trong năm 2006 là 7,332 tỷ đồng giảm 13,4% so với năm 2005. Tuy nhiên sự suy giảm này không đáng lo ngại đối với Ngân hàng vì TGKHH là nguồn vốn có tính ổn định không cao, nhạy cảm với lãi suất. Sự suy giảm về nguồn vốn không kỳ hạn chủ yếu là do việc khách hàng chuyển từ việc gửi tiết kiệm không kỳ hạn sang có kỳ hạn. Điều này chứng tỏ khách hàng đã có niềm tin hơn với Ngân hàng và công tác huy động vốn của Ngân hàng đã được kết quả nhất định.
- Tiền gửi có kỳ hạn (TGCKH) trên 12 tháng và dưới 12 tháng chủ yếu là tiền gửi của dân cư. Mục đích của người gửi tiền trước hết là hưởng lãi suất và sau đó là đảm bảo an toàn cho đồng tiền của mình.
+ TGCKH <12 tháng có tốc độ tăng trưởng chóng mặt luôn đạt 3 con số: trong năm 2006 đạt 530 tỷ đồng tăng 124,4% so với năm 2005. Có được kết quả đó là do NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam được phép mở thêm 2 phòng giao dịch tại 539 Nguyễn Trãi và 110 Thượng Đình nhằm mở rộng địa bàn và góp phần mở rộng thị phần. Với thuận lợi đó, TGCKH <12 tháng trong năm 2007 tiếp tục có mức tăng trưởng mạnh mẽ đạt 1.384 tỷ đồng tăng 223,8% so với cùng kỳ năm trước.
+ TGCKH >12 tháng có tốc độ tăng trưởng khiêm tốn hơn nhiều so với TGCKH 12 tháng có tốc độ tăng trưởng chậm do đây là nguồn vốn dài hạn trong khi đó khách hàng gửi chủ yếu là cá nhân. Họ có thói quen chia nhỏ khoản tiền gửi thành nhiều kỳ hạn để thuận tiện chi trả trong tiêu dùng, dự phòng, hưởng lãi suất và tránh tác động của lạm phát.
Năm 2007 với việc ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại theo mô hình ngân hàng bán lẻ đã rút ngắn thời gian giao dịch cho khách hàng, việc quảng cáo các tiện ích của các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cùng với việc bố trí đội ngũ giao dịch viên trẻ trung, năng động, được đào tạo về kỹ năng giao tiếp làm vừa lòng khách hàng, đã góp phần làm tăng trưởng nguồn vốn huy động của chi nhánh lên 2.464 tỷ đồng vào cuối năm 2007.
Mặt khác, năm 2007, công tác huy động vốn luôn được sự quan tâm chỉ đạo của Ban Giám đốc và các phòng ban, đặc biệt là huy động vốn từ dân cư là ưu thế nổi bật của Chi nhánh do có chính sách khách hàng đúng đắn đi đôi với hoạt động quảng bá các sản phẩm mang tính tiện ích cao hơn hẳn các NHTM khác.
Trong cơ cấu huy động vốn, tỷ lệ huy động vốn bằng ngoại tệ còn khá khiêm tốn nhưng có chuyển biến tốt qua các năm 2005 - 2007. Năm 2006 nguồn vốn ngoại tệ huy động được 252 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 29,6% trong tổng nguồn vốn, tăng 15% so với năm 2005. Trong năm 2007 đạt 675 tỷ đồng, chiếm 27,4% tổng nguồn vốn.
Từ những số liệu phân tích ở trên về nguồn vốn huy động của chi nhánh đã cho ta thấy hoạt động về vốn của chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam đang từng bước ổn định và hoàn thiện dần về mức tăng trưởng lẫn các chính sách quản lý phù hợp, tạo ra một phần nguồn vốn dồi dào để tiến hành hoạt động kinh doanh và mục đích chính là đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế và điều hoà vốn cho hệ thống ngân hàng.
* Tiền gửi không kỳ hạn: (TGKKH)
Tiền gửi không kỳ hạn là nguồn vốn có chi phí thấp nhất đối với các ngân hàng thương mại, mặc dù với nguồn vốn này các ngân hàng thương mại không được dùng để đầu tư hay cho vay hết. Hay nói cách khác, nguồn vốn này chỉ có một tỷ lệ khả dụng nhất định ngoài phần dự trữ để bảo đảm thanh khoản theo quy định. Nguồn tiền gửi này chủ yếu là nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế và cá nhân để hưởng các lợi ích từ các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp và một phần là nguồn tiền gửi tạm thời nhàn rỗi gửi vào ngân hàng để hưởng lãi. Sự biến động của nguồn tiền gửi này của Chi nhánh Thanh Xuân Nam được thể hiện qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 2.2: Biểu đồ sự biến động nguồn vốn TGKKH
( Đơn vị: tỷ đồng)
37
49
169
- Năm 2005, tiền gửi không kỳ hạn đạt 37 tỷ đồng.
- Năm 2006, tiền gửi không kỳ hạn 49 tỷ tồng, chiếm tỷ lệ 5,75% và tăng 12 tỷ đồng so với năm 2006.
- Năm 2007, tiền gửi không kỳ hạn là 169 tỷ VND, tăng 120 tỷ đồng (tăng 245%) so với năm 2006, chiếm 6,86% trong tổng số nguồn huy động.
Nhìn vào biểu đồ ta thấy, trong 3 năm qua, số lượng tiền gửi không kỳ hạn tại Chi nhánh Thanh Xuân Nam liên tục tăng cả về số lượng lẫn tỷ trọng. Tiền gửi không kỳ hạn tăng là do số dư tài khoản thanh toán tăng, điều đó chứng tỏ chất lượng tiền gửi loại này đang có xu hướng tăng lên. Nguồn vốn này với chi phí huy động thấp mà tăng về tỷ trọng dẫn đến giảm được tương đối chi phí huy động. Nhưng do tính chất biến động phức tạp của tiền gửi không kỳ hạn, nên thời điểm 31/3/08, TGKKH là 162 tỷ đồng, giảm 7 tỷ đồng so với thời điểm 31/12/07. Do vậy, Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam cũng cần chú ý khả năng chi trả của mình bằng cách tìm ra một cơ cấu tài sản phù hợp tạo ra các tài sản có tính thanh khoản cao như các chứng khoán và các khoản vay ngắn hạn.
* Tiền gửi có kỳ hạn:
Tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động của ngân hàng, mặc dù nguồn vốn có kỳ hạn phải chịu chi phí huy động vốn cao hơn nhưng nguồn vốn này giúp cho ngân hàng tự chủ hơn trong kinh doanh, kế hoạch hoá được nguồn vốn và sử dụng vốn. Tiền gửi có kỳ hạn chủ yếu là tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức kinh tế và cá nhân, ngoài ra còn có một tỷ trọng nhỏ tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác. Nguồn tiền gửi có kỳ hạn là nguồn tiền gửi của các đối tượng khách hàng có nguồn vốn nhàn rỗi để hưởng lãi suất. Sự biến động của nguồn tiền gửi có kỳ hạn tại Chi nhánh Thanh Xuân Nam trong thời gian qua đựơc thể hiện qua biểu đồ sau.
Biểu đồ 2.3: Biểu đồ sự biến động nguồn vốn tiền gửi có kỳ hạn
( Đơn vị: tỷ đồng)
451
803
2294
Thời điểm 31/12/2006: Nguồn vốn có kỳ hạn là 803 tỷ VNĐ, chiếm 94,4% so với tổng nguồn. Trong đó:
- Nguồn có kỳ hạn <12 tháng là 530 tỷ đồng, chiếm 62,2% tổng nguồn.
- Nguồn có kỳ hạn >12 tháng là 273 tỷ đồng, chiếm 32,2% tổng nguồn vốn huy động.
Thời điểm 31/12/2007, tiền gửi có kỳ hạn lên tới 2.294 tỷ đồng, tăng 1.491 tỷ đồng (tăng 186%), chiếm 93,1% trong tổng nguồn. Trong đó:
- Nguồn có kỳ hạn <12 tháng: 1.384 tỷ đồng, chiếm 56,2% tổng nguồn vốn
- Nguồn có kỳ hạn >12 tháng: 910 tỷ đồng, chiếm 36,9% tổng nguồn vốn.
Qua phân tích ta thấy, đến thời điểm 31/12/2007, vốn ngắn hạn (có thời hạn nhỏ hơn 1 năm) chiếm 56,2% so với tổng nguồn vốn. Điều này làm tăng khả năng linh hoạt khi có sự thay đổi về lãi suất của nguồn vốn ở Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam. Tuy nhiên, tỷ trọng nguồn vốn có kỳ hạn cao (93,1%) nên chi phí huy động của Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam lớn, lãi suất bình quân đầu vào cao. Hiện tại, trong 3 tháng đầu năm 2008 TGCKH đạt mức 255 tỷ đồng, tăng 251 tỷ đồng so với thời điểm 31/12/2007, chiếm 94,9% tổng nguồn vốn.
Xét cơ cấu theo thời gian thì cơ cấu nguồn vốn của Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam ta có biểu đồ sau:
Biểu đồ 2.4: Biểu đồ biểu diễn cơ cấu nguồn vốn theo thời gianThời điểm 31/12/2003
Năm 2006: Năm 2007:
6%
94%
6.9%
93.1%
Nhìn chung, cơ cấu nguồn vốn theo thời gian có xu hướng biến động chưa tốt nó thể hiện ở tỷ trọng TGCKH quá cao, chiếm 94% tổng nguồn vốn (năm 2006), 93,1% tổng nguồn (năm 2007). Tại thời điểm 3 tháng đầu năm 2008 chiếm 94,9% tổng nguồn vốn. Điều này dẫn đến việc chi phí cho huy động vốn là lớn, làm giảm khả năng cạnh tranh trong việc xác định lãi suất cho vay. Mặt được là Chi nhánh sẽ chủ động hơn trong viêc sử dụng vốn có tính thời hạn và ổn định này, dễ dàng lên kế hoạch sử dụng vốn.
b) Cơ cấu nguồn vốn theo loại tiền tệ
Bảng 10: Cơ cấu nguồn vốn theo loại tiền
Đơn vị : Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
2006/2005
2007/2006
So sánh
tỷ trọng
(%)
So sánh
Tỷ trọng (%)
I.Tổng nguồn vốn
695
852
2.464
+ 157
122,6%
+ 1.612
289,2%
- Nguồn nội tệ
452
600
1.789
+ 148
132,7%
+ 1.189
298,2%
-Nguồn ngoại tệ
243
252
675
+ 9
103,7%
+ 423
267,8%
(Nguồn: Cân đối nguồn vốn ở Chi nhánh Thanh Xuân Nam năm 2005 -2007)
Dựa vào bảng 10 ta thấy:
Vốn nội tệ và ngoại tệ đều tăng do tổng nguồn tăng nhưng có xu hướng là vốn ngoại tệ giảm về tỷ trọng, vốn nội tệ tăng lên về tỷ trọng. Điều này là do tỷ giá hối đoái trên thị trường có lúc biến động phức tạp.
Biểu 2.5: Biểu đồ sự biến động nguồn vốn theo loại tiền
(Đơn vị : tỷ đồng)
452
243
600
252
1789
675
* Nguồn nội tệ:
- Năm 2005, nguồn nội tệ là 452 tỷ đồng, chiếm 65% tổng nguồn vốn.
- Năm 2006, nguồn nội tệ là 600 tỷ đồng, chiếm 70,4% tổng nguồn vốn.
- Năm 2007, nguồn nội tệ là 1.789 tỷ đồng, tăng 1.188 tỷ đồng (tăng 198% so với năm 2006) chiếm 72,6% tổng nguồn.
Qua phân tích ta thấy, huy động vốn nội tệ tăng cả về số tương đối lẫn số tuyệt đối.
* Nguồn ngoại tệ:
- Năm 2005, tổng nguồn ngoại tệ (qui đổi theo tỷ giá tại thời điểm) là tương đương 243 tỷ VNĐ, chiếm tỷ trọng 35% tổng nguồn vốn.
- Năm 2006 tổng nguồn ngoại tệ (qui đổi theo tỷ giá tại thời điểm) là tương đương 252 tỷ VNĐ, chiếm tỷ trọng 29,6% tổng nguồn vốn. Thời điểm này lãi suất huy động USD giảm trong khi lãi suất huy động VNĐ chỉ tăng nhẹ và có tính ổn định, điều đó là một trong những nguyên nhân chính tỷ trọng ngoại tệ lại thấp hơn nội tệ.
- Năm 2007 vốn ngoại tệ tương đương 675 tỷ VNĐ, chiếm 27,4% tổng nguồn vốn, tăng 423 tỷ VNĐ (tăng 168%) so với năm 2006. Nguồn ngoại tệ tăng lên do một phần lãi suất ngoại tệ tăng nhẹ.
Biểu 2.6: Biểu diễn theo cơ cấu nguồn vốn theo loại tiền
Năm 2006: Năm 2007:
70.4%
29.6%
72.6%
27.4%
Nhìn chung trong năm 2006 và 2007, nguồn vốn nội và ngoại tệ đều tăng do tổng nguồn tăng. Đến thời điểm 31/3/08 vốn nội tệ tiếp tục tăng, còn vốn ngoại tệ có xu hương giảm.Vốn nội tệ tăng lên về tỷ trọng, vốn ngoại tệ có xu hướng giảm về tỷ trọng, điều này là do tỷ giá hối đoái trên thị trường liên ngân hàng có nhiều lúc biến động phức tạp nên nguồn ngoại tệ giảm do đó cũng gây khó khăn về ngoại tệ cho Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam trong một số thời điểm kinh doanh.
c) Cơ cấu nguồn vốn theo đối tượng
Biểu đồ 2.7: Biểu đồ biểu diễn cơ cấu nguồn vốn theo đối tượng
Thời điểm 31/12/2006:
7,3%
6,3%
75%
12%
29%
20,3%
41,4%
9,34%
Thời điểm 31/12/2007:
Từ biểu đồ trên ta thấy cơ cấu của ngân hàng chưa thực sự hợp lý. Cụ thể là: cơ cấu nguồn vốn vẫn cao từ vay các tổ chức tín dụng, trong khi lại giảm nguồn tiền gửi từ dân cư.
Biểu 2.8: Biểu đồ sự biến động nguốn vốn theo thành phần kinh tế
( Đơn vị: tỷ đồng)
490
52
43
- Tiền gửi dân cư:
Thời điểm 31/12/2005, tiền gửi dân cư là 52 tỷ đồng, chiểm tỷ lệ 8,9% so với tổng nguồn vốn.
Thời điểm 31/12/2006, tiền gửi dân cư là 62 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 7,3% so với tổng nguồn vốn năm 2006 và tăng 10 tỷ đồng (119,2%) so với năm 2005.
Thời điểm 31/12/2007, tiền gửi của dân cư là 714 tỷ đồng, tăng 652 tỷ đồng (105%) so với năm 2006, chiếm 29% trong tổng nguồn vốn năm 2007.
Thời điểm 3 tháng đầu năm 2008, tiền gửi dân cư là 765 tỷ đồng, tăng 51 tỷ đồng so với thời điểm cuối năm 2007. Tiền gửi dân cư tăng về số lượng do xu hướng lãi suất huy động nội tệ tăng lên nên nguồn vốn huy động nội tệ ở trong dân cư tăng.
Từ những số liệu phân tích ở trên về nguồn vốn huy động của chi nhánh đã cho ta thấy hoạt động về vốn của chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam đang từng bước ổn định và hoàn thiện dần về mức tăng trưởng lẫn các chính sách quản lý phù hợp, tạo ra một phần nguồn vốn dồi dào để tiến hành hoạt động kinh doanh và mục đích chính là đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế và điều hoà vốn cho hệ thống ngân hàng.
- Tiền gửi của các đơn vị kinh tế
Thời điểm 31/12/2005, tổng tiền gửi của các đơn vị kinh tế là 43 tỷ đồng, chiếm 7,35% tổng nguồn vốn.
Thời điểm 31/12/2006, tổng tiền gửi của các đơn vị kinh tế là 53 tỷ đồng, chiếm 6,2% tổng nguồn vốn năm 2006 và tăng 10 tỷ đồng (123,2%) so với tổng tiền gửi năm 2005.
Thời điểm 31/12/2007, tổng tiền gửi của các đơn vị kinh tế là 499 tỷ đồng, tăng 446 tỷ (tăng 941%) so với năm 2006, chiếm 20,3% trong tổng nguồn vốn.
Tuy nhiên ở thời điểm 3 tháng đầu năm 2008 thì tiền gửi của các đơn vị kinh tế là 353 tỷ đồng, giảm 146 tỷ đồng so với thời điểm cuối năm 2007.
Tiền gửi của các đơn vị kinh tế giảm về số lượng cũng như tỷ trọng sẽ gây bất lợi cho hoạt động của Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam,vì ưu thế của nguồn vốn này là có chi phí huy động bình quân thấp hơn so với nguồn vốn huy động từ tiết kiệm dân cư.
- Tiền gửi, tiền vay của các tổ chức tín dụng:
Năm 2005, tổng tiền gửi, tiền vay của các TCTD là 490 tỷ đồng, chiếm 83,7% tổng nguồn vốn.
Năm 2006, tổng tiền gửi, tiền vay của các TCTD là 638 tỷ đồng, chiếm 75% tổng nguồn vốn trong năm 2006 và tăng 148 tỷ đồng (130,2%) so với tổng tiền gửi, tiền vay của các TCTD trong năm 2005.
Năm 2007, tổng tiền gửi, tiền vay của các TCTD là 1.020 tỷ đồng, tăng 282 tỷ đồng (160%) so với năm 2006, chiếm 41,4% trong tổng nguồn vốn.
Đến thời điểm 3 tháng đầu năm 2008, tiền gửi, tiền vay các TCTD là 1.339 tỷ đồng, tăng 319 tỷ đồng so với thời điểm cuối năm 2007.
* Lãi suất huy động vốn và chi phí huy động thành phần
Khi nói tới chi phí huy động vốn ta thường nói tới chi phí huy động vốn nói chung. Chi phí huy động vốn bao gồm chi phí trả lãi, chi phí quản lý vốn và các chi phí liên quan khác. Trong chi phí huy động vốn, người ta còn phải tính tới dự trữ. Chi phí cơ hội của các khoản dự trữ là bộ phận của chi phí huy động vốn.
Ngoài ra, chi phí huy động vốn còn bao gồm các khoản chi phí quản lý và các chi phí có liên quan khác. Trong chi phí huy động vốn thì chi phí trả lãi chiếm tỷ trọng lớn nhất. Chi phí trả lãi phụ thuộc vào quy mô nguồn vốn và lãi suất huy động. Do chi phí trả lãi phụ thuộc vào lãi suất mà lãi suất huy động vốn lại biến động theo từng thời kỳ.
2.2.3. Đánh giá chung về công tác huy động vốn của Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam - Hà Tây
Qua tìm hiểu và nghiên cứu những nội dung cụ thể về hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Thanh Xuân Nam NHNo&PTNT Tỉnh Hà Tây, chúng ta có thể đưa ra những đánh giá tổng quát sau:
a) Những thành tựu đạt được
Dù mới thành lập không lâu trong hệ thống NHNo&PTNT nhưng cũng như các NHTM khác, Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam lại hoạt động trên một địa bàn có nhiều NHTM hoạt động nên luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt. Tuy nhiên nhờ xác định đúng đắn mục tiêu hoạt động, Chi nhánh Thanh Xuân Nam đã biết phát huy những lợi thế vốn có, khắc phục những khó khăn hạn chế của mình cộng với sự phấn đấu hết sức của toàn thể cán bộ công nhân viên chức, Chi nhánh đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, đặc biệt là trong lĩnh vực huy động vốn. Trong các thời điểm vừa qua, nhìn chung Chi nhánh Thanh Xuân Nam đã hoàn thành toàn diện các mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra. Cụ thể là:
+ Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động liên tục tăng và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng nguồn vốn kinh doanh. Nhờ đó mà Chi nhánh Thanh Xuân Nam không những đáp ứng được nhu cầu nguồn vốn kinh doanh mà còn có nguồn vốn để hỗ trợ các chi nhánh gặp khó khăn trong công tác huy động vốn. Chi nhánh Thanh Xuân Nam đã thực sự làm tốt công tác điều hoà vốn cho toàn hệ thống NHNo&PTNT Tỉnh Hà Tây.
+ Tỷ trọng nguồn vốn huy động trung và dài hạn ngày càng tăng đáp ứng tốt hơn nhu cầu sử dụng vốn trung và dài hạn, đồng thời tạo điều kiện mở rộng cho vay trung và dài hạn phù hợp với nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế.
+ Cơ cấu huy động vốn của ngân hàng là tương đối hợp lý và luôn đi theo phương châm huy động để cho vay. Phương hướng phát triển của ngân hàng là ổn định và vững chắc, hạn chế tối thiểu rủi ro có thể xảy ra.
+ Ngân hàng đã làm tốt công tác khách hàng, chủ động tìm đến với khách hàng chứ không bị động, chờ đợi. Ngân hàng đã triển khai các hình thức huy động vốn phù hợp với nền kinh tế nói chung và với địa bàn Hà Tây và Hà Nội nói riêng.
Trong các thời điểm vừa qua và đặc biệt là trong thời điểm cuối năm 2007, Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam đã thực hiện được nhiều biện pháp hỗ trợ tích cực cho công tác huy động vốn mà ta có thể thấy như:
+ Tổ chức tốt các đợt phát
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M1095.DOC