Tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Nhà máy thiết bị bưu điện: MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hiện nay cùng với quá trình mở của, sự cạnh tranh trên thị trường sẽ ngày càng gay gắt quyết liệt, sức ép của hàng nhập lậu, của người tiêu dùng trong và ngoài nước buộc các nhà kinh doanh cũng như các nhà quản lý phải hết sức coi trọng vấn đề bảo đảm và nâng cao chất lượng.
Chất lượng sản phẩm luôn là điểm yếu kéo dài nhiều năm ở nước ta. Trong nền kinh tế tập trung trước đây, vấn đề chất lượng đã từng được đề cao và được coi như là một mục tiêu quan trọng. Nhưng kết quả chưa mang lại là bao do cơ chế tập trung quan liêu phủ nhận nó trong các hoạt động cụ thể.
Trong hơn 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế xã hội, vấn đề chất lượng sản phẩm dần dần trở về đúng nghĩa của nó. Người tiêu dùng bắt đầu nhận thức được vấn đề chất lượng hàng hoá dịch vụ. Các nhà doanh nghiệp cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này và bắt đầu tìm tòi nghiên cứu những cơ chế mới về chất lượng cho thời kỳ tới. Chất lượng sản phẩm ngày nay ...
64 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1197 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Nhà máy thiết bị bưu điện, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hiện nay cùng với quá trình mở của, sự cạnh tranh trên thị trường sẽ ngày càng gay gắt quyết liệt, sức ép của hàng nhập lậu, của người tiêu dùng trong và ngoài nước buộc các nhà kinh doanh cũng như các nhà quản lý phải hết sức coi trọng vấn đề bảo đảm và nâng cao chất lượng.
Chất lượng sản phẩm luôn là điểm yếu kéo dài nhiều năm ở nước ta. Trong nền kinh tế tập trung trước đây, vấn đề chất lượng đã từng được đề cao và được coi như là một mục tiêu quan trọng. Nhưng kết quả chưa mang lại là bao do cơ chế tập trung quan liêu phủ nhận nó trong các hoạt động cụ thể.
Trong hơn 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế xã hội, vấn đề chất lượng sản phẩm dần dần trở về đúng nghĩa của nó. Người tiêu dùng bắt đầu nhận thức được vấn đề chất lượng hàng hoá dịch vụ. Các nhà doanh nghiệp cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này và bắt đầu tìm tòi nghiên cứu những cơ chế mới về chất lượng cho thời kỳ tới. Chất lượng sản phẩm ngày nay đang trở thành một nhân tố cơ bản để quyết định sự thắng bại trong cạnh tranh quyết định sự tồn tại, hưng vong của từng doanh nghiệp nói riêng cũng như sự thành công hay tụt hậu của nền kinh tế nói chung. Đảm bảo không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm đối với các doanh nghiệp là một yêu cầu khách quan góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, đóng góp vào việc nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp.
Với hơn 47 năm phấn đấu xây dựng và trưởng thành, Nhà máy thiết bị bưu điện Hà Nội bước sang cơ chế thị trường với muôn vàn khó khăn thử thách đã bước đầu đứng vững và đang trên đà phát triển. Trong tình hình sản xuất kinh doanh phức tạp hiện nay, Nhà máy còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm ở thị trường nội địa và nước ngoài mà nguyên nhân cốt lõi là chất lượng và giá thành chưa phù hợp với nhu cầu thị trường. Như vậy để nâng cao chất lượng sản phẩm ở Nhà máy là một vấn đề vô cùng quan trọng và có ý nghĩa thực tiễn.
Vì những lý do trên, trong quá trình thực tập tại Nhà máy thiết bị bưu điện 61 Trần Phú Hà Nội, dưới sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo Trần Đình Chất em đã mạnh dạn chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Nhà máy thiết bị bưu điện”, làm chuyên đề tốt nghiệp.
Ngoài phần mở đầu và kết luận chuyên đề gồm 3 phần:
Phần I: Cơ sở lý luận của vấn đề chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp công nghiệp trong cơ chế thị trường.
Phần II: Thực trạng về chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng sản phẩm ở Nhà máy thiết bị bưu điện Hà Nội.
Phần III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Nhà máy thiết bị bưu điện.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TRẦN ĐÌNH CHẤT đã tận tình hướng dẫn em và cháu xin cảm ơn các cô các chú công tác ở Nhà máy thiết bị bưu điện đã giúp đỡ cháu nhiều trong việc thu thập số liệu để hoàn thành đề tài này.
PHẦN THỨ NHẤT
CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM VÀ QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG CÔNG NGHIỆP TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
I. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP.
Trong cơ chế thị trường việc sản xuất kinh doanh của bất kỳ một doanh nghiệp nào thành công hay thất bại đều phụ thuộc rất lớn vào chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp đó. Đây là một yếu tố quan trọng quyết định khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường, vấn đề chất lượng sản phẩm hơn lúc nào hết được các doanh nghiệp quan tâm một cách nghiêm túc.Việc đưa chất lượng sản phẩm vào nghiên cứu như là một môn học chính đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển khoa học kinh tế ở nước ta.
1. Khái niệm chất lượng sản phẩm.
Hiện nay, theo tài liệu các nước trên thế giới có rất nhiều định nghĩa khác nhau về chất lượng sản phẩm. Mỗi quan niệm khác nhau đều có những căn cứ khoa học và thực tiễn khác nhau và có những đóng góp nhất định thúc đẩy khoa học quản trị chất lượng không ngừng phát triển và hoàn thiện. Tuỳ thuộc vào góc độ xem xét, quan niệm của mỗi nước trong từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội nhất định và nhằm mục tiêu khác nhau. người ta đưa ra nhiều khái niệm về chất lượng sản phẩm cũng khác nhau.
Chất lượng- theo quan điểm triết học – là một phần tồn tại cơ bản bên trong các sự vật hiện tượng. Theo Mác thì chất lượng sản phẩm là mức độ, là thước đo biểu thị giá trị sử dụng của nó. Giá trị sử dụng của một sản phẩm làm nên tính hữu ích của sản phẩm đó và nó chính là chất lượng của sản phẩm.
Theo quan điểm của hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây mà Liên Xô là đại diện thì chất lượng sản phẩm là tổng hợp những đặc tính kinh tế - kỹ thuật nội tại phản ánh giá trị sử dụng và chức năng của sản phẩm đó đáp ứng những nhu cầu định trước cho nó những điều kiện xác định về kinh tế - kỹ thuật. Đây là một định nghĩa xuất phát từ quan điểm của các nhà sản xuất. Về mặt kinh tế, quan điểm này phản ánh đúng bản chất của sản phẩm. Qua đó dễ dàng đánh giá được mức độ chất lượng sản phẩm đạt được nhờ đó xác định được rõ ràng những đặc tính và chỉ tiêu nào cần hoàn thiện. Tuy nhiên, chất lượng sản phẩm chỉ được xem xét một cách biệt lập, tách rời với thị trường, làm cho chất lượng sản phẩm không thực sự gắn với nhu cầu và sự vận động biến đổi của nhu cầu trên thị trường, với hiệu quả kinh tế và điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp. Khiếm khuyết này cũng dễ hiểu bởi vì cũng giống như nước ta, các nước XHCN sản xuất theo kế hoạch, tiêu thụ theo kế hoạch, sản phẩm sản xuất ra không đủ cung cấp cho thị trường nên không có sự so sánh, cạnh tranh về sản phẩm.
Từ đặc điểm về điều kiện kinh tế - xã hội đã dẫn đến cách hiểu chưa đầy đủ về chất lượng sản phẩm và đây cũng là một yếu tố kìm hãm nền kinh tế của các nước XHCN nói chung và nước ta nói riêng.
Bước sang cơ chế thị trường khi nhu cầu thị trường được coi là xuất phát điểm của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh thì định nghĩa trên không còn phù hợp nữa. Quan điểm về chất lượng sản phẩm phải được nhìn nhận năng động thực tiễn và hiệu quả hơn. Tức là khi xem xét chất lượng sản phẩm phải gắn liền với nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường, với chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp. Những quan niệm mới đó được gọi là quan niệm chất lượng sản phảm theo hướng khách hàng. Có rất nhiều tác giả theo quan niệm này, với nhiều cách diễn đạt khác nhau:
Crosby: Chất lượng là sự phù hợp với những yêu cầu hay đặc tính nhất định.
Feigenbaum: Chất lượng sản phẩm là tập hợp các đặc tính kỹ thuật, công nghệ và vận hành của sản phẩm, nhờ chúng mà sản phẩm đáp ứng được các yêu cầu của người tiêu dùng khi sử dụng sản phẩm.
Juran: Chất lượng là sự phù hợp với sử dụng, với công dụng. Phần lớn các chuyên gia về chất lượng trong nền kinh tế thị trường coi chất lượng sản phẩm là sự phù hợp với nhu cầu hay mục đích sử dụng của người tiêu dùng. Các đặc điểm kinh tế – kỹ thuật phản ánh chất lượng sản phẩm khi chúng thoả mãn được những đòi hỏi của người tiêu dùng. Chất lượng được nhìn từ bên ngoài, theo quan điểm của khách hàng. Chỉ có những đặc tính đáp ứng được nhu cầu của hàng hoá mới là chất lượng sản phẩm. Mức độ đáp ứng nhu cầu là cơ sở để đánh giá trình độ chất lượng sản phẩm đạt được. Theo quan niệm này chất lượng sản phẩm không phải là cao nhất và tốt nhất mà là sự phù hợp với nhu cầu.
Để phát huy mặt tích cực và khắc phục những hạn chế của các quan niệm trên. tổ chức tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (ISO) đã đưa ra khái niệm: “ Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể (đối tượng) tạo cho thực thể (đối tượng) có khả năng thoả mãn nhu cầu đã nêu hoặc tiềm ẩn ” (Theo ISO 8402:1994).
Dựa trên khái niệm này, cục đo lường chất lượng nhà nước Việt Nam đã đưa ra khái niệm: “Chất lượng sản phẩm của một sản phẩm nào đó là tổng hợp của tất cả các tính chất biểu thị giá trị sử dụng phù hợp với nhu cầu của xã hội trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, đảm bảo các yêu cầu của người sử dụng nhưng cũng đảm bảo các tiêu chuẩn thiết kế và khả năng sản xuất của từng nước” (TCVN-5814-1994).
Về thực chất, đây là những khái niệm có sự kết hợp của những quan niệm trước đây và những quan niệm trong nền kinh tế thị trường hiện đại.
Bởi vậy những quan niệm này được chấp nhận khá phổ biến và rộng rãI hiện nay.
Tuy nhiên quan niện chất lượng sản phẩm tiếp tục được phát triển, bổ xung hơn nữa. Để đáp ứng nhu cầu khách hàng, các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm của mình nhưng không thể theo đuổi chất lượng cao với bất cứ giá nào mà luôn có giới hạn về kinh tế xã hội và công nghệ. Vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm chắc các loại chất lượng sản phẩm:
Chất lượng thiết kế: Là giá trị thể hiện bằng các tiêu chuẩn chất lượng được phác thảo bằng các văn bản, bản vẽ.
Chất lượng tiêu chuẩn: Là chất lượng được đánh giá thông qua các chỉ tiêu kỹ thuật của quốc gia, quốc tế, địa phương hoặc ngành.
Chất lượng thị trường: Là chất lượng bảo đảm thoả mãn những nhu cầu nhất định, mong đợi của người tiêu dùng.
Chất lượng thành phần: Là chất lượng đảm bảo thoả mãn những nhu cầu mong đợi của một hoặc số tầng lớp người nhất định.
Chất lượng phù hợp: Là chất lượng phù hợp với ý thích, sở trường, tâm lý người tiêu dùng.
Chất lượng tối ưu: Là giá trị các thuộc tính của sản phẩm hàng hoá phù hợp với nhu cầu của xã hội nhằm đạt được hiêụ quả kinh tế cao nhất.
2. Vai trò của chất lượng sản phẩm.
Cơ chế thị trường tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp và nền kinh tế. Đồng thời cũng đặt ra những thách thức đối với các doanh nghiệp.
Hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự chi phối của quy luật kinh tế, trong đó quy luật cạnh tranh chi phối một cách nghiệt ngã nhất, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm vững nhu cầu thị trường cả về mặt không gian, thời gian số lượng và chất lượng.
Thế mạnh của nền kinh thị trường là hàng hoá tràn ngập phong phú cạnh tranh lẫn nhau gay gắt người tiêu dùng được tự do lựa chọn các sản phẩm theo nhu cầu, sở thích, khả năng mua của họ. Họ thực sự là đối tượng mà các nhà sản xuất kinh doanh sẵn sàng và tận tình phục vụ.
Trong doanh nghiệp công nghiệp, chất lượng sản phẩm luôn luôn là một trong những nhân tố quan trọng nhất quyết định cạnh tranh trên thị trường.
Chất lượng sản phẩm là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện chiến lược Marketing, mở rộng thị trường, tạo uy tín, danh tiếng cho sản phẩm của doanh nghiệp, khẳng định vị trí của sản phẩm đó trên thị trường. Từ đó làm cơ sở cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp.
Hiệu quả kinh tế, sự thành công của một doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào sự phát triển sản xuất có năng suất - chất lượng mà còn được tạo thành bởi sự tiết kiệm, đặc biệt là tiết kiệm nguyên vật liệu, thiết bị và lao động trong quá trình sản xuất và sự tiết kiệm nhờ không lãng phí do không sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng tốt. Nâng cao chất lượng chính là điều kiện để đạt được sự tiết kiệm đó nhờ tăng chất lượng sản phẩm dẫn đến tăng giá trị sử dụng và lợi ích kinh tế xã hội trên một đơn vị chi phí đầu vào, giảm lượng nguyên vật liệu sử dụng, tiết kiệm tài nguyên giảm những vấn đề về ô nhiễm môi trường. Như vậy, nâng cao chất lượng sản phẩm chính là con đường ngắn nhất đem lại hiệu quả kinh tế.
Chất lượng sản phẩm được nâng cao giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu kinh doanh của mình là lợi nhuận. Đây đồng thời là điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Chất lượng sản phẩm góp phần đẩy mạnh tiến độ sản xuất, tổ chức lao động, trong một doanh nghiệp nói riêng cũng như trên phạm vi quốc gia nói chung. Khi doanh nghiệp đã đạt được lợi nhuận thì có điều kiện để đảm bảo việc làm ổn định cho người lao động, tăng thu nhập cho họ làm cho họ tin tưởng gắn bó với doanh nghiệp, đóng góp hết mình để sản xuất những sản phẩm có chất lượng tốt giúp doanh nghiệp kinh doanh đạt hiệu quả hơn.
Chất lượng sản phẩm tốt đảm bảo hướng dẫn và kích thích tiêu dùng. Riêng đối với sản phẩm là tư liệu sản xuất thì chất lượng sản phẩm tốt sẽ đảm bảo cho việc trang bị kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, tăng năng xuất lao động.
Chất lượng sản phẩm không những làm tăng uy tín của nước ta trên thị trường quốc tế mà còn tạo điều kiện để tăng cường nguồn thu nhập ngoại tệ cho Đất nước.
3. Đặc điểm và các chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm.
3.1 Đặc điểm của chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm là một phạm trù kinh tế xã hội công nghệ tổng hợp, luôn luôn thay đổi theo không gian và thời gian, phụ thuộc chặt chẽ vào môi trường và điều kiện kinh doanh cụ thể của từng thời kỳ.
Mỗi sản phẩm được đặc trưng bằng các tính chất, đặc điểm riêng biệt nội tại của bản thân sản phẩm. Những đặc tính đó phản ánh tính khách quan của sản phẩm thể hiện trong quá trình hình thành và sử dụng sản phẩm. Những đặc tính khách quan này phụ thuộc rất lớn vào trình độ thiết kế quy định cho sản phẩm.
Nói tới chất lượng là phải xem xét sản phẩm đó thoả mãn tới mức độ nào nhu cầu của khách hàng. Mức độ thoả mãn phụ thuộc rất lớn vào chất lượng thiết kế và những tiêu chuẩn kỹ thuật đặt ra đối với mỗi sản phẩm, ở các nước tư bản qua phân tích thực tế chất lượng sản phẩm trong nhiều năm người ta đã đi đến kết luận rằng chất lượng sản phẩm tốt hay xấu thì 75% phụ thuộc vào giải pháp thiết kế, 20% phụ thuộc vào công tác kiểm tra, kiểm soát và chỉ có 5% phụ thuộc vào kết quả nghiệm thu cuối cùng.
Chất lượng sản phẩm phải thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể về kinh tế – kỹ thuật của mỗi nước, mỗi vùng. Trong kinh doanh, không thể có chất lượng như nhau cho tất cả các vùng mà căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể đề ra các phương án chất lượng cho phù hợp. Chất lượng chính là sự phù hợp về mọi mặt với yêu cầu của khách hàng. Nhiều khi chất lượng sản phẩm còn mang tính dân tộc, tính truyền thống, thị hiếu tiêu dùng.
Chất lượng sản phẩm biểu hiện ở hai cấp độ và phản ánh hai mặt khách quan và chủ quan hay còn gọi là hai loại chất lượng:
Thứ nhất, chất lượng trong tuân thủ thiết kế, thể hiện ở mức độ chất lượng sản phẩm đạt được so với tiêu chuẩn thiết kế đề ra. Khi sản phẩm sản xuất ra có những đặc tính kỹ thuật càng gần với tiêu chuẩn thiết kế thì chất lượng sản phẩm càng cao được phản ánh thông qua các chỉ tiêu như tỷ lệ phế phẩm, sản phẩm hỏng loại bỏ, sản phẩm không đạt yêu cầu thiết kế. Loại chất lượng này phản ánh những đặc tính, bản chất khách quan của sản phẩm, do đó liên quan chặt chẽ đến khả năng cạnh tranh về chi phí.
Thứ hai, chất lượng trong sự phù hợp hay còn gọi là chất lượng thiết kế. Nó phản ánh mức độ phù hợp của sản phẩm đối với nhu cầu của khách hàng. Chất lượng phụ thuộc vào mức độ phù hợp của sản phẩm thiết kế so với nhu cầu và mong muốn của khách hàng. Mức độ phù hợp càng cao thì chất lượng càng cao. Loại chất lượng này phụ thuộc vào mong muốn và sự đánh giá chủ quan của người tiêu dùng, vì vậy nó tác động mạnh mẽ khả năng tiêu thụ sản phẩm.
3.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm.
Khi nói tới chất lượng phải xem xét thông qua các chỉ tiêu đặc trưng mới khách quan và chính xác được. Mỗi sản phẩm được đặc trưng bởi các tính chất, đặc điểm là những đặc tính khách quan của sản phẩm thể hiện trong quá trình hình thành và sử dụng sản phẩm đó. Những đặc tính khách quan này phụ thuộc rất lớn vào trình độ thiết kế quy định cho sản phẩm đó. Mỗi tính chất được biểu thị bởi các chỉ tiêu cơ lý hoá nhất định có thể đo lường đánh giá được. Vì vậy nói đến chất lượng sản phẩm phải đánh giá thông qua hệ thống chỉ tiêu, tiêu chuẩn cụ thể, Đặc điểm này khẳng định những quan điểm sai lầm cho rằng chất lượng sản phẩm là cái không thể đo lường, đánh giá được. Hệ thống chỉ tiêu đó bao gồm:
* Chỉ tiêu nội dung: đặc trưng cho các thuộc tính xác định chức năng chủ yếu mà sản phẩm phải thực hiện và quy định những việc sử dụng sản phẩm đó, trong đó chia thành:
- Chỉ tiêu phân loại: Chỉ rõ sản phẩm được xếp vào một nhóm nhất định nào đó.
- Chỉ tiêu chức năng: Đặc trưng cho hiệu quả sử dụng sản phẩm và tính tiên tiến của các giải pháp kỹ thuật đưa vào sản phẩm.
- Chỉ tiêu kích thước; kết cấu, thành phần cấu tạo: Đặc trưng cho các giải pháp thiết kế cơ bản, sự thuận tiện, khả năng tổ hợp hoá.
* Chỉ tiêu độ tin cậy: Đặc trưng cho tính chất của sản phẩm luôn giữ được khả năng làm việc trong một khoảng thời gian nhất định.
* Chỉ tiêu lao động học: Đặc trưng cho quan hệ giữa người và sản phẩm bao gồm các chỉ tiêu: vệ sinh, nhân chủng, sinh lý của con người liên quan đến quá trình sản xuất và sinh hoạt.
* Chỉ tiêu thẩm mỹ: Đặc trưng cho sự truyền cảm, sự hợp lý về hình thức và sự hài hoà về kết cấu, sự hoàn thiện với sản xuất và độ ổn định của hàng hoá.
Chỉ tiêu công nghệ: Đặc trưng cho quá trình chế tạo, đảm bảo tiết kiệm lớn nhất các chi phí.
* Chỉ tiêu thống nhất hoá: Đặc trưng cho mức độ sử dụng trong sản phẩm, các bộ phận được tiêu chuẩn hoá, thống nhất hoá và mức độ thống nhất với các sản phẩm khác.
* Chỉ tiêu dễ vận chuyển: Đặc trưng cho sự thích ứng đối với việc vận chuyển, đặc trưng cho các công việc chuẩn bị và kết thúc liên quan đến vận chuyển, cụ thể là chi phí trung bình để vận chuyển một đơn vị sản phẩm.
* Chỉ tiêu an toàn: Đặc trưng cho tính đảm bảo an toàn cho người sản xuất và sử dụng.
* Chỉ tiêu về phát minh, sáng chế: Đặc trưng cho khả năng giữ bản quyền.
* Chỉ tiêu tuổi thọ: Đặc trưng cho thời gian sử dụng của sản phẩm.
* Chỉ tiêu về chi phí, giá cả: Đặc trưng cho hao phí xã hội cần thiết để tạo nên sản phẩm.
Các chỉ tiêu này không tồn tại độc lập, tách rời mà có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vai trò, ý nghĩa của từng chỉ tiêu rất khác nhau đối với mỗi sản phẩm khác nhau.
Mỗi loại sản phẩm cụ thể sẽ có những chỉ tiêu mang tính trội và quan trọng hơn những chỉ tiêu khác. Mỗi doanh nghiệp phải lựa chọn và quyết định những chỉ tiêu quan trọng nhất làm cho sản phẩm của mình mang sắc thái riêng, phân biệt với những sản phẩm đồng loại trên thị trường. Hiện nay một sản phẩm được coi là có chất lượng cao ngoài các chỉ tiêu an toàn đối với người sử dụng và xã hội, môi trường ngày càng quan trọng, trở thành bắt buộc đối với các doanh nghiệp. Đặc biệt những là sản phẩm có ảnh hưởng trực tiếp đối với sức khoẻ và cuộc sống của con người.
Ngoài ra, để đánh giá, phân tích tình hình thực hiện chất lượng giữa các bộ phận, giữa các doanh nghiệp đối với hầu hết các loại sản phẩm ta còn có các chỉ tiêu so sánh như sau:
+ Tỷ lệ sai hỏng để phân tích tình hình sai hỏng trong sản xuất.
+ Dùng thước đo để tính, ta có công thức:
Tỷ lệ sai hỏng = x 100
+ Dùng thước đo giá trị để tính ta có công thức:
Tỷ lệ sai hỏng = x 100
Trong quản lý chất lượng sản phẩm người ta chủ yếu tính độ lệch chuẩn và tỷ lệ so đạt chất lượng sản phẩm:
Độ lệch chuẩn:
Xi : giá trị số mẫu
: giá trị trung bình
n : số mẫu lấy ra
Tỷ lệ sản phẩm = x 100
+ Tỷ lệ đạt chất lượng nói chung được tính theo công thức
Tỷ lệ đạt chất lượng = x 100
Để sản xuất kinh doanh một mặt hàng nào đó, doanh nghiệp phải xây dựng tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, phải đăng ký và được các cơ quan quản lý chất lượng sản phẩm Nhà nước ký duyệt. Tuỳ theo từng loại sản phẩm, từng điều kiện của doanh nghiệp mà xây dựng tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm . Chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp phải đạt mức chất lượng đã đăng ký, đó là cơ sở kiểm tra, đánh giá, sản phẩm sản xuất.
II. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM:
Chất lượng sản phẩm chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Có thể chia thành hai nhóm chủ yếu:
1. Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp.
* Lực lượng lao động trong doanh nghiệp:
Đây là nhân tố có ảnh hưởng quyết định tới chất lượng. Dù trình độ công nghệ hiện đại tới đâu nhân tố con người vẫn được coi là nhân tố căn bản nhất tác động đến chất lượng, các hoạt động chất lượng sản phẩm và các hoạt động dịch vụ. Trình độ chuyên môn, tay nghề, kinh nghiệm, ý thức trách nhiệm, tính kỷ luật, tinh thần hiệp tác phối hợp, khả năng thích ứng với sự thay đổi nắm bắt thông tin của mọi thành viên trong doanh nghiệp tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Quan tâm đầu tư phát triển và không ngừng nâng cao nguồn nhân lực là nhiệm vụ quan trọng trong quản lý chất lượng của các doanh nghiệp. Đó cũng là con đường quan trọng nhất nâng các khả năng cạnh tranh về chất lượng của mỗi quốc gia.
* Khả năng về công nghệ, máy móc, thiết bị của doanh nghiệp.
Đối với mỗi doanh nghiệp, công nghệ luôn là một trong những yếu tố cơ bản có tác động mạnh mẽ nhất đến chất lượng sản phẩm. Mức độ chất lượng sản phẩm trong mỗi doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào trình độ hiện đại, cơ cấu tính đồng bộ, tình hình bảo dưỡng, duy trì khả năng làm việc theo thời gian của máy móc thiết bị, công nghệ, đặc biệt là những doanh nghiệp tự động hoá cao, dây chuyền và tính chất sản xuất hàng loạt. Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp không thể tách rời trình độ công nghệ trên Thế giới. Muốn sản phẩm có chất lượng cao, đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế mỗi doanh nghiệp cần có chính sách công nghệ phù hợp cho phép sử dụng những thành tựu khoa học công nghệ của Thế giới, đồng thời khai thác tối đa nguồn công nghệ nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng cao với chi phí hợp lý.
* Vật tư nguyên liệu và hệ thống tổ chức đảm bảo nguyên vật liệu của doanh nghiệp.
Nguyên vật liệu là một yếu tố tham gia trực tiếp vào việc cấu thành nên sản phẩm. Những đặc tính của nguyên liệu sẽ được đưa vào sản phẩm, vì vậy chất lượng nguyên liệu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm sản xuất ra. Không thể có chất lượng cao từ nguyên liệu có chất lượng tồi. Chủng loại, cơ cấu, tính đồng bộ và chất lượng nguyên liệu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Ngoài ra chất lượng hoạt động của doanh nghiệp còn phụ thuộc rất lớn vào việc thiết lập được hệ thống cung ứng nguyên liệu thích ứng tạo trên cơ sở tạo dựng mối quan hệ lâu dài, tạo hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau giữa người sản xuất và người cung ứng đảm bảo khả năng tổ chức cung ứng đầy đủ kịp thời, chính xác đúng nơi cần thiết.
* Trình độ tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất của doanh nghiệp.
Trình độ quản trị nói chung và trình độ quản trị chất lượng nói riêng là một trong những nhân tố cơ bản góp phần đẩy nhanh tốc độ cải tiến hoàn thiện chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp, các chuyên gia quản trị chất lượng đồng tình cho rằng trong thực tế có tới 80 % những vấn đề về chất lượng là do quản trị gây ra. Vì vậy nói đến quản trị chất lượng ngày nay người ta cho rằng trước hết đó là chất lượng của quản trị.
Các yếu tố sản xuất như nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất và người lao động dù ở trình độ cao nhưng nếu không biết tổ chức quản lý hợp lý tạo ra sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa các khâu, các yếu tố của quá trình sản xuất thì không thể tạo ra được sản phẩm có chất lượng cao được. Thậm chí trình độ quản lý tồi còn làm giảm sút chất lượng sản phẩm, gây lãng phí nguồn lực sản xuất dẫn đến giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất lớn vào cơ cấu và cơ chế quản trị, nhận thức, hiểu biết về chất lượng và trình độ chất lượng của cán bộ quản trị, Khả năng xác định chính xác mục tiêu, chính sách chất lượng và chỉ đạo tổ chức thực hiện chương trình, thực hiện kế hoạch chất lượng.
Chất lượng là vấn đề hết sức quan trọng do đó không thể phó mặc cho các nhân viên kiểm tra chất lượng sản phẩm, các doanh nghiệp phải coi chất lượng là vấn đề thuộc trách nhiệm của toàn bộ doanh nghiệp.
2. Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp.
* Nhu cầu thị trường.
Nhu cầu là xuất phát điểm của quá trình quản lý chất lượng tạo lực hút, định hướng cho cải tiến và hoàn thiện chất lượng sản phẩm. Cơ cấu, tính chất, đặc điểm và xu hướng vận động của nhu cầu tác động trực tiếp tới chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm có thể được đánh giá cao ở thị trường này nhưng lại không cao ở thị trường khác. Điều đó đòi hỏi phải tiến hành nghiêm túc, thận trọng trong công tác điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường, phân tích môi trường kinh tế – xã hội, xác định chính xác nhận thức của khách hàng, thói quen, truyền thống, phong tục, tập quán, văn hoá, mục đích sử dụng và khả năng thanh toán... nhằm đưa ra những sản phẩm phù hợp với từng loại thị trường.
Thông thường khi mức sống xã hội còn thấp, sản phẩm khan hiếm thì yêu cầu của người tiêu dùng chưa cao, người ta chưa quan tâm đến chất lượng sản phẩm cao. Nhưng khi đời sống xã hội tăng lên thì đòi hỏi về chất lượng sản phẩm sẽ tâng cao, ngoài tính năng sử dụng còn cả giá trị thẩm mỹ... Người ta chấp nhận mua với giá cao để có sản phẩm ưng ý.
Chính vì vậy, các nhà sản xuất phải sản xuất những sản phẩm có chất lượng đáp ứng được nhu cầu thị trường. Lúc đó việc nâng cao chất lượng sản phẩm mới đi đúng hướng.
* Trình độ tiến bộ khoa học công nghệ.
Trong thời đại ngày nay không có sự tiến bộ kinh tế xã hội nào không gắn liền với tiến bộ khoa học công nghệ trên thế giới. Bắt đầu từ cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ nhất, chủng loại, chất lượng sản phẩm không ngừng thay đổi với tốc độ hết sức nhanh. Tiến bộ của khoa học công nghệ có tác dụng như lực đẩy tạo khả năng to lớn đưa chất lượng sản phẩm không ngừng tăng lên. Nhờ khả năng to lớn của tiến bộ khoa học công nghệ sáng chế những sản phẩm mới, tạo ra và đưa vào sản xuất những công nghệ mới có các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật cao hơn, thay thế nguyên vật liệu mới, tốt, rẻ hơn, hình thành phương pháp và phương tiện kỹ thuật quản trị tiên tiến góp phần giảm chi phí nâng cao chất lượng sản phẩm.
* Cơ chế quản lý chính sách của Nhà nước.
Khả năng cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc chặt chẽ vào cơ chế quản lý của Nhà nước. Cơ chế quản lý vừa là môi trường vừa là điều kiện cần thiết tác động đến phương hướng, tốc độ cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp. Thông qua cơ chế và các chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi kích thích:
+ Tính độc lập, tự chủ sáng tạo trong cải tiến chất lượng của các doanh nghiệp.
+ Hình thành môi trường thuận lợi cho huy động công nghệ mới, tiếp thu ứng dụng những phương pháp quản trị chất lượng hiện đại.
+ Sự cạnh tranh lành mạnh, công bằng, xoá bỏ sức ỳ, tâm lý ỷ lại, không ngừng phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật hoàn thiện chất lượng.
* Điều kiện tự nhiên.
+ Khí hậu: Các doanh nghiệp cần quan tâm đến khí hậu, phân tích mức độ ảnh hưởng khí hậu từng mùa đến từng loại sản phẩm của mình.
+ Bức xạ mặt trời: ảnh hưởng của các tia hồng ngoại trong ánh sáng của mặt trời, những tia này có thể làm thay đổi về mùi vị màu sắc của sản phẩm.
+ Mưa, gió, bão: Làm cho sản phẩm bị ngấm nước, độ ẩm cao, quá trình ô xy hoá mạnh hơn dẫn đến biến đổi chất lượng sản phẩm.
+ Vi sinh vật, côn trùng: Chủ yếu tác động vào một số loại sản phẩm tạo ra quá trình lên men, phân huỷ làm cho sản phẩm nát rữa ố màu...
* Nhân tố kinh tế xã hội.
+ Các yếu tố kinh tế: Sự tác động của các qui luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh.
+ Mức thu nhập của người tiêu dùng cao thì đòi hỏi sản phẩm có chất lượng cao, nó đặc trưng cho những tiêu dùng ở khu vực đô thị và ngược lại.
+ Trình độ văn minh của người tiêu dùng cũng như thị hiếu của người tiêu dùng. Ngày nay người tiêu dùng ưa thích những sản phẩm có chất lượng cao, thuận tiện và dễ sử dụng.
III. CÁC NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG.
1. Khái niệm, bản chất và đặc điểm của quản trị chất lượng.
1.1. Khái niệm quản trị chất lượng.
Cũng giống như khái niệm về chất lượng sản phẩm, hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về quản trị chất lượng. Tuy nhiên những định nghĩa này có nhiều điểm tương đồng và phản ánh được bản chất của quản trị chất lượng.
Khoa học quản trị chất lượng được phát triển và hoàn thiện liên tục thể hiện ngày càng đầy đủ hơn bản chất tổng hợp, phức tạp của vấn đề chất lượng. Vào những năm đầu của thế kỷ XX, chưa có khái niệm về quản trị chất lượng mà chỉ có khái niệm kiểm tra chất lượng: Là việc ứng dụng các phương thức, các thủ tục, các kiến thức đảm bảo để cho phép sản phẩm đang hoặc sẽ sản xuất phù hợp với các yêu cầu trong các hợp đồng kinh tế bằng con đường hiệu quả nhất, kinh tế nhất với sự tham gia của các chuyên gia.
Toàn bộ hoạt động quản trị doanh nghiệp bó hẹp trong lĩnh vực kiểm tra, kiểm soát sản phẩm trong quá trình sản xuất ở các phân xưởng. Sự phát triển của thị trường cùng với việc sản xuất ngày càng nhiều hàng hoá, tính chất cạnh tranh giữa các doanh nghiệp tăng lên rất nhanh. Sau những năm 1950, cung bắt đầu lớn hơn cầu trên thị trường, các doanh nghiệp phải quan tâm tới chất lượng sản phẩm nhiều hơn, khái niệm quản trị chất lượng bắt đầu xuất hiện. Phạm vi và chức năng quản trị chất lượng được mở rộng hơn.
Theo quan điểm phương tây cho rằng: Quản lý chất lượng là một hệ thống hoạt động có hiệu quả của những bộ phận khác nhau trong những tổ chức trên một đơn vị kinh tế chịu trách nhiệm triển khai các thông số chất lượng, duy trì chất lượng đã đạt được và nâng cao mức chất lượng thoả mãn hoàn toàn nhu cầu của người tiêu dùng.
Theo quan điểm của người Nhật: Quản lý chất lượng là hệ thống các biện pháp công nghệ sản xuất tạo điều kiện sản xuất kinh tế nhất những sản phẩm hoặc dịch vụ có chất lượng thoả mãn yêu cầu của người tiêu dùng với chi phí thấp nhất.
Vào những năm của thập kỷ 70, sự cạnh tranh tăng lên đột ngột đã buộc các doanh nghiệp phải nhìn nhận lại và thay đổi quan niệm về quản trị chất lượng. Để thoả mãn khách hàng các doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở khâu sản xuất mà phải quan tâm đến chất lượng ngay cả sau khi đã bán sản phẩm ra thị trường. Quản trị chất lượng đã mở rộng tới tất cả các lĩnh vực từ sản xuất đến tiêu dùng trong toàn bộ đời sống của sản phẩm. Những thay đổi trong cách nhìn và phương pháp quản trị chất lượng trong hàng loạt các doanh nghiệp lớn trên thế giới, đặc biệt là ở Mỹ, Nhật và các nước Châu Âu phát triển đã tạo ra một cuộc cách mạng về chất lượng sản phẩm trên thế giới. Người ta đã biết đến quản trị chất lượng theo phương pháp hiện đại dưới những cái tên quen thuộc phổ biến rộng rãi ở Nhật và phương tây như quản trị chất lượng đồng bộ (TQM).
Theo quan điểm của phương tây: TQM là một hệ thống có hiệu quả thống nhất hoạt động của các bộ phận khác nhau, chịu trách nhiệm triển khai, duy trì mức chất lượng đạt được, nâng cao mức chất lượng để sử dụng và sản xuất sản phẩm ở mức kinh tế thoả mãn hoàn toàn nhu cầu của người tiêu dùng với vai trò kiểm tra quan trọng của các chuyên gia.
Theo quan điểm của Nhật: TQM là một hoạt động tập thể đòi hỏi sức lực của các nhóm công nhân, các cá nhân với sự tham gia của các hãng, các công ty và việc quản lý mang tính chất toàn diện. Quan điểm này nhấn mạnh vai trò của các cá nhân, cho rằng các cá nhân có vai trò quyết định đến từng khâu của quản lý chất lượng sản phẩm.
Đặc điểm lớn nhất của TQM là một thay đổi triết lý trong quản trị kinh doanh. Chất lượng là số một chứ không phải là lợi nhuận nhất thời. Khẩu hiệu “chất lượng là số 1” có khía cạnh đạo đức của nó là đi cùng với tổ chức kinh doanh có trách nhiệm, đạo đức với xã hội. Tuy nhiên đây không phải là mục tiêu trực tiếp của TQM mà là cách tiếp cận quản lý dựa trên việc đặt chất lượng là số một. TQM là một phương pháp đảm bảo tính lợi nhuận bền vững trong thời gian dài hạn. Vì vậy TQM dành ưu tiên cho những đòi hỏi của khách hàng bằng đề xuất những sản phẩm, dịch vụ mà họ mong muốn cùng với nó là việc giảm chi phí nhưng cố gắng giảm chi phí sau khi yêu cầu về chất lượng đã đạt.
Ngoài ra còn có các phương pháp: quản trị chất lượng rộng rãi toàn Nhà máy (CWQM), quản trị chiến lược chất lượng (SQM). Đó là những phương pháp tiếp cận có hệ thống nhằm thiết lập và thực hiện những mục tiêu về chất lượng trong toàn Nhà máy.
Quan niệm chung nhất, khá toàn diện và được chấp nhận rộng rãi hiện nay do tổ chức tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (ISO) đưa ra như sau: “quản trị chất lượng là một tập hợp những hoạt động của chức năng quản trị chung nhằm xác định chính sách chất lượng mục đích, trách nhiệm và thực hiện chúng bằng những phương tiện như lập kế hoạch, điều khiển chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng trong khuôn khổ một hệ thống chất lượng ”.
1.2. Bản chất và đặc điểm của quản trị chất lượng.
Có thể hiểu quản trị chất lượng là việc ấn định mục tiêu, đề ra nhiệm vụ và tìm con đường đạt tới mục tiêu một cách hiệu quả nhất. Mục tiêu của quản trị chất lượng trong các doanh nghiệp là đảm bảo chất lượng sản phẩm phù hợp nhu cầu của khách hàng với chi phí tối ưu. Đó chính là sự kết hợp giữa nâng cao những đặc tính kinh tế – kỹ thuật hữu ích của sản phẩm đồng thời với giảm lãng phí và khai thác mọi tiềm năng để mở rộng thị trường. Thực hiện tốt công tác quản trị chất lượng sẽ giúp doanh nghiệp phản ứng với nhu cầu thị trường, mặt khác góp phần giảm chi phí trong hoạt độnh sản xuất kinh doanh.
Quản trị chất lượng phải được thực hiện thông qua một cơ chế nhất định bao gồm hệ thống các chỉ tiêu, tiêu chuẩn đặc trưng về kinh tế - kỹ thuật biểu thị mức độ thoả mãn nhu cầu thị trường một hệ thống tổ chức điều khiển và hệ thống chính sách khuyến khích phát triển chất lượng. Chất lượng được duy trì, đánh giá thông qua việc sử dụng các phương pháp thống kê trong quản trị chất lượng.
Thực chất quản trị chất lượng là một tập hợp các hoạt động của các chức năng quản trị như hoạch định, tổ chức, kiểm soát và điều chỉnh. Nói cách khác quản trị chất lượng chính là chất lượng của quản trị. Đó là việc hoạt động tổng hợp về kinh tế, kỹ thuật, xã hội và tổ chức. Chỉ khi nào toàn bộ các yếu tố về kinh tế, xã hội công nghệ và tổ chức xem xét đầy đủ trong mối quan hệ thống nhất ràng buộc với nhau trong hệ thống chất lượng mới có cơ sở để nói rằng chất lượng sản phẩm sẽ được đảm bảo.
Trước đây, trong doanh nghiệp công nghiệp người ta thường coi công tác quản lý chất lượng sản phẩm là một chức năng riêng của phòng KCS, các cán bộ nhân viên của phòng này thường xuyên giám sát, thanh tra, kiểm tra, đo lường chất lượng sản phẩm. Từ đó phân loại chất lượng, gạt bỏ những sản phẩm không phù hợp với yêu cầu. Đó là một quan niệm gây lãng phí vì nó làm cho doanh nghiệp đầu tư thời gian và vật liệu vào những sản phẩm hoặc dịch vụ mà không phải bao giờ cũng đảm bảo được. Việc thanh tra sau khi sản xuất xong là một điều tốn kém, không đáng tin cậy và phi kinh tế.
Quản trị chất lượng hiện đại cho rằng vấn đề chất lượng sản phẩm được đặt ra và giải quyết trong phạm vi toàn bộ hệ thống bao gồm tất cả các khâu, các quá trình từ nghiên cứu thiết kế đến chế tạo phân phối và tiêu dùng sản phẩm. Quản trị chất lượng là một quá trình liên tục mang tính hệ thống thể hiện sự gắn bó chặt chẽ giữa doanh nghiệp với môi trường bên ngoài.
Nhiệm vụ của quản trị chất lượng là xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng trong doanh nghiệp. Trong đó:
+ Nhiệm vụ đầu tiên là xác định cho được các yêu cầu chất lượng phải đạt tới ở từng giai đoạn nhất định. Tức là phải xác định được sự thống nhất giữa thoả mãn nhu cầu thị trường với những điều kiện môi trường kinh doanh cụ thể với chi phí tối ưu.
+ Nhiệm vụ thứ hai là duy trì chất lượng sản phẩm: bao gồm toàn bộ những biện pháp, phương pháp nhằm đảm bảo những tiêu chuẩn đã được quy định trong hệ thống (theo thiết kế, theo các tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn ngành và tiêu chuẩn của chính bản thân doanh nghiệp...)
Nhiệm vụ thứ ba là cải tiến chất lượng: Nhiệm vụ này bao gồm quá trình tìm kiếm, phát hiện đưa ra tiêu chuẩn mới cao hơn hoặc đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi của khách hàng trên cơ sở đánh giá liên tục cải tiến những quy định, tiêu chuẩn cũ, hoàn thiện lại tiêu chuẩn hoá tiếp, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp sẽ không ngừng hoàn thiện.
Quản trị chất lượng phải được thực hiện ở mọi khâu, mọi cấp, mọi quá trình. Nó vừa có ý nghĩa chiến lược vừa mang tính tác nghiệp. ở cấp cao nhất của doanh nghiệp luôn thực hiện quản trị chiến lược chất lượng. Cấp phân xưởng và các bộ phận thực hiện quản trị tác nghiệp chất lượng và ở từng nơi làm việc cuả mỗi người lao động thực hiện quá trình tự quản trị chất lượng. Tất cả các bộ phận, các cấp đều có trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn và lợi ích trong quản trị chất lượng của doanh nghiệp.
2. Nội dung của công tác quản trị chất lượng.
Quản trị chất lượng sản phẩm là một hoạt động sâu rộng bao trùm từ khâu đầu đến khâu cuối thông qua công tác kiểm tra.
2.1. Quản trị chất lượng trong khâu thiết kế.
Đây là phân hệ đầu tiên trong quản trị chất lượng. Những thông số kinh tế kỹ thuật thiết kế đã được phê chuẩn là tiêu chuẩn chất lượng quan trọng mà sản phẩm sản xuất ra phải tuân thủ. Chất lượng thiết kế sẽ tác động trực tiếp tới chất lượng của mỗi sản phẩm. Để thực hiện mục tiêu đó những nhiệm vụ quan trọng cần thực hiện như sau:
- Tập hợp, tổ chức phối hợp giữa các nhà thiết kế, các nhà quản trị marketing, tài chính, tác nghiệp, cung ứng để thiết kế sản phẩm. Chuyển hoá những đặc điểm nhu cầu của khách hàng thành đặc điểm sản phẩm. Thiết kế là quá trình nhằm đảm bảo thực hiện những đặc điểm của sản phẩm đã xác định để thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Kết quả của thiết kế là các quá trình, đặc điểm sản phẩm, các bản đồ thiết kế và lợi ích của sản phẩm đó.
- Đưa ra các phương án khác nhau về đặc điểm sản phẩm có thể đáp ứng các nhu cầu khách hàng. Đặc điểm của sản phẩm có thể lấy từ sản phẩm cũ hay cải tiến những đặc điểm cũ cho phù hợp với đòi hỏi mới hay từ nghiên cứu thiết kế ra những sản phẩm hoàn toàn mới.
- Thử nghiệm và kiểm tra các phương án nhằm chọn ra phương án tối ưu.
- Quyết định những đặc điểm sản phẩm đã lựa chọn. Các đặc điểm của sản phẩm thiết kế phải đáp ứng các yêu cầu sau:
+ Đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
+ Thích hợp với khả năng.
+ Đảm bảo tính cạnh tranh.
+ Tối thiểu hoá chi phí.
- Phân tích về kinh tế: Là quá trình đánh giá mối quan hệ giữa lợi ích mà các đặc điểm của sản phẩm đưa ra với chi phí cần thiết để tạo ra chúng. Phân chia từng chức năng thành các đặc điểm cụ thể và ước tính chi phí cho từng đặc điểm đó, ở đây phương pháp đồ thị thường được áp dụng rộng rãi nhất.
- Những chỉ tiêu cần kiểm tra là:
+ Trình độ chất lượng sản phẩm.
+ Chỉ tiêu tổng hợp về tài liệu thiết kế, công nghệ và chất lượng chế thử.
+ Hệ số khuyết tật của sản phẩm chế thử, chất lượng cho sản xuất hàng loạt.
2.2. Quản trị chất lượng trong khâu cung ứng.
Mục tiêu của quản trị trong khâu cung ứng nhằm đáp ứng đúng chủng loại, số lượng, thời gian, địa điểm và các đặc tính kinh tế kỹ thuật cần thiết của nguyên vật liệu đảm bảo cho quá trình sản xuất tiến hành thường xuyên liên tục với chi phí thấp nhất.
Quản trị chất lượng trong khâu cung ứng gồm các nội dung sau:
- Lựa chọn người cung ứng có đủ khả năng đáp ứng những đòi hỏi về chất lượng vật tư, nguyên liệu.
- Tạo lập hệ thống thông tin phản hồi chặt chẽ thường xuyên cập nhật.
- Thoả mãn về việc đảm bảo chất lượng vật tư cung ứng.
- Thoả thuận về phương pháp kiểm tra xác minh.
- Xác định phương pháp giao nhận.
- Xác định rõ ràng đầy đủ thống nhất các điều khoản trong giải quyết những trục trặc, khiếm khuyết.
2.3. Quản trị chất lượng trong khâu sản xuất.
Mục đích của quản trị chất lượng trong sản xuất là khai thác, huy động có hiệu quả các quá trình công nghệ thiết bị và con người đã lựa chọn để sản xuất sản phẩm có chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn thiết kế. Để thực hiện mục tiêu trên, quản trị chất lượng trong đoạn này cần thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Cung ứng vật tư nguyên liệu đúng số lượng, chất lượng, chủng loại, thời gian, địa điểm.
- Kiểm tra vật tư nguyên liệu đưa vào sản xuất.
- Thiết lập và thực hiện các tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục thao tác thực hiện từng công việc.
- Kiểm tra chất lượng các chi tiết, bộ phận, bán thành phẩm sau từng công đoạn, phát hiện sai sót, tìm nguyên nhân sai sót để loại bỏ.
- Kiểm tra chất lượng sản phẩm hoàn chỉnh.
- Kiểm tra hiệu chỉnh thường kỳ các dụng cụ kiểm tra, đo lường chất lượng.
- Kiểm tra thường xuyên kỹ thuật công nghệ, duy trì bảo dưỡng kịp thời.
Những chỉ tiêu chất lượng cần xem xét đánh giá trong giai đoạn sản xuất bao gồm:
- Thông số kỹ thuật của các chi tiết, bộ phận, bán thành phẩm và sản xuất hoàn chỉnh.
- Các chỉ tiêu về tình hình thực hiện kỷ luật công nghệ, kỷ luật lao động trong các bộ phận cả hành chính và sản xuất.
- Các chỉ tiêu về chất lượng quản trị của nhà quản trị.
- Các chỉ tiêu về tổn thất, thiệt hại do sai lầm, vi phạm kỷ luật lao động, quy trình công nghệ.
2.4. Quản trị chất lượng trong và sau khi bán hàng.
Mục tiêu của quản trị chất lượng trong giai đoạn này là nhằm đảm bảo thoả mãn khách hàng nhanh nhất, thuận tiện nhất và với chi phí thấp nhất nhờ đó tăng uy tín, danh tiếng của doanh nghiệp. Ngoài mục tiêu trên, rất nhiều doanh nghiệp còn thu được lợi nhuận lớn từ hoạt động dịch vụ sau khi bán. Vì vậy, những năm gần đây công tác bảo đảm chất lượng trong giai đoạn này được các doanh nghiệp rất chú ý và mở rộng phạm vi, tính chất các hoạt động dịch vụ.
Nhiệm vụ chủ yếu của quản trị chất lượng trong giai đoạn này là:
- Tạo danh mục sản phẩm hợp lý.
- Tổ chức mạng lưới đại lý phân phối, dịch vụ thuận lợi, nhanh chóng.
- Thuyết minh, hướng dẫn đầy đủ các thuộc tính sử dụng, điều liện sử dụng, quy trình, quy phạm sử dụng sản phẩm.
- Nghiên cứu đề xuất những phương án bao gói vận chuyển bảo quản bốc dỡ hợp lý nhằm tăng năng suất, hạ giá thành.
- Tổ chức bảo hành.
- Tổ chức dịch vụ kỹ thuật thích hợp sau khi bán hàng.
IV. NHỮNG XU HƯỚNG ÁP DỤNG HỆ THỐNG CHẤT LƯỢNG ISO 9000 TRONG DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HIỆN NAY ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM.
1. Giới thiệu về hệ thống chất lượng ISO 9000.
1.1. ISO là gì.
ISO ( International Organization for Standardization ) là một tổ chức quốc tế toàn cầu về tiêu chuẩn hoá.
ISO thành lập năm 1947, đóng tại Geneve – Thụy Sĩ – là một tổ chức phi chính phủ và hiện có hơn 100 thành viên chính thức. Mỗi quốc gia thành viên có một tổ chức đại diện ở ISO. Đại diện của Việt Nam là tổng cục đo lường chất lượng tiêu chuẩn chất lượng đã trở thành thành viên chính thức của ISO năm 1977. Hoạt động của ISO liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó chủ yếu là sản phẩm công nghiệp và các vấn đề chung về khoa học kỹ thuật. Hoạt động kỹ thuật của ISO được tiến hành thông qua khoảng 2600 cơ quan và các tổ chức quốc tế chính phủ và phi chính phủ trong đó sử dụng hơn 20.000 chuyên gia trên toàn Thế giới.
Với mục tiêu hỗ trợ cho việc trao đổi quốc tế các sản phẩm và dịch vụ, ISO chủ yếu tập trung vào xây dựng ban hành các tiêu chuẩn về sản phẩm và an toàn tạo thuận lợi cho trao đổi quốc tế hàng hoá và dịch vụ của các công ty, xí nghiệp. Tất cả các tiêu chuẩn ISO biên soạn đều là tiêu chuẩn tự nguyện, áp dụng trên nguyên tắc thoả thuận. Đến nay ISO đã công bố trên 9000 tiêu chuẩn quốc tế trong danh mục tiêu chuẩn hàng năm.
1.2. Bối cảnh phát triển của ISO 9000.
Bộ tiêu chuẩn ISO được bắt đầu nghiên cứu xây dựng từ năm 1979 dựa trên cơ sở bộ tiêu chuẩn BS 5750 và 5179 của viện tiêu chuẩn Anh, là bộ tiêu chuẩn áp dụng cho các cơ quan vừa thiết kế, vừa sản xuất, các cơ quan chỉ sản xuất và các cơ quan chỉ làm dịch vụ. Sau nhiều năm nghiên cứu xây dựng và sửa đổi ISO 9000 được công bố vào năm 1987 bao gồm 5 tiêu chuẩn bao trùm từ hướng dẫn sử dụng và lựa chọn. Đây là phần quan trọng nhất của ISO 9000 .
Năm 1990, Việt Nam đã chấp nhận bộ tiêu chuẩn ISO 9000 dưới hình thức ban hành bộ tiêu chuẩn quốc gia mã số TCVN 5200 – 90, 5201, 5202, 5203, 5204 – 90. Cho đến nay, qua nhiều lần soát xét lại đã được biên soạn bằng tiếng việt gồm 10 tiêu chuẩn và hiện đang khuyến khích áp dụng đối với các doanh nghiệp trong nước, bao gồm các tiêu chuẩn từ ISO 9001 đến 9004. Trong đó:
ISO 9000 bao trùm trên các lĩnh vực
Hợp đồng - Quan niệm - Khái niệmTriển khai/mua (cung ứng)
Sản xuất
Kiểm tra và thử nghiệm, vận chuyển, tồn trữ, bán hàng
Lắp đặt
Hỗ trợ (dịch vụ) sau khi bán
Sản xuất
ISO 9001
ISO 9002
ISO 9003
* Tiêu chuẩn ISO 9001: Tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng trong thiết kế, phát triển sản xuất, lắp đặt và dịch vụ. Xác định rõ các yêu cầu của hệ thống chất lượng đối với nhà cung cấp nhằm đảm bảo sự phù hợp với các yêu cầu quy định trong thiết kế, triển khai, sản xuất, lắp đặt và dịch vụ kỹ thuật.
* Tiêu chuẩn ISO 9002: Tiêu chuẩn về hệ thống chất lượng – mô hình đảm bảo chất lượng trong sản xuất, lắp đặt và dịch vụ. Xác định các yêu cầu của hệ thống chất lượng đối với các nhà cung cấp đảm bảo phù hợp với các yêu cầu quy định trong sản xuất, lắp đặt và dịch vụ.
* Tiêu chuẩn ISO 9003: Tiêu chuẩn về đảm bảo chất lượng trong khâu kiểm tra và thử nghiệm cuối cùng. Xác định rõ các yêu cầu của hệ thống chất lượng và cung cấp mô hình đảm bảo chất lượng chứng tỏ khả năng của các nhà cung cấp trong việc phát hiện và kiểm soát bất kỳ sự không phù hợp của sản phẩm, được chỉ rõ trong khâu kiểm tra và thử nghiệm cuối cùng.
2. Những thuận lợi và khó khăn khi áp dụng ISO 9000 trong doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam.
2.1. Thuận lợi.
2.1.1. Lợi ích bên trong doanh nghiệp.
Nhờ mô hình quản lý theo các yêu cầu của ISO 9000, doanh nghiệp có thể thực hiện các yêu cầu về chất lượng sản phẩm một cách hiệu quả và tiết kiệm nhất, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó doanh nghiệp có thể đưa ra các biện pháp làm đúng ngay từ đầu, xác định đúng nhiệm vụ và chỉ ra cách thực hiện để đạt kết quả mong muốn mà các nhà điều hành không cần phải can thiệp thường xuyên vào các tác nghiệp kinh doanh.
Nhà máy có thể chủ động trong việc đảm bảo chất lượng nguyên vật liệu bằng cách yêu cầu người cung cấp thiết lập hệ thống làm việc theo ISO 9000.
Đối với nhân viên của Nhà máy, đội ngũ nhân viên hiểu rõ hơn vai trò và nhiệm vụ của mình nhờ vào hệ thống tài liệu mà trong đó công việc được hướng dẫn rõ ràng và công khai. Ngoài ra, nhân viên mới có thể học được cách làm việc ngay lập tức bởi vì mọi chỉ dẫn chi tiết cho công việc đều được ghi thành văn bản.
2.1.2. Lợi ích đối với bên ngoài doanh nghiệp.
Tìm kiếm thị trường dễ ràng hơn vì các nhà nhập khẩu nước ngoài (đặc biệt thị trường châu Âu, châu Mỹ) đòi hỏi nhà cung ứng phải áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000.
Nhà máy sẽ chiếm được sự tin tưởng lớn hơn của khách hàng vì Nhà máy liên tục thoả mãn các nhu cầu của khách hàng, họ không có lý do gì phải tìm nguồn cung ứng khác. Điều đó có nghĩa là Nhà máy sẽ ít chịu sự tổn thất do mất khách hàng đem lại, đảm bảo sự phát triển lâu dài.
2.2. Khó khăn.
Như đã nêu ở trên, ở Việt Nam mặc dù chúng ta đã có bộ tiêu chuẩn TCVN 5200 – 90 đến 5204 - 90 tương đương với bộ tiêu chuẩn ISO 9000, nhưng trên thực tế có rất ít doanh nghiệp áp dụng, thậm chí một số cán bộ còn không biết ISO là gì. Sở dĩ việc áp dụng, triển khai bộ tiêu chuẩn ISO còn gặp nhiều khó khăn là do:
Kinh phí từ 15 – 30.000 $ đối với một đơn vị quốc doanh, xí nghiệp vừa và nhỏ chi ra để tư vấn, công nhận ISO 9000 thật sự không dễ có ngay một lúc. Đây là khó khăn lớn nhất hiện nay đối với các doanh nghiệp.
Thực tế trong thời gian qua cho thấy rằng môi trường kinh doanh ở nước ta hiện nay còn quá nhiều rủi ro, bất trắc. Các nhà sản xuất kinh doanh ở Việt Nam hiện nay đang phải đối đầu, cạnh tranh với các công ty nước ngoài, với hàng ngoại một cách gay gắt, không cân sức. Đã vậy, ngoài những mối lo toan về tiếp thị, vốn nguồn cung ứng, con người, công nghệ ... họ còn có mối lo lắng rất lớn về sự thay đổi thuế xuất, biểu thuế xuất nhập khẩu, chính sách cấm nhập các loại mặt hàng... Vì tất cả các chính sách đó nếu không phù hợp sẽ có thể làm khuynh gia bại sản bất kỳ một doanh nghiệp nào, ngành nào và bất kỳ lúc nào.
Tình hình thiếu thông tin cũng gây không ít trở ngại cho các hoạt động của doanh nghiệp như thông tin về tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ những yêu cầu, luật lệ bắt buộc trong các quan hệ thương mại quốc tế (thủ tục thanh toán, yêu cầu về giám định chất lượng, thời hạn, trách nhiệm...) Những thông số về các mặt hàng, số người cung ứng, sản xuất, nhu cầu trong và ngoài nước.
Thêm nữa, những đơn vị khu vực này lâu nay làm ăn quen kiểu quản lý cũ; nhiều đơn vị sản xuất nhỏ còn ở trình độ sản xuất thủ công bán cơ giới, trình độ tay nghề công nhân chưa đồng đều.
Bộ tiêu chuẩn chưa được dịch ra tiếng Việt đầy đủ, vẫn còn một số thuật ngữ chưa được biên dịch và hiểu một cách thống nhất khi áp dụng ISO 9000.
PHẦN THỨ HAI
THỰC TRẠNG VỀ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM VÀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM Ở NHÀ MÁY THIẾT BỊ BƯU ĐIỆN
I. GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ NHÀ MÁY THIẾT BỊ BƯU ĐIỆN.
1. Lịch sử hình thành và phát triển.
Nhà máy thiết bị bưu điện là một doanh nghiệp nhà nước đơn vị thành viên hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam.
Năm 1954 ngay sau khi tiếp quản thủ đô nhà nước Tổng cục bưu điện đã thành lập nhà máy với tên gọi "Nhà máy thiết bị truyền thanh" trên mặt bằng diện tích trên 22.000 m2 với thiết bị ban đầu là "nhà máy dây thép" của Pháp chuyển sản xuất những sản phẩm phục vụ ngành bưu điện và dân dụng. Sản phẩm chủ yếu của nhà máy là:
- Loa truyền thanh.
- Điện từ thanh.
- Nam châm và một số thiết bị thô sơ khác...
Từ năm 1954 - 1956 nhà máy có nhiệm vụ là sản xuất phục vụ cho việc lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và quân đội về những thông tin liên lạc và ngành bưu điện, dân dụng với các sản phẩm là các thiết bị liên lạc phục vụ trực tiếp cho truyền thanh, liên lạc thông tin.
Đến năm 1956 tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà máy vẫn không thay đổi nhưng để phù hợp với tình hình kinh tế của đất nước tại từng thời điểm, để hoàn thành nhiệm vụ của nhà nước giao cho.
Năm 1967 theo quyết định số 389/QĐ ngày 16/06/1967 của cơ quan chủ quản là Tổng cục bưu điện đã tách rời nhà máy thiết bị truyền thanh ra làm 04 nhà máy trực thuộc: Nhà máy 1,2,3,4.
Đầu những năm 1970. Do yêu cầu phát triển kỹ thuật thông tin của Tổng cục bưu điện đã xác nhập nhà máy 1,2,3 thành một nhà máy hạch toán độc lập theo quyết định số 15 /7/QĐ. Ngày 26/03/1970 sản phẩm cung cấp lúc đầu được đa dạng hoá bao gồm:
- Các loại thiết bị dùng về hữu tuyến và vô tuyến.
- Thiết bị truyền thanh và thu thanh.
- Một số sản phẩm chuyên dùng cho cơ sở sản xuất của ngành.
Ngoài ra còn một số sản phẩm dân dụng khác.
Tháng 12 năm 1986 do yêu cầu của Tổng cục bưu điện Nhà máy một lần nữa lại tách ra thành 02 Nhà máy sản xuất kinh doanh ở 02 khu vực.
- Nhà máy thiết bị bưu điện 61 trần phú Ba Đình - Hà Nội.
- Nhà máy vật liệu điện từ loa âm thanh 63 Nguyễn Huy Tưởng - Thanh Xuân - Hà Nội.
Và cho đến tháng 3 năm 1993 Tổng cục bưu điện một lần nữa lại sát nhập 02 Nhà máy trên thành Nhà máy thiết bị bưu điện. Theo quyết định số 202 của Tổng cục bưu điện Nhà máy tiến hành sản xuất kinh doanh ở cả hai khu vực.
- Khu Vực 1: 61 trần phú Ba Đình - Hà Nội.
- Khu Vực 2: 63 Nguyễn Huy Tưởng - Thanh Xuân - Hà Nội.
Đến năm 1997 Nhà máy lại tiếp nhận khu kho đồi A02 Lim - Bắc Ninh. Từ khi được tiếp nhận đến nay nhà máy không ngừng phát huy mọi khả năng có thể, khu kho được cải tạo, tu sửa và đưa vào hoạt động, trở thành cơ sở sản xuất thứ 3 của Nhà máy.
Ngoài trụ sở chính ở Hà Nội, Nhà máy đã có hai chi nhánh ở hai thành phố lớn là Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh. Đây là hai thành phố mà lượng tiêu thụ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của Nhà máy. Ngoài ra hai chi nhánh này cũng giúp cho việc tiếp cận thị trường được dễ dàng và là tiền đề ban đầu để Nhà máy có thể mở rộng trong tương lai.
Trải qua 47 năm xây dựng, phấn đấu và trưởng thành, Nhà máy thiết bị bưu điện đã tự khẳng định mình bằng những bước đi vững vàng tự tin và luôn giữ vững được uy tín trên thị trường. Nhà máy đã phát triển về cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ sản xuất và quản lý. Số công nhân viên chức của Nhà máy tăng lên hàng năm, hiện là 560 người, Nhà máy cũng có một đội ngũ công nhân lành nghề đáp ứng được nhu cầu sản xuất. Sản phẩm của Nhà máy ngày càng đa dạng và phong phú, có chất lượng cao, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, cạnh tranh được với hàng nhập ngoại.
2. Một số chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy thiết bị bưu điện.
Trong các năm 1990 – 1992, sản xuất kinh doanh của Nhà máy gặp nhiều khó khăn do bỡ ngỡ lúng túng trong cơ chế thị trường, thị trường ngoài nước thì chưa thể đáp ứng được, thị trường nội địa bị cạnh tranh khốc liệt đặc biệt là hàng Trung Quốc, Thái Lan. Giá cả vật tư thay đổi, không có dự trữ, việc nhập nguyên vật liệu vật tư rất khó khăn. Máy móc thiết bị, công nghệ lạc hậu, sản phẩm làm ra chưa đạt yêu cầu. Tuy vậy với sự nỗ lực của ban giám đốc và toàn thể cán bộ công nhân viên trong Nhà máy, trong những năm gần đây mọi người đều có việc làm ổn định, có thu nhập, đổi mới thiết bị, cải tiến sản phẩm, đóng góp nghĩa vụ với nhà nước. Kết quả sản xuất kinh doanh trong các năm vừa qua thể hiện trong bảng sau:
Bảng 1: Một số chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh giai đoạn 1998 – 2000
Đơn vị tính: 1000đ
TT
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
1
Vốn kinh doanh
119.697.169.105
135.780.788.118
118.269.460.438
2
Tổng doanh thu
163.032.000.000
145.595.000.000
149.741.000.000
3
Thuế phải nộp
9.791.500.000
10.195.995.000
12.207.000.000
4
Lãi dòng
6.318.000.000
7.393.000.000
6.282.000.000
5
Tổng số lao động(người)
550
560
560
6
Thu nhập bình quân
1.248.000
1.455.000
1.294.000
Qua những chỉ tiêu trên ta thấy ngoài nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thu nhập của cán bộ công nhân viên được cải thiện một cách đáng kể góp phần khuyến khích công nhân viên trong Nhà máy làm việc hăng say vì mục tiêu chung của nhà máy, góp phần thúc đẩy làm cho nhà máy phát triển ngày càng lớn mạnh.
Công tác tài chính kế toán cũng có những bước phát triển tốt, có nhiều biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đã tiến hành thanh lý để giải phóng hàng tồn kho ứ đọng không dùng đến. Chỉ định hội đồng giá mua bán vật tư nguyên liệu và sản phẩm của nhà máy bảo đảm đúng nguyên tắc tài chính. Có các biện pháp đáo nợ thu nợ khách hàng, kết hợp tốt với phòng kế hoạch vật tư để giải quyết vật tư đối trừ công nợ.
Để công tác hạch toán nội bộ được đề cao, ban giám đốc Nhà máy đã cho các phòng ban hạch toán nội bộ để từng đơn vị biết được hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình, đồng thời có những biện pháp hạ chi phí sản xuất. Ngoài ra, hàng năm Nhà máy luôn thực hiện tốt nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước
Bảng 2: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước
Chỉ tiêu
Số còn phải nộp kỳ trước
Số phải nộp kỳ này
Số đã nộp trong kỳ
Số còn phải nộp đến cuối kỳ này
Thuế
Thuế DT
Thuế xuất - nhập khẩu.
Thuế lợi tức
Thu trên vốn
Tiền thuê đất
Các loại thuế khác
Bảo hiểm, kinh phí công đoàn.
BHXH
BHYT
KPCD
656.886.587
406.840.438
227.419.871
22.626.233
-29.522.579
8.065.653.149
2.506.151.274
2.218.438.451
2.553.719.548
134.316.840
562.177.000
850.000
256.358.688
38.453.808
126.866.177
6.256.640.548
2.482.684.536
2.112.070.107
877.419.872
131.439.033
652.177.000
850.000
204.450.636
38.453.808
56.254.000
2.465.899.188
430.307.221
106.368.344
1.903.719.583
25.504.040
92.997.650
22.385.473
70.612.177
Tổng cộng
2.558.896.838
Mặc dù vậy sản xuất kinh doanh của Nhà máy vẫn còn bộc lộ một số điểm yếu chung của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh Việt Nam nói chung, thể hiện là máy móc thiết bị, công nghệ lạc hậu, mặt hàng chưa phong phú và chất lượng sản phẩm chưa cao, chưa đủ sức cạnh tranh với hàng nhập ngoại... Do đó công việc này đòi hỏi vào sự lãnh đạo của ban giám đốc và sự cố gắng hết mình của toàn thể cán bộ công nhân viên trong Nhà máy.
II. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ KỸ THUẬT CHỦ YẾU ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM CỦA NHÀ MÁY THIẾT BỊ BƯU ĐIỆN.
1. Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và đặc điểm của sản phẩm.
Nhà máy có nhiệm vụ sản xuất kinh doanh các sản phẩm điện thoại loa truyền thanh, điện từ thanh, nam châm, sản phẩm bưu chính như kìm bưu chính, dấu bưu chính, phôi niêm phong ... Các loại để cung cấp đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân trên thị trường đặc biệt là phục vụ ngành bưu chính viễn thông Việt Nam.
Là sản phẩm có tính chất sử dụng nhiều lần, sản phẩm của Nhà máy đa dạng về mẫu mã chủng loại, chất lượng… luôn luôn đổi mới cho phù hợp với xu hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá của đất nước.
Bảng 3. Các sản phẩm do Nhà máy thiết bị bưu điện sản xuất.
Ban hành kèm theo QĐ 624/TBG 01-1999-ĐTPT ngày 29/1/1999 của giám đốc Nhà máy thiết bị bưu điện.
T T
Tên sản phẩm.
Giá bán (chưa có VAT)
A
Nhóm thiết bị bưu chính
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Dấu ngang BC.
Dấu nhật ấn cán búa.
Kìm liêm phong.
Dấu nhật ấn tự động.
Phôi liêm phong (kg).
Dây niêm túi thư.
Thùng thư nhỏ.
Thùng thư K96.
Đồng hồ tính cước.
Ô chia thư.
Ca bin kín.
Giá kệ bưu chính.
31.000
194.000
172.000
345.000
118.000
800
164.000
345.000
490.000
1.180.000
2.550.000
982.000
B
Nhóm sản phẩm điện chính.
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
Vỏ hộp HD10-50
Vỏ hộp HP
Vỏ hộp HDPR 30.2
Vỏ hộp HDPR 50.2
Vỏ tủ TS 100.2
Vỏ tủ TS 150.2
Vỏ tủ TS 500.2
Vỏ tủ TS 300.2
Vỏ tủ KP-B 600.2
Vỏ tủ KP-B 1200.2
Phiến FL 10.2
Phiến FL 15.2
Phiến FL 25.2
Phiến PS 10.2
Phiến Krone Connect
Phiến Krone Disconnect
Giá Inoc Knone
Măng sông cáp PSI
Giá MDF
Hộp Scocket
Connector 3na
Thanh luồn cáp 1m
Thanh luồn cáp 1m2
Thanh luồn cáp 1m5
Thanh luồn cáp 2m
PA 509
PA 303
PA 305
Thiết bị kéo cáp
Đai ốc Inox 100x0,4 (cuộn 50m)
Đai ốc Inox 200x0,4 (cuộn 50m)
Khoá định vị A104
Khoá định vị A204
Bộ kìm siết đai
MERO (m2)
83.000
95.000
164.000
227.000
193.000
245.000
450.000
450.000
1.273.000
2.545.000
17.000
24.000
44.000
255.000
45.000
54.000
3.500
290.000
10.000.000
3.000
250
19.000
23.000
29.000
39.000
5.800
7.300
10.000
9.500.000
180.000
410.000
1.400
1.900
2.185.000
1.150.000
C
Nhóm sản phẩm bảo an
1
2
3
4
5
6
7
Hộp bảo an điện tử DS 301
Thiết bị cắt lọc 1 pha 32A
Thiết bị cắt lọc 3 pha 32A
Thiết bị cắt lọc 3 pha 63A
Thiết bị cắt lọc sét 1 pha 63A
Cắt sét 3 pha 135 KA
Cắt sét 1 pha 135 KA
32.000
5.200.000
25.500.000
27.300.000
6.200.000
13.700.000
4.400.000
D
Nhóm sản phẩm điện thoại
1
2
3
4
5
6.
7
POSTEF V701
Điện thoại VN2020
Điện thoại VN2040
Điện thoại Casio 1020
Điện thoại Casio 1040
Điện thoại Panasonic 2365
Điện thoại Panasonic 2315
150.000
170.000
380.000
190.000
480.000
605.000
475.000
E
Nhóm sản phẩm loa
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
Loa nén 15w
Loa nén 30w có biến áp
Loa cài 5w
Loa 130
Loa 160
Loa 200
Loa 250
Loa 300
Loa Treble
Biến áp loa
Nam châm perit
74.000
184.000
23.000
23.000
43.000
55.000
60.000
80.000
28.000
30.000
900
F
Nhóm sản phẩm MDF, ODF, IDF
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
Block MDF 104.2
Block MDF 128.2
Block ngang 128.2 Sun and Sea
Block MDF 100.2 P600
Module bảo an P600
Băng bảo an Simen 5 điểm
Băng bảo an Simen 3 điểm
Dao gài Krone
Phiến bảo an Krone IDF
Module MXS
UC 8-18
1.800.000
1.600.000
1.500.000
2.250.000
35.000
670.000
335.000
520.000
270.000
15.000
1.970.000
2. Đặc điểm về thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Thị trường là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm và hiệu quả tiêu thụ. Nghiên cứu thị trường luôn là việc làm đầu tiên cần thiết đối với các doanh nghiệp. Nếu xét trên thị trường tiêu thụ máy điện thoại và các sản phẩm bưu chính của cả nước Nhà máy thiết bị bưu điện Hà Nội đang nắm giữ khoảng 25% để tăng thị phần của Nhà máy trên thị trường nội địa mà muốn làm được điều này đòi hỏi phải mở rộng sản xuất cũng như nghiên cứu thị trường là những bưu điện các cấp. Nhà máy thiết bị bưu điện đã tổ chức các hoạt động Marketing, nghiên cứu khách hàng nghiên cứu thị trường rất chặt chẽ.
Thị trường của Nhà máy khá rộng, khách hàng là hệ thống bưu điện các cấp trong cả nước nên phòng marketing đã liên hệ trực tiếp với bưu điện các tỉnh, các Thành phố và nắm rõ được nhu cầu tiêu dùng của từng đơn vị này. Trong giai đoạn đầu mới thành lập nhà máy sản xuất theo kế hoạch của nhà nước giao. Nguyên liệu (thị trường đầu vào) rất khó khăn hàng hoá khan hiếm. Do trình độ khoa học kỹ thuật còn lạc hậu, (Do nền công nghiệp chưa phát triển) vì vậy mà sản phẩm tiêu thụ chậm.
Bước sang giai đoạn 1986 đến nay do nền kinh tế chuyển dịch theo cơ chế thị trường, Nhà máy bị hụt hẫng về nhiều mặt trong đó có việc khó thiết lập được mối liên hệ với các nguồn nguyên liệu, chất lượng sản phẩm kém, thị trường đầu ra khó khăn do nhu cầu đòi hỏi của khách hàng ngày càng cao.
Hiện nay Nhà máy đang phải cạnh tranh khá gay gắt để tìm đầu ra cho sản phẩm của mình. Trong số các đối thủ cạnh tranh có đối thủ khá mạnh như thị trường của Nhật Bản, Thái Lan, đặc biệt là hàng nhập lậu của Trung Quốc tràn ngập thị trường Việt Nam. Hiện nay ở trong nước cũng xuất hiện một số doanh nghiệp có sản phẩm cùng loại.
Trong quá trình cạnh tranh này. Nhà máy phải dựa vào thế mạnh về uy tín và quy mô của mình để mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu. Đây là khoản đóng góp đáng kể duy trì hoạt động của Nhà máy. Tình hình thị trường tiêu thụ như vậy đòi hỏi nhà máy phải luôn đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm mới có thể đáp ứng được nhu cầu và nâng cao uy tín nhằm mở rộng thị trường.
Nhìn chung, sản phẩm của Nhà máy vẫn chủ yếu tiêu thụ ở trong nước khách hàng tiêu thụ lớn chỉ có ở các thành phố Hà Nội, Hải phòng, Quảng Ninh và một số tỉnh phía Nam.
3. Đặc điểm công nghệ máy móc thiết bị.
Trong các doanh nghiệp công nghiệp, công nghệ sản xuất là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến tổ chức quy trình sản xuất trong hoạt động kinh doanh nói chung và tổ chức quản lý, sản xuất, công tác kế toán nói riêng. Nhà máy càng phát triển đổi mới máy móc thiết bị hiện đại đáp ứng tình hình sản xuất mới như: Dây chuyền lắp ráp điện thoại, dây chuyền đo bảng điện tử, hệ thống sản xuất PCB theo công nghệ SMT, hệ thống gia công cơ khí tự động, dây chuyền sản xuất ống nhựa dạng thẳng, tới đây đang nhập dây chuyền sản xuất điện thoại tại chỗ và dây chuyền ống nhựa dạng sóng có ưu việt hơn cả vế giá cả lẫn tính năng sử dụng. Bây giờ chúng ta đề cập đến một vài nét về quy trình công nghệ, do sự đa dạng hoá về sản phẩm của nhà máy gồm nhiều loại khác nhau nên ảnh hưởng tới quy trình sản xuất phức tạp qua nhiều bước công việc. Từ khi đưa nguyên liệu vào chế biến đến khi nhập kho thành phẩm là cả một quá trình liên tục, khép kín được phác hoạ bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Quy trình công nghệ.
Vật tư
Sản xuất
Bán thành phẩm phaaphẩm
Lắp ráp
Thành phẩm
Vật liệu từ kho vật tư chuyển đến phân xưởng sản xuất, có nhiều phân xưởng sản xuất sản phẩm ép nhựa, đúc dập, chế tạo (sơn, hàn), sản xuất các sản phẩm cơ khí, sau đó chuyển sang kho bán thành phẩm (nếu là sản phẩm đơn giản thì sau khâu này trở thành sản phẩm hoàn chỉnh chuyển thẳng xuống kho thành phẩm), tiếp theo là chuyển xuống phân xưởng lắp ráp, cuối cùng là nhập kho thành phẩm. Suốt quá trình sản xuất đều có đội kiểm tra chất lượng của Nhà máy (KCS), loại bỏ những sản phẩm hỏng, kém chất lượng, không đạt tiêu chuẩn. Do quy trình công nghệ khép kín nên nhà máy có thể tiết kiệm nguyên liệu và thời gian sản xuất, nguyên liệu nhanh chóng chuyển thành bán thành phẩm ở các tổ sản xuất sau đó quay lại qua quy trình lắp ráp để tạo ra thành phẩm phục vụ cho quá trình bán hàng tiêu thụ. Từ đó dẫn tới tăng doanh thu và lợi nhuận. Ví dụ như ở phân xưởng sản xuất ống nhựa, những đoạn ống thừa hay hỏng đều được đập nhỏ là nguồn nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất. Sau đây là ví dụ về quy trình sản xuất tủ đấu dây của nhà máy.
Sơ đồ 2: Quy trình sản xuất tủ đấu dây của Nhà máy:
N.V.liệu
P.xưởng 2
Vỏ
P.X bưu chính
N.V.liệu
P.xưởng 6
P.xưởng 7
Phiến
Tủ đầu dây
Nhà máy nhập sắt, tôn, inox, đồng về để sản xuất tủ đấu dây. Sau khi nhập vào kho bán thành phẩm những nguyên vậy liệu đó thì kho bán thành phẩm sẽ làm phiếu xuất để để xuất cho các phân xưởng như phân xưởng 2, phân xưởng 6, phân xưởng 7, phân xưởng bưu chính.
Sắt, tôn, inox xuất xuống phân xưởng 2 để chế tạo vỏ tủ. Nhựa, đồng, nhôm được đưa xuống phân xưởng 6 để sản xuất các chi tiết của phiến đầu dây. Sau đó các chi tiết được đưa xuống phân xưởng 7 để lắp ráp thành phẩm.
Vỏ tủ và phiến đấu nối được gọi là bán thành phẩm. Kết thúc quá trình sản xuất, nhập kho bán thành phẩm, từ kho bán thành phẩm làm phiếu xuất kho cho phân xưởng bưu chính lĩnh tất cả vỏ tủ và phiến đấu nối về để lắp ráp thành tủ đấu dây.
Về trang bị kĩ thuật: Trước kia trong điều kiện máy móc thiết bị của Nhà máy còn lạc hậu, do đó sản phẩm của Nhà máy chủ yếu là sản phẩm truyền thống. Mấy năm trở lại đây, Nhà máy đã đổi mới máy móc thiết bị nhiều, có khoảng 90 cái máy như: máy ép nhựa, máy phay, máy bào, máy tiện, máy đột, máy cắt dây, máy khoan, hầu hết các máy nhập những series từ năm 1997 trở lại đây, riêng có máy đúc áp lực là từ năm 1994.
Bảng 4: Danh mục máy móc thiết bị của Nhà máy (một số)
Đơn vị: triệu đồng
Tên máy móc thiết bị.
Thành tiền
1.Máy ép nhựa theo công nghệ phun.
2.Máy ép nhựa.
3.Dây chuyền sơn tĩnh điện.
4.Dây chuyền lắp ráp thiết bị nguồn điện.
5.Dây chuyền lắp ráp ắc quy dùng cho viễn thông.
6.Dây chuyền sản xuất ống nhựa dạng sóng.
7.Dây chuyền sản xuất máy điện thoại.
8.Máy uốn CWC.
9.Máy cắt thuỷ lực CWC.
10.Máy đột dập chính xác, tốc độ cao, điều khiển số CWC...
600
200
210
1.000
200
5.500
14.713
500
700
1.200
Tổng
24.823
4. Đặc điểm về nguyên vật liệu.
Nguyên vật liệu là yếu tố đầu vào không thể thiếu được của bất cứ quá trình sản xuất kinh doanh nào. Nó là khâu đầu tiên trong chu trình sản xuất sản phẩm.
Do đặc điểm sản xuất kinh doanh của Nhà máy nên số lượng hay chủng loại nguyên liệu của Nhà máy rất lớn khoảng từ 500 -:- 600 loại, chủ yếu là các loại sau:
(1). Các loại sắt, thép, kim khí đen, kim khí mầu, trong đó:
+Kim khí đen: - CT3 Í
từ 1- 5mm (tấm).
+Thép gỉ tròn có Í hàng trăm mm.
+Kim khí màu: Đồng, nhôm, chì, kẽm, inox.
(2). Nhựa: ABS, PP, PVC, PMMA, polycacbonat, PVC compound, PE, PA...
(3). Linh kiện điện tử: Linh kiện điện thoại, đồng hồ, nguồn...
Các nguồn nguyên vật liệu trên một phần do các Nhà máy trong nước cung cấp, phần còn lại do các hãng của Trung Quốc (các bột nhựa), Đức (linh kiện điện thoại), Đài Loan, Hàn Quốc.
Nguyên liệu phục vụ cho sản xuất của nhà máy biến động hàng ngày hàng giờ và gồm nhiều chủng loại. Vì vậy đòi hỏi phải cung cấp kịp thời đúng chủng loại để đảm bảo chất lượng sản phẩm.
Để sản xuất ra một loại sản phẩm cần nhiều loại vật liệu khác nhau theo một tỷ lệ nhất định hơn nữa loại vật liệu này không thể thay thế cho vật liệu khác. Khi xây dựng kế hoạch hậu cần vật tư phải đảm bảo tính đồng bộ của nó. Trong quá trình thực hiện nếu có loại vật tư nào không đảm bảo yêu cầu thì nguyên liệu khác hoặc là không thể sử dụng được hoặc là sử dụng một phần tương xứng với loại vật tư nhập không đảm bảo yêu cầu với tỉ lệ thấp nhất. Để phân tích tình hình sử dụng nguyên vật liệu về mặt đồng bộ ta dùng bảng phân tích sau:
Bảng 5: Phân tích tình hình sử dụng vật tư về mặt đồng bộ
Tên vật tư
Đơn vị tính
Kế hoạch nhập
( mua)
Thực nhập
( mua)
Hoàn thành kế hoạch về số lượng (%)
Số sử dụng được
%
Số lượng
1,Thép tròn CT 3 40
Kg
1971
1900
96.4%
80
1576.8
2. Nhôm thỏi
Kg
404
400
90%
80
323.2
3, Thép lá không rỉ
Kg
7464
7400
99.14%
80
5971.2
4, Nhôm cuộn
Kg
1578
15700
99.63%
80
12606.6
Tổng số
25598
25.400
99.23%
20477.6
Qua bảng phân tích ta thấy số lượng vật tư nhập vào so với kế hoạch đạt 99.23 % trong đó nhôm cuộn gần đạt kế hoạch 100%. Số lượng vật tư sử dụng được trong bảng này không đạt được bằng so với số lượng vật tư nhập vào. Như vậy có nghĩa là một số lượng vật tư nhập về mà không sử dụng được theo yêu cầu đã đề ra mà số lượng vật tư sử dụng đựoc chỉ đạt 80% kế hoạch. Nguyên nhân của tình hình trên là nhập vật tư vào Nhà máy không đảm bảo được tính đồng bộ. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra tình trạng ứ đọng vật tư ở nhà máy, thiếu vốn cho sản xuất. Số 80% trong bảng là hệ số sử dụng đồng bộ.
Mặt khác; những nguyên liệu trong nước có rất ít nên phần lớn nhà máy phải nhập từ nước ngoài. Song do nnhiều nguyên nhân tác động nên đã ảnh hưởng tới giá cả không ổn định. Điều này đã làm ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng sản phẩm của Nhà máy. Để tìm được nguồn hàng hợp lý có chất lượng cao, phòng kế hoạch vật tư luôn có trách nhiệm so sánh đối chiếu đơn hàng chào hàng để quyết định nhập loại nào có lợi nhất.
Đứng trước nhiệm vụ được giao phó và các khó khăn hiện nay Nhà máy đã tự vươn lên mạnh mẽ từ mọi mặt nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao hơn để xứng đáng với vai trò của thành phần kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
5. Đặc điểm về lao động của Nhà máy thiết bị bưu điện.
Sau khi có quyết định 217 – HĐBT, Nhà máy thực hiện kinh doanh tự chủ, tổ chức sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả để đạt được kết quả kinh doanh đáng mừng như ngày nay. Căn cứ quyết định 176 của HĐBT về việc sắp xếp lại lực lượng lao động, đồng thời cũng để phù hợp với sự phát triển của Nhà máy. Nhà máy chủ trương giảm biên chế, giải quyết lực lượng dư thừa, không hợp lý, giải quyết các chế độ chính sách đối với người lao động lâu năm và sắp xếp lại lao động phù hợp với ngành nghề, cấp bậc của từng người, tổ chức lại dây chuyền sản xuất tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng ăn khớp với chu trình sản xuất để tăng tốc sản xuất, chất lượng và năng xuất lao động cũng như công xuất của máy móc thiết bị.
Lao động của Nhà máy cho đến nay có 560 người. Nhà máy bao gồm các phân xưởng cơ khí và các phân xưởng lắp ghép mạch, ép nhựa... phù hợp với cả lao động nam và lao động nữ nên về cơ cấu giữa lao động nam và nữ tương đối đều, chiếm tỷ trọng ngang nhau.
Lao động của Nhà máy hầu hết được đào tạo qua trường vô tuyến viễn thông và các trường dậy nghề khác như Bách khoa, Tổng Hợp ... Lao động giản đơn rất ít và hầu như không có, chủ yếu là các kỹ sư vô tuyến điện, tin học.
Bảng 6: Cơ cấu và chất lượng lao động của Nhà máy năm 2000.
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Số lượng
1.Cán bộ quản lí
người
100
2.Nhân viên kinh tế kĩ thuật
người
85
3.Nhân viên khác
người
15
4.Công nhân trực tiếp sản xuất
người
350
5. Công nhân khác
người
10
Tổng cộng
người
560
Bảng 7: Chất lượng lao động của nhà máy năm 2000
Chỉ tiêu
Tổng số
Trình độ
Bậc thợ
Nữ
TC
CĐ
ĐH
1
2
3
4
5
6
7
1.Cán bộ quản lí
100
50
30
20
40
2.Nhân viên kinh tế kĩ thuật
85
10
20
30
20
3.Nhân viên khác
15
3
2
3
5
6
4.Công nhân trực tiếp sx
350
111
100
98
30
3
160
5.Công nhân khác
10
4
3
1
3
6. Đặc điểm về tổ chức quản lý và cơ cấu sản xuất.
Để thực hiện nhiệm vụ của Nhà nước và cấp trên giao, tổ chức công tác và sản xuất của Nhà máy gồm có:
* 9 phòng nghiệp vụ:
+ Phòng đầu tư phát triển.
+ Phòng kỹ thuật số.
+ Phòng công nghệ
+ Phòng kế toán thống kê.
+ Phòng vật tư.
+ Phòng tổ chức.
+ Phòng điều độ sản xuất.
+ Phòng lao động tiền lương.
+ Phòng kế hoạch kinh doanh.
*12 phân xưởng:
+ Phân xưởng 1; phân xưởng khuôn mẫu cơ điện.
+ Phân xưởng 2; phân xưởng chế tạo các sản phẩm có tính chất cơ khí như cắt kim loại, hàn, đột các chi tiết sản phẩm.
+ Phân xưởng 3; sản xuất nam châm.
+ Phân xưởng 4; sản xuất các sản phẩm cơ khí, và các sản phẩm ở đây thì hầu hết được tiến hành từ khâu đầu đến khâu cuối của một sản phẩm.
+ Phẫn xưởng 5; phân xưởng đúc áp lực.
+ Phân xưởng 6; sản xuất các sản phẩm nhựa như dây bưu chính, vỏ tủ nhựa vỏ máy điện thoại...
+ Phân xưởng 7; phân xưởng điện thoại.
+ Phân xưởng 8; phân xưởng sản xuất lắp ráp loa, tăng âm.
+ Phân xưởng 9; phân xưởng lắp ráp: lắp ráp các bán thành phẩm từ các khâu sản xuất khác.
+Phân xưởng bưu chính: sản xuất các sản phẩm bưu chính như; dấu bưu chính, kìm bưu chính phôi niêm phong.
+Phân xưởng PVC cứng: sản xuất ống nhựa luồn cáp ống sóng.
+Phân xưởng PVC mềm: sản xuất ống nhựa phục vụ cho dân dụng.
- Tổ quản lý cơ sở sản xuất tại Lim – Bắc Ninh.
- Tổ chế thử sản phẩm.
Với bộ máy quản lý hành chính và hệ thống tổ chức sản xuất của nhà máy có nhiều thay đổi và khá hoàn thiện so với trước đây (sơ đồ 3). Bộ máy quản lý hiện nay được kiện toàn, gọn nhẹ theo chức năng quản lý và chuyên môn nhằm giảm các chi phí, tận dụng tối đa tiềm năng và nguồn lực của Nhà máy. Trong đó:
Giám đốc chịu trách nhiệm điều hành toàn bộ hoạt động của nhà máy, ký các văn bản, hợp đồng, chứng từ, quyết định các vấn đề tổ chức và cán bộ thuộc thẩm quyền của Nhà máy. Giúp việc cho giám đốc là 2 phó giám đốc phụ trách về sản xuất và phụ trách về kỹ thuật. Các phó giám đốc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, chịu trách nhiệm về các kết quả thực hiện.
Sơ đồ 3: Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý sản xuất.
P.G.Đ.SXKD
P.G.Đ.k.thuật
Các p- ban
c.năng và N.vụ
Các tổ chế thử
các PX
Sản xuất
Các phòng
ban kỹ thuật
PX 1
PX 9
PX PVC mềm
PX PVC cứng
PX PVC B. chính
Giám đốc
Sơ đồ này ta thấy được cơ cấu của nhà máy theo chức năng của các phòng ban.
- Đứng đầu là giám đốc là người chịu trách nhiệm cao nhất về mọi hoạt động của nhà máy, là người đưa ra các quyết định vĩ mô chỉ đạo toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà máy, liền dưới là 2 phó giám đốc phụ trách sản xuất kinh doanh và phụ trách về kỹ thuật, cuối cùng là hệ thống các phòng ban, phân xưởng thực hiện các nhiệm vụ theo tên gọi của nó. Tổng số cán bộ công nhân viên hiện nay là 560 người đang nỗ lực hoạt động sản xuất theo nhiệm vụ được giao.
Chính vì bộ máy tổ chức chặt chẽ như vậy mà Nhà máy đã đạt được thành tựu to lớn trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính của mình. Sản phẩm của Nhà máy sản xuất ra được người tiêu dùng tin cậy, tạo cho Nhà máy có chỗ đứng vững trên thị trường.
III. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM Ở NHÀ MÁY TBBĐ TRONG THỜI GIAN QUA.
1. Tình hình chất lượng sản phẩm ở phân xưởng cơ khí.
Phân xưởng cơ khí đóng vai trò quan trọng ở Nhà máy thiết bị bưu điện. Đây là phân xưởng mang nhiều đặc trưng riêng của Nhà máy, được đưa vào sản xuất ngay từ khi nhà máy mới thành lập, có nhiệm vụ chung là sản xuất loa và từ nam châm. Trước đây, khi mới thành lập máy móc thiết bị của nhà máy đều do cộng hoà dân chủ Đức cung cấp nên máy móc đồng bộ. Kể từ khi chuyển đổi nền kinh tế, do yêu cầu mở rộng sản xuất kinh danh nên máy móc cũ mới xen lẫn nhau, điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm.
Trước đây phân xưởng cơ khí có sản phẩm đầu ra là loa và từ nam châm, rất đảm bảo chất lượng, tỷ lệ sản phẩm đạt chất lượng cao và ổn định. Xong đến giai đoạn 1990 - 1993 do máy móc thiết bị xuống cấp, nguyên liệu mua vào cũng thất thường dẫn đến chất lượng sản phẩm có dấu hiệu đi xuống rõ rệt. Trước tình hình như vậy ban lãnh đạo Nhà máy chỉ đạo bằng mọi biện pháp để nâng cao chất lượng. Sang đến năm 1995 - 1996 chất lượng sản phẩm đã được nâng lên do nhà máy thực hiện kế hoạch đầu tư máy móc thiết bị xong chất lượng lại chưa ổn định do máy móc mới đầu tư hoạt động chưa ổn định, chưa đồng bộ. Bốn năm trở lại đây chất lượng sản phẩm đã được cải thiện, tính ổn cũng được thể hiện qua từng năm, tuy nhiên máy móc cũ mới xen lẫn nhau nên khó mà đảm bảo cũng như đánh giá chính xác chất lượng sản phẩm.
2. Tình hình chất lượng sản phẩm ở phân xưởng sản xuất máy điện thoại. (phân xưởng 7).
Sản phẩm luôn chứa đựng trong nó một hệ thống những đặc điểm nội tại là các chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm. Một doanh nghiệp muốn sản xuất hàng hoá thì phải xây dựng những tiêu chuẩn nhằm đánh giá và đảm bảo các chỉ tiêu đề ra.
Sau khi chuyển sang hoạt động theo cơ chế mới, phân xưởng sản xuất điện thoại của Nhà máy gặp nhiều khó khăn trong sản xuất. Tình hình máy móc thiết bị không được tốt, công nhân bậc cao về hưu nhiều nên tay nghề bình quân của công nhân giảm rõ rệt.
Đứng trước tình hình trên phòng kỹ thuật – KCS có những biện pháp cụ thể: Đối với phân xưởng sản xuất máy điện thoại, chất lượng sản phẩm phải kiểm tra đánh giá 100 % do tổ kiểm tra chịu trách nhiệm. Sau đó có một cán bộ KCS thuộc phân xưởng kiểm tra lại kết quả của tổ kiểm máy, nhưng đây chỉ là phương pháp cảm quan do lượng công việc nhiều. Trong quá trình sản xuất toạ ra sản phẩm, các công nhân vừa trực tiếp sản xuất, vừa có nhiệm vụ kiểm tra, nếu công nhân nào trong quá trình sản xuất mắc sai phạm lỗi, hỏng thì tổ trưởng báo cáo lại cho quản đốc để xử phạt theo mức độ nặng nhẹ do đó cũng hạn chế đựợc nhiều sản phẩm hỏng. Sau quy trình sản xuất máy điện thoại được hoàn thiện có một bộ phận KCS thuộc phòng kỹ thuật có nhiệm vụ chủ yếu là kiểm tra đánh giá lại sản phẩm.
Do áp dụng các biện pháp kiểm tra sát sao như vậy nên đã hạn chế được rất nhiều các sản phẩm hỏng do công nhân gây ra, tuy nhiên cũng không thể tránh khỏi do tay nghề của công nhân và ảnh hưởng trực tiếp của máy móc thiết bị cũ nên cho dù công nhân có tuân thủ chặt chẽ cũng không thể nào hạn chế được. Điều này cũng ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm của Nhà máy làm cho chất lượng sản phẩm của Nhà máy giảm sút.
IV. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM Ở NHÀ MÁY THIẾT BỊ BƯU ĐIỆN.
1. Công tác quản lý chất lượng:
Công tác quản lý chất lượng là rất quan trọng đối với các đơn vị sản xuất, nó giúp cho việc đảm bảo và nâng cao chất lượng thực hiện được tốt, thực tiễn kinh doanh chứng minh rằng: Để đảm bảo năng xuất cao, giá thành hạ và tăng lợi nhuận các nhà sản xuất không còn con đường nào khác là dành mọi ưu tiên cho mục tiêu hàng đầu là chất lượng. Nâng cao chất lượng sản phẩm là con đường kinh tế ngắn nhất, đồng thời cũng chính là một trong những chiến lược quan trọng đảm bảo sự phát triển chắc chắn cuả doanh nghiệp.
Xuất phát từ thực tế đó song song với những chính sách chung ban lãnh đạo Nhà máy đã rất chú trọng đến công tác quản lý chất lượng. Ngay từ khi mới thành lập Nhà máy đã rất quan tâm đến công tác kiểm tra chất lượng đạt hiệu quả cao. Đến đầu năm 1992, do có sự đi xuống về chất lượng ban giám đốc đã chỉ đạo củng cố đội ngũ kiểm tra chất lượng trong đó có việc chỉ đạo phòng kỹ thuật – KCS đôn đốc kiểm tra chất lượng sản phẩm. Đến nay, ngoài công nhân tự kiểm tra chất lượng sản phẩm của ca mình, mỗi phân xưởng còn có bộ phận KCS riêng để theo dõi chặt chẽ từng công đoạn sản xuất, nếu có sự cố phát sinh thì báo cáo cho các cán bộ KCS để xử lý. Hàng tuần, các phân xưởng báo cáo cho cán bộ KCS để theo dõi, thống kê tình hình thực hiện chất lượng sản phẩm và báo cáo lên phòng kỹ thuật – KCS để có nhữnh biện pháp điều chỉnh cho phù hợp.
Cán bộ kiểm tra phòng kỹ thuật – KCS ngoài nhiệm vụ theo dõi kiểm tra chất lượng sản phẩm còn có trách nhiệm kiểm tra chất lượng nguyên liệu đưa vào sản xuất, kiểm tra chất lượng nguyên liệu đưa vào sản xuất ngay từ khi mua về. Nếu loại nguyên liệu nào không đảm bảo theo yêu cầu đề ra, cán bộ kỹ thuật có quyền không nhập kho. Trong quá trình bảo quản, nguyên liệu phải được kiểm tra thường xuyên và kiểm tra từ khi đưa vào sản xuất.
Trong quá trình sản xuất bộ phận KCS của các phân xưởng lấy mẫu sản phẩm, kiểm tra gửi lên cho phòng kỹ thuật – KCS việc kiểm tra được thực hiện bằng phương pháp thí nghiệm và phương pháp cảm quan. Phương pháp cảm quan áp dụng cho 100% số lượng sản phẩm; còn phương pháp thí nghiệm là kiểm tra chọn mẫu.
Phòng kỹ thuật – KCS kết hợp với các phòng ban khác để thực hiện tốt công tác quản lý chất lượng. Chẳng hạn phối hợp với phòng vật tư để thu mua, nhập nguyên vật liệu, bảo quản nguyên vật liệu và bảo quản sản phẩm, tiến hành các biện pháp khuyến khích lao động cần thiết.
Phòng kỹ thuật – KCS chịu trách nhiệm quản lý chất lượng sản phẩm và báo cáo với phó giám đốc phụ trách kỹ thuật, từ đó báo cáo lại với giám đốc. Đây là một hệ thống quản lý chất lượng khá hoàn chỉnh song khi thực hiện vẫn còn nhiều mặt chưa đồng bộ Thể là các phòng ban phối hợp với nhau chưa chặt chẽ, công tác kiểm tra chưa tiến hành kịp thời, quản lý lao động còn lỏng lẻo. Đặc biệt là việc nghiên cứu cải tiến, nâng cao chất lượng chưa quan tâm một cách chính đáng. Chưa chú trọng đến đội ngũ kiểm tra cán bộ kỹ thuật trong công tác. Các phương tiện kiểm tra còn hạn chế làm mất hiệu quả, mất thời gian tốn kém. Chưa có biện pháp khuyến khích công nhân phù hợp.
2. Về chiến lược sản phẩm của doanh nghiệp:
Doanh nghiệp lựa chọn là chiến lược sản phẩm chất lượng cao theo tiêu chuẩn của ngành bưu chính viễn thông, Tiêu chuẩn ISO 9002.
Tiêu chuẩn Việt Nam ISO 9000 (1996) là tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng trong thiết kế, phát triển sản xuất, lắp đặt và dịch vụ. Xác định rõ các yêu cầu của hệ thống chất lượng đối với nhà cung cấp nhằm đảm bảo sự phù hợp với các yêu cầu quy định trong thiết kế, triển khai, lắp đặt và dịch vụ kỹ thuật. Để thực hiện điều này Nhà máy đã:
2.1. Hoạch định chiến lược về chất lượng:
Là phương thức nhằm để đạt được mục tiêu đề ra Nhà máy áp dụng phương pháp: Plan – Do – Check – Act (lập kế hoạch – Thực hiện – kiểm tra – Khắc phục) làm cơ sở tiền đề hoạch định các công việc có liên quan đến hệ thống chất lượng.
2.2. Hoạch định chất lượng cho hệ thống chất lượng.
Hoạch định chất lượng cho hệ thống chất lượng của Nhà máy thiết bị bưu điện bao gồm giai đoạn chất lượng cần đạt được.
- Ban giám đốc và các bộ phận lien quan xác định các giai đoạn cần thiết để đạt được mục tiêu ở môĩ giai đoạn cần xác định cụ thể:
+ Người chịu trách nhiệm.
+ Người thực hiện, người kiểm tra.
+ Thời hạn hoàn thành.
+ Phương tiện, tài liệu hướng dẫn cần thiết cho việc thực hiện.
- Những người có liên quan đã được xác định ở từng giai đoạn tiến hành, kiểm tra giám sát tại những giai đoạn thích hợp nhằm đảm bảo kế hoạch thực hiện đúng.
- Các bộ phận có liên quan tiến hành báo cáo kết quả thực hiện lên ban giám đốc và lưu hồ sơ kết quả thực hiện (Hồ sơ bao gồm: Các bảng phân công trách nhiệm, tiến độ, các báo cáo đánh giá chất lượng nội bộ, báo cáo về hành động khắc phục) Trường hợp kết quả thực hiện không đúng theo kế hoạch thì phải tiến hành lại cho đến khi phù hợp.
2.3. Hoạch định chất lượng cho sản phẩm mới:
Việc hoạch định chất lượng cho sản phẩm mới của Nhà máy thiết bị bưu điện bao gồm:
- Thiết bị, phương pháp và công nghệ nhằm đạt tới mục tiêu chất lượng.
- Các yêu cầu về vật tư linh kiện.
- Tiêu chuẩn tay nghề cần thiết.
- Tài liệu cần thiết cho các quá trình liên quan.
Trách nhiệm:
- Phòng kỹ thuật số và phòng công nghệ đề ra quy trình công nghệ bao gồm các yêu cầu về linh kiện, vật tư trình độ tay nghề, yêu cầu máy móc thiết bị cũng như phương pháp kiểm tra cho các phân xưởng.
- Phòng tổ chức phòng đào tạo nâng cao tay nghề hoặc tuyển dụng lao động mới nếu cần thiết.
Các bộ phận liên quan soạn thảo các văn bản mới phục vụ cho đơn vị mình nếu cần thiết.
Sơ đồ 4: Hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm ở Nhà máy thiết bị bưu điện.
Phó giám đốc phụ trách kỹ thuật
Phòngkỹ thuật
Bộ phận KCS ởcác phân xưởng
Kho
KCS
Giám đốc
Tuy nhiên qua công tác quản lý chất lượng cũng phải khẳng định sự đóng góp to lớn của ban giám đốc và toàn thể cán bộ công nhân viên trong việc duy trì chất lượng sản phẩm trong điều kiện khó khăn nhất của Nhà máy hiện nay. Đứng trước tình hình máy móc phải thay đổi hoàn toàn nguyên vật liệu, thị trường khó khăn nhưng ban lãnh đạo Nhà máy đã có những biện pháp nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm. Trước tiên là việc đổi mới máy móc và công nghệ. Đây là biện pháp mà Nhà máy áp duụng thường xuyên và có sự chú trọng trong thời gian qua. Với điều kiện tài chính không cho phép, Nhà máy đã đi vay để đầu tư mua sắm máy móc thiết bị công nghệ nhằm dần dần hiện đại và đồng bộ hoá sản xuất, Thứ hai là việc tăng cường tuyên truyền giáo dục công nhân viên làm việc vì chất lượng sản phẩm. Các phong trào thi đua đã được phát động thường xuyên, tuy nhiên công tác này cũng cần phải chấn chỉnh hơn nữa sao cho mang lại hiệu quả hơn nữa. Thứ ba, đẩy mạnh công tác kiểm tra, quản lý chất lượng, toàn bộ Nhà máy tham gia công tác kiểm tra và tự kiểm tra, người công nhân tự kiểm tra công việc của mình, phòng kỹ thuật – KCS phối hợp với các phòng ban có liên quan và tự kiểm tra chấn chỉnh hoạt động của mình. Tuy vậy, công tác này chưa được thực hiện triệt để cũng một phần do việc nhận thức của cán bộ công nhân viên trong Nhà máy về vấn đề quản lý chất lượng chưa thật đầy đủ
V. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH CHẤT LƯỢNG VÀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM Ở NHÀ MÁY THIẾT BỊ BƯU ĐIỆN HÀ NỘI.
Trên cơ sở phân tích thực trạng tình hình chất lượng sản phẩm của Nhà máy, kết hợp với những số liệu về quá trình hoạt động trong những năm gần đây chúng ta thấy mặc dù có rất nhiều khó khăn về nguyên liệu, máy móc thiết bị tay nghề của công nhân... Song với nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên trong Nhà máy, đặc biệt là công tác quản lý chất lượng, Nhà máy đã bước đầu lấy lại được vị trí của mình sau một thời gian lâm vào khủng hoảng mà nguyên nhân chủ yếu là chất lượng và giá thành chưa phù hợp với thị trường.
Thời gian gần đây, chất lượng sản phẩm của Nhà máy đã được nâng cao đưa chất lượng sản phẩm lên tới mức 95,5 % sản phẩm loại I. Đây là thành tích đáng kể mà Nhà máy đã đạt được nhằm hoà nhập vào thị trường trong nước cũng như trên thế giới và xác định hướng đi riêng cho mình.
Qua nghiên cứu và đánh giá tình hình chất lượng sản phẩm, ta thấy nổi lên một số ưu nhược điểm sau:
1. Về ưu điểm:
Với bề dày lịch sử 47 năm xây dựng phấn đấu và trưởng thành, trong thời gian qua toàn thể cán bộ công nhân viên trong Nhà máy đã tự mình đạt được một bề dày thành tích, kinh nghiệm đáng khích lệ. Nhờ điều đó mà Nhà máy đã hoà nhập tốt trong cơ chế thị trường mới, từng bước nắm bắt nhu cầu thị trường, cải tiến máy móc thiết bị, đào tạo tay nghề cho công nhân và trình độ lãnh đạo của đội ngũ quản lý. Nhà máy đã đạt được một số thành tích trong việc nâng cao chất lượng, hiện nay Nhà máy đang dựa vào kinh nghiệm hiện có của mình để nâng cao một mức chất lượng sản phẩm nhằm nâng cao một mức nữa chất lượng sản phẩm nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trên cả thị trường nội địa và thế giới. Hơn nữa trải qua 47 năm hoạt động, uy tín của Nhà máy ngày càng được khẳng định, ngày càng có nhiều bạn hàng lớn trung thành với Nhà máy đồng thời được phần lớn người tiêu dùng tín nhiệm và công nhận.
Giống như các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác, Nhà máy thiết bị bưu điện có một đội ngũ công nhân được đào tạo. Công nhân của Nhà máy có trình độ tay nghề, thuận lợi trong việc tiếp nhận, sử dụng các thiết bị công nghiệp tiến. Hàng năm Nhà máy còn nâng cao tay nghề công nhân bằng các khoá đào tạo, phát động các phong trào thi đua, thi thợ giỏi. Nhờ đó ý thức, trách nhiệm của người công nhân được nâng lên rõ rệt. Bước sang cơ chế mới Nhà máy đang từng bước làm cho công nhân nhanh chóng làm quen với máy móc hiện đại và lối sống, phong cách làm việc tác phong công nghiệp. Từ đó có cơ sở để nâng cao chất lượng, hạ giá thành nhằm tăng sức mua, sức cạnh tranh trên thị trường.
Trong công tác quản lý Nhà máy đã đạt được những kết quả đáng kể, nhà máy có một đội ngũ cán bộ quản lý với trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm quản lý, năng nổ, nhiệt tình. Nhờ điều này mà sản xuất kinh doanh của nhà máy luôn ổn định và đang có dấu hiệu tăng trưởng. Ban lãnh đạo Nhà máy đã chủ động cải tiến, đổi mới cơ cấu đúng lúc, đúng hướng. Hiện nay bộ máy quản lý của nhà máy chưa thật hoàn hảo song so với nhiều doanh nghiệp Nhà nước cùng loại thì đây là một bộ máy tương đối gọn nhẹ năng động, quản lý có hiệu quả góp phần vào việc điều hành sản xuất kinh doanh và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Là một doanh nghiệp sản xuất mặt hàng luôn có nhu cầu đổi mới về tính năng sử dụng mẫu mã chất lượng nhà máy tập hợp được một đội ngũ cán bộ kỹ thuật hùng hậu. Với đội ngũ cán bộ này, công tác kiểm tra, giám sát chất lượng sản phẩm luôn được đẩy mạnh, mang tính chuyên môn hoá theo từng khâu sản xuất. Đồng thời công tác tự chế tạo, sửa chữa, nâng cấp máy móc thiết bị được đẩy mạnh làm giảm bớt chi phí nhưng vẫn đảm bảo về yêu cầu về chất lượng và năng xuất lao động. Bộ phận thiết kế, định mức, lập quy trình về mẫu mã, kiểu dáng, chất lượng sản phẩm hoạt động tốt đáp ứng được cả những đơn hàng lớn. Đội ngũ này đã có những đóng góp tích cực vào thành công chung của Nhà máy trong giai đoạn đầy khó khăn thử thách.
Nhờ uy tín của mình, Nhà máy cũng đã có những bạn hàng lớn và hiện nay có xu hướng mở rộng thị trường trên thế giới. Bước vào cơ chế thị trường sau một hồi lúng túng, đến nay nhà máy đã có lượng hàng bán thường xuyên liên tục ở thị trường trong nước được mở rộng qua các năm.
2. Về nhược điểm:
Tương tự như các doanh nghiệp Nhà nước khác, trong tình hình hiện nay, do máy móc nhập từ lâu, lại không có sự đổi mới trong một thời gian dài nên trang thiết bị công nghệ quá cũ và đang xuống cấp, ngoài những máy móc thiết bị mới nhập mấy năm qua nhưng cũng nằm trong tình trạng “ cũ người mới ta’’. Mặc dù nhà máy đã đầu tư nhiều thiết bị công nghệ mới nhưng trên toàn bộ dây chuyền hoạt động của Nhà máy còn khá nhiều máy cũ, máy mới xen lẫn những đặc tính kỹ thuật khác nhau sẽ gây ảnh hưởng đến tính ổn định và đồng bộ của chất lượng sản phẩm. Do ảnh hưởng của điều kiện sản xuất, một số thiết bị xuống cấp nhanh do đó chất lượng sản phẩm bị ảnh hưởng. Nhà xưởng của nhà máy qua một thời gian dài sử dụng, chưa được thiết kế giảm tiếng ồn nên cũng ảnh hưởng đến năng xuất lao động.
Ngoài ra, do những bạn hàng lớn đặt hàng đột xuất dẫn đến tình trạng công nhân làm việc không đều đặn có lúc phải dãn ca để đạt kế hoạch giao hàng, do đó chất lượng sản phẩm cũng bị ảnh hưởng về chất lượng, nguyên vật liệu đầu vào tuy đã qua kiểm tra nhưng vẫn không tránh khỏi thiếu xót, chất lượng nguyên liệu không đồng bộ dẫn đến thiệt hại cho quá trình sản xuất, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
Đội ngũ cán bộ quản lý của nhà máy có trình độ chuyên môn cao song bước sang cơ chế thị trường một cách quá nhanh chóng thành ra chưa quen với các phương pháp quản lý hiện đại. Đây không phải là điểm yếu của riêng Nhà máy mà là thực trạng của hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước khác khi chuyển sang kinh doanh theo cơ chế mới.
Đội ngũ công nhân vẫn còn một số chưa có ý thức với sản xuất, với chất lượng sản phẩm. Thái độ chấp hành kỷ luật chưa tốt. Việc chấp hành quy trình công nghệ, thao tác của công nhân không tốt nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng sản phẩm. Tình trạng những sai hỏng sản phẩm sản xuất chủ yếu do lỗi ý thức của công nhân. Phương hướng đổi mới đa dạng hoá sản phẩm đã được thực hiện nhưng chưa thật hoàn chỉnh.
3. Nguyên nhân:
Trong điều kiện hiện nay của nền kinh tế nói chung cũng như của Nhà máy nói riêng, việc gặp khó khăn trên là điều không thể tránh khỏi. Muốn tồn tại và phát triển được trước hết Nhà máy phải xác định được những nguyên nhân, có phương hướng khắc phục kịp thời. Nhìn nhận về nguyên nhân ta có thể phân thành 2 loại: Nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan.
3.1 Nguyên nhân chủ quan:
Quá trình đào tạo và tự đào tạo còn nhiều hạn chế. Một số cán bộ công nhân viên đổi mới tư duy còn chậm, chưa thích ứng được với hoạt động sản xuất linh doanh trong cơ chế mới.
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm của Nhà máy chưa thật sự được đẩy mạnh. Tổ chức các kênh tiêu thụ chưa hợp lý phòng thị trường chưa thật sự làm tốt nhiệm vụ của mình, thị trường thu hẹp, quá trình tiếp xúc với khách hàng bị hạn chế... Điều này làm cho chất lượng sản phẩm không theo kịp nhu cầu thị trường.
Nhà máy chưa có các giải pháp để công nhân tự làm việc, tự giác nâng cao chất lượng sản phẩm, chưa huy động được tất cả các phòng ban tham gia vào công tác nâng cao chất lượng sản phẩm.
3.2. Nguyên nhân khách quan:
Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế một cách nhanh chóng, những nếp suy nghĩ và lề lối làm việc trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung không thể thay đổi một sớm một chiều được. Bản thân người lao động chưa quan niệm được rằng chất lượng sản phẩm là trách nhiệm và quyền lợi của mình.
Quá trình mở cửa diễn ra một cách đột ngột, môi trường kinh doanh và hành lang pháp luật còn chưa được tạo dựng đầy đủ nên Nhà máy phải đối đầu với cuộc cạnh tranh gay gắt, đôi khi bất lợi cho nhà máy, ở trong nước, do hàng hoá nhập lậu từ Trung Quốc, Thái Lan...tràn vào đôi khi làm nhà máy mất thị trường. ở nước ngoài, sản phẩm của nhà máy không đủ sức cạnh tranh, nhà máy cũng không có tiềm lực để mở rộng thị trường bên ngoài.
Các thị trường đầu vào ở nước ta phát triển chậm như là thị trường lao động nên doanh nghiệp thiếu nguồn lực lao động giỏi.
PHẦN THỨ BA
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM Ở NHÀ MÁY THIẾT BỊ BƯU ĐIỆN
Ngày nay, chất lượng sản phẩm đã và đang trở thành một yếu tố quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ một doanh nghiệp nào. Nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trên thị trường. Do có tầm quan trọng như vậy nên các doanh nghiệp đều tập trung củng cố công tác quản lý chất lượng sản phẩm của mình. Ngay từ khi thành lập Nhà máy đến nay, hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm ở Nhà máy thiết bị bưu điện Hà Nội đã được hình thành và đi vào hoạt động. Mặc dù có nhiều quyết tâm và biện pháp để nâng cao chất lượng sản phẩm nhưng thực tế hiện nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng về chất lượng.
Từ thực trạng đó và qua những đánh giá về ưu nhược điểm xem xét các nguyên nhân đã làm ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm của Nhà máy. Trên cơ sở kế thừa, phát huy những thành tựu mà Nhà máy đã đạt được để đề ra một số biện pháp để đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm ở Nhà máy thiết bị bưu điện theo hướng: Đưa công tác chất lượng lên thành chất lượng chung của mọi phòng ban và mọi thành viên trong Nhà máy; nâng cao chất lượng trên cơ sở tình hình, khả năng của Nhà máy về máy móc thiết bị, lao động, nguyên vật liệu; giải quyết công ăn việc làm một cách thường xuyên, nâng cao thu nhập cho người công nhân; đa dạng hoá, phát triển mạnh mẽ các mặt hàng phù hợp với nhu cầu thị trường tạo sức cạnh tranh và tăng mức tiêu thụ dẫn đến tăng lợi nhuận.
I. NÂNG CAO NHẬN THỨC VỀ CHẤT LƯỢNG VÀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG.
Trong quản trị kinh doanh nói chung và quản trị chất lượng nói riêng, con người là yếu tố sáng tạo và cơ động nhất quyết định đến chất lượng sản phẩm của Nhà máy. Mọi thành viên trong doanh nghiệp đều ít nhiều có liên quan đến vấn đề chất lượng. Do đó để thực sự giải quyết được những vấn đề tồn tại về chất lượng và cải tiến chất lượng sao cho mọi người đều tự giác tự nguyện tham gia. Trên thực tế, Nhà máy thiết bị bưu điện trong nhiều năm qua vai trò của con người trong quản lý chất lượng chưa thật sự được đặt đúng vị trí của nó. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
Hơn nữa, cũng như các doanh nghiệp Nhà nước khác, sau một thời gian dài hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp toàn bộ tập thể cán bộ công nhân viên trong Nhà máy đều ít nhiềuchịu ảnh hưởng của lề lối làm việc cũ tạo nên một sức ỳ và tính sáng tạo, khả năng cập nhật kiến thức chưa cao. Một phần do kinh phí, các phương tiện làm việc thiếu thốn nên cán bộ của Nhà máy không có cơ hội tiếp cận với những kiến thức, phương thức quản lý hiện đại. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc cập nhật các kiến thức về chất lượng và quản trị chất lượng của cán bộ, nhất là cán bộ kỹ thuật dẫn đến cơ hội cho cán bộ đào tạo và tự đào tạo ít đi.
Đối với công tác đào tạo, ban lãnh đạo Nhà Máy cần phải coi như là một yếu tố quan trọng bậc nhất trong đổi mới công tác quản lý chất lượng. Đào tạo lại, đào tạo mới, đào tạo bổ xung, đào tạo nâng cao... và cứ thế Nhà máy phải thường xuyên tiến hành công tác về đào tạo chất lượng cho mọi người từ đôị ngũ lãnh đạo cho đến những người lao động làm việc trong các phòng ban, phân xưởng. Quá trình đổi mới cơ chế đòi hỏi phải có sự tư duy, cách thức suy nghĩ, đổi mới cả những thói quen, phương thức làm việc, phương pháp quản lý ở mọi khâu, mọi cấp. Đây là một công việc rất quan trọng nhưng cũng rất phức tạp, không thể ngày một ngày hai mà có thể giải quyết dứt điểm được mà cần phải tiến hành thường xuyên.
Đẩy mạnh nhận thức về chất lượng sản phẩm và quản trị chất lượng là một giải pháp mang tính lâu dài đòi hỏi phải tiến hành thường xuyên. Để thực hiện giải pháp này nhà máy cần phải thực hiện các điều kiện sau đây:
- Điều kiện đầu tiên để khai thông được vấn đề này là ban giám đốc Nhà máy phải luôn coi trọng công tác chất lượng, chịu trách nhiệm đứng ra chỉ đạo việc xây dựng và công bố chính sách chất lượng cũng như việc tổ chức thực hiện chính sách chất lượng trong toàn Nhà máy.
- Điều kiện thứ hai là đội ngũ cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp phải được huy động vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng mục tiêu, tổ chức thực hiện công việc liên quan đến từng phòng ban, phân xưởng và giữ vai trò chủ chốt trong tổ chức thực hiện tại các đơn vị của mình.
- Điều kiện thứ ba là làm sao cho mọi người trong doanh nghiệp đều được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, nâng cao tay nghề để chủ động và tự giác thực hiện tốt phần việc của mình với ý thức đồng đội, đặt lợi ích của mình trong lợi ích của Nhà máy và tất cả đều được định hướng vào mục tiêu đáp ứng nhu cầu của khách hàng, của thị trường. Phát huy triệt để vai trò của người lao động đồng thời tạo điều kiện cho tất cả mọi thành viên trong Nhà máy tham gia vào các phong trào.
- Điều kiện thứ tư là kinh phí, Nhà máy phải chú ý đầu tư vào công tác nâng cao chất lượng sản phẩm một cách thích đáng. Có thể trích từ các quỹ của Nhà máy. Chỉ khi có đủ kinh phí thì giải pháp này mới mang lại hiệu quả tối đa.
II. TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC ĐIỀU TRA, NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG ĐỂ ĐỊNH HƯỚNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG.
Là một Nhà máy được thành lập và hoạt động trong thời kỳ quản lý kinh tế theo hướng tập trung quan liêu bao cấp. Qua một thời kỳ quá dài theo kiểu’’ cấp phát’’, Nhà máy chỉ làm quen theo khẩu hiệu’’ tất cả cho sản xuất’’ định hướng chất lượng theo khả năng của người sản xuất mà không chú ý đến người tiêu dùng. Bước sang hoạt động theo cơ chế mới, nhận thức của cán bộ Nhà máy về vai trò của thị trường và công tác nghiên cứu thị trường đã có nhiều tiến bộ song việc thực hiện công tác này vẫn chưa thật đầy đủ và thiếu sự chuẩn bị.
Mấy năm gần đây, công tác tiêu thụ sản phẩm của nhà máy được tiến hành hết sức khó khăn do chất lượng và giá cả chưa phù hợp với người tiêu dùng. Điều này cũng do khâu nghiên cứu thị trường còn yếu kém, ngoài ra các kênh tiêu thụ chưa được tổ chức hợp lý, hệ thống đại lý, của hàng chưa phát triển, không có hình thức khuyến mại quảng cáo.
Đối với tình hình tiêu thụ sản phẩm của Nhà máy hiện nay, khi mà ngày càng có nhiều đối thủ cạnh tranh thì vai trò chất lượng của hàng hoá cũng như vai trò của công tác nghiên cứu thị trường ngày càng quan trọng. Nghiên cứu thị trường tốt sẽ xác định đúng tiêu chuẩn sản phẩm cần sản xuất phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, từ đó có chính sách cải tiến chất lượng, mẫu mã, cho thích hợp. Đã đến lúc nhà máy phải định hướng các hoạt động của mình theo nhu cầu của thị trường. Bằng mọi cách phải vươn lên đáp ứng cho được những nhu cầu đó. Để làm được điều này, ban lãnh đạo Nhà máy phải tiến hành chỉ đạo thực hiện một số nội dung cụ thể như:
Hiện nay cơ chế hoạt động của phòng thị trường là hoàn toàn độc lập nhưng công tác nghiên cứu thị trường của phòng lại không hoàn thành. Việc nghiên cứu, tiêu thụ sản phẩm đôi khi lại là công việc của phòng kế hoạch vật tư do không nắm bắt, nghiên cứu được tình hình của thị trường. Vì vậy, đội ngũ Marketing phải đi sâu vào những đặc điểm mang tính đặc thù của khu vực thị trường riêng với các mục tiêu chính là thực hiện chiến lược khai thác và mở rộng thị trường.
Với thị trường trong nước: đây là một thị trường lớn đầy tiềm năng, ở nhiều loại sản phẩm cầu còn lớn hơn cung. Trong khi cạnh tranh để chen chân vào thị trường nước ngoài là một điều hết sức khó khăn do đó cần phải đáp ứng nhu cầu trong nước. Hướng mở rộng thị trường vào các tỉnh miền núi phía bắc và mở thêmchi nhánh ở phía nam hình thành một mạng lưới tiêu thụ rộng khắp cả nước.
Đối với thị trường nước ngoài: Tranh thủ phát huy lợi thế của ngành, của Nhà máy và có quan hệ tốt với các đối tác hiện nay để dần chiếm lĩnh thị trường.
Đội ngũ nghiên cứu thị trường cần phải tổng hợp thông tin về chất lượng mẩu mã, yêu cầu, thị hiếu và đưa các thông số kỹ thuật cải tiến sản phẩm đưa các sản phẩm mẫu mã ra thăm dò thị trường. Nghiên cứu thị trường bằng cách dựa trên cơ sở tài liệu nghiên cứu như các bản tin kinh tế, giá cả, thương mại do trung tâm thông tin kinh tế đối ngoại xuất bản, các tạp chí công nghiệp...đặc biệt quan trọng là bằng những thông tin thu thập được từ việc nghiên cứu thăm dò thực tế. Đòi hỏi chính ở đây là đảm bảo chất lượng trong nghiên cứu phân tích các yêu cầu của khách hàng.
Ước định môi trường trong tương lai với những dự báo kinh tế và thị trường trong đó có nhu cầu về chất lượng sản phẩm mà nhà máy đang sản xuất, dự báo về các yếu tố môi trường sẽ tác động tới nhà
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BC1617.doc