Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao doanh thu và tiết kiệm chi phí tại công ty Điện máy – xe đạp – xe máy

Tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao doanh thu và tiết kiệm chi phí tại công ty Điện máy – xe đạp – xe máy: mở đầu Mỗi doanh nghiệp khi tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh đều hướng tới một mục tiêu duy nhất đó là lợi nhuận, làm thế nào để nâng cao lợi nhuận? Đây là mục tiêu hàng đầu mà các nhà quản trị tài chính luôn hướng tới. Nâng cao doanh thu và sử dụng tiết kiệm chi phí chính là hai nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc tăng giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Nâng cao doanh thu chính là góp phần gia tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Mặt khác doanh thu là kết quả của quá trình tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp trên thị trường, vì vậy doanh thu càng lớn chứng tỏ khả năng cạnh tranh, nhạy bén trong kinh doanh của doanh nghiệp càng cao. Quan trọng hơn, tăng doanh thu còn giúp doanh nghiệp tạo thêm thu nhập cho người lao động và thực hiện được đầy đủ các nghĩa vụ với Nhà nước. Muốn tối đa hoá lợi nhuận, bên cạnh việc nâng cao doanh thu đòi hỏi các nhà tài chính doanh nghiệp phải quản trị chi phí sao cho chi phí luôn giữ ở mức thấp nhất. Sử dụng tiết kiệm chi phí, là một trong những y...

doc92 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1299 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao doanh thu và tiết kiệm chi phí tại công ty Điện máy – xe đạp – xe máy, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở đầu Mỗi doanh nghiệp khi tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh đều hướng tới một mục tiêu duy nhất đó là lợi nhuận, làm thế nào để nâng cao lợi nhuận? Đây là mục tiêu hàng đầu mà các nhà quản trị tài chính luôn hướng tới. Nâng cao doanh thu và sử dụng tiết kiệm chi phí chính là hai nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc tăng giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Nâng cao doanh thu chính là góp phần gia tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Mặt khác doanh thu là kết quả của quá trình tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp trên thị trường, vì vậy doanh thu càng lớn chứng tỏ khả năng cạnh tranh, nhạy bén trong kinh doanh của doanh nghiệp càng cao. Quan trọng hơn, tăng doanh thu còn giúp doanh nghiệp tạo thêm thu nhập cho người lao động và thực hiện được đầy đủ các nghĩa vụ với Nhà nước. Muốn tối đa hoá lợi nhuận, bên cạnh việc nâng cao doanh thu đòi hỏi các nhà tài chính doanh nghiệp phải quản trị chi phí sao cho chi phí luôn giữ ở mức thấp nhất. Sử dụng tiết kiệm chi phí, là một trong những yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp hạ thấp giá thành sản phẩm, từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện tốt việc tiêu thụ sản phẩm, giúp cho sản phẩm của doanh nghiệp dễ dàng đến tay người tiêu dùng. ý thức được tầm quan trọng của hai yếu tố doanh thu và chi phí đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, Công ty Điện máy - xe đạp – xe máy từ khi thành lập đến nay, đặc biệt là khi nên kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, đã từng bước khắc phục khó khăn, tạo được những bước tiến nhất định. Mặc dù vậy trong thời gian vừa qua, công ty đã vấp phảI không ít những khó khăn trong công tác quản trị doanh thu và chi phí do chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố đã làm cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có thời gian lâm vào tình trạng thua lỗ, kinh doanh kém hiệu quả. Đứng trước những vấn đề nan giản này buộc ban lãnh đạo công ty phải tìm cách “Làm thế nào để nâng cao doanh thu, từng bước nâng cao lợi nhuận, quản trị chi phí một cách có hiệu quả? ” từ đó giúp công ty tồn tại và phát triển. Xuất phát từ tầm quan trọng của việc nâng cao doanh thu, tiết kiệm chi phí đối với các doanh nghiệp nói chunh và công ty Điện máy – xe đạp – xe máy nói riêng trong giai đoạn hiện nay cùng với sự giúp đữ của các thầy cô giáo và các cô chú trong công ty. Sau thời gian thực tập tại công ty Điện máy – xe đạp – xe máy em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao doanh thu và tiết kiệm chi phí tại công ty Điện máy – xe đạp – xe máy” làm đề tàI cho luận văn tốt nghiệp của mình. Ngoài lời nói đầu và phần kết luận, luận văn được chia thành ba chương: Chương I: Tổng quan về doanh thu và chi phí của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Chương II: Thực trạng quản trị doanh thu và chi phí trong hoạt động kinh doanh tại công ty Điện máy – xe đạp – xe máy Chương III: Một số giả pháp nhằm nâng cao doanh thu và tiết kiệm chi phí tại công ty Điện máy - xe đạp – xe máy. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo: TS. Lê Thanh Hoài, cùng các thầy cô giáo đã giúp đỡ hướng dẫn em hoàn thành luận văn này. Em xin chân thành cảm ơn các bác, các cô chú trong phòng tàI chính kế toán đã giúp đỡ em trong quá trình thực tập tại công ty. Chương I Tổng quan về doanh thu và chi phí đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 1.1 Lý luận chung về doanh thu và chi phí: 1.1.1 Lý luận chung về doanh thu: 1.1.1.1 Khái niệm doanh thu: Trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp muốn tạo ra lợi nhuận cao buộc các doanh nghiệp không ngừng đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá. Qua tiêu thụ, sản phẩm được chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái vật chất và kết thúc một vòng luân chuyển vốn, tạo nên doanh thu của doanh nghiệp. Có tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp mới có vốn để tiến hành tái sản xuất mở rộng, tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Ngoài phần doanh thu do tiêu thụ những sản phẩm doanh nghiệp sản xuất ra, còn bao gồm những khoản doanh thu do các hoạt động khác mang lại. Vậy thực chất doanh thu là gì? Chúng ta có thể đưa ra khái niệm về doanh thu như sau: “Doanh thu là toàn bộ các khoản tiền thu được từ các hoạt động kinh doanh và các hoạt động khác mang lại.” Nguyên tắc chung tính doanh thu: chỉ tính khi người bán hàng thu được tiền về trên tài khoản hoặc trong ngân quỹ của doanh nghịêp, nhưng ở Việt Nam doanh thu được tính khi có lời hứa trả tiền. Điều này phụ thuộc vào đặc tính sản xuất và tình hình sản xuất kinh doanh thực tế ở nước ta. Sở dĩ doanh nghịêp Việt Nam được tính doanh thu theo nguyên tắc này là do 4 nguyên nhân sau: - Do doanh nghiệp mua hàng thiếu tiền mặt - Do chưa tin vào hàng hoá mình mua - Do muốn chiếm dụng tiền hàng hoá - Do nhà sản xuất kinh doanh muốn bán hàng nhanh để thu hồi vốn Thông thường doanh thu được tính theo phương pháp phân tích, theo phương pháp này các doanh nghiệp phải phân tích các yếu tố tạo thành doanh thu trước khi tính. Ta có công thức xác định doanh thu như sau: Doanh thu =Sti x Gi Trong đó: Sti: Sản lượng tiêu thụ trong kì Gi: Giá bán sản phẩm Như trên đã nói, do tình hình sản xuất kinh doanh thực tế ở nước ta nên thời điểm xác định doanh thu là khi người mua chấp nhận thanh toán, không phụ thuộc đã thu tiền hay chưa thu tiền. Do đó ta có chỉ tiêu doanh thu bán hàng không hoàn toàn nhất trí với chỉ tiêu tiền thu bán hàng, bởi nó phụ thuộc vào thời gian thanh toán giữa hai bên. Chỉ tiêu tiền thu bán hàng được xác định như sau: Tiền thu bán hàng kì này = Doanh thu bán hàng kì này – Doanh thu bán hàng kì này, kì sau mới thu tiền + Doanh thu bán hàng kì trước, thu được tiền ở kì này Việc phân biệt sự khác nhau giữa hai chỉ tiêu trên có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tính toán chính xác nguồn thu và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. 1.1.1.2 Nội dung của doanh thu: Trong nền kinh tế thị trường sôi động như hiện nay, phạm vi kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng mở rộng, doanh nghiệp có thể đầu tư vào rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Do vậy, doanh thu mà mỗi doanh nghiệp thu được cũng đa dạng theo các phương thức đầu tư của doanh nghiệp. Doanh thu của doanh nghiệp bao gồm có 3 loại doanh thu: doanh thu hoạt động kinh doanh, doanh thu hoạt động tài chính, doanh thu bất thường. Doanh thu hoạt động kinh doanh là toàn bộ các khoản doanh thu về tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Đây là bộ phận chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh thu của doanh nghiệp. Theo sự phân công lao động xã hội, chức năng chủ yếu của doanh nghiệp thương mại là mua bán, trao đổi hàng hoá từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng. Vì vậy hoạt động kinh doanh cơ bản của doanh nghiệp thương mại là luân chuyển hàng hoá. Do vậy, đối với doanh nghiệp thương mại, doanh thu tiêu thụ sản phẩm là bộ phận doanh thu quan trọng nhất, nó biểu hiện bằng tiền giá trị sản phẩm hàng hoá và dịch vụ mà doanh nghiệp đã thực hiện, đã cung cấp cho thị trường trong một thời kì nhất định sau khi trừ đi các khoản giảm trừ như: chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại, hoặc cộng thêm các phần trợ giá của Nhà nước. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm là nguồn tài chính quan trọng để doanh nghiệp trang trải các khoản chi phí về công cụ lao động, đối tượng lao động đã hao phí trong quá trình sản xuất kinh doanh, trang trải số vốn đã ứng ra cho sản xuất kinh doanh, thanh toán tiền lương, tiền thưởng, tiền công cho người lao động, trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn, thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước như nộp các khoản thuế theo luật định. Doanh thu về các hoạt động tài chính bao gồm: các khoản thu do hoạt động tài chính hoặc kinh doanh về vốn mang lại như lãi liên doanh liên kết, lãi tiền cho vay, nhượng bán ngoại tệ, mua bán chứng khoán, cho thuê hoạt động tài sản, hoàn nhập dự phòng giảm giá chứng khoán. Doanh thu hoạt động bất thường: là những khoản doanh thu không mang tính chất thường xuyên, như doanh thu về thanh lý, nhượng bán tài sản cố định, giá trị các vật tư, tài sản thừa trong sản xuất, các khoản nợ vắng chủ, hoặc nợ không ai đòi, hoàn nhập dự phòng giảm giá hàng tồn kho, nợ khó đòi… 1.1.2 Lý luận chung về chi phí: 1.1.2.1 Khái niệm, phân loại chi phí: * Khái niệm Trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải bỏ ra rất nhiều các loại chi phí để đạt được các mục tiêu kinh doanh. Các chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra trước hết là các chi phí cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là các chi phí cho hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong quá trính sản xuất các doanh nghiệp phải tiêu hao các loại vật tư, nguyên vật liệu, hao mòn máy móc, công cụ dụng cụ, trả tiền lương cho công nhân viên. Như vậy có thể thấy chi phí sản xuất của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ các hao phí về vật chất và về lao động mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất sản phẩm trong một thời kì nhất định. Các chi phí này phát sinh có tính chất thường xuyên và gắn liền với sản xuất nên gọi là chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Trong quá trình tiêu thụ, doanh nghiệp cũng phải bỏ ra những chi phí nhất định bao gồm chi phí trực tiếp đến việc tiêu thụ sản phẩm và chi phí Marketing (đóng gói, bao bì, vận chuyển, chi phí bảo hành, nghiên cứu thị trường…). Tất cả những loại chi phí liên quan đến quá trình tiêu thụ được gọi là chi phí tiêu thụ. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, ngoài tiến hành các hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp còn tiến hành nhiều hoạt động khác như góp vốn liên doanh, mua bán chứng khoán, cho thuê tài sản để tăng lợi nhuận. Để thực hiện được các hoạt động này đòi hỏi doanh nghiệp cũng phải bỏ ra những khoản chi phí nhất định, được gọi là chi phí cho các hoạt động khác Ngoài các chi phí trên doanh nghiệp còn phải nộp những khoản tiền thuế gián thu cho nhà nước theo luật thuế đã quy định như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu… Đối với doanh nghiệp những khoản thuế trên là những chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra trong kinh doanh vì thế nó mang tính chất như là một khoản chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy nếu nhìn từ góc độ của doanh nghiệp thì ta có thể đưa ra định nghĩa về chi phí như sau: “Chi phí của doanh nghiệp là toàn bộ tất cả các khoản chi phí cho hoạt động kinh doanh, cho hoạt động khác, và các khoản thuế gián thu mà doanh nghiệp phải bỏ ra để thực hiện các hoạt động của doanh nghiệp trong một thời kì nhất định.” Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải luôn quan tâm đến việc quản lí chi phí, vì nếu quản lí chi phí không tốt, không hợp lí sẽ gây ra những khó khăn trong công tác quản trị doanh nghiệp, làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Do đó các nhà quản trị doanh nghiệp cần chú ý công tác kiểm soát hợp lí các nguồn chi phí và hạn chế đến mức tối đa lãng phí chi phí. * Nội dung của chi phí Trong hoạt động kinh doanh thương mại, nội dung chi phí gồm có chi phí cho hoạt động kinh doanh và chi phí cho các hoạt động khác. - Chi phí cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm: + Chi phí nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu: bao gồm toàn bộ giá trị nguyên liệu, vật liệu doanh nghiệp sử dụng vào hoạt động kinh doanh + Chi phí tiền lương: bao gồm toàn bộ tiền lương doanh nghiệp phải trả cho người lao động tham gia vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. + Các khoản trích nộp theo quy định như: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn được trích theo quỹ lương của doanh nghiệp. + Khấu hao tài sản cố định: là toàn bộ số tiền trích khấu hao tài sản cố định trích theo quy định đối với toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp ở trong kì + Chi phí dịch vụ mua ngoài: là chi phí phải trả cho các cá nhân, tổ chức ngoài doanh nghiệp về các dịch vụ được thực hiện theo yêu cầu của doanh nghiệp. + Chi phí bằng tiền khác: là các khoản chi phí khác ngoài các chi phí trên như thuế sử dụng đất, thuế môn bài… - Chi phí hoạt động khác của doanh nghiệp gồm: + Chi phí hoạt động tài chính như: các chi phí liên doanh liên kết, chi phí cho thuê tài sản, chi phí mua bán chứng khoán, dự phòng giảm giá chứng khoán, chênh lệch tỷ giá ngoại tệ, lãi phải trả cho số vốn huy động… + Chi phí hoạt động bất thường như: chi phí cho việc thanh lý nhượng bán tài sản, các chi phí thu hồi nợ khó đòi, các khoản tiền bị phạt vi phạm hợp đồng, các chi phí bất thường khác. * Phân loại chi phí: Chi phí của doanh nghiệp bao gồm rất nhiều loại chi phí khác nhau. Để phục vụ cho công tác quản lý, hạch toán, kiểm tra và phân tích hiệu quả việc sử dụng chi phí, tìm các biện pháp tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm cần phải tiến hành phân loại chi phí theo những tiêu thức nhất định. Có rất nhiều tiêu thức phân loại chi phí khác nhau, tuy nhiên xin được đề cập ở đây ba tiêu thức phân loại chính đó là: phân loại chi phí theo nội dung kinh tế, phân loại chi phí theo công dụng kinh tế và địa điểm phát sinh chi phí, phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí với quy mô sản xuất kinh doanh. - Phân loại chi phí theo nội dung kinh tế: phân loại chi phí theo nội dung kinh tế là ta căn cứ vào đặc điểm kinh tế giống nhau của chi phí để sắp xếp chúng vào từng loại. Mỗi loại là một yếu tố chi phí có cùng nội dung kinh tế và không thể phân chia được nữa, bất kể chi phí đó dùng làm gì và phát sinh ở địa điểm nào. Theo cách phân loại này thì toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được chia làm 5 loại: + Chi phí vật tư : là toàn bộ giá trị vật tư dùng vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế… + Chi phí tiền lương và các khoản trích theo lương + Chi phí khấu hao tài sản cố định + Chi phí dịch vụ mua ngoài + Chi phí khác bằng tiền Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp lập được dự toán chi phí sản xuất theo yếu tố, kiểm tra sự cân đối giữa kế hoạch cung cấp vật tư, kế hoạch lao động tiền lương, kế hoạch khấu hao TSCĐ, kế hoạch nhu cầu vốn lưu động. - Phân loại chi phí theo công dụng kinh tế và địa điểm phát sinh chi phí: Theo cách phân loại này, những khoản chi phí có cùng công dụng kinh tế và địa điểm phát sinh sẽ được xếp vào cùng một loại, gọi là các khoản mục chi phí. Các khoản mục chi phí đó bao gồm: + Chi phí vật liệu trực tiếp: chi phí về nguyên vật liệu, nhiên liệu, dụng cụ sản xuất trực tiếp dùng vào quá trình chế tạo sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. + Chi phí nhân công trực tiếp: các khoản tiền lương, tiền công, các khoản phụ cấp có tính chất lương, các khoản chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn của công nhân trực tiếp sản xuất trong doanh nghiệp. + Chi phí sản xuất chung: là các khoản chi phí được sử dụng ở các phân xưởng, bộ phận kinh doanh như: tiền lương, phụ cấp lương của nhân viên phân xưởng, chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí vật liệu, công cụ dụng cụ, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí bằng tiền phát sinh ở bộ phận phân xưởng, bộ phận sản xuất. + Chi phí bán hàng (CPBH): bao gồm chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ như chi phí tiền lương phải trả cho nhân viên bán hàng, chi phí vận chuyển, bảo quản, tiếp thị, các chi phí bằng tiền khác… + Chi phí quản lí doanh nghiệp (CPQLDN): là các chi phí chi cho bộ máy quản lí doanh nghiệp, các chi phí liên quan đến hoạt động chung của doanh nghiệp như khấu hao tài sản cố định phục vụ cho bộ máy quản lí, chi phí công cụ dụng cụ và các chi phí khác (tiền lương trả cho Ban giám đốc, Hội đồng quản trị…)phát sinh ở phạm vi toàn doanh nghiệp, các khoản thuế, lệ phí bảo hiểm, chi phí dịch vụ mua ngoài, thuộc văn phòng doanh nghiệp… Cách phân loại này có tác dụng giúp doanh nghiệp tập hợp chi phí và tính giá thành cho từng loại sản phẩm, quản lí chi phí theo từng địa điểm phát sinh, nhờ đó doanh nghiệp có thể kiểm soát được việc sử dụng chi phí, khai thác được khả năng hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. - Phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí với quy mô sản xuất kinh doanh: Theo cách phân loại này chi phí sản xuất kinh doanh được chia làm hai loại đó là chi phí cố định và chi phí biến đổi. + Chi phí cố định (gọi tắt định phí): là các khoản chi phí không biến đổi khi tổng mức luân chuyển tăng lên hay giảm xuống. Đó là các khoản chi phí chi phí khấu hao tài sản cố định (theo thời gian), chi phí tiền lương, lãi tiền vay phải trả, chi phí thuê tài sản văn phòng. + Chi phí biến đổi (gọi tắt biến phí): là các khoản chi phí tăng lên hay giảm xuống khi tổng mức luân chuyển tăng lên hay giảm xuống. Ví dụ: chi phí tiền lương, chi phí hoa hồng, chi phí mua hàng, chi phí vận chuyển bốc dỡ hàng hoá… Do đặc điểm của từng loại chi phí, nên khi quy mô sản xuất kinh doanh càng tăng thì chi phí cố định tính cho 1 đơn vị sản phẩm hàng hoá, dịch vụ càng giảm. Riêng đối với chi phí biến đổi việc tăng hoặc giảm hay không đổi khi tính chi phí này cho 1 đơn vị sản phẩm còn phụ thuộc vào sự tương quan biến đổi giữa quy mô sản xuất kinh doanh và tổng chi phí biến đổi của doanh nghiệp. Để quản lý tốt chi phí, ngoài phân loại chi phí các doanh nghiệp cần phải xem xét cơ cấu chi phí sản xuất để định hướng thay đổi tỷ trọng mỗi loại chi phí sản xuất. Cơ cấu chi phí sản xuất là tỷ trọng giữa các yếu tố chi phí trong tổng số chi phí sản xuất. Các doanh nghiệp trong cùng một ngành và giữa các ngành khác nhau có cơ cấu chi phí sản xuất khác nhau. Cơ cấu chi phí sản xuất chịu tác động của nhiều nhân tố như: loại hình và quy mô sản xuất của từng doanh nghiệp, trình độ kỹ thuật, trang thiết bị, điều kiện tự nhiên, công tác tổ chức, năng lực quản lý, trình độ tay nghề của công nhân v..v… Nghiên cứu cơ cấu chi phí sản xuất nhằm: Thứ nhất, xác định tỷ trọng và xu hướng thay đổi của từng yếu tố chi phí sản xuất. Thứ hai, kiểm tra giá thành sản xuất và có biện pháp hạ giá thành sản phẩm. Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được xu hướng biến đổi của từng loại chi phí theo quy mô kinh doanh,. 1.1.2.2 Giá thành sản phẩm của doanh nghiệp: * Khái niệm giá thành sản phẩm Nghiên cứu chi phí sản xuất chưa cho ta biết lượng chi phí cần thiết cho việc hoàn thành sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm nhất định. Hơn nữa trong hoạt động sản xuất kinh doanh, khi quyết định lựa chọn phương án kinh doanh một loại sản phẩm nào đó doanh nghiệp cần tính đến lượng chi phí bỏ ra để sản xuất, tiêu thụ sản phẩm đó. Do vậy doanh nghiệp cần xác định chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Vậy giá thành sản phẩm là gì? “Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ chi phí của doanh nghiệp để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ 1 đơn vị sản phẩm hay một loại sản phẩm nhất định.” Giá thành sản phẩm biểu hiện chi phí cá biệt của doanh nghiệp để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Qua nghiên cứu ta thấy rằng giữa giá thành sản phẩm và chi phí sản xuất có sự giống nhau và khác nhau. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm giống nhau đều là một khoản chi phí của doanh nghiệp, đều là một yếu tố đầu vào tham gia vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên hai chỉ tiêu này khác nhau về mặt nội dung, ý nghĩa và phương pháp tính toán. Về mặt nội dung: Giá thành sản phẩm biểu hiện lượng chi phí để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ 1 đơn vị hay một khối lượng sản phẩm nhất định. Còn chi phí sản xuất biểu hiện toàn bộ những chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong một thời kì nhất định. Cách tính: CPSX = Chi phí KH TSCĐ (C1) + Nguyên nhiên vật liệu (C2) + Chi phí tiền lương, bảo hiểm + Chi phí khác Z SP = C1 + C2 + Tiền lương, bảo hiểm + Chi phí khác + Chi phí quản lí phân xưởng Trong đó: Z SP: giá thành sản phẩm Về mặt ý nghĩa: - Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu chất lượng phản ánh kết quả kinh doanh trong kì, là cơ sở để xây dựng chính sách giá cả, đồng thời chỉ tiêu giá thành sản phẩm là căn cứ xây dựng chỉ tiêu giá trị sản lượng hàng hoá. Nó phản ánh số lượng sản phẩm đã sản xuất xong trong kì. - Chi phí sản xuất là phản ánh số tiền mà doanh nghịêp đã chi ra cho sản xuất trong kì, từ đó là cơ sở để xây dựng chỉ tiêu giá trị tổng sản lượng (chỉ tiêu số lượng) Trong phạm vi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm có thể phân biệt giá thành sản xuất sản phẩm và giá thành toàn bộ sản phẩm. Giá thành sản xuất sản phẩm bao gồm toàn bộ chi phí của doanh nghiệp bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất sản phẩm. Giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ bao gồm giá thành sản xuất của sản phẩm hàng hóa đã tiêu thụ và các khoản chi phí cho việc bán hàng và chi phí quản lí doanh nghiệp. Trên góc độ kế hoạch hoá, giá thành sản phẩm của doanh nghiệp được phân biệt giữa giá thành kế hoạch và giá thành thực tế. Giá thành kế hoạch là giá thành dự kiến thực hiện trong kì kế hoạch, còn giá thành thực tế phản ánh các chi phí đã thực hiện trong kì báo cáo. * Nội dung giá thành sản phẩm, dịch vụ: Nội dung giá thành sản xuất của sản phẩm và dịch vụ bao gồm: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung. Trong đó : Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (CF NVLTT): chi phí về nguyên vật liệu sử dụng trực tiếp cho việc chế tạo ra sản phẩm, dịch vụ. Chi phí nhân công trực tiếp (CF NCTT): chi phí về tiền lương, các khoản trích nộp theo lương của công nhân trực tiếp tạo ra sản phẩm mà doanh nghiệp phải nộp theo quy định. Chi phí sản xuất chung (CF SXC): chi phí sử dụng cho hoạt động chế biến của phân xưởng trực tiếp tạo ra sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Bao gồm chi phí vật liệu, công cụ lao động nhỏ, khấu hao tài sản cố định ở phân xưởng, tiền lương trả cho nhân viên phân xưởng và các khoản trích nộp theo quy định, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền phát sinh ở phân xưởng. Công thức tính giá thành sản xuất: Z sx = CF NVLTT + CF NCTT + CF SXC + Chênh lệch giá trị SP dở dang Chênh lệch giá trị sản phẩm dở dang đầu kì = Giá trị sản phẩm dở dang đầu kì – Giá trị sản phẩm dở dang cuối kì Nội dung giá thành toàn bộ của sản phẩm dịch vụ tiêu thụ bao gồm: - Giá thành sản xuất của sản phẩm dịch vụ tiêu thụ - Chi phí bán hàng: là toàn bộ chi phí liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ. - Chi phí quản lý: là toàn bộ các chi phí cho bộ máy quản lí và điều hành doanh nghiệp và các chi phí chung khác có liên quan đến toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 1.2 Lập kế hoạch doanh thu và kế hoạch giá thành sản phẩm: 1.2.1 Lập kế hoạch doanh thu: Doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, dịch vụ là một chỉ tiêu tài chính quan trọng, nó cho ta biết khả năng tiêu thụ sản phẩm cũng như khả năng tiếp tục quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp. Do đó hàng năm doanh nghiệp đều phải lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, trên cơ sở đó xác định số doanh thu về tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ trong năm. Kế hoạch lập doanh thu này có ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh nghiệp vì kế hoạch này lập có tính chính xác hay không, có ảnh hưởng tới kế hoạch lợi nhuận và các kế hoạch khác hay không… Do vậy doanh nghiệp cần quan tâm và không ngừng cải tiến việc lập chỉ tiêu kế hoạch này. Kế hoạch này được lập ra có mối liên hệ chặt chẽ với kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp và có mối quan hệ trực tiếp doanh nghiệp sản xuất với khách hàng. Kế hoạch doanh thu giúp cho các nhà quản lí doanh nghiệp có kế hoạch tổ chức kinh doanh tiêu thụ sản phẩm, đề ra những biện pháp hữu hiệu để thực hiện thành công mục tiêu. Mặt khác biết trước quy mô doanh thu sẽ đạt được giúp cho doanh nghiệp chủ động trong công tác tiêu thụ sản phẩm, phân bổ chi phí hợp lí. Ngày nay, căn cứ phổ biến để lập kế hoạch doanh thu bán hàng là dựa vào các đơn đặt hàng, hợp đồng kinh doanh đã được kí kết với các đối tác và tình hình thị trường. Mặt khác, doanh nghiệp cần phải thông qua việc phân tích điểm hoà vốn, để xác định mức doanh thu với khối lượng và thời gian sản xuất, tức là doanh nghiêp đạt được mức hoà vốn, đồng thời đưa ra các kết luận cần thiết đối với từng mặt hàng như khối lượng hàng hoá tiêu thụ, giá bán tối ưu là bao nhiêu để đạt mức doanh thu dự tính. Công thức tính doanh thu hoà vốn: DTHV = Lập kế hoạch doanh thu về cơ bản gồm 2 phần: lập kế hoạch doanh thu từ các hoạt động kinh doanh, lập kế hoạch doanh thu từ các hoạt động khác. 1.2.1.1 Lập kế hoạch doanh thu từ hoạt động kinh doanh: Đây là kế hoạch doanh thu đối với tiền bán sản phẩm hàng hoá, dịch vụ hoặc khoản phải thu từ phần trợ giá của nhà nước nếu doanh nghiệp thực hiện việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ theo yêu cầu của nhà nước. Đối với doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, căn cứ vào số lượng sản phẩm tiêu thụ và giá bán đơn vị sản phẩm kì kế hoạch để xác định. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm được xác định theo công thức tính doanh thu ở trên. Nếu doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm thì cần tính được doanh thu tiêu thụ của từng loại sản phấm sau đó tổng hợp lại đoanh thu tiêu thụ của sản phẩm trong kì kế hoạch. Các chỉ tiêu kế hoạch: + Số lượng sản phẩm tiêu thụ trong kì kế hoạch được xác định theo công thức sau: Sti = Sđi + Sxi – Sci Trong đó: Sti: số lượng sản phẩm tiêu thụ trong kì kế hoạch Sđi: số lượng sản phẩm kết dư dự tính đầu kì kế hoạch Sxi: số lượng sản phẩm sản xuất trong kì kế hoạch Sci: số lượng sản phẩm kết dư dự tính cuối kì kế hoạch i: loại sản phẩm + Số lượng sản phẩm tiêu thụ đầu kì kế hoạch bao gồm hai bộ phận đó là số lượng sản phẩm tồn kho năm trước và số lượng sản phẩm đã xuất kho cho khách hàng nhưng khách hàng chưa thanh toán. Do doanh thu tiêu thụ sản phẩm thường được lập vào quý IV của năm báo cáo nên số lượng sản phẩm tiêu thụ dự kiến đầu kì kế hoạch phải được dự tính theo công thức sau: Sđ = SC3 + SX4 – S T4 Trong đó: SC3 : số sản phẩm kết dư thực tế cuối quý III năm Báo cáo SX4: số sản phẩm kết dư sản xuất trong quý IV năm báo cáo ST4: số sản phẩm dự tính tiêu thụ trong quý IV năm báo cáo + Số lượng sản phẩm tiêu thụ dự tính cuối năm kế hoạch được xác định căn cứ vào số kết dư thực tế cuối kì bình quân của từng loại sản phẩm trong các năm trước. Kết hợp những số liệu về số kết dư đầu kì kế hoạch và những số liệu về số kết dư cuối kì kế hoạch, ta lập bảng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp như sau: Bảng 1.1: Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm năm N+1 Tên sản phẩm Đơn vị tính Dư đầu kì Sản xuất trong kì Dư cuối kì Tiêu thụ trong kì Giá bán đơn vị (1000đ) Doanh thu bán hàng 1 2 3 4 5 6=3+4- 5 7 8=6x7 1.2.1.2 Lập kế hoạch doanh thu từ các hoạt động khác: Bên cạnh việc lập kế hoạch doanh thu từ hoạt động kinh doanh thì doanh nghiệp cũng phải lập kế hoạch doanh thu từ các hoạt động khác: như hoạt động về các loại chứng khoán có giá( cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu…), các hoạt động từ cho thuê tài sản cố định, thu từ hoạt động liên doanh…Kế hoạch này cũng đóng một vai trò quan trọng đối với kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy doanh nghiệp cần dựa vào những điều kiện cụ thể của mình để dự tính kế hoạch doanh thu từ các hoạt động này cho phù hợp. 1.2.2 Lập kế hoạch giá thành sản phẩm- dịch vụ: Nếu như lập kế hoạch doanh thu có ý nghĩa quan trọng đối với doanh nghiệp trong việc tổ chức kinh doanh tiêu thụ hàng hoá, trang trải các chi phí một cách có hiệu quả, thì lập kế hoạch giá thành có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với doanh nghiệp trong công tác quản lí chi phí, hạ giá thành sản phẩm để tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Xác định kế hoạch giá thành nhằm khai thác mọi khả năng tiềm tàng để giảm bớt chi phí sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Đây là một trong những tiêu chí hàng đầu của các doanh nghiệp nhằm nâng cao lợi nhuận, mở rộng tái sản xuất, tăng thêm sản phẩm tiêu thụ, từ đó đề ra chính sách giá cả hợp lí với tình hình sản xuất tại doanh nghiệp cũng như nhu cầu của người tiêu dùng. Bảng 3.1: Giá thành đơn vị các loại sản phẩm của doanh nghiệp STT Khoản mục Sản phẩm A Sản phẩm B Sản phẩm C 1 2 3 4 5 6 7 Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Chi phí nhân công trực tiếp Chi phí sản xuất chung Giá thành sản xuất của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ Chi phí bán hàng Chi phí quản lý doanh nghiệp Giá thành của toàn bộ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đã tiêu thụ Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp muốn kinh doanh có lãi thì buộc các doanh nghiệp phải quan tâm tới việc giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, vì đây là yếu tố tiên quyết quyết định việc tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp. Từ việc lập kế hoạch giá thành, doanh nghiệp tiếp tục xây dựng chỉ tiêu hạ giá thành sản phẩm để tạo điều kiện tốt cho việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, cũng như tạo được lợi thế cho doanh nghiệp trong cạnh tranh, từ đó doanh nghiệp có thể hạ giá bán đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ. Hạ giá thành sản phẩm trong kì xác định cho những sản phẩm so sánh được thông qua 2 chỉ tiêu: Mức giảm giá thành, tỷ lệ hạ giá thành sản phẩm. - Mức giảm giá thành: Mz = Qti (Z1i - Z0i) Trong đó: Mz: Mức hạ giá thành của sản phẩm so sánh được S1i: Lượng sản phẩm loại i kì kế hoạch Z1i: Giá thành sản phẩm loại i kì kế hoạch Z0i: Giá thành sản phẩm loại i kì gốc n: Số loại sản phẩm so sánh được - Tỷ lệ hạ giá thành sản phẩm so sánh được: Tz = (Tz: tỷ lệ hạ giá thành SP so sánh được) Bảng 2.1: Kế hoạch hạ giá thành của những sản phẩm hàng hoá so sánh được STT Các chỉ tiêu Đơn vị tính Ước thực hiện năm Kế hoạch năm 1 2 3 4 5 Giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá Tỷ lệ giữa giá thành của sản phẩm hàng hoá so sánh được so với giá thành của toàn bộ SLHH Sản lượng hàng hoá so sánh được năm nay - Tính theo giá thành năm trước - Tính theo giá thành năm nay Mức hạ giá thành sản lượng hàng hoá so sánh được Tỷ lệ hạ giá thành sản lượng hàng hoá so sánh được Muốn xây dựng được chỉ tiêu giá thành kế hoạch theo khoản mục, trước hết phải xác định được giá thành đơn vị sản phẩm. Cách xác định giá thành đơn vị sản phẩm như sau: - Đối với khoản mục độc lập ( khoản mục trực tiếp) như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, được tính bằng cách lấy định mức tiêu hao cho 1 đơn vị sản phẩm nhân với đơn giá kế hoạch. - Đối với khoản mục chi phí tổng hợp (chi phí gián tiếp) như chi phí sản xuất chung, chi phí bán hàng, chi phí quản lí doanh nghiệp, trước hết phải lập dự toán chung sau đó lựa chọn tiêu chuẩn thích hợp để phân bổ cho mỗi đơn vị sản phẩm. 1.3 Nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu, chi phí của doanh nghiệp: 1.3.1 Nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu: Như đã nói ở phần trên (1.1.1) doanh thu có một vai trò quan trọng trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy việc phấn đấu nhằm nâng cao doanh thu đối với các doanh nghiệp thương mại luôn là vấn đề cần thiết. Tuy nhiên liệu doanh nghiệp có thể đạt được kết quả như mong muốn hay không lại phụ thuộc vào phương hướng, các biện pháp cụ thể của từng doanh nghiệp. Có rất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến chỉ tiêu doanh thu, có nguyên nhân ảnh hưởng tích cực nhưng cũng có những nguyên nhân ảnh hưởng tiêu cực. Để công tác quản trị doanh thu đạt hiệu quả, doanh nghiệp cần phải đi sâu phân tích các mặt tác động của từng nhân tố. Nguyên nhân ảnh hưởng đến doanh thu bao gồm năm nguyên nhân chủ yếu sau: khối lượng sản phẩm tiêu thụ, chất lượng sản phẩm tiêu thụ, giá cả sản phẩm, thị trường tiêu thụ, kết cấu mặt hàng tiêu thụ. - Khối lượng sản phẩm tiêu thụ: Đây là một nhân tố có tác động trực tiếp đến doanh thu. Số lượng sản phẩm tiêu thụ càng nhiều thì khả năng tăng doanh thu càng lớn. Mặt khác khối lượng tiêu thụ chịu ảnh hưởng trực tiếp của khối lượng sản xuất, khối lượng sản xuất càng lớn thì khả năng tăng doanh thu cũng càng lớn. Muốn doanh thu tăng đòi hỏi các nhà quản trị tài chính phải khéo léo trong công tác tổ chức tiêu thụ sản phẩm, kí kết các hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với khách hàng, vận chuyển thanh toán tiền hàng… - Chất lượng sản phẩm: Chất lượng sản phẩm ảnh hưởng rất lớn đến doanh thu của doanh nghiệp, đồng thời đây cũng là một nhân tố quan trọng để nhằm duy trì uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Chất lượng sản phẩm tỷ lệ thuận với doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Khi chất lượng sản phẩm cao sẽ làm cho người tiêu dùng tin tưởng, do vậy sản phẩm sẽ dễ dàng được tiêu thụ, doanh nghiệp sẽ nhanh chóng thu được tiền hàng. Ngược lại, khi chất lượng sản phẩm thấp, không đúng với yêu cầu của đơn đặt hàng thì khách hàng sẽ từ chối thanh toán, sản phẩm bị ứ đọng, muốn tiêu thụ được số sản phẩm này doanh nghiệp buộc phải sử dụng biện pháp như giảm giá sản phẩm, việc này sẽ làm giảm mức doanh thu. Doanh nghiệp muốn tạo được thế đứng trên thị trường thì yêu cầu đầu tiên đó là doanh nghiệp phải tạo ra được những sản phẩm có chất lượng tốt để phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng, xây dựng lòng tin của khách hàng vào sản phẩm của mình, có như vậy doanh nghiệp mới có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp khác. Chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vào cách tổ chức chế biến, bảo quản kịp thời, khoa học với các công nghệ kĩ thuật hiện đại thì có thể làm tăng được số lượng sản phẩm có chất lượng cao. - Kết cấu mặt hàng sản phẩm tiêu thụ: Mỗi doanh nghiệp đều tự xây dựng riêng cho mình một chiến lược mặt hàng sản phẩm tiêu thụ phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp mình cũng như đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Có doanh nghiệp chỉ lựa chọn sản xuất một loại sản phẩm nhất định, nhưng cũng có doanh nghiệp lựa chọn viếc sản xuất nhiều loại sản phẩm. Đặc biệt trong điều kiện khi nền kinh tế thị trường phát triển, nhiều doanh nghiệp lựa chọn hình thức kinh doanh nhiều loại mặt hàng cũng là một nhu cầu tất yếu. Mục đích việc đa dạng hoá kinh doanh nhằm phân tán rủi ro vào các mặt hàng, các lĩnh vực kinh doanh khác nhau, bảo đảm hành lang an toàn cho các hoạt động kinh doanh, cũng như sự ổn định về doanh thu, và tận dụng tối đa cơ sở vật chất kĩ thuật và nguồn lực lao động của doanh nghiệp. Việc thay đổi kết cấu mặt hàng tiêu thụ cũng ảnh hưởng đến sự tăng giảm doanh thu, cho nên việc phấn đấu tăng doanh thu của doanh nghiệp cần đảm bảo công tác thực hiện tốt kế hoạch sản xuất mặt hàng mà doanh nghiệp cho là chiến lược. - Giá cả sản phẩm: Trong cơ chế thị trường, một trong những nhân tố tác động đến kết quả doanh thu của doanh nghiệp chính là giá cả. Việc định giá sản phẩm phải căn cứ vào giá thành và quan hệ cung cầu trên thị trường. Một mặt hàng đem bán ở những thị trường khác nhau, ở những thời điểm khác nhau, thậm chí cùng một thời điểm thì giá bán cũng khác nhau. Ví dụ đối với mặt hàng mới, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng thì doanh nghiệp bán ở giá cao, ngược lại một sản phẩm đã lạc hậu thì phải bán ở giá thấp để đảm bảo thu hồi vốn để chuyển sang kinh doanh mặt hàng mới. Do vậy việc xây dựng chính sách giá cả cần mềm dẻo và linh hoạt vì sự thay đổi giá bán sản phẩm có ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu. Doanh nghiệp cần sử dụng giá cả như một công cụ tác động vào cầu, kích thích tăng cầu của người tiêu dùng như: quảng cáo, khuyến mại… - Thị trường tiêu thụ, phương thức thanh toán: Thị trường tiêu thu cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến kết quả doanh thu của doanh nghiệp. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp có thị trường tiêu thụ rộng lớn thì khả năng tăng doanh thu của doanh nghiệp cũng rất lớn. Song muốn có thi trường tiêu thụ rộng lớn đòi hỏi khả năng cạnh tranh của sản phẩm phải cao cả về chất lượng cũng như giá cả. Thi trường tiêu thụ sản phẩm đóng một vai trò rất lớn trong việc tăng doanh thu, khi muốn tung sản phẩm của minh ra ngoài thị trường thì điều đầu tiên doanh nghiệp phải làm là nghiên cứu thị trường, vì khả năng thanh toán (sức mua) của thị trường có cao thì việc tiêu thụ sản phẩm mới dễ dàng và ngược lại. Về phương diện tài chính, việc đẩy nhanh tốc độ thanh toán, giảm bớt các khoản nợ phải thu, xử lý tốt các khoản nợ khó đòi cũng là một phương pháp đảm bảo thực hiện tốt chỉ tiêu doanh thu. Hơn nữa, có doanh thu doanh nghiệp mới có nguồn tài chính để trang trải các khoản chi phí đầu vào, vì vậy doanh nghiệp cần phải thực hiện tốt các khâu thanh toán tiền bán hàng. Do đó, công tác thanh toán tiền cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến mức doanh thu bán hàng. Nếu công tác này được tiến hành đúng phương thức, thủ tục sẽ thu được tiền nhanh, tránh được trường hợp bên mua từ chối chấp nhận thanh toán. Ngoài ra, công tác tổ chức bán hàng cũng là một nhân tố quan trọng thúc đẩy kết quả tiêu thụ. Nếu doanh nghiệp tổ chức nhiều hình thức bán hàng, bán lẻ, bán đại lý, bán qua kho,…tất yếu sẽ tiêu thụ được nhiều hàng hơn. Việc quảng cáo, chào hàng, giới thiệu sản phẩm, thái độ phục vụ khách hàng cũng là yếu tố quan trọng làm tăng doanh thu. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần lựa chọn nguồn hàng thích hợp để tiết kiệm chi phí đầu vào làm tăng doanh thu, tăng lợi nhuận. Qua tìm hiểu, nghiên cứu những phần trên đây cho thấy việc đảm bảo đẩy mạnh doanh thu đòi hỏi doanh nghiệp phải có trình độ tổ chức quản lý tốt bởi đó là phần công việc rất quan trọng trong việc tạo nên thu nhập và lợi nhuận cho doanh nghiệp. 1.3.2 Nhân tố ảnh hưởng đến chi phí: Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cao hay thấp phụ thuộc vào nhiều nhân tố, tuy nhiên ta có thể chia ra làm hai nhóm nhân tố chủ yếu là nhân tố chủ quan - nhóm nguyên nhân thuộc về doanh nghiệp và nhân tố khách quan - nhân tố bên ngoài không thuộc quyền kiểm soát của doanh nghiệp. - Nhân tố chủ quan: Hiện nay, trong các doanh nghiệp trình độ tổ chức quản lí sản xuất, quản lí tài chính đóng một vai trò khá quan trọng trong quản trị chi phí. Vì công tác tổ chức, quản lí có tốt, hợp lí thì mới đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành liên tục, hạn chế tối đa những thiệt hại về ngừng sản xuất, tận dụng công suất hoạt động của máy móc thiết bị, tiết kiệm những khoản chi phí không cần thiết, hạ giá thành sản phẩm. Việc tổ chức thời gian lao động hợp lí sẽ tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động. Trong điều kiện hiện nay, muốn cạnh tranh trên thị trường đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải đầu tư đổi mới dây chuyền công nghệ, thiết bị sản xuất, ứng dụng khoa học kĩ thuật vào quá trình sản xuất, điều này có thể làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh nhưng bù lại doanh nghiệp có thể tiết kiệm hao phí lao động sống và nhờ có ứng dụng khoa học kĩ thuật doanh nghiệp mới tạo ra được những sản phẩm có chất lượng cao. - Nhân tố khách quan: (nhân tố thuộc môi trường kinh doanh) Chi phí chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố thuộc môi trường kinh doanh như: cơ chế quản lí kinh tế của nhà nước (chính sách thuế…), nhu cầu của khách hàng, sự phát triển của cơ sở hạ tầng (đường xá, cầu cống…), điều kiện tự nhiên… Trong đó nhân tố chính sách kinh tế của nhà nước ảnh hưởng khá lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh cũng như chi phí của các doanh nghiệp. Vai trò chủ đạo của nhà nước trong nền kinh tế thị trường được thể hiện thông qua hoạt động điều tiết kinh tế vĩ mô của mình. Nhà nước hạn chế hay khuyến khích hoạt động của các tổ chức nói chung và các doanh nghiệp thương mại nói riêng bằng các chính sách, luật lệ và công cụ tài chính. Trong đó thuế là một công cụ để nhà nước kiểm soát, điều tiết các hoạt động của các đơn vị ở các thành phần kinh tế, cũng là công cụ của nhà nước để thực hiện việc phân phối lại trong xã hội. Thuế và các chính sách kinh tế khác của nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề đầu tư, tiêu dùng xã hội, giá cả hàng hoá, dịch vụ trên thị trường… Vì vậy nó tác động rất lớn đến các mặt hoạt động của doanh nghiệp và ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí của doanh nghiệp. 1.4 ý nghĩa của việc nâng cao doanh thu và tiết kiệm chi phí đối với doanh nghiệp: Trong thời kì kế hoạch hoá tập trung bao cấp, khi mà hầu hết các doanh nghiệp quốc doanh đều chịu sự bao cấp mọi mặt của nhà nước từ vốn đầu tư cho đến các khoản chi phí, doanh nghiệp không cần phải lo lắng đến việc kiếm tìm nguồn vốn, sử dụng vốn sao cho có hiệu quả, vì lỗ đã có nhà nước bù. Chính điều này đã khiến các doanh nghiệp nhà nước trong nhiều năm kinh doanh kém hiệu quả do năng suất lao động thấp, bộ máy quản lý cồng kềnh, quan liêu, tình trạng lãi giả lỗ thật là hình ảnh của các doanh nghịêp trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế nước ta có nhiều chuyển biến mạnh mẽ như việc xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường không còn được bao cấp họ phải tự chủ về mặt tài chính và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình do đó hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng có nhiều sự thay đổi tích cực. Mặt khác sự mở cửa thị trường đã đặt các doanh nghiệp đứng trước sự cạnh tranh ngày một gay gắt của các doanh nghiệp trong nước cũng như quốc tế. Điều này đã khiến cho các doanh nghiệp hiện nay phải thay đổi phương thức kinh doanh sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế mới của đất nước. Đứng trước vấn đề này đòi hỏi các doanh nghiệp phải chú ý đến công tác quản trị doanh nghiệp để nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng và tối đa hoá lợi nhuận. Để thực hiện tốt các mục tiêu trên thì doanh nghiệp cần phải chú ý đến việc không ngừng nâng cao doanh thu và tiết kiệm chi phí. Đây là hai tiêu chí hàng đầu trong kế hoạch phát triển doanh nghiệp. Nâng cao doanh thu chính là việc gia tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Mặt khác tăng doanh thu giúp doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất, cũng như có thêm một khoản tiền để trang trải chi phí trong quá trình sản xuất kinh doanh, thanh toán tiền lương cho cán bộ công nhân viên, tăng thêm tiền thưởng tạo thêm thu nhập cho người lao động, khuyến khích người lao động làm việc, nâng cao hiệu quả năng suất lao động, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với nhà nước thông qua thuế và các khoản phải nộp. Trong trường hợp doanh thu không đủ để đảm bảo các khoản chi phí bỏ ra, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn về tài chính. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ làm cho doanh nghiệp không đủ sức cạnh tranh trên thị trường và tất yếu sẽ đi tới chỗ phá sản. Bên cạnh việc nâng cao doanh thu, thì doanh nghiệp cần chú trọng trong công tác quản trị chi phí. Vì chi phí cũng là một chỉ tiêu ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu như nâng cao doanh thu làm tăng lợi nhuận thì việc gia tăng chi phí lại làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Lợi nhuận hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được xác định như sau: Lợi nhuận HĐKD = DTT – Trị giá vốn hàng bán – CPBH – CP QLDN – Thuế Doanh thu thuần = Tổng doanh thu bán hàng – Khoản giảm giá hàng bán – Trị giáhàng bán bị trả lại – Thuế gián thu Giảm chi phí kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm là phương hướng cơ bản để tăng lợi nhuận. Nếu như giá bán và mức thuế được xác định thì lợi nhuận đơn vị sản phẩm tăng thêm hay giảm bớt là do giá thành sản phẩm quyết định. Doanh nghiệp muốn đạt được lợi nhuận mong muốn đòi hỏi doanh nghiệp phải đồng thời thực hiện cả hai biện pháp nâng cao doanh thu và tiết kiệm chi phí, có như vậy doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay. Chương II thực trạng quản trị doanh thu và chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh tại công ty điện máy – xe đạp – xe máy 2.1 Giới thiệu chung về công ty Điện máy – Xe đạp – Xe máy: 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của công Điện máy – Xe đạp – xe máy: Công ty Điện máy – xe đạp – xe máy có tên giao dịch quốc tế là TODIMAX, là một doanh nghiệp thương mại Nhà nước trực thuộc Bộ Thương mại, có tư cách pháp nhân đầy đủ theo luật pháp Việt Nam có tiền Việt Nam và tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng TW. Công ty được chính thức thành lập 22/02/1995 theo quyết định số 106 Bộ thương mại/ TCCB và cấp giấp phép ĐKKD (11/03/1995). Công ty có trụ sở giao dịch chính tại 163 Đại La quận Hai Bà Trưng, Hà Nội và có 2 chi nhánh tại TP.HCM và Hà Nam Ninh. Tiền thân của công ty là Cục bách hoá Ngũ Kim được thành lập vào năm 1958. Đến năm 1970, Chính phủ có quyết định 217/CP ngày 24/11/1970 với nội dung thay đổi cấp quản lí của Bộ nội thương nhằm thành lập ra các tổng công ty chuyên ngành hàng. Ngày 13/3/1971 theo quyết định 14NT/ QĐ Cục Bách hoá Ngũ Kim chuyển thành Tổng công ty Điện máy thực hiện chức năng chủ đạo là kinh doanh mặt hàng điện máy trên phạm vi toàn quốc. Tháng 6/1981 Tổng công ty Điện máy tách ra thành hai công ty Trung ương trực thuộc Bộ nội thương: - Công ty Điện máy Trung ương đóng tại 163 Đại La – Hai Bà Trưng – Hà Nội - Công ty xe đạp – xe máy Trung ương đóng tại 21 ái Mộ – Gia Lâm – Hà Nội. Cả hai công ty đều chịu sự chỉ đạo Bộ Thương Mại cho đến tháng 12/1982, hai công ty này sát nhập thành Tổng công ty Điện máy – Xe đạp – Xe máy. Lúc này thi trường của công ty đã mở rộng trên phạm vi toàn quốc và một phần ra thị trường nước ngoài như Liên Xô cũ, các nước Đông Âu, Lào, Campuchia với nhiều mặt hàng kinh doanh đa dạng. Do có nhiều đóng góp trong lĩnh vực kinh doanh, năm 1987 công ty được Đảng và Nhà nước tặng thưởng huân chương lao động. Từ giữa năm 90, khi chế độ bao cấp được xoá bỏ, nền kinh tế chuyển sang một cơ chế mới “ cơ chế thị trường có sự điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ”. Do còn bỡ ngỡ với cơ chế mới cộng với trình độ quản lí yếu kém chưa thích ứng được với sự năng động của cơ chế thị trường nên việc kinh doanh của công ty sa sút nghiêm trọng, công ty đã liên tục thua lỗ trong nhiều năm (năm 1991 – 1997) và đứng trước nguy cơ bị giải thể. Ngày 22/12/1993 căn cứ vào thông báo số 11/TB ngày 2/2/1995 của Chính phủ về việc thành lập lại Tổng công ty điện máy, Bộ trưởng Bộ Thương Mại đã ra quyết định 106/TM thành lập Công ty Điện máy – xe đạp – xe máy trên cơ sở giải thể Tổng công ty, trụ sở giao dịch chính của công ty lúc này được đặt tại 163 Đại La. Đến năm 1999, công ty thay đổi trụ sở giao dịch trước đây, chuyển về số 229 phố Vọng, quận Hai Bà Trưng – Hà Nội. Đến nay mạng lưới kinh doanh của công ty đã phát triển khá rộng lớn, bao gồm 11 đơn vị trực thuộc trong đó có 3 trung tâm, 5 cửa hàng và 2 chi nhánh. 2.1.2 Nhiệm vụ: Trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kì kinh doanh, doanh nghiệp đều có những mục tiêu cụ thể nhằm định hướng cho sự phát triển của công ty. Song nhìn chung công ty có những mục tiêu cụ thể sau: - Xây dựng và tổ chức hiệu quả các kế hoạch kinh doanh nhằm mở rộng phạm vi hoạt động sản xuất của công ty để đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. - Tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị kinh tế, cơ sở khác của ngành và các đơn vị liên doanh áp dụng các biện pháp kinh doanh có hiệu quả để nâng cao mức doanh số bán ra. - Hoàn thiện công tác tổ chức sản xuất kinh doanh. - Góp phần thu hút thêm lao động trong xã hội, giải quyết vấn đề việc làm. - Thực hiện các hình thức liên doanh, liên kết, hợp tác đầu tư sản xuất để khai thác hết mọi nguồn lực của công ty. - Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước. 2.1.3 Đặc điểm sản xuất kinh doanh tại công ty Điện máy- Xe đạp- Xe máy: Là một doanh nghiệp thương mại, Công ty Điện máy – xe đạp – xe máy thực hiện khá nhiều chức năng kinh doanh như: + Xuất nhập khẩu và kinh doanh hàng điện máy, kim khí tiêu dùng, phương tiện đi lại, hàng tiêu dùng + Sản xuất gia công lắp ráp hàng điện tử. + Kinh doanh vật liệu xây dựng (xi măng, sắt thép xây dựng, thiết bị trang trí nội thất) + Kinh doanh máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, thiết bị phụ trợ. + Dịch vụ cho thuê văn phòng làm việc, kho hàng, sản xuất kinh doanh bia và nước giải khát. Kinh doanh hoá chất thông thường (Theo quyết định số 1537/1998/QĐ-BTM ngày 12/12/1998 của Bộ Thương mại) + Kinh doanh nguyên liệu, kim loại màu, kim loại đen, hàng thủ công mỹ nghệ, cao su và sản phẩm cao su, hàng công nghiệp tiêu dùng khác (VB cho phép số 0039/1995/QĐ-BTM ngày 13/01/1999 của Bộ Thương mại). + Gia công, sản xuất phụ tùng xe máy và lắp ráp xe gắn máy, hàng điện máy (có QĐ số 0459/2000/QĐBTM). Với nhiều chức năng kinh doanh như trên, nên dễ dàng nhận thấy rằng mặt hàng kinh doanh của doanh nghiệp khá phong phú đa dạng với nhiều chủng loại khác nhau. Hiện nay, công ty kinh doanh chủ yếu các loại mặt hàng sau: + Xe máy + Ô tô, máy xây dựng + Tủ lạnh, ti vi, điều hoà, máy giặt + Hạt nhựa + Vật liệu xây dựng và các hàng hoá khác. + Ông thép các loại + Điện thoại di động Mặt hàng kinh doanh của doanh nghiệp khá đa dạng, và được tiêu thụ chủ yếu ở thị trường nội địa. Năm 1998, khi mà thị trường xe máy có nhiều biến động đặc biệt là sự xuất hiện Xe máy – Trung Quốc với giá rẻ phù hợp với nhu cầu khá đông của người tiêu dùng, nhận định được tình hình này doanh nghiệp đã tiến hành nhập khẩu các linh kiện xe máy, tổ chức một dây chuyền lắp ráp xe máy dạng IKD với công suất 40.000 xe/năm. Năm 1998 xưởng lắp ráp xe máy đầu tiên được đưa vào hoạt động.. Mặt hàng kinh doanh này đã đem lại cho doanh nghiệp một khoản doanh thu khá cao. Sang năm 1999 do nhu cầu tiêu dùng xe máy cao công ty đã đầu tư cho lắp ráp thêm một dây chuyền lắp ráp xe máy. Mặt hàng xe máy chiếm tỷ trọng lớn (năm 2002 chiếm 70% doanh thu bán hàng).Tổng số vốn đầu tư của cả hai dây chuyền là 6 tỷ đồng. Đồng thời, hướng tới xuất khẩu công ty đã liên doanh với công ty SHINIL thành lập một nhà máy sản xuất máy bơm nước với số vốn 2 triệu USD (phía Hàn Quốc góp 70% vốn bằng tiền, phía TODIMAX góp 30% dưới hình thức kho tàng, nhà xưởng) với công suất 100.000 máy bơm/năm nhằm xuất khẩu 60% sản phẩm ra nước ngoài. Công ty TODIMAX có thị trường tiêu thụ trong nước khá rộng lớn. Các sản phẩm như nguyên vật liệu, hoá chất, thiết bị máy móc, phụ tùng… công ty có khách hàng lớn thường xuyên là các cơ sở sản xuất trong nước như Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông, nhà máy Nhựa Hàm Rồng, công ty xây dựng cầu Thăng Long… Tuy nhiên cho đến nay thì hoạt động xuất khẩu của công ty gần như không có, có xuất khẩu chăng đi nữa thì số lượng xuất khẩu cũng là rất nhỏ và nếu có chỉ là hình thức tái sản xuất sản phẩm. Do kinh doanh nhiều loại mặt hàng khác nhau, Công ty đã thực hiện bán hàng chủ yếu theo phương thức tiêu thụ trực tiếp thông qua việc bán buôn và bán lẻ qua khối các trung tâm kinh doanh, các cửa hàng trực thuộc chi nhánh TP Hồ Chí Minh, chi nhánh Hà Nam Ninh và các cửa hàng kinh doanh trực thuộc công ty. 2.1. 4 Đặc điểm về lao động và cơ cấu bộ máy trong công ty: 2.1.4.1 Đặc điểm lao động: Công ty có số lượng lao động tương đối đông, tổng số lao động định biên của công ty hiện nay là 455 người. Trong đó có: - Nam: 265 người - Nữ : 190 người Đại học: 123, Tiến sĩ: 2, Trung cấp: 63, Sơ cấp: 6. Tình hình công ty gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt bộ máy tổ chức cán bộ còn khá cồng kềnh, đội ngũ công nhân viên có trình độ còn hạn chế, chỉ chiếm khoảng 1/3 trên tổng số lao động của công ty. Để phát huy hết khả năng lao động sẵn có của công ty, cũng như tiết kiệm các chi phí nhân công, đòi hỏi công ty phải có những chính sách sử dụng nguồn nhân lực hết sức hợp lý, tránh tình trạng không có lao động giỏi trong khi số lao động dư thừa không có khả năng lao động thì lại quá nhiều, lãng phí nguồn tài chính của công ty. 2.1.4.2 Cơ cấu bộ máy trong công ty: Để đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh nhiều chủng loại mặt hàng, công ty đã xây dựng cho mình mô hình tổ chức bộ máy quản lí theo kiểu tổ chức liên hợp (trực tuyến – chức năng). Trong cơ cấu này, Giám đốc là người chịu trách nhiệm về mọi hoạt động và toàn quyền quyết định trong phạm vi doanh nghiệp, trực tiếp chỉ đạo tới các cơ sở sản xuất kinh doanh tại từng cơ sở, đơn vị được nắm bắt và phản hồi kịp thời, chính xác lên cơ quan quản lí cao nhất, góp phần ra những quyết định chính xác, nhanh chóng. Các phòng ban là bộ phận tham mưu giúp ban giám đốc quản lí điều hành doanh nghiệp có hiệu quả hơn. Mệnh lệnh từ ban giám đốc được truyền trực tiếp đến từng cơ sở, đồng thời giúp cơ sở có sự hỗ trợ lẫn nhau, giúp đỡ nhau và thống nhất trong quá trình kinh doanh. Cơ cấu bộ máy quản lí của công ty được thể hiện qua sơ đồ ở trang bên: Ban giám đốc Phòng tổ chức hành chính Phòng tài chính kế toán Phòng KD NVL Phòng KD điện tử điện lạnh Phòng kinh doanh xe đạp xe máy Phòng thanh tra bảo vệ Trung tâm kho Đức Giang Trung tâm kho Vọng Chi nhánh TP HCM Trung tâm KD xe đạp xe máy XN SX KD hàng điện máy Chi nhánh Nam Định Cửa hàng số 1 Cửa hàng Sơn Cửa hàng số 5 Cửa hàng 163 Cửa hàng 92 Sơ đồ 2.1: Cơ cấu bộ máy quản lí của công ty Điện máy – Xe đạp – Xe máy Trong đó: * Ban giám đốc: có trách nhiệm kết hợp chặt chẽ với ban chấp hành Đảng uỷ và tổ chức Công đoàn triển khai nhiệm vụ của Đảng uỷ trong việc định hướng kinh doanh, tổ chức bộ máy, công tác cán bộ, giải quyết khó khănvà đưa đơn vị vào thế ổn định. Giám đốc công ty trực tiếp điều hành công tác cán bộ, tổ chức kinh doanh và quản lý tài chính trong công ty. Các phòng ban chức năng của công ty bao gồm: * Phòng tổ chức hành chính: giúp giám đốc công việc tổ chức bộ máy quản lý các bộ phận, cơ sở vật chất phương tiện, tổ chức phục vụ của cán bộ và cơ sở làm việc của cán bộ công nhân viên chức. Đề xuất các phương án tổ chức bộ máy tổ chức công tác cán bộ, sắp xếp quản lý và sử dụng lao động, các phương án về phân cấp thuộc thẩm quỳên đối với mô hình tổ chức của công ty. * Các phòng kinh doanh, phòng quản lý kho và cơ sở vật chất: giúp giam đốc trong việc tìm nguồn hàng, tìm đối tác kinh doanh, tìm hiểu và mở rộng thị trường tiêu thụ các mặt hàng theo nhiệm vụ đã được giao. Xây dựng kế hoạch hàng quý, năm lập phương án kinh doanh, phương án khai thác cơ sở vật chất, kho tàng và bảo đảm có kết quả. * Phòng tài chính kế toán : giúp gím đốc trong khâu quản lý tài chính toàn công ty, tổ chức hạch toán đầy đủ và đúng pháp lệnh thống kê kế toán của nhà nước. Định kỳ báo cáo kết quả kinh doanh và tình hình tài chính đơn vị cho gím đốc và cơ quan quản lý cấp trên theo yêu cầu của nhà nước. * Phòng thanh tra bảo vệ: giúp giám đốc trong việc thanh tra kiểm tra mọi hoạt động của đơn vị, đảm bảo an toàn về hàng hóa và trật tự an toàn trong công ty. * Mạng lưới kinh doanh của công ty: - Có 3 trung tâm kinh doanh đặt tại 163 Đại La, 92 – Hai Bà Trưng, 229 phố Vọng và 115 phố Vọng của công ty. - 2 chi nhánh đặt tại miền Nam và Nam Định. Trong quá trình kinh doanh các trung tâm và chi nhánh này tự chịu trách nhiệm về doanh thu, tự trang trải quỹ lương và các chi phí, lấy thu bù chi có lãi. Về nguồn hàng có thể lấy từ công ty hoặc mua ngoài. Các đơn vị bảo toàn vốn và thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước. Các đơn vị trực thuộc có con dấu riêng, định kì báo cáo kết quả kinh doanh và các hoát động khác, kiến nghị các biện pháp để hỗ trợ khó khăn nhằm phát triển kinh doanh ở đơn vị. - Có 5 cửa hàng trực thuộc công ty: Có trách nhiệm tổ chức mạng lưới bán lẻ tại đơn vị, tổ chức khai thác kinh doanh của đơn vị theo hình thức bán lẻ với bán buôn vừa và nhỏ. Trưởng cửa hàng có trách nhịêm tổ chức bộ máy cửa hàng, bố trí lao động hợp lý, đảm bảo kinh doanh có hiệu quả. Giám đốc các xí nghiệp, trung tâm chi nhánh trực thuộc công ty: trực tiếp điều hành hoạt động của đơn vị theo đúng diều lệ tổ chức bộ máy và hoạt động sản xuâts kinh doanh của đơn vị theo đúng quyền hạn, chức năng, nhiệm vụ đã được phân cấp và chịu trách nhiệm trước công ty về mọi hoạt động do mình quản lý điều hành. 2.2 Về mặt tài chính: Công ty Điện máy- xe đạp – xe máy là một doanh nghiệp thương mại Nhà nước có quyền tự chủ về kinh doanh, tự chủ về tài chính, thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy định của Bộ Thương mại. Trải qua một thời gian hình thành và phát triển công ty đã lớn mạnh về mọi mặt từ công tác quản lý cho tới khâu kinh doanh. Nếu như ban đầu số vốn của công ty chỉ có 19.969 triệu đồng, công ty đã gặp không ít những khó khăn trong việc mở rộng loại hình kinh doanh, thị trường tiêu thụ, thì hiện nay số vốn của công ty là 24 tỷ đồng. Trong đó: Vốn lưu động: 16 tỷ đồng Vốn cố định: 8 tỷ đồng Tuy nhiên nền kinh tế đất nước đang ngày càng phát triển, đã đặt doanh nghiệp đứng trước những những cơ hội mới cũng như những khó khăn mới. Với đặc thù là một doanh nghiệp thương mại, đòi hỏi công ty luôn phải tìm kiếm nguồn hàng, kịp thời đáp ứng nhu cầu của thị trường. Trong khi đó giá trị các loại hàng thường lớn nên công ty luôn có nhu cầu về vốn lưu động. Để đáp ứng nhu cầu này công ty thường xuyên phải sử dụng nguồn vốn vay của ngân hàng để tài trợ. 2.2.1 Đặc điểm tổ chức quản lí tài chính của doanh nghiệp: Căn cứ vào đặc điểm tổ chức bộ máy kinh doanh, tính chất và quy mô hoạt động kinh doanh, công ty Điện Máy – Xe Đạp – Xe Máy đã lựa chọn hình thức công tác kế toán tập trung. Tại công ty có 1 phòng kế toán trung tâm chịu trách nhiệm hạch toán toàn bộ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trực tiếp tại công ty và tổng hợp số liệu của toàn bộ công ty. Phòng kế toán công ty có nhiệm vụ tổ chức, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiệntoàn bộ các thu nhập, xử lý các thông tin kế toán ban đầu, kiểm tra việc thực hiện toàn bộ các thu nhập, xử lý các thông tin kế toán ban đầu, cung cấp thông tin về tình hình tài chính đầy đủ kịp thời và chính xác, đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh để từ đó đề ra cấc biện pháp, quyết đinh đúng đắn và phù hợp với đường lối của công ty. Ta có sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán của công ty Điện máy – xe đạp – xe máy được trình bày ở trang bên. Kế toán trưởng KT tổng hợp KT quỹ TM KT chi tiết theo dõi KD KT TSCĐ, quan hệ với NS Kế toán công nợ nội bộ Kế toán ngân hàng Sơ đồ 2.2: Tổ chức bộ máy kế toán công ty Điện máy – xe đạp – xe máy * Kế toán trưởng: kiêm trưởng phòng tài chính kế toán chịu trách nhiệm quản lý và chỉ đạo chung về nghiệp vụ, tham mưu cho giám đốc các vấn đề về tài chính kế toán. * Kế toán tổng hợp: phụ trách việc lập phiếu thu, chi theo lệnh, từ đó căn cứ vào các phiếu thu, phiếu chi kèm theo các giấy tờ hợp lệ để nhập hoặc xuất quỹ, đối với các số dư trên sổ quỹ với số tiền thực có tại quỹ. Lập báo cáo kế toán, trợ lý cho kế toán trưởng nếu có yêu cầu và giúp đỡ các bộ phận khác khi cần thiết. * Kế toán theo dõi kinh doanh: có nhiệm vụ theo dõi việc mua hàng và tiêu thụ, đánh giá kết quả kinh doanh chi tiết theo các phòng ban. * Kế toán tài sản cố định: kiêm luôn theo dõi về thuế và các khoản nộp nhà nước. * Kế toán công nợ: có nhiệm vụ theo dõi tình hình công nợ phải trả và thanh toán các khoản cho từng chủ nợ nhằm thực hiện tốt chế độ thanh toán tài chính. * Kế toán ngân hàng: có nhiệm vụ giao dịch với ngân hàng, quản lý theodõi các khoản tiền vay, tiền lãi gửi, đôn đốc việc thanh toán đúng kì hạn, thường xuyên đối chiếu số dư tiền gửi với ngân hàng. Riêng kế toán tiền lương được thực hiện ở phòng tổ chức hành chính. Ngoài phòng kế toán tập trung, 2 chi nhánh (miền Nam & Hà Nam Ninh) đều có bộ phận kế toán riêng thực hiện toàn bộ công việc kế toán phát sinh ở chi nhánh theo sự phân cấp của phòng kế toán trung tâm. Cuối tháng, kế toán ở 2 chi nhánh phải lập báo cáo quyết toán gửi về công ty. Kế toán ở đơn vị phụ thuộc này có đầy đủ các chức danh như bộ phận kế toán ở công ty. Công ty Điện Máy – Xe Đạp – Xe Máy áp dụng hình thức tổ chức kế toán tập trung phù hợp với đặc điểm kinh doanh của đơn vị. Việc áp dụng hình thức tổ chức công tác kế toán này đảm bảo cho công tác kế toán được tiến hành một cách đầy đủ, kịp thời, thúc đẩy hạch toán kế toán nội bộ và sự quản lý thống nhất của toàn công ty. 2.2.2 Đánh giá chung về tình hình sử dụng tài sản và nguồn vốn của công ty: Tài sản và nguồn vốn là những yếu tố không thể thiếu được đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do vậy quản lí tài sản và nguồn vốn là một trong những nội dung quan trọng của quản trị tài chính doanh nghiệp. Thông qua việc phân tích các chỉ tiêu tài sản và nguồn hình thành tài sản cho ta hiểu được quy mô, kết cấu tài sản và nguồn vốn, cũng như đặc điểm các nguồn vốn đã được doanh nghiệp huy động vào sản xuất kinh doanh. 2.2.2.1 Tình hình sử dụng tài sản: Thông qua việc nghiên cứu bảng cân đối kế toán của ba năm (2002-2004) ở trang 40, giúp ta thấy được sự thay đổi của các khoản mục cũng như cơ cấu tài sản, nguồn vốn của doanh nghiệp. Qua bảng 2.1 ta thấy tổng tài sản của năm 2003 tăng so với năm 2002 là 1.023,7 trđ tương ứng với tỷ lệ tăng 13,65% chủ yếu là do tăng TSLĐ và đầu tư tài chính ngắn hạn (TSLĐ năm 2003 tăng so với năm 2002 là 7.752,2trđ), và đến năm 2004 tổng tài sản tăng thêm so với năm 2003 là 14.014,1 trđ, đồng thời TSLĐ năm 2004 tiếp tục tăng lên là 13.865,7 trđ tương ứng với tỷ lệ tăng là 18,8%. Xét chi tiết từng khoản mục ta thấy, TSLĐ tăng cao qua các năm chủ yếu là do sự ảnh hưởng của 2 khoản mục chính của “Các khoản phải thu khách hàng”, “Hàng tồn kho” tăng lên. Nếu như năm 2002 giá trị hàng tồn kho là 15.972,8 trđ, thì đến năm 2003 tốc độ tăng hàng tồn kho là 62,7%, năm 2004 hàng tồn kho đã tăng thêm so với 2003 là 406,3 trđ tương ứng với tỷ lệ tăng 1,56%. Điều này chứng tỏ doanh nghiệp đã để tồn đọng khá nhiều số lượng hàng hoá, có thể do hàng hoá của doanh nghiệp kém phẩm chất, hoặc do sản phẩm không phù hợp với nhu cầu của thị trường. Bên cạnh đó các khoản phải thu khách hàng liên tiếp tăng cao trong 3 năm 2002 – 2004. Năm 2002 các khoản phải thu khách hàng chỉ là 29.070,9 trđ chiếm tỷ trọng 38,82% trong tổng tài sản, năm 2003 con số này đã lên đến là 34.237,3trđ chiếm tỷ trọng 40,19%, đến năm 2004 là 43.211, trđ chiếm 43,6%. Tốc độ tăng nhanh cũng như việc tăng tỷ trọng các khoản phải thu là một báo động trong công tác tổ chức thanh toán, giao dịch với khách hàng của doanh nghiệp. Có thể thấy rằng những số liệu của hai chỉ tiêu này trong 3 năm kinh doanh của doanh nghiệp cho thấy công tác tổ chức tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp chưa tốt, điều này ảnh hưởng không tốt tới tình hình tài chính của công ty. Trong khi đó tỷ trọng tiền trong tổng tài sản có xu hướng giảm. Năm 2002 tỷ trọng vốn bằng tiền chiếm 23,26% trong tổng tài sản, năm 2003 chỉ còn 13,07%, sang đến năm 2004 tỷ trọng này có tăng tuy nhiên không đáng kể 15%. Tỷ trọng các tài sản lưu động khác trong ba năm 2002 – 2004 có sự biến động nhưng nhìn chung là không nhiều. Với đặc trưng là doanh nghiệp thương mại, tỷ trọng tài sản cố định trong tổng tài sản trong các năm là tương đối nhỏ và chúng ít bị biến động. Tuy nhiên chỉ tiêu này ở công ty Điện máy – xe đạp – xe máy cũng tăng dần qua qua 3 năm. Năm 2002, tỷ trọng tài sản cố định chiếm 7,6% trong tổng tài sản, năm 2003 là 8,4%, và đến năm 2004 con số này đã là 8,6%. Điều này chứng tỏ doanh nghiệp đã chú trọng công tác đầu tư, mua sắm trang thiết bị, nhà xưởng để phục vụ tốt hơn công tác sản xuất kinh doanh. Bảng 2.1: Cơ cấu tài sản và nguồn vốn của công ty Điện máy – xe đạp – xe máy (năm 2002-2004) Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 2003/2002 2004/2003 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng A. TSLĐ và ĐTNH: 1. Tiền 2. ĐTTCNH 3. Các khoản phải thu 4. Hàng tồn kho 5. TSLĐ khác 6. Chi sự nghiệp B. TSCĐ và ĐTDH: 1. TSCĐ 2. ĐTTCDH 3. Chi phí XDCBDD 4. Các khoản kí quỹ, kí cược DH 65.890,6 17.433,7 30 29.097,9 15.972,8 3.383,1 0 98.052,6 5.705,7 2.191,9 1.154,8 0 87,94 23,26 0,04 38,82 21,31 4,51 0 12,06 7,6 2,92 1,54 0 73.642,8 11.140,5 30 34.237,3 25.993,8 2.241,0 0 11.537,7 7.122,2 2.191,9 2.223,5 0 86,45 13,07 0,04 40,19 30,52 2,63 0 13,55 8,4 2,6 2,6 0 87.508,5 14.880,6 30 43.211,3 26.400,1 2.986,3 0 11.686,2 8.549,6 2.191,9 944,5 0 88,23 15 0,03 43,6 26,6 3 0 11,77 8,6 2,2 0,95 0 7.752 -6.293 0 5.167 21 -1.141 0 2.485 1.417 0 1.069 0 111,76 63,9 100 117,66 162,7 66,2 0 127,45 11,76 100 192,5 0 13.865,7 3.740,1 0 8.974 406,3 745,3 0 148,4 1.427,3 0 -1.278,9 0 118,8 133,6 100 126,2 101,56 133,25 0 101,2 124,8 100 42,47 0 Tổng tài sản 74.943,2 100 85.180,6 100 99.194,7 100 1.123,7 113,65 14.014,1 116,45 A. Nợ phải trả 1. Nợ ngắn hạn 2. Nợ dài hạn 3. Nợ khác B. Nguồn vốn chủ sở hữu: 1. Nguồn vốn quỹ 2. Nguồn kinh phí 70.333,2 70.332,6 0 0,592 4.610,6 4.610,6 0 93,848 93,847 0 0,0008 6,2 6,2 0 82.301,5 81.831,2 345,1 125,1 2.879,0 2.879,0 0 96,6 96,1 0,41 0,15 3,4 3,4 0 95.597,9 95.597,9 0 0 3.596,7 3.596,7 0 96,4 96,4 0 0 3,6 3,6 0 11.968,3 3 11.498,6 345,1 -1.731,0 -1.731,0 0 117 116,3 345,1 21131 62 62,44 0 13.296,3 13365,4 -345,1 -125,1 717,7 717,7 0 116 116,3 -345,1 -12510 124,9 124,9 0 Tổng nguồn vốn 74.943,2 100 85.180,6 100 99.194,7 100 1.123,7 113,65 14014,1 116,45 2.2.2.2 Tình hình sử dụng nguồn vốn: Khi xem xét đến tình hình sử dụng vốn, điều mà các nhà quản trị tài chính quan tâm hàng đầu đó là cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp . Chính sách cơ cấu vốn có liên quan đến doanh thu mà doanh nghiệp thu được, nó thể hiện mối quan hệ giữa lợi nhuận và rủi ro trong kinh doanh từ đó quyết định tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vậy một cơ cấu vốn tối ưu luôn là mục tiêu hướng tới của tất cả các doanh nghiệp. Cơ cấu này phụ thuộc vào mức độ rủi ro trong kinh doanh, chính sách thuế, khả năng tài chính của doanh nghiệp và sự bảo thủ hay phóng khoáng của nhà quản lí doanh nghiệp. Qua số liệu của bảng 2.1, cho ta thấy nguồn vốn của doanh nghiệp tăng nhanh qua các năm. Năm 2002, tổng nguồn vốn của doanh nghiệp là 74943,2 triệu đồng, năm 2003 tổng nguồn vốn của doanh nghiệp là 85180,6 triệu đồng tương ứng với tốc độ tăng 13,65% (tăng thêm 1.123,7 trđ), năm 2004 nguồn vốn của doanh nghiệp tăng so với 2003 là 14.014,1 trđ tương ứng với tốc độ tăng 16,45%. Tổng nguồn vốn thay đổi chủ yếu là do sự biến động của hai thành phần chính là nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu. Hai thành phần này quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau. Nếu nợ phải trả tăng thì vốn chủ sở hữu giảm và ngược lại, nếu nợ phải trả giảm thì vốn chủ sở hữu tăng. Trong tổng nguồn vốn, nguồn vốn chủ sở hữu chiếm một tỷ trọng khá nhỏ. Nếu như năm 2002 tỷ trọng vốn chủ sở hữu chiếm 6,2% thì đến năm 2003, con số này giảm mạnh chỉ còn 3,4% tương ứng với tốc độ giảm 62%, vào năm 2004 thì tỷ trọng nguồn vốn này có nhích lên song rất nhỏ chỉ là 3,6% tương ứng với tốc độ tăng so với năm 2003 là 24,9%. Trong khi đó nợ phải trả của năm 2004 chiếm tới 96,4% so với tổng nguồn vốn. Tỷ trọng công nợ tăng mạnh vào năm 2003 chiếm 96,6% trong tổng ngồn vốn, tăng so với năm 2002 là 17% tương ứng tăng 11.968,3 trđ. Với tỷ lệ chiếm 96,6% trong tổng nguồn vốn là nợ vay cho thấy mức độ phụ thuộc của công ty vào các chủ nợ là rất cao. Trong khi đó tỷ trọng vốn chủ sở hữu lại rất thấp, chỉ chiếm khoảng 3,6% vào 2004 là do hoạt động kinh doanh thua lỗ từ các năm trước tích luỹ lại, làm suy giảm nguồn vốn chủ sở hữu. Đồng thời ta thấy rằng trong 100% nợ phải trả thì có tới 99,58% là nợ ngắn hạn (chủ yếu là nợ ngân hàng). Như vậy, hầu hết tài sản của doanh nghiệp được tài trợ bằng nguồn vốn ngắn hạn mặc dù chi phí trả lãi vay thấp hơn so với dùng nguồn dài hạn song thời gian đáo hạn ngắn sẽ gây khó khăn lớn cho công ty khi trả nợ và trả lãi vay. Trong khi đó tỷ trọng vốn vay dài hạn gần như bằng 0. Tuy nhiên , việc sử dụng nợ ngắn hạn cao lại là một chính sách tài chính có lợi cho doanh nghiệp vì doanh nghiệp được sử dụng một lượng tài sản lớn mà chỉ phải đầu tư một lượng vốn nhỏ, đồng thời doanh nghiệp có thể dễ dàng chuyển rủi ro của mình cho chủ nợ. Đánh giá chung tình hình tài sản và nguồn vốn của Công ty điện máy – xe đạp – xe máy cho thấy công ty đang nằm trong tình trạng chung của các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay. Đó là thực trạng, các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở vốn công – nợ là chủ yếu, hơn 90% vốn hoanh nghiệp là vốn đi vay từ bên ngoài, tỷ lệ này so với các doanh nghiệp trong cùng ngành là khá cao, điều này cho thấy tình hình tài chính của công ty không mấy ổn định. Hơn nữa trong điều kiện sản xuất kinh doanh như hiện nay, tỷ lệ nợ cao sẽ khiến công ty phải chịu gánh nặng về lãi suất tiền vay (thực tế năm 2003 công ty đã phải trả hơn 2,5 tỷ đồng tiền lãi). Nếu như tổng tài sản không có khả năng sinh ra một tỷ lệ lãi đủ lớn để bù đắp chi phí và lãi tiền vay thì doanh lợi vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp sẽ giảm sút. Tỷ trọng tài sản lưu động của công ty giữ ở mức (86% - 88%) tuy hơi cao so với mức trung bình ngành (70% - 80%) song có thể coi là hợp lí đối với doanh nghiệp thương mại. Tuy nhiên, khi xem xét tỷ trọng trong từng khoản nục của tài sản lưu động như các khoản phải thu khách hàng, hàng tồn kho… cho thấy tỷ trọng của hai loại khoản mục này là khá cao, kết hợp với tỷ lệ phải trả cao ở phần nguồn vốn cho thấy công ty thường xuyên bị chiếm dụng vốn đồng thời thường xuyên đi chiếm dụng vốn của các doanh nghiệp khác. Đây là một trong những dấu hiệu không lành mạnh trong hoạt động kinh doanh của Công ty điện máy – xe đạp – xe máy nói riêng và các doanh nghiệp nói chung: nợ đọng, chiếm dụng vốn… Do vậy công ty cần có những biện pháp tháo gỡ khắc phục khó khăn. 2.3 Thực trạng quản trị doanh thu và chi phí, giá thành trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Điện máy – xe đạp – xe máy trong những năm gần đây (2002 - 2004): 2.3.1 Khái quát về doanh thu và chi phí của công ty Điện máy – xe đạp – xe máy: Doanh thu là chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kì nhất định. Do vậy muốn đánh giá thực trạng doanh thu của doanh nghiệp ta cần xem xét sự biến động doanh thu qua các năm để từ đó có sự so sánh và hiểu rõ hơn tình hình doanh thu của công ty. Qua bảng báo cáo kết quả kinh doanh trong 3 năm (2002 - 2004) ở trang 42 ta thấy tình hình tăng giảm doanh thu qua các năm không ổn định. Năm 2002 tổng doanh thu của công ty là 266.520,5 trđ, năm 2003 đã giảm xuống chỉ còn 216.194,8 trđ tương ứng với tỷ lệ giảm là 18%, nhưng đến năm 2004 chỉ tiêu doanh thu tăng thêm 104.945,4 trđ tương ứng với tỷ lệ tăng so với năm 2003 là 48,5%. Nguyên nhân chính của việc tăng doanh thu năm 2004 là do doanh nghiệp đã tổ chức tốt việc mở rộng quy mô kinh doanh, nhập khẩu uỷ thác, mặt hàng điện máy, hoá chất, nguyên vật liệu…, triển khai mặt hàng mới, thị trường mới, bên cạnh đó vẫn tiếp tục duy trì nguồn thu chủ yếu từ việc bán mặt hàng xe máy, tuy nhiên mặt hàng này phụ thuộc rất nhiều vao các chính sách thuế của nhà nước, nên nguồn thu từ mặt hàng này không được ổn định lắm. Trong khi đó, doanh thu thuần ở năm 2004 là 321.133,6 trđ tăng so với năm 2003 là 105.226,4 trđ tương ứng với tốc độ tăng 48,7%, trong khi đó Bảng 2.2: Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty (2002 - 2004) Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 31/12/2002 31/12/2003 31/12/2004 2003/2002 2004/2003 Mức Tỷ lệ (%) Mức Tỷ lệ (%) Tổng doanh thu 266.520,5 216.194,8 321.140,2 -50325,7 -18 104945,4 48,5 Các khoản giảm trừ: 814,4 287,5 6,636 -526,9 -64,6 -280,8 -97,7 Chiết khấu 227,4 0 0 227,4 -227,4 0 0 Giảm giá 0 0 0 0 0 0 0 Giá trị hàng bán bị trả lại 587,0 287,5 6,636 299,5 -51,1 -281 97,7 1. Doanh thu thuần 265706,1 215.907,2 321.133,6 -49798,9 -18,7 105226,4 48,7 Giá vốn hàng bán 252.601,7 204.041,4 305.722,3 -48560,3 -19,2 101680,9 -33,2 Lợi tức gộp 13104,4 11865,7 15.411,3 -1238,7 -9,45 3545,6 29,8 Chi phí bán hàng 11277,5 10685,2 12.419,8 -592,3 -5,25 1734,6 16,2 Chi phí quản lí 1562,8 2532,5 2.560,8 967,7 62 28,3 1,1 Lợi nhuận thuần từ HĐKD 263,9 -1352 430,6 -1615,9 -612 1782,6 132 Thu nhập từ HĐTC 36,3 12,507 2,17 -23,8 -65,5 -10,337 -82,6 Chi phí HDTC 8,4 0 0 -8,4 0 0 Lợi nhuận từ HĐTC 27,9 12,507 2,17 -15.393 -55 -10,337 -82,6 Thu nhập bất thường 215,1 334,1 284,9 119 55 -49,2 -14,7 Chi phí bất thường 0,974 28,5 0 27,5 2826 -28,5 -2850 Lợi nhuận bất thường 214,1 305,6 284,9 91,5 42,7 -20,7 -6,8 Lợi nhuận trước thuế 506,06 -1033,9 717,7 -1539,9 -304 1751,6 169 Thuế lợi tức phải nộp 0 0 0 0 0 0 0 Lợi tức sau thuế 506,06 -1033,9 717,7 -1539,9 -304 1751,6 169 (Nguồn: Công ty điện máy – xe đạp – xe máy ) doanh thu thuần của năm 2002 là 265.706,1 trđ. Doanh thu và chi phí là hai chỉ tiêu ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình lợi nhuận của doanh nghiệp. Từ số liệu của bảng 2.1, cho ta thấy tình hình chi phí thay đổi qua các năm. Giá vốn hàng bán cũng biến đổi tương tự doanh thu, giảm mạnh ở năm 2003 nhưng tăng lên ở năm 2004. Tỷ lệ giá vốn hàng bán của năm 2004 so với 2003 tăng cao hơn so với tốc độ tăng của doanh thu thuần (giá vốn hàng bán của năm 2004 tăng so với 2003 là 50% trong khi đó doamh thu thuần tăng 48,7%), do vậy tỷ lệ lãi gộp năm 2004 chỉ tăng là 29,8%. Tỷ lệ lợi nhuận thuần đạt được từ hoạt động kinh doanh là rất thấp. Trên đây là việc phân tích khái quát tình hình doanh thu và chi phí của công ty qua số liệu của 3 năm liên tục (2002 - 2004). Hai chỉ tiêu doanh thu và chi phí ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả lợi nhuận của doanh nghiệp, do vậy trong 2 năm 2002, 2004 mặc dù hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có lãi tuy nhiên kết quả đạt được cũng không cao. Năm 2002, tổng lợi nhuận trước thuế là 506,06 trđ, năm 2003 công ty kinh doanh thua lỗ là -1.033,9 trđ, năm 2004 công ty khắc phục khó khăn, bước đầu kinh doanh có lãi tổng lợi nhuận trước thuế đạt 717,7 trđ. Điều này chứng tỏ việc quản lí chi phí ở doanh nghiệp chưa được tốt, doanh nghiệp cần xem xét lại công tác quản lí chi phí sao cho doanh thu thu vào không phải bù đắp chi phí quá lớn. Muốn nâng cao lợi nhuận cần thiết phải tăng doanh thu đồng thời giảm chi phí. Nhìn chung trong mấy năm qua hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn đặc biệt trong công tác tiêu thụ hàng hoá, công tác quản lí chi phí còn nhiều bất cập. Doanh thu thấp trong khi đó các khoản chi phí vẫn gia tăng. Tốc độ tăng chi phí lớn hơn tốc độ tăng doanh thu thuần do vậy lãi không đủ bù đắp chi phí gây tổn thất cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó việc kinh doanh thua lỗ trước đây của doanh nghiệp quá lớn cũng làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp (vì lợi nhuận này dùng để bù đắp những khoản lỗ trước đây của doanh nghiệp). Do đó thuế thu nhập của doanh nghiệp vẫn bằng 0, vì nhà nước cho phép dùng khoản lợi nhuận này để bù đắp những khoản lỗ trong vòng 5 năm. Ngoài ra, thu nhập từ hoạt động tài chính cũng giảm mạnh qua các năm làm cho tổng lợi nhuận trước thuế cũng giảm. 2.3.2 Tình hình doanh thu của doanh nghiệp: Doanh thu của công ty điện máy – xe đạp – xe máy chia thành ba loại là doanh thu từ hoạt động kinh doanh, doanh thu từ hoạt động tài chính và doanh thu từ hoạt động bất thường phù hợp với từng lĩnh vực kinh doanh khác nhau của doanh. Để xem xét một cách cụ thể, chi tiết hơn thực trạng doanh thu của công ty điện máy – xe đạp – xe máy ta tiến hành nghiên cứu từng bộ phận doanh thu trong tổng doanh thu của công ty (2002-2004). Bảng 2.3: Cơ cấu doanh thu Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 2002 2003 2004 Số tiền % Số tiền % Số tiền % 1. Doanh thu bán hàng 2. Doanh thu tài chính 3. Doanh thu bất thường 266520,6 36,3 215,1 99,9 0,01 0,08 216194,8 12,5 334,1 99,8 0,006 0,14 321140,2 2,17 284,9 99,9 0,0007 0,0009 Tổng doanh thu 266772,0 100 216541,4 100 321427,07 100 (Nguồn: Công ty điện máy – xe đạp – xe máy) Qua tìm hiểu cơ cấu doanh thu giúp ta xác định được phần doanh thu nào là chủ yếu trong tổng doanh thu của doanh nghiệp để có định hướng trong các chiến lược kinh doanh, từ đó tìm biện pháp nâng cao doanh thu cho doanh nghiệp. Từ số liệu của bảng trên cho ta thấy doanh thu bán hàng chiếm tỷ trọng rất lớn, gần như toàn bộ kết quả doanh thu của doanh ngiệp xấp xỉ 100% và cơ cấu này gần như không thay đổi qua các năm. Trong khi đó tỷ trọng doanh thu tài chính và doanh thu bất thường là rất nhỏ. Năm 2004 tỷ trọng doanh thu tài chính là thấp nhất chỉ chiếm 0,0007% trong tổng doanh thu, trong khi đó năm 2003 là 0,006% và năm 2002 là 0,01%. Điều này cho thấy trong những năm gần đây nguồn thu từ hoạt động này đang có xu hướng giảm. Đây cũng là một điều dẽ hiểu và hợp lí vì các khoản nợ của doanh nghiệp quá lớn do vậy mà doanh nghiệp cũng chưa chú trọng đến hoạt động tài chính, do vậy thu nhập từ hoạt động này là rất thấp, thu nhập từ cả hai hoạt động tài chính và hoạt động bất thường chỉ chiếm chưa đến 1% trong tổng doanh thu. Năm 2002 tỷ trọng doanh thu bất thường chiếm 0,08% trên tổng doanh thu, sang năm 2003 tỷ trọng loại doanh thu này tăng lên chiếm 0,14%, song lại giảm xuống vào năm 2004 và chỉ còn 0,009%. Trong khi đó doanh thu bán hàng chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu nhưng tốc độ tăng không cao, thậm chí còn giảm mạnh vào năm 2003. Mặc dù chỉ tiêu doanh thu bán hàng ở năm 2004 đã tăng so với năm 2003 là 104.945,4 trđ tương ứng với tỷ lệ tăng là 48,5%. Điều này càng khẳng định rằng, muốn lợi nhuận tăng cao nhất thiết đòi hỏi doanh nghiệp phải nâng cao doanh thu bán hàng bằng nhiều biện pháp thích hợp để thúc đẩy hoạt động tiêu thụ hàng hoá có như vậy thì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mới đạt kết quả cao. Bên cạnh đó doanh nghiệp nên chú trọng đến các chính sách tài chính hợp lí nhằm thúc đẩy nguồn thu từ hoạt động tài chính và hoạt động bất thường (tuy thu nhập từ hai hoạt động này không ổn định nhưng doanh thu của nó cũng làm tăng hoặc giảm lợi nhuận của toàn doanh nghiệp) 2.3.2.1 Doanh thu từ hoạt động kinh doanh: Như đã phân tích ở phần trên, doanh thu bán hàng chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của toàn công ty, đây là nguồn thu chủ yếu của công ty để bù đắp chi phí, trang trải nợ nần, do vậy chỉ tiêu này có ảnh hưởng rất lớn tới lợi nhuận của công ty. Qua bảng 2.1 ở trên ta thấy, doanh thu bán hàng thay đổi theo từng năm, doanh thu bán hàng năm 2002 là 266.520,5 trđ, đến năm 2003 chỉ tiêu này thấp hơn so với năm 2002 là 50.325,7 trđ tương ứng với tỷ lệ giảm 18%, đến năm 2004 thì doanh thu bán hàng cũng tăng lên đạt 321.140,2 trđ tương ứng với tỷ lệ tăng 48,5%. Trong khi đó các khoản giảm trừ có xu hướng giảm dần qua các năm. Cụ thể, năm 2002 các khoản giảm trừ là 814,4 trđ, năm 2003 giảm xuống còn 287,5 trđ và giảm mạnh ở năm 2004 chỉ còn 6,636 trđ so với 2003. Nếu xét kĩ từng khoản mục giảm trừ thì ta thấy rằng giá trị hàng bán bị trả lại chiếm phần lớn giá trị của khoản mục giảm trừ. Tuy nhiên chỉ tiêu này cũng giảm dần qua các năm. Điều này cũng cho thấy doanh nghiệp đã cố gắng quan tâm đến chất lượng mặt hàng của mình. Nếu như năm 2002 giá trị hàng bán bị trả lại là 587 trđ, sang năm 2003 chỉ còn 287,5 trđ giảm 51,1% và đến năm 2004 chỉ còn 6,636 trđ giảm 97,7%. Tổng doanh thu thuần của doanh nghiệp năm 2002 là 265.706,1 trđ, đến năm 2003 chỉ tiêu này giảm xuống chỉ còn 215.907,2 trđ tương ứng với tỷ lệ giảm 18% so với năm 2002, đến năm 2004 thì doanh thu thuần tăng lên là 321.133,6 trđ tương ứng với tỷ lệ tăng 48,7%. Để có cái nhìn cụ thể hơn, toàn diện hơn về doanh thu của công ty chúng ta xem xét tình hình tiêu thụ một số mặt hàng chủ yếu của công ty trong 2 năm (2003-2004). Bảng 2.4: Tình hình tiêu thụ hàng hoá tại công ty Điện máy – xe đạp– xe máy (2003-2004) Mặt hàng Đơn vị tính 31/12/2003 31/12/2004 Chênh lệch 2003/2004 Xe máy Tủ lạnh Ti vi Điều hoà Máy giặt Điện thoại di động Máy xây dựng Ô tô chiếc chiếc chiếc chiếc chiếc chiếc chiếc chiếc 2000 1500 800 300 170 1000 40 50 3000 2100 650 420 200 1800 45 60 1000 600 -150 120 30 800 5 10 (Nguồn: Công ty điện máy – xe đạp – xe máy) Qua bảng trên ta thấy rằng, nhìn chung tình hình tiêu thụ hàng hoá ở năm 2004 đều tăng so với năm 2003. Mặt hàng xe máy là mặt hàng kinh doanh chính của công ty đã tăng trở lại vào năm 2004, tiêu thụ được 3000 chiếc tăng 1000 chiếc tương ứng với tỷ lệ tăng 50% so với năm 2003. Mặc dù thường xuyên bị cưỡng chế Hải quan do nợ thuế xe máy, bên cạnh đó là nguồn vốn của doanh nghiệp rất hạn hẹp… tuy nhiên năm 2004 doanh nghiệp đã thu được những kết quả đáng mừng: hầu hết các mặt hàng kinh doanh của doanh nghiệp đều vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra và tăng so với năm 2003. Cụ thể ta có thể tham khảo nội dung bảng: “ Kế hoạch – thực hiện chỉ tiêu doanh thu các loại mặt hàng của Công ty Điện máy – xe đạp – xe máy” trong hai năm 2003-2004 như sau: Bảng 2.5: Kế hoạch – thực hiện chỉ tiêu doanh thu các loại mặt hàng tại Công ty điện máy – xe đạp – xe máy (năm 2004) Chỉ tiêu Đơn vị tính KH 2003 Thực hiện 2003 KH 2004 Thực hiện 2004 Tổng doanh thu: Trong đó từ: Xe máy Tủ lạnh Ti vi Điều hoà Máy giặt Điện thoại di động Hạt nhựa Ôtô, máy xây dựng ống thép các loại Trđ Chiếc Chiếc Chiếc Chiếc Chiếc Chiếc Tấn Chiếc Cây 170,000 1,900 1,200 700 250 150 800 1,900 20 45 139,820 1,387 946 454 198 109 397 1,464 21 - 200,000 2,000 1,500 800 0 0 1,000 2,000 0 0 250,000 3,000 2,100 650 420 200 1,800 2800 105 90,000 (Nguồn: Công ty điện máy – xe đạp – xe máy) Nhìn vào bảng trên ta thấy, tất cả các chỉ tiêu thực hiện kế hoạch doanh thu tiêu thụ các loại mặt hàng của năm 2003 đều không đạt, đây cũng chính là nguyên nhân làm cho tổng lợi nhuận của công ty bị sụt giảm, dẫn đến thua lỗ. Tuy nhiên đến năm 2004, tổng doanh thu của công ty đã đạt 250.000 trđ, tăng 50.000 trđ so với kế hoạch và tăng 60.180 trđ so với năm 2003. Những chỉ tiêu kế hoạch về doanh thu bán hàng của các sản phẩm được xây dựng từ đầu năm 2004, chỉ tính đến 9 tháng thực hiện đầu năm 2004 các chỉ tiêu này đều vượt kế hoạch. Có được thành quả như vậy đó là do doanh nghiệp đã thay đổi phương thức bán hàng, xây dựng được hệ thống đại lí tiêu thụ trên toàn quốc, việc thay thế các nguồn hàng truyền thống trước đây bằng nguồn hàng mới như hoá chất, điện thoại di động, máy xây dựng đã từng bước đem lại doanh thu cho doanh nghiệp. Đây có thể nói là những cố gắng của tập thể cán bộ công nhân viên công ty điện máy – xe đạp – xe máy đã khắc phục khó khăn đưa hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp dần đi vào ổn định. Tóm lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đã có những dấu hiệu khởi sắc, các mặt hàng của công ty đang dần lấy lại thị trường, các mặt hàng kinh doanh chính của công ty như xe máy, tủ lạnh, điều hoà số lượng bán ra đều tăng, do đó làm tăng doanh thu bán hàng của công ty. 2.3.3.2 Doanh thu từ hoạt động bất thường: Doanh thu từ hoạt động bất thường tại công ty Điện máy – xe đạp – xe máy chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng doanh thu chủ yếu thu được từ hoạt động thanh lí, nhượng bán tài sản. Để tìm hiểu kĩ nguồn thu này, ta xem bảng doanh thu bất thường trong 3 năm 2002- 2004: Bảng 2.6: Doanh thu bất thường (2002-2004) Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 2002 2003 2004 Chênh lệch 2003/2002 Chênh lệch 2004/2003 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền % Thu nhập BT 215,1 0,08 334,1 0,14 284,9 0,009 119 +55 -49,2 -14,9 (Nguồn: Công ty điện máy – xe đạp – xe máy) Như đã phân tích ở trên ta thấy rằng tỷ trọng doanh thu bất thường chiếm một tỷ lệ rất thấp trong tổng doanh thu của công ty. Tuy nhiên tỷ trọng lợi nhuận bất thường lại chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được. Ta thấy rằng doanh thu bất thường ở năm 2002 là 215,1 trđ chiếm 0,08% so với tổng doanh thu,đến năm 2003 chỉ tiêu này tăng lên và đạt 334,1 trđ chiếm 0,14%, song đến năm 2004 thì doanh thu từ hoạt động này giảm xuống và chỉ còn 284,9 trđ chiếm 0,009% trên tổng doanh thu. Mặc dù hoạt động này chiếm một tỷ trọng không đáng kể trong tổng doanh thu của doanh nghiệp tuy nhiên lợi nhuận này lại giữ một tỷ trọng khá cao trong tổng lợi nhuận của doanh nghiệp. Trong khi đó doanh thu bán hàng chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của doanh nghiệp nhưng lợi nhuận từ hoạt động này không cao do việc gia tăng các yếu tố chi phí làm cho lợi nhuận chung giảm sút. Điều này cho thấy hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không mấy ổn định. 2.3.2.3 Doanh thu từ hoạt động tài chính: Cũng giống như doanh thu bất thường, doanh thu từ hoạt động tài chính chỉ giữ một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng doanh thu của doanh nghiệp. Để xem kĩ sự biến động của chỉ tiêu này ta nghiên cứu bảng sau: Bảng 2.7: Doanh thu hoạt động tài chính qua các năm (2002-2004): Đơn vị : triệu đồng Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2003/2002 2004/2003 Số tiền % Số tiền % Thu nhập từ hoạt động tài chính 36,3 12,5 2,17 -23,8 -65,5 -10,337 -82,6 (Nguồn: Công ty điện máy – xe đạp – xe máy) Nhìn vào bảng trên ta thấy rằng chỉ tiêu thu nhập hoạt động tài chính đang giảm mạnh qua các năm. Nếu như năm 2002 thu nhập từ hoạt động tài chính là 36,3 trđ thì đến năm 2003 con số này chỉ còn 12,5 trđ tương ứng với tỷ lệ giảm là 65,5%, và tiếp tục giảm mạnh ở năm 2004, con số này chỉ còn 2,17 trđ tương ứng với mức giảm là 82,6% điều này cho ta thấy quy mô thu nhập hoạt động tài chính ngày càng giảm với tốc độ nhanh. Thực tế hoạt động tài chính của công ty ngày càng co hẹp, các hoạt động đầu tư tính đến thời điểm hiện tại thì công ty chỉ còn liên doanh liên kết với công ty Shinil của Hàn Quốc trong việc sản xuất máy bơm nước, tuy nhiên hoạt động đầu tư này mang lại cho doanh nghiệp một số lãi rất ít, do vậy hiệu quả từ hoạt động tài chính này không cao. Mặt khác công ty có một cơ sở hạ tầng không sử dụng đến nhiều như kho tại 229 phố Vọng cùng nhà văn phòng nhà xưởng. Thiết nghĩ nếu công ty tận dụng được cơ sở hạ tầng này bằng cách nâng cấp, sửa sang, tổ chức sắp xếp lại cơ sở làm việc, tạo điều kiện cho các đơn vị khác đến thuê sẽ góp phần làm tăng thêm thu nhập từ hoạt động này cho công ty. Tóm lại trong những năm qua, doanh thu từ hoạt động tài chính của công ty còn nhiều hạn chế mặc dù trong những năm gần đây thị trường chứng khoán của nước ta đã có những bước phát triển song công ty vẫn chưa thực sự tham gia vào thị trường mới mẻ và năng động này. Các hoạt động tài chính của công ty mới chỉ dừng lại ở những hoạt động truyền thống như cho thuê tài sản, hợp tác liên doanh. Tuy nhiên ở lĩnh vực liên doanh này doanh nghiệp cũng chưa thu được những kết quả như mong muốn. Có thể nói bộ phận doanh thu từ hoạt động tài chính chưa có một vai trò đáng kể nào trong tổng lợi nhuận của công ty, công ty chưa phát huy hết khả năng hiện có của mình. Đây là một vấn đề đòi hỏi các nhà lãnh đạo công ty cần có những biện pháp và hướng đi đúng đắn cho hoạt động tài chính này. 2.3.3 Tình hình chi phí của doanh nghiệp: Công ty muốn tăng lợi nhuận đòi hỏi phải giải quyết đồng thời cả hai vấn đề đó là nâng cao doanh thu và giảm chi phí. Vậy thực chất tình hình chi phí của doanh nghiệp trong những năm vừa qua như thế nào? Cũng giống như doanh thu, chi phí của doanh nghiệp cũng được chia ra làm 3 loại chi phí cho hoạt động kinh doanh, chi phí cho hoạt động tài chính và chi phí bất thường. Trong đó chi phí cho hoạt động kinh doanh chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng chi phí của doanh nghiệp. Vì vậy đối với công ty điện máy – xe đạp – xe máy thì việc nghiên cứu chi phí hoạt động kinh doanh là ưu tiên hàng đầu trong công tác quản lí chi phí. Chính vì điều này nên trong phần phân tích thực trạng chi phí của doanh nghiệp, em xin được trình bày chủ yếu nội dung chi phí này. Bảng 2.8: Tình hình chi phí kinh doanh của công ty điện máy – xe đạp – xe máy (2002-2004) Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 31/12/2002 31/12/2003 31/12/2004 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng 1. Giá vốn hàng bán 252601,7 95,2 204041,4 93,7 305722,3 95,3 2. Chi phí bán hàng 11277,5 4,2 10685,2 4,9 12419,8 3,8 3. Chi phí quản lí 1562,8 1,6 2532,5 2,4 2560,8 0,79 4. Tổng chi phí 265452 100 217529 100 320703 100 (Nguồn: Công ty điện máy – xe đạp – xe máy) Nhìn vào bảng trên ta thấy: * Giá vốn hàng bán thay đổi qua các năm. Năm 2002 giá vốn hàng bán là 252.601,7 trđ nhưng đến năm 2003 giá vốn hàng bán chỉ còn 204041,4 trđ và đến năm 2004 lại tăng 305.722,6 trđ, tăng thêm so với 2003 là 101680,9 trđ tương ứng với tốc độ tăng là 50%. Trong tổng chi phí giá vốn hàng bán chiếm tỷ trọng cao nhất, năm 2002 tỷ lệ giá vốn trong tổng chi phí là 95,2%, đến năm 2003 giá vốn hàng bán giảm so với 2002 và kéo theo tỷ trọng giá vốn hàng bán cũng giảm song không đáng kể và giữ một tỷ trọng tương đối lớn ở mức 93,7%. Năm 2004, doanh thu tăng làm cho tỷ trọng giá vốn lại tiếp tục tăng cao chiếm tới 95,3% trên tổng chi phí do đó làm cho lãi gộp giảm đi, lợi nhuận sau thuế giảm mạnh. Mặt hàng xe máy, điện tử, điện lạnh nhìn chung do ảnh hưởng của thị trường nên giá vốn tăng. Đây là một nguyên nhân khách quan có tác động xấu tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy công ty phải thường xuyên bám sát thị trường để phán đoán những ảnh hưởng gây bất lợi đối với việc tiêu thụ mặt hàng này, mà đây lại là những mặt hàng kinh doanh chủ yếu của công ty nên việc nghiên cứu kĩ thị trường tiêu thụ, giá cả các loại mặt hàng này sẽ giúp doanh nghiệp giảm thiểu những rủi ro xảy ra đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. * Chi phí bán hàng là toàn bộ các khoản chi phí có liên quan đến hoạt động tiêu thụ. Là một doanh nghiệp thương mại, đáng nhẽ ra chi phí bán hàng phải chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng chi phí của doanh nghiệp tuy nhiên tỷ trọng chi phí này ở công ty điện máy– xe đạp – xe máy lại tương đối thấp song điều này là phù hợp với điều kiện kinh doanh hiện có của doanh nghiệp. Năm 2002 chi phí bán hàng của doanh nghiệp là 11.277,5 trđ, năm 2003 chi phí bán hàng của công ty là 10.685,2 trđ chiếm 4,6% trên tổng chi phí giảm so với năm 2002 là 592,3 trđ tương ứng với tốc độ giảm là 25%, đến năm 2004 chi phí bán hàng tăng lên 12.419,8 trđ tăng so với 2003 là 1.734,6 trđ tương ứng với tốc độ tăng 16%, nhưng tỷ trọng chỉ chiếm 3,8% trong tổng chi phí của doanh nghiệp. * Chi phí quản lí là toàn bộ các khoản chi phí liên quan đến bộ máy quản lí doanh nghiệp, mặc dù chiếm tỷ trọng khá nhỏ trong tổng chi phí, nhưng việc quản lí chặt chẽ chi phí này sao cho bộ máy quản lí doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả với chi phí tiết kiệm nhất đang là mục tiêu mà doanh nghiệp hướng tới. Thực tế cho thấy chi phí quản lí doanh nghiệp đang tăng dần qua các năm. Năm 2002 chi phí quản lí là 1.562,8 trđ chiếm 1,6% tỷ trọng trong tổng chi phí. Đến năm 2003, chi phí quản lí tăng lên là 2.532,5 trđ tương ứng với tốc độ tăng 62%. Sang năm 2004, chi phí quản lí doanh nghiệp tiếp tục tăng thêm 28,3 trđ tương ứng với tốc độ tăng 1,18% so với năm 2003. Ngoài 3 chi phí trên thì hàng năm doanh nghiệp còn chịu một khoản chi phí nữa đó là thanh toán các khoản chi phí lãi vay ngân hàng - đây là một gánh nặng nợ nần của công ty. Nguyên nhân là do cơ cấu nguồn vốn doanh nghiệp chủ yếu dựa trên nợ vay ngắn hạn, chiếm tới 95% tổng nguồn vốn của doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện nay lãi ngân hàng đang ngày càng có xu hướng tăng trở thành một gánh nặng cho công ty mặc dù công ty đã tích cực đàm phán với chủ nợ và trong năm 2003 đã giảm hơn 1,5 tỷ đồng tiền lãi phải trả ngân hàng. Sự gia tăng của khoản chi phí này được thể hiện rõ qua bảng sau: Bảng 2.9: Lãi vay ngân hàng của công ty Điện máy – xe đạp – xe máy trong ba năm (2002-2004) Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2003/2002 2004/2003 Số tiền % Số tiền % Lãi vay ngân hàng 4967,7 5762,5 6063,9 794,8 16 301,4 5,2 (Nguồn: Công ty điện máy – xe đạp – xe máy) Ta thấy rằng trong (2002-2004), cùng với sự tăng lên của vốn vay ngắn hạn và lãi suất ngân hàng thì lãi vay mà công ty phải trả ngân hàng cũng tăng lên qua mỗi năm.Nếu như ở năm 2002, lãi vay ngắn hạn ở ngân hàng của công ty chỉ là 4.976,7 trđ thì đến năm 2003 đã lên tới 5.762,5 trđ tương ứng với tốc độ tăng 16% và tiếp tục tăng ở năm 2004 và đạt con số 6063,9 trđ tương ứng với tốc độ tăng 5%. Ta thấy rằng tốc độ tăng lãi vay của ngân hàng là rất nhanh làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty. Vì vậy trong thời gian tới công ty cần có chiến lược huy động vốn hợp lí nhằm giảm lãi vay ngân hàng, giảm chi phí kinh doanh góp phần tăng lợi nhuận cho công ty. Bên cạnh chi phí bán hàng và chi phí lãi vay ngân hàng, thì công ty còn có chi phí hoạt động tài chính, chi phí bất thường tuy nhiên hai khoản chi phí này chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng chi phí. Ta cùng xem xét các khoản chi phí này qua bảng sau: Bảng 2.10: Chi phí hoạt động tài chính và chi phí bất thường (2002-2004): Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 2002 2003 2004 Số tiền % Số tiền % Số tiền % 1.Chi phí HĐTC 2.Chi phí BT 8,4 0,974 0,003 0,0004 0 28,5 0 0,013 0 0 0 0 Tổng chi phí 265.461,3 100 217.557,5 100 320.703 100 (Nguồn: Công ty điện máy – xe đạp – xe máy) 2.3.4 Mối quan hệ giữa chi phí và doanh thu: Nếu chỉ dừng lại ở việc phân tích riêng rẽ từng chỉ tiêu doanh thu, chi phí thì ta không thể thấy rõ được sự thay đổi của chi phí ảnh hưởng đến doanh thu như thế nào. Muốn vậy ta cần phải phân tích mối quan hệ giữa chi phí và doanh thu. Tỷ lệ này cho biết để thu được 100 đồng doanh thu thuần thì công ty phải bỏ ra bao nhiêu đồng chi phí. Bảng 2.11: Tỷ lệ chi phí trên doanh thu (2002-2004): Chỉ tiêu 2002 2003 2004 1. Tổng chi phí (trđ) 252601 217259 320703 2. Tổng doanh thu (trđ) 266772 216541 321427 3. Tỷ lệ chi phí/doanh thu (%) 94,68 100,33 99,7 (Nguồn: Công ty điện máy – xe đạp – xe máy) Như vậy để thu được 100 đồng doanh thu công ty phải bỏ ra một lượng chi phí khá lớn. Năm 2002 chi phí này là 94,68 đồng, năm 2003 là 100,33 đồng điều này một phần giải thích tại sao lợi nhuận của năm 2003 âm, trong khi đó năm 2004 là 99,7 đồng một con số khá cao. Bảng 2.12: Quan hệ giữa các chỉ tiêu chi phí, lợi nhuận với doanh thu thuần (2002-2004): Chỉ tiêu 2002 (%) 2003 (%) 2004 (%) 1. Doanh thu thuần 100 100 100 2. Giá vốn hàng bán 95 76,79 95,2 3. Lãi gộp 4,9 4,46 4,7 4. Chi phí bán hàng 4,2 4,02 3,86 5. Chi phí quản lí 0,58 0,95 0,79 6. Lãi thuần từ hoạt động kinh doanh 0,009 -0,5 0,13 7. Lợi nhuận trước thuế 0,19 -0,38 0,22 8. Lợi nhuận sau thuế 0,19 -0,38 0,22 (Nguồn: Công ty điện máy – xe đạp – xe máy) Ta xem xét mối quan hệ tỷ lệ giữa chi phí, lợi nhuận với doanh thu thuần để thấy được trong 100 đồng doanh thu thuần có bao nhiêu đồng chi phí, bao nhiêu đồng lợi nhuận, để từ đó thấy được hiệu quả kinh doanh của công ty. Nhìn vào số liệu bảng trên ta thấy cứ trong 100 đồng doanh thu thuần thu được ở năm 2003 thì giá vốn hàng bán chiếm 76,79 đồng trong khi đó năm 2004 là 95,2 đồng. Việc tăng lên của doanh thu bán hàng cũng đồng nghĩa với việc tăng lên của giá vốn hàng bán là điều hoàn toàn hợp lí, tuy nhiên tỷ lệ này là khá cao. Bởi vậy lãi gộp được tạo ra từ năm 2003 chỉ có 4,46 đồng, và năm 2004 là 4,7 đồng, tăng so với năm 2003 là 0,24 đồng. Xem xét tỷ lệ % doanh thu bán hàng, lãi gộp so với doanh thu thuần qua 3 năm thì thấy rằng mặc dù năm 2004 doanh thu thuần đạt ở mức cao nhất trong 3 năm song tỷ lệ lãi gộp so với doanh thu thuần quá thấp chỉ là 4,7% trong khi tỷ lệ giá vốn/doanh thu thuần chiếm tới 95,3%. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu làm cho lãi gộp thấp, doanh thu thuần tăng nhanh nhưng không đủ bù lại sự tăng nhanh của giá vốn hàng bán và các chi phí làm cho tỷ lệ thu nhập thuần chỉ đạt 0,22%. Do vậy doanh nghiệp cần xem lại chi phí mua hàng, có sự điều chỉnh hợp lí giữa giá hàng mua vào phải thoả đáng với doanh thu mà doanh nghiệp thu lại. Tóm lại, giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lí doanh nghiệp tăng lên không phải là bất hợp lí bởi sự gia tăng doanh thu phải đi kèm với sự gia tăng của giá vốn hàng bán nhưng vấn đề ở đây là phải tăng ở mức độ hợp lí. Trên đây là những phân tích về tình hình doanh thu, chi phí của công ty điện máy – xe đạp – xe máy và là 2 nguyên nhân chính tác động đến chỉ tiêu lợi nhuận. Tổng hợp từ việc phân tích 2 chỉ tiêu trên ta có thể rút ra những kết luận sau: -Việc sử dụng chi phí ở công ty còn nhiều bất hợp lí đặc biệt là sự tăng lên của giá vốn hàng bán. - Chi phí lãi vay ngân hàng chiếm tỷ lệ lớn trong chi phí gián tiếp và ảnh hưởng rất lớn tới lợi nhuận. - Xét về tỷ lệ chi phí/ doanh thu ta thấy rằng tỷ lệ này rất cao. - Tốc độ tăng doanh thu chậm hơn tốc độ tăng chi phí do đó kết quả cuối cùng là lợi nhuận thuần thu được từ hoạt đốngản xuất kinh doanh bị giảm sút. Từ những nguyên nhân trên ta thấy rằng công ty cần có những giải pháp nhằm nâng cao doanh thu, tiết kiệm chi phí,khắc phục tình trạng kinh doanh yếu kém như hiện nay. Như vậy qua những phân tích ở trên ta thấy rằng bộ phận doanh thu chiếm tỷ trọng lớn, quyết định chủ yếu tới việc tăng giảm lợi nhuận ở công ty là doanh thu bán hàng. Vì vậy, công ty muốn tăng lợi nhuận thì đòi hỏi các nhà lãnh đạo doanh nghiệp phải quan tâm tới việc nâng cao doanh thu bán hàng nhưng đồng thời phải đi đôi với việc tiết kiệm chi phí bằng nhiều biện pháp thích hợp, có như vậy doanh nghiệp mới đạt được mức lợi nhuận mong muốn. Từ những phân tích trên ta có thể đi tới những kết luận về những mặt đạt được cũng như những hạn chế trong công tác quản trị doanh thu, chi phí tại công ty điện máy – xe đạp – xe máy. 2.4. Đánh giá chung về tình hình quản trị doanh thu và chi phí, giá thành tại công ty Điện máy – xe đạp – xe máy: 2.4.1 Những kết quả đạt được: Công ty Điện máy – xe đạp – xe máy là một doanh nghiệp thương mại nhà nước, có thị trường tiêu thụ tập trung chủ yếu ở hai thành phố lớn trong cả nước đó là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, sau 30 năm thành lập công ty đã không ngừng phát triển và lớn mạnh. Dù trong 30 năm qua công ty đã gặp rất nhiều khó khăn, song với cố gắng nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên, công ty bước đầu cũng thu được những thành quả nhất định, đóng góp ngày càng nhiều vào ngân sách của Nhà nước. Mục tiêu lợi nhuận luôn được Ban giám đốc công ty quán triệt coi đây là nhiệm vụ kinh tế hàng đầu, là điều kiện tồn tại trong cơ chế thị trường hiện nay, vì vậy công ty đã đưa ra nhiều biện pháp để nâng cao lợi nhuận mà một trong những tiêu chí hàng đầu của công ty là nâng cao doanh thu, tiết kiệm chi phí. Trong những năm qua công ty đã tích cực tổ chức lại cơ cấu kinh doanh, đội ngũ lao động trong công ty. Đồng thời xác định nhiệm vụ cụ thể cũng như xây dựng phương hướng kinh doanh cho từng đơn vị thành viên, từ đó có biện pháp chỉ đạo kịp thời. Nhờ vậy công ty đã bước đầu thu được những kết quả đáng khích lệ, bước đầu hạn chế thua lỗ, giảm bớt khó khăn về lao động, tập trung chỉ đạo sự hoạt động của các phòng kinh doanh, coi đây là nơi tạo nguồn hàng và lợi nhuận chính của công ty. Như vậy có thể thấy rằng mặc dù gặp không ít những khó khăn về vốn, nguồn hàng, nhưng đến nay công ty đã cố gắng hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đặt ra, không những thế mà còn vượt chỉ tiêu kế hoạch. Đây có thể nói là những cố gắng đáng khen ngợi từ phía các nhà lãnh đạo cũng như toàn thể cán bộ công nhân viên của công ty. Cơ sở vật chất được khai thác một cách hợp lý, đem lại lợi nhuận cho công ty. Với việc cho Siêu thị Fivimart thuê cơ sở hạ tầng, công ty đã có thêm một khoản thu nhập từ hoạt động này, đóng góp vào tổng lợi nhuận của công ty. Mặt khác việc sử dụng tiết kiệm chỗ làm việc đảm bảo cho công ty có thêm mức thu hàng năm 2,5 tỷ đồng để trang trải thuê đất và khấu hao. Một trong những tồn tại trước đây của công ty là bộ máy quản lí cồng kềnh, công tác quản lí lỏng lẻo, không có biện pháp quản lí kịp thời thì đến nay công ty đã sắp xếp lại cơ cấu bộ máy quản lí một cách hợp lí. Vì vậy sau khi đánh giá nguyên nhân và thực trạng, công ty đã tiến hành tổ chức lại một số bộ phận, phân công bố trí lại lao động phù hợp với năng lực từng người. Tích cực làm việc với ngân hàng và các cơ quan hữu quan để giảm nợ, từng bước cải thiện mối quan hệ vay trả để giảm bớt gánh nặng nợ nần cho công ty, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho các đơn vị, và sử dụng hiệu quả nguồn vốn bổ sung. Thị trường hàng hoá đang từng bước được khôi phục, các mặt hàng truyền thống (xe máy, tủ lạnh, điều hoà) đã dần khôi phục và lấy lại thị trường sau nhiều năm để mất, mặt hàng kinh doanh xe máy không ngừng gia tăng, sau nhiều năm trì trệ. Tới năm 2004 đạt 705 triệu trên tổng doanh thu. Bên cạnh đó xuất hiện một số mặt hàng kinh doanh mới như: hạt nhựa, máy xây dựng, điện thoại di động, đây là những mặt hàng có tiềm năng rộng lớn và có khả năng thay thế những mặt hàng truyền thống của công ty. Quản lí chặt chẽ các khoản chi, thực hiện phương châm tiết kiệm chi phí đến mức tối đa đã được thực hiện một cách nghiêm túc vì vậy chi phí đã giảm đáng kể, cụ thể là: - Được ngân hàng giảm nợ nên chi phí lãi vay giảm đáng kể (khoảng 2 tỷ đồng mỗi năm) - Chi phí điện nước văn phòng phẩm không để lãng phí, diện tích văn phòng phù hộ với nhu cầu, không để dàn trải như trước đây. Công ty đã giải thể 4 đơn vị thành viên năm 1999 nên chi phí gián tiếp giảm. - Thực hiện chính sách “thắt lưng buộc bụng” trong điều kiện hiện nay còn phải giải quyết những tồn tại của công ty. Với những biện pháp tích cực trên đã góp phần duy trì ổn định doanh thu và giảm chi phí, bước đầu hạn chế thua lỗ, tạo lợi nhuận cho công ty. Điều đó đã lấy lại phần nào lòng tin ở khách hàng, tạo sự h

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24898.DOC
Tài liệu liên quan