Đề tài Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở công ty cemaco

Tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở công ty cemaco: Lời nói đầu Trước ngưỡng cửa của thế kỷ 21, lúc này nhìn lại hơn 10 năm đổi mới, bộ mặt nước ta đã có nhiều thay đổi đáng kể đó là đời sống nhân dân dã được cải thiện, các doanh nghiệp trong nước đã thích nghi được với nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ cấu kinh tế cũng thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng trong công nghiệp và dịch vụ. Đảng và Nhà nước ta đang tiếp tục sự nghiệp đổi mới phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Chính sách mở cửa của Nhà Nước đã góp phần đẩy mạnh trao đổi hàng hoá, khuyến khích xuất khẩu, nâng cao hiệu quả nhập khẩu. Nhà nước đồng thời mở rộng sự quan hệ hợp tác kinh tế với tất cả các nước khác trên phạm vi toàn thế giới. Tuy nhiên khi chuyển sang nền kinh tế thị trường với mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì vấn đề nổi lên là tình trạng cơ sở hạ tầng yếu kém, hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, chưa thực sự thúc đẩy được nội lực cũng như ngoại lực cho sự phát triển của đất nước. Phát t...

doc79 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1085 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở công ty cemaco, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Trước ngưỡng cửa của thế kỷ 21, lúc này nhìn lại hơn 10 năm đổi mới, bộ mặt nước ta đã có nhiều thay đổi đáng kể đó là đời sống nhân dân dã được cải thiện, các doanh nghiệp trong nước đã thích nghi được với nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ cấu kinh tế cũng thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng trong công nghiệp và dịch vụ. Đảng và Nhà nước ta đang tiếp tục sự nghiệp đổi mới phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Chính sách mở cửa của Nhà Nước đã góp phần đẩy mạnh trao đổi hàng hoá, khuyến khích xuất khẩu, nâng cao hiệu quả nhập khẩu. Nhà nước đồng thời mở rộng sự quan hệ hợp tác kinh tế với tất cả các nước khác trên phạm vi toàn thế giới. Tuy nhiên khi chuyển sang nền kinh tế thị trường với mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì vấn đề nổi lên là tình trạng cơ sở hạ tầng yếu kém, hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, chưa thực sự thúc đẩy được nội lực cũng như ngoại lực cho sự phát triển của đất nước. Phát triển kinh tế và hội nhập thế giới nó là xu hướng khách quan của thời đại ngày nay, nó là mục tiêu của bất cứ quốc gia nào. Thương mại quốc tế có vai trò hết sức quan trọng đưa nền kinh tế tăng trưởng phát triển. Đặc biệt đối với một nước đang phát triển như nước ta thì việc tiếp thu khoa học tiên tiến thế giới qua con đường nhập khẩu là không thể thiếu được hàng hoá nhập khẩu là nguồn bổ sung và thay thế những mặt mất cân đối của nền kinh tế, bảo đảm một sự phát triển kinh tế ổn định đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa nền kinh tế nước ta hoà nhập với nền kinh tế thế giới chuyển dịch cơ cấu kinh tế . Nhận thức được tầm quan trọng như vậy, đặc biệt là đơn vị kinh doanh nhập khẩu hàng nguyên vật liệu để phục vụsản xuất nên việc hoàn thiện nhập khẩu là điều hêt sức cần thiết vì nó vừa mang lại hiệu quả kinh tế cao cho đất nước, vừa mang lại hiệu quả cao cho Công ty. Qua quá trình nghiên cứu tìm hiểu tại Công ty CEMACO, kết hợp với tình hình thực tế về hoạt động nhập khẩu ở công ty, nhận thức được ý nghĩa to lớn của hoạt động nhập khẩu đối với sự phát triển hoạt động kinh doanh của công ty nói riêng cũng như sự phát triển kinh tế xã hội nói chung đồng thời được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Bùi Huy Nhượng, em đã chọn đề tài "Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở Công ty CEMACO" Đề tài gồm 3 chương: Chương I :Một số lý luận cơ bản của hoạt động nhập khẩu. Chương II: Thực trạng hoạt động nhập khẩu ở Công ty CEMACO trong những năm qua. Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở Công ty CEMACO . Chương I MộT Số Lý LUậN CƠ BảN Về HOạT Đẫng nhập khẩu I.Vai trò của hoạt động nhập khẩu 1. Khái niệm và vai trò của hoạt động nhập khẩu . Xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu nói riêng là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Đó không phải là những hành vi riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong phạm vi một nền thương mại có tổ chức cả các bên trong và bên ngoài nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu trong nước, ổn định và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân. Do đó, xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu nói riêng là hoạt động kinh tế đem lại những hiệu quả đột biến rất cao nhưng có thể gây thiệt hại lớn vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia xuất nhập khẩu không dễ dàng khống chế được. Trong điều kiện kinh tế hiện nay, không có một quốc gia nào trên thế giới phủ nhận vai trò của nhập khẩu đối với nền kinh tế của quốc gia mình. Dưới đây, em xin đề cập tới vai trò của hoạt động nhập khẩu, đó là: Thứ nhất, nhập khẩu bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo một sự phát triển cân đối ổn định, khai thác tối đa tiềm năng của nền kinh tế vào vòng quay kinh tế. Thứ 2, Nhập khẩu mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước, cho phép tiêu dùng một lượng hàng hoá nhiều hơn khả năng sản xuất trong nước. Thứ 3, nhập khẩu đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động góp phần cải thiện và nâng cao mức sống nhân dân. Thứ 4, nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thứ 5, nhập khẩu xoá bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ triệt để nền kinh tế đóng cửa, chế độ tự cung, tự cấp. Thứ 6, nhập khẩu tác động trực tiếp vào sản xuất và kinh doanh Thương mại Quốc tế làm cho khối lượng và giá trị hàng nhập khẩu ngày càng gia tăng cùng với sự phát triển kinh tế. Nhập khẩu giúp cho sản xuất được liên tục và ổn định Thứ 7, nhập khẩu có vai trò thúc đẩy sản xuất góp phần nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho xuất khẩu hàng Việt Nam ra nước ngoài, đặc biệt là nước nhập khẩu. Thứ 8, nhập khẩu tạo ra sự cạnh tranh giữa hàng sản xuất trong nước và hàng ngoại nhập, tức là tạo ra động lực bắt buộc các nhà sản xuất trong nước phải không ngừng vươn lên và hoàn thiện sản phẩm của mình để có chất lượng tốt, giá rẻ, phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của khách hàng, từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển. 2. Vai trò của việc hoàn thiện hoạt động nhập khẩu. Trong các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hiện nay việc hoàn thiện nhập khẩu có vai trò hết sức quan trọng và có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển kinh tế của đất nước theo hướng mở rộng sản xuất ra nước ngoài. Vai trò của hoàn thiện nhập khẩu là: Hoàn thiện hoạt động nhập khẩu sẽ nâng cao hiệu quả nhập khẩu của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu . Hoàn thiện hoạt động nhập khẩu sẽ làm cho quá trình nhập khẩu hàng hoá được nhanh chóng hơn vì thế nó kịp thời đáp ứng nhu cầu sử dụng hàng hoá cho sản xuất và cho người tiêu dùng trong nước. Hoàn thiện hoạt động nhập khẩu sẽ giúp cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu được nhập hàng hoá dễ dàng vào trong nước tránh được những vấn đề phức tạp trong quá trình nhập khẩu hàng hoá từ thị trường nước ngoài vào. Hoàn thiện hoạt động nhập khẩu kéo theo các chính sách, qui trình xuất khẩu cũng phải được hoàn thiện, điều đó góp phần hoàn chỉnh một chính sách Thương mại Quốc tế tạo điều kiện cho sự phát triển, mở rộng quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới. Hoàn thiện hoạt động nhập khẩu sẽ hạn chế được những rủi ro cho các doanh nghiệp trong quá trình tham gia hoạt động nhập khẩu hàng hoá. 3. Các công cụ quản lý hoạt động nhập khẩu . Mỗi một quốc gia có đặc trưng riêng trong quản lý hoạt động nhập khẩu của mình. Một số nước tập trung vào công cụ thuế, những nước khác lại quản lý nhập khẩu qua giấy phép, hạn ngạch, ngoại tệ, phi thuế quan... nhằm mục đích là nhập khẩu phải đảm bảo phát triển kinh tế và ổn định đời sống nhân dân, các nhà kinh doanh phải hiểu được những chính sách quản lý nhập khẩu của Nhà nước. ở Việt Nam, những chính sách quản lý nhập khẩu quan trọng nhất là: Thứ nhất là thuế nhập khẩu: nhằm bảo vệ và phát triển sản xuất, hướng dẫn tiêu dùng trong nước và góp phần tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Theo luật thuế do Quốc hội Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 26/12/1991,hàng hoá bị đánh thuế là những hàng hoá được phép nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam, kể cả hàng từ khu chế xuất đưa vào thị trường trong nước. Cách tính thuế: Có nhiều cách tính thuế như tính và thu một số tiền nào đó đối với mỗi đơn vị hàng hoá hoặc tính theo tỷ lệ phần % đối với tổng giá trị hàng hoá, hay là kết hợp cả hai cách tính trên. ở nước ta, cách tính thuế căn cứ vào từng số lượng từng mặt hàng thực tế nhập, nhân với giá tính thuế, nhân với thuế suất của từng mặt hàng ghi trong biểu thuế. Giá tính thuế nhập khẩu là giá CIF Biểu thuế quan: Do Bộ Tài chính xây dựng và ban hành trên cơ sở chính sách quản lý của mỗi nước, mức thuế có thể tính chung cho tất cả các nước theo từng mặt hàng, nhưng cũng có thể tính riêng cho từng nhóm nước. Biểu thuế này thường thay đổi để phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế của đất nước. Có hai mức thuế đó là, mức thuế thông thường và mức thuế ưu đãi. Mức thuế thông thường: Đánh chung cho tất cả các hàng hoá nói chung không phụ thuộc vào xuất xứ của hàng hoá từ nước nào, hàng hoá từ một nước dùng chung một mức thuế. Mức thuế ưu đãi: áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu theo Hiệp định Thương mại đã ký kết giữa chính phủ Việt Nam với chính phủ nước ngoài, trong đó có điều khoản ưu đãi về thuế nhập khẩu cho từng mặt hàng với số lượng cụ thể. Thứ 2 : Hạn ngạch nhập khẩu Hạn ngạch nhập khẩu là qui định của nhà nước hạn chế nhập khẩu số lượng hoặc gia trị một mặt hàng nào đó hoặc một thị trường nào đó trong một thời gian nhất định (thường là 1 năm ). Hạn ngạch nhập khẩu là một hình thức hạn chế số lượng. Khi hạn ngạch được quy định cho một loại sản phẩm đặc biệt nào đó thì Nhà nước đưa ra một định ngạch nhập khẩu mặt hàng trong một khoảng thời gian nhất định không kể nguồn gốc đó từ đâu. Khi hạn ngạch quy định cho cả mặt hàng và thị trường có hàng hoá đó thì chỉ được nhập khẩu từ thị trường đã xác định với số lượng và thời hạn nhất định.. áp dụng hạn ngạch nhập khẩu có tác dụng là bảo hộ nền sản xuất trong nước, bảo đảm các cam kết của chính phủ nước ta với nước ngoài. Nhưng có mặt hạn chế là hạn chế quyền lợi tiêu dùng các mặt hàng đa dạng của người tiêu dùng và tạo ra quyền lực độc quyền cho một số doanh nghiệp trong nước. Thứ 3: Giấy phép nhập khẩu. Giấy phép nhập khẩu là một biện pháp quan trọng để Nhà nước quản lý hoạt động xuất nhập khẩu. Nó là chứng từ do Bộ thương mại cấp, cho phép chủ hàng được nhập khẩu một hoặc một số lô hàng nhất định, có cùng tên hàng, từ một nước nhất định, trong một thời gian nhất định. Theo quy định của NĐ57 CP ra ngày 31.7.1998 có hiệu lực từ ngày 1.9.98 quy định hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu có điều kiện - Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu có điều kiện là hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo Giấy phép của Bộ thương mại hoặc Bộ quản lý chuyên ngành. - Việc phê chuẩn Danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu có điều kiện do Chính phủ phê duyệt trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng Bộ thương mại sau khi đã thống nhất với Bộ kế hoạch và Đầu tư, các Bộ, các ngành có liên quan. Quản lý bằng giấy phép có tác dụng là để hạn chế việc nhập khẩu tràn lan hàng hoá nước ngoài vào thị trường trong nước, hạn chế nhập khẩu hàng hoá mà trong nước sản xuất được nhưng có nhược điểm là không thu được ngân sách nhà nước Nhập khẩu hàng hoá có điều kiện thì doanh nghiệp cần lập hồ sơ để đề nghị cấp giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh gồm: - Đơn đề nghị cấp giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh - Quyết định hoặc giấy phép thành lập doanh nghiệp do cơ quan có thẩm quyền cấp (bản sao hợp lệ ). - Tài liệu chứng minh việc đảm bảo các điều kiện kinh doanh đối với hàng hoá, dịch vụ thương mại. Doanh nghiệp được cấp giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh phải nộp một khoản lệ phí, Bộ Tài chính quy định mức lệ phí cụ thể để thực hiện thống nhất trong cả nước. Thứ 4 : Quản lý ngoại tệ. Đối với nước thiếu ngoại tệ như nước ta, áp dụng biện pháp kiểm soát ngoại tệ bằng cách điều tiết nhập khẩu một số loại sản phẩm thông qua việc phân phối ngoại tệ để nhập khẩu các hàng hoá đó. Qua Ngân hàng quốc gia nhiều nước quy định “ hạn ngạch ngoại tệ” trên cơ sở hạn ngạch nhập khẩu được cấp. Người nhập khẩu có thể ký hợp đồng mua hàng ở nước ngoài nhưng phải xin được quyền sử dụng ngoại tệ để thanh toán cho khách hàng theo quy chế quản lý ngoại tệ ở nước mình. Khi xuất khẩu hàng hoá đi nước ngoài, người xuất khẩu cần tìm hiểu kỹ chế độ quản lý ngoại tệ của nước nhập khẩu để sau đó không gặp khó khăn trong việc thanh toán xuất khẩu của mình. 4. Các hình thức nhập khẩu thông dụng trong các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hiện nay. Hoạt động nhập khẩu chỉ được tiến hành ở các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp. Trong thực tế, do các tác động của điều kiện kinh doanh cũng như sự năng động sáng tạo của người làm kinh doanh đã taọ ra nhiều hình thức nhập khẩu đa dạng khác nhau. Dưới đây là một vài hình thức thông dụng đang được áp dụng trong các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hiện nay là: 4.1 Nhập khẩu trực tiếp : * Khái niệm: Là hoạt động nhập khẩu độc lập của doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp, doanh nghiệp phải tự nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, tính toán chi phí đảm bảo kinh doanh nhập khẩu có lãi, đúng phương hướng, chính sách, luật pháp quốc gia cũng như luật pháp quốc tế. * Đặc điểm: doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm pháp lý về mọi mặt hoạt động, phải tự nghiên cứu thị trường, chịu mọi chi phí giao dịch, giao nhận lưu kho và chi phí tiêu thụ hàng hoá. Khi nhập khẩu trực tiếp thì doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính kim ngạch nhập khẩu và khi tiêu thụ hàng nhập khẩu thì phải chịu thuế VAT. Thông thường doanh nghiệp phải lập một hợp đồng với bên nước ngoài, hợp đồng nhập khẩu trực tiếp giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài trên cơ sở tự nguyện bình đẳng không bị chi phối của bất kỳ bên thứ 3 nào khác. Ưu điểm: Không qua trung gian do đó có thể giảm được chi phí trung gian vì nhiều khi chi phí này chiếm một tỷ lệ lớn. Việc nhập khẩu trực tiếp giúp cho doanh nghiệp chủ động trong việc sản xuất, tiêu thụ hàng hoá xuất nhập khẩu nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường nhiều biến động. Nhập khẩu trực tiếp giúp cho doanh nghiệp có điều kiện thâm nhập thị trường tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp thu được những kinh nghiệm của nước nhập khẩu trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp mình. Nhược điểm: Chịu mọi ruỉ ro và trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động kinh doanh nhập khẩu của mình không có một bạn hàng kinh doanh nào gánh chịu cùng. Doanh nghiệp tham gia nhập khẩu trực tiếp đòi hỏi phải có năng lực hiểu biết về nghiệp vụ nhập khẩu sâu, phải có nhiều thời gian tích luỹ kinh nghiệm. Khối lượng hàng hoá nhập khẩu phải lớn mới có thể bù đắp được những chi phí trong quả trình nghiên cứu thị trường, giao dịch, giấy tờ, đi lại. 4.2 Nhập khẩu uỷ thác *Khái niệm: là hoạt động nhập khẩu hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập khẩu một số loại hàng hoá nhưng không có quyền tham gia quan hệ trực tiếp hoặc không có các điều kiện cần thiết để nhập khẩu nên đã uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch thường tiến hành đàm phán với nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng một phần thù lao gọi là phí uỷ thác. *Đặc điểm. Bên nhận uỷ thác: Phải tiến hành đàm phán với nước ngoài, ký kết hợp đồng, làm thủ tục nhập khẩu theo yêu cầu của bên uỷ thác cũng như thay mặt bên uỷ thác khiếu nại, đòi bồi thường với bên nước ngoài khi có tổn thất. Trong hoạt động nhập khẩu này thì bên nhận uỷ thác không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch (nếu có). Bên nhận uỷ thác nhập khẩu không phải trả các khoản thuế nhập khẩu và bằng vốn của mình. Bên nhận uỷ thác phải lập hai hợp đồng: một hợp đồng mua bán với bên nước ngoài, một hợp đồng uỷ thác với bên uỷ thác. Bên uỷ thác: Bên đi uỷ thác phải có vốn, hạn ngạch... để tiến hành nhập khẩu hàng hoá qua uỷ thác và trả mọi loại thuế nếu có. Bên đi uỷ thác phải có trách nhiệm trả cho bên nhận uỷ thác tiền thù lao nhập khẩu gọi là phí uỷ thác. Mọi chi phí liên quan đến việc nhập khẩu hàng hoá do bên uỷ thác chịu. 4.3 Nhập khẩu liên doanh. *Khái niệm: là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên cùng chia lãi và chịu lỗ. *Đặc điểm. Doanh nghiệp nhập khẩu liên doanh ít chịu rủi ro bởi vì mỗi doanh nghiệp liên doanh xuất nhập khẩu phải góp một số vốn nhất định, quyền hạn và trách nhiệm của hai bên cũng phụ thuộc vào phần góp vốn của mỗi bên. Việc phân chia chi phí, thuế VAT theo tỷ lệ góp vốn lãi và lỗ các bên thoả thuận theo sự phân chia. Trong nhập khẩu liên doanh, doanh nghiệp đứng ra nhập khẩu sẽ được tính kim ngạch nhập khẩu nhưng khi đưa hàng về tiêu thụ thì chỉ được tính doanh số trên hàng theo tỷ lệ vốn góp và chỉ chịu thuế VAT trên doanh số đó. Doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp phải được tiến hành lập 2 hợp đồng: + Một hợp đồng mua hàng nước ngoài + Một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp 4.4 Nhập khẩu tái xuất. *Khái niệm: Nhập khẩu tái xuất là hoạt động nhập khẩu hàng hoá nhưng không phải để tiêu thụ trong nước mà là để xuất sang một nước thứ 3 nào đó nhằm mục đích thu lợi nhuận song những hàng hoá này không được chế biến ở nước tái xuất. *Đặc điểm Doanh nghiệp tham gia hợp đồng nhập khẩu tái xuất được tính cả kim ngạch xuất lẫn nhập, doanh số tính trên giá hàng xuất nhập nhập khẩu, do đó phải chịu thuế VAT, thông thường người ta sử dụng thư tín dụng giáp lưng. Doanh nghiệp tiến hành nhập khẩu tái xuất lập 2 hợp đồng: một hợp đồng xuất khẩu và một hợp đồng nhập khẩu và phải chịu thuế đối với mặt hàng kinh doanh . Hàng hoá nhập khẩu không nhằm mục đích tiêu dùng trong nước mà xuất sang nước thứ 3 hoặc tham gia hội trợ triển lãm. Hàng hoá trong nhập khẩu tái xuất không nhất thiết phải chuyển tiền về nước tái xuất mà có thể chuyển thẳng sang nước thứ 3, nhưng trả tiền thì luôn do người tái xuất thu từ người nhập khẩu và trả cho người xuất khẩu. Nhiều khi người tái xuất còn thu được lợi tức về tiềm năng do thu được nhanh và trả được chậm 4.5 Nhập khẩu gia công hàng xuất khẩu. *Khái niệm: là hoạt động kinh doanh Thương mại Quốc tế trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biến thành ra thành phẩm, giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là phí gia công ). Khi hoạt động gia công vượt ra khỏi biên giới quốc gia thì gọi là gia công xuất khẩu. *Đặc điểm: Nhập khẩu gia công để xuất khẩu là đưa các yếu tố sản xuất (chủ yếu là nguyên liệu) từ nước ngoài vào để sản xuất hàng hoá, nhưng không phải để tiêu dùng trong nước mà để xuất khẩu thu ngoại tệ chêch lệch do tiền công đem lại. Vì vậy có thể nói rằng nhập khẩu gia công để xuất khẩu là hình thức xuất khẩu lao động, nhưng là loại lao động dưới dạng được sử dụng (được thể hiện trong hàng hoá ), chứ không phải dưới dạng xuất khẩu nhân công ra nước ngoài. Nhập khẩu gia công để xuất khẩu ngày nay khá phổ biến trong buôn bán ngoại thương của nhiều nước. Đối với bên đặt gia công, phương thức này giúp họ lợi dụng được giá rẻ về nguyên vật liệu phụ và nhân công của nước nhận gia công. Đối với bên nhận gia công, phương thức này giúp họ giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân lao động trong nước hoặc nhận được thiết bị hay công nghệ mới về nước mình, nhằm xây dựng một nền công nghiệp dân tộc. Trên đây đã khái quát một số hình thức nhập khẩu thông dụng hiện nay nhưng mỗi một doanh nghiệp tuỳ theo điều kiện của mình hay điều kiện thị trường mà doanh nghiệp lựa chọn hình thức nhập khẩu nào để thu được lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp mình. II. Nội dung hoạt động nhập khẩu ở các doanh nghiệp XNK hiện nay. 1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu, lựa chọn bạn hàng. 1.1. Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu. Mục đích của nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu là để tiến hành nhập khẩu đúng chủng loại hàng hoá mà thị trường trong nước cần, kinh doanh có hiệu quả và đạt được mục tiêu lợi nhuận cho doanh nghiệp. Việc nhận biết mặt hàng nhập khẩu, trước hết phải dựa vào nhu cầu cảu sản xuất và tiêu dùng trong nước, chủng loại, kích cỡ, giá cả, chất lượng, số lượng, thời vụ và các thị hiếu cũng như tập quán tiêu dùng của từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất. Từ đó, xem xét các khía cạnh của hàng hoá trên thị trường thế giới về nhập khẩu hàng hoá như: công dụng, các đặc tính, quy cách phẩm chất, mẫu mã, giá cả, điều kiện mua bán và khả năng sản xuất và các dịch vụ kèm theo như sửa chữa, bảo dưỡng... Để lựa chọn mặt hàng kinh doanh, một nhân tố nữa phải được tính toán đến đó là tỷ xuất ngoại tệ hàng nhập khẩu. Trong nhập khẩu tỷ suất ngoại tệ là tổng số bản tệ có thể thu được khi bỏ ra đồng bản tệ để nhập khẩu. Nếu tỷ xuất ngoại tệ hàng nhập khẩu lớn hơn tỷ giá hối đoái trên thị trưòng thì việc nhập khẩu có hiệu quả. Việc lựa chọn mặt hàng nhập khẩu còn phải dựa vào những kinh nghiệm của người ngoài thị trường để dự đoán được các xu hướng biến động của thị trường nước ngoài cũng như trong nước, khả năng thương lượng để đạt được các điều kiện mua bán có ưu thế hơn. 1.2 Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng. Dung lượng thị trường của một hàng hoá là khối luợng hàng hoá được giao dịch trên phạm vi thị trường nhất định trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Nghiên cứu dung lượng thị trường cần phải xác định nhu cầu thật của khách hàng kể cả lượng dự trữ, xu hướng biến động của nhu cầu trong từng thời điểm nhu cầu, từng khu vực, từng lĩnh vực sản xuất, tiêu dùng. Cùng với việc xác định, nắm bắt nhu cầu là việc nắm bắt khả năng cung cấp của thị trường bao gồm việc xem xét, đặc điểm, tính chất, khả năng sản xuất hàng thay thế khả năng lựa chọn mua bán. Dung lượng thị trường là không cố định, có thay đổi tuỳ theo diễn biến của thị trường do tác động của nhiều nhân tố trong gian đoạn nhất định. Các nhân tố ảnh hưởng tới dung lượng thị trường có thể chia ra làm 3 nhóm căn cứ vào thời gian chúng ảnh hưởng tới thị trường. Loại nhân tố thứ nhất: Đó là các nhân tố làm cho dung lượng biến đổi có tính chất chu kỳ. Đó là sự vận động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa và tính chất thời vụ trong sản xuất, lưu thông và tiêu dùng. Nhân tố thời vụ ảnh hưởng tới thị trường hàng hoá trong khâu sản xuất, và tiêu dùng ở những mức độ và phạm vi khác nhau. Loại nhân tố thứ hai : Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến động của thị trường bao gồm chính sách của Nhà nước, và các tập đoàn tư bản lũng đoạn, thị hiếu, tập quán tiêu dùng, ảnh hưởng của khả năng sản xuất hàng thay thế. Loại nhân tố thứ 3 là các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đối với dung lượng thị trường như hiện tượng đầu cơ tích trữ gây ra các đột biến về nhu cầu, các yếu tố tự nhiên như thiên tai, hạn hán, động đất...Các yếu tố chính trị xã hội... Nắm vững dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng trong từng thời kỳ có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá trên thị trường thế giới giúp cho các nhà kinh doanh cân nhắc các đề nghị, ra quyết định kịp thời, nhanh chóng chớp được thời cơ, đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất. Cùng với nghiên cứu dung lượng thị trường người kinh doanh phải nắm bắt được tình hình kinh doanh mặt hàng đó trên thị trường, các đối thủ cạnh tranh, và đặc biệt là các điều kiện về chính trị, thương mại, luật pháp, tập quán buôn bán quốc tế, khu vực để có thể hoà nhập với thị trường, tránh những sơ xuất trong giao dịch. Trên đây là một số nhân tố ảnh hưởng tới sự biến động của dung lượng thị trường. Khi nghiên cứu tình hình thị trường của các hàng hoá khác nhau phải căn cứ vào đặc điểm của chúng để đánh giá đúng sự ảnh hưởng của các nhân tố. Điều đó giúp cho các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu đề ra các biện pháp, quyết định kịp thời, nhanh chóng, đạt hiệu qủa cao trong hoạt động nhập khẩu của mình. 1.3 Lựa chọn bạn hàng. Trong thương mại quốc tế, bạn hàng hay khách hàng nói chung là những người hay tổ chức có quan hệ giao dịch với nước ta nhằm thực hiện các hợp đồng mua bán hàng hoá hoặc các loại dịch vụ, các hoạt động hợp tác kinh tế hay hợp tác kỹ thuật liên quan đến việc cung cấp hàng hoá. Khi lựa chọn nước để nhập khẩu hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước cần nghiên cứu tình hình sản xuất, khả năng cung ứng và chất lượng hàng nhập khẩu, chính sách tập quán thương mại quốc tế của nước đó. Điều kiện về địa lý cũng là một vấn đề cần quan tâm khi lựa chọn nước giao dịch. Trong việc chọn thương nhân giao dịch thì phải dựa trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề sau: - Tình hình sản xuất kinh doanh của hãng, lĩnh vực và phạm vi kinh doanh, khă năng cung cấp hàng hoá thường xuyên của hãng. - Khả năng về vốn cơ sở vật chất kỹ thuật. - Thái độ và quan điểm kinh doanh là chiếm lĩnh thị trường hay cố gắng giành lấy độc quyền về hàng hoá - Uy tín của bạn hàng. Việc lựa chọn đối tượng giao dịch tốt nhất là nên lựa chon đối tác trực tiếp tránh những đối tác trong trung gian, trừ trường hợp doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị trường mới mà mình chưa có kinh nghiệm. Nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế trong Thương mại Quốc tế nói chung và trong kinh doanh nhập khẩu nói riêng là điều hết sức quan trọng và cần thiết trong hoạt động kinh doanh. Đó là bước chuẩn bị và là tiền đề để doanh nghiệp có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh buôn bán Quốc tế đạt hiệu quả cao nhất. 1.4 Nghiên cứu giá cả hàng hoá trong nhập khẩu Giá cả trong hoạt động xuất nhập khẩu chính là giá cả quốc tế. Giá quốc tế có tính chất đại diện đối với mỗi loại hàng hoá nhất định trên thị trường, giá đó phải là giá của những giao dịch thông thường không kèm theo bất kỳ một điều kiện thương mại đặc biệt nào và thanh toán tự do chuyển đổi. Trong thực tế giá quốc tế của mỗi loại hàng hoá thường biến động phức tạp và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau, nên việc dự đoán và nắm bắt gía cả và xu hướng vận động của nó là một vấn đề hết sức khó khăn, đòi hỏi phải có nhiều thông tin. Xu hướng biến động của hàng hoá trên thế giới có lúc tăng lúc giảm, cũng có lúc ổn định song xu hướng này chỉ có tính chất tạm thời. Để có thể dự đoán một cách tương đối chính xác về gía cả quốc tế của hàng hoá trước hết phải dựa vào kết quả nghiên cứu và dự đoán về tình hình thị trường của hàng hoá đó, đánh giá đúng các nhân tố ảnh hưởng đến gía cả và xu hướng vận động của gía cả hàng hoá. Các nhân tố ảnh hưởng tới gía cả hàng hoá trên thị trường thế giới. Đó là: Nhân tố chu kỳ: là sự vận động có tính quy luật của nền kinh tế, đặc biệt là sự biến động thăng trầm của nền kinh tế các nước Nhân tố lũng đoạn: là làm xuất hiện nhiều mức giá biến động khác nhau trên thị trường thậm chí cho cùng một lọai hàng hoá. Nhân tố cạnh tranh: cạnh tranh làm cho giá cả biến động theo chiều hướng khác nhau Cạnh tranh giữa người bán với người mua, và giữa người mua với người mua. Nhân tố thời vụ: là nhân tố tác động đến gía cả theo tính chất thời vụ của sản xuất và lưu thông. Nhân tố cung cầu: ảnh hưởng rất lớn tới sự biến động của gía cả hàng hoá vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới lượng cung cấp hoặc khối lượng tiêu thụ của hàng hoá trên thị trường. Nhân tố lạm phát: lạm phát xuất hiện làm cho đồng tiền mất giá do đó ảnh hưởng tới gía cả hàng hoá của một quốc gia trong trao đổi Thương mại Quốc tế Ngoài những nhân tố chủ yếu trên đây, gía cả quốc tế của hàng hoá còn chịu tác động của các nhân tố khác như: chính sách của quốc gia, tình hình kinh tế, xã hội, chính trị... Nghiên cứu các nhân tố trên đây cho ta biết rõ về thị trường và quy luật vận động của thị trường. Một điều quan trọng nữa trong quá trình nhập khẩu hàng hoá chúng ta cần phải xác định đâu là thị trường trọng điểm để lựa chọn mặt hàng kinh doanh sao cho đạt hiệu quả cao nhất. 2. Giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng nhập khẩu. 2.1 Các phương thức chủ yếu trong giao dịch nhập khẩu. Sau khi tiến hàng công việc nghiên cứu thị trường quốc tế thì căn cứ vào mặt hàng dự định nhập khẩu, đối tượng, thời gian giao dịch và năng lực của người tiến hành giao dịch mà doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu lựa chọn cho mình một phương thức giao dịch phù hợp nhất, thuận tiện nhất cho doanh nghiệp mình. Dưới đây là một số phương thức giao dịch cơ bản trong mua bán quốc tế. 2.1.1. Giao dịch trực tiếp: Giao dich trực tiếp trong kinh doanh Quốc tế là giao dịch mà người mua (hoặc bán) thoả thuận, bàn bạc, thoả luận trực tiếp (hoặc thông qua thư từ, điện tín...) với người bán (người mua) về hàng hoá, gía cả, giao dịch, phương thức thanh toán. 2.1.2. Giao dịch qua trung gian Giao dịch qua trung gian trong kinh doanh Quốc tế là giao dịch mà người mua (hoặc người bán) quy định về điều kiện trong giao dịch mua bán về hàng hoá, giá cả, điều kiện giao dịch, phương thức thanh toán... phải qua một người thứ 3 là người trung gian buôn bán. Trung gian buôn bán chủ yếu là các cửa hàng đại lý, các môi giới hay các tổ chức môi gới. - Đại lý tự nhiên nhân hoặc pháp nhân tiến hành nhiều hành vi theo sự uỷ thác của người uỷ thác. Quan hệ giữa người uỷ thác với các đại lý là quan hệ hợp đồng đại lý. - Môi giới là thương nhân trung gian giữa người mua với người bán, được người bán hoặc người mua uỷ thác tiến hành bán hoặc mua hàng hoá, dịch vụ. Quan hệ giữa người uỷ thác và người môi giới dựa trên sự uỷ thác từng phần chứ không phải theo hợp đồng. 2.1.3. Giao dịch tại hội chợ triển lãm. - Hội chợ là thị trường hoạt động định kỳ tổ chức vào một thời gian và địa điểm cố định trong một thời gian nhất định. Tại đó người bán trưng bày hàng hoá của mình và tiếp xúc với người mua để ký kết hợp đồng mua bán. - Triển lãm: không phải là thị trường, là nơi trưng bày hàng hoá để giới thiệu thành tựu của nền kinh tế, của doanh nghiệp hay một nào đó. 2.14 Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá: Sở giao dịch hàng hoá là một thị trường đặc biệt, tại đó thông qua người môi giới do sở giao dịch chỉ định người mua và người bán mua bán hàng hoá có khối lượng lớn có phẩm chất đồng loại và có thể thay thế nhau. Các loai giao dịch ở sở giao dịch: Giao dịch ngay: là giao dịch trong đó hàng hoá được giao ngay và trả tiền ngay vào lúc ký hợp đồng. Giao dịch này thường chiếm tỷ trọng nhỏ khoảng 10% trong các giao dịch ở sở giao dịch Giao dịch kì hạn: là Giao dịch trong đó giá cả được ấn định vào lúc ký kết hợp đồng, nhưng việc giao hàng và thanh toán đều tiến hành theo một kỳ hạn nhất định. Nhằm mục đích thu lợi do chênh lệch giá giữa lúc ký kết hợp đồng vào lúc giao hàng. Nghiệp vụ tự bảo hiểm: là một biện pháp kỹ thuật thường được các nhà buôn nguyên liệu, các nhà sản xuất sử dụng, nhằm tránh những rủi ro biến động giá cả làm thiệt hại đến số lãi dự tính, bằng cánh sử dụng giao dịch khống trong sở giao dịch. 2.1.5. Buôn bán đối lưu. Khái niệm : Là một phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khâủ, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng hoá dịch vụ trao đổi có giá trị tương đương. Mục đích của xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ không phải là thu về ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng hoá có giá trị tương đương. Các loại hình buôn bán đối lưu. -Nghiệp vụ hàng đổi hàng là trao đổi hàng hoá có giá trị tương đương. -Nghiệp vụ bù trừ Là hai bên trao đổi hàng hoá với nhau trên cơ sở giá trị hàng hoá đến cuối kỳ sẽ tiến hành bù trừ. -Nghiệp vụ buôn bán đối lưu là một bên bán thiết bị cho khách hàng của mình để đổi lại mua sản phẩm sản xuất ra. -Nghiệp vụ chuyển giao nghĩa vụ : Bên giao chuyển giao nghĩa vụ trả tiền hàng cho bên thứ ba. -Giao dịch bồi hoàn là phương thức mà đổi hàng hoá hoặc dịch vụ để lấy những ưu đãi. -Nghiệp vụ mua lại là một bên cung cấp thiết bị toàn bộ hoặc bằng sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật cho bên khác, đồng thời đảm bảo mua lại sản phẩm do thiết bị sáng chế đó tạo ra. Biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng : -Dùng thư tín dụng đối ứng. -Dùng người thứ ba khống chế chứng từ sở hữu hàng hoá. -Dùng tài khoản đặc biệt ở Ngân hàng để theo dõi việc giao hàng của hai bên. -Phạt việc thiếu và chậm giao hàng. 2.1.6. Đấu giá quốc tế. Khái niệm là phương thức bán hàng đặc biệt, tại đó người bán trưng bầy hàng hoá và người mua sau khi xem xét hàng hoá và tự do trả giá, hàng hoá bán cho người nào trả giá cao nhất. Cách thức tiến hành. -Chuẩn bị đấu giá. + Chuẩn bị hàng hoá phân ra làm lô nhỏ + Xây dựng điều lệ đấu giá. + in Catalô về những mặt hàng sẽ đem đấu giá. + Quảng cáo. -Trưng bầy hàng hoá để người mua có thểm xem xét và lựa chọn hàng. -Tiến hành đấu giá : Có hai phương thức đó là : Phương pháp nâng giá và phương pháp hạ giá. -Ký hợp đồng và giao hàng, người thắng cuộc sẽ tiến hành ký hợp đồng với đại diện của của ban tổ chức đấu giá. Sau khi ký hợp đồng người thắng cuộc phải trả một phần tiền hàng trước. Sau 3 - 14 ngày người mua phải trả hết các khoản tiền còn thiếu và lấy hàng đi. 2.1.7. Đấu thầu quốc tế . Khái niệm : Đấu thầu quốc tế trong thương mại Quốc tế là một phương thức giao dịch đặc biêt, trong đó người mua (tức là gọi thầu) công bố trước điều kiện mua hàng để người bán (tức là dự thầu) báo giá của mình muốn bán. Sau đó, người mua sẽ chọn mua của người nào với giá thấp nhất và điều kiện mua bán phù hợp nhất. Cách thức tiến hành. -Chuẩn bị đấu thầu : Xây dựng “điều lệ đấu thầu” : Nêu rõ mặt hàng và dịch vụ là đối tượng đấu thầu, thủ tục nộp tiền bảo đảm thực hiện hợp đồng, biện pháp điều chỉnh quan hệ hợp đồng đấu thầu, việc giải quyết tranh chấp. Thông báo gọi thầu : tuỳ theo loại hình đấu thầu mà thông báo trên các báo tạp chí khác nhau, hay gửi thư riêng cho các hãng gửi thầu. -Thu nhận báo giá: Căn cứ vào những điều kiện đấu thầu, người dự thầu lập và gửi cho người gọi thầu trong thời hạn nhất định. Người gọi thầu phải giữ nguyên niêm phong các hồ sơ dự thầu. -Mở thầu và lựa chọn người cung cấp : Vào ngày giờ ấn định có mặt của những người dự thâù, người gọi thầu mở các phong bì, công bố nội dung các báo giá . Sau thời gian xem xét đánh giá người gọi thầu nghiên cứu và công bố người thắng cuộc. -Ký kết hợp đồng : Người thắng cuộc ký kết hợp đồng với người gọi thầu và nộp tiền bảo đảm, nộp tiền hợp đồng theo như quy định của bản điều kiện đấu thầu. Trong trường hợp người được chọn trúng thầu có thể từ chối không thoả thuận và ký kết hợp đồng vì một lý do nào đó. Khi đó người trúng thâù không được nhận lại tiền bảo lãnh dự thâù, lúc đó người gọi thầu phải chọn người trúng thầu khác. Trên đây là một số phương thức giao dịch cơ bản trên thị trường quốc tế hiện nay, tuỳ theo điều kiện của mình mà công ty lựa chọn cho mình một phương thức giao dịch phù hợp với mình. 2.2 Đàm phán. Đàm phán thương mại là qúa trình trao đổi ý kiến của các chủ thể trong một xung đột nhằm đi tới thống nhất cách nhận định, thống nhất quan niệm, thống nhất cách xử lý những vấn đề nảy sinh trong quan hệ buôn bán giữa hai hoặc nhiều bên. 2.2.1.Các hình thức đàm phán. a. Đàm phán qua thư tín : Đàm phán qua thư từ và điện tín là một hình thức chủ yếu để giao dịch giữa những người xuất nhập khẩu. So với việc gặp gỡ trực tiếp thì đàm phán qua thư tín tiết kiệm được nhiều chi phí. Trong cùng một lúc có thể giao dịch với nhiều khách hàng ở nhiều nơikhác nhau. Người viết thư tín có điều kiện để cân nhắc, suy nghĩ, tranh thủ ý kiến của nhiều người và có thể khéo léo giữ kín ý định thực hiện của mình. Nhưng việc giao dịch qua thư tín thường mất nhiều thời gian chờ đợi có thể bỏ lỡ cơ hội mua bán. b. Đàm phán qua điện thoại: Đàm phán qua điện thoại nhanh chóng, giúp nhà kinh doanh tiến hành đàm phán một cách khẩn trương đúng vào thời cơ cần thiết. Nhưng phí tổn điện thoại quốc tế cao, các cuộc trao đổi thường phải hạn chế về thời gian, các bảng thống kê trình bày chi tiết. c. Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp: Việc gặp gỡ trực tiếp để trao đổi về mọi điều kiện buôn bán là một hình thức đặc biệt quan trọng. Hình thức này đẩy nhanh tốc độ giải quyết mọi vấn đề giữa hai bên và nhiều khi là lối thoát do đàm phán bằng thư tín và điện thoại đã kéo dài quá lâu mà không đạt kết quả. Hình thức này thường được dùng khi có những điều kiện giải thích cặn kẽ để thuyết phục nhau hoặc về những hợp đồng lớn, phức tạp. Tuy nhiên đây cũng là một hình thức khó khăn nhất. Đàm phán trực tiếp đòi hỏi người tiến hành đàm phán phải chắc về nghiệp vụ, tự chủ, phản ứng nhanh nhạy... để có thể tỉnh táo, bình tĩnh nhận xét, nắm bắt được ý đồ sách lược của đối phương, quyết định ngay tại chỗ khi thấy thời cơ đã chín muồi. Ngoài ra đây cũng là một hình thức tốn kém về đi lại, tiếp đón, quà cáp.. . 2.2.2.Các bước đàm phán : a. Hỏi giá là việc bên mua đề nghị bên bán cho biết những điều kiện bán hàng như giá cả, thời hạn giao hàng, điều kiện thanh toán.. . Hỏi gía thực chất chỉ là thăm dò để giao dịch, cho nên không bắt buộc người hỏi giá trở thành người mua. b. Báo giá là nghiệp vụ tiếp theo của giao dịch và ký kết hợp đồng. Nếu đã báo giá là đã có cam kết của người bán sẽ bán hàng với giá đó và kèm theo các điều kiện trong thư báo giá mà người bán không có quyền từ chối. c. Chào hàng: là đề nghị của một bên (bên mua hoặc bên bán) gửi cho bên kia, biểu thị muốn bán hoặc muốn mua một hoặc một số hàng nhất định theo những điều kiện nhất định về giá cả, thời gian, phương tiện thanh toán.. . d. Chấp nhận; xác nhận: Chấp nhận là người chào hàng hay báo giá đồng ý hoàn toàn với chào hàng hay báo giá đó. Xác nhận là khẳng định sự thoả thuận mua bán bằng văn bản xác nhận của bên mua hoặc bên bán, hoặc của cả hai bên. 2.3 Ký kết hợp đồng nhập khẩu. Hợp đồng xuất nhập khẩu (Hợp đồng Thương mại Quốc tế) là hợp đồng mua bán đặc biệt, trong đó người bán có nghĩa vụ phải chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho người mua (bên nhập khẩu) một tài sản nhất định gọi là hàng hoá. Bên mua có trách nhiệm trả tiền và nhận hàng. Hình thức hợp đồng bằng văn bản là hình thức bắt buộc đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của nước ta trong quan hệ với các nước khác. Các điều khoản của hợp đồng do bên mua và bên bán thoả thuận chi tiết dù trước đó đã có đơn đặt hàng và chào hàng nhưng vẫn phải thiết lập văn bản hợp đồng làm cơ sở pháp lý cụ thể cho hoạt động trao đổi hàng hoá từ quốc gia này sang quốc gia khác và làm căn cứ cho việc xác định lỗi khi có tranh chấp xảy ra. Văn bản là hình thức hợp đồng tốt nhất trong việc bảo vệ quyền lợi của các bên. Nó xác định rõ ràng quyền lợi và nghĩa vụ của các bên bán và bên mua tránh được những hiểu lầm do không thống nhất về quan niệm. Ngoài ra, hình thức văn bản còn tạo ra thuận lợi cho việc thống kê, theo dõi, kiểm tra việc ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng. *Đặc điểm của hợp đồng Thương mại Quốc tế: Luật điều chỉnh hợp đồng là luật điều chỉnh của nước xuất khẩu nhập khẩu và các điều ước của luật pháp quốc tế mà các bên đã thoả thuận và cam kết. Chủ thể của hợp đồng: là những cá nhân, hoặc tổ chức có tư cách pháp nhân, có trụ sở doanh nghiệp đóng ở các nước khác nhau. Ngôn ngữ trong hợp đồng: có thể là ngôn ngữ của nước bán, hoặc ngôn ngữ của nước mua, hoặc ngôn ngữ của nước thứ 3 Đồng tiền và phương thức thanh toán: là đồng tiền của quốc gia có đồng tiền mạnh, có khả năng chuyển đổi. Hiện nay đa số dùng đồng đô la Mỹ (USD) làm đồng tiền thanh toán và tính toán. *Các phương thức ký kết hợp đồng. Hai bên cùng ký vào một hợp đồng mua bán( một văn bản). Người bán xác nhận đơn đặt hàng của người mua trong một thời hạn hiệu lực của đơn đặt hàng (bằng văn bản). Người mua xác nhận (bằng văn bản) là người mua đã đồng ý với các điều kiện và điều khoản của một thư chào hàng Trao đổi bằng thư xác nhận đạt được những điều khoản thoả thuận trong đơn đặt hàng trước đây của hai bên. Hợp đồng chỉ có thể coi như đã ký kết khi các bên đã ký vào hợp đồng. Các bên tham gia ký kết hợp đồng phải có đầy đủ năng lực hành vi và năng lực pháp lý và có đủ thẩm quyền * Những điều khoản căn bản của hợp đồng. Điều khoản tên hàng: Tên hàng phải đảm bảo chính xác để các bên mua, bên bán đều hiểu và thông nhất Điều khoản về phẩm chất: phẩm chất hàng hoá là tổng hợp các chỉ tiêu về tính năng. Điều khoản về bao bì đóng gói. Căn cứ vào đặc tính hàng hoá, quãng đường, phương tiện vận chuyển và tiêu chuẩn của nước xuất khẩu. Các bên buôn bán thường thoả thuận với nhau những vấn đề về yêu cầu chất lượng của bao bì, phương hướng cung cấp bao bì và giá cả của bao bì. - Điều khoản về gía cả. Điều khoản về gía cả bao gồm những vấn đề: đồng tiền tính giá, mức giá, phương pháp quy định giá việc giảm giá. Điều khoản về giao hàng. Nội dung cơ bản là xác định thời hạn địa điểm, phương thức và việc thông báo giao hàng. Điều khoản về cơ sở giao hàng. Điều khoản này quy định những cơ sở tính nguyên tắc của việc giao nhận hàng hoá giữa bên mua và bên bán. + Sự phân chia trách nhiệm giữa bên bán và bên mua trong việc giao nhận hàng. + Sự phân chia về phí trong giao hàng. + Sự di chuyển từ người bán sang người mua, những rủi ro tổn thất về hàng hoá. Hiện nay, điều khoản giao hàng được áp dụng trong incoterm 1990, song các điều kiện cơ sở giao hàng chủ yếu được áp dụng ở nước ta là: FOB: Giao hàng lên tàu( cảng bốc quy định) CIF: Tiền hàng, phí bảo hiểm và cước(cảng đích quy định) CIP: Cước bảo hiểm trả tới đích(địa điểm đích quy định) Điều khoản về thanh toán tiền hàng +Đồng tiền được quy định trong thanh toán là đồng tiền có khả năng chuyển đổi cao và mạnh. + Thời hạn thanh toán: Có thể trả ngay, trả sau, hoặc trả trước một nửa còn lại trả sau. + Phương thức thanh toán: Có nhiều phương thức thanh toán như: phương thức nhờ thu, phương thức tín dụng chứng từ. Điều khoản xử lý tranh chấp ( nếu có). + Trọng tài: Phải quy định rõ khi xảy ra tranh chấp thì xử lý ở trọng tài nào? Các tổ chức trọng tài đều là các tổ chức phi Chính phủ. Nguyên tắc xử: Xử và tài phán một lần. Phương pháp: Đề nghị hai bên thương lượng và sử dụng người thứ ba để hoà giải thưa kiện ra trọng tài. + Trách nhiệm: Hai bên cung cấp những thông tin cần thiết và chính xác, trung thực cho cơ quan trọng tài. Tuân thủ theo quy định của trọng tài. 3. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Sau khi ký hợp đồng nhập khẩu, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên đã được xác lập mang tính chất pháp lý. Do đó, các bên phải tổ chức sắp xếp, thực hiện và theo dõi những phần việc phải làm.Đồng thời, phải yêu cầu đối tác thực hiện nghĩa vụ của họ. Để thực hiện tốt hợp đồng nhập khẩu, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu phải thực hiện các bước nhập khẩu theo trình tự sau: Bước 1: Xin giấy phép nhập khẩu(nếu có) Xin giấy phép nhập khẩu là vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt pháp lý để tiến hành các khâu tiếp theo trong quá trình nhập khẩu hàng hoá. Theo quy định của nghị định 57/CP thì thương nhân là doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, thành lập theo quy định của pháp luật, được nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề đã ghi trong giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh của thương nhân sau khi đã đăng kí mã số tại Cục Hải quan tỉnh, thành phố, không phải xin giấy phép kinh doanh nhập khẩu tại Bộ Thương Mại. Các giấy phép kinh doanh nhập khẩu Bộ Thương Mại đã cấp hết hiệu lực thi hành từ ngày 1/9/1998. Đối với những mặt hàng thuộc danh mục hàng hoá nhập khẩu có điều kiện (hàng nhập khẩu có hạn ngạch, có giấy phép của Bộ Thương mại hoặc Bộ quản lý chuyên ngành) thương nhân phải được cơ quan có thẩm quyền phân bổ hạn ngạch hoặc cấp giấy phép. Bước 2 : Mở L/C Có nhiều phương thức thanh toán trong thương mại quốc tế. Nhưng nếu dùng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ thì người nhập khẩu phải có trách nhiệm mở L/C. L/C là một văn bản pháp lý trong đó ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu họ trình bộ chứng từ thanh toán phù hợp vói nội dung của L/C. Thời gian mở L/C nếu hợp đồng không quy định gì thì phụ thuộc thời gian giao hàng. Thông thường L/C được mở khoảng 15-20 ngày trước khi đến thời gian giao hàng. Cơ sở để mở L/C là dựa trên các điều khoản của hợp đồng nhập khẩu. Nếu không dùng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ thì không nhất thiết phải mở L/C. Có thể dùng phương thức thanh toán bằng chuyển tiền, hoặc bằng phương thức nhờ thu. Bước 3: Thuê tàu. Trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương việc thuê tàu chở hàng phải dựa vào các căn cứ sau đây: - Những điều khoản hợp đồng mua bán. - Đặc điểm hàng hoá mua bán - Điều kiện vận tải. Tuỳ vào khối lượng và đặc điểm hàng hoá cần chuyên chở mà lựa chọn thuê tàu cho phù hợp, đảm bảo thuận lợi và nhanh chóng. Chẳng hạn đối với hàng hoá có khối lượng lớn thì thuê tàu chuyến, hàng hoá có khối lượng nhỏ thì thuê tàu chợ. Việc thuê tàu lưu cước đòi hỏi có kinh nghiệm nghiệp cụ, có thông tin về tình hình thị trường thuê tàu và tinh thông các nghiệp vụ thuê tàu. Vì vậy trong nhiều trường hợp, chủ hàng xuất nhập khẩu thường uỷ thác việc thuê tàu lưu cước cho một công ty hàng hải như: công ty đại lý tàu biển (VOSA)... Bước 4: Mua bảo hiểm. Khi mua bảo hiểm các bên thường căn cứ vào nội dung của hợp đồng để mua bảo hiểm. Nếu nhập khẩu theo điều kiện CIF thì người nhập khẩu không phải mua bảo hiểm, trong trường hợp này người bán (người xuất khẩu) phải mua bảo hiểm và trả phí bảo hiểm. Nếu nhập khẩu theo điều kiện FOB thì người nhập khẩu phải mua bảo hiểm. Thông thường chuyên chở hàng hoá bằng đường biển hay gặp rủi ro và tổn thất. Bởi vậy trong kinh doanh Quốc tế bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất. Các đơn vị kinh doanh khi mua bảo hiểm phải tìm một hợp đồng bảo hiểm với Công ty bảo hiểm. Tuỳ theo đặc điểm, tính chất của hàng hoá, điều kiện vận chuyển...để mua bảo hiểm từng chuyến hay cả năm. Bước 5 : Làm thủ tục hải quan Hàng hoá vận chuyển qua biên giới quốc gia để nhập khẩu hay xuất khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Thủ tục hải quan là một công cụ quản lý hành chính mua bán theo pháp luật của Nhà nước để ngăn chặn buôn lậu. Việc làm thủ tục hải quan gồm 3 bước sau: Khai báo hải quan: chủ hàng phải kê khai chi tiết về hàng hoá lên tờ khai hải quan để cơ quan hải quan kiểm tra các thủ tục giấy tờ. Xuất trình hàng hoá, hàng hoá phải được xếp theo trật tự, thuận tiện cho việc kiểm soát. Hải quan đối chiếu hàng hoá trong tờ khai với thực tế để có thể quyết định cho hàng hoá qua biên giới hay không. Thực hiện các quy định của hải quan: Sau khi kiểm tra giấy tờ hàng hoá, hải quan quyết định có cho hàng hoá qua biên giới hay không hoặc với điều kiện chủ hàng phải thực hiện nghiêm chỉnh các quyết định của hải quan. Nếu vi phạm sẽ phải giải quyết theo quy định của Pháp luật. Bước 6 : Nhận hàng nhập khẩu. Theo quy định của Nhà nước (nghị định 200/CP ngày 31/12/1973) các cơ quan vân tải (ga cảng) có trách nhiệm tiếp hàng hoá nhập khẩu trên các phương tiện vận taỉ từ nước ngoài vào. Bảo quản hàng hoá đó trong quá trình xếp dỡ, lưu kho, lưư bãi và giao cho đơn vị đặt hàng theo lệnh giao hàng của đơn vị ngoại thương đã nhập hàng đó. Các đơn vị kinh doanh nhập khẩu phải tiến hàng các bước sau: Ký kết hợp đồng uỷ thác do cơ quan vận tải (ga cảng) về việc giao nhận hàng. Xác nhận với cơ quan vận tải kế hoạch tiếp nhận hàng xuất khẩu hàng năm, hàng quí, lịch tàu, cơ cấu mặt hàng, điều kiện kỹ thuật khi bốc dỡ, vận chuyển vận tải. Thông báo cho các đơn vị trong nước đặt mua hàng nhập khẩu dự kiến ngày về, ngày thực tế tàu trở hàng về đến cảng hoặc ngày toa xe chở vào sân ga giao nhận. Thanh toán cho các cơ quan vận tải các khoản chi phí về giao nhận, bốc xếp bảo quản và vận chuyển hàng nhập khẩu. Theo dõi việc giao nhận, đôn đốc cơ quan vận tải lập biên bản về hàng hoá và giải quyết trong phạm vi của mình về vấn đề xẩy ra trong giao nhận. Bước 7: kiểm tra hàng hoá nhập khẩu Theo quy định của nhà nước, hàng nhập khẩu khi đưa về qua cửa khẩu cần phải kiểm tra kỹ càng. Mỗi cơ quan,tuỳ theo chức năng của mình tiến hành công việc kiểm tra đó. Cơ quan giao thông (cảng, ga) phải kiểm tra nhu cầu niêm phong cặp chì trước khi dỡ hàng ra khỏi phương tiện vận tải nếu phát hiện thấy dấu hiệu mất kẹp chì hoặc nghi ngờ hàng có khả năng tổn thất thì ga, cảng phải nhờ công ty giám định lập biên bản giám định. Nếu tàu chuyên chở bằng đường biển mà thiếu hụt, mất mát phải có “biên bản kết toán ngân hàng” với tàu, còn nếu bị vỡ phải có “biên bản hàng đổ vỡ”. Nếu tàu đi rồi mới phát hiện được việc thiếu hụt mất mát thì công ty vận tải thuê (VOSA) cấp giấy chứng nhận hàng thiếu. Đơn vị nhập khẩu với tư cách là một bên đứng tên trên vận đơn, phải lập thư dự kháng, nếu nghi ngờ hoặc thực sự hàng hoá có tổn thất, thiếu hụt hay không đồng bộ theo hợp đồng ... Đơn vị nhập khẩu phải mời tổ chức kiểm tra về chất lượng hàng nhập khẩu có tính chất quốc tế để làm cơ sở khiếu nại với người nước ngoài, thường ở Việt Nam là VINACONTROl Bước 8: Làm thủ tục thanh toán. Thanh toán là khâu quan trọng và là kết quả cuối cùng của tất cả các giao dịch kinh doanh thương mại quốc tế. Hiện nay có rất nhiều phương thức thanh toán trong thương mại quốc tế như phương thức tín dụng chứng từ, phương thức nhờ thu, phương thức chuyển tiền, phương thức ghi sổ.. .nhưng phương thức được sử dụng chủ yếu nhất là phương thức tín dụng chứng từ. Để tiến hành thanh toán việc đầu tiên bên nhập khẩu phải làm là phải mở L/C. Thời gian mở L/C nếu hợp đồng không qui định gì thì phụ thuộc vào thời gian giao hàng. Thông thường L/C được mở khoảng 15 - 20 ngày trước khi đến thời hạn giao hàng. Ngân hàng mở L/C Ngân hàng Thông báo Người nhập khẩu Người xuất khẩu 6 5 2 8 7 1 3 5 6 4 Người nhập khẩu viết đơn xin mở L/C và gửi đến Ngân hàng yêu cầu mở L/C cho người xuất khẩu. Căn cứ vào yêu cầu và nội dung của đơn xin mở L/C, Ngân hàng mở thư tín dụng sẽ lập một bức thư tín dụng và qua ngân hàng đại lý của mình để thông báo và chuyển L/C cho người xuất khẩu. Nhận được thông báo, Ngân hàng thông báo sẽ báo ngay cho người xuất khẩu toàn bộ nội dung cuả thông báo về mở L/C và ngay sau khi nhận được L/C phải chuyển đến cho người xuất khẩu. Người xuất khẩu tiến hành giao hàng nếu chấp nhận L/C còn nếu không thì yêu cầu sửa đổi bổ sung. Sau khi giao hàng cho người xuất khẩu lập bộ chứng từ thanh toán theo yêu cầu của L/C và thông qua ngân hàng thông báo xuất trình cho ngân hàng mở L/C để yêu cầu thanh toán. Ngân hàng mở thư tín dụng kiểm tra toàn bộ chứng từ nếu thấy phù hợp thì trả tiền cho người xuất khẩu còn nếu không phù hợp thì từ chối thanh toán và gửi lại bộ chứng từ. Ngân hàng mở L/C đòi tiền người nhập khẩu và chuyển toàn bộ chứng từ cho người nhập khẩu. Người nhập khẩu tiến hành kiểm tra chứng từ nếu thấy phù hợp thì trả tiền cho Ngân hàng, nếu không phù hợp thì sẽ từ chối trả tiền. 4. Đánh giá hiệu quả nhập khẩu . Sau khi nghiên cứu tình hình thị trường trong và ngoài nước, tiến hành chọn hình thức nhập khẩu, giao dịch, đàm phán và đi đến ký kết hợp đồng nhập khẩu hàng hoá doanh nghiệp cần tìm ra những ưu nhược điểm của mình trong việc thực hiện các quy trình đó. Đối với những ưu điểm thì phải phát huy tối đa còn đối với nhược điểm thì phải hạn chế bằng cách đưa ra các giải pháp để nhằm khắc phục nhược điểm đó, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá của doanh nghiệp mình đạt hiệu quả cao nhất. III-Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu. Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng cho phép các nhà kinh doanh thấy được những gì mà họ phải đối mặt trong hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế cũng như những thuận lợi và khó khăn. Từ đó biết được nguyên nhân ảnh hưởng tới hiệu quả nhập khẩu của doanh nghiệp và cũng nhờ vậy để tìm ra những biện pháp nhằm phát huy những mặt mạnh và hạn chế những mặt yếu kém để hoàn thiện hiệu quả của hoạt động nhập khẩu. Dưới đây em xin đề cập một số nguyên nhân chính làm ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu ở các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hiện nay. 1. Nhân tố vĩ mô 1.1- ảnh hưởng của các chế độ chính sách quốc gia và quốc tế Khi tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu thì các doanh nghiệp đều phải nắm rõ và tuân thủ một cách vô điều kiện chế độ chính sách của quốc gia mình và của quốc tế vì nhân tố này thể hiện ý chí quyền lực của giai cấp lãnh đạo ở mỗi nước. Sự thống nhất chung đó của quốc tế bảo vệ các lợi ích của mọi tầng lớp trong xã hội cũng như lợi ích của các quốc gia trên thị trường quốc tế. Hoạt động nhập khẩu là việc mua bán hàng hoá từ nước ngoài cho nên nó chịu sự tác động của các chính sách chế độ, luật pháp của mỗi quốc gia đó. Đồng thời, nó phải tuân theo những quy định, luật pháp quốc tế chung. Luật pháp quốc tế bắt buộc các nước vì lợi ích chung của đất nước nên phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm và nghiã vụ của mình khi tham gia vào thương mại quốc tế. 1.2.Yếu tố văn hoá chính trị Toàn cầu hoá, quốc tế hoá đang là xu thế nổi bật của thời đại, bao trùm lên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Điều đó càng chứng tỏ rằng yếu tố văn hoá chính trị có ý nghĩa rất quan trọng trong việc mở rộng quan hệ ngoại giao không chỉ về mặt chính trị văn hoá mà còn cả về lĩnh vực buôn bán với các nước trên thế giới. Chẳng hạn như mối quan hệ ngoại giao giữa các chính phủ sẽ dẫn tới việc ký kết các hiệp định, hiệp ước.. .về quan hệ thương mại và hợp tác quốc tế. Một quốc gia mà có nền chính trị bất ổn thì một điều chắc chắn rằng các nước khác sẽ muốn quan hệ buôn bán vì các chính sách của nước đó luôn luôn thay đổi, không thống nhất sẽ gây ra nhiều rủi ro trong quan hệ buôn bán. Hiện nay nước ta đã mở rộng quan hệ buôn bán với nhiều quốc gia trên thế giới. Việt nam đã trở thành viên của khối liên minh kinh tế ASEAN và mở rộng quan hệ buôn bán với EU, ngày 3/2/1994 tổng thống Mỹ Bill Clinton đã tuyên bố bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, đó là một thuận lợi lớn cho Việt Nam khi muốn xuất khẩu hàng hoá sang thị thường Mỹ. Tất cả những điều này là điều kiện thúc đẩy kinh doanh thương mại quốc tế của Việt Nam phát triển mạnh trong thời gian tới. Môi trường văn hoá ở đây cũng sẽ tác động mạnh tới hoạt động nhập khẩu cuả mỗi quốc gia. Văn hoá thể hiện ở sở thích, nhu cầu, thị hiếu của mỗi dân tộc. Mỗi một quốc gia khác nhau có nền văn hoá khác nhau, có những loại hàng hoá sản phẩm mà quốc gia này sử dụng được, quốc gia khác lại không dùng nó, có những loại hàng hoá được ưa thích ở nước này nhưng lại không được ưa thích ở quốc gia khác. Đó là do sự khác biệt về văn hoá của mỗi quốc gia. Sự khác biệt này là rào cản sự giao tiếp và trao đổi giữa các quốc gia. Vì vậy sự hiểu biết về văn hoá trong kinh doanh thương mại quốc tế là hết sức quan trọng và cần thiết. 1.3 ảnh hưởng sự biến động thị trường trong và ngoài nước Nhập khẩu là hoạt động mua hàng hoá từ nước ngoài vào trong nước để phục vụ nhu cầu tiêu dùng và sản xuất trong nước. Do vậy có thể nói nhập khẩu như chiếc cầu nối giữa hai thị trường là thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Nhập khẩu tạo ra sự phù hợp gắn bó cũng như phản ánh sự tác động qua lại của hai thị trường. Các nhà nhập khẩu sẽ có các quyết định về việc nhập khẩu mặt hàng nào, số lượng bao nhiêu, chất lượng, giá cả như thế nào là phù hợp, trên cơ sở đó phải lựa chọn nhập khẩu từ thị trường nào là tối ưu, lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp mình. Ví dụ như nhu cầu về mặt hàng nhập khẩu nào đó ở thị trường trong nước giảm thì làm giảm ngay lượng hàng nhập khẩu đó. Trong điều kiện mở cửa ngày càng rộng, hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới, sự biến động của thị trường nước ngoài ngày càng tác động mạnh mẽ tới thị trường trong nước. Cũng như vậy thị trường ngoài nước quyết định tới sự thoả mãn các nhu cầu ở thị trường trong nước, sự biến động của nó về khả năng cung cấp, về sản phẩm mới, về sự đa dạng hoá hàng hoá và dịch vụ được phản ánh qua chiếc cầu nhập khẩu để tác động vào thị trường trong nước 1.4 ảnh hưởng của hệ thống giao thông liên lạc Chúng ta biết rằng, hoạt động nhập khẩu là hoạt động buôn bán giữa các nước với nhau nên đặc trưng cơ bản của hoạt động này là phải giao dịch với người nước ngoài thông qua các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại, hàng hoá nhập khẩu phải vận chuyển qua nhiều nước và qua nhiều phương tiện vận tải khác nhau. Vì thế hoạt động này luôn gắn liền với hệ thống giao thông vận tải và liên lạc. Khi yêu cầu cung ứng hàng hoá kịp thời, chính xác sẽ là cơ sở tạo niềm tin uy tín cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu của doanh nghiệp mình. 1.5.ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này được thể hiện bằng một đơn vị tiền tệ của nước khác. Do đó tỷ giá hối đoái ảnh hưởng trực tiếp tới giá cả trong nước và giá cả ở nước ngoài của hàng hoá và dịch vụ. Tỷ giá quyết định đến việc xác định mặt hàng, bạn hàng, phương án kinh doanh, phương thức thanh toán... Từ đó ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động nhập khẩu. Nếu tỷ giá hối đoái tăng (tức là đồng nội tệ bị xuống giá) hàng hoá và dịch vụ trong nước sẽ rẻ đi tương đối với hàng hoá nước ngoài, lúc đó nhập khẩu sẽ không có lợi. Nếu tỷ giá hối đoái giảm (tức là đồng nội tệ tăng) thì hàng hoá và dịch vụ trong nước sẽ đắt lên so với hàng hoá nước ngoài, lúc đó nhập khẩu sẽ có lợi. Chính vì tác động của tỷ giá hối đoái đến hoạt động nhập khẩu là tác động trực tiếp và mạnh mẽ nên việc lựa chọn áp dụng một mức tỷ giá là rất cần thiết cho việc duy trì công việc kinh doanh ổn định, một nền kinh tế ổn định. 1.6 ảnh hưởng của hệ thống ngân hàng Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thì hệ thống ngân hàng có một vai trò rất quan trọng. Vì ngân hàng là nơi quản lý, cung cấp vốn, đảm bảo trách nhiệm thanh toán nhanh chóng, thuận tiện, chính xác. Hoạt động nhập khẩu sẽ gặp khó khăn nếu thiếu sự trợ giúp của ngân hàng. Dựa trên các mối quan hệ uy tín nghiệp vụ của mình, các ngân hàng đã đảm bảo về mặt lợi ích của các doanh nghiệp tham gia hoạt động nhập khẩu. Trong nhiều trường hợp do có uy tín với ngân hàng, doanh nghiệp có thể được ngân hàng bảo lãnh hay cho vay với khối lượng vốn lớn, kịp thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chớp lấy những cơ hội làm ăn hấp dẫn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mình. 1.7 Yếu tố cạnh tranh Cùng với quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thì cạnh tranh cũng đã xuất hiện trong hoạt động xuất nhập khẩu làm giảm hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Đồng thời, khi có nhiều nhà nhập khẩu cùng quan tâm tới một loại hàng hoá, gía cả của việc nhập khẩu cũng tăng lên làm tăng chi phí và giảm hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong cùng một lĩnh vực sản xuất kinh doanh. 2. Nhân tố vi mô. 2.1 Cơ sở vật chất và uy tín của doanh nghiệp. - Nếu công ty có cơ sở vật chất kỹ thuật càng hiện đại bao nhiêu thì càng tạo điều kiện thuận lợi cho công việc kinh doanh của doanh nghiệp. Hệ thống kho tàng hiện đại giúp cho việc giữ gìn, bảo quản hàng hoá được thị trường tốt hơn, phương tiện vận chuyển hiện đại giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí trong quá trình vận chuyển. Hệ thống kho bãi, cửa hàng hiện đại sẽ nâng cao được chất lượng phục vụ và thu hút được nhiều khách hàng, do đó làm nâng cao doanh số bán cho Công ty. - Uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Trong hoạt động kinh doanh hiện nay uy tín có vai trò quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Uy tín được đặt lên hàng đầu, do vậy nó ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động nhập khẩu. Để có một chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì doanh nghiệp cần phải có chữ tín đối với các đối tác. Xác định được điều này, Công ty chú trọng đến chữ tín trong kinh doanh bằng cách là ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng một cách nghiêm chỉnh. Các điều khoản về thanh toán, giao nhận hàng hoá đúng hẹn. 2.2 Mặt hàng kinh doanh và khả năng tài chính của Công ty. Dựa vào kết quả nghiên cứu thị trường nhà kinh doanh lựa chọn cho mình mặt hàng dự định kinh doanh là mặt hàng gì, quy cách, phẩm chất, nhãn hiệu bao bì đóng gói hàng hoá đó như thế nào là điều hết sức quan trọng. Nếu doanh nghiệp nhập khẩu mặt hàng mà trong nước nhu cầu về mặt hàng đó ít thì sẽ rất bất lợi cho doanh nghiệp trong việc thực hiện hoạt động kinh doanh hàng nhập khẩu của mình. Ngươc lại nếu doanh nghiệp nhập khẩu mặt hàng mà họ cần nhưng trong nước lại không có thì rất có lợi cho việc kinh doanh mặt hàng nhập khẩu của doanh nghiệp. Vì vậy tuỳ theo vào tình hình thị trường, nhu cầu của thị hiếu tiêu dùng của khách hàng để lựa chọn mặt hàng nhập khẩu phù hợp nhất với doanh nghiệp mình nhất đồng thời đáp ứng đầy đủ nhu cầu về chất lượng, mẫu mã, phẩm chất, tính năng của người tiêu dùng. Vốn là một trong những vấn đề mà bất cứ doanh nghiệp nào kinh doanh nói chung và kinh doanh nhập khẩu nói riêng đều phải quan tâm. Nếu Công ty có số vốn ít thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong kinh doanh nhập khẩu hàng hoá. Ngược lại nếu công ty có nhiều vốn sẽ rất thuận lợi trong nhập khẩu, chẳng hạn như sẽ tự chủ trong việc nhập khẩu hàng hoá hoặc có thể nhập khẩu hàng hoá có trị giá lớn, số lượng nhiều trong một lần nhập. Hạn chế về vốn tất yếu ảnh hưởng đến tính chủ động trong kinh doanh xuất nhập khẩu. 2.3.Nhân tố con người. Đội ngũ cán bộ là một nhân tố quan trọng có tính chất quyết định đối với sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh nói chung và trong hoạt động nhập khẩu nói riêng. Nếu công ty có đội ngũ cấn bộ công nhân viên giỏi, tinh thông nghiệp vụ nhập khẩu thì sẽ rất thuận lợi trong quá trình nhập khẩu và ngược lại công ty không có cán bộ chuyên môn giỏi ngiệp vụ nhập khẩu thì sẽ làm giảm hiệu quả nhập khẩu của doanh nghiệp. chương II Thực trạng nhập khẩu ở công ty CEMACO I. Khái quát về công ty CEMACO 1. Quy trình hình thành và phát triển của công ty CEMACO Quá trình hình thành và phát triển của Công ty hoá chất vật liệu điện và vật tư khoa học kỹ thuật là quá trình biến đổi ngày càng hoàn thiện và phù hợp với chức năng, nhiệmvụ tổ chức lưu thông cung ứng hàng hoá nhập từ nước ngoài về và các nhiệm vụ khác. Công ty hoá chất vật liệu điện và vật tư khoa học kỹ thuật - tên giao dịch là CEMACO được thành lập theo Quyết định số 679 B/TM - TCCB của Bộ Thương mại ngày 14/8/1995. Công ty CEMACO được thành lập trên cơ sở hợp nhất văn phòng Tổng công ty hoá chất vật liệu điện và dụng cụ cơ khí và Công ty mới chính thức đi vào hoạt động theo cơ chế mới từ ngày 1/1/1996. Trước khi sát nhập văn phòng công ty là công ty vật tư khoa học kỹ thuật, là một doanh nghiệp của nhà nước chuyên kinh doanh các măt hàng vật tư khoa học kỹ thuật phục vụ cho nghiên cứu khoa học. Công ty có doanh số hàng năm thấp (20 tỷ/năm) so với văn phòng Tổng công ty (trên 220 tỷ/năm) phạm vi và quy mô hoạt động của công ty rất nhỏ. Văn phòng Tổng công ty trước năm 1993 có chức năng quản lý hành chính toàn ngành và đảm nhận chức năng làm 3 trung tâm chính là các trung tâm xuất nhập khẩu, tài chính và thông tin cho ngành. Sau năm 1993, khi các công ty trực thuộc tách ra để hoạt động kinh doanh độc lập, văn phòng Tổng công ty hoạt động kinh doanh như một công ty, tiếp tục thực hiện các hoạt động kinh doanh như cũ. Các mặt hàng truyền thống của công ty như: Xút, Sôda, cáp điện, dây, là những mặt hàng rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Trước tầm quan trọng của ngành hàng cũng như uy tín vị trí và lợi thế của công ty trên thương trường, Công tyCEMACO được thành lập lại thành một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh theo cơ chế mới. Việc hợp nhất hai công ty sẽ tạo điều kiện cho việc kinh doanh có hiệu quả, giảm được sự cồng kềnh và phức tạp của bộ máy quản lý. 2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Công ty 2.1. Nhiệmvụ của Công ty - Điều tra nắm vững nhu cầu, xây dựng và tổ chức, thực hiện các kế hoạch kinh doanh sản xuất theo quy chế hiện hành để thực hiện mục đích và nội dung hoạt động của Công ty. - Khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn doanh nghiệp được phép quản lý. Tự tạo thêm nguồn vốn để đảm bảo cho việc mở rộng sản xuất và tăng trưởng hoạt động sản xuất của công ty. Thực hiện tự trang trải về tài chính, sản xuất và kinh doanh có lãi, đáp ứng được nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của xã hội, sự phát triển kinh tế của đất nước. Quản lý sử dụng đúng chế độ, chính sách quy định và có hiệu quả các nguồn vốn đó. - Nghiên cứu khả năng sản xuất, nhu cầu thị trường trong và ngoài nước để cải tiến và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao chất lượng hàng hoá, chất lượng kinh doanh. Đổi mới và hiện đại hoá công nghệ và phương thức quản lý, sử dụng thu thập từ chuyển nhượng tài sản để tái đầu tư, đổi mới thiết bị, công nghệ phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh. - Xây dựng chiến lược phát triển ngành hàng của công ty, kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp với nhiệm vụ được nhà nước giao và nhu cầu của thị trường hàng năm và tổ chức tực hiện, sau khi được chuẩn y của cơ quan cấp trên. - Tuân thủ các chính sách, chế độ và luật pháp của Nhà nước có liên quan đến hoạt động kinh doanh, sản xuất của công ty. Đăng ký kinh doanh và kinh doanh đúng ngành hàng đăng ký - chịu trách nhiệm trước Nhà nước về kết quả hoạt động của doanh nghiệp và chịu trách nhiệm trước khách hàng, trước pháp luật về sản phẩm và dịch vụ do doanh nghiệp thực hiện, về các hợp đồng kinh tế, hợp đồn mua bán ngoại thương, hợp đồng liên doanh và các văn bản khác của công ty ký kết. - Thực hiện các nghĩa vụ đối với người lao động theo quy định của Bộ luật lao động, bảo đảm cho người lao động tham gia quản lý doanh nghiệp. - Quản lý và chỉ đạo các đơn vị trực thuộc công ty thực hiện đúng quy chế tổ chức và hoạt động của công ty. Thực hiện chế độ báo cáo thống kê, báo cáo định kỳ theo quy định của Nhà nước. Chịu sự kiểm tra của đại diện chủ sở hữu, tuân thủ các quy định về thanh tra của cơ quan tài chính và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. - Bảo đảm thực hiện đúng chế độ và các quy định về quản lý vốn, tài sản, các quỹ về kế toán,hạch toán, chế độ kiểm toán và các chế độ khác do Nhà nước quy định, thực hiện các nghĩa vụ nộp thuế và các khoản nộp ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật. 2.2 Quyền hạn của công ty - Được quyền quản lý, sử dụng vốn, đất đai và các nguồn lực khác do Nhà nước giao cho theo quy định của pháp luật để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kinh doanh do Nhà nước giao. - Được quyền chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp từ những thiết bị nhà xưởng quan trọng quy định của Chính phủ phải được cơ quan quản lý có thẩm quyền cho phép trên nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn. Đối với đất đai thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp thực hiện theo quy định của pháp luạt và luật đất đai. - Công ty có quyền tổ chức bộ máy quản lý, tổ chức kinh doanh phù hợp với mục tiêu và nhiệm vụ Nhà nước giao. Được quyền chủ động trong việc lựa chọn thị trường, quyết định giá mua, giá bán sản phẩm và dịch vụ (trừ sản phẩm và dịch vụ do Nhà nước định giá) chủ động trong giao dịch, đàm phán, ký kết và thực hiện các hợp đồng kinh tế, liên doanh, hợp tác đầu tư với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước phù hợp với các quy định của nhà nước. - Kinh doanh những ngành nghề phù hợp với mục tiêu và nhiệm vụ Nhà nước giao, mở rộng quy mô kinh doanh theo khả năng của doanh nghiệp và nhu cầu của thị trường, kinh doanh bổ sung những ngành nghề khác được coq quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép. - Được chú trọng trong việc tổ chức xây dựng hệ thống mạng lưới kinh doanh ở các tỉnh, thành phố bao gồm các điểm kinh doanh - mua bán vật tư( cửa hàng, trung tâm...) các cơ sở dịch vụ sửa chữa, lắp ráp, xí nghiệp sản xuất, chế biến, các kho tổng kho, trạm tiếp nhận dự trữ, trung chuyển vật tư hàng hoá, được đặt chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp ở trong nước và nước ngoài theo quy định của Chính phủ. Tự đổi mới công nghệ, trang thiết bị, xây dựng, cải tạo và hoàn thiện cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty. - Được quyền quy hoạch, đào tạo bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ phù hợp với phân cấp của Bộ Thương mại, được quyền chọn, thuế mướn, bố trí sử dụng, đào tạo lao động, lựa chọn các hình thức trả lương, thưởng và có các quyền khác của người sử dụng lao động theo quy định của Bộ lao động và các quy định khác của pháp luật, được quyền quyết định mức lương và thưởng cho người lao động trên cơ sở đơn giá tiền lương theo đơn vị sản phẩm hoặc chi phí dịch vụ và hiệu quả hoạt động của công ty. - Có quyền quản lý tài chính như được sử dụng vốn và các quỹ của doanh nghiệp để phục vụ kịp thời các nhu cầu trong kinh doanh theo nguyên tắc bảo toàn và có hoàn trả, được tự huy động vốn để hoạt động kinh doanh, nhưng không thay đổi hình thức sở hữu, được phát hành trái phiếu theo quy định của pháp luật, được thế chấp giá trị quyền sử dụng sử dụng đất gắn với tài sản thuộc quyền qủan lý của công ty tại các ngân hàng Việt Nam để vay vốn kinh doanh theo quy định của pháp luật. - Được trích lập, quản lý và sử dụng các quỹ theo quyđịnh của Chính phủ, được phân chia lợi nhuận còn lại cho người lao động theo cống hiến của mỗi người và kết quả kinh doanh, được hưởng các chế độ trợ cấp, trợ giá và các chế độ ưu đãi khác của Nhà nước khi phải thực hiện các nhiệm vụ theo chính sách của Nhà nước. - Được tham gia hội trợ, triển lãm, quảng cáo hàng hoá, tham gia các hội nghị, hội thảo chuyên đề có liên quan đến hoạt động của Công ty ở trong nước cũng như ở ngoài nước, được cử cán bộ ra nước ngoài hoặc mời khách hàng nước ngoài vào Việt Nam để nghiên cứu trao đổi, nghiệp vụ chuyên môn được phép và ký kết các hợp đồng kinh tế, các văn bản nhằm phục vụ mục tiêu, nhiệm vụ kinh doanh sản xuất của công ty đúng pháp luật của Nhà nước quy định. 3. Cơ cấu tổ chức của Công ty: Công ty CEMACO đã được Bộ Thương mại quyết định phương án tổ chức bộ máy quản lý kinh doanh của công ty như sau: 3. 1.Ban giám đốc: - Giám đốc là đại diện pháp nhân của công ty và chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng và pháp luật về điều hành hoạt động của doanh nghiệp, giám đốc có quyền điều hành cao nhất trong doanh nghiệp. - Phó giám đốc giúp giám đốc điều hành doanh nghiệp theo phân công uỷ quyền của giám đốc, chịu trách nhiệm trước giám đốc về nhiệm v ụ được giám đốc phân công và uỷ quyền.Công ty gồm hai phó giám đốc (một phụ trách khối văn phòng, một phụ trách khối kinh doanh). 3.2. Các phòng ban chức năng: Bao gồm 9 phòng ban có chức năng điều hành mọi hoạt động của công ty. *Khối kinh doanh: - Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu gồm ba phòng nhỏ có chức năng khác nhau: + Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu Hoá chất gọi tắt là XNK1: Chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu các mặt hàng hoá chất công nghiệp, chất dẻo và phụ gia, cao su, sơn bột màu, hương liệu và các hoá chất khác. + Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu vật liệu điện gọi tắt là XNK2, chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu các mặt hàng vật liệu điện, dụng cụ cơ khí và các mặt hàng khác (ô tô, kim loại, điện tử, điện lạnh, vật phẩm têu dùng...) + Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu vật tư khoa học kỹ thuật gọi tắt là XNK3: chuyên kinh doanh các loại vật tư thiết bị phục vụ cho các hoạt động khoa học kỹ thuật, phát triển sản xuất (thiết bị, phụ tùng, linh kiện cơ khí chính xác quang học, dụng cụ thí nghệm, dụng cụ đo lường...). Cả ba phòng ban có chức năng nhiệm vụ: Tổng hợp, xác định nhu cầu, lập đơn hàng, thực hiện các hợp đồng kinh tế. Điều động hàng hoá cho đơn vị trực thuộc và mua bán vật tư hàng hoá cho các đơn vị có nhu cầu. *Khối văn phòng. - Phòng tổng hợp Xây dựng, giao dịch và quản lý kế hoạch toàn diện của công ty. - Phòng hợp tác đầu tư và chỉ đạo sản xuất. Nghiên cứu, xây dựng và tổ chức kiểm tra, thực hiện các dự án đầu tư, hợp tác, liên doanh liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước. - Phòng tài chính, kế toán. Bảo đảm về vốn cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và các hoạt động sản xuất. - Phòng tổ chức cán bộ và lao động tiền lương. Tham mưu giúp lãnh đạo công ty trong công tác tổ chức mạng lưới kinh doanh, công tác cán bộ lao động và tiền lương. - Phòng hành chính quản trị. Giúp lãnh đạo trong công tác quản lý, bố trí sắp xếp, điều hành các hoạt động tài chính, quản trị văn phòng công ty. Các phòng ban ở trên đều được thành lập trên cơ sở hợp nhất các phòng ban của hai công ty cũ. Về tổ chức nhân sự của các phòng, mỗi phòng có một trường phòng và các phó phòng giúp việc, chịu trách nhiệm trước lãnh đạo công ty về nội dung của phòng. * Khối đơn vị cơ sở. Bao gồm các chi nhánh, xí nghiệp, trung tâm, cửa hàng, trạm. Đó là các đơn vị hạch toán phụ thuộc có chức năng và nhiệm vụ chủ yếu sau: - Kinh doanh các loại hoá chất vât liệu điện, thiết bị điện, vạt tư khoa học kỹ thuật và các hàng hoá khác. - Tự trang trải về tài chính, đả bảo về đời sống của cán bộ công nhân viên trong công ty. Thực hiện các dịch vụ môi giới,đại lý, ký gửi khối đơn vị này bao gồm: Chi nhánh Hoá chất vật liệu điện và vật tư KHKT Hải Phòng Chi nhánh Hoá chất vật liệu điện và vật tư KHKT Thanh Hoá. Chi nhánh Hoá chất vật liệu điện và vật tư KHKT Đà Nẵng. Chi nhánh Hoá chất vật liệu điện và vật tư KHKT TP. Hồ Chí Minh. Ngoài ra công ty còn có các cửa hàng sau: + Cửa hàng hoá chất vật liệu điện số 1 + Cửa hàng hoá chất vật liệu điện số 2 + Cửa hàng hoá chất vật liệu điện số 3 + Cửa hàng hoá chất vật liệu điện số 4 + Cửa hàng hoá chất vật liệu điện số 5 + Cửa hàng hoá chất vật liệu điện số 6 + Cửa hàng hoá chất vật liệu điện số 7 + Cửa hàng hoá chất vật liệu điện số 8. Trên đây là mô hình hoạt động của công ty CEMACO Hà Nội kể từ sau sự kiện hợp nhất đến hết năm 1996. Đến năm 1997, nhận thấy mô hình này vẫn còn nhiều thiếu sót, ban Giám đốc công ty đã một lần nữa xin ý kiến của Bộ Thương mại đều chỉnh lại bằng việc tinh giảm các phòng ban (từ 9 phòng ban, nay còn ba phòng qản lý và 3 phòng quản lý kiêm kinh doanh). Mục đích của việc điều chỉnh này: - Gắn chặt tổ chức đặt hàng trong nước với tổ chức nhập khẩu nhằm đáp ứng chính xác, đầy đủ, kịp thời nhu cầu về hàng hoá của các doanh nghiệp sản xuất trong và ngoài nước. Từ đó góp phần đẩy mạnh sản xuất. - Khi hàng nhập khẩu về tổ chức giao thẳng hàng hoá từ cảng đến kho. Doanh nghiệp sản xuất, tiết kiệm được vận tải, bốc vác, lưu kho, lưu bãi, hao hụt hàng hoá, từ đó giảm được chi phí lưu thông. - Nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm chi phí tiền lương. Hiện nay công ty CEMACO Hà Nội hoạt động theo mô hình sau: Cửa hàng 1 265 Cầu Giấy Cửa hàng 2 69 Láng Hạ Cửa hàng 4 120 Nguyễn Văn Cừ Trung tâm KDTH 25 Hàng Gà Cửa hàng 8 Vũ Ngọc Hoan Xí nghiệp gỗ Sài Đồng Gia Lâm XN VTKH KT Tràng Tiền TT Dịch vụ kỹ thuật 265 Cầu giấy Xí nghiệp Quy Nhơn Xí nghiệp Đà Nẵng Xí nghiệp Hải Phòng Xí nghiệp Cần Thơ Xí nghiệp Sài Gòn Ban giám đốc Phó giám đốc phụ trách khối văn phòng Phó giám đốc phụ trách khối kinh doanh Phòng tổng hợp Phòng tài chính kế toán Phòng tổ chức hành chính Khối kinh doanh thuần túy Khối quản lý kiêm kinh doanh Phòng XNK 1 Phòng XNK 3 Phòng XNK 2 4. Đặc điểm về hoạt động kinh doanh của Công ty 4.1. Đặc điểm về sản phẩm, thị trường sản phẩm a. Đặc điểm của sản phẩm Công ty CEMACO Hà Nội là một trong những doanh nghiệp hàng đầu kinh doanh về hoá chất vật liệu điện và vật tư khoa học kỹ thuật với nhiều chủng loại, quy cách, khối lượng lớn. Công ty có thể đáp ứng cho các đơn vị sản xuất một cách có hiệu quả nhất. Mặt hàng mà công ty kinh doanh là các nguyên liệu tham gia cấu thành các thành phẩm có tính đồng bộ cao. Một số mặt hàng có tính thay thế. Về tính chất kỹ thuật, một số mặt hàng là hoá chất rất độc hại và rất nguy hiểm như Cyanua, nhiều thiết bị điện được sử dụng cho các công trình lâu năm đòi hỏi tính bền vững cao. Do đặc điểm trên đò hỏi phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình vận chuyển, bảo quản, kiểm tra chất lượng. Một đặc điểm nữa là những mặt hàng công ty kinh doanh hầu như chưa tự sản xuất được ở trong nước, phần lớn phải nhập từ nước ngoài như: Trung Quốc, các nước ASEAN, Nga. Các sản phẩm này có giá trị lớn, khó có khả năng thay thế, thời gian sử dụng lâu. Do đó, chế độ bảo hành cũng là một vấn đề quan trọng đối với công ty. b. Đặc điểm của thị trường sản phẩm: CEMACO Hà Nội có một lợi thế rất lớn là trong thời kỳ bao cấp, một bộ phận của công ty (HCVLĐ - DCCK) giữ vai trò quản lý nên có được mối quan hệ khá tốt với bạn hàng. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, mặc dầu xuất hiện nhiều doanh nghiệp cũng kinh doanh mặt hàng giống công ty,có nhiều thế mạnh hơn công ty nhưng CEMACO vẫn giữ được mối quan hệ cũ, để làm đà đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của mình. Để có thể thấy rõ hưn hoạt động kinh doanh của CEMACO, ta sẽ đi sâu vào phân tích phần này. - Thị trường nước ngoài Đối với nhập khẩu, thị trường nước ngoài là nguồn cung cấp vật tư, ngành hàng chủ yếu mà trong nước không sản xuất được. Với xuất khẩu, đó là nơi tiêu thụ những mặt hàng mà công ty khai thác được trong nước, tưang nguồn thu ngoại tệ đồng thời mở rộng quan hệ đối ngoại với các công ty, các tổ chức, các nước trên thế giới. Trong quá trình hoạt động, CEMACO Hà Nội đã tạo lập được một thị trường nhập khẩu rộng lớn - chia làm ba khu vực chủ yếu: - Thị trường Trung Quốc. Đây là thị trường chủ yếu để nhập khẩu các mặt hàng hoá chất như Xút, Sôda. Lượng nhập hàng năm của công ty là khoảng 3000 tấn xút, 9500 tấn Sôda. Theo Ban lãnh đạo của Công ty đánh giá thì đây là thị trường đầy tiềm năng cung cấp hoá chất. Tuy mặt hàng chưa có chất lượng cao nhưng song khá phong phú và phù hợp với Việt Nam. Đó là do kinh tế Trung Quốc phát triển có xuất pháp điểm gần với ta, giá thành rẻ nên các doanh nghiệp trong nước có thể chấp nhận được.Thêm vào đó, với nguồn cung ứng kế hoạch dồi dào, gần nhau về địa lý, dễ thông thương, và vận chuyển do đường sá được cả thiện là những yêu cầu hỗ trợ tốt cho thị trường này. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay, có nhiều biểu hiện không mấy ổn định vì nền kinh tế phát triển quá nóng dẫn đến cung không đủ thoả mãn cầu nên giá tăng và có lúc khan hiếm. Điều này đòi hỏi công ty phả chuẩn bị những thị trường thay thế để đề phòng trường hợp xấu nhất vẫn đảm bảo đủ hàng hoá cung ứng cho sản xuất trong nước và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Trong tương lai, nền kinh tế Trung Quốc vẫn tăng trưởng ở mức cao. Do vậy nhu cầu về hoá chất tư bản như Xút, Sôda lớn nên nguồn này vẫn được công ty chú trọng. Công ty đang cố gắng tận dụng triệt để nguồn này cũng như thay thế dần toàn bộ phương thức thanh toán hàng đổi hàng sang thanh toán quốc tế bằng USD. + Thị trường các nước châu á khác: ở khu vực châu á ngoài Trung Quốc, công ty đã tạo được nhiều mối quan hệ làm ăn với các nước khác như: các nước ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. Hàng năm kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này đạt khoảng 7,8 triệu USD. Là thành viên thứ bảy của ASEAN, Việt Nam cũng có nhiều ưu điểm tương đồng với các nươc này về tôn giáo, văn hoá, dân tộc. Hàng hoá nhập từ khu vực này có chất lượng đảm bảo, nguồn hàng ổn định do nền kinh tế của ASEAN thuộc loại năng động và có hiệu quả, hai là khu vực có đầu tư nước ngoài lớn, trong đó có công nghiêp hoá chất. Sắp tới khi hàng rào thuế quan giữa các nước được xoá bỏ, mối quan hệ buôn bán chắc chắn sẽ có thuận lợi. Mặc dù khối lượng nhập khẩu hoá chất từ thị trường này tăng không qúa cao, song tốc độ tăng rất vững chắc nên tương lai, công ty sẽ tiếp tục mở rộng bạn hàng để xây dựng thành khu vực thị trườg chiến lược vào những năm tới. Các nước còn lại như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan là những nước có nền công nghiệp phát triển nên thị trường xuất khẩu các mặt hàng hoá chất tinh khiết, chất lượng tốt. Tuy nhiên giá thành còn cao nên chưa được các nhà sản xuất trong nước sử dụng nhiều. Gần đây nhập khẩu từ thị trường năy cũng tăng mạnh, nhất là từ Nhật, trong đó tăng chủ yếu từ quỹ hỗ trợ ODA Nhập khẩu hàng hoá từ vốn ODA của Nhật Tên hàng Công ty cung cấp Nguồn hàng Số lượng Thành tiền Xút NICHIMEN TQ 3000 tấn 69 Sôda NISHOIWAI TQ 9500 tấn 152,65 + Thị trường Nga: Đây là thị trường truyền thống của công ty. Sau nhiều năm làm ăn với thị trường này, đến nay mặc dù khối XHCN tan rã kèm theo những biến động to lớn về kinh tế xã hội và chính trị nhưng công ty vẫn duy trì được một số bạn hàng ở đây. Khó khăn lớn nhất trong hoạt động xuất nhập khẩu với thị trường này vẫn là khâu thanh toán. Công ty đang cố gắng khôi phục lại thị trường này bằng cách cử đại diện thường trú của mình sang Nga để đàm phán. Những mặt hàng có thể nhập từ đây là DOP, chất dẻo. Hiện nay, Công ty xác định cách thức làm việc với thị trường này là mua bán, trao đổi, cơ sở sản xuất có giấy phép xuất nhập khẩu hoặc các tổ chức người Việt kinh doanh ở Nga. Khi quan hệ ngoại thương trở lại ổn định, kinh tế xã hội phát triển sẽ ký kết các hợp đồng dài hạn. - Thị trường trong nước: Đây là thị trường quan trọng với Công ty nó bao gồm thị trường mua và thị trường bán. + Thị trường mua: Ngoài nguồn mua từ nước ngoài, Công ty cũng lập được nhiều mối quan hệ với các nhà sản xuất trong nước. Lượng hàng mua trong nước nhìn chung đạt thấp khoảng 5% tổng lượng hàng mua vào của Công ty, trong đó chủ yếu là Xút. Mặc dù Xút sản xuất trong nước chủ yếu là Xút lỏng có giá thành chỉ bằng 70% Xút nhập ngoại nhưng chất lượng thấp, khó vận chuyển. Sở dĩ như vậy là các nhà sản xuất trong nước trong những năm gần đây khi chuyển đổi cơ chế mới, làm ăn chưa đi vào ổn định, công nghệ lạc hậu, quản lý chưa chặt chẽ, nguyên liệu đầu vào có chất lượng chưa cao nên sản phẩm sản xuất ra có chất lượng chưa tốt mà giá thành lại cao. Một nguyên nhân khác dẫn đến mua nội địa còn ít là bản thân nhiều nhà sản xuất thường tự bán trực tiếp sản phẩm ra thị trường nên có giá thành hạ hơn do không phải cộng thêm chi phí. Hoà nhập với sự phát triển chung của ngành công nghiệp trong nước, các nhà sản xuất trong nước chắc chắn sẽ từng bước đầu tư để nâng cao chất lượng cũng như sản lượng. Thêm nữa, quá trình chuyên môn hóa sẽ tác động và phân công lại thành một số doanh nghiệp chuyên phân phối, một số doanh nghiệp chuyên sản xuất, nên Công ty còn có cơ hội tăng tỷ trọng của mua nội địa. Ngoài ra một số doanh nghiệp nước ngoài cũng đang xem xét dầu tư vào sản xuất hoá chất nên nếu có thể, Công ty sẽ tham gia liên doanh, liên kết để mở rộng sản xuất, qua đó mới có thể chủ động được người mua trong nước. Ban lãnh đạo Công ty đánh giá đây là một thị trường cần quan tâm khai thác vì còn chứa đựng nhiều tiềm năng. + Thị trường bán: Đây được coi là thị trường sống còn đối với công ty, nó ảnh hưởng mạnh mẽ tới thị trường mua. Mặt hàng hóa chất chiếm doanh số bán ra chủ yếu hiện nay của Công ty là Xút, Sôda. Đây là những vật tư chủ yếu, cơ bản cho nhiều ngành công nghiệp nhẹ trong nước như Dệt, Tẩy rửa, Giấy, Thủy tinh. Sau khi mua hàng về Công ty sẽ tổ chức dự trữ và phân phối cho các kế hoạch có nhu cầu trong nước. Trong phần này ta sẽ chia nhu cầu sử dụng theo các ngành công nghiệp có sử dụng các hoá chất này. Ngành giấy: Trong một vài năm gần đây, ngành giấy phát triển khá nhanh, các Công ty sản xuất có nhiều bước triển vọng đổi mới công nghệ để nâng cao năng lực sản xuất của mình, dẫu sản lượng giấy cả nước mới chỉ đáp ứng được 70% nhu cầu. Đây là ngành sản xuất không mang tính đồng bộ rõ rệt nhưng vào những mùa chuẩn bị cho năm học mới thì nhu cầu tăng vọt làm cho các nhà sản xuất không đủ hang để phân phối, nhiều lúc không đủ nguyên liệu để sản xuất, dẫn đến sản xuất bị ngừng trệ, giá thành nâng cao tạo cơ hội cho hàng giấy nhập khẩu. Có thể nói nhu cầu về giấy tăng trưởng song điều đó kéo theo nhu cầu về Xút cũng phát triển. Ngành dệt: Xút được sử dụng để tẩy trắng và làm mềm vải trong công nghiệp dệt. Gần đây các nhà máy dệt trong nước hoạt động không hiệu quả và thua lỗ do công nghệ còn lạc hậu, mẫu mã kém, giá thành lại cao nên không thể cạnh tranh với hàng ngoại nhập, đặc biệt là hàng Trung Quốc. Mặc dù phải cạnh tranh với hàng ngoại với đủ loại xuất xứ song hiện nay ngành dệt đã dần phục hồi và phát triển ở trình độ công nghệ cao hơn. Việc nhiều xí nghiệp tự bỏ vốn để nhập thiết bị đã góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm đồng thời tăng sản lượng, hạ giá thành sản phẩm. Một số doanh nghiệp đã bắt đầu đứng vững và phát triển như Dệt Long An, Dệt Thành Công v.v... Các sản phẩm của họ không những đã chiếm được lòng tin của người tiêu dùng trong nước mà còn thâm nhập được vào nhiều thị trường lớn như Bắc Mỹ, Châu Âu, Nhật. Sự thành công của các doanh nghiệp này chứng tỏ sức sống mãnh liệt của các công ty trong nước đồng thời đánh dấu bước phát triển đổi mới của ngành này. Theo đánh giá chung, thì ngành may mặc sẽ tiếp tục phát triển, ngành dệt trong nước đều tìm được chỗ đứng khá vững chắc song sản lượng tăng không đáng kể nen mức tiêu dùng Xút tăng ít. Ngành tẩy rửa: Ngành này có sử dụng Xút và Sođa. Kinh tế phát triển nên thu nhập của người dân tăng do đó họ quan tâm nhiều hơn tới nhu cầu của bản thân. Bột giặt là nhu cầu cần thiết hàng ngày gần đây được các doanh nghiệp trong nước đổi mới mẫu mã, được nhiều mặt hàng mới tạo nên một thị trường, phát triển nhanh và lợi nhuận cao. Nhìn thấy tiềm năng của thị trường Việt Nam hai hãng lớn nhất thế giới là P&G và Unilever đang đầu tư sản xuất tại Việt Nam góp phần làm chủng loại hàng phong phú, đồng thời tăng năng lực sản xuất trong nước. Với thị trường hoạt động sôi động như vậy thì sự phát triển của thị trường tẩy rửa là lớn song có thể sẽ giảm dần trong giai đoạn tới do sản lượng sản xuất đạt mức cao, đủ thoả mãn cho nhu cầu trong nước. 4.2 Đặc điểm về điều kiện trang thiết bị phục vụ cho sản xuất kinh doanh của Công ty: Đây là một mặt hết sức quan trọng phản ánh năng lực hoạt động kinh doanh của Công ty trong hiện tại và tương lai. Trụ sở chính của công ty đặt tại 70 Hàng Mã - Hoàn Kiếm - Hà Nội với diện tích sử dụng là 1134m2. Khu văn phòng làm việc của Công ty đạt tiêu chuẩn tương đối cao. Khu vực Sài Đồng có diện tích 6200m2 kho và bãi chứa hàng hóa cùng với 6723m2 khu vực sản xuất gỗ dán. Khu vực kho Từ Liêm có diện tích khá lớn 10.000m2. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc lưu trữ hàng hóa ở Công ty và giúp Công ty mở rộng liên doanh, liên kết trong thời gian tới. Tại khu vực Hà Nội, Công ty có các cửa hàng nhưng sự phân bố chưa được hợp lý, một số cửa hàng còn nhỏ lẻ cả về doanh số lẫn lao đọng, một số xí nghiệp khác lại quá đông lao động. Ngoài ra Công ty còn có các chi nhánh tại các tỉnh như Hải Phòng, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ. Hiện nay Công ty đang chuẩn bị đầu tư vốn, kỹ thuật khoa học lớn vừa kinh doanh, vừa làm dịch vụ kỹ thuật. Như vậy, Công ty có một cơ sở vật chất tương đối khá, mặc dù sự phân bố mạng lưới kinh doanh chưa thực sự hợp lý. Đây cũng là cơ sở cho sự thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường toàn quốc của Công ty. 4.3 Đặc điểm về vốn kinh doanh của Công ty: Công ty thường tiến hành mua bán với khối lượng lớn. Trong vốn kinh doanh của Công ty có một phần do Nhà nước cấp, một phần do Công ty tự tăng cường do tiết kiệm trong chi tiêu sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn vốn tự có, tự khai thác vốn từ các nguồn khác nhau. Nguồn vốn hiện có của Công ty là 17 tỷ đồng, trong đó vốn cố định là 4 tỷ, vốn lưu động là 11 tỷ 947 triệu đồng, vốn khác là 900 triệu đồng. Nguồn vốn hiện có này có thể nói, là còn quá thấp so với quy mô hoạt động của Công ty, điều đó khiến cho việc mở rộng hoạt động kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Chủ yếu Công ty kinh doanh bằng vốn vay Ngân hàng, lượng vốn mà Công ty kinh doanh là trên 200 tỷ VNĐ một năm. II. Phân tích thực trạng nhập khẩu của Công ty CEMACO: Hoạt động nhập khẩu là hoạt động chủ yếu của Công ty CEMACO, do đó cần phải phân tích, xem thực trạng nhập khẩu ra sao là điều rất quan trọng để nhận thức và đánh giá đúng, khách quan tình hình thực hiện công tác nhập khẩu của Công ty. Qua đó để tìm ra được các nhân tố khách quan cũng như chủ quan làm ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty nói chung và ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu nói riêng, tìm ra những mặt hạn chế trong công tác nhập khẩu, đưa hoạt động nhập khẩu đạt hiệu quả cao nhất cho Công ty. 1. Phân tích tình hình nhập khẩu theo giá trị kết cấu mặt hàng Hoạt động nhập khẩu có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển hoạt động kinh doanh của Công ty. Hoạt động này tạo công ăn việc làm và thu nhập ổn định cho cán bộ công nhân viên trong Công ty đồng thời nó góp phần đảm bảo cho sự phát triển cân đối và ổn định của Công ty. Ngoài ra hoạt động nhập khẩu còn tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu hàng của Công ty ra thị trường nước ngoài. Phân tích tình hình nhập khẩu theo giá trị kết cấu mặt hàng nhằm đánh giá khái quát tình hình nhập khẩu của Công ty, mức độ tăng giảm so với năm trước và đánh giá chất lượng của công tác nhập khẩu trong kỳ kinh doanh của Công ty. Kim nghạch nhập khẩu của công ty theo mặt hàng từ năm 1999-2001 TT Mặt hàng Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Số tiền (Triệu) Tỷ trọng (%) Số tiền (Triệu) Tỷ trọng (%) Số tiền (Triệu) Tỷ trọng (%) 1 Hóa chất CN 72.213 68,27 111.330 60,9 84.567 50 2 Vật liệu điện 18.193 17,2 2.243 1,22 8.572 5,07 3 Vật tư KHKT 7.683 7,26 23.700 13 28.860 17 a Hóa chất TN 124 0,11 592 0,32 605 0,36 b Thiết bị TN 7.135 6,74 21.266 11,63 27.705 16,4 c Dụng cụ TN 424 0,4 1.842 1 550 0,32 4 Hàng khác a Soda 21.700 11,87 18.123 10,7 b Xút 154 0,08 C Bạch kim S 105.772 100 182.827 100 168.982 100 Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của công ty. - Năm 1999- Nhập khẩu 98 tỷ 089 triệu đạt 95,7% KH99 = 62,9%TH98 + Hoá chất CN : Nhập 72 tỷ 213 triệu đạt 92%KH99=66%TH98 trong đó có 1341 tấn xút đạt 191,6%KH nhiều hơn năm 98 là 167 tấn ; Soda được 18950 tấn đạt 126,3 %KH nhiều hơn năm 98 là 3075 tấn còn các mặt hang khác đều thấp hụt hơn các mặt hàng khác. + Hàng vật liệu điện nhập được 18 tỷ 193 triệu đạt 121,3%KH=133,1%TH 98 trong đó có tới trên 1,146 triệu USD nhập trên5416 tấn bột Amiang. Các mặt hàng khác do chậm tiêu thụ nên nhập ít như dây đIện từ có 16 tấn, cáp có 72,1 km(giảm 30 km) hoặc không nhập như dây điện , bóng đèn. + Hàng vật tư KHKT nhập được 7 tỷ 683 triệu đạt 85,4%KH=23,7%TH98 trong đó các nhóm chỉ đạt từ 23-35%TH98. Trung tâm dịch vụ kỹ thuật triển khai được một số hợp đồng vào cuối năm nên doanh số nhập và bán thiết bị được gần đạt kế hoach với 95,1%.Các vật tư thông dụng khác nhập chủ yếu từ thị trường TQ vẫn chưa cảI thiện được tình trạng đối tác nhập ít , thiếu đIũu kiện lựa chọn; Việc thu gom nhu cầu từ Công ty đến các đơn vị chưa được phối hợp thực hiện kịp thời .;Hoạt động nhập uỷ thác bị cắt giảm dẫn đến kết quả nhập khẩu nghành hàng thấp Năm 2000- Nhập khẩu 137tỷ273triệu đạt 101%KH và bằng 139,9%TH99. công tác nhập khẩu tạo nguồn do được quan tâm dầu tư thích đáng , chiếm 70%tổng nguồn kinh doanh . Tuy nhiên do giá nhập khẩu một số mặt hàng biến động mạnh vào các tháng cuối năm đã làm giảm hiêụ quả kinh doanh hàng nhập khẩu. + Hoá chất CN nhập 111ty330 triệu đạt 110,6%KH=154,1%TH99 trong đó có 154 tấn xút , 21.700 tấn Soda ,2.202 tấn PP, 806 tấn hoá chất cho mút xốp ,730 tấn PE , gần 10.000 tấn nhựa và các loại hoá chất khác … + Hàng vật liệu đIện nhâp 2tỷ 243triệu chủ yếu có trên 4 tấn dây đIện từ và gần 130 tấn tôn silic. Các mặt hàng khác do chưa có thị trường tiêu thụ nên không nhập . +Hàng vật tư khoa học kỹ thuật : nhập 23tỷ 700 triệu đạt 110%KH= 308,4%TH99 trong đó nhóm máy thiết bị nhập 21tỷ 266triệu chiếm 89,7%tổng nhập khẩu . Hoá chất thí nghiệm được 592 triệu , Dụng cụ TN được 1,842tỷ – cả 2 nhóm này chiếm 10%nguồn nhập khẩu cho they nhu cầu máythiết bị phát triển rất lớn và tiềm năng thị trường tiêu thụ còn lớn hơn trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước . Năm 2001- Nhập khẩu :Nguồn nhập khẩu được 121tỷ999triệu đạt 98%KH=88,9%TH2000trong đó vật liệu đIện đạt 90%KH.Vật tư KHKT đạt 93%KH. Nguồn hàng nhập khẩu chiếm 64,4%tổng nguồn hoàn toàn do không phảI không có thi trường nhập hay thiếu tiền mà phụ thuộc thị trường tiêu thụvà hiệu quả kinh doanh khi bán ra. + Hoá chất CN nhập 84tỷ 567 triệu đạt 100,6%KH và bằng 75,9%TH2000trong đó có 18.123 tấn Soda, 1.347 tấn PP,1.096 tấn PE các loại ,2.245 tấn nhựa và hoá chất khác . + Vật liệu đIện :Nhập 8 tỷ 572 triệu đạt 90,2%KH=392,1%TH2000 bao gồm 1.800tấn Amiant nhập uỷ thác và trên 1400 máy giặt , tủ lạnh … là hàng đIện dân dụng . + Vật tư KHKT :Nhập 28tỷ 860 triệu đạt 93,1%KH=121,7%TH2000 trong đó nhập thiết bị TN chiếm 96% nên các vật tư thông dụng khác chiếm rất ít , phảI mua lại tư các doanh nghiệp khác . Pân tích tình hình thị trường nhập khẩu: Phân tích thị trường nhập khẩu là rất cần thiết đối với Công ty CEMACO. Từ đó rút ra được những nhận xét đúng đắn chính xác của từng thị trường cũng như sự biến động của nó để trên cơ sở đó với những thị trường then chốt cần củng cố mở rộng nâng cao uy tín, với những thị trường có tỷ trọng giảm cần tìm mặt hàng mới ở thị trường đó và duy trì mối quan hệ nhằm mở rộng hoạt động kinh doanh của Công ty. - Thị trường Trung Quốc: Đây là thị trường chủ yếu nhập khẩu các mặt hàng hóa chất như Xút, Soda. Lượng nhập hàng năm của Công ty là 3000 tấn Xút, 9500 tấn Soda. Theo Ban lãnh đạo Công ty đánh giá thì đây là một thị trường đầy tiềm năng để cung cấp hoá chất. Đây là mặt hàng chưa có chất lượng cao song lại phù hợp với nước ta, tuy nhiên trong thời buổi hiện nay có nhiều biểu hiện không mấy ổn định vì nền kinh tế phát triển quá nóng dẫn đến cung không đủ cầu nên giá tăng và có lúc khan hiếm. Do đó Công ty vừa phải chuẩn bị những thị trường để thay thế, đề phòng những trường hợp xấu mà vẫn đủ hàng hoá cung cấp cho sản xuất trong nước và nâng cao hiệu quả kinh doanh. - Thị trường Châu á: Ngoài thị trường Trung Quốc, Công ty đã tạo được nhiều mối quan hệ buôn bán với các nước khác như: các nước ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. Hàng năm kim ngạch xuất nhập khẩu đạt khoảng 7,8 triệu USD. Là thành viên của ASEAN nên Việt Nam có nhiều điểm tương đồng đối với các nước ASEAN như tôn giáo, văn hoá và dân tộc. Hàng hóa nhập từ các nước này có chất lượng đảm bảo, ổn định do điều kiện kinh tế ổn định, năng động và có hiệu quả. Tuy nhiên sắp tới khi hàng rào thuế quan giữa các nước được bãi bỏ, mối quan hệ buôn bán sẽ có nhiều thuận lợi hơn. Đây cũng là thị trường có sự đầu tư kho lớn của nước ngoài. Còn các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan là các nước có nền kinh tế phát triển đặc biệt là nền công nghiệp. Do đó các nước này xuất khẩu các mặt hàng hóa chất có chất lượng tốt và tinh khiết, do giá thành còn khá cao nên chưa được các nhà sản xuất trong nước chấp nhận. Gần đây nhập khẩu từ thị trường này tăng mạnh, nhất là từ Nhật, trong đó chủ yếu từ quỹ hỗ trợ ODA. - Thị trường Nga: Đây là thị trường truyền thống của Công ty, mặc dù khối XHCN tan rã, kèm theo sự biến động to lớn của chính trị, xã hội, kinh tế. Nhưng Công ty vẫn duy trì mối quan hệ với một số bạn hàng ở đây. Tuy khó khăn lớn nhất trong thị trường này là xuất nhập khẩu. Công ty đã và đang cố gắng khôi phục lại thị trường này bằng cách cử đại diện thường trú của mình sang Nga đàm phán. Những mặt hàng nhập khẩu từ đây là chất dẻo, DOP. - Thị trường mới sau khi Mỹ xoá bỏ cấm vận: Sau khi Mỹ bãi bỏ cấm vận, một số doanh nghiệp của Đức, Hà Lan đã gặp gỡ, làm quen và tìm quan hệ làm ăn với Công ty. Đây là thị trường có nền công nghiệp hiện đại có thể cung cấp hàng hóa chất công nghệ cao, không gây ô nhiễm. 3. Nghiệp vụ tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu: - Nghiên cứu thị trường: Nghiên cứu thị trường là một việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất cứ Công ty nào khi tham gia vào thị trường quốc tế. - Nghiên cứu thị trường trong nước: khi muốn thực hiện nghiên cứu nhập khẩu hàng hóa Công ty thường nghiên cứu nhu cầu trong nước, tình hình thị trường ra sao để nhập khẩu hàng hóa cho phù hợp với nhu cầu tiêu dùng và sản xuất trong nước. - Nghiên cứu thị trường nước ngoài: Công ty thu thập những thông tin và nhà cung cấp hàng nhập khẩu cho mình chủ yếu là gián tiếp thông qua các phương tiện thông tin báo chí thương mại của các cơ quan thương mại. Chính vì nghiên cứu gián tiếp nên nhiều khi Công ty chưa hiểu rõ được khách hàng cung cấp cho mình về tình hình kinh tế, trình độ khoa học công nghệ, chiến lược thị trường v.v... Đó là mặt hạn chế của Công ty mà Công ty cần phải khắc phục trong thời gian tới. - Lập phương án kinh doanh sau khi nghiên cứu thị trường nhập khẩu Công ty lập ra phương án kinh doanh để nhập khẩu hàng hóa: + Tên hàng hóa nhập khẩu + Số lượng nhập khẩu + Giá nhập khẩu + Tổng thu + Tổng chi phí nhập khẩu, thuế nhập khẩu, phí ngân hàng, phí giao nhận và vận chuyển. - Giao dịch và ký hợp đồng nhập khẩu: Hình thức giao dịch với các bạn hàng mà Công ty nhập khẩu là hình thức giao dịch qua Fax: Công ty CEMACO tuy mới được thành lập, tham gia vào hoạt động nhập khẩu chưa lâu nhưng do có uy tín trên thị trường nên việc giao dịch thường diễn ra nhanh chóng và đơn giản. - Phương thức thanh toán: Công ty CEMACO sử dụng phương thức thanh toán, tín dụng chứng từ để nhập khẩu hàng hóa, Công ty phải mở L/C tại các Ngân hàng mà Công ty có tài khoản. - Làm thủ tục hải quan: Hàng hóa nhập khẩu về thủ tục hải quan. Công ty phải khai chi tiết hàng hoá bán tờ khai Hải quan để cơ quan kiểm tra và làm thủ tục Hải quan. Nhưng trong quá trình làm thủ tục Hải quan do thủ tục Hải quan của nước ta rườm rà, chờ đợi lâu... cho nên làm ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu của Công ty. III. Những nhận xét chung về tình hình nhập khẩu ở Công ty CEMACO Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, hoạt động nhập khẩu là hoạt động cần thiết để đẩy nhanh tốc độ phát triển, tốc độ công nghiệp hóa hiện đại hóa nền kinh tế nước ta. Công ty CEMACO cũng đang góp sức nhỏ bé của mình vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước tiến tới dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. 1. Những ưu điểm: Hoạt động nhập khẩu của Công ty đã tạo ra công ăn việc làm và thu nhập ổn định cho một số người lao động. Điều này tạo ra động lực và tâm lý ổn định cho người lao động làm việc hăng say, nhiệt tình, hết mình và gắn bó với Công ty. Hoạt động nhập khẩu còn giúp các Công ty sản xuất trong nước có điều kiện sản xuất tốt hơn, tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của người Việt Nam. Công ty đã thiết lập được mối quan hệ kiêm bán với nhiều nước, đã thiết lập được thị trường tương đối ổn định, khối lượng hàng hoá nhập khẩu khá lớn.Vì vậy, Công ty có khá nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực nhập khẩu. Mặt hàng kinh doanh của Công ty đa dạng, trong đó những mặt hàng truyền thống như Xút, Soda v.v... đã tạo được uy tín và có vị trí trên thị trường trong nước. Công ty đã xây dựng được mối quan hệ tốt, tín nhiệm với ngân hàng hỗ trợ ngoại tệ và tiền đồng phục vụ cho hoạt động nhập khẩu có hiệu quả. Bên cạnh đó Công ty còn có cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối thuận lợi cho việc nhập khẩu. Đội ngũ cán bộ quản lý nhập khẩu có kinh nghiệm trên 15% là có trình độ Đại học. Với những thuận lợi này Công ty có khả năng đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu. 2. Những khó khăn trong hoạt động nhập khẩu của Công ty CEMACO: Nhược điểm của Công ty thể hiện ở các mặt sau: Hoạt động nghiên cứu thị trường nhập khẩu của Công ty còn yếu kém, công việc này mới chỉ tiến hành ở mức độ chung, khái quát chưa nắm được chính xác tình hình kinh tế, cơ sở vật chất, chính sách thương mại luật pháp của nước bạn. Do đó làm ảnh hưởng tới kim ngạch nhập khẩu của Công ty. Kho tàng bến bãi của Công ty tuy nhiều nhưng phần lớn không đủ tiêu chuẩn để bảo quản hàng hóa tốt. Là đơn vị kinh doanh mang tính tổng hợp không chuyên sâu vào một mặt hàng hoặc một ngành hàng nhất định nên các cán bộ kinh doanh trong Công ty không nắm vững hết về đặc tính, chủng loại, chất lượng, quy cách mà Công ty nhập về so với Công ty chỉ chuyên kinh doanh mặt hàng đó. Cán bộ công nhân viên trong Công ty khá đông nhưng cán bộ có trình độ chuyên môn, hiểu biết thực sự về hoạt động nhập khẩu thì ít, do đó đã phần nào làm ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu trong Công ty. Một khó khăn lớn trong hoạt động nhập khẩu hiện nay là tình trạng thiếu vốn kinh doanh nhập khẩu ở Công ty. Nguồn vốn kinh doanh của Công ty hiện nay chủ yếu là dựa vào vốn vay Ngân hàng, nhưng lãi suất ngân hàng hiện nay còn cao; hàng năm việc trả lãi suất cho Ngân hàng đã chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong tổng số chi phí kinh doanh của Công ty. Chính vì lý do này mà trong hoạt động nhập khẩu của Công ty đã gặp phải không ít những khó khăn. Chương III Một số giảI pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu của Công ty CEMACO I. Định hướng cho hoạt động nhập khẩu của Công ty trong thời gian tới. Đứng trước bối cảnh của thế giới nói chung và sự nghiệp đổi mới công nghiệp hoá hiện đại hoá của Việt Nam nói riêng thì đặt ra cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói chung và Công ty CEMACO nói riêng phải có phương hướng đúng đắn, phù hợp với nhịp độ phát triển của đất nước để nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh cho Công ty, tạo nên một bước nhảy vững chắc sang thế kỷ 21 là thời đại của công nghệ thông tin. Công ty đã đề ra một số chủ trương phương hướng như sau: Mở rộng quy mô kinh doanh, quy mô ngành hàng theo hướng đa dạng hoá kinh doanh, đa dạng hoá mặt hàng, tăng cường xuất nhập khẩu các mặt hàng khác để tăng doanh số và lợi nhuận tạo thêm việc làm, thu nhập cho người lao động. Phát

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100384.doc
Tài liệu liên quan