Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác xuất khẩu tại công ty dệt Hải Phòng

Tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác xuất khẩu tại công ty dệt Hải Phòng: Phần Một Lời nói đầu T T ừ sau đại hội Đảng VI đến nayđến nay, nền kinh tế nước ta đang từng bước chuyển mạnh sang công nghiệp hoá, xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập khu vực và thế giới.Việc cam kết thực hiện CEPT/AFTA với tư cách là một thành viên của ASEAN, trở thành thành viên chính thức của APEC tháng 11/1998 cũng như việc sẽ là thành viên của WTO trong tương lai và việc ký kết đàm phán hiệp định thương mại Việt- Mỹ sắp tới. Mối quan hệ thương mại này, bao giờ cũng mang tính cạnh tranh gay gắt, vừa là cơ hội vừa là thách thức. Đó là khả năng sản xuất hàng hoá, dịch vụ đáp ứng đủ nhu cầu trước sức ép cạnh tranh của các nước có nền công nghiệp tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Xét trên góc độ Ngành Dệt May Việt Nam, với sự nỗ lực cố gắng của các doanh nghiệp, ước tính năm nay, kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt-May có thể đạt tới mức kỷ lục mới là 1,7 tỷ USD, đạt ngôi á quân về kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên sau nhiều năm phấn đấu mới chỉ đạt 30%, mà theo đánh giá của Bộ ...

doc100 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1026 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác xuất khẩu tại công ty dệt Hải Phòng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần Một Lời nói đầu T T ừ sau đại hội Đảng VI đến nayđến nay, nền kinh tế nước ta đang từng bước chuyển mạnh sang công nghiệp hoá, xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập khu vực và thế giới.Việc cam kết thực hiện CEPT/AFTA với tư cách là một thành viên của ASEAN, trở thành thành viên chính thức của APEC tháng 11/1998 cũng như việc sẽ là thành viên của WTO trong tương lai và việc ký kết đàm phán hiệp định thương mại Việt- Mỹ sắp tới. Mối quan hệ thương mại này, bao giờ cũng mang tính cạnh tranh gay gắt, vừa là cơ hội vừa là thách thức. Đó là khả năng sản xuất hàng hoá, dịch vụ đáp ứng đủ nhu cầu trước sức ép cạnh tranh của các nước có nền công nghiệp tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Xét trên góc độ Ngành Dệt May Việt Nam, với sự nỗ lực cố gắng của các doanh nghiệp, ước tính năm nay, kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt-May có thể đạt tới mức kỷ lục mới là 1,7 tỷ USD, đạt ngôi á quân về kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên sau nhiều năm phấn đấu mới chỉ đạt 30%, mà theo đánh giá của Bộ Công Nghiệp, nếu có thị trường xuất khẩu có thể đạt tới 2,5 - 2,7 tỷ $. Đành rằng về phương diện công nghệ và thiết bị có tới 2/3 doanh nghiệp Dệt -May Việt Nam có thể sánh ngang với các nước trong khu vực. Do đó Ngành Dệt May nói chung cũng như Công Ty Dệt Hải Phòng nói riêng thực hiện thành công chiến lược thị trường, có đủ sức cạnh tranh với hàng hoá nước ngoài cùng loại. Lộ trình Việt Nam tham gia vào AFTA, APEC và WTO, là một cơ hội cũng như thách thức lớn mang tính sống còn của mỗi doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu trong đó có Công Ty Dệt Hải Phòng . nước. Một trong những lĩnh vực không thể thiếu giúp cho nền kinh tế có được một tốc độ phát triển nhanh và ổn định đó là phát triển ngành sản xuất công nghiệp. Việt Nam với nền tảng phát triển là một nền nông nghiệp lạc hậu, cơ sở hạ rong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đã buộc chúng ta phải đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất tầng thấp kém, cộng thêm áp lực dân số thì những ngành có hàn lượng khoa học kỹ thuật thấp như ngành công nghiệp nhẹ trong công nghiệp chế biến mà đặc biệt là công nghiệp dệt may. Thực tế trong những năm vừa qua, đã khảng định vị thế của ngành Dệt may Việt Nam, là một trong những ngành xuất khẩu mang lại nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho quá trình công nghiệp hoá đất nước. Ngành dệt may cũng là một trong những ngành đạt chỉ tiêu tổng kim ngạch trên một tỷ USD của Việt Nam là ngành đứng thứ hai về tổng kim ngạch xuất khẩu trong những năm qua. Tuy nhiêm, cùng với sự phát triển đi lên của ngành dệt may thì những doanh nghiệp trong nước tham gia vào hoạt động xuất khẩu trong đó có công ty Dệt Hải Phòng cũng bộc lộ không ít những khuyết điểm mà trong thời gian tới cần có biện pháp khác phục. Trong quá trình thực tập, tìm hiểu hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá tại Công Ty Dệt Hải Phòng với sự giúp đỡ của Ban lãnh đạo, các phòng ban trong Công ty, cùng với sự nghiên cứu nghiệp vụ có chọn lọc cũng như ý muốn đóng góp một phần nhỏ kiến thức của mình vào giải quết những khó khăn trong công ty, tôi đã chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng ” với kết cấu của luận văn bao gồm các phần: Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về hoạt động xuất khẩu. Chương II : Thực trạng xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng . Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng . Phần Hai phần nội dung chương I: Một số vấn đề lý luận chung về hoạt động xuất khẩu I. vai trò của hoạt động xuất khẩu . 1. vị trí của hoạt động xuất khẩu trong doanh nghiệp. X uất khẩu là việc cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ cho nước ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Cơ sở của hoạt động xuất khẩu là hoạt động mua bán và trao đổi hàng hoá (Bao gồm cả hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình) trong nước. Như vậy, Xuất khẩu là hoạt động tiêu thụ hàng hoá nhưng nó vượt qua khỏi biên giới quốc gia. (T-H) Đối tượng lao động Đứng trên góc độ của quá trình sản xuất kinh doanh thì xuất khẩu là một khâu quan trọng và là mục tiêu của sản xuất kinh doanh. Xuất khẩu làm tăng hiệu quả của sản xuất kinh doanh, nếu tổ chức tốt sẽ kích thích sản xuất góp phần làm phát triển doanh nghiệp. Trong quá trình vận động của vốn (tiền) xuất khẩu cũng như tiêu thụ vừa là giai đoạn cuối cùng vừa là giai đoạn kết thúc của quá trình tái sản xuất này để tiếp tục vận động sang một quá trình sản xuất khác trong vòng tuần hoàn vốn. (T-H) Đối tượng lao đđộng Tư liệu lao động Quá trình sản xuất Quá trình tiêu thụ (xuất khẩu ) Trong đó T: Tiền H: Hàng ở tầm vĩ mô : Để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc đẩy mạnh xuất khẩu, Nhà nước còn tạo điều kiện môi trường pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động bằng các chính sách khuyến khích như: chính sách đầu tư, chính sách ưu đãi, các hàng rào thuế quan, phi thuế quan ...thông qua đó để điều tiết các ngành kinh tế mũi nhọn góp phần vào công cuộc Hiện đại hoá đất nước. 2. vai trò của xuất khẩu - Xuất khẩu là một khâu trong quá trình tái sản xuất xã hội và có các chức năng chủ yếu sau: + Tạo vốn cho quá trình đầu tư trong nước bởi xuất khẩu tạo ra nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho quốc gia. + Chuyển hoá giá trị sử dụng, làm thay đổi cơ cấu vật chất giá trị sử dụng của tổng sản phẩm xã hội. + Góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế bằng việc tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh . - Xuất khẩu thực hiện chức năng lưu thông hàng hoá từ trong nước sang các nước khác và có nhiệm vụvai trò chủ yếu sau: + Nâng cao hiệu quả kinh doanh, thúc đẩy quá trình Công nghiệp hoá đất nước. Trong nền kinh tế mở, xuất khẩu còn được sử dụng như một công cụ thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế ở trong nước và nước ngoài, thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế nội bộ trong nước thông qua các hoạt động xuất khẩu . + Góp phần giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng của đất nước: vốn, việc làm, sử dụng tài nguyên có hiệu quả. ở nước ta hiện nay, nền kinh tế còn lạc hậu việc xuất khẩu chủ yếu là tài nguyên thô hoặc qua sơ chế và các sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản, tỷ trọng hàng công nghiệp chưa cao.Trong đó chủ yếu là các mặt hàng mang tính lao động thuần tuý như các sản phẩm dệt may, thủ công mỹ nghệ... + Đảm bảo sự thống nhất giữa nền kinh tế và chính trị trong hoạt động xuất khẩu. Nền kinh tế quốc tế cũng như nền kinh tế ở mỗi nước vận động theo nhiều xu hướng chung và cũng có nhiều lợi ích giống nhau, song cũng có những tiềm năng và những xu hướng bất ổn, cho nên sức mạnh của một nền kinh tế nền tảng phải là sự độc lập chủ quyền an ninh quốc gia. Đối với nước ta cần phát huy hết lợi thế có sẵn và tạo ra những chỗ đứng mới trên những thị trường ổn định. II. các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình hoạt động xuất khẩu Công tác xuất khẩu liên quan đến nhu cầu thị trường, tập quán tiêu dùng trong và ngoài nước cũng như các chính sách thuế quan, phi thuế quan của nhà nước ở các mức độ khác nhau trong đó gồm: 1.các nhân tố khách quan 1.1 Yếu tố cung cầu của thị trường . Căn cứ vào từng chủ thể tham gia nhất định mà có thể chia thị trường thế giới thành: thị trường quốc tế khu vực, thị trường trong từng tổ chức kinh tế quốc tế (thị trường EU, thị trường các nước ASEAN...). Mở mỗi thị trường nhu cầu sản phẩm lại thường rất khác nhau về chất lượng, quy cách cũng như mẫu mã. Do đó đòi hỏi mỗi doanh nghiệp khi muốn thâm nhập vào thị trường nào cần phải nghiên cứu kỹ đặc điểm tiêu dùng của thị trường đó. Vi dụ: Nhật Bản được coi là một trong những nước trên thế giới đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao nhất, gồm cả độ bền và khả năng hoạt động. Thị hiếu của người tiêu dùng bắt chủ yếu bắt nguồn từ truyền thống và điều kiện của Nhật Bản,. Đây là trở thành yếu tố quan trọng trong việc quyết định tiêu dùng sản phẩm hàng hoá. Do khủng hoảng kinh tế gần đây nên người tiêu dùng Nhật Bản thích mua hàng hoá có giá trị hợp lý. nhưngTuy nhiên xét về mặt chất lượng hàng hoá tiêu dùng thì người Nhật Bản có đòi hỏi cao nhất trên thế giới.... Sau khi nắm vững các thói quen, tập quán tiêu dùng ở mỗi thị trường doanh nghiệp phải có chiến lược cạnh tranh một cách hoàn hảo. Thị trường ở mỗi nước có thể biến động tuỳ theo thu nhập của người dân, tập quán, thị hiếu tiêu dùng cũng như những biến động ở từng thời kỳ. 1.2 Yếu tố về hàng rào thuế quan, phi thuế quan. Thuế quan là loại thuế gián thu đánh vào hàng hoá khi qua cửa khẩu của một nước.Trên thực tế khi đánh thuế có hai mục đích: có thể là mục đích tài chính và cũng có thể là mục đích bảo hộ,. cCả hai mục đích này đều có ảnh hưởng to lớn đến việc xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp vào một nước khác. Thuế quan tài chính thông thường đánh vào những hàng hoá xuất khẩu có lợi nhuận cao hay những hàng hoá không được khuyến khích . Thuế quan bảo hộ chủ yếu đánh vào những hàng hoá nhập khẩu, làm tăng giá của hàng nhập để hàng hoá trong nước có ưu thế hơn về giá cả của so với đối thủ cạnh tranh., tThuế quan bảo hộ là công cụ sắc bén tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước tăng nhanh sản xuất. Khi nhà nước tăng thuế nhập khẩu, thông thườương sẽ làm cho khối lượng hàng hoá nhập khẩu giảm do giá hàng tăng hạn chế tiêu dùng. Nhưng trong một số trường hợp sẽ làm cho giá cả hàng hoá trên thị trường tăng lên mà số lượng hàng nhập khẩu lại không giảm, và ngược lại. Khi thuế suất xuất khẩu tăng sẽ hạn chế xuất khẩu do giá bán hàng hoá ra thị trường cao không đủ sức cạnh tranh với hàng nước khác., bBiện pháp này nhà nước thường áp dụng với những hàng hoá không khuyến khích xuất khẩu. vVà ngược lại. Trên thực tế, thuế quan bảo hộ không phải bao giờ cũng có tác dụng hạn chế nhập khẩu, c. Cho nên ngoài biện pháp đó nhà nước còn dùng các biện pháp phi thuế quan khác để hạn chế nhập khẩu, chúng gồm: + Quản lý hàng nhập khẩu bằng hạn ngạch: Biện pháp này nhằm chống lại những nhà sản xuất lớn có khả năng cạnh tranh cao, mục đích nhằm ngăn chặn hàng nhập khẩu từ nước ngoài vào để bảo vệ thị trường trong nước hoặc nhằm cân bằng cán cân thanh toán, hoặc làm công cụ mặc cả trong các cuộc thương lượng, cũng có thể dùng để hạn chế nhập khẩu một số mặt hàng mang tính chiến lược của nền kinh tế xã hội. Ví dụ: như gạo ở Việt Nam hiện nay. + Giấy phép nhập khẩu: Tính chất kín đáo và bí mật của giấy phép cũng như thủ tục cấp giấy phép của chính quyền nhà nước cũng tạo khả năng hạn chế nhập khẩu nhằm bảo hộ hàng trong nước. + Một số biện pháp hạn chế nhập khẩu khác: Bên cạnh những biện pháp hạn chế nhập khẩu trực tiếp, Nhà nước còn dùng một số biện pháp gián tiếp nhằm ngăn cản việc nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài như: Biện pháp về vệ sinh thú y, vệ sinh thực phẩm, hoặc các tiêu chuẩn về kỹ thuật như tiêu chuẩn về kích thước, bao bì, những tiêu chuẩn về môi trường sinh thái. Các yếu tố về thuế quan, phi thuế quan có ảnh hưởng rất lớn đến việc xuất khẩu của một doanh nghiệp vào một thị trường nước ngoài, cho nên trước khi thâm nhập hàng hoá vào một thị trường nào doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kỹ chính sách thuế quan, phi thuế quan của nước đó. 1.3 Tín dụng xuất khẩu . Tín dụng xuất khẩu tức là nhà nước dành cho người nước ngoài những khoản tín dụng để mua hàng nước mình. Nhà nước không chỉ trực tiếp can thiệp vào thị trường tín dụng mà còn tạo điều kiện tín dụng xuất khẩu ưu đãi hơn so với điều kiện tín dụng trong nước. Điều đó làm khả năng xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước tăng lên. Ngoài ra, Nhà nước đảm bảo gánh vác mọi rủi ro đối với khoản tín dụng mà doanh nghiệp xuất khẩu nước mình dành cho nhà nhập khẩu nước ngoài. Đây là phương tiện quan trọng đẩy mạnh việc tiêu dùng hàng hoá ở thị trường nước ngoài. Nó làm cho nhà xuất khẩu yên tâm và mở rộng xuất khẩu ra thị trường nước ngoài mà không sợ gặp sự rủi ro. 1.4 Yếu tố về tỷ gía hối đoái. Trong tình hình nền kinh tế mở rộng cửa, các mối quan hệ kinh tế ngày càng rộng thì việc thanh toán không chỉ là đơn vị tiền tệ trong nước mà còn phải sử dụng nhiều loại ngoại tệ khác nhau, từ đó phát sinh nhu cầu tất yếu phải so sánh giá trị, so sánh sức mạnh đồng tiền trong nước và đồng ngoại tệ, đó là tỷ giá hối đoái. Như vậy, tỷ giá hối đoái dùng để biểu hiện và so sánh những quan hệ về giá cả giữa các đồng tiền một nước được biểu hiện qua đơn vị tiền tệ của nước khác. Do đó hoạt động xuất khẩu chịu ảnh hưởng rất lớn của tỷ giá hối đoái. Ví dụ như khi tỷ giá hối đoái tăng nghĩa là giá trị đồng nội tệ giảm so với đồng ngoại tệ sẽ hạn chế khuyến khích xuất khẩu và tăng hạn chế nhập khẩu và ngược lại khi tỷ giá hối đoái giảm thì sẽ hạn chếtăng nhập khẩu và tănghạn chế xuất khẩu. Có hai loại tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái thực tế và Tỷ giá hối đoái danh nghĩa. Tỷ giá hối đoái thực tế có mục đích điều chỉnh mức lạm phát và để phản ánh những biến đổi thực tế trong khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu của một quốc gia. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là tỷ giá được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng hay do ngân hàng công bố. Để khuyến khích xuất khẩu nhà nước có thể dùng chính sách phá giá hối đoái làm cho giá bán ở thị trường nước ngoài có thể thấp hơn giá của đối thủ cạnh tranh, do vậy mà đẩy mạnh xuất khẩu, và nhà xuất khẩu sẽ thu được lợi nhuận ngoài ngạch cao hơn. 2-các nhânyếu tố chủ quan 2.1 Năng lực tổ chức và trình độ cán bộ làm xuất khẩu: Đây là một yếu tố rất quan trọng có tính quyết định rất lớn trong quá trình nâng cao doanh thu bán hàng cũng như tìm kiếm lợi nhuận, nó bao gồm các khâu tổ chức tiêu thụ sản phẩm, tiếp thị, chính sách bán hàng. Trình độ của cán bộ làm công tác xuất khẩu sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm các rủi ro trong quá trình thực hiện các công tác đàm phán ký kết hợp đồng, cũng như việc tác nghiệp trong quá trình thực hiện hợp đồng. Thực tế hiện nay trong một số doanh nghiệp đội ngũ cán bộ làm công tác tác nghiệp vừa yếu cả về chuyên môn lẫn ngoại ngữ, nên điều dễ hiểu là nhiều hợp đồng xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam ký với nước ngoài bị rất nhiều sơ hở, yếu kém làm thua thiệt cho phía Việt Nam. Chính vì vậy, việc tổ chức và nâng cao trình độ của cán bộ làm công tác xuất khẩu rất cần thiết cho các doanh nghiệp. 2.2./ Công nghệ và thiết bị công nghệ. Công nghệ bao gồm cả công tác công nghệ và phương tiện kỹ thuật được ký kết với nhau theo hình thức thích hợp, trong đó máy móc thiết bị kỹ thuật là phương tiện kỹ thuật để thực hiện phương pháp công nghệ. Dây chuyền công nghệ và máy móc thiết bị ảnh hưởng rất lớn tới cơ cấu của sản xuất, đồng thời nó quyết định tới chất lượng sản phẩm và việc thay đổi cải tiến sản phẩm. Ngoài ra nó còn thúc đẩy việc tăng năng suất lao động. Khi máy móc thiết bị của doanh nghiệp hiện đại, phù hợp với năng lực hiện có của mình thì sẽ làm cho hàng hoá có chất lượng cao, mẫu mã đẹp... và ngược lại với trường hợp máy móc thiết bị lạc hậu hoặc quá hiện đại không thể áp dụng sẽ làm cho hàng hoá sản xuất ra không tiêu thụ được,. Như vậy có thể kết luận là trình độ và khả năng công nghệ là một loại vũ khi sắc bén để thành công trong cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường. Một dây chuyền công nghệ và máy móc thiết bị lạc hậu không thể sản xuất được những sản phẩm có chất lượng cao, có nhiều tính năng đáp ứng được nhu cầu đa dạng của thị trường. 2.3./ Trình độ lành nghề và bậc thợ của công nhân. Trình độ tay nghề của công nhân phản ánh tính chất chuyên môn hoá, trình độ thành thạo nghề nghiệp. Nếu trình độ người làm công tác xuất khẩu kém sẽ làm cho doanh nghiệp thua thiệt trong đàm phán ký kết hợp đồng cũng như thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp.. Không những thế nếu trình độ nghề nghiệp của công nhân cao hơn mức yêu cầu của công việc được bố trí sẽ gây lãng phí trong việc sử dụng lao động, và ngược lại sẽ ảnh hưởng đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Cho nên vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải bố trí được một cơ cấu lao động tối ưu nhằm sử dụng có hiệu qua nguồn lao động đồng thời phải thường xuyên tổ chức công tác đào tạo tay nghề cho cán bộ công nhân viên, và luôn luôn coi đó là nhiệm vụ thường xuyên của mọi doanh nghiệp. 2.4./ Giá sản phẩm. Giá sản phẩm là biểu hiện tổng hợp của nhiều mối quan hệ kinh tế trên thị trường (Vấn đề cung cầu, lưu thông tiền tệ), c. Chính vì vậy mà giá thành sản phẩm ảnh hưởng rất lớn tới khối lượng hàng hoá xuất khẩu và lợi nhuận của các doanh nghiệp. Muốn có một sản phẩm có giá trị cạnh tranh tốt đồng thời có lợi nhuận phù hợp thì đòi hỏi doanh nghiệp phải có một giá bán thích hợp với thị trường. Muốn xác định giá bán này doanh nghiệp phải căn cứ vào giá bình quân của giá thị trường, giá đó được tính như sau: Sản lượng bình quân Sản lượng Giá bình quân cCung cCầu giá giá cầu cung giá bình quân Sản lượng bình quân Sản lượng Nếu giá bán giá cao hơn giá bình quân của thị trường thì sản phẩm - hàng hoá có thể bán được với số lượng ít thậm chí không bán được một sản phẩm nào. Nếu bán với giá thấp hơn giá thị trườngbình quân thì lợi nhuận của doanh nghiệp có thể bị giảm xuống hoặc không có lợi nhuận ( lỗ vốn). Từ đó ta thấy muốn bán giá thấp hơn mà không ảnh hưởng tới lợi nhuận, doanh nghiệp phải tăng doanh số bán hàng, ngoài ra phải phấn đấu giảm chi phí các yếu tố đầu vào như tiết kiệm vật tư, tăng năng suất lao động, hạn chế phế phẩm, hoàn thiện bộ máy quản lý, thay đổi quy trình công nghệ. - Chất lượng hàng hoá và mẫu mã sản phẩm được người tiêu dùng rất quan tâm tuỳ thuộc vào thị trường mỗi nước, mà. Các loại mẫu mã và chất lượng sản phẩm lại tuỳ thuộc vào tập quán người tiêu dùng cũng như phù hợp cho từng lứatheo lứa tuổi. Do mức thu nhập bình quân ở mỗi nước là rất khác nhau nên thông thường ở các nước càng phát triển thì sự đòi hỏi về mẫu mã, chất lượng càng cao và càng khắt khe. 2.5./ Các biện pháp về hỗ trợ xuất khẩu. Biện pháp hỗ trợ xuất khẩu bao gồm các hoạt động quảng cáo khuyết trương, tiếp thị thông qua phương tiện thông tin đại chúng, hội chợ triển lãm. Đây thực sự là một hoạt động rất cần thiết để mở rộng thị trường xuất khẩu. Thực chất của hoạt động này là tạo ra và sắp xếp các mối quan hệ trong kinh doanh vào một hệ thống đồng thời giải quyết các mối quan hệ đó, kích thích động viên người tiêu dùng mua hàng. Làm tốt công việc này doanh nghiệp sẽ đem lại : + Thế lực trong kinh doanh, tạo nhu cầu mới, tạo uy tín cho sản phẩm đối với người tiêu dùng. + Tăng doanh số bán hàng, giảm lượng hàng hoá tồn kho, ứ đọng không cần thiết. + Hỗ trợ công tác bán hàng xuất khẩu . + Kích thích nhu cầu tiêu dùng. III. nội dung hoạt động xuất khẩu 1./ tìm hiểu nghiên cứu thị trường . Trong kinh doanh nói chung không thể tách sản xuất với lưu thông vì hai khâu này gắn liền với nhau, thúc đẩy nhau phát triển, một khâu trong quá trình kinh doanh bị ách tắc sẽ gây cản trở đối với các khâu khác trong cả một hệ thống. Một trong những nguyên nhân làm cho sản phẩm hàng hoá bị ứ đọng là do giá thành cao, chất lượng kém, giá cả không được người mua chấp nhận. Theo nhiều nhà kinh doanh có kinh nghiện thì ngay trong quá trình xây dựng kế hoạch sản xuất sản phẩm thì cũng đồng nghĩa với việc tiến hành nghiên cứu thị trường để khi hàng hoá được sản xuất ra tiêu thụ một cách thuận lợi. Như vậy không những phải tìm hiểu thị trường trong nước mà còn phải mở rộng ra nghiên cứu thị trường nước ngoài. 1.1./ Các phương pháp nghiên cứu thị trường nước ngoài. Khi nghiên cứu thị trường cần phải sử dụng những phương pháp thích hợp cũng như những cán bộ có năng lực và thích hợp với chuyên ngành của họ. Có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau nhưng có hai phương pháp chủ yếu đó là phương pháp nghiên cứu thị trường nước ngoài thông qua nghiên cứu tại bàn làm việc và phương pháp nghiên cứu trực tiếp trên thị trường nước ngoài. - Phương pháp nghiên cứu tại bàn làm việc là việc nghiên cứu thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như sử dụng các loại báo chí, tạp chí, các loại ấn phẩm thường là các tạp chí kinh tế xuất bản định kỳ hoặc không định kỳ, các loại sách chuyên khảo, các bản thống kê, các thông báo của các công ty môi giới. Phương pháp này có ưu thế là chi phí thấp, tiết kiệm thời gian nhưng thông tin không cập nhập, dễ làm mất cơ hội trong kinh doanh. - Nghiên cứu trực tiếp ở thị trường nước ngoài là cách nghiên cứu ngay tại thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đây là phương pháp nghiên cứu rất phức tạp và tốn kém nhưng nó lại là phương pháp mang lại hiệu quả thiết thực nhất, mang lại thông tin cập nhập, giúp cho doanh nghiệp có thể chớp cơ hội để thành công trong cạnh tranh. Bởi nghiên cứu tiếp xúc trực tiếp với thị trường có thể tạo được các quan hệ trực tiếp với người mua hàng, bán hàng tìm hiểu và mua các mẫu hàng về để nghiên cứu sản xuất, xuất khẩu. Ngoài ra các doanh nghiệp còn sử dụng các phương thức bán thử để tìm hiểu tình hình thị trường hàng hoá, qua đó người xuất khẩu có điều kiện nghiên cứu toàn diện. Phương pháp này sẽ tạo thuận lợi lâu dài nếu tìm được thị trường. Sau khi bán thử, thu thập thông tin về hàng của mình, cải tiến để xuất khẩu lớn hơn, phù hợp hơn . 1.2./ Các hình thức tổ chức nghiên cứu thị trường nước ngoài . Trong công cuộc đổi mới cơ chế quản lý ở nước ta, việc đổi mới cơ chế xuất nhập khẩu là một hướng đi đúng đắn và quan trọng, việc nghiên cứu thị trường thế giới thể hiện sự hiểu biết về quy luật vận động của nó. Quy luật này thể hiện qua những biến đổi về nhu cầu, cung ứng giá cả hàng hoá cụ thể trên thị trường. Việc hiểu biết về quy luật của thị trường hàng hoá là để giải quyết những vấn đề liên quan như thái độ tiếp thu của người tiêu dùng, yêu cầu của thị trường đối với những hàng hoá mới sẽ được tiêu thụ, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, những biện pháp và hình thức thâm nhập, chiếm lĩnh thị trường. Trong việc thực hiện chiến lược xuất khẩu sản phẩm hàng hoá cần phải xác định thị trường nào là thị trường trọng điểm, tiêu thụ nhiều sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp mình, và thị trường đó có cơ hội và những điều kiện thuận lợi để tăng khối lượng hàng xuất khẩu, thu được lợi nhuận cao hơn hay không?. Ngoài ra, việc nghiên cứu thị trường nước ngoài còn phải thu thập những thông tin về các chế độ kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hoá theo từng bước, t. Trong việc giao dịch thương mại với các nước còn phải tìm hiểu rõ các chính sách về thuế quan và nhập khẩu của họ. Sự cạnh tranh trên thị trường nói chung ngày càng gay gắt. Việc nghiên cứu thị trường còn phải xác định đầy đủ vị trí và sự hoạt động của đối thủ cạnh tranh, tức là đánh giá được khả năng kinh tế, khoa học kỹ thuật của các đối thủ cạnh tranh, đánh giá, xem xét các chiến lược thị trường, việc tổ chức, phục vụ khách hàng, chiến lược quảng cáo, cố vấn kỹ thuật, điều kiện bán hàng trên cùng thị trường của đối thủ cạnh tranh. Từ đó doanh nghiệp có thể xây dựng chiến lược xâm nhập thị trường thích hợp. Việc nghiên cứu thị trường nước ngoài được vận dụng để xác định chiến lược kinh doanh nói chung và chiến thuật của người xuất khẩu hàng hoá trong hoạt động kinh tế đối ngoại nói riêng. Khi đã dự đoán được xu hướng phát triển của thị trường nước ngoài mà trước hết là xu hướng biến động về giá cả hàng hoá, người xuất khẩu cần xác định chiến lược kinh doanh như: Nếu giá cả hàng hoá có xu hướng tăng thì ta sẽ không bán ra vội vàng hoặc không bán hàng hoá với khối lượng lớn mà để cho mức tăng của giá cả đến một mức nhất định mới bán hàng thì như vậy doanh nghiệp mới thu được lợi nhuận cao trong những lúc giá cả hàng hoá có xu hướng tăng. Còn ngược lại, khi giá cả có xu hướng giảm thì phải nhanh chóng bán hàng để tránh tình trạng thua lỗ, và nhiều khi cần áp dụng những phương thức khác như bán hạ giá để bán với khối lượng lớn khi giá chưa kịp hạ. Trong quá trình nghiên cứu thị trường nước ngoài, việc cần nắm vững những vấn đề quan trọng như: Làm cách nào để thâm nhập thị trường quốc tế, mở rộng quá trình tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá đã có sẵn trên thị trường truyền thống của doanh nghiệp. Nghiên cứu hàng hoá và dịch vụ để đẩy mạnh quá trình tiêu thụ hàng hoá mới, hoặc hàng hoá được đổi mới trên thị trường truyền thống và đẩy mạnh quá trình tiêu thụ hàng hoá có sẵn trên thị trường mới và nghiên cứu quá trình sản xuất có sản phẩm hàng hoá mới đưa ra tiêu thụ trên thị trường mới. Việc nghiên cứu thị trường và công tác Marketing ngày nay đang giữ vị trí quan trọng trong điều kiện cạnh tranh giành thị trường gay gắt. Marketing trên thị trường nước ngoài thường hay được các công ty lớn quan tâm, họ coi đây là điều kiện tiên quyết trong việc giành thắng lợi trong cuộc chạy đua giành thị trường. Đối với đơn vị kinh doanh đối ngoại do rủi ro trên thị trường nước ngoài cao cho nên việc nghiên cứu thị trường nước ngoài có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng. 2- các hình thức xuất khẩu. Chính sách giá cả cũng như tổ chức phương án xuất khẩu của doanh nghiệp có hai mục đích chính là tăng khối lượng hàng hoá bán ra và lợi nhuận thu về. Tuỳ theo từng thị trường, từng sản phẩm cụ thể, doanh nghiệp cần có những phương án bán hàng cũng như phương án xuất khẩu phù hợp với từng thị trường, từng nhóm khách hàng sao cho vừa linh hoạt vừa hiệu quả. Việc lên phương án phân phối các kênh tiêu thụ về mặt lý luận cũng như thực tiễn cần phải có một phương án hợp lý mới mang lại hiệu quả kinh doanh to lớn trong công tác xuất khẩu. Không phải lúc nào doanh nghiệp cũng phải trực tiếp xuất khẩu mới mang lại hiệu quả kinh tế cao, mà theo kinh nghiệm ở một số nước phát triển cho thấy muốn đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá các doanh nghiệp sản xuất phải phối hợp chặt chẽ với các công ty môi giới bán hàng, các đại lý uỷ thác. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào mô hình quản lý, trình độ nghiệp vụ cũng như khả năng xúc tiến bán hàng mà mỗi doanh nghiệp có thể đồng thời tổ chức nhiều phương thức xuất khẩu khác nhau . 2.1./ Xuất khẩu trực tiếp không thông qua trung gian. Phương thức này thích hợp với những doanh nghiệp có mô hình sản xuất lớn. ở đây, doanh nghiệp tự tổ chức xuất khẩu với khách hàng nước ngoài không thông qua môi giới trung gian. Phương thức này có ưu điểm là doanh nghiệp có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với thị trường, với khách hàng. Do đó hiểu biết rõ nhu cầu về mẫu mã, chất lượng sản phẩm, các đòi hỏi về sự phù hợp giá cả, từ đó doanh nghiệp có những chính sách thay đổi một cách kịp thời về sản phẩm, về giá thành sao cho đáp ứng một cách kịp thời đầy đủ các đòi hỏi của người tiêu dùng vào từng thời điểm khác nhau trên những thị trường cụ thể. áp dụng phương thức này doanh nghiệp có thể tiết kiệm được chi phí bởi không phải mất chi phí trung gian do đó thu được lợi nhuận cao hơn. Tuy nhiên nó có nhược điểm là mạng lưới tiêu thụ hẹp, không độc quyền được thị trường, chịu rủi ro lớn. 2.2./ Xuất khẩu theo phương thức uỷ thác (Phương thức mua bán qua trung gian). Việc xuất khẩu thông qua một đơn vị khác có điều kiện thuận lợi hơn trong việc tiến hành xuất khẩu (Trong trường hợp này đơn vị được uỷ thác phải là đơn vị được phép xuất nhập khẩu trực tiếp). Bán hàng qua đại lý thông thường có hai loại: Đại lý bán buôn và đại lý bán lẻ. Việc buôn bán hàng hoá xuất khẩu mang danh nghĩa của doanh nghiệp, doanh nghiệp phải trả một tỷ lệ % cho các đại lý trên cơ sở số hàng bán thực tế để đẩy mạnh doanh số bán hàng, thông thường có một số đại lý có thể vừa là đại lý bán buôn vừa là đại lý bán lẻ. Đặc điểm của phương thức xuất khẩu qua uỷ thác hay qua đại lý là đều phải qua trung gian và phải mất một tỷ lệ hoa hồng nhất định. Vì vậy doanh nghiệp cần phải lựa chọn kênh phân phối cho phù hợp với khả năng của chính mình sao cho đạt hiệu quả cao nhất, tiết kiệm được chi phí, thu hồi vốn nhanh, doanh số bán hàng tăng, thị trường bán hàng được mở rộng thuận lợi trong quá trình xuất khẩu của mình. 2.3./ Tái xuất khẩu: Tái xuất khẩu là hình thức giao dịch trong đó hàng hoá mua về được xuất khẩu đi để kiếm lời không phải để tiêu dùng trong nước. Mua bán theo hình thức này góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu. Bởi không phải lúc nào hàng hoá cũng được xuất khẩu một cách trực tiếp, hoặc thông qua trung gian, như trường hợp bị cấm vận, bao vây kinh tế thì chỉ có thể sử dụng phương pháp tái xuất thì các nước mới có thể tham gia buôn bán được với nhau. Thêm vào đó nước tái xuất có thể kiếm lời thông qua chênh lệch giá mua và giá bán. 2.4./ Hình thức xuất khẩu thông qua gia công xuất khẩu. Gia công xuất khẩu là hình thức một bên nhận nguyên liệu, bán thành phẩm, linh kiện, phụ tùng đem về sản xuất chế biến thành dạng hoàn chỉnh hơn rồi giao lại cho phía bên kia để hưởng một khoản tiền thù lao gọi là phí gia công. Hình thức này mang lại cho nước gia công cũng như nước thuê gia công nhiều lợi ích. Thứ nhất nước gia công có thể nhận được những khoản tiền thù lao, giải quyết công ăn việc làm trong khi không có đủ điều kiện sản xuất hàng hoá xuất khẩu cả về vốn, công nghệ, nước nhận có thể tạo uy tín với trường thế giới... Thứ hai những nước thuê gia công có thể tận dụng được lao động của các nước nhận gia công, có thể thâm nhập được thị trường nước nhận gia công... 2.5./ Xuất khẩu thông qua hội chợ triển lãm. Hoạt động xuất khẩu qua hội chợ triển lãm ngày nay rất phổ biến, các doanh nghiệp sản xuất và các doanh nghiệp thương mại rất có điều kiện giới thiệu quảng cáo và kích thích bán hàng khi tham gia vào hội chợ triển lãm. Nhiều công ty qua hội chợ triển lãm có thể mở rộng thị trường nhiều nước mà trước đó doanh nghiệp chưa có điều kiện bán hàng. Việc bán hàng xuất khẩu thông qua hội chợ triển lãm là một phương thức quảng cáo mang lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp, giảm các chi phí. IV./Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu Trong cơ chế hạch toán kinh doanh hiện nay, chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu duy nhất có tính chất pháp lệnh để đánh giá hiệu quả trong sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận (Lãi, lỗ) = Doanh thu bán hàng xuất khẩu - (Giá vốn hàng hoá + Chi phí bán hàng + Chi phí quản lý doanh nghiệp +Thuế). Lợi nhuận = Doanh số x Tỷ suất lợi nhuận Nội dung của hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu bao gồm các khoản sau: - Hiệu quả kinh doanh xuất khẩu cơ bản. - Hiệu quả kinh doanh ngoài xuất khẩu. - Hiệu quả kinh doanh sản xuất phụ. Tổng các hiệu quả trên là hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 1./ Chỉ tiêu về tỉ suất lợi nhuận. - Việc phân tích các chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận sẽ giúp doanh nghiệp nhận biết được khả năng sinh lợi trên một số lĩnh vực kinh doanh. Từ đó mà doanh nghiệp có biện pháp kinh doanh trong kỳ tới. Các chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận được tính bằng các công thức sau: TP TF TPF = x 100% TPF: Tỷ suất lợi nhuận của chi phí bán hàng TF: Tổng chi phí bán hàng xuất khẩu TP: Tổng lợi nhuận bán hàng xuất khẩu TP (VC + VL) TPV = x 100% ý nghĩa: Cứ một đồng chi phí bán hàng thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. TPV : Tỷ suất doanh lợi vốn sản xuất kinh doanh. VL :Vốn lưu động. VC : Vốn cố định. TP :Tổng chi phí bán hàng. ý nghĩa: Cứ một đồng vốn sản xuất kinh doanh thì có bao nhiêu đồng lợi nhuận. TP TD TPD = x100% Tỷ suất lợi nhuận doanh thu: TP: Tổng lợi nhuận. TD: Tổng doanh thu bán hàng. ý nghĩa: Cứ một đồng doanh thu bán hàng thì có bao nhiêu đồng lợi nhuận. Sau khi tiến hành phân tích cả ba chỉ tiêu trên giữa các kỳ với nhau hoặc giữa các doanh nghiệp khác nhau nhưng sản xuất những sản phẩm cùng loại. Nếu các chỉ tiêu tỷ suất này của doanh nghiệp càng lớn thì chứng tỏ khả năng sinh lời trên lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp càng cao và ngược lại nếu các chỉ tiêu trên mà thấp thì chứng tỏ khả năng sinh lời càng thấp, sau đó phân tích các nhân tố ảnh hưởng và đề ra những biện pháp để tăng lợi nhuận trong kỳ kinh doanh tới. Qua phân tích ba chỉ tiêu sẽ cho ta thấy việc kinh doanh hàng hoá xuất khẩu lỗ hay lãi. Khả năng sinh lời hoặc lỗ do các nhân tố nào tạo ra, nó có phải từ chi phí bán hàng cao (thấp), doanh thu, thuế cao (thấp)... để từ đó có biện pháp phát huy những mặt mạnh, hạn chế những mặt còn tồn đọng và tìm ra biện pháp thích hợp để giải quyết. 2./ chất lượNg hàng hoá xuất khẩu. Trong các doanh nghiệp sản xuất nói chung và doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nói riêng thông thường có hai loại chất lượng hàng hoá: + Hàng hoá đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. + Hàng hoá không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu (phế phẩm). Khi đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp xuất khẩu, thì chỉ tiêu chất lượng hàng hoá ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh, khi phân tích người ta sử dụng hai chỉ tiêu: 2.1./ Tỷ lệ phế phẩm (tính theo hiện vật). Mục đích của phương pháp này là ta so sánh được hàng phế phẩm chiếm bao nhiêu % trong hàng hoá xuất ra của doanh nghiệp. HF HC+HF TF = x 100 % TF :Tỷ lệ phế phẩm. HF :Hàng phế phẩm. HC : Hàng đảm bảo đủ tiêu chuẩn. Mục đích của phương pháp này là ta so sánh được số lượng hàng phế phẩn chiếm bao nhiêu % trong tổng số hàng hoá xuất ra của doanh nghiệp. 2.2./ Tỷ lệ phế phẩm bình quân (Tính theo giá trị ). CF+CS CM+CF+CS TF = x 100 % TF :Tỷ lệ phế phẩm bình quân. CF :Chi phí thu mua hàng phế phẩm. CS :Chi phí sửa chữa chế biến hàng phế phẩm. CM :Giá mua hàng xuất khẩu . Từ công thức trên ta thấy tử số là toàn bộ hàng phế phẩm tính theo giá trị, mẫu số là toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra trong kỳ. Qua tính toán phân tích chỉ tiêu này doanh nghiệp có thể thấy được toàn bộ thiệt hại do chất lượng hàng phế phẩm gây ra so với toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra trong kỳ là bao nhiêu %. Sau khi phân tích, so sánh giữa hai kỳ với nhau hoặc hai doanh nghiệp sản xuất sản phẩm cùng loại sẽ cho doanh nghiệp thấy được tỷ lệ phế phẩm của doanh nghiệp mình và nếu tỷ lệ bình quân hàng phế phẩm của doanh nghiệp càng nhỏ càng tốt. Tỷ lệ này chứng tỏ chất lượng hàng hoá xuất khẩu cao hay thấp và nếu tỷ lệ này càng nhỏ thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp càng cao. ±D = TF1 - TF0 TF1 : Tỷ lệ phế phẩm kỳ này. TF0 : Tỷ lệ phế phẩm kỳ trước. Nếu : - D :Thì chất lượng hàng hoá xuất khẩu tăng lên. + D : Thì chất lượng hàng hoá xuất khẩu giảm. Qua phân tích ta tìm được nguyên nhân làm giảm chất lượng sản phẩm từ đó tìm ra biện pháp khắc phục. chương II: Thực trạng xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng I./Giới thiệu chung về Công Ty Dệt Hải Phòng . C ông Ty Dệt Hải Phòng tiền thân là xí nghiệp Hải Phòng đây là một doanh nghiệp nhà nước, trực thuộc sự quản lý của sở Công Nghiệp Hải Phòng, được thành lập theo quyết định số 61/QĐ/TCCQ ngày 27/01/1988, là một trong những công ty trong ngành dệt may được trực tiếp tham gia xuất nhập khẩu. Hiện nay, thị trường chủ yếu của công ty là thị trường nội địa và thị trường Nhật Bản, hướng tới công ty đang có kế hoạch mở rộng sang thị trường EU và thị trường Mỹ. Với vị thế là một doanh nghiệp vừa và nhỏ với cơ sở khi thành lập đặt tại 151B Niệm Nghĩa, Hải Phòng, diện tích sử dụng là 9,25 nghìn m2 và số lao động vào khoảng 320 người năm 1999. Hiện nay, công ty mở rộng thêm cơ sở sang cơ sở II đặt tại đường KaMen - Kiến An - Hải phòng. Cơ sở hai này sẽ chuyên sản xuất hàng dệt kim, với diện tích sử dụng khoảng 20 nghìn m2, số lao động bước đầu tuyển vào và gửi đào tạo là 500 người và ngày 13/5/2000 nhân dịp giải phóng Hải Phòng cơ sở II đã đi vào hoạt động với các mặt hàng chủ yếu là hàng dệt kim. Từ ngày thành lập đến nay, trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử cũng như nền kinh tế của thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng, nhiều lúc tưởng rằng công ty không thể vượt qua, nhưng với sự cố gắng của tập thể cán bộ công nhân viên của công ty cũng như sự trực tiếp chỉ đạo và hỗ trợ của thành phố, công ty đã vượt qua mọi khó khăn để phát triển giải quyết cho hàng trăm công ăn việc làm cho người lao động Thành phố. 1./ QUá trình hình thành và phát triển Công Ty Dệt Hải Phòng. . 1.1./Giai đoạn năm 1988 đến năm 1991. Thời gian này, nền kinh tế Việt Nam đang chìm đắm trong giấc mộng của nền kinh tế chỉ huy, quan niệm bao cấp dẫn đến rất nhiều ngành nghề của Hải Phòng trong đó có ngành dệt không được chú trọng một cách thoả đáng. Cho nên khi quyết định 217/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ban hành nhằm chuyển đổi nền kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường đã buộc các doanh nghiệp của Việt Nam nói chung và của Hải Phòng nói riêng phải tự chuyển đổi từ phương thức “xin- cho” sang phương thức hạch toán kinh doanh lấy thu bù chi và có lãi. Rất nhiều doanh nghiệp và các hợp tác xã dệt thủ công của Hải Phòng dần dần bị giải thể hoặc chuyển qua các ngành nghề khác. Trên tinh thần của hiệp định 19/05 giữa nhà nước Việt Nam và Liên Xô (cũ), và cùng với việc cần thiết phải khôi phục ngành dệt Hải Phòng, UBND thành phố đã ra quyết định số 61/QD/TCCQ ngày 27/01/1988 chính thức thành lập xí nghiệp dệt tiền thân của Công Ty Dệt Hải Phòng ngày nay. Trong giai đoạn này, công ty chủ yếu chú trọng vào đầu tư xây dựng cơ bản và sản xuất thử với sản phẩm bước đầu ra đời là các loại khăn bông xuất khẩu trực tiếp sang thị trường Liên Xô cũ và một số nước Đông Âu XHCN anh em trước đây để thực hiện kế hoạch cam kết của nhà nước ta với nhà nước bạn và một phần sản phẩm còn được sản xuất ra để đáp ứng trực tiếp nhu cầu tiêu dùng của địa phương và một số tỉnh lân cận, đem lại nguồn thu bước đầu cho thành phố, giải quyết công ăn việc làm cho một số lượng lớn người lao động. Trong giai đoạn này, xí nghiệp tiến hành cải tạo xây dựng cơ sở vật chất, hoàn thiện cơ cấu quản lý, tiếp nhận và đào tạo đội ngũ công nhân, tiếp nhận và lắp đặạt hệ thống dây truyền thiết bị chủ yếu được nhập khẩu hoặc nhận viện trợ của Liên Xô với công nghệ dệt khăn theo công nghệ cũ là công nghệ tẩy nhuộm sau. Tuy nhiên, cùng với sự khó khăn của thành phố nên nguồn vốn để xây dựng cơ bản của xí nghiệp bị hạn chế do sự cấp phát nhỏ giọt đã dẫn đến tình trạng xí nghiệp không thể đủ điều kiện để lắp đặt một cách đồng bộ dây chuyền sản xuất của mình, có rất nhiều máy móc lạc hậu điển hình là sáu máy xe sợi thủ công... Cũng như tình trạng chung của cả nước thì trình độ quản lý và tay nghề của công nhân tại công ty còn chưa có nhiều kinh nghiệm do: Thứ nhất là kinh phí đầu tư cho dạy nghề còn hạn chế, không đồng bộ, cán bộ quản lý nhiều người không được đào tạo cơ bản đồng bộ. Thứ hai là đội ngũ công nhân viên được tập hợp ở các nơi trong thành phố cũng như các tỉnh lân cận nên không tránh khỏi những bỡ ngỡ và chưa phát huy được sự năng động sáng tạo trong quá trình quản lý và sản xuất. Trên đây là một số khó khăn của xí nghiệp trong bước đầu thành lập, nhưng cùng với sự cố gắng của tập thể thì xí nghiệp vẫn sản xuất được một số sản phẩm phục vụ cho việc xuất khẩu sang thị trường Liên xô cũ và một số nước XHCN Đông Âu cũ, Thái Lan, Lào... Từ sự biến động của lịch sử thế giới dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu, làm cho Việt Nam không thể thực hiện được các hiệp định mậu dịch với họ. Do đó mà thị trường xuất khẩu của xí nghiệp Dệt Hải Phòng cũng mất đi, đẩy công ty đến bên bờ vực thẳm của sự phá sản và sụp đổ, làm ăn thua lỗ triền miên tưởng rằng không thể vượt qua được. Nhưng nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường đã đẩy xí nghiệp sang một trang mới, một giai đoạn phát triển mới. 1.2. /Giai đoạn từ tháng 10/1991 đến năm 19935. Như trên đã đề cập thì giai đoạn này là giai đoạn khởi đầu cho quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, nền kinh tế Việt Nam bước vào một một hướng phát triển mới nhưng gặp nhiều khó khăn do đồng tiền nội địa mất giá, thị trường xuất khẩu không còn, lại bị bao vây kinh tế của Mỹ...dẫn đến rất nhiều công ty bị phá sản. Cũng như tình hình chung của nhiều doanh nghiệp thì xí nghiệp Dệt Hải Phòng bắt đầu bước vào sản xuất chính thức với phương thức hạch toán kinh doanh lấy thu bù chi và có lãi. Những khó khăn mà Công Ty Dệt Hải Phòng gặp phải trong giai đoạn này cũng như các doanh nghiệp khác trong cả nước mà đặc biệt là những khó khăn về nguyên vật liệu, phụ tùng thay thế, máy móc thiết bị, thiếu vốn, thiếu ngoại tệ để nhập vật tư, thiết bị cho sản xuất. Do lạm phát mà giá cả các yếu tố đầu vào tăng nhanh làm ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm, do đó ảnh hưởng đến tiến độ tiêu thụ sản phẩm trong nước cũng như sản phẩm xuất khẩu sang thị trường nước ngoài của xí nghiệp gây rất nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Thêm vào đó là tình trạng lạm phát cao làm cho đồng lương không đủ đáp ứng đời sống của công nhân viên đã làm cho nhiều cán bộ kỹ thuật bỏ việc tạo cho xí nghiệp khó khăn chồng chất khó khăn. Tuy vậy, nhờ sự giúp đỡ của Tổng công ty Dệt may Việt Nam và một số doanh nghiệp trong ngành mà Xí nghiệp Dệt Hải Phòng đã thích ứng được với điều kiện mới, và đã sản xuất ra những mặt hàng đáp ứng được nhu cầu của khách hàng cả trong nước cũng như nước ngoài. Nhờ đẩy mạnh công tác Marketing mà số lượng khách hàng tìm đến công ty ngày càng nhiều. Và cCùng với sự chuyển hướng sản xuất đến mua nguyên vật liệu, bán thành phẩm kết hợp với hình thức gia công cho khách hàng nên uy tín của công ty đã được từng bước nâng cao, thị trường đã được mở rộng. Để thuận tiện cho công tác giao dịch cũng như vị thế của xí nghiệp ngày 14/01/1993 theo quyết định số 82/QĐ/TCCQ của UBND thành phố Hải Phòng đổi tên xí nghiệp dệt Hải Phòng thành Nhà máy Dệt Hải Phòng với tên giao dịch quốc tế là Hai Phong Textile Company. Từ đây, nhờ sự giúp đỡ của thành phố, các ban ngành hữu quan, Nhà máy Dệt Hải Phòng đã đầu tư theo chiều sâu, hoàn chỉnh dây chuyền thiết bị, máy móc, áp dụng những công nghệ tiên tiến phù hợp với việc đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Trong dự án đầu tư chiều sâu thì chủ yếu đầu tư vào mua máy móc thiết bị mới, hiện đại như máy hồ sợi, tẩy, nhuộm, máy sấy, máy sén lông...và một phần nhỏ nữa là đầu tư vào sửa chữa, cải tạo nâng cấp nhà xưởng, sân bãi. Từ đây chất lượng sản phẩm của nhà máy đã được nâng cao đủ sức tự mình vươn ra chiếm lĩnh thị trường cả trong nước và nước ngoài. Qua nhiều đánh giá từ các buổi họp thường niên của công ty thì giai đoạn này được đánh giá là giai đoạn bản lề để công ty lớn mạnh và phát triển như ngày hôm nay. 1.3./ Giai đoạn từ 1993 đến nay. Cùng với những trang thiết bị mới hiện đại là việc làm tốt công tác tiếp thị đã giúp cho nhà máy sản xuất ra được những sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã đa dạng, giá cả hợp lý nên dần dần đã đủ sức cạnh tranh với những sản phẩm cùng loại trên thị trường. Các khách hàng trong nước và các khách hàng quốc tế đã biết đến sản phẩm của công ty và ngày càng nhiều người tìm đến đặt hàng với số lượng lớn. Đặc biệt mặt hàng khăn bông của nhà máy Dệt Hải Phòng đã đáp ứng được nhu cầu khách hàng nước ngoài khó tính nhất như Nhật Bản, và h. Hiện nay thị trường xuất khẩu chủ yếu của công ty chính là thị trường Nhật Bản, và hướng tới công ty đã, đang có kế hoặch vươn tới thị trường EU và thị trường Mỹ Thực tế cho thấy công ty đã nhận được một số hợp đồng xuất khẩu sang hai thị trường này tuy không phải là lớn nhưng nó lại là động lực để thúc đẩy sự cố gắng của tập thể cán bộ công nhân viên nhà máy. Qua nhiều đánh giá từ các buổi họp thường niên của công ty thì giai đoạn này được đánh giá là giai đoạn bản lề để công ty lớn mạnh và phát triển như ngày hôm nay. 1.3./ Giai đoạn từ 1995 đến nay. Để phù hợp với sự tăng trưởng và vị thế của nhà máy trên thị trường, Ngày 09/01/1995 theo quyết định 1678 QĐ/ĐMDN của UBND thành phố Hải Phòng chính thức đổi tên thành Công Ty Dệt Hải Phòng ngày nay. Để nâng cao chất lượng cũng như để mở rộng sản xuất, năm 1998 UBND thành phố quyết định cho phép công ty xây dựng cơ sở II tại đường KaMen - Kiến An - Hải Phòng với diện tích sử dụng là 20.000 m2, số công nhân tuyển dụng và gửi vào trong Nha Trang đào tạo giai đoạn I là 500 người. Toàn bộ máy móc thiết bị tại cơ sở này là những dây chuyền công nghệ tiên tiến của Đức, Italia, Nhật Bản và Đài Loan và ngày 13/05/2000 cơ sở này đã đi vào hoạt động. Khi đi vào hoạt động công ty đang có kế hoạch chuyển cơ sở II này thành cơ sở chính, là nơi điều hành sản xuất kinh doanh cũng như giao dịch chính của công ty với khách hàng. Còn cơ sở chính hiện tại đặt tại 151 B Niệm Nghĩa Hải Phòng sẽ chuyển thành phân xưởng sản xuất hàng dệt may của công ty. Tóm lại, có thể đánh giá giai đoạn này là giai đoạn tạo ra cho công ty có những chuyển biến rõ rệt, làm ăn có lãi, đời sống cán bộ công nhân viên được nâng cao, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đã từng bước thay đổi nhanh chóng và đây là giai đoạn công ty thu được những thành quả vượt bậc so với những năm trước. Trên đây là điểm qua vài nét về quá trình hình thành và phát triển của Công Ty Dệt Hải Phòng, cho ta thấy để có ngày hôm nay Công ty Dệt Hải Phòng đã phải trải qua bao thăng trầm để xây dựng và trưởng thành, và đó cũng là bản ghi nhận một thành quả cố gắng của tập thể cán bộ công nhân viên công ty cũng như sự giúp đỡ của thành phố và các ngành liên quan. 2./ Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý hiện tại của Công Ty Dệt Hải Phòng. 2.1./ Chức năng và nhiệm vụ. Công Ty Dệt Hải Phòng hiện nay là công tymột doanh nghiệp nhà nước có chức năng xuất nhập khẩu trực tiếp do sở Công Nghiệp Hải Phòng quản lý. Công ty được thành lập năm 1988 với mục đích khôi phục và phát huy ngành Dệt tại Hải Phòng. Sản phẩm chủ yếu được sản xuất bởi công ty là các loại khăn tắm, khăn ăn, khăn rửa mặt các loại, với công suất 400 tấn sản phẩm một năm, phục vụ cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địamột phần đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của thành phố. Thị trường xuất khẩu chủ yếu của công ty hiện nay phải kể đến là Nhật Bản, Eu, thị trường các nước trong khối ASEAN như Thailand, Lào... và thị trường tiềm năng đó là thị trường Hoa Kỳ. Từ ngày thành lập đến nay, hHàng năm công ty đã thu lại cho ngân sách thành phố hàng trăm triệu đồng. Cùng với sự ổn định và phát triển trong một thời gian dài công ty Dệt Hải Phòng đã góp phần giải quyết cho hàng trăm công ăn việc làm cho người lao độọng thành phố. Hiện nay, khi thành phố đầu tư cho công ty cơ sở II chuyên sản xuất hàng Dệt kim và đã đi vào hoạt động thì nhiệm vụ của công ty được nâng nên cao hơn đó là phải tiếp tục giải quyết công ăn việc làm cho người lao động thành phố, tăng thu nhập cho tập thể cán bộ công nhân viên trong cơ quan, đóng góp đủ cho Ngân sách thành phố, góp phần làm rạng rỡ nền công nghiệp của thành phố. Tiếp tục mở rộng thị trường bằng sản phẩm mới như áo thun, quần áo lót, bít tất... sang những thị trường mới và cả thị trường truyền thống mà đặc biệt là tham gia chiếm lĩnh thị trường Hoa Kỳ ngay khi điều kiện cho phép. 2.2./Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý sản xuất. Lúc đầu, khi thành lập công ty do ảnh hưởng của cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung nên bộ máy quản lý của xí nghiệp rất cồng kềnh, số cán bộ quản lý hành chính nhiều, quản lý kém hiệu quả không phát huy được sức mạnh và lợi thế của công ty. Thêm vào đó khi mới thành lập thì ngành dệt ở Hải Phòng vẫn là một lĩnh vực mới cho nên công tác quản lý điều hành sản xuất của công ty gặp nhiều khó khăn. Từ ngày đổi mới đến nay, công ty đã có nhiều thay đổi lớn về mặt tổ chức theo phương hướng cán bộ chủ chốt kiêm nhiệm phụ trách các phân xưởng, coi trọng và ưu tiên nhân viên có trình độ chuyên môn cao, trẻ hoá dẫn đội ngũ cán bộ quản lý, các phân xưởng được sắp xếp lại, bố trí lại, tạo ra hệ thống điều hành quản lý thống nhất. Đứng đầu là giám đốc, sau đó là phó giám đốc, dưới nữa là các phòng ban kiêm nhiệm chịu trách nhiệm trước giám đốc, phó giám đốc và luật pháp chủ quản. Dưới đây là sơ đồ bộ máy quản lý và sản xuất của công ty: tổ đóng gói Giámđốc: Là người vừa đại diện cho nhà nước vừa đại diện cho công ty chịu trách nhiệm trước UBND thành phố Hải Phòng cũng như cơ quan chủ quản là sở công nghiệp Hải Phòng về mọi hoạt động của công ty theo pháp luật. Giám đốc được quyền quyết định tổ chức bộ máy quản lý, các bộ phận sản xuất kinh doanh dịch vụ của công ty. Phó Giám Đốc: Là người giúp việc cho giám đốc, được giám đốc phân công giúp việc về các công việc tổ chức, nội chính, đoàn thể. Hiện nay, trong công ty chỉ có một giám đốc và một phó giám đốc chịu trách nhiệm điều hành sản xuất kinh doanh của công ty. Các phòng ban: Phòng kế hoạch kỹ thuật đầu tư: Phòng có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch sản xuất ngắn hạn, dài hạn, phương án sản xuất sản phẩm, điều độ tác nghiệp trong công ty. Phòng xây dựng kế hoạch giá thành đơn vị, trả tiền lương cho từng loại sản phẩm, trên cơ sở đó lựa chọn nguyên liệu, vật tư, lựa chọn máy móc thiết bị cho phù hợp, đảm bảo chất lượng và tiến độ sản xuất của cả doanh nghiệp. Ngoài ra phòng còn chịu trách nhiệm về các vấn đề thiết kế chế tạo thử sản phẩm mới, nghiên cứu áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, sửa chữa máy móc thiết bị. Phòng còn có trách nhiệm kiểm tra sản phẩm trước khi nhập kho. Phòng kế toán: Hoạt động theo pháp lệnh kế toán thống kê và điều lệ tài chính kế toán của Bộ tài chính đã ban hành. Quản lý và điều tiết vốn cho công ty. Phòng có trách nhiệm tổ chức hạch toán kiểm tra theo dõi thu chi tài chính của toàn công ty, xây dựng các dự toán, tính giá thành dự toán cũng như giá thành thực tế để cùng với các phòng ban khác có kế hoạch điều chỉnh cho phù hợp. Phòng kế toán còn có trách nhiệm quản lý tất cả mọi tài sản của doanh nghiệp bao gồm cả tài sản cố định và tài sản lưu động, tiền mặt và tiền gửi ngân hàng, các khoản nợ đọng thu chi... từ đó tính ra lỗ lãi hàng kỳ, hàng năm, thực hiện các báo cáo với giám đốc và cơ quan chủ quản. - Phòng tổ chức, hành chính, lao động, tiền lương: Lập phương án tổ chức bộ máy quản lý sản xuất kinh doanh triển khai kế hoạch lao động tiền lương trên cơ sở xây dựng định mức lao động của từng loại sản phẩm. Xây dựng chức năng, nhiệm vụ nội quy, qui chế hoạt động của công ty, bảo vệ tài sản giữ gìn an ninh trật tự trong toàn công ty. Xây dựng kế hoạch và tuyển dụng lao động, xây dựng và đào tạo bồi dưỡng tay nghề nâng cấp, nâng bậc cán bộ công nhân viên, xây dựng và thực hiện an toàn lao động, vệ sinh công nghiệp, phòng cháy, chữa cháy. Các công tác tài chính văn thư, khám chữa bệnh phục vụ ăn ca cho cán bộ công nhân viên. - Các phân xưởng: + Phân xưởng chuẩn bị: Bao gồm các bước công việc Se, Mắc, Hồ, Nhuộm,Tẩy sợi đảm bảo chất lượng bao gồm nhiều tổ, mỗi tổ có chức năng nhiệm vụ riêng. * Tổ se, mắc sợi: Có nhiệm vụ se sợi, đảo sợi (công việc này nhằm tạo cho sợi tăng thêm tính cường lực ) và mắc trục thì tuỳ từng loại sợi sản phẩm mà có những cách mắc sợi khác nhau. * Tổ Hồ Sợi: Sau khi sợi mắc song sẽ được đưa qua hồ để tăng độ bền kéo của sợi. * Tổ tẩy nhuộm: Sau khi hồ sợi thì sẽ đi đến Tổ tẩy nhuộn để làm trắng sợi theo từng yêu cầu của từng loại sản phẩm. +Phân xưởng Dệt: Phân xưởng này hoạt động theo thiết kế mẫu mã và đơn đặt hàng, máy móc trong phân xưởng này có tính tự động cao, và do đó công nhân chỉ việc thay suốt sợi khi hết và điều chỉnh máy khi có sự cố. Hiện nay, máy dệt trong Công Ty Dệt Hải Phòng tại cơ sở dệt may bao gồm 90 máy Dệt chủ yếu là của Liên Xô (cũ). Các máy này chủ yếu sử dụng để sản xuất ra sản phẩm khăn bông. Còn tại cơ sở sản xuất hàng dệt kim tại đường KaMen-Kiến An -Hải Phòng thì máy móc thiết bị chủ yếu là máy móc thiết bị hiện đại của các nước có ngành Dệt phát triển, trong đó có 12 máy Dệt của Đức và Italia mà các loại này chủ yếu sử dụng vào dệt kim như dệt các sản phẩm để sản xuất Tất, áo thun, quần áo lót ... + Phân xưởng may hoàn tất: Sau khi bán thành phẩm được hoàn tất từ phân xưởng Tẩy nhuộn sẽ chuyển qua phân xưởng may, và từ phân xưởng này thì sản phẩm được hoàn tất qua khâu chế tạo. + Tổ KCS: Sau khi sản phẩm được hoàn tất sẽ chuyển qua Tổ KCS để kiểm tra. Đây là bước cuối cùng trước khi đưa sản phẩm vào đóng gói. Bước này là bước quyết định đến chất lượng sản phẩm bởi ở đây nếu như sản phẩm có khuyết tật sẽ bị loại bỏ còn những sản phẩm đạt tiêu chuẩn sẽ được đưa vào đóng gói để chuẩn bị đưa vào nhập kho và tiêu thụ (xuất khẩu ). + Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu: Có nhiện vụ tổ chức tốt công tác cung cấp nguyên vật liệu nhập khẩu, quản lý, bảo quản kho tàng vật tư. Căn cứ vào hợp đồng đã ký cũng như kế hoạch sản xuất kinh doanh của phòng kế hoạch kỹ thuật đầu tư để lập kế hoạch nhập khẩu nguyên vật liệu và thực hiện các công việc xuất khẩu sản phẩm. Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu là nơi tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm, tăng cường hỗ trợ xúc tiến bán thông qua các loại hình trung gian như Đại lý ký gửi, Hội chợ triển lãm, mở cửa hàng giới thiệu sản phẩm tiêu thụ. Trong cơ cấu của phòng kinh doanh xuất nhập khẩu có các bộ phận khác như bộ phận nghiên cứu thị trường, bộ phận nghiên cứu sản phẩm để tìm cách chiếm lĩnh và đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng trong và ngoài nước. Để làm tốt nhiệm vụ của mình yêu cầu phòng kinh doanh xuất nhập khẩu phải kết hợp với các phòng ban khác, đặc biệt là phòng kế hoạch để cùng nhau lập kế hoạch sản xuất, tiêu thụ sản phẩm để từ đó nâng cao hiệu quả của công tác xuất nhập khẩu. Một công việc không kém phần quan trọng mà phòng kinh doanh xuất nhập khẩu phải đảm nhiệm đó là phải thực hiện hợp đồng xuất khẩu. 2.3./ Đặc điểm kỹ thuật. 2.3.1./ Đặc điểm về tài sản cố định. Máy móc thiết bị và tài sản cố định của công ty có rất nhiều loại đa dạng. Do trước đây khi thành lập, công ty được trang bị máy móc thiết bị chủ yếu của các nước XHCN (cũ), nên máy móc, thiết bị lạc hậu và không đồng bộ, được sản xuất bởi nhiều nước khác nhau cho nên việc đảm bảo yêu cầu cho sản xuất gặp rất nhiều khó khăn. Và khi công ty đầu tư chiều sâu thì vấn đề không đồng bộ của hệ thống máy móc thiết bị phần nào được giải quyết, và từ đây chất lượng sản phẩm được nâng cao đáp ứng nhu cầu của thị trường. Sản phẩm của công ty đã đủ sức cạnh tranh trên thị trường với giá thành sản phẩm phù hợp. Sau đây là hệ thống các máy móc thiết bị của công ty tại cơ sở dệt may: Biểu Bảng I: Một số máy móc thiết bị trong Công Ty Dệt Hải Phòng. STT Tên Máy Móc- Thiết Bị Số Lượng Nơi Sản Xuất Máy dệt ATM_- 175 90 Liên Xô cũ Máy đánh ống 02 Liên Xô cũ Máy mắc 02 Liên Xô cũ Máy dồn 01 Liên Xô cũ Máy Se đậu 02 Liên Xô cũ Máy ép kiện 01 Việt Nam Máy suốt 03 Liên Xô cũ Máy may 25 Liên Xô cũ Máy hồ sợi 01 Trung Quốc Máy vắt-tẩy nhuộm 04 02 của Ba Lan, 1 của Đài Loan Máy vắt li tâm 02 1của Hunggari, 1củaTrung Quốc Máy sấy 01 Trung Quốc Máy sén nhung 01 Trung Quốc Nồi hơi 02 Trung Quốc Trạm máy bơm 01 Liên Xô cũ Theo : Báo cáo kiểm kê thiết bị của Công Ty Dệt Hải Phòng năm 1997 2.3.2./ Đặc điểm về nguyên vật liệu. Nguyên vật liệu chính của công ty là sợi Ne 20/1, Ne 32/1, Cotton 100%. Công ty thường mua sợi của các doanh nghiệp trong nước như công ty Dệt Hà Nội, Công ty Dệt 8/3, Công ty dệt Nha Trang, nhập sợi của ấn Độ, Trung Quốc... Quá trình nhập nguyên vật liệu của công ty mua ở trong nước hay mua ở nước ngoài là tuỳ thuộc vào từng thời kỳ khi có sự chênh lệch giữa giá nhập khẩu và giá mua của các doanh nghiệp trong ngành ở tại trong nước. Ngoài những nguyên vật liệu kể trên công ty còn phải nhập một số hoá chất khác từ các nước khác nhau như từ Singapore, Trung Quốc, Nam Triều Tiên, Pháp, Mỹ, Italia... Đó là những hoá chất như Bevaloid 5400, Bevaloid 4168, Ô xi già (H2O2) và các hoá chất làm nềm sợi... Ngoài ra còn những hoá chất phụ mua của các doanh nghiệp trong nước như hoá chất xút (NaOH), Silicat (Na2SiO3), Tinh bột trắng, Chỉ trắng, Túi PE, bao PP... Sau đây là một số những nguyên vật liệu nhập khẩu từ các nước ngoài trong một vài năm gần đây. Biểu Bảng II: Tình hình nhập khẩu nguyên vật liệu của Công Ty Dệt Hải Phòng Đơn vị : 1.000Đ Stt Năm Tên N.liệu 1997 1998 1999 1 Sợi Ne 20/1 2.022.184 978.735 - 2 Sợi Ne31/1 1.438.629 668.737 - 3 Bevaloid 4118 20.925 26.400 44.000 4 Bevaloid 4168 102.724 139.920 220.000 5 Vevatol 49.122 58.725 69.000 6 Besnop 35.532 60.220 75.000 7 Unitex - 125.000 175.000 8 Leuconphor - 69.000 184.000 9 Chất ổn định H2O - 6.200 9.000 10 Xút - 60.000 64.000 11 Ô Xi Già - 119.000 130.900 12 Sô Đa - 6.400 9.600 13 Công Hoá - 26.000 3.900 14 Thuốc nhuộm - 225.000 135.000 15 Các chất phụ trợ - 7.530 12.500 16 Tổng Cộng - 2.574.867 1.131.900 Theo : Báo cáo tình hình nhập khẩu của Công Ty Dệt Hải Phòng năm 1999 Ghi chú: (-) Do giá hàng trong nước thấp hơn giá hàng nhập khẩu cho nên công ty chuyển sang nhập của các doanh nghiệp trong nước. Như vậy nhìn vào bảng trên cho ta thấy tổng trị giá nhập khẩu của năm 1999 là 1.131.900 nghìn đồng giảm 43,9% so với 2.574.867 nghìn đồng năm 1998. Lý do giảm trị giá nhập khẩu như chúng ta biết thì do công ty là một doanh nghiệp được phép xuất nhập khẩu trực tiếp cho nên khi giá cả của hàng trong nước và hàng nhập khẩu có sự chênh lệch công ty sẽ chọn nguồn nào có mức giá thấp hơn để cung cấp nguyên vật liệu đầu vào cho mình. Chính vì thế mà trong năm 1999 giá hàng trong nước thấp hơn với hàng nhập khẩu cho nên công ty đã chọn giải pháp là mua hàng của các doanh nghiệp trong nước thay vì phải nhập khẩu, do đó mà năm 1999 tổng trị giá hàng nhập khẩu của công ty đã giảm hẳn so với năm 1998. 2.3.3./ Quy trình công nghệ. Quy trình công nghệ dệt là một quy trình rất phức tạp, và kéo dài thời gian. Nó bắt đầu từ khi nguyên vật liệu được đưa vào sản xuất đến khi có sản phẩm nhập kho qua rất nhiều công đoạn. Chất lượng của các công đoạn bán thành phẩm sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ phế phẩm của các công đoạn tiếp theo.Trong mỗi công đoạn thì chất lượng sản phẩm bị ảnh hưởng không những từ những yếu tố chủ quan như máy móc thiết bị, trình độ tay nghề của công nhân mà nó còn chịu ảnh hưởng từ những nhân tố khách quan khác như yếu tố thời tiết. Bởi khi thời tiết hanh khô sẽ làm cho sợi bị khô, dễ gẫy và dễ đứt từ đó chất lượng sản phẩm sản xuất ra rất kém và khi thời tiết có độ ẩm cao thì do sợi là loại chất liệu hút ẩm mạnh nên việc định mức sản phẩm gặp rất nhiều khó khăn. Hiện nay, tại cơ sở sản xuất hàng dệt may có hai quy trình công nghệ dệt khăn, mà theo đó công ty sẽ áp dụng công nghệ nào để sản xuất là tuỳ vào kế hoạch sản xuất của công ty cũng như tuỳ vào yêu cầu của khách hàng. + Quy trình công nghệ dệt khăn tẩy trước: Sợi mộc được đưa vào đảo, se, guồng thành những con sợi nhỏ, sau đó đưa vào Máy Tẩy Nhuộm đ Vắt đ Sấy khô đ Đánh ra thành ống sợi nhỏ và sau đó đưa lên giàn mắc phân băng ( mắc từng sợi một ) đ Dệt đ Cắt May đ Sản phẩm cuối cùng. Những sản phẩm sản xuất ra theo công nghệ này thường được bán vào những thị trường mà ở đó sự đòi hỏi về chất lượng không cao lắm như các thị trường thuộc các nước Đông Âu ( XHCN cũ ) và thị trường nội địa. Ưu điểm của sản phẩm do công nghệ này sản xuất ra là sản phẩm có độ bền cao nhưng đặc tính kỹ thuật không cao. + Quy trình công nghệ dệt khăn tẩy sau: Sợi mộc được đưa vào đánh ống sau đó mắc hàng loạt ( mắc nhiều trục một lúc ) đ Hồ Sợi đ Dệt đ Tẩy hoặc Nhuộm đ Máy vắt đ Máy sấy khô đ Cắt May đ Thành phẩm. Ưu điểm của sản phẩm sản xuất ra từ quy trình công nghệ này là chất lượng hàng hoá cao mẫu mã đẹp đáp ứng được nhu cầu của những khách hànhg khó tính nhất hiện nay như thị trường Nhật Bản của công ty. Sau đây là sơ đồ biểu hiện quy trình của hai công nghệ trình bày ở trên. Nguyên vật liệu chính Sợi Mộc Sợi mộc Đánh ống Đảo, Se,Guồng sợi Mắc đồng loạt Tẩy nhuộm thủ công Hồ Sợi Đánh ống Dệt 1 Mắc phân băng KCS 1 Dệt Tẩy Nhuộm KCS 1 Cắt May KCS 2 Sấy Cắt May KCS 2 Nhập Kho Thành Phẩm Sơ đồ III: Quy trình công nghệ dệt Cắt May KCS 2 Nhập Kho Thành Phẩm KCS 1 KCS 2 Sơ đồ III: Quy trình công nghệ Sấy Tẩy Nhuộm Dệt KCS 1 Mắc phân băng Dệt 1 Đánh ống Hồ Sợi Tẩy nhuộm thủ công Mắc đồng loạt Đảo, Se,Guống sợi Đánh ống Sợi mộc Sợi Mộc Nguyên vật liệu chính Cắt May II./ hoạt động xuất khẩu tại công ty dệt Hải Phòng thời gian qua. 13./ kết quả sản xuất tại Công Ty Dệt Hải Phòng thời gian qua. Công Ty Dệt Hải Phòng là một doanh nghiệp nhà nước có nhiệm vụ sản xuất phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Từ những năm 1990 thị trường xuất khẩu chính của công ty là thị trường các nước Đông Âu (XHCN) và từ khi các nước này sụp đổ đã ảnh hưởng rất mạnh đến quá trình sản xuất kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp. Trong thời gian này để tháo gỡ những khó khăn, công ty đã uỷ thác xuất khẩu cho Tổng công ty Dệt may Việt Nam (Vinatex) hay Tocontap, Unimex... Nên hiệu quả sản xuất kinh doanh không cao. Từ khi có cơ chế chính sách mới, công ty đã tìm cho mình một hướng làm ăn mới đó là trực tiếp nghiên cứu thâm nhập thị trường, nhằm xuất khẩu trực tiếp không thông qua uỷ thác. Công ty tiến hành thay đổi cơ chế quản lý trong chính công ty mình như thay đổi chức năng phòng Vật Tư thành phòng Kinh doanh xuất nhập khẩu với chức năng và quyền hạn cao hơn...Cùng với đó là sự đầu tư của thành phố và sự mạnh dạn vay vốn kinh doanh của công ty để đầu tư theo chiều sâu cho nên trong những năm gần đây hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty không ngừng tăng nên. Sau đây là tình hình sản xuất của công ty trong các năm từ 1996 đến 1998. Bảng III: Tình hình sản xuất kinh doanh tại Công Ty Dệt Hải Phòng. Đơn vị :Triệu Đồng chỉ tiêu năm 1996 1997 1998 I. Vốn kinh doanh 1. Vốn ngân sáchch 11.379,4 11.104,5 11.759,99 2. Vốn tự bổ sung 31,9 31,9 31,9 II. Kết quả kinh doanh 1. Doanh thu 10.653,500 12.831,200 14.361,700 2. Lãi trước thuế 12,4 13,4 13,55 III.tổng mức nộp ngân sách 132,9 139,95 73,66 1. Thuế doanh thu 55 100 40 2. Thuế xuất nhập khẩu 11,5 12,4 14 3. Thuế sử dụng vốn + thuế đất 66,4 37,55 19,66 IV. Tổng nợ phải trả 14.354 13.403 14.414,25 1. Nợ ngân sáchch 424,6 422,3 426,5 2. Nợ ngân hàng 10.574,4 9.459,7 10.179,7 3. Nợ khác 3.355 3.521 3.808,05 V. tổng nợ phải thu 873,8 1.651,3 529,79 Theo Báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh của Công Ty Dệt Hải Phòng năm 1998 Như vậy là trong những năm qua doanh thu của doanh nghiệp không ngừng tăng nên ( so với năm 1996 năm 1997 tăng 20,4% và năm 1998 tăng 11.9% so với năm 1997 ). Năm 1998 doanh thu của công ty đạt trên 14 tỷ đồng, số lượng này nếu so với một công ty của trung ương thì quả thực là nhỏ nhưng so với một công ty địa phương như Công Ty Dệt Hải Phòng thì đây là cả một thành quả phấn đấu của tập thể cán bộ công nhân viên trong công ty. Tuy nhiên cùng với sự tăng lên không ngừng của doanh thu qua các năm thì khoản nợ của công ty cũng tăng lên đột biến trong năm 1997. Năm 1996 số nợ phải thu của công ty chỉ có 873,8 triệu đồng nhưng đến năm 1997 thì số nợ tăng lên đến 1.651,3 triệu đồng ( tăng 1,89 lần so với năm 1996 ), và đến năm 1998 số nợ phải thu của công ty chỉ còn là 529,79 triệu đồng ( giảm 68% so với năm 1997) ). Sở dĩ có tình trạng này là do năm 1997 có khủng hoảng kinh tế khu vực cho nên phía Nhật Bản chậm thanh toán cho công ty. Nhưng sang năm 1998 khi chỉ còn dư âm khủng hoảng cho nên số nợ này đã được thanh toán một phần. Nhưng bên cạnh số nợ phải thu thì số nợ phải trả của công ty cũng tương đối cao mà chủ yếu là nợ phải trả cho Ngân hàng và một phần nợ phải trả cho Ngân sách. Như vậy ta thấy cùng với số vốn Ngân sách và tổng số nợ phải trả thì nó đã chiếm gần hết số vốn của doanh nghiệp. Trong khi nhu cầu mở rộng sản xuất luôn luôn yêu cầu doanh nghiệp phải đáp ứng mà nguồn vốn tự bổ sung thường xuyên không thay đổi do đó chủ yếu nhờ vào nguồn vốn Ngân sách. Câu hỏi đặt ra ở dđây là tại sao nguồn vốn tự bổ sung của công ty là thường xuyên không tăng? Để trả lời cho câu hỏi này ta hãy quay lại bảng III thì ta thấy doanh thu sau khi đã trừ đi chi phí thì lãi còn rất ít ( năm 1996 là 12,4 triệu đồng, năm 1997 có 13,4 triệu đồng, năm 1998 là 13,55 tỷ đồng). Như vậy một điều dễ hiểu là không thể trích một phần lợi nhuận hàng năm của công ty ra để bổ sung vào vốn kinh doanh, và nếu mở rộng sản xuất thì chỉ có thể dựa vào vốn Ngân sách thành phố cấp. Mà thực tế khi cơ sở dệt kim được hoàn thành với tổng số vốn đầu tư xấp sỉ 90 tỷ đồng thì chủ yếu là do vốn của Ngân sách thành phố Hải Phòng cấp, còn vốn tự có của công ty hầu như không có. Công ty Dệt Hải Phòng tại cơ sở Dệt may do máy móc thiết bị không đồng bộ và có phần lạc hậu cho nên tỷ lệ phế phẩm tại đây là khá cao với mức gần 5%, và đây là một việc cần thiết phải khắc phục trong thời gian tới. Như ta thấy trong bảng III thì tỷ suất lợi nhuận doanh thu của công ty trong các năm qua được tính như sau: TP TD TPD = x 100% TPD = x 100% 12,4 10.653,500 TPD = x 100% = 0,116% Năm 1996 TPD = x 100% = 0,116% 13,4 12.831,200 x 100% = 0,104% TPD = Năm 1997 TPD = x 100% = 0,104% 13,55 14.361,700 x 100% = 0,09% TPD = Năm 1998 TPD = x 100% = 0,09% Với số liệuBảng trên cho ta thấy tuy là năm sau doanh thu luôn cao hơn năm trước nhưng tỷ suất lợi nhuận doanh thu của công ty lại có xu hướng giảm và thường xuyên thấp. Chính vì vậy trong thời gian tới công ty cần có biện pháp để khắc phục tình trạng trênnày để không những doanh thu tăng qua các năm mà tỷ suất lợi nhuận doanh thu cũng phải tăng tương ứng với mức tăng doanh thu. 24./ Tình hình xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng trong những năm qua. Tình hình xuất khẩu sản phẩm của Công Ty Dệt Hải Phòng từ khi thành lập tới nay tương đối đa dạng từ những thị trường của các nước XHCN cũ tới những thị trường như thị trường Nhật Bản ngày nay và sau nữa là thị trường các nước EU và Mỹ. Tuy một số thị trường mới chỉ là tiềm năng, song đây cũng là chiến lược để Công ty phấn đấu mở rộng thị trường trong tương lai. 24.1./ thị trường xuất khẩu của Công Ty Dệt Hải Phòng quá khứ, hiện tại và tương lai. Từ khi mới thành lập công ty chủ yếu xuất khẩu sang những thị trường các nước Xã hội Chủ nghĩa. Nhưng sau khi thị trường này không còn nữa đã đặt công ty vào một hoàn cảnh vô cùng kho khăn trong vấn đề thị trường tiêu thụ sản phẩm và đây cũng là một bước nhảy vọt trong quá trình phát triển của công ty. Bởi từ đây công ty có những thị trường mới tiềm năng hơn, hiệu quả hơn... đó chính là những thị trường hiện nay công ty có được. 24.1.1./ Cơ cấu mặt hàng và doanh thu xuất khẩu tại công ty Dệt Hải Phòng thời gian qua Với địa vị là một doanh nghiệp được phép xuất nhập khẩu trực tiếp thì việc tìm hiểu, nghiên cứu nhu cầu về sản phẩm của thị trường đối với một doanh nghiệp như Công Ty Dệt Hải Phòng là một việc làm hết sức quan trọng nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển của công ty. Vì vậy trong kế hoạch phát triển của mình công ty đã chủ động đề ra những chương trình hoạt động và chủ động thích nghi với những điều kiện thị trường thường xuyên thay đổi. Để làm được điều này, công ty thường xuyên làm tốt công tác Marketing nhằm đa dạng hoá sản phẩm và lựa chọn sản phẩm thích hợp xuất khẩu nhằm mang lại lợi nhuận cao nhất. Bởi công ty luôn xác định công tác Marketing là một trong những công tác quan trọng nhất giúp cho doanh nghiệp có được lợi thế trong cạnh tranh, là công cụ tốt nhất giúp cho công ty phục vụ những nhu cầu đa dạng của thị trường một cách có hiệu quả. Cũng nhờ công tác này mà công ty nhanh chóng nhận biết được sự thay đổi của thị trường, từ đó có những biện pháp thích nghi tốt hơn, nhằm mang lại hiệu quả hơn. Trong những năm đầu, khi mới thành lập công ty chủ yếu sản xuất mặt hàng khăn tắm cỡ 50 x 100 và 70 x 140 chủ yếu xuất khẩu sang các nước XHCN cũ mà chủ yếu là Liên Xô để thực hiện hiệp định ký kết giữa chính phủ Việt Nam và các nước bạn. Như vậy trong thời gian này công ty làm theo pháp lệnh không cần tìm hiểu, nghiên cứu thị trường. Nhưng kể từ khi hệ thống XHCN sụp đổ, thì thị trường này đi vào bế tắc, sản phẩm của công ty không xuất được sang nữa.Từ những năm 1994 đến nay do làm tốt công tác thị trường và đáp ứng tốt nhu cầu về sản phẩm, công ty đã lựa chọn và sản xuất những sản phẩm khăn ăn cỡ 28 x 28, 29 x 31, các loại khăn tắm cỡ 50 x 100, 70 x 140 để xuất khẩu sang thị trường Hungari và thị trường Tiệp khắc... Số lượng sản phẩm xuất khẩu sang những thị trường này không lớn lắm, nhưng nó là điều kiện để công ty xâm nhập vào các thị trường khác như thị trường Nhật Bản. Kể từ năm 1995 đến nay công ty chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản với các loại sản phẩm chủ yếu là khăn ăn với công nghệ tẩy sau các loại, kích cỡ 80 - 1, 100 - 1, 120 - 1... có chất lượng cao mẫu mã đẹp, đáp ứng tốt yêu cầu về độ mịn, độ dày và sự mềm mại. hàng năm số lượng sản phẩm xuất sang thị trường này đạt trên chục tỷ đồng. Sau đay là Ccơ cấu, doanh thu cũng như tỷ trọng hàng xuất khẩu sang từng thị trường của công ty trong thời gian qua được thể hiện như sau: Bảng IV: Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu qua các năm Đơn vị: 1.000.000đ Số lượng: Kg Năm Tên s.p 1997 1998 1999 Số lượng Giá trị % Số Lượng Giá trị % Số Lượng Giá trị % 80 –– 01 4.520 5.469 43,30 4.670 5.650,5 42,56 6.200 7.495,8 44,13 100 –– 01 4.000 4.840 38,32 4.200 4.920 36,82 5.530 6.690 39,38 120 –– 01 384 718 5,68 630 1.178 8,82 450 840,4 4,95 140 –– 01 352 748 5,92 300 638 4,48 470 998 5,88 50 –– 140 - 437,8 3,46 - 552,7 4,17 - 511,8 3,01 70 –– 140 - 418,2 3,32 - 421,5 3,15 - 451,3 2,56 Tổng - 12.631 100 - 13.361,7 100 - 16.987,3 100 Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 1999 Ghi chú: (-) Không có số liệu, tên sản phẩm 80-01, 100-01... là khăn ăn, tên sản phẩm 50-140, 70-140 là khăn tắm. Bảng trên cho ta thấy doanh thu thông qua hoạt động xuất khẩu của công ty luôn tăng qua các năm, ( năm 1999 đạt 16.987,3 triệu đồng tăng 34,5% so với 12.631 triệu đồng năm 1997 ). Tuy nhiên năm 1998 do dư âm của khủng hoảng kinh tế khu vực và trên thế giới đã ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng, mà thể hiện sâu đậm nhất là sự giảm sút của hoạt động xuất nhập khẩu. Nhật Bản là nước chịu ảnh hưởng rất lớn của khủng hoảng cho nên điều rễ dễ thấy là sự giảm sút trong tỷ trọng hàng xuất khẩu của doanh nghiệp trong đó có công ty Dệt Hải Phòng là không thể tránh khỏi. Cũng bảng trên cho ta thấy mặt hàng chủ lực của công ty chủ yếu là hai loại khăn ăn cỡ 80 - 01 (chiếm 43,30% tổng doanh thu xuất khẩu năm 1997, 42,56% năm 1998, và 44,13% năm 1999 ) và 100 - 01 ( chiếm tương ứng ba năm 1997, 1998, 1999 là 38,32%; 36,82% và 39,38%). Còn các mặt hàng khăn tắm chỉ là thứ yếu chiếm tỷ trọng rất khiêm tốn trong cơ cấu mặt hàng của công ty như khăn tắm cỡ 50 - 140 ( chiếm tương ứng trong ba năm 1997, 1998, 1999 là 5,923,46%; 4,4817% và 35,8801% ) khăn cỡ 70 - 140 thì lại càng chiếm một tỷ lệ khiêm tốn hơn ( chỉ chiếm tương ứng 3,32%; 3,15%; và 2,56% trong ba năm ). Tuy khủng hoảng kinh tế ảnh hưởng lớn đến tổng giá trị của hàng xuất khẩu của công ty nhưng một điều cũng cần ghi nhận là giá cả của hàng hoá của công ty không giảmbiến đổi nhiều mà tương đối ổn định như mặt hàng khăn ăn cỡ 80 - 01 tuy năm 1998 có giảm về tỷ trọng nhưng số lượng hàng vẫn tăng so với năm 1997 và giá vẫn giữ tại mức 1,209 triệu đồng một Kg sản phẩm so với năm 1997,, và cũng tương tự với những sản phẩm khác. 24.1.2./ Cơ cấu thị trường xuất khẩu tại công ty Dệt Hải Phòng. Từ khi mới thành lập công ty chủ yếu xuất khẩu sang những thị trường các nước Xã hội Chủ nghĩa cũ. Nhưng sau khi thị trường này không còn nữa đã đặt công ty vào một hoàn cảnh vô cùng kho khăn trong vấn đề thị trường tiêu thụ sản phẩm và đây cũng là một bước nhảy vọt trong quá trình phát triển của công ty. Bởi từ đây công ty có những thị trường mới tiềm năng hơn, hiệu quả hơn... đó chính là những thị trường hiện nay công ty có được như thị trường Nhật Bản luôn là thị trường chính của công ty thường chiếm trên 70% tổng giá trị xuất khẩu của công ty, EU là thị trường đứng thứ hai sau Nhật Bản thường chiếm khoảng 7% đến 8% trong tổng giá trị xuất khẩu của công ty và một số thị trường khác sẽ được đề cập Như trên đã đề cập thì hiện nay thị trường chủ yếu của công ty là những thị trường như: Nhật Bản, EU, thị trường nội địa và một số thị trường khác trong khu vực.... Sau đây là cơ cấu thị trường xuất khẩu của công ty trong thời gian qua:sau đây. Bảng V: Cơ cấu thị trường xuất khẩu tại công ty Dệt Hải Phòng thời gian qua Đơn vị: 1.000.000 đ STT Thị trường 1997 1998 1999 Giá trị % Giá trị % Giá trị % 1 Nhật Bản 9.662,7 76,50 9.807,5 73,40 13.250,1 78 2 EU 896,8 7,10 1.042,2 7,80 1.308 7,70 3 Thị trường khác 2.071,5 16,40 2512 18,80 2.429,2 14,30 4 Tổng 12.631 100 13.361,7 100 16.987,3 100 Nguồn: Công ty Dệt Hải Phòng năm 1999 Ghi chú: Thị trường khác bao gồm thị trường nội địa và một số thị trường các nước trong khu vực *Đặc điểm thị trường các nước Đông Âu (các nước XHCN cũ ) Đây là một thị trường tương đối dễ tính, nhu cầu đòi hỏi về chất lượng khăn tay không quá cao, kênh phân phối sản phẩm vào thị trường này gồm hai kênh chính. Thứ nhất là bán theo các hiệp định trả nợ hàng hoá được ký kết thông qua hiệp định ký kết giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ các nước bạn, sau đó hạn ngạch được phân bổ cho từng doanh nghiệp cho nên số lượng sản phẩm xuất khẩu phụ thuộc rất lớn vào việc đàm phán trả nợ giữa nước ta và bạn. Thứ hai là bán theo hình thức liên kết với các lưu học sinh Việt Nam ở nước ngoài, hình thức này đơn giản cả về điều kiện cơ sở giao hàng cũng như điều kiện về thanh toán, song bán theo hình thức này số lượng hàng hoá bán được rất nhỏ. Tuy nhiên gần đây ngành Dệt may Việt Nam nói chung cũng như công ty Dệt Hải Phòng nói riêng bị thu hẹp thị trường ở các nước này mà nguyên nhân chủ yếu do: + Các hiệp định trả nợ giữa nước ta với các nước trên được trả chủ yếu bằng các sản phẩm nông thuỷ sản, nên tỷ trọng ngành công nghiệp rất thấp. + Do không có chính sách bán hàng hợp lý (như chỉ chủ yếu bán hàng thông qua uỷ thác, bán hàng thông qua các lưu sinh viên Việt Nam tại thị trường nước ngoài), khôngchậm cải tiến mẫu mã mặt hàng... nên bị các sản phẩm cùng loại của Trung Quốc cạnh tranh đã chiếm mất thị trường, d. Do đó số lượng sản phẩm xuất khẩu vào các thị trường này của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và củatrong đó có Công Ty Dệt Hải Phòng nói riêng bị thu hẹp. + Do cơ chế cũng như phương thức thanh toán còn phức tạp như phải thanh toán thông qua các cơ quan uỷ thác, thông qua gián tiếp qua các sinh viên từ nước ngoài chuyểền về... Cho nên nó đã gây trở ngại cho việc giao nhận hàng hoá và thanh toán tiền hàng. - Kim ngạch xuất khẩu của công ty vào các thị trường này như sau: + Năm 1994 : 100.000 rúp + Năm 1995 : 150.000 rúp + Năm 1996 : 250.000 rúp + Từ năm 1997 đến nay: kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này không còn nữa do sự xụp đổ của hệ thống Xã hội Chủ nghĩa ở các nước trong khu vực trả nợ của Chính Phủ Việt Nam không sử dụng hàng công nghiệp nữa mà chuyển sang trả nợ bằng hàng nông lâm thuỷ sản này. * Thị trường Nhật Bản. Thị trường Nhật Bản là một thị trường nằm trong khu vực Châu á, và là một thị trường không hạn ngạch rất lớn với khoảng 124 triệu dân. Tổng GDP năm 1994 là 4.600 Tỷ USD. Thu nhập bình quân đầu người gần 40 nghìn USD là nước duy nhất trên thế giới không nợ nước ngoài và cũng là một trong ba thị trường lớn nhất hiện nay trên thế giới và là thị trường tiêu thụ hàng dệt may lớn thứ hai trên thế giới chỉ sau Mỹ. Trong khi đó chính phủ Nhật Bản lại không chú trọng vào việc sản xuất mặt hàng này mà chủ yếu chú trọng vào những mặt hàng chứa hàm lượng công nghệ cao. Do đó việc nhập khẩu vào thị trường này là rất lớn. Với hàng hoá nói chung và hàng dệt may Việt Nam nói riêng thì thị trường Nhật Bản là một thị trường nhập khẩu rất lớn và tiềm năng. Từ năm 1995 đến nay thị trường Nhật Bản là thị trường xuất khẩu hàng hoá chủ yếu của Công Ty Dệt Hải Phòng và kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này thường xuyên chiếm trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty qua các năm mà hình thức xuất khẩu chủ yếu của công ty sang thị trường này là hình thức xuất khẩu trực tiếp. Cụ thể được thể hiện trong bảng V (bảng cơ cấu thị trường xuất khẩu tại công ty Dệt Hải Phòng) cho thấy năm 1997 tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản chiếm 76,5% tổng mức hàng xuất khẩu của công ty. Năm 1998 chiếm 73,4% giảm 3,1% so với năm 1997, nhưng về số tuyệt đối thì lại tăng 144,8 triệu đồng. Năm 1999 tổng kim ngạch của công ty đã tăng trở lại là 78% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty, với số tuyệt đối là 13.250,1 triệu đồng tăng 35,4% so với năm 1998. Hiện nay, Nhật Bản đã chuyển sang nhập khẩu từ các nước đang phát triển thay vì phải nhập từ các nước phát triển ngày trước. Theo báo cáo tổng kết của Tổng công ty Dệt May Việt Nam (VinaTex) thì riêng sản phẩm khăn tay của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này đã chiếm hơn 60% kim ngạch xuất khẩu sản phẩm này của toàn ngành. Những khó khăn khi tham gia thâm nhập thị trường này là sự đòi hỏi cao về mặt chất lượng mà nhiều công ty Việt Nam hiện nay không đáp ứng được và nó cũng là khó khăn của Công Ty Dệt Hải Phòng về mặt chất lượng trong thời gian qua. Tóm lại, thị trường Nhật Bản là một thị trường đầy tiềm năng của công ty và trong thời gian tới công ty cần có biện pháp đáp ứng tốt hơn và đầy đủ hơn yêu cầu về số lượng cũng như chất lượng để duy trì và phát triển thị trường đầy tiềm năng này. Bởi Theo như nhận xét của vị trưởng phòng kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty thì hiện nay số lượng sản phẩm xuất sang các thị trường đặc biệt là thị trường Nhật Bản như vậy là chưa đáp ứng được nhu cầu của họ về mặt số lượng, mặc dù công ty luôn trong tình trạng sản xuất ba ca. *Đặc điểm thị trường các nước EU. Đây là thị trường rất khó tính, hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam muốn thâm nhập vào thị trường này đòi hỏi hàng hoá phải có chất lượng cao, đa dạng về mẫu mã. Ngoài ra, số lượng hàng dệt may muốn vào thị trường này phải được sự quản lý giám sát của ủy ban kiêểm tra hàng nhập khẩu của EU thông qua các mức hạn ngạch mà thị trường này cấp cho. Nếu như hàng hoá xuất sang thị trường này vượt mức hạn ngạch được cấp thì số hàng hoáđó sẽ bị lưu vào trong kho chờ mức hạn ngạch năm sau. Tuy nhiên bù lại hàng bán vào các nước này giá thường cao, phương thức thanh toán thuận tiện. Thực tế qua nhiều năm cho thấy các doanh nghiệp chiếm lĩnh và phát triển ổn định ở thị trường này đều là các doanh nghiệp có công nghệ tiên tiến, sản xuất sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã luôn thay đổi phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này của Công Ty Dệt Hải Phòng qua các năm rất khiêm tốn chỉ chiếm xấp xỉ 7 - 8% năm những năm gần đây cụ thể được thể hiện trên bảng V là 7,1% năm 1997, 7,8% năm 1998 và 7,7% năm 1999 trong tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty. Tại sao lại có tình trạng trên trong khi thị trường EU là thị trường rộng lớn và tiềm năng như vậy.? Bởi sản phẩm của Công ty chưa đáp ứng được đòi hỏi về chất lượng mà thị trường này đặt ra cùng với đó là công tác Maketing của công ty khi xâm nhập thị trường còn kém, chưa phù hợp. Mà một lý do lớn tạo nên kim ngạch của công ty thấp kém như vậy trên thị trường này là do số lượng thành phẩm của công ty chưa đủ đáp ứng cho yêu cầu của thị trường Nhật Bản. Cho nên sản phẩm sản xuất ra, công ty chủ yếu đáp ứng nhu cầu của thị trường này mànên chưa có nhu cầu mở rộng thị trường. * Thị trường Mỹ. Hiện nay với thị trường này sản phẩm của công ty chưa có chỗ đứng. Trong khi đó Mỹ là một thị trường tiêu thụ rộng lớn vào loại nhất thế giới, nên việc có một sản phẩm tốt, với giá cạnh tranh muốn bán vào thị trường này chưa hẳn là điều dễ dàng vì đây là một thị trường khổng lồ có nhiều đối thủ cạnh tranh cũng đang cố gắng thâm nhập và bán sản phẩm của họ. Cho nên sản phẩm của công ty chỉ có thể thâm nhập vào thị trường này chỉ khi mà sản phẩm của cơ sở Dệt kim ra đời mà thôi. Bên cạnh đó thị trường này lại là thị trường đòi hỏi rất cao về mặt chất lượng. Đối với sản phẩm dệt thì đây là một thị trường rộng lớn đầy hứa hẹn bởi nó là một thị trường tiêu thụ sản phẩm dệt may rất lớn mà ngành này không đáp ứng đủ nhu cầu. Thị trường này lại được chia ra làm hai loại: một loại cao cấp là loại hàng hoá thị trường này nhập về để tiêu dùng nội địa và một loại cấp thấp là loại hàng hoá họ nhập về nhằm mục đích là tái xuất chứ không phải để tiêu dùng. Hàng hoá vào thị trường này có một số thuận lợi là chịu thuế suất rất thấp nhưng đó là dành cho các nước đã ký kết hiệp định thương mại với Mỹ hoặc là thành viên của WTO. Còn một số nước trong đó có Việt Nam vẫn phải chịu mức thuế cao.Trong tương lai không xa, khi chính phủ Việt Nam đàm phán thành công với phía Mỹ thì khi đó hiệp định thương mại Việt - Mỹ sẽ được thành lập và hàng hoá Việt Nam vào thị trường Mỹ sẽ được hưởng quy chế “Tối Huệ Quốc” và như vậy thuế suất sẽ chỉ bằng hàng hoá của các nước khác, đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp sản xuất hàng Dệt may nói riêng đủ sức cạnh tranh với hàng hoá của các nước khác. Như vậy hiện nay khi chúng ta đang trong thời gian đàm phán với phía Mỹ thì các doanh nghiệp trong đó có Công Ty Dệt Hải Phòng phải chuẩn bị cho mình những kế hoạch như nghiên cứu thị trường, sử dụng những biện pháp tiếp thị, tìm hiểu hệ thống pháp luật, tập quán tiêu dùng... của thị trường để nhanh chóng xâm nhập thị trường này khi điều kiện cho phép. * Thị trường Nhật Bản. Thị trường Nhật Bản là một thị trường nằm trong khu vực Châu á, và là một thị trường không hạn ngạch rất lớn với khoảng 124 triệu dân. Tổng GDP năm 1994 là 4.600 Tỷ USD. Thu nhập bình quân đầu người gần 40 nghìn USD là nước duy nhất trên thế giới không nợ nước ngoài và cũng là một trong ba thị trường lớn nhất hiện nay trên thế giới và là thị trường tiêu thụ hàng dệt may lớn thứ hai trên thế giới chỉ sau Mỹ. Trong khi đó chính phủ Nhật Bản lại không chú trọng vào việc sản xuất mặt hàng này mà chủ yếu chú trọng vào những mặt hàng chứa hàm lượng công nghệ cao. Do đó việc nhập khẩu vào thị trường này là rất lớn. Với hàng hoá nói chung và hàng dệt may Việt Nam nói riêng thì thị trường Nhật Bản là một thị trường nhập khẩu rất lớn và tiềm năng. Từ năm 1995 đến nay thị trường Nhật Bản là thị trường xuất khẩu hàng hoá chủ yếu của Công Ty Dệt Hải Phòng và kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này thường xuyên chiếm đến xấp xỉ 78% tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty qua các năm mà hình thức xuất khẩu chủ yếu của công ty sang thị trường này là hình thức xuất khẩu trực tiếp. Cụ thể được thể hiện trong bảng V (bảng cơ cấu thị trường xuất khẩu tại công ty Dệt Hải Phòng) cho thấy năm 1997 tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản chiếm 76,5% tổng mức hàng xuất khẩu của công ty. Năm 1998 chiếm 73,4% giảm 3,1% so với năm 1997, nhưng về số tuyệt đối thì lại tăng 144,8 triệu đồng. Năm 1999 tổng kim ngạch của công ty đã tăng chở lại là 78% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty, với số tuyệt đối là 13.250,1 triệu đồng tăng 35,4% so với năm 1998. Hiện nay, Nhật Bản đã chuyển sang nhập khẩu từ các nước đang phát triển thay vì phải nhập từ các nước phát triển ngày trước. Theo báo cáo tổng kết của Tổng công ty Dệt May Việt Nam (VinaTex) thì riêng sản phẩm khăn tay của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này đã chiếm hơn 60% kim ngạch xuất khẩu sản phẩm này của toàn ngành. Những khó khăn khi tham gia thâm nhập thị trường này là sự đòi hỏi cao về mặt chất lượng mà nhiều công ty Việt Nam hiện nay không đáp ứng được và nó cũng là khó khăn của Công Ty Dệt Hải Phòng về mặt chất lượng trong thời gian qua. Tóm lại, thị trường Nhật Bản là một thị trường đầy tiềm năng của công ty và trong thời gian tới công ty cần có biện pháp đáp ứng tốt hơn và đầy đủ hơn cả yêu cầu về số lượng cũng như chất lượng để duy trì và phát triển thị trường đầy tiềm năng này. 24.23./ Nội dung thực hiện hợp đồng xuất khẩu tại công ty Dệt Hải Phòng. Quá trình thực hiện một hợp đồng xuất khẩu nói chung của các doanh nghiệp nó gồm 10 công việc sau: đồ II: quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu Mua bảo hiểm cho hàng hoá Kiểm tra hàng xuất khẩu Làm thủ tục hải quan Giao hàng nên tàu Làm thủ tục thanh toán Giải quyết tranh chấp nếu có Đôn đốc và kiểm tra L/C Xin giấy phép XK Chuẩn bị hàng XK Uỷ thác thuê tàu Sở dĩ phòng kinh doanh xuất nhập khẩu phải thực hiện nhiện vụ làm thủ tục thanh toán là bởi vì công ty không có phòng thanh toán quốc tế. Trên đây về lý thuyết thì đó là những bước chính trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Nhưng thực tế tại Công Ty Dệt Hải Phòng, một số bước có thể bỏ qua bởi vì nó đã được tiến hành ngay khi ký kết hợp đồng giữa công ty và bên đối tác Nhật Bản (Hiện nay thị trường này là nơi nhập khẩu chính của công ty còn một số thị trường nhập khẩu khác không đề cập ở đây). Như trong bước một thì việc đôn đốc nhà nhập khẩu mở L/C và kiểm tra L/C đó là không cần thiết bởi vì bên đối tác luôn mở một tài khoản tại Ngân Hhàng Đầu tTư PPhát triển Hải Phòng cho công ty là người hưởng lợi, và khi tiến hành giao hàng song công ty đem thu nộp bộ hồ sơ, chứng từ cho Ngân hHàng, và Ngân hHàng có trách nhiệm kiểm tra so sánh nó với hợp đồng cũng như với L/C vvà chuyển bộ hồ sơ chứng từ đó cho phía đối tác nếu được đối tác chấp nhận thanh toán thì sau 10 ngày là công ty có thể nhận được tiền hàng. Bước hai là bước xin giấy phép xuất khẩu hàng hoá: Thì công ty cũng không cần tiến hành bởi công ty là doanh nghiệp được phép xuất nhập khẩu trực tiếp cho nên giấy phép xuất khẩu đã được thành phố cấp từ trước. Bước thứ ba là thuê phương tiện vận chuyển và bước thứ tư là mua bảo hiểm cho hàng hoá: Thì theo kế hoạch giao hàng là 10 ngày một chuyến công ty vận chuyển hàng bằng Congtener ra cảng Hải Phòng giao cho Cảng vụ, và từ đó giao cho Tàu Chợ chuyên chở sang cảng của phía Nhật Bản chỉ định, và công ty làm một phiếu báo bắt đầu chuyên chở báo cho công ty Bảo Hiểm và được họ cấp cho một giấy chứng nhận bảo hiểm. Còn các bước sau công ty phải tiến hành bình thường theo luật định. Như vậy, trong quá trình thực hiện hợp đồng công ty Dệt Hải Phòng gặp rất nhiều thuận lợi nhất là trong quá trình thanh toán, cũng như giao hàng bởi công ty gặp được một khách hàng tiêu thụ lớn như Nhật Bản cho nên việc thanh toán được hoàn tất chỉ sau 10 ngày sau khi giao nộp bộ hồ sơ chúng thực hàng đã giao. Nhưng bên cạnh đó thì khó khăn của công ty là không có phòng thanh toán quốc tế cho nên phòng Kinh doanh xuất nhập khẩu phải đảm nhận hết do đó nhiều khi gặp phải tình trạng chậm trong vấn đề chuẩn bị hồ sơ giao hàng, dẫn đến nhiều khi chậm thanh toán do trực tiếp phía công ty tạo ra.g. 42.3./ Mặt hàng xuất khẩu Với địa vị là một doanh nghiệp được phép xuất nhập khẩu trực tiếp thì việc tìm hiểu, nghiên cứu nhu cầu về sản phẩm của thị trường đối với một doanh nghiệp như Công Ty Dệt Hải Phòng là một việc làm hết sức quan trọng nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển của công ty. Vì vậy trong kế hoạch phát triển của mình công ty đã chủ động đề ra những chương trình hoạt động và chủ động thích nghi với những điều kiện thị trường thường xuyên thay đổi. Để làm được điều này, công ty thường xuyên làm tốt công tác Marketing nhằm đa dạng hoá sản phẩm và lựa chọn sản phẩm thích hợp xuất khẩu nhằm mang lại lợi nhuận cao nhất. Bởi công ty luôn xác định công tác Marketing là một trong những công tác quan trọng nhất giúp cho doanh nghiệp có được lợi thế trong cạnh tranh, là công cụ tốt nhất giúp cho công ty phục vụ những nhu cầu đa dạng của thị trường một cách có hiệu quả. Cũng nhờ công tác này mà công ty nhanh chóng nhận biết được sự thay đổi của thị trường, từ đó có những biện pháp thích nghi tốt hơn, nhằm mang lại hiệu quả hơn. Trong những năm đầu, khi mới thành lập công ty chủ yếu sản xuất mặt hàng khăn tắm cỡ 50 x 100 và 70 x 140 chủ yếu xuất khẩu sang các nước XHCN cũ mà chủ yếu là Liên Xô để thực hiện hiệp định ký kết giữa chính phủ Việt Nam và các nước bạn. Như vậy trong thời gian này công ty làm theo pháp lệnh không cần tìm hiểu, nghiên cứu thị trường. Nhưng kể từ khi hệ thống XHCN sụp đổ, thì thị trường này đi vào bế tắc, sản phẩm của công ty không xuất được sang nữa.Từ những năm 1994 đến nay do làm tốt công tác thị trường và đáp ứng tốt nhu cầu về sản phẩm, công ty đã lựa chọn và sản xuất những sản phẩm khăn ăn cỡ 28 x 28, 29 x 31, các loại khăn tắm cỡ 50 x 100, 70 x 140 để xuất khẩu sang thị trường Hungari và thị trường Tiệp khắc... Số lượng sản phẩm xuất khẩu sang những thị trường này không lớn lắm, nhưng nó là điều kiện để công ty xâm nhập vào các thị trường khác như thị trường Nhật Bản. Kể từ năm 1995 đến nay công ty chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Nhật Bbản với các loại sản phẩm chủ yếu là khăn ăn với công nghệ tẩy sau các loại, kích cỡ 80 - 1, 100 - 1, 120 - 1... có chất lượng cao mẫu mã đẹp, đáp ứng tốt yêu cầu về độ mịn, độ dày và sự mềm mại. hàng năm số lượng sản phẩm xuất sang thị trường này đạt trên chục tỷ đồng. Theo như nhận xét của vị trưởng phòng kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty thì hiện nay số lượng sản phẩm xuất sang các thị trường đặc biệt là thị trường Nhật Bản như vậy là chưa đáp ứng được nhu cầu của họ về mặt số lượng, mặc dù công ty luôn trong tình trạng sản xuất ba ca. Chính vì vậy Uỷ Ban Nhân Dân thành phố Hải Phòng cùng tập thể cán bộ công ty quyết định thành lập cơ sở hai II để chuẩnyển bị cho mở rộng sang thị trường mới là thị trường Mỹ và EU một phần đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng Nhật Bản. Cùng với việc ngày càng mở rộng sản xuất và xuất khẩu thì thị trường Nhật Bản hiện nay là nơi tiêu thụ chính sản phẩm của công ty và cũng là nơi đóng góp chủ yếu vào doanh thu hàng năm của công ty. 24.43 Đánh giá chung về hoạt động xuất khẩu của công ty dệt Hải Phòng trong thời gian qua. Sau một thời gian nghiên cứu và tìm hiểu về công tác sản xuất và xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng cho ta thấy được một số những mặt làm được cũng như những mặt còn tồn tại cần phải tìm nguyên nhân và giải pháp như sau:: Thứ nhất: Ta đề cập đến những mặt làm tốt của công ty trong thời gian qua. Sau khi nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, Công Ty Dệt Hải Phòng không còn được nhà nước bao tiêu sản phẩm nữa mà phải chuyển sang hạch toán kinh doanh lấy thu bù chi để tồn tại và phát triển. Đứng trước sự chuyển biến này công ty vấp phải rất nhiều khó khăn do không tìm được thị trường tiêu thụ sản phẩm, máy móc thiết bị cũng như dây chuyền công nghệ của công ty đã lạc hậu, sản phẩm sản xuất ra không đáp ứng được nhu cầu của thị trường, tưởng rằng công ty khó vượt qua và phải đi đến phá sản như nhiều công ty khác. Nhưng cùng với sự cố gắng của cán bộ công nhân viên trong công ty, cũng như sự mạnh dạn đầu tư đúng hướng, công ty đã thay thế những máy móc thiết bị lạc hậu thành những máy móc thiết bị mới hoàn chỉnh và đồng bộ hơn. Do đó từ những năm 1996 sản phẩm của công ty đã có sự đột biến lớn về chất lượng cũng như mẫu mã đủ sức cạnh tranh trên thị trường, tạo cho công ty có được thị phần trên cả thị trường trong nước và nước ngoài, giúp cho doanh thu cũng như doanh thu trong hoạt động xuất khẩu của công ty không ngừng tăng lên, đồng lưưong của cán bộ công nhân viên không ngừng tăng lên trong những năm vừa qua mà thực tế đã cho ta thấy thông qua bảng tổng kết doanh thu ở trên. Ngoài ra một mặt nữa chúng ta cũng phải thừa nhận là trong thời gian hình thành và phát triển, công ty đã thành công trong việc trẻ hoá đội ngũ cán bộ điều hành công ty, đào tạo được những cán bộ lành nghề. Tuy còn thiếu nhưng đã giúp ích rất lớn cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty và công ty cũng thường xuyên có kế hoạch cũng như tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên có cơ hội để đào tạo lại cũng như tự đào tạo lại để phù hợp với những công việc mới. . Phần trên cũng cho ta thấy nhờ có được hàng hoá có chất lượng cao và tổ chức tốt công tác tiêu thụ mà cụ thể là công tác Marketing quốc tế mà thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty không ngừng được mở rộng. Từ việc được nhà nước bao tiêu sản phẩm mà công ty có được thị trường các nước Đông Âu XHCN cho đến khi không còn thị trường nào do không được nhà nước bảo trợ về tiêu thụ sản phẩm. Nhờ làm tốt công tác Marketing mà thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty được mở rộng sang thị trường Mỹ, thị trường EU, mà đặc biệt là thị trường Nhật Bản... Trên đây là một số những mặt làm tốt của Công Ty Dệt Hải Phòng trong thời gian qua, nhưng bên cạnh đó thì những mặt còn tồn tại vẫn là những trở ngại mà yêu cầu trong thời gian tới công ty phải cố gắng khắc phục và vượt qua. Thứ hai: Những mặt còn hạn chế trong công tác xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng. Năm 199535 tuy công ty (tại cơ sở 151B Niệm Nghĩa) tiến hành đầu tư thay thế nhiều máy móc thiết bị nhưng những dây chuyền công nghệ này không phải là loại tiên tiến nhất mà phần lớn là do Trung Quốc và Liên Xô (cũ ) sản xuất, cho nên đến nay rất nhiều máy móc bị lạc hậu như 90 máy Dệt ATM của Liên Xô, các loại máy mắc, máy Đảo se..của Trung Quốc. Hiện nay, công ty có một số thiết bị được sản xuất năm 1968 nên trong quá trình sản xuất phát sinh rất nhiều nhược điểm cho sản phẩm, thiết bị thường xuyên bị hư hỏng dẫn đến năng suất lao động trong công ty bị giảm, nhiều vật tư bị hao phí, tỷ lệ phế phẩm cao thường chiếm đến gần 5%, cho nên giá thành sản phẩm xuất khẩu bị đẩy lên cao, chi phí kiển tra sản phẩm cũng như chi phí sửa chữa lại sản phẩm phát sinh làm cho công ty trong một số trường hợp bị mất uy tín với khách hàng như trường hợp khách hàng nhập khẩu phía Nhật Bản năm 1999 khiếu lại với công ty một lô hàng có quá nhiều sản phẩm không đủ tiêu chuẩn, buộc công ty phải giảm giá và mất nhiều chi phí cho việc thương lượng họ mới chịu chấp nhận lô hàng đó. Bên cạnh sự lạc hậu về máy móc thiết bị thì hiện tại công ty còn thiếu nhiều loại máy móc khác như máy dệt Jắcka... cho nên trong một số trường hợp có những mặt hàng khách hàng yêu cầu mà công ty không thể đáp ứng được. Một khó khăn nữa được coi là khó khăn chung cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay cũng như Công Ty Dệt Hải Phòng là tình trạng thiếu cán bộ làm công tác kỹ thuật và cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu lành nghề, có kinh nghiệm. Thêm vào đó là tình trạng khó khăn trong công tác chiếm lĩnh thị trường. Tuy thời gian qua nhờ đẩy mạnh công tác này mà công ty có cơ hội tìm kiến được thị trường xuất khẩu hiện nay. Nhưng như ta thấy qua phân tích ở trên thì thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty chủ yếu là thị trường Nhật Bản mà mặt hàng chủ yếu là khăn ăn các loại. Các thị trường khác tuy công ty có sản phẩm xuất khẩu sang như thị trường Mỹ, thị trường EU đầy tiềm năng thì công ty chỉ xuất khẩu sang một lượng rất ít như thị trường EU chỉ chiếm khoảng 8% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty, còn thị trường Mỹ vẫn là tiềm năng. Vậy nguyên nhân này do đâu? do công tác tiếp thị làm kém hay sản phẩm của công ty không đủ khả năng về chất lượng, mẫu mã không đa dạng hay không đủ số lượng để thâm nhập vào thị trường mới? Theo đánh giá của cán bộ phòng kinh doanh xuất nhập khẩu thì hiện tại số lượng sản phẩm mà cơ sở dệt may sản xuất ra mặc dù đã làm suốt ngày đêm ( 3 ca ) nhưng vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu của khách hàng, cộng vào đó là công ty chưa có chiến lược xuất khẩu thích hợp với từng đoạn thị trường cho nên việc thâm nhập các thị trường tiềm năng như đề cập trên cần phải hoàn thiện thêm và chờ đến khi cơ sở dệt kim đi vào hoạt động thì sản phẩm của nó mới đủ khả năng đáp ứng nhu cầu của các thị trường trên. chương III: một số giải pháp để nâng cao hiệu quả xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng I./ Giải pháp từ tầm vi mô - cấp doanh nghiệp. 1./ thay đổi mẫu mã, chất lượng sản phẩm nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. C ùng với sự đi lên của đời sống kinh tế xã hội thì yêu cầu về chất lượng sản phẩm ngày càng nâng cao, nhất là đối với những nước phát triển. Họ không những chỉ đòi hỏi một sản phẩm có chất lượng cao mà sản phẩm đó phải có mẫu mã đẹp phù hợp với thị hiếu người tiên dùng. Ngoài ra, yêu cầu của người tiêu dùng còn là sự hợp lý về giá cả, phương thức phục vụ... Chính vì thế trong thời gian tới Công Ty Dệt Hải Phòng phải có biện pháp nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, cải tiến mẫu mã sản phẩm cũng như đa dạng hoá sản phẩm để đáp ứng nhu cầu mọi mặt của người tiêu dùng, và cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường. Bởi hiện nay khoa học kỹ thuật phát triển nhanh thì chu kỳ sống của sản phẩm bị rút gắn, sản phẩm cũng nhanh chóng trở nên lỗi thời cho nên việc thay đổi sản phẩm là một việc cần thiết luôn luôn cần phải chú ý để sản phẩm của công ty luôn có sức mạnh trên thị trường. Mà hiện nay tại Công Ty Dệt Hải Phòng (cơ sở I-bên dệt vải ) máy móc thiết bị đã lạc hậu, sản phẩm bị nhiều lỗi kỹ khuật và tỷ lệ phế phẩm cao cho nên công nghệ này không còn đủ khả năng đáp ứng nhu cầu về chất lượng của người tiêu dùng. Chính vì thế nên đôi khi vẫn bị khiếu nại về chất lượng sản phẩm. Do đó để đáp ứng về yêu cầu sản phẩm xuất khẩu trong thời gian tới công ty cần đầu tư thay đổi dây chuyền công nghệ, tích cực đầu tư cho đào tạo và đào tạo cán bộ kỹ thuật cũng như cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu để từ đó công ty có thể sản xuất ra những sản phẩm có giá thành hạ, mẫu mã đẹp...Trong khi đó nâng cao chất lượng sản phẩm thì cũng đồng nghĩa với việc tăng khối lượng sản phẩm, như vậy sẽ đáp ứng được đòi hỏi về mặt số lượng của khách hàng Nhật Bản cũng như những thị trường khác trong thời gian tới. Còn về cơ sở II ( Bên dệt kim ) thì như trên đã cho ta biết, công nghệ cũng như máy móc thiết bị chủ yếu là của các nước Nhật, Đức, Đài Loan... chúng là những thiết bị hiện đại cho nên trong thời gian tới khi đi vào sản xuất, công ty cần phải có kế hoạch đăng ký xin gia nhập tổ chức Tiêu Chuẩn quốc tế mà trực tiếp là ISO 9002 có như vậy sản phẩm của công ty mới đủ khả năng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng về vấn đề chất lượng và tạo điều kiện thuận lợi để vượt qua hàng rào bảo vệ về chất lượng của các nước nhập khẩu khó tính. 2./ hạ giá thành sản phẩm. Để có một sản phẩm có sức mạnh trên thị trường, thì sản phẩm không những chỉ có chất lượng tốt mẫu mã đẹp, đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng mà sản phẩm đó phải có một giá thành hợp lý. Chính vì thế trong thời gian tới công ty cần có biện pháp nhằm giảm giá thành sản phẩm đến mức có thể. Sau đây là một số biện pháp nhằm giảm giá thành sản phẩm: 2.1./ Khai thác tốt nguồn nguyên liệu đầu vào. Khác với những ngành khác, đối với ngành dệt may để hình thành nên giá thành sản phẩm thì giá cả nguyên vật liệu chiếm đến 90%. Chính vì thế trong thời gian tới yêu cầu đặt ra cho Công Ty Dệt Hải Phòng là phải khai thác tốt nguồn nguyên liệu đầu vào để giảm giá thành sản phẩm đầu ra. Hiện nay nguồn nguyên liệu của công ty chủ yếu do hai nguồn cung cấp: đó là nguồn nhập trực tiếp từ các doanh nghiệp trong nước và nguồn nhập khẩu từ các nước ngoài. Nguồn từ các doanh nghiệp trong nước được cung cấp bởi các công ty như nhà máy sợi Nha Trang, Huế, công ty dệt Nam Định, công ty dệt Hà Nội... Còn nguồn nhập khẩu là từ các nước như Trung Quốc, Hồng koông, ấn Độ... Hai nguồn này giá cả tương đối ổn định và nói chung thì ngang bằng nhau nhưng cũng có khi do tác động của tỷ giá hối đoái mà có sự chênh lệch. Do đó công ty cần xác định nguồn nhập chính và có giá thấp nhất để giảm giá cả đầu vào từ đó giảm thành sản phẩm đầu ra. 2.2./ Giảm chi phí sản xuất, và chi phí lưu thông. Chi phí sản xuất và chi phí lưu thông là hai khoản mục quyết định đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí sản xuất hình thành nên giá thành sản phẩm còn chi phí lưu thông quyết định đến lãi suất của doanh nghiệp. Chi phí lưu thông bao gồm cả hai loại chi phí là chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Chính vì thế để giảm giá thành sản phẩm cũng như nâng cao hiệu quả công tác tiêu thụ sản phẩm mà đó chính là công tác xuất khẩu. Công ty cần có biện pháp như tiết kiệm chi phí sản xuất, giảm thiểu chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp trong đó có chi phí trung gian. 2.3./ Giảm định mức tiêu hao nguyên vật liệu. Trong mọi doanh nghiệp sản xuất mức tiêu hao vật tư luôn luôn là nội dung quan trọng của công tác quản lý, một định mức đúng sẽ là căn cứ cấp phát hợp lý, là cơ sở hạch toán giá thành sản phẩm được chính xác.Có hai phương pháp để giảm định mức tiêu hao vật tư: + Giảm định mức tiêu hao nguyên vật liệu cụ thể cho từng sản phẩm, phương pháp này trong quá trình thực hiện nên áp dụng bằng cách tiết kiệm tránh lãng phí vật tư. Chẳng hạn khi hồ một chục sợi mới hiện nay công ty phải mất 10 sợi đầu bị loại bỏ trong khi đó mỗi trục sợi bao gồm khoảng vài trục chục nghìn sợi thì như vậy mức hao tốn là bao nhiêu? Do đó, để tránh hiện trạng này công ty phải bố trí các cặp hồ được liên tục thì như vậy sẽ tránh sự tổn thất trên, hoặc khi nên máy dệt một loại sản phẩm mới (Thay sản phẩm này bằng một sản phẩm khác) thông thường bị mất đi 3 Kg sợi đầu mành ( sợi không ra s

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKQ22.doc
Tài liệu liên quan