Đề tài Một số giải pháp nhằm gia tăng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm may mặc sang thị trường Hoa Kỳ của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên may mặc Bình Dương

Tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm gia tăng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm may mặc sang thị trường Hoa Kỳ của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên may mặc Bình Dương: LỜI MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài : Ngày nay trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, mỗi quốc gia trên hành tinh chúng ta không thể sống một cách riêng rẽ được mà phải tuân theo dòng xoáy của nền kinh tế thế giới, tham gia vào các quan hệ đầu tư quốc tế, dịch vụ quốc tế và thương mại quốc tế …Trong đó kinh doanh quốc tế có vai trò rất quan trọng đối với quá trình hội nhập kinh tế thế giới của mỗi quốc gia. Thị trường Hoa Kỳ là một thị trường sản xuất và tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất thế giới hiện nay. Ngành dệt may của Hoa Kỳ đứng thứ 10 trong các ngành công nghiệp và đứng thứ 2 trong các ngành sản xuất hàng hóa có thời hạn sử dụng không dài. Công nghiệp dệt của Hoa Kỳ luôn gắn với thị trường sản phẩm dệt và quần áo may sẳn của thế giới. Mặt khác, Hoa Kỳ cũng là nhà nhập khẩu lớn nhất về hàng dệt và quần áo. Từ thực tế Hoa Kỳ mới xóa bỏ cấm vận đối với Việt Nam từ năm 1995, nhưng quan hệ giao thương giữa doanh nghiệp hai nước mới chỉ bắt đầu từ năm 2001 khi có Hiệp định ...

doc79 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1050 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm gia tăng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm may mặc sang thị trường Hoa Kỳ của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên may mặc Bình Dương, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài : Ngày nay trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, mỗi quốc gia trên hành tinh chúng ta không thể sống một cách riêng rẽ được mà phải tuân theo dòng xoáy của nền kinh tế thế giới, tham gia vào các quan hệ đầu tư quốc tế, dịch vụ quốc tế và thương mại quốc tế …Trong đó kinh doanh quốc tế có vai trò rất quan trọng đối với quá trình hội nhập kinh tế thế giới của mỗi quốc gia. Thị trường Hoa Kỳ là một thị trường sản xuất và tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất thế giới hiện nay. Ngành dệt may của Hoa Kỳ đứng thứ 10 trong các ngành công nghiệp và đứng thứ 2 trong các ngành sản xuất hàng hóa có thời hạn sử dụng không dài. Công nghiệp dệt của Hoa Kỳ luôn gắn với thị trường sản phẩm dệt và quần áo may sẳn của thế giới. Mặt khác, Hoa Kỳ cũng là nhà nhập khẩu lớn nhất về hàng dệt và quần áo. Từ thực tế Hoa Kỳ mới xóa bỏ cấm vận đối với Việt Nam từ năm 1995, nhưng quan hệ giao thương giữa doanh nghiệp hai nước mới chỉ bắt đầu từ năm 2001 khi có Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ (BTA). Trong khi các nước khác trên thế giới đã có quan hệ buôn bán với Hoa Kỳ từ rất lâu, vô số các doanh nghiệp nước ngoài đã có chỗ đứng vững chắc tại thị trường Hoa Kỳ, vì thế việc thay đổi và thuyết phục các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ lựa chọn hàng hóa do doanh nghiệp Việt Nam cung ứng rất khó khăn và phải cạnh tranh rất quyết liệt.  Công ty TNHH MTV may mặc Bình Dương là một doanh nghiệp nhà nước thực hiện hạch toán độc lập trong cơ chế thị trường cạnh tranh, chuyên sản xuất các sản phẩm thời trang may mặc xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới, nên vấn đề gia tăng kim ngạch xuất khẩu là một vấn đề quan trọng hàng đầu trong định hướng phát triển của công ty. Vì những lý do trên mà người viết quyết định chọn đề tài: “ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GIA TĂNG KIM NGẠCH XUẤT KHẨU SẢN PHẨM MAY MẶC SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ CỦA CÔNG TY TNHH MTV MAY MẶC BÌNH DƯƠNG “ làm khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Mục tiêu nghiên cứu . Nghiên cứu cơ sở lý luận về kinh doanh xuất nhập khẩu và các yếu tố của thị trường, có tác động làm ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu Phân tích thực trạng sản xuất và tình hình xuất khẩu hàng may mặc tại công ty TNHH MTV MAY BÌNH DƯƠNG, cụ thể trong giai đoạn từ năm 2008-2010. Đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu tại công ty một cách có hệ thống: điểm mạnh, điểm yếu, nguy cơ và cơ hội. Nghiên cứu nhu cầu thị trường Hoa kỳ đối với sản phẩm may mặc của công ty. Phân tích các nhân tố làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu tại Công ty. Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm gia tăng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ qua đó cũng nhằm hoàn thiện hoạt động xuất nhập khẩu tại công ty. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sản phẩm may mặc thời trang, thị trường kinh doanh mục tiêu của công ty,…và các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu trong vài năm gần đây . Phạm vi nghiên cứu của đề tài là phân tích tình hình kim ngạch xuất khẩu của công ty, phân tích tình hình hoạt động kinh doanh và quy trình xuất nhập khẩu sản phẩm tại công ty TNHH MTV MAY MẶC BÌNH DƯƠNG. 4. Phương pháp nghiên cứu Chuyên đề sữ dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp thống kê, điều tra khảo sát, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp từ cơ sở lý luận và việc thu thập thông tin từ cơ sở dữ liệu thứ cấp( sách, báo, tạp chí, Intetnet…), dữ liệu sơ cấp (khảo sát tình hình hoạt động kinh doanh xuất khẩu trong ngành). 5. Kết cấu của đề tài Chương 1: Cơ Sở Lý Luận Về Xuất Khẩu Hàng May Mặc. Chương 2: Thực Trạng Hoạt Động Kinh Doanh Xuất Khẩu Sản Phẩm Sang Thị Trường Hoa Kỳ Tại Công Ty TNHH MTV May Mặc Bình Dương. Chương 3: Giải Pháp Thúc Đẩy Xuất Khẩu Sản Phẩm Sang Thị Trường Hoa Kỳ Tại Công Ty TNHH MTV May Mặc Bình Dương. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC 1.1 Nội dung hoạt động xuất khẩu hàng may mặc 1.1.1 Nghiên cứu tiếp cận thị trường hàng may mặc: Nghiên cứu thị trường may mặc cần nắm vững các yếu tố của thị trường, hiểu biết các quy luật của thị trường để kịp thời đưa ra các quyết định. Vì thế nó có ý nghĩa rất quan trọng trong phát triển và nâng cao hiệu suất các quan hệ kinh tế, đặc biệt là trong hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Khi nghiên cứu về thị trường nước ngoài, ngoài các yếu tố như: Chính trị, Luật pháp, Cơ sở hạ tầng, Phong tục, Tập quán,… Doanh nghiệp còn phải biết cần xúc tiến xuất khẩu mặt hàng nào? Dung lượng thị trường hàng hoá đó là bao nhiêu? Đối tác kinh doanh là ai? Phương thức giao dịch như thế nào? Sự biến động hàng hoá trên thị trường ra sao? Đối thủ cạnh tranh là những ai?... Để từ đó đề ra chiến lược kinh doanh phù hợp nhằm đạt được mục tiêu đề ra. 1.1.1.1 Tổ chức thu thập thông tin. Công việc đầu tiên của người nghiên cứu thị trường là thu thập thông tin có liên quan đến thị trường về sản phẩm cần quan tâm. Các kênh thông tin có ích cho việc tìm kiếm đối tác có khá nhiều và đa dạng như: Các bộ ngành chức năng, Các sứ quán, Thương vụ của ta ở nước ngoài, Phòng thương mại, Cơ quan xúc tiến thương mại, Các hiệp hội ngành hàng, Ngân hàng, Công ty tư vấn, Báo chí chuyên ngành, Các tổ chức quốc tế, Thư viện, Hội chợ triển lãm và Internet. Nhưng không thể thiếu là thông tin thu thập trực tiếp từ thị trường, thông tin này gắn với phương pháp nghiên cứu tại thị trường . 1.1.1.2 Tổ chức phân tích thông tin và xử lý thông tin Phân tích thông tin về môi trường: môi trường có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vì vậy khi phân tích và xử lý thông tin cần phải thu thập nhanh chóng, chính xác và kịp thời. Phân tích thông tin về giá cả hàng hóa: giá cả hàng hoá may mặc trên thị trường biến động rất phức tạp và chịu sự chi phối bởi các nhân tố: Chu kỳ sản phẩm, Lũng đoạn, Cạnh tranh, Lạm phát… Phân tích thông tin về nhu cầu tiêu dùng: là phân tích nhu cầu của thị trường tiêu thụ, là xác định khả năng tiêu thụ sản phẩm qua các thời kỳ là như thế nào? khả năng chấp nhận thiết kế của sản phẩm mới là như thế nào?...Bởi vì công việc kinh doanh bắt đầu từ nhu cầu thị trường. 1.1.1.3 Lựa chọn thị trường xuất khẩu. Các tiêu chuẩn chung như: Chính trị, Pháp luật, Địa lý, Kinh tế,… Các tiêu chuẩn về quy chế thương mại và tiền tệ: Bảo hộ mậu dịch,Tình hình tiền tệ… Các tiêu chuẩn thương mại: Sản xuất nội địa, Sản xuất xuất khẩu. Các tiêu chuẩn trên phải được đánh giá, căn nhắc điều chỉnh theo mức độ quan trọng, vì sau khi đánh giá các doanh nghiệp sẽ lựa chọn thị trường mục tiêu được xem là tốt nhất với họ. 1.1.2 Lập phương án kinh doanh Doanh nghiệp lập kế hoạch xuất khẩu sang thị trường bao gồm: hàng hoá, khối lượng, giá cả, phương thức sản xuất… Sau khi đã xác định sơ bộ các yếu tố trên doanh nghiệp tiến hành lập kế hoạch giao dịch-ký kết hợp đồng như: lập danh mục khách hàng, danh mục hàng hoá, số lượng bán, thời gian giao dịch… 1.1.3 Quảng cáo hàng may mặc: Doanh nghiệp cần giới thiệu mình với đối tác một cách cụ thể và nhanh chóng. Thông tin về mình và sản phẩm cần đầy đủ như: ảnh chụp, giá cả, qui cách kỹ thuật, chứng nhận về sản phẩm mới nhất… và quan trọng nhất là địa chỉ( E-mail liên hệ). Cũng như các mặt hàng khác, hàng may mặc thường được nhập khẩu bởi các nhà bán buôn, các siêu thị, nhà kinh doanh qua bưu điện, nhà bán lẻ hàng chuyên dụng. Đại lý của các nhà sản xuất đóng một vai trò quan trọng trong việc nhập khẩu và phân phối hàng. Họ thường tìm hàng qua các nguồn: Hội chợ, Văn phòng đại diện, Tạp chí chuyên ngành, Từ những nhà bán lẻ khác hay truy cập vào các trang Web. Vì thế việc làm thế nào cung cấp thông tin doanh nghiệp chính xác, nhanh nhất đến nhiều những kênh xúc tiến thương mại như trên là công việc rất quan trọng. 1. 1.4 Tổ chức thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu hàng may mặc. Đối với doanh nghiệp sản xuất sản phẩm may mặc thì tạo nguồn hàng là việc tổ chức sản xuất hàng hoá theo yêu cầu của khách hàng. Các doanh nghiệp sản xuất cần phải trang bị máy móc, nhà xưởng, nhiên liệu, nguyên vật liệu để sản xuất ra sản phẩm xuất khẩu. Kế hoạch tổ chức sản xuất phải được lập chi tiết, hoạch toán chi phí cụ thể cho từng đối tượng, vấn đề nhân công cũng là một vấn đề nghiêm trọng: số lượng, trình độ, tay nghề, chi phí....Bởi vì các nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm 1.1.5 Đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng may mặc * Chuẩn bị cho giao dịch. Để công tác chuẩn bị giao dịch diễn ra tốt đẹp doanh nghiệp phải biết đầy đủ các thông tin về hàng hoá, thị trường tiêu thụ, khách hàng… Việc lựa chọn khách hàng để giao dịch căn cứ vào các điều kiện sau như: Tình hình kinh doanh của khách hàng, Khả năng về vốn và cơ sở vật chất, Uy tín, Danh tiếng trong quan hệ làm ăn của khách hàng… * Giao dịch đàm phán ký kết. Trước khi ký kết mua bán với nhau, người xuất khẩu và người nhập khẩu phải trải qua quá trình giao dịch thương lượng các công việc bao gồm: Chào hàng: là đề nghị của người xuất khẩu hoặc người xuất khẩu gửi cho người bên kia biểu thị muốn mua bán một số hàng nhất định kèm điều kiện: Giá cả, Thời gian, Địa điểm nhất định… Hoàn giá: khi nhận được thư chào hàng nếu không chấp nhận điều kiện trong thư mà đưa ra đề nghị mới thì đề nghị này được gọi là hoàn giá. Chấp nhận: là đồng ý hoàn toàn bộ tất cả các diều kiện trong thư chào hàng. Xác nhận: hai bên mua bán thống nhất với nhau về các điều kiện đã giao dịch. Họ đồng ý với nhau và đồng ý thành lập văn bản xác nhận (thường lập thành hai bản). Đây là một khâu quan trọng trong kinh doanh xuất khẩu, vì nó quyết định đến tính khả thi hoặc không khả thi của kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả của đàm phán sẽ là hợp đồng được ký kết * Ngày nay tồn tại hai loại giao dịch: Giao dịch trực tiếp: là giao dịch mà người mua và người bán thoả thuận trực tiếp. Giao dịch gián tiếp: là giao dịch thông qua các trung gian có thể là cá nhân hay tổ chức. Tuỳ theo trường hợp cụ thể mà các doanh nghịêp chọn phương thức giao dịch thích hợp. Trong thực tế hiện nay, giao dịch trực tiếp được áp dụng rộng rãi bởi giảm được chi phí trung gian, dễ dàng thống nhất, có điều kiện tiếp xúc với thị trường, khách hàng, chủ động trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. * Ký kết hợp đồng. Tiếp theo công việc đàm phán, các bên tiến hành ký kết hợp đồng xuất khẩu, trong đó, quy định người bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho người mua, còn người mua có nghĩa vụ trả cho người bán một khoản tiền ngang giá trị theo các phương tiện thanh toán quốc tế. Ký kết hợp đồng có thể ký kết trực tiếp hay thông qua tài liệu. Khi ký kết cần chú ý đến vấn đề địa điểm thời gian và tuỳ từng trường hợp mà chọn hình thức ký kết. *Thông thường trong một hợp đồng xuất khẩu có những nội dung sau: a./ Phần mở đầu của hợp đồng xuất khẩu. Số hợp đồng Ngày và nơi ký kết hợp đồng. Tên, và địa chỉ đầy đủ, điện thoại, fax, đại diện của các bên. b./ Điều kiện tên hàng. c./ Điều kiện số lượng d./ Điều kiện về quy cách phẩm chất của hàng hoá. e./ Điều kiện về giá cả. f./ Điều kiện về bao bì, đóng gói, ký mã hiệu. g./ Điều kiện về cơ sở giao hàng. h./ Điều kiện về thời gian, địa điểm, phương tiện giao hàng. i./ Điều kiện về thanh toán. k./ Điều kiện bảo hành (nếu có). l./ Điều kiện về khiếu nại và trọng tài. m./ Điều kiện về các trường hợp bất khả kháng. n./ Chữ ký của các bên. Với những hợp đồng phức tạp, nhiều mặt hàng thì có thể thêm các phụ lục hợp đồng là bộ phận không tách rời của hợp đồng. 1.1.6 Thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng may mặc Sau khi đã ký kết hợp đồng hai bên thực hiện những gì mình đã cam kết trong hợp đồng. Với tư cách là nhà xuất khẩu, doanh nghiệp sẽ thực hiện những công việc sau: Mở L/C và kiểm tra L/C Xin giấy phép xuất khẩu Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu Kiểm tra hàng hoá Uỷ thác thuê tàu Mua bảo hiểm hàng hoá Làm thủ tục hải quan Giao hàng lên tàu Làm thủ tục thanh toán Giải quyết tranh chấp (nếu có) SƠ ĐỒ 1.1: Trình tự các bước thực hiện một hợp đồng ngoại thương Đây là trình tự những công việc chung nhất cần thiết để thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Tuy nhiên trên thực tế tuỳ theo thoả thuận của các bên trong hợp đồng mà người thực hiện hợp đồng có thể bỏ qua một hoặc một vài công đoạn *Mở L/C và kiểm tra L/C đó Trong hoạt động buôn bán quốc tế hiện nay, việc sử dụng L/C đã trở thành phổ biến hơn cả, do lợi ích của nó mang lại. Sau khi người nhập khẩu mở L/C, người xuất khẩu phải kiểm tra cẩn thận chi tiết các điều kiện trong L/C xem có phù hợp với những điều kiện của hợp đồng hay không. Nếu không phù hợp hoặc có sai sót thì cần phải thông báo cho người nhập khẩu biết để sửa chữa kịp thời. * Xin giấy phép xuất khẩu. Trong một số trường hợp, mặt hàng xuất khẩu thuộc danh mục nhà nước quản lý, doanh nghiệp cần phải tiến hành xin giấy phép xuất khẩu do phòng cấp giấy phép xuất khẩu của Bộ thương mại quản lý. * Chuẩn bị hàng xuất khẩu. Đối với những doanh nghiệp, sau khi thu mua nguyên phụ liệu sản xuất ra sản phẩm, cần phải lựa chọn, kiểm tra, đóng gói bao bì hàng hoá xuất khẩu, kẻ ký mã hiệu sao cho phù hợp với hợp đồng đã ký và phù hợp với luật pháp của nước nhập khẩu. * Kiểm định hàng hoá. Trước khi xuất khẩu, các nhà xuất khẩu phải có nghĩa vụ kiểm tra số lượng, trọng lượng của hàng hoá. Việc kiểm tra được tiến hành ở hai cấp: cơ sở và ở cửa khẩu nhằm bảo đảm quyền lợi cho khách hàng và uy tín của nhà sản xuất. * Thuê phương tiện vận chuyển. Doanh nghiệp xuất khẩu có thể tự thuê phương tiện vận chuyển hoặc uỷ thác cho một công ty uỷ thác thuê tàu. Điều này phụ thuộc vào điều kiện cơ sở giao hàng trong hợp đồng. Cơ sở pháp lý điều tiết mối quan hệ giữa các bên uỷ thác thuê tàu với bên nhận uỷ thác là hợp đồng uỷ thác thuê tàu. Có hai loại hợp đồng uỷ thác thuê tàu: Hợp đồng uỷ thác thuê tàu cả năm và Hợp đồng thuê tàu chuyến. Nhà xuất khẩu căn cứ vào đặc điểm của hàng hoá để lựa chọn hợp đồng thuê tàu cho thích hợp. * Mua bảo hiểm hàng hoá. Hàng hoá trong buôn bán quốc tế thường xuyên được chuyên chở bằng đường biển, điều này thường gặp rất nhiều rủi ro, do đó cần phải mua bảo hiểm cho hàng hoá. Công việc này cần được thực hiện thông qua hợp đồng bảo hiểm. Có hai loại hợp đồng bảo hiểm: Hợp đồng bảo hiểm bao và Hợp đồng bảo hiểm chuyến. Khi mua bảo hiểm cần lưu ý những điều kiện bảo hiểm và lựa chọn công ty bảo hiểm. * Làm thủ tục hải quan. Hàng hoá khi vượt qua biên giới quốc gia để xuất khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Việc làm thủ tục hải quan gồm ba bước chủ yếu sau: Khai báo hải quan: Doanh nghiệp khai báo tất cả các đặc điểm hàng hoá về số lượng, chất lượng, giá trị, tên phương tiện vận chuyển, nước nhập khẩu. Các chứng từ cần thiết, phải xuất trình kèm theo là: Giấy phép xuất khẩu, phiếu đóng gói, bảng kê chi tiết... Xuất trình hàng hoá. Thực hiện các quyết định của hải quan. * Giao hàng lên tàu. Trong bước này doanh nghiệp cần tiến hành các công việc sau: Lập bản đăng ký hàng chuyên chở. Xuất trình bản đăng ký cho người vận tải để lấy hồ sơ xếp hàng . Trao đổi với cơ quan điều độ cảng để nắm vững ngày giờ làm hàng. Bố trí phương tiện vận tải đưa hàng vào cảng, xếp hàng lên tàu. Lấy biên lai thuyền phó, sau đó đổi biên lai thuyền phó lấy vận đơn đường biển hoàn hảo và chuyển nhượng được, sau đó lập bộ chứng từ thanh toán. * Thanh toán. Thanh toán là bước cuối cùng của việc thực hiện hợp đồng nếu không có sự tranh chấp, khiếu nại. Trong buôn bán quốc tế, có rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau. Phương thức chuyển tiền. Phương thức thanh toán mở tài khoản. Phương thức thanh toán nhờ thu. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Đối với nhà xuất khẩu, về phương tiện thanh toán cần phải xem xét những vấn đề sau: Người bán muốn bảo đảm rằng, người mua có các phương tiện tài chính để trả tiền mua hàng theo đúng hợp đồng đã ký. Người bán muốn việc thanh toán được thực hiện đúng hạn. Trên bình diện quốc tế, hai phương tiện thanh toán là nhờ thu (D/P và D/A) và thư tín dụng (chủ yếu là L/C không hủy ngang) được áp dụng phổ biến hơn cả. Đến đây nếu không có sự tranh chấp và khiếu lại, một thương vụ xuất khẩu coi như đã kết thúc và doanh nghiệp lại tiến hành một thương vụ mới. 1.1.7 Đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu hàng may mặc 1.1.7.1 Chỉ tiêu phản ánh kết quả định lượng. A.Lợi nhuận: Là chỉ tiêu phản ánh tổng hợp kết quả từng hợp đồng xuất khẩu, là chỉ tiêu phản ánh cuối cùng và quan trọng nhất. lợi nhuận là số tiền có được của hợp đồng sau khi trừ đi toàn bộ chi phí liên quan đến việc thực hiện hợp đồng đó. Công thức tính lợi nhuận. P=TR-TC Trong đó: P: là lợi nhuận TR:là tổng doanh thu TC:là tổng chi phí B.Tỷ suất lợi nhuận: Là chỉ tiêu tương đối phản ánh tỷ lệ phần trăm (%) của lợi nhuận trên tổng doanh thu. Công thức tính: P’=P/TR*100 C.Hệ số sinh lời của chi phí Công thức tính: P’’=P/TC*100 Chỉ tiêu P’’ nói lên rằng tỷ lệ phần trăm lãi so với tồng chi phí của doanh nghiệp sau khi thực hiện hợp đồng, hay khả năng sinh lời của một đồng chi phí, ngoài ra chỉ tiêu này còn có thể so sánh với tỷ suất lãi của ngân hàng hay một tiêu chuẩn nào đó. D.Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu: Là tỷ lệ giữa tổng chi phí bằng nội tệ trên doanh thu tính bằng ngoại tệ, chỉ tiêu này đem so sánh với tỷ giá hối đối của ngân hàng , nếu chỉ tiêu trên bé hơn tỷ giá thì đường lối thực hiên kinh doanh xuất khẩu có hiệu quả và ngược lại Công thức tính: Tỷ suất ngoại xuất khẩu = Chi phí (VNĐ) /Doanh thu (USD) 1.1.7.2 Chỉ tiêu phản ánh kết quả định tính: Hợp đồng xuất khẩu cũng giống như những hợp đồng kinh doanh khác, doanh nghiệp không chỉ nhằm vào mục tiêu lợi nhuận mà còn nhiều mục tiêu khác: mở rộng thị trường, định vị sản phẩm, cạnh tranh… Có nhiều doanh nghiệp chịu lỗ để đạt được mục tiêu về cạnh tranh, khả năng thâm nhập và mở rộng thị trường, kết quả của những nổ lực này thể hiện ở thị trường xuất khẩu hiện có của doanh nghiệp, khả năng mang sản phẩm sang các thị trường khác, mối quan hệ với khách hàng được mở rộng đến đâu, khả năng khai thác được thực hiện ở các thị trường như thế nào… Hiện nay vấn đề thị trường và khách hàng là hết sức khó khăn nó trở thành mục tiêu không kém phần quan trọng. Uy tín của doanh nghiệp trên thương trường cũng cần phải xác định : Sản phẩm của mình có được khách hàng lòng như mong đợi? Sản phẩm có được nhiều người biết dến không ? ... Vì thế cần giữ uy tín trong quan hệ làm ăn buôn bán không vi phạm hợp đồng. 1.2 Nghiên cứu thị trường may mặc tại Mỹ Vị trí địa lý: Hoa Kỳ nằm ở Bắc Mỹ, phía đông là Bắc Đại tây dương, phía tây là Bắc Thái bình dương, phía bắc tiếp giáp với Canada, và phía nam tiếp giáp với Mêxicô. Tổng diện tích: 9.629.091 km2 chiếm 6,2% diện tích toàn cầu, trong đó diện tích đất đai là 9.158.960 Km2 và diện tích mặt nước là 470.131 km2. Diện tích Hoa Kỳ bằng nửa Nga; bằng khoảng 3/10 Châu Phi; bằng khoảng nửa Nam Mỹ; rộng hơn Trung Quốc không đáng kể; và lớn hơn Tây Âu khoảng 2,5 lần. 1.2.1 Nhu cầu sản xuất - nhập khẩu - tiêu thụ hàng may mặc tại Mỹ Thị trường Hoa Kỳ là một thị trường sản xuất và tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất thế giới hiện nay. Ngành dệt may của Hoa Kỳ đứng thứ 10 trong các ngành công nghiệp và đứng thứ 2 trong các ngành sản xuất hàng hóa có thời hạn sử dụng không dài. Công nghiệp dệt của Hoa Kỳ luôn gắn với thị trường sản phẩm dệt và quần áo may sẳn của thế giới. Mặt khác, Hoa Kỳ cũng là nhà nhập khẩu lớn nhất về hàng dệt và quần áo. Hàng may mặc của Hoa Kỳ chủ yếu là các sản phẩm cao cấp, giá cao được nhập khẩu từ các nước phát triển hoặc một phần là nguyên phụ liệu, bán thành phẩm xuất đi các nước khác để gia công lắp ráp thành sản phẩm để tái xuất lại vào Hoa Kỳ hoặc xuất khẩu đi các nước thứ ba. Hiện Hoa Kỳ có khoảng 15.000 công ty sản xuất hàng may mặc, với tổng doanh thu hàng năm 30 tỷ USD. Ngoài tập đoàn VF, Levi Strauss và Warnaco, đa số các công ty lớn trong ngành đạt doanh thu hàng năm dưới 1 tỷ USD. Chỉ một số nhà máy trong ngành có 500 lao động và doanh thu hàng năm đạt 50 triệu USD, còn lại phần lớn là các nhà máy dưới 50 lao động và doanh thu hàng năm dưới 5 triệu USD. Các công ty lớn của Hoa Kỳ chủ yếu chuyên sâu vào các dòng sản phẩm chất lượng cao, trong khi đó các công ty vừa và nhỏ lại thành công với những sản phẩm dệt may hàng loạt. Mặc dù ngày càng “tự động hoá” trong sản xuất nhưng số lượng lao động sử dụng trong ngành dệt may của Hoa Kỳ vẫn rất lớn với thu nhập hàng năm khoảng gần 170.000 USD. Mức cầu được quyết định chủ yếu bởi thị hiếu người tiêu dùng, chi phí sản xuất cạnh tranh giữa Hoa Kỳ và nước ngoài. Lợi nhuận của các công ty riêng lẻ dựa vào hiệu quả hoạt động và khối lượng sản xuất. Các công ty nhỏ có thể cạnh tranh hiệu quả với các công ty lớn bằng cách chuyên sản xuất một dạng sản phẩm may mặc riêng biệt. Do các kỹ năng và thiết bị cần để sản xuất các loại quần áo khác nhau, các nhà sản xuất luôn chuyên vào một loại sản phẩm. Theo thương vụ Hoa Kỳ, các phân khúc sản phẩm may mặc lớn nhất là quần nam (20% doanh thu ngành), váy và quần nữ (15%), áo trùm đầu của nữ (15%), áo trùm đầu của nam (12%) và áo đầm (10%). Các nguyên liệu chính được sử dụng trong ngành sản xuất vải sợi của Hoa Kỳ là len, bông (cotton) và sợi nhựa tổng hợp. Vải chiếm 40% doanh thu của ngành sản xuất dệt may Hoa Kỳ, chỉ sợi chiếm 20%, các loại thảm chiếm 20%, và chăn màn, rèm cửa chiếm 20%.  Với những mặt hàng chính như quần áo may sẵn, hàng thêu ren, trang trí và vải sợi theo báo cáo của Cơ quan Thống kê của Mỹ công bố trong tháng 7/2011, kim ngạch xuất khẩu dệt may sang thị trường Mỹ đạt 652,42 triệu USD. Trong thời gian qua, Mỹ tiếp tục duy trì là thị trường xuất khẩu lớn nhất của dệt may Việt Nam, chiếm đến 51% thị phần xuất khẩu. Việt Nam là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 sau thị trường Trung Quốc xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ 1.2.2 Hệ thống các nhà sản xuất và phân phối hàng may mặc tại Mỹ Tại Hoa Kỳ có nhiều loại công ty lớn, vừa và nhỏ với các kênh thị trường khác nhau. Các công ty lớn thường có hệ thống phân phối riêng và họ tự làm lấy tất cả các khâu từ nghiên cứu, sản xuất, tiếp thị, phân phối và tự nhập khẩu. Các tập đoàn và công ty lớn có tác động mạnh đến các chính sách của Chính phủ, còn các công ty vừa và nhỏ vận động xung quanh hệ thống thị trường và được Chính phủ hỗ trợ. Đối với loại công ty vừa và nhỏ họ có nhiều cách bán hàng nhập khẩu tại Mỹ. Họ thường nhập khẩu hàng hoá về để bán tại Mỹ theo các cách phổ biến sau đây: 1)     Bán sỉ cho các cửa hàng bán lẻ; 2)     Bán cho nhà phân phối; 3)     Bán trực tiếp cho các nhà công nghiệp; 4)     Bán sỉ qua đường bưu điện; 5)     Bán lẻ qua đường bưu điện; 6)     Có một số nhà nhập khẩu bán hàng theo catalog qua các nhà buôn hay trực tiếp lập ra công ty để bán hàng theo catalog; 7)     Bán lẻ; 8)     Bán hàng qua các cuộc trưng bày hàng hoá trên các kênh truyền hình; 9)     Bán hàng trực tiếp cho các nhà máy công xưởng ; 10)   Làm đại lý bán hàng; 11)   Bán hàng qua “buổi tiệc giới thiệu bán hàng” (Bali Imports Party); 12)   Bán ở chợ ngoài trời (Flea Market); 13)   Bán hàng qua các hội chợ, triển lãm; 14)   Bán hàng qua hệ thống Internet như dạng Amazon.com; 15) Bán hàng cho các nguồn trung gian đặt hàng (sourcing person). Người Mỹ hay làm nghề trung gian đi đặt hàng cho các tập đoàn hay các công ty lớn để nhập khẩu hàng hoá vào Hoa Kỳ. Họ đến tiếp xúc ta và đặt mua hàng hoá. Cách tiếp cận thị trường qua trung gian loại này có một số điểm lợi cho ta, chính họ mang hàng từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ nhanh chóng, ta không cần xây dựng hệ thống phân phối sản phẩm tốn kém và khó khăn mà sản phẩm của ta vẫn tham gia vào thị trường Mỹ. 1.2.3 Xu hướng tiêu dùng hàng may mặc trên thị trường Mỹ. Dân số Hoa Kỳ hiện có khoảng 65% trong tổng số 305 triệu người tiêu dùng hàng may mặc quay trở lại với các sản phẩm dệt may bình dân, các chuỗi cửa hàng chuyên doanh như “Gap” đã tăng doanh thu nhờ chiến lược tập trung vào các mặt hàng thời trang thông dụng cho các đối tượng tiêu dùng từ 20 – 30 tuổi.  Nhiều nhà bán lẻ cũng áp dụng chiến lược tập trung cho một số nhóm đối tượng tiêu dùng riêng biệt như hàng thời trang “cấp tiến” hay các đối tượng tiêu dùng trẻ. Hiện chi tiêu cho hàng may mặc của nhóm trẻ vị thành niên chiếm tới 20% tổng mức chi tiêu cho hàng may mặc của Hoa Kỳ. Thị trường hàng Dệt may Hoa Kỳ được chia thành: ''bình dân''', ''trung'' và hàng “cao cấp”.Trong nhóm hàng "bình dân" phải kể đến nhóm hàng giá rẻ được bán trong các cửa hàng hạ giá (discounters), với nhãn mác riêng của cửa hàng bên cạnh một số sản phẩm thương hiệu riêng (không nổi tiếng) với giá rất hạ. Hai nhóm hàng còn lại, hàng trung và cao cấp chủ yếu được bán trong các cửa hiệu sang trọng (đôi khi cũng được bán trong quầy hàng của các trung tâm thương mại) là các mặt hàng giá cao đi đôi với chất lượng; Một số đại siêu thị có quầy hàng may mặc cũng kinh doanh hàng hoá và vật liệu với trữ lượng tương đối lớn. Thị trường bán lẻ hàng may mặc của Hoa Kỳ có xu hướng “phân mảng” khá rõ nét. 5 nhà bán lẻ lớn nhất chiếm tới 28,1% tổng dung lượng thị trường, trong đó Gap chiếm 12,1%; TJX (Marshall’s, TJ Max, A.J.Wright) chiếm 7,4%; Limited Brands (Limited, Express, Victoria’s Secret) chiếm 4,2%; Burlington chiếm 2,7% và Charming Shoppes (Lane Bryant, Fashion Bug, Catherine’s), chiếm 2%.Bên cạnh các kênh phân phối truyền thống, bán hàng qua mạng Internet đang có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây. 1.2.4 Chính sách nhập khẩu sản phẩm dệt may của Mỹ Dệt may luôn là một mặt hàng có vị trí quan trọng trong chính sách thương mại của Hoa Kỳ và thực tế này trong thời gian trước mắt vẫn sẽ không thay đổi. Dưới góc độ quan hệ thương mại quốc tế, có thể thấy chính sách hàng dệt may của Hoa Kỳ mang bóng dáng 2 chiến lược chủ đạo: Kềm chế các nước xuất khẩu thông qua các hiệp định dệt may song phương hay các thỏa thuận khống chế số lượng. Trước 01/01/2005, Hoa Kỳ đã sử dụng biện pháp này với nhiều nước tại các nhóm hàng khác nhau. sau thời điểm 01/01/2005 ưu thế trên thị trường hàng dệt may nhập khẩu Hoa Kỳ đã thuộc về các quốc gia châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Hàn Quốc, các nước ASEAN... và thị phần của ngành sản xuất dệt may nội địa Hoa Kỳ luôn trên đà thu hẹp. Để bảo hộ sản xuất trong nước, Hoa Kỳ luôn mong muốn áp đặt khống chế số lượng lên càng nhiều mã hàng (cat) với càng nhiều nước càng tốt. Tuy vậy, chủ trương này chỉ mang tính ngắn hạn, sớm muộn thì việc hạn chế khối lượng nhập khẩu theo lối “cơ học” như vậy cũng sẽ lỗi thời và không sử dụng được nữa. Hoa Kỳ sử dụng những ưu đãi về hàng dệt may để mặc cả trong các thỏa thuận ưu đãi thương mại, các Hiệp định thương mại tự do song phương hoặc khu vực. Về bản chất, Hoa Kỳ chủ trương liên minh với các quốc gia trong khu vực châu Mỹ thông qua các chương trình ưu đãi thương mại (NAFTA, DR-CAFTA, FTAA...) và một số đối tác khác ngoài châu Mỹ qua các FTA (Australia, Baranh, Chi-lê, Jordani, Israel, Marốc, Singapore...) trong đó có các ưu đãi đối với hàng dệt may. Với chủ trương này, Hoa Kỳ mong muốn kềm chế xuất khẩu dệt may từ các nước châu Á và các nước mà Hoa Kỳ không có nhiều lợi ích trong thương mại song phương. Tính toán của họ là thay vì phải trực tiếp chống chọi với tất cả các nước xuất khẩu dệt may trên thế giới (đặc biệt là Trung Quốc và các nước Châu Á), thì Hoa Kỳ chỉ cần mặc cả với các nước “lệ thuộc” và các đồng minh chiến lược của họ. Ưu đãi của Hoa Kỳ đối với sản phẩm dệt may từ các nước này sẽ được đổi lại bằng ưu đãi của các nước đối với những sản phẩm xuất khẩu sở trường của Hoa Kỳ. Tuy thất bại trong việc bảo hộ sản xuất trong nước, song chính sách đối với hàng dệt may nhập khẩu vẫn là một trong những phương tiện hữu hiệu của Hoa Kỳ trong đàm phán thương mại, đặc biệt là với những nước đang phát triển. Dệt may kể từ khi không còn là một sản phẩm hàng hóa đem lại công ăn việc làm và mang lại lợi nhuận trực tiếp cho nền kinh tế đã được sử dụng như một món hời để Hoa Kỳ trao đổi trong thương mại quốc tế. Điều tiết hàng dệt may nhập khẩu thông qua tác động tới lượng và giá Bảo hộ sản xuất nội địa để giữ được công ăn việc làm và ổn định một bộ phận xã hội luôn nằm trong những mục tiêu hàng đầu của chính quyền Hoa Kỳ qua các thời kỳ, theo đó kiểm soát nhập khẩu nhằm điều tiết nguồn cung trên thị trường là biện pháp có ảnh hưởng lớn tới phát triển sản xuất trong nước, bất kể ngành nào. Tìm hiểu quá trình vận động các chính sách của Hoa Kỳ đối với hàng dệt may từ góc độ quản lý nhập khẩu, có thể thấy: Cho tới trước 01/01/2005, thời điểm hạn ngạch được bãi bỏ đối với tất cả các nước thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Hoa Kỳ có tới 46 Hiệp định khác nhau về hàng dệt may theo tinh thần của Hiệp định về Hàng dệt và May mặc(Agreement on Textiles and Clothing - ATC) của WTO. Các Hiệp định này điều tiết nhập khẩu thông qua việc trực tiếp khống chế lượng hàng dệt và may mặc mà các đối tác thương mại của Hoa Kỳ có thể xuất vào thị trường này hàng năm. Sau thời điểm 01/01/2005, các quy định của Hoa Kỳ ảnh hưởng tới xuất khẩu dệt may vào Hoa Kỳ chỉ còn là các điều khoản liên quan tới hàng dệt may trong các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) song phương và khu vực, hay một số “sáng kiến thương mại” (về bản chất vẫn là một dạng hiệp định thương mại tự do) mà Hoa Kỳ ký với các đối tác như các FTA với Chi-lê, Singapore, Israel, Jordani; Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA); Luật Phát triển và Cơ hội châu Phi (AGOA); Luật Ưu đãi Thương mại Vùng vịnh Caribê (CBTPA). Các thỏa thuận và hiệp định này cho phép hàng dệt và may mặc của các nước khác tiếp cận thị trường Hoa Kỳ với những ưu đãi nếu thỏa mãn các điều kiện nhất định. Do vậy, mặc dù không còn bị khống chế bởi hạn ngạch sau 01/01/2005, phần lớn các nước thành viên WTO vẫn phải trả thuế nhập khẩu cho hàng dệt may vào Hoa Kỳ nếu không thuộc diện được ưu đãi theo các hiệp định và luật kể trên. Biểu thuế của Hoa Kỳ có các cột khác nhau biểu thị mức độ ưu đãi khác nhau tùy theo quan hệ thương mại với nước xuất khẩu. Giá các sản phẩm dệt may nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ vì thế sẽ có sự chênh lệch bởi sự khác biệt về nguồn gốc xuất xứ. Hoa Kỳ đã chuyển hướng chính sách sang gián tiếp điều tiết nhập khẩu bằng cách gây ảnh hưởng tới giá hàng dệt may của các nước xuất khẩu. Điều tiết nhập khẩu qua tác động tới lượng và giá là hai đặc điểm chính dễ nhận thấy nhất trong chính sách của Hoa Kỳ. Chúng được thay đổi để áp dụng phù hợp với từng giai đoạn của quá trình phát triển thương mại hàng dệt và may mặc toàn cầu (lấy mốc là thời điểm 01/01/2005) và xu thế phân công lao động quốc tế. 1.2.4.1 Quy định về thuế quan Biểu thuế nhập khẩu (hay còn gọi là biểu thuế quan) HTS hiện hành của Hoa Kỳ được ban hành trong Luật Thương mại và Cạnh tranh Omnibus năm 1988 và có hiệu lực từ 01/01/1989. Hệ thống thuế quan (thuế nhập khẩu) của Hoa Kỳ được xây dựng trên cơ sở hệ thống hài hòa thuế quan (gọi tắt là HS) của Hội đồng Hợp tác Hải quan, một tổ chức liên chính phủ có trụ sở tại Bruxen. Mức thuế nhập khẩu của Hoa Kỳ có thể thay đổi và được công bố hàng năm. Trong biểu thuế nhập khẩu của mỹ được tính theo 1 trong 3 phương pháp sau: 1) Thuế theo trị giá: Hầu hết các loại thuế quan của Hoa Kỳ được đánh theo tỷ lệ trên giá trị, tức là bằng một tỷ lệ phần trăm trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu. 2) Thuế theo đặc tính: Là một loại thuế cụ thể đánh vào một hàng hoá cụ thể 3) Thuế suất phối hợp: Là mức thuế áp dụng cho cả hai phương pháp tính thuế trên Các mức thuế : Mức thuế tối huệ quốc (MFN): hay còn gọi là mức thuế dành cho các nước có quan hệ thương mại bình thường (NTR), được áp dụng với những nước thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và những nước tuy chưa phải là thành viên WTO nhưng đã ký hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ. Mức thuế tối huệ quốc (MFN) nằm trong phạm vi từ dưới 1% đến gần 40%, trong đó hầu hết các mặt hàng chịu mức thuế từ 2% đến 7%. Hàng dệt may và giày dép thường chịu mức thuế cao hơn. Mức thuế MFN theo giá trị nói chung bình quân khoảng 4%. Mức thuế phi tối huệ quốc (Non-MFN) : được áp dụng đối với những nước chưa phải là thành viên WTO và chưa ký hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ như Lào, Cuba, Bắc Triều Tiên. Thuế suất Non-MFN nằm trong khoảng từ 20% đến 110%, cao hơn nhiều lần so với thuế suất MFN. 1.2.4.2 Những quy định về hạn ngạch và visa Nói chung, Hoa Kỳ không có giới hạn về hạn ngạch trừ phi trong một hiệp định hàng dệt may có quy định. Tuy nhiên, luật thương mại Hoa Kỳ cho phép Chính phủ Hoa Kỳ đơn phương áp đặt các hạn ngạch mang tính hành chính đối với các loại hàng dệt may. Có 2 loại hạn ngạch là hạn ngạch tuyệt đối và hạn ngạch tính theo thuế suất: Hạn ngạch tuyệt đối: là hạn ngạch hạn chế về số lượng. Một số hạn ngạch tuyệt đối được áp dụng trên toàn thế giới, còn một số chỉ áp dụng đối với một vài quốc gia nào đó. Số hàng nhập khẩu nào dư ra so với hạn ngạch sẽ bị giữ lại tại một "Khu ngoại thương" để bổ sung cho kỳ hạn ngạch sau đó hoặc được đưa vào kho ngoại quan hoặc cũng có thể bị trả về hoặc tiêu hủy dưới sự giám sát của nhân viên hải quan. Các hiệp định về hàng dệt có quy định gia tăng các hạn ngạch theo từng thời điểm cụ thể. Hạn ngạch suất thuế: áp dụng cho một lượng hàng nhập khẩu được đã quy định trước, lượng hàng này sẽ chịu một mức thuế thấp trong một thời hạn nào đó. Trong suốt thời hạn này, nếu hàng nhập khẩu vượt quá số lượng được phép hưởng mức thuế thấp thì số hàng dư sẽ phải chịu mức thuế cao hơn. Visa dệt may là một ký hậu (endorsement) dưới dạng một tem/dấu (stamp) do một chính phủ nước ngoài đóng trên hoá đơn hoặc trên giấy phép xuất khẩu. Visa được dùng để kiểm soát nhập khẩu các sản phẩm dệt may vào Mỹ và ngăn cấm nhập khẩu hàng hoá trái phép vào Mỹ. Visa có thể dùng cho mặt hàng cần quota hoặc không cần quota. Ngược lại mặt hàng cần quota có thể cần hoặc không cần visa, tùy theo nước xuất xứ.hiện nay đang áp dụng ELVIS (electronic transmission of visa information): visa điện tử đối với hàng dệt may từ một nước nào đó nhập vào Hoa Kỳ. Tuy nhiên có Visa không có nghĩa là hàng chắc chắn được làm thủ tục nhập vào Hoa Kỳ. Nếu hạn ngạch bị hết hạn (close) trong thời gian vận chuyển (tức là giữa thời gian sau khi hàng đã được đóng dấu Visa ở nước xuất khẩu và thời gian hàng đến Hoa Kỳ), thì người nhập khẩu ở Hoa Kỳ cũng không được làm thủ tục nhận hàng cho đến khi hạn ngạch được bổ sung hoặc gia hạn lại. Nhìn chung hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam cần phù hợp quy chế hạn ngạch và visa nhập khẩu theo hiệp định Đa Sợi (Multi-Fibber Arangements) do Bộ Thương mại (DOC) quản lý. 1.2.4.3 Quy định về xuất xứ hàng dệt may Theo vụ Châu Mỹ (Bộ Thương mại) cho biết, Cơ quan Hải quan và Bảo vệ biên giới Mỹ mới ra một quy định tạm thời về việc khai báo xuất xứ hàng dệt may. Theo đó sẽ huỷ bỏ quy định cũ về khai báo (19 CFR 102.130) đối với tất cả hàng dệt và may mà thay vào đó, các nhà nhập khẩu phải khai báo mã số của nhà sản xuất (Manufacturer Identification Code - MID). Với việc loại bỏ tờ khai hàng dệt, quy định mới này (tên văn bản 19 CFR 102) đã được sửa đổi và nêu ra những yêu cầu về xuất xứ đồng thời hướng dẫn cách thức xây dựng mã code của nhà sản xuất. Hải quan Mỹ cho biết, nhà nhập khẩu (hoặc môi giới hải quan) là người sẽ xác định MID dựa trên những thông tin về công ty, điền vào các form khai hải quan khi làm thủ tục nhập khẩu. Trường hợp cơ quan Hải quan tại một cảng nào bất kỳ thấy nghi ngờ về khai báo MID không đúng, cảng có thể yêu cầu sửa chữa thông tin sau khi hàng đã qua cửa khẩu. Những lỗi lặp lại về việc xác định MID khi nhập khẩu hàng dệt may sẽ đưa đến việc đánh giá mức phạt đối với nhà nhập khẩu hay môi giới hải quan do không lưu tâm đúng mức. 1.2.4.4 Quy định về nhãn hiệu thương mại ở Mỹ. Quy định về nhãn hàng hoá chủ yếu theo luật Xác định Sản phẩm Sợi dệt (Textile Fiber Products Identification Act – TFPI) và luật về Nhãn Sản phẩm len (Wool Products Labeling Act – WPL). Trừ một số trường hợp ngoại lệ, tất cả các sản phẩm sợi, dệt khi nhập vào Hoa Kỳ đều phải được đóng dấu, niêm phong kín và ghi nhãn, hoặc được ghi những thông tin sau Tên riêng các loại sợi và tỉ lệ phần trăm trọng lượng của các chất sợi có trong sản phẩm (không kể các chất trang trí) có trọng lượng từ 5% trở lên được ưu tiên ghi trước, sau đó tỉ lệ phần trăm của các loại sợi được qui định là “các loại sợi khác” sẽ được ghi cuối cùng. Các loại sợi có tỉ lệ trọng lượng 5% hoặc thấp hơn được xem là "các loại sợi khác"; Tên của nhà sản xuất hoặc tên hay số đăng ký “chứng minh” của một hay nhiều người phụ trách tiếp thị hoặc điều hành sản phẩm sợi dệt. Số đăng ký “chứng minh” này do Ủy Ban Thương Mại Liên Bang Hoa Kỳ (US Federal Trade Commission) cấp. Một thương hiệu viết bằng chữ, đã đăng ký với cơ quan bản quyền Hoa Kỳ có thể được ghi trên nhãn hàng hoá thay cho tên nếu chủ thương hiệu đó nộp một bản sao đăng ký (thương hiệu) cho Ủy Ban Thương Mại Liên Bang Hoa Kỳ trước khi sử dụng; Tên của quốc gia, nơi sản phẩm đã được gia công hoặc sản xuất. Để thực hiện Luật Xác định Sản phẩm Sợi dệt, ngoài các thông tin quy định, các thông tin sau phải được ghi trên một hoá đơn thương mại của chuyến hàng sợi, dệt có giá trị trên 500 USD và hàng đó phải theo các quy định về nhãn hàng hoá của Luật Xác định Sản phẩm Sợi dệt. 1.2.4.5 Quy định về chống bán phá giá, trợ giá của Mỹ. Luật thuế chống phá giá được sử dụng rộng rãi hơn luật thuế chống trợ giá. Thuế chống phá giá được áp dụng đối với hàng nhập khẩu khi nó được xác định là hàng nước ngoài được bán “phá giá” vào Hoa Kỳ, hoặc sẽ bán phá giá ở Hoa Kỳ với giá “thấp hơn giá trị thông thường”. Thấp hơn giá trị thông thường có nghĩa là giá xuất khẩu vào Hoa Kỳ thấp hơn giá bán của hàng hóa đó ở nước xuất xứ hoặc ở nước thứ 3 thay thế thích hợp. Mục đích của thuế chống trợ giá là triệt tiêu lợi thế cạnh tranh không bình đẳng của những sản phẩm nước ngoài được chính phủ nước ngoài trợ giá xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Do vậy, mức thuế chống trợ giá được áp đặt bằng với mức trợ giá. Luật của Hoa Kỳ cũng như qui định của WTO cho phép một số loại trợ cấp được miễn trừ áp dụng luật chống trợ giá như một số trợ cấp nghiên cứu và phát triển, một số trợ cấp cho những vùng khó khăn, một số trợ cấp bảo vệ môi trường... WTO gọi những loại trợ cấp được phép này là “trợ cấp đèn xanh”. Thuế chống phá giá, trợ giá được áp dụng khi có đủ hai điều kiện (1) DOC phải xác định hàng nước ngoài đang được bán phá giá hoặc có thể sẽ được bán phá giá ở thị trường Hoa Kỳ. (2) USITC phải xác định hàng nhập khẩu được bán phá giá đang gây thiệt hại vật chất hoặc đe dọa gây thiệt hại vật chất hoặc ngăn cản hình thành ngành công nghiệp tương tự tại Hoa Kỳ. Việc điều tra theo luật chống phá giá, trợ giá thường được tiến hành khi có đơn khiếu kiện của ngành công nghiệp trong nước trình lên DOC và USITC. Tuy nhiên, DOC có thể tự khởi xướng và tiến hành điều tra theo luật chống trợ giá, không cần phải có đơn kiện của ngành công nghiệp trong nước nếu DOC thấy có lý do chính đáng. Thuế chống bán phá giá sẽ được ấn định bằng mức chênh lệch giữa “giá trị thông thường” và mức giá xuất khẩu vào Hoa Kỳ. DOC sẽ xác định giá trị th ông thường của hàng nhập khẩu bằng một trong ba cách. Theo thứ tự ưu tiên là: (1) Giá bán của hàng hóa tại thị trường nội địa, (2) Giá bán hàng hóa sang thị trường thứ ba, (3) “Giá trị tính toán” của hàng hóa bằng tổng chi phí sản xuất cộng với các khoản lợi nhuận, tiền hoa hồng bán hàng, và các chi phí hành chính khác như đóng gói. Luật chống phá giá, trợ giá còn cho phép các ngành công nghiệp Hoa Kỳ được khiếu nại về bán phá giá ở nước thứ ba. Ngành công nghiệp của Hoa Kỳ có thể đệ trình đơn khiếu nại lên USTR (văn phòng đại diện thương mại Hoa Kỳ), trong đó phải giải thích tại sao việc bán phá giá ở nước thứ 3 lại gây thiệt hại cho các công ty của Hoa Kỳ và yêu cầu cơ quan này bảo vệ những quyền lợi của Hoa Kỳ theo quy định của WTO. Nếu USTR thấy khiếu nại có lý, họ sẽ đệ trình yêu cầu lên các cơ quan có thẩm quyền ở nước thứ ba đòi nước này phải thay mặt Hoa Kỳ tiến hành các biện pháp chống bán phá giá, trợ giá. DOC và USITC có trách nhiệm hỗ trợ USTR chuẩn bị nội dung yêu cầu. 1.2.4.6 Quy định về tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội. Thị trường mỹ yêu cầu các doanh nghiệp khi xuất khẩu sản phẩm vào thị trường Mỹ phải có trách nhiệm xã hội bằng cách thực hiện các nguyên tắc đạo đức hoặc các tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội. Mỹ sữ dụng hai bộ tiêu chuẩn SA8000 và WRAP là thước đo cho việc doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội. *SA 8000 Được giới thiệu lần đầu năm 1997, phát triển dưới sự bảo trợ của CEPAA (Council on Economic Priorities Accreditation Agency) và một nhóm các tổ chức bao gồm: các tổ chức lao động, các tổ chức về quyền con người và quyền trẻ em, các học viện, nhà phân phối, nhà sản xuất, nhà thầu khoán, cũng các nhà tư vấn, kế toán và công ty kiểm định. SA 8000 được thiết kế để trở thành tiêu chuẩn quốc tế có thể kiểm định. Trước hết, SA 8000 là tiêu chuẩn so sánh và đánh giá trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Thứ đến, SA 8000 thúc đẩyviệc đảm bảo quyền cơ bản của người lao động trong doanh nghiệp. SA 8000 đặc biệt yêu cầu sự công khai trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự chú ý của công chúng vào vấn đề nhân quyền và điều kiện lao động trong sản xuất ngày một gia tăng. Nhiều công ty nắm bắt được lợi ích của việc áp dụng các chuẩn mực đạo đức vào vận hành sản xuất, và họ đã đưa ra  các quy tắc ứng xử riêng. Tuy nhiên, chưa có sự nhất trí về việc thiết lập một chính sách trách nhiệm xã hội cụ thể. Vì vậy mà các quy tắc đơn lẻ đó đều không tồn tại được lâu dài và không được giám sát chặt chẽ. Mục đích ra đời của SA 8000 là nhằm tạo ra một bộ quy tắc toàn cầu đối với điều kiện làm việc trong các ngành sản xuất, giúp cho người tiêu dùng ở các nước phát triển tin tưởng rằng hàng hoá mà họ mua và sử dụng, đặc biệt là quần áo, đồ chơi, mỹ phẩm, và đồ điện tử đã được sản xuất phù hợp với bộ tiêu chuẩn được công nhận. SA 8000 gồm 9 nội dung cơ bản mà các công ty phải tuân theo với điều kiện phù hợp với pháp luật địa phương và với các điều khoản của SA 8000, dựa trên 12 hiệp ước của ILO (International Labor Organization), dựa trên Tuyên ngôn về Quyền con người, và hiệp ước về Quyền trẻ em của UN (United Nation). Các nội dung này bao gồm: Lao động trẻ em, Lao động cưỡng bức, Vệ sinh và an toàn, Tự do liên kết và thoả thuận tập thể, Không phân biệt đối xử, Kỷ luật lao động, Giờ làm việc, Thù lao lao động, Hệ thống quản lý. *WRAP Chương trình được công nhận trên toàn thế giới về trách nhiệm sản xuất (WRAP) là chương trình lớn nhất xác nhận cơ sở của thế giới, chủ yếu tập trung vào may mặc, giày dép và các sản phẩm may ở lĩnh vực . Các cơ sở sẽ nhận được một xác nhận từ sáu tháng đến một năm trên cơ sở phù hợp với các nguyên tắc WRAP. Nguyên tắc WRAP được dựa trên các tiêu chuẩn về nơi làm việc chung được chấp nhận quốc tế, pháp luật địa phương và quy định nơi làm việc bao gồm quản lý nguồn nhân lực, sức khỏe và an toàn, hoạt động môi trường, và tuân thủ pháp luật bao gồm cả nhập khẩu / xuất khẩu và tuân thủ hải quan và các tiêu chuẩn an ninh. WRAP đã thông qua một hệ thống quản lý phương pháp tiếp cận đối với việc tuân thủ yêu cầu rằng việc quản lý cấp cao, thông qua các nguyên tắc WRAP bằng văn bản, phân công các nhân viên cần thiết để đảm bảo thực hiện những điều yêu cầu được thực hiện trên toàn cơ sở, và rằng một hệ thống kiểm toán nội bộ được đặt ra để đảm bảo sự tuân thủ liên tục. Các cơ sở phải trải qua một giai đoạn tự đánh giá nghiêm ngặt và sau đó được kiểm toán bởi một công ty giám sát độc lập của bên thứ ba . WRAP được sự ủng hộ rộng rãi từ ngành công nghiệp may mặc toàn cầu. Hỗ trợ hoạt động được cung cấp bởi Trang phục Liên đoàn quốc tế và hơn 20 bộ thương mại bổ sung và các hiệp hội ngành công nghiệp từ khắp nơi trên thế giới. WRAP chứng nhận cơ sở vật chất, chứ không phải là thương hiệu. WRAP là một tổ chức phi lợi nhuận, phi chính phủ và có một Hội đồng quản trị độc lập của bất kỳ nhóm ngành công nghiệp. Nó không phải là một tổ chức thành viên . Trong những năm qua, mô hình toàn diện nhà máy của WRAP đã giúp nó phát triển thành chương trình chứng nhận cho ngành công nghiệp dệt may lớn nhất thế giới. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU SẢN PHẨM SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ TẠI CÔNG TY TNHH MTV MAY MẶC BÌNH DƯƠNG. 2.1 Giới thiệu công ty TNHH MTV May Mặc Bình Dương 2.1.1 Lịch sử hình thành công ty CÔNG TY TNHH MTV MAY MẶC BÌNH DƯƠNG (PROTRADE GARMENT) Tiền thân là xí nghiệp may mặc hàng xuất khẩu, trực thuộc công ty sản xuất xuất nhập khẩu Bình Dương, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 103728 do Trọng tài kinh tế tỉnh Sông Bé (cũ) cấp ngày 26/11/1992 với trụ sở đặt tại phố Đông Tư, thị trấn Lái Thiêu, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương. Thành phần kinh tế: DN Nhà nước Ngành nghề kinh doanh: May xuất khẩu Giám đốc: LÊ HỒNG PHOA Địa chỉ: Bình Hòa, Thuận An, Bình Dương Điện thoại: 0650.755143 / 755519     Fax:     0650.755415 Email: info@protradegarment.com Website: Lĩnh vực hoạt động : Sản xuất quần áo may sẵn Vị trí Tọa lạc trên khu đất có diện tích 65.803 m2, trong đó khối văn phòng được thiết kế xây dựng trong khuôn viên rộng 1.082m2. Nguồn vốn hoạt động Với số vốn cố định 40.525,21 triệu VNĐ và vốn lưu động là 177.531,5 triệu VNĐ. Tổng số Cán bộ, Công nhân viên, kỹ sư làm việc tại công ty lên đến 2800 lao động. Tình trạng công nghệ: Protrade Garco. Ltd được trang bị công nghệ tiên tiến trong ngành may mặc Áp dụng hệ thống GSD để hiệu quả trong lập kế hoạch sản xuất, cân đối chuyền, đảm bảo kế hoạch sản xuất; Hệ thống G-PRO hỗ trợ kiểm soát sản xuất là công nghệ mới nhất trong quản lý và điều hành sản xuất; Hệ thống Lectra & Gerber đảm bảo được thiết kế, rập, đi sơ đồ và cắt tự động Hoạt động với 4 xưởng may, 1 xưởng cắt, 1 xưởng thêu, 1 xưởng wash và 1900 máy đủ chủng loại, cùng 5 đầu máy thêu tự động. Kim ngạch xuất khẩu tính từ đầu năm đến hết tháng 06/2011 doanh thu xuất khẩu của công ty đạt 24,2 triệu USD. Thị trường xuất khẩu chủ yếu : ANH, ĐỨC, MỸ, BỈ, NGA, NHẬT, TRUNG QUỐC… Năng lực sản xuất : JACKETS:1.200.000 sản phẩm/năm; SƠ MI: 1.100.000 sản phẩm/năm; CÁC LOẠI QUẦN: 2.000.000 sản phẩm/năm. Công ty là một trong những đơn vị tiêu biểu về ứng dụng công nghệ hiện đại, đạt danh hiệu “Doanh nghiệp áp dụng công nghệ thông tin tốt” do Hiệp hội Dệt May Việt Nam phối hợp Thời báo Kinh tế Sài Gòn bình chọn, và Bộ Công nghiệp tặng bằng khen “Doanh nghiệp tiêu biểu ngành dệt – may Việt Nam” 6 năm liền 2005 – 2010. 2.1.2. Quá trình phát triển Ngày 25/10/1982 theo quyết định số 02 và 03 của Thường vụ tỉnh Sông Bé nay là tỉnh Bình Dương thành lập XÍ NGHIỆP XUẤT KHẨU HÀNG CAO SU 3/2 SÔNG BÉ. Hoạt động kinh doanh được Công ty ban đầu áp dụng là đa sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu chủ yếu sang các nước theo Xã Hội Chủ Nghĩa lúc bấy giờ như: Liên Xô cũ, Tiệp Khắc cũ, Cộng Hoà Dân Chủ Đức ... Nên lúc ban đầu đã đầu tư xây dựng các phân xưởng sản xuất với các sản phẩm khác nhau như : Dép xốp, Nước đá, Gỗ, Hồ tiêu. Ngày 30/09/1984 Công ty vinh dự lần đầu tiên đón nhận Huân Chương Lao Động Hạng 3 theo (QĐ số 539/KT-HĐNN), đây là phần thưởng cao quý của Hội đồng nhà nước ban tặng cho doanh nghiệp nhà nước hưởng ứng tốt chủ trương cho phép của Đảng là Doanh nghiệp nhà nước cùng làm kinh tế với mục đích lúc bấy giờ là giúp các Công ty chủ động hơn về tài chính của mình. Ngày 16/11/1985 Công ty lại một lần nữa đón nhận Huân Chương Lao Động Hạng I theo (QĐ 777/KT-HĐNN). Đến năm 1988 tình hình kinh tế ở các nước Đông Âu, do bị ảnh hưởng bởi tình hình chính trị làm cho hoạt động kinh doanh xuất hàng sang các nước này không thể thực hiện được. Đứng trước những khó khăn này Ban giám đốc đã chuyển hướng kinh doanh, chính là những đơn vị kinh tế không hoạt đông tốt nữa sẽ bị giải thể và thành lập các đơn vị kinh tế mới phù hợp với xu hướng phát triển trong tương lai. Tháng 08/1989 xí nghiệp may được thành lập với quy mô nhỏ, chuyên may áo đầm xuất khẩu sang Ba Lan. Mới thành lập khi ấy xí nghiệp có 3 phân xưởng chuyên gia công áo jacket và hàng thun, khởi nghiệp với khoảng 300 công nhân may. Năm 2003 Công ty KP APPAREL được thành lập và hoạt động tại Campuchia với 100% vốn do Công ty đầu tư sang. Quyết định số 134/ 2006/ QĐ-UBND ngày 22/5/2006 của UBND tỉnh Bình Dương quyết định chuyển mô hình hoạt động của Công ty theo mô hình công ty mẹ-công ty con, và từ đó công ty TNHH MTV MAY MẶC BÌNH DƯƠNG(hay PROTRADE GARMENT) với tên giao dịch là PROTRADE GARMENT COMPANY LTD được thành lập và hoạt động dưới sự điều hành của công ty SX & XNK BÌNH DƯƠNG. 2.1.3 Cơ cấu tổ chức của công ty 2.1.3.1 Tổ chức bộ máy của công ty Cách thức trao đổi thông tin quản lý trong Protrade được quy định trong các tài liệu của hệ thống. Theo đó trách nhiệm cung cấp, xử lý thông tin được quy định theo chức năng nhiệm vụ từng cấp bậc trong bộ máy hoạt động của công ty. Các hình thức truyền đạt thông tin khác có thể thông qua: Các cuộc hợp, các lớp huấn luyện, đào tạo. Các thông báo, báo cáo có thể bằng văn bản hay bằng lời trực tiếp. Đại diện Lãnh đạo có trách nhiệm đảm bảo các thông tin trong nội bộ được thông suốt, và các thông tin về hoạt động của hệ thống được truyền đến Lãnh đạo. BẢNG 2.1 : Danh sách hội đồng thành viên và ban điều hành quản lý HỌ VÀ TÊN CHỨC VỤ NGÀY BỔ NHIỆM Ông Nguyễn Văn Minh Chủ tịch 08/12/2006 Ông Lê Hồng Phoa Thành viên 08/12/2006 Bà Nguyễn Thị Trúc Thanh Thành viên 08/12/2006 Ông Nguyễn Hữu Tấn Thành viên 08/12/2006 Ông Hoàng Công Thành Thành viên 08/12/2006 (Nguồn: phòng nhân sự) BẢNG 2.2 : Danh sách ban tổng giám đốc. HỌ VÀ TÊN CHỨC VỤ NGÀY BỔ NHIỆM Ông Lê Hồng Phoa Tổng giám đốc 22/12/2006 Bà Nguyễn Thị Trúc Thanh Phó tổng giám đốc 22/12/2006 Ông Lê Xuân Thái Phó tổng giám đốc 08/06/2009 Ông Nguyễn Hữu Tấn Phó tổng giám đốc 22/12/2006 Bà Nguyễn Thị Kim Nguyên Phó tổng giám đốc 14/11/2007 Ông Phan Thành Đức Giám đốc 28/12/2006 Ông Nguyễn Hồng Anh Giám đốc 28/12/2006 (Nguồn: phòng nhân sự) BẢNG 2.3 : Danh sách ban kiểm soát HỌ VÀ TÊN CHỨC VỤ NGÀY BỔ NHIỆM Ông Trần Nguyên Vũ Trưởng ban 28/12/2006 Ông Phan Thành Đức Thành viên 28/12/2006 Ông Nguyễn Hồng Anh Thành viên 28/12/2006 (Nguồn: phòng nhân sự) SƠ ĐỒ 2.1: Sơ đồ tổ chức phòng ban (nguồn phòng hảnh chính tổng hợp) SƠ ĐỒ 2.1: Sơ đồ tổ chức phòng ban nguồn phòng hảnh chính tổng hợp) 2.1.3.2 Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban Các chức danh lãnh đạo trong công ty Hội dồng thành viên: Là cơ quan quyết định cao nhất của công ty, quyết định những vấn đề chung cho toàn công ty, quyết định phương hướng nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của năm tài chính. Ban kiểm soát: Hoạt động độc lập có nhiệm vụ cung cấp trực tiếp tình hình công ty trước hội đồng thành viên. Tổng giám dốc: Tổng giám đốc là người quản lý điều hành trực tiếp mọi hoạt động kinh doanh của công ty, là người đại diện pháp nhân của công ty trong mọi giao dịch và chịu trách nhiệm trước hội dồng thành viên. Phó tổng giám dốc và các giám đốc: Ngoài việc giúp đỡ cho tổng giám đốc theo chức năng và nhiệm vụ dược quy định tại điều lệ hoạt động của công ty còn quản lý một số phòng ban-phân xưởng trực thuộc. Trách nhiệm và quyền hạn của Ban giám đốc PROTRADE: Lập và công bố chính sách chất lượng ; Đảm bảo việc thiết lập các mục tiêu chất lượng; Chịu trách nhiệm về mọi vấn đề liên quan đến chất lượng ; Chỉ đạo toàn bộ các hoạt động của Protrade; Chỉ đạo việc truyền đạt trong toàn Công ty về tầm quan trọng của việc đáp ứng khách hàng cũng như các yêu cầu của pháp luật và các chế định ; Điều hành cuộc họp xem xét của Lãnh đạo; Đảm bảo có sẵn các nguồn lực ; Phân công trách nhiệm và quyền hạn cho các trưởng bộ phận; Trách nhiệm và quyền hạn các vị trí còn lại được Công ty quy định trong tài liệu QĐ-GĐ cùng với quan hệ của nhân viên trong tất cả mọi vấn đề liên quan đến chất lượng. Mọi nhân viên làm việc tại Protrade đều được giới thiệu về trách nhiệm và quyền hạn của mình cùng môí liên hệ với các vị trí liên quan. Phòng nhân sự: Tham mưu cho Giám đốc nhân sự về công tác quản lý nhân sự trong toàn Công ty, quản lý đội xe đưa rước công nhân, đội bảo vệ, phòng y tế, nhiệm vụ chủ yếu là tuyển dụng lao động, giải quyết học việc, thử việc, nghỉ việc, sa thải, lập kế hoạch đề bạt, xử lý kỉ luật, giải quyết các chế độ (BHXH,BHYT, trợ cấp thất nghiệp..), đánh giá thành tích công việc. Phòng tài vụ: Giữ nhiệm vụ về toàn bộ công tác hạch toán, báo cáo thống kê các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, giám sát và kiểm tra quá trình sử dụng tài sản, phân tích báo cáo tài chính, phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh của Protrade để tham mưu cho cấp trên các quyết định về tài chính. Phòng hành chánh tổng hợp: Quản lý các hoạt động hành chánh văn phòng, cung cấp các thiết bị phục vụ nhu cầu cần thiết cho công tác tại các phòng ban, tổ chức quản lý các hoạt động hổ trợ các hoạt động trong cơ quan, lưu giữ và truyền đạt thông tin các cấp. Phòng xuất nhập khẩu: Thực hiện chức năng là tổ chức, thực hiện, điều hành, mọi hoạt động liên quan đến nghiệp vụ xuất nhập khẩu hàng hóa trong Protrade, thực hiện hoàn tất bộ chứng từ nhập hàng cũng như xuất hàng, xây dựng chi phí liên quan đến hoạt động xuất nhập hàng, trực tiếp trao đổi với các đơn vị, cơ quan ban ngành liên quan, thanh lý toàn bộ hợp đồng, tờ khai, thanh khoảng thuế với cơ quan Hải quan, lập báo cáo tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trong kỳ gửi đến các phòng ban liên quan. Phòng mẫu Thực hiện may mẫu đối với những thiết kế sản phẩm kinh doanh và những thiết kế cho sản phẩm gia công, giúp khách hàng tiếp cận sản phẩm tương lai trước khi sản phẩm được sản xuất hàng loạt, hướng dẫn kỹ thuật may cho các phân xưởng, tiếp nhận kế hoạch sản xuất và tài liệu kỹ thuật, lập tiệu chuẩn kỹ thuật, định mức sản phẩm, quy trình công nghệ, theo dõi hoạt động triển khai sản xuất và có biện pháp kịp thời xử lý khi có sự cố xảy ra. Bộ phận Marketing-kinh doanh: Hoạt động tuyên truyền, quảng bá hình ảnh thương hiệu và sản phẩm của Protrade đến được các khách hàng tiềm năng, thực hiện các hoạt động giao tiếp - đàm phán hợp đồng, thiết lập và thực hiện phương án kinh doanh đề ra, tiếp xúc khách hàng và các đối tác của khách hàng, thu thập và xử lý thông tin có ảnh hưởng đến quá trình tác nghiệp của Protrade. 2.2 Một số hoạt động Marketing của Công ty 2.2.1 Giới thiệu một số hàng hoá, dich vụ Là một công ty may mặc với bề dày kinh nghiệm hoạt động trong ngành thì hiện nay công ty đã có thể sản xuất các sản phẩm may mặc như: Sản xuất quần áo may sẵn, Sản xuất các đồ phụ trợ quần áo (cổ cồn đăng ten, thêu ren, thắt lưng). Hình thức kinh doanh bao gồm nhận gia công các sản phẩm may mặc, hay xuất nhập khẩu hàng may mặc khi khách hàng có nhu cầu. Bên cạnh đó công ty còn kinh doanh các ngành nghề tổng hợp mà Nhà nước cho phép như: Mua bán hàng may- thêu; Mua bán nguyên phụ liệu ngành may mặc; Mua bán công nghệ thông tin trong ngành may mặc; Mua bán máy móc thiết bị ngành may mặc; Kinh doanh dịch vụ WASH (không hoạt động tại trụ sở); Kinh doanh bất động sản; Góp vốn mua cổ phần 2.2.2 Thị trường tiêu thụ: Thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty khá rộng lớn vì tất cả sản phẩm của công ty sản xuất được tập trung xuất khẩu sang các thị trường lớn như:ANH, ĐỨC, MỸ, BỈ, NGA, NHẬT, TRUNG QUỐC… Gần đây xu hướng toàn cầu hoá lan rộng, nhu cầu về sản phẩm may mặc thời trang cũng tăng nên thị trường tiêu thụ sản phẩm may mặc được mở rộng, một số thị trường tiêu thụ mới được các chuyên gia đầu ngành đánh giá cao trong hoạt động kinh doanh quốc tế như:TRUNG ĐÔNG, PAKISTAN… Theo đó Công ty cũng đã có những bước đầu tiếp xúc với một vài đối tác tại những thị trường mới này, kết quả là đã xuất đi thành công nhiều chuyến hàng, hứa hẹn đây sẽ là một thị trường tiềm năng cho ngành dệt may nói chung và sản phẩm may mặc của công ty nói riêng. 2.2.3 Kênh phân phối Nhằm phát triển hoạt động xuất khẩu của công ty, công ty đã có những kế hoạch về kênh phân phối đa dạng Kênh phân phối trực tiếp : khách hàng các nước khi có nhu cầu có thể trực tiếp đặt các đơn hàng với những thoả thuận hay những quy định về điều kiện mua hàng trực tiếp với công ty thông qua một số phương tiện hổ trợ hiện đại như điện thoại, internet… Kênh phân phối gián tiếp:chính là việc thiết lập mối quan hệ giữa khách hàng tiềm năng và công ty thông qua một người thứ ba đóng vai trò làm trung gian. Trung gian nay trên thực tế có mối quan hệ tốt với khách hàng và giờ đây họ đại diện khách hàng xúc tiến thương mại với công ty. Ngoài việc bắt tay với các nhà xuất nhập khẩu thuần tuý, công ty còn tìm hiểu cơ hội hợp tác kinh doanh trực tiếp với các hãng may mặc có tên tuổi, các tập đoàn phân phối với chuỗi siêu thị rộng lớn, điều này đang được tiến hành và hứa hẹn sẽ mang lại thắng lợi lớn cho công ty. Hiện nay công ty đang xúc tiến phát triển nhiều kênh phân phối hiệu quả nhất nhằm giới thiệu hình ảnh, nâng cao uy tín công ty với các khách hàng tiềm năng thông qua những hoạt động thường xuyên và định kỳ như tham gia hội chợ xúc tiến thương mại do các cơ quan có thẩm quyền hổ trợ, thông qua những khách hàng quen để tìm hiểu thêm những khách hàng tiềm năng, xây dựng những văn phòng đại diện ở HONG KONG, TRUNG QUỐC, MỸ, CAMPUCHIA, nhằm phát triển hệ thống phân phối và xúc tiến thương mại của công ty. 2.2.4 Các hình thức xúc tiến bán hàng Trong nỗ lực gia tăng các hoạt động xuất khẩu sản phẩm may mặc để không ngừng phát triển, công ty đã chú trọng hơn vào hoạt động quảng cáo, giới thiệu sản phẩm may mặc, giới thiệu năng lực sản xuất của công ty để khách hàng tại thị trường tiêu thụ tiềm năng hiểu rõ và xây dựng mối quan hệ kinh doanh với công ty. Tại các hội chợ quốc tế chuyên ngành may mặc ở Đức, Nhật Bản, Đài Loan... cũng như khi công ty tham gia các hội chợ triển lãm hàng dệt may và thiết bị may trong nước, công ty đã mang các sản phẩm may mặc có chất lượng cao của công ty để giới thiệu với các khách hàng. Qua các hội chợ triển lãm này công ty được rất nhiều khách hàng quan tâm, đến tìm hiểu và qua đó công ty có thể ký kết ngay các hợp đồng với khách hàng hoặc sau đó khách hàng sẽ liên hệ với công ty đặt các đơn hàng. Công ty cũng tham gia các hiệp hội trong ngành may mặc trong và ngoài nước nhằm phát triển khách hàng và cũng nhằm tìm kiếm đối tác kinh doanh, bởi vì trong kinh doanh thông tin công ty khi được các hiệp hội cung cấp đến đối tác cũng được xem như đã đặt được một nền tản phát triển mối quan hệ kinh doanh thuận lợi. Bên cạnh việc tham gia trực tiếp vào các hội chợ triển lãm công ty còn đẩy mạnh hoạt động quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như: Báo chí, Truyền hình, Các trung tâm và Cửa hàng giới thiệu sản phẩm của công ty, đồng thời công ty còn hoà mạng lập trang Web riêng. Thông qua đó, các khách hàng trong và ngoài nước đều có thể biết đến công ty. Ngoài việc tận dụng tối đa sức tăng trưởng hiện tại với các loại hàng đã xuất được sang thị trường tiêu thụ ở các nước, với những sản phẩm có chất lượng cao đã tạo được uy tín cho công ty thì hiện nay công ty bắt đầu chuyển dần một phần đầu tư sang sản xuất hàng may mặc có thương hiệu riêng của mình. nhằm mục đích cũng cố lòng tin với khách hàng hiện hữu, cũng là nhằm chứng minh năng lực phát triển của công ty với khách hàng tiềm năng trên thị trường thế giới. Hoạt động xúc tiến thương mại đem lại những kết quả hết sức khả quan, sản phẩm của công ty đến nay đã có mặt ở trên nhiều nước trên thế giới. 2.2.5 Thị phần và đối thủ cạnh tranh 2.2.5.1 Thị phần Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam, đến 31/12/2010, toàn ngành công nghiệp Dệt may Việt nam có 3.710 doanh nghiệp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp có sự phân bố không đồng đều giữa vùng miền. Tại miền Bắc, nơi tập trung tới 30% doanh nghiệp, thì các doanh nghiệp lại chủ yếu đóng tại thủ đô Hà Nội. khu vực miền Trung chỉ chiếm 8% lượng doanh nghiệp toàn Ngành. Khu vực miền Nam chiếm tới 62% lượng doanh nghiệp toàn Ngành, cũng chủ yếu tập trung tại TP.Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai. Sự tập trung quá cao này dẫn đến sự cạnh tranh quyết liệt giữa các doanh nghiệp dệt may với các ngành công nghiệp khác; giữa các doanh nghiệp dệt may với nhau về đơn hàng, lao động, tiền lương... Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas), Kim ngạch xuất khẩu dệt may 2010 đạt 11,2 tỷ USD, tăng 23,2% so với năm 2009, Trong đó, thị trường Mỹ đạt hơn 6 tỷ USD, tiếp tục duy trì trong top 5 quốc gia có lượng hàng dệt may xuất khẩu lớn nhất vào thị trường Mỹ. Công ty Protrade cũng đóng góp giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2010 sang thị trường Mỹ gần 20 triệu USD. Hiện nay, Việt Nam đang là nước xuất khẩu hàng dệt may lớn thứ 7 trên bản đồ dệt may thế giới (theo tổ chức Thương mại Thế giới), sau thị trường Trung Quốc, khu vực EU, Hồng Kông, Thổ Nhĩ Kỳ, Bangladesh, Ấn Độ, và đang chiếm 2,7% thị phần xuất khẩu thế giới. Trong đó, Mỹ, EU, Nhật Bản, Canada và Nga là những khu vực tiêu dùng hàng dệt may lớn nhất thế giới, chiếm tới 86,4% thị phần nhập khẩu, và đáng chú ý đây cũng là nhóm thị trường truyền thống của dệt may Việt Nam. Trong thời gian qua, Mỹ tiếp tục duy trì là thị trường xuất khẩu lớn nhất của dệt may Việt Nam, chiếm đến 51% thị phần xuất khẩu. Việt Nam là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 sau thị trường Trung Quốc xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ. EU là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai khi chiếm 17% thị phần xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam, hiện Việt Nam đang là nhà cung cấp hàng dệt may lớn thứ 8 vào thị trường EU sau Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Bangladesh, Ấn Độ, Tunisia, Morocco và Pakistan. Mặc dù trong những tháng đầu năm 2011, thị trường Nhật Bản liên tiếp gặp phải những khó khăn do thảm họa động đất và sóng thần, nhưng đây vẫn là thị trường xuất khẩu dệt may lớn thứ 3 của Việt Nam, chiếm khoảng 12% thị phần xuất khẩu. Với mức tăng trưởng trong thời gian qua, Việt Nam đã vượt qua Italy để trở thành nhà cung cấp sản phẩm dệt may đứng ở vị trí thứ 2 sau Trung Quốc, và đang chiếm 4,45% thị phần tại thị trường này. 2.2.5.2 Cạnh Tranh Đối thủ cạnh tranh trong nước: Dệt may là ngành có lực lượng lao động lớn với khoảng trên 2 triệu người, trong đó trên 1,2 triệu lao động làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp, số còn lại thuộc các Hợp Tác Xã, hộ gia đình người trồng bông, trồng dâu nuôi tằm. Lao động ngành dệt may là lao động trẻ, đa số tuổi đời dưới 30 (ngành dệt chiếm 38%, ngành may chiếm trên 64%), lao động trên 50 tuổi có tỷ lệ rất thấp (dệt 3%, may 1,2%). Thời gian làm việc của một người lao động phần lớn chỉ dưới 10 năm, và chỉ có khoảng 10 doanh nghiệp có từ 5000 lao động trở lên còn lại là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các công ty trong ngành cạnh tranh nhau trong việc huy động nguồn lao động nhằm gia tăng lợi thế lao động rẽ trong mắt khách hàng thế giới, cạnh tranh trong việc tìm hiểu và phát triển chiến lược tại thị trường tiêu thụ, mà còn cạnh tranh nhau trong việc tìm kiếm nguồn nguyên liệu. Đối thủ cạnh tranh quốc tế nặng ký hiện nay của doanh nghiệp dệt may Việt Nam nói chung và của Protrade nói riêng tại thị trường Hoa Kỳ là Trung Quốc, Ấn Độ...những nước có khả năng sản xuất nhiều loại sản phẩm dệt may có giá cạnh tranh và có nguồn lao động lành nghề, giá tương đối thấp, không khác mấy Việt Nam. Bangladesh và Pakistan cũng là đối thủ cạnh tranh mới về một số mặt hàng như áo dệt kim, sơ mi vải bông, quần áo vải bông ... có giá thành tương đối thấp. 2.2.6 Nhận xét về tình hình tiêu thụ và công tác Marketing của Công ty 2.2.6.1 Về công tác nghiên cứu thị trường. Việc nắm bắt được thị hiếu của khách hàng cũng đồng nghĩa với công ty sẽ tiêu thụ được sản phẩm của mình, do sản phẩm được sản xuất ra đáp ứng đúng nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường mục tiêu. Đối với thị trường may mặc là thị trường mà nhu cầu thay đổi theo tính thời vụ, do đó công tác điều tra thị trường càng được sự quan tâm. Công ty PROTRADE đã ý thức được điều này nên từ khi thị trường Mỹ mở cửa, công ty đã thông qua các kênh khác nhau để tiến hành thâm nhập thị trường, tìm hiểu nhu cầu của người tiêu dùng Mỹ về sản phẩm hàng may mặc. Công ty đã tổ chức điều tra thị trường nhưng chỉ qua các kênh gián tiếp như Đại sứ quán, các tổ chức thương mại. Chưa đi sâu khai phá hết nhu cầu sản phẩm May Mặc của người dân Mỹ, chỉ tập trung vào các sản phẩm thông thường như áo sơ mi, quần jeas… mà vẫn chưa phát triển các sản phẩm có giá trị cao như áo Vest, Comple… 2.2.6.2 Về kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. Việc lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm thông thường diễn ra tại bộ phận Kế hoạch thị trường. Những đối với Công ty thì không chỉ bộ phận kế hoạch thị trường có trách nhiệm mà phòng Xuất nhập khẩu cũng phải tiến hành xây dựng kế hoạch điều này rất có thể dẫn đến sự chồng chéo nhiệm vụ cũng như là trách nhiệm của hai đơn vị này. Việc lập kế hoạch hàng năm là căn cứ để tiến hành lập kế hoạch của quý, tháng. Các kế hoạch này thường được dựa trên các đơn đặt hàng của khách hàng, ngoài các kế hoạch ngắn hạn công ty cũng lập các kế hoạch trung và dài hạn nhưng các kế hoạch này chỉ dừng lại ở tất cả các thị trường chứ chưa có kế hoạch trung hạn và dài hạn cho từng thị trường. Từ đó có thể gây khó khăn khi đánh giá hiệu quả tiêu thụ trên từng thị trường cụ thể để tìm ra những điểm cần khắc phục. 2.2.6.3 Về chính sách tiêu thụ sản phẩm. Nội dung của kế hoạch này là định hướng sản phẩm phù hợp thị trường nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững của Doanh nghiệp, tạo ra sự đa dạng hoá, khác biệt sản phẩm… Tuy các chính sách sản phẩm được lập ra phần lớn ở Công ty PROTRADE là một danh sách các sản phẩm đa dạng và phong phú. Nhưng do đặc điểm của công ty là thường xuất khẩu theo đơn đặt hàng mà gia công là chủ yếu trong một thời gian dài. Nên việc tập trung vào chính sách sản phẩm chưa được quan tâm đúng mức, Mặc dù đã nhận thức được tầm quan trọng của chính sách sản phẩm nhưng trong giai đoạn này công ty cần tập trung cao độ vào việc xây dựng chất lượng sản phẩm cũng như tạo dựng thương hiệu cho sản phẩm, nhằm tăng cường sự tín nhiệm của khách hàng, tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu cho công ty. 2.2.6.4 Chính sách giá của công ty Với một hệ thống định giá theo tiêu chuẩn đã đề ra, sau khi khách hàng đặt hàng thì phòng kinh doanh sẽ lên phương án báo giá với khách hàng. Mặc dù có nhiều phương án xây dựng giá khác nhau như phương pháp hoà vốn, định giá cạnh tranh…nhưng tại công ty thì vẫn sử dụng phương pháp định giá thành sản phẩm bằng dựa vào giá sản phẩm cộng với phần trăm lợi nhuận mong muốn. Giá bán được phân chia thành các hạn mục chi phí khác nhau để từ đó tính tổng, tuỳ thuộc vào số lượng đơn đặt hàng và ngày giao, quy cách, chất lượng mà có giá khác nhau. Có thể có những đơn hàng chỉ tính công trong 2 công đoạn là may và đóng gói thì giá cả lại khác với hình thức CMPT là làm tất cả đến khi hoàn thiện sản phẩm, hình thức này của Công ty chỉ phù hợp với trường hợp xuất khẩu theo phương thức gia công. Càng chuyển sang giai đoạn xuất khẩu theo dạng FOB thì chính sách giá của công ty phải có sự thay đổi mới có thể thâm nhập vào thị trường Mỹ có hiệu quả. Khi đó phương pháp định giá phải là phương pháp hiện đại, dựa trên cơ sở hoạt động (ABC), hay chính sách giá phù hợp với mục tiêu của công ty trong tương lai. 2.2.6.5 Về chính sách phân phối. Đặc điểm chủ yếu của hệ thống phân phối của công ty là qua khâu trung gian, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho hàng may mặc của công ty vào thị trường dễ dàng hơn. Nhưng những nhà trung gian của Công ty lại không trực tiếp bán hàng mà lại phân phối lại cho các nhà bán lẻ khác trước khi đến tay được người tiêu dùng. Điều này làm cho chi phí nâng lên và công ty không kiển soát được giá, khi đó giá cả của người tiêu dùng cuối cùng lại phụ thuộc vào sự quyết định của nhà bán lẻ cuối cùng. Khi xuất khẩu hàng may mặc của Công ty qua nhiều trung gian làm cho khả năng thu nhận thông tin của công ty về khách hàng gặp khó khăn và thường không chính xác. Qua đó làm cho việc xác định nhu cầu và nắm bắt nhu cầu mới của khách hàng trở nên khó khăn. Làm cho công tác xác định các chính sách khác như chính sách sản phẩm, chính sách giá…. phức tạp và thường không chính xác. 2.2.6.6 Về chính sách xúc tiến hỗn hợp. Xúc tiến hỗn hợp là một công cụ của Marketing nhằm hỗ trợ và thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm của công ty. Trong giai đoạn hiện nay công ty đang từng bước xây dựng thương hiệu của riêng mình, do đó công ty đã có sự đầu tư vào công tác quảng cáo trên Truyền hình, phát thanh, báo chí…. Tham gia hội chợ trong nước và quốc tế. Việc tham gia hội chợ không nằm ngoài mục tiêu là tìm kiếm khách hàng nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Tuy tham gia vào các chương trình này nhưng công ty vẫn chưa có sự đầu tư cao vào công tác xúc tiến, chưa xây dựng ấn tượng nổi bậc với khách hàng. 2.3 Thực trạng xuất khẩu hàng may mặc của Công ty TNHH MTV may mặc Bình Dương sang thị trường Mỹ Để bài báo cáo mang tính thực tế, người viết thể hiện thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng may mặc của công ty sang thị trường Mỹ thông qua một hợp đồng cụ thể là hợp đồng 12/PR-PAC/2009 dựa theo các chứng từ thể hiện ở phụ lục . 2.3.1 Công tác tiếp cận thị trường Mỹ của Công ty TNHH MTV may mặc Bình Dương Mỹ là thị trường lớn nên phải chia thành các thị phần nhỏ để có chiến lược tiếp cận rõ ràng hơn (như địa lý, thói quen, sở thích). Công ty xác định khu vực sinh sống nhiều của người Việt tại Hoa Kỳ Là ở các bang California, Texas, Washington DC, ngoài việc phục vụ sản phẩm cho nhóm khách hàng này công ty còn muốn thông qua văn phòng đại diện, đại lý bán hàng để tiếp xúc với khách hàng bản địa về sản phầm của công ty, nhằm đưa ra sản phẩm phù hợp nhất thoả mản nhu cầu khách hàng. Trong những năm qua đối tác lớn nhất của công ty ở thị trường Mỹ là công ty Pacific Sunwear, được thành lập vào năm 1982, trụ sở chính ở Anaheim California, chuyên về cung cấp quần áo, giày dép bình dân cho giới trẻ. Hiện tại Pacific Sunwear có 932 cửa hàng ở Hoa Kỳ và PuertoRica, công ty cũng phát triển hình thức bán hàng qua mạng ở địa chỉ www.pacsun.com. Sản phẩm mà Pacsun đặt là sản phẩm quần Jean dành cho nam, thời hạn hợp đồng thường là 1 năm, và thực hiện giao hàng thành từng đợt. Như vậy có thể thấy rằng, Pacsun là một đối tác rất quan trọng, mang lại nguồn doanh thu lớn cho công ty, có thể xem Pacsun là một trong những khách hàng truyền thống của công ty tại thị trường Hoa Kỳ. 2.3.2. Công tác chuẩn bị hàng may mặc xuất khẩu sang thị trường Mỹ Bước 1: Thực hiện mẫu Đối với những sản phẩm sản xuất theo đơn hàng Pacsun, thì mẫu thiết kế, tài liệu kỹ thuật, và một số nguyên phụ liệu cần thiết do Pacsun cung cấp cho đội ngũ thiết kế của công ty sản xuất mẫu thử trước khi đưa vào dây chuyền sản xuất chính thức. SƠ ĐỒ 2.2: Quy trình wash màu và may mẫu đối với lô hàng của Pacsun Mẫu gốc May mẫu fit Wash target May mẫu reference May mẫu PP (pre-production) Mẫu top Wash dups Wash shadeband 1 2 3 3 4 Sau khi nhận được vải dùng may mẫu công ty phải thực hiện các bước wash màu và may mẫu. Đối với các mẫu wash, quan trọng nhất là màu wash có giống màu wash mẫu gốc hay không. Đối với các mẫu may, quan trọng nhất là may đúng thông số kỹ thuật trong tài kiệu mà Pacsun cung cấp. (1) Công ty sẽ sử dụng mẫu gốc và vải chính tiến hành giao cho bên xưởng wash mẫu gốc+quần sống( cắt trên cùng một cây vải) để thực hiện wash mẫu target, mẫu này gồm 3 cái (2 cái sẽ được gửi Pacsun và 1 cái lưu). Mẫu target phải gần giống với màu wash mẫu gốc. (2) Sau khi mẫu target được duyệt, sẽ tiến hành wash mẫu dups và may mẫu fit. mẫu wash dups gồm 7 cái (6 cái gửi Pacsun và 1 cái lưu), quần sống để wash mẫu dups được cắt từ 2 đến 3 cây vải khác nhau. Màu wash mẫu dups phải gần giống màu ở mẫu target. Khi may mẫu fit quan trọng nhất là đúng thông số kỹ thuật hoặc nằm trong dung sai cho phép. (3) Khi mẫu dups được ký duyệt, công ty tiếp tục cho wash mẫu shadeband, quần sống để wash shadeband sẽ được cắt từ nhiều cây vải khác nhau, bộ wash shadeband sẽ gồm 4 ánh màu : màu light, medium, dark và một tông màu lạ. Nếu bộ wash shadeband được ký duyệt thì khi đưa vào sản xuất hàng loạt, các màu wash phải nằm trong ánh màu của bộ wash shadeband đã được duyệt. Sau khi mẫu fit được duyệt sẽ tiến hành may mẫu reference, Pacsun yêu cầu may mẫu này chỉ để chắc chắn thêm mẫu đã được may đúng với các thông số kỹ thuật. (4) Sau khi mẫu reference được duyệt, sẽ tiếp tục may mẫu PP, nếu mẫu này được duyệt, công ty sẽ đưa vào dây chuyền sản xuất chính thức, vì vậy mẫu này phải đúng cả màu wash lẫn các thông số kỹ thuật. (5) Khi hàng được đưa lên dây chuyền sản xuất hàng loạt, trước khi xuất đơn hàng đi công ty phải chọn ra 1 mẫu gửi cho Pacsun để kiểm tra lại màu wash cũng như thông số kỹ thuật để chắc rằng lô hàng đã đáp ứng được chất lượng như yêu cầu mẫu này gọi là mẫu TOP Bước 2: Thương lượng hợp đồng. Phòng kinh doanh sẽ tính toán các chi phí có liên quan đến việc sản xuất hàng như: Chi phí nhân công. Chi phí wash màu Chi phí mua vải Các nguyên phụ liệu(nút, dây kéo, nhãn giấy, nhãn da, túi nilon…) Từ đó đề nghị mức giá bán và thông thường thì khách hàng trao đổi qua mail làm sao chọn được mức giá phù hợp để 2 bên cùng có lợi. Sau đó phòng kế hoạch lên bảng “đề nghị làm hợp đồng xuất khẩu” cho hợp đồng số 12/PR-PAC/2009, bảng này ghi chi tiết mã hàng xuất là quần dài các loại, số lượng hàng là 382,471 PCS, đơn giá mỗi sản phẩm tùy vào mã hàng (phụ lục 1), sau đó gửi kế hoạch cho bộ phận kế hoạch để lên kế hoạch sản xuất và phòng xuất nhập khẩu để làm hợp đồng xuất khẩu chính thức với các điều kiện thương mại kèm theo như: Phương thức thanh toán là L/C, đồng tiền thanh toán là USD, điều kiện giao hàng là FOB, nước nhập khẩu là USA, và một số điều kiện khác theo như thoả thuận. Bước 3: Đây chính là bước thể hiện rõ nét hoạt động xuất nhập khẩu tại Công ty Protrade. Trình tự các bước tiến hành được áp dụng thực hiện cho lô hàng xuất theo hợp đồng số 12/PR-PAC/2009, thực hiện hợp đồng từ ngày 20/04/2009 đến ngày 30/08/2009. được thực hiện thông qua quy trình nhập khẩu như sau. 2.3.2.1 Soạn thảo hợp đồng xuất khẩu. Sau khi nhận được thông tin chi tiết đầy đủ trong “giấy đề nghị làm hợp đồng “ của hợp đồng xuất khẩu số 12/PR-PAC/2009 từ phòng kinh doanh, thì trưởng phòng xuất nhập khẩu phân công cho nhân viên xuất khẩu sọan thảo hợp đồng mua bán với nước ngoài (Sales Contract)( phụ lục 1) Nhân viên được phân công, căn cứ chi tiết thoả thuận của hợp đồng tiến hành sọan thảo hợp đồng, trình cho trưởng phòng xem xét và ký tắt vào hợp đồng (để xác nhận hợp đồng đã được kiểm tra); sau đó trình Ban giám đốc ký và gửi văn thư đóng dấu. Khi hợp đồng đã được 2 bên ký tên, đóng dấu, nhân viên xuất khẩu mở sổ theo dõi hợp đồng và điền số hợp đồng cùng các thông tin hàng hóa. 2.3.2.2 Đăng ký duyệt hợp đồng. Nhân viên nhập khẩu lập hồ sơ để đăng ký hợp đồng tại Chi Cục Hải quan tỉnh Bình Dương. Sau khi Hải quan xem xét và chấp nhận đăng ký hợp đồng, thì nhân viên xuất khẩu được nhận lại 1 bộ hợp đồng (phụ lục 1) có xác nhận đóng dấu “ ĐÃ ĐĂNG KÝ” của Hải quan và cho số theo dõi để sữ dụng thường xuyên suốt quá trình họat động nhập khẩu, xuất khẩu và thanh lý hợp đồng. Hồ sơ đăng ký hợp đồng gồm: Công văn :1 bản gốc Hợp đồng: 2 bản gốc Bảng theo dõi nguyên phụ liệu để nhập khẩu: 2 bản Bảng thống kê tờ khai nhập khẩu Sau khi Hải quan xem xét hợp đồng, nhân viên xuất khẩu nhận lại 1 hợp đồng bản gốc có dấu xác nhận “ ĐÃ ĐĂNG KÝ HỢP ĐỒNG”, nhân viên xuất khẩu photo, chuyển hợp đồng tới các bộ phận liên quan như: Phòng kinh doanh, phân xưởng, kho nguyên phụ liệu. Đồng thời nhân viên xuất khẩu photo lưu và chuyển cho phòng tài vụ làm cơ sở lập hóa đơn tài chính cho lô hàng xuất thuộc hợp đồng 12/PR-PAC/2009 . 2.3.2.3 Chuẩn bị hồ sơ nhập khẩu. Dựa trên hợp đồng xuất khẩu đã ký, làm hợp đồng nhập khẩu nguyên phụ liệu do Pacsun chỉ định mua như : Mua vải chính từ công ty Lanefort Hong Kong theo hợp đồng nhập khẩu số 130/PR-LF/09 (phụ lục 2). Vải lót túi mua từ công ty V-League Hong Kong theo hợp đồng nhập khẩu số 129/PR-VL/09 (phụ lục 3). Nhãn giấy mua từ công ty Checkpoint Hong Kong theo hợp đồng nhập khẩu số 198/PR-CP/09 (phụ lục 4) Dây kéo mua từ công ty ZhejiangWeixing Trung Quốc theo hợp đồng nhập khẩu số 122/PR-ZW/09 (phụ lục 5) Mua một số phụ liệu khác của công ty Labeltex Hong Kong theo hợp đồng nhập số 159/PR-LHK/09 (phụ lục 6) Sau khi hợp đồng nhập khẩu được ký kết sẽ chuyển lên phòng xuất nhập khẩu để phòng này nhận chứng từ. Bộ chứng từ gốc được nhà cung cấp nguyên phụ liệu gửi bằng chuyển phát nhanh (DHL, Fed EX...), khi nhận được bộ chứng từ, nhân viên nhập khẩu sẽ dựa vào hợp đồng đã thoả thuận để kiểm tra I/V, P/L, B/L, C/O, đơn bảo hiểm (nếu có)... mà khách hàng gửi để kiểm tra bộ chứng từ có hợp lệ không Nhân viên nhập khẩu tiến hành khai báo tờ khai hàng hoá nhập khẩu thông qua phần mềm của Hải quan với đầy đủ những gì thể hiện trong bộ chứng từ(thực nhập), sau khi có được sự phản hồi từ phần mềm là “đã tiếp nhận”, thì nhân viên nhập khẩu tập hợp hồ sơ đăng ký tờ khai Hải quan hàng nhập. 2.3.2.4 Đăng ký làm thủ tục hải quan và nhận hàng. Trình ký và đóng dấu hồ sơ nhập khẩu : Nhân viên nhập khẩu sau khi in mẫu tờ khai tiến hành kiểm tra nội dung tờ khai và trình lãnh đạo ký tắt vào bộ hồ sơ để xác định rằng hồ sơ này đã được kiểm soát trước khi Ban lãnh đạo ký và đóng dấu vào bộ hồ sơ. Bộ hồ sơ nhập khẩu bao gồm : Phiếu đề nghị kết quả phúc tập hồ sơ(BMHQ):1 bản B/L :1 bản photo C/O nhập khẩu(nếu có)1 bản gốc Tờ khai nhập khẩu (TKNK): 2 bản chính (đã ký và đóng dấu) Hợp đồng: 1 bản gốc+2 bản sao y C/I nhập khẩu:1 bản gốc+1 bản sao y P/L nhập khẩu:1 bản gốc+2 bản sao y Danh mục nguyên phụ liệu được HQ duyệt:2 bản sao Hóa đơn tiền cứơc vận chuyển Công văn cam kết nhập nguyên phụ liệu làm hàng XNK. Tiến hành đăng ký tờ khai: tại Hải quan tỉnh Bình Dương, khi bộ hồ sơ được chuyển đến khâu hoàn thành tờ khai, nhân viên nhập khẩu sẽ tách bộ hồ sơ thành 2 phần, một bàn giao hải quan lưu và một bản nhân viên nhập khẩu lưu. Bản lưu Hải quan gồm các chứng từ được sắp theo thứ tự sau: Phiếu ghi kết quả phúc tập hồ sơ; Phiếu tiếp nhận bàn giao hồ sơ Hải quan; Lệnh hình thức và mức độ kiểm tra Hải quan; Tờ khai hàng hoá nhập khẩu; P/L; I/V; Hợp đồng và danh mục nguyên vật liệu(bản lưu hải quan); B/L; Chứng từ ghi số thuế phải thu. Bản lưu người khai Hải quan gồm: Tờ khai hàng hoá nhập khẩu; I/V, P/L (bản sao); Phiếu lấy mẫu nguyên vật liệu chính (do công chức đăng ký tờ khai lập); Đơn chuyển cửa khẩu (nếu hàng hóa phải kiểm tra thực tế); Lên kế họach nhập hàng: Nhân viên nhập khẩu căn cứ vào ngày dự kiến tàu cập cảng được ghi trong D/O hoặc hàng vào kho cảng để lên” giấy đề nghị nhập nguyên phụ liệu” bảng kế họach nhập hàng này sẽ được lưu lại 1 bản trong phòng và 1 bản gửi phòng nguyên phụ liệu để chuẩn bị cho việc sắp xếp kho bốc dỡ hàng xuống khi đã hoàn thành các thủ tục Hải quan. Và giấy “đề nghị điều xe” dùng chuyên chở hàng từ cảng về kho công ty. Với những lô hàng nhập này nhân viên nhập khẩu chọn xe tải có trọng tải phù hợp cho từng lô hàng và có mui kín để vận chuyển hàng từ cảng về kho Công ty với đoạn đường ước tính 30 km. Sau đó nhân viên nhập khẩu lập giấy đề nghị tạm ứng tiền làm hàng với số tiền dự kiến từng lô hàng dựa vào giấy báo hàng đến, cùng với chi phí khi nhận hàng tại cảng. Đồng thời khi nhận được thông báo hàng đến (thường bằng fax), nhân viên giao nhận phải mang vận đơn gốc (nếu vận đơn theo lệnh của Ngân hàng thì phải có ký hậu của Ngân hàng), giấy giới thiệu của Công ty đến hãng tàu hoặc đại lý hãng tàu để nhận lệnh giao hàng D/O. Hãng tàu hoặc đại lý hãng tàu giữ lại vận đơn gốc và trao 3 bản D/O cho nhân viên nhập khẩu. Tiếp theo là nhân viên nhập khẩu cùng xe nhận hàng tiến hành đi vào cảng nhập. Nộp một D/O tại Hải quan bãi, sau đó cùng xe nhận hàng vào kho hàng số 3 theo như giấy thông báo hàng đến, tại đây nhân viên nhập khẩu nộp một D/O và tờ khai vào phòng tiếp nhận để đối chiếu và đóng mộc kiểm tra, nhân viên nhập khẩu tiếp đến sẽ phải đóng tiền lưu kho, phí xếp dỡ, các chi phí khác như trên hoá đơn cước vận chuyển của hãng tàu, sau đó lấy biên lai thanh toán phí mang về nộp cho Công ty. Hàng được lấy từ kho sếp dỡ ra xe và khi xe ra cổng thì cần thanh lý tờ khai với Hải quan cảng, để chứng minh hàng đã được nhận đủ số lượng thực nhập. 2.3.2.5 Kiểm tra đối chứng và hoàn tất thủ tục nhập hàng vào kho Trước khi hàng về kho nhân viên nhập khẩu cung cấp bộ chứng từ nhập hàng gồm C/O, P/L, phiếu đề nghị nhập kho nhằm để kho biết được kế họach nhập hàng. Sau khi kho nguyên phụ liệu kiểm số hàng nhập về, sẽ đưa bảng báo cáo nguyên phụ liệu cho phòng xuất nhập khẩu và phòng tài vụ có xác nhận số lượng thực nhập, sữ dụng phiếu nhập kho nguyên phụ liệu để lưu hồ sơ làm cơ sở đối chiếu chứng từ với khách hàng. Nhân viên nhập khẩu ký xác nhận số lượng thực nhập với phòng tài vụ trên phiếu nhập kho nguyên phụ liệu. Nhân viên nhập khẩu tiến hành lập các khoảng mục chi phí cho lô hàng nhập để khấu trừ vào số tiền đã nhận tạm ứng trước đó với phòng tài vụ của Công ty. Sau khi đã tập hợp đủ tất cả nguyên phụ liệu cần thiết để sản xuất sản phẩm thì Công ty giao việc sản xuất sản phẩm cho xưởng 3 là xưởng được đầu tư máy móc thiết bị, dây chuyền tiên tiến phục vụ cho công tác sản xuất sản phẩm thời trang là Quần jear, các xưởng khác tuỳ theo hợp đồng mà hổ trợ công việc hoàn thành sản phẩm kịp tiến độ. Tiếp theo sẽ là công việc sản xuất sản phẩm theo hợp đồng xuất số 12/PR-PAC/2009, nhân viên xưởng cắt sẽ theo kế hoạch sản xuất sản phẩm mà liên hệ với phòng nguyên phụ liệu để sử dụng nguyên phụ liệu chính là vải mang về xưởng, thực hiện các khâu rập khuôn các chi tiết của sản phẩm. Sau đó những chi tiết sản phầm có yêu cầu yếu tố thêu biểu tượng lên sản phẩm thì sẽ được chuyển những chi tiết có vị trí thêu cho xưởng thêu thực hiện trước. Sau đó chuyển về xưởng 3, tại đây sản phẩm được may, ráp chi tiếp theo các chuyền. Đầu các chuyền là ráp các chi tiết nhỏ như túi, nhãn vải, rồi đến ráp các chi tiết như thân quần... Đối với sản phẩm quần jean thì có thêm yếu tố thời trang trên mẫu sản phẩm đã được thoả thuận, nên số quần được ráp các chi tiết được chuyển sang xưởng WASH (phân xưởng này nằm ngoài khuôn viên Công ty), tại phân xưởng này sản phẩm được WASH cho giống với mẫu đã thể hiện,tiến hành giặc sạch sản phẩm, sấy khô, sau đó sản phẩm được vận chuyển trở về Công ty thực hiện các khâu cuối cùng để hoàn thành sản phẩm như: may tem da, tem thương hiệu, ủi sản phẩm, xếp, đóng gói. Sau khi hoàn chỉnh thì sản phẩm được kiểm tra, sản phẩm được hoàn thành phải được đóng gói bao bì hoàn chỉnh và được đựng trong các thùng cacton, bên ngoài thể hiện chi tiết sản phẩm để sản phẩm dể kiểm soát. Sản phẩm gần đến ngày hoàn thành theo hợp đồng thì trước đó 7 ngày nhân viên xưởng phải báo cáo tiến trình và lập detail packinglist và gửi lên phòng xuất nhập khẩu để tiến hành các thủ tục xuất hàng ra nước ngoài. 2.3.2.6. Công tác thuê tàu Sau khi hàng đã lên dây chuyền sản xuất và gần đến ngày hoàn thành, trưởng phòng XNK hoặc Trưởng bộ phận xuất hàng nhận thông báo “Kế họach xuất hàng”(trước khi hàng thực xuất là 7 ngày) từ bộ phận kế họach sản xuất, hàng xuất của khách hàng Pacsun. Trưởng phòng xuất nhập khẩu căn cứ vào kế họach xuất hàng, triển khai, phân công cho nhân viên xuất khẩu tiến hành theo dõi đơn hàng để làm thủ tục xuất khẩu cho lô hàng Theo thoả thuận hàng phải được xuất đủ trước ngày hết hạn hợp đồng là ngày 30/08/2009 thì cước phí vận chuyển bằng tàu sẽ do Pacsun chi trả, trường hợp hàng bị rớt lại thì công ty sẽ phải chịu mọi chi phí phát sinh, kể cả việc phải vận chuyển bằng đường hàng không để hàng đến đúng ngày như trong hợp đồng. 2.3.2.7 Khâu kiểm tra Dựa trên cơ sở detail packinglist từ bộ phận sản xuất của các phân xưởng để đặt booking cho lô hàng. Chi tiết như sau: Lô hàng xuất khẩu này đi bằng tàu biển (trước đó bộ phận sản xuất phải cung cấp detail packinglist trước 7 ngày) cho nhân viên xuất khẩu để làm căn cứ booking cho hãng tàu, theo đó booking phải ghi rõ số lượng hàng sẽ gửi đến hãng tàu. Và được dùng làm căn cứ xác định các chứng từ cần chứng thực trên tờ khai hàng hóa xuất khẩu Đồng thời nhân viên xuất khẩu sẽ lập bảng cân đối định mức cho các mã hàng, để sau đó đăng ký định mức ở chi cục Hải quan. Đối với các mã hàng lập lại, đã đăng ký định mức trước đó thì không cần phải khai báo lại, chỉ cần đăng ký tờ khai xuất khẩu mà thôi. Nhân viên xuất khẩu tiến hành việc khai báo qua phần mền Hải quan cung cấp, và tờ khai hàng hoá xuất được đăng ký, sau khi đã có được phản hồi từ phần mền Hải quan thì nhân viên xuất khẩu tiến hành in tờ khai và tập hợp đủ bộ hồ sơ sau đó trình trưởng phòng và đại diện Công ty ký tên. Bộ hồ sơ gồm: Phiếu ghi kết quả phúc tập hồ sơ: 1 bản; Phiếu tiếp nhận và bàn giao hồ sơ Hải quan: 1bản; Đơn đề nghị chuyển cửa khẩu hoặc biên bản bàn giao: 2 bản; Tờ khai hàng hoá xuất khẩu HQ/2002-NK: 2 bản Phụ lục tờ khai Hải quan (nếu có): 2 bản; Packing list: 2 bản; Các công văn (nếu có): 2 bản gốc. Khi bộ hồ được chuyển đến khâu hoàn thành tờ khai. Tại đây, nhân viên xuất khẩu sẽ tách bộ hồ sơ thành 2 phần, một bàn giao Hải quan lưu và một bản người khai Hải quan lưu. Bản lưu Hải quan gồm các chứng từ được sắp xếp theo thứ tự sau: Phiếu ghi kết quả phúc tập hồ sơ Hải quan; Phiếu tiếp nhận bàn giao hồ sơ Hải quan; Lệnh hình thức, mức độ kiểm tra Hải quan; Tờ khai hàng hoá xuất khẩu; Packing list (bản gốc); Các chứng từ khác (nếu có yêu cầu). Bản lưu người khai Hải quan gồm : Tờ khai hàng hoá xuất khẩu; Packing list (bản sao); Đơn đề nghị chuyển cửa khẩu. Khi đến ngày giao hàng, bộ phận kiểm tra của công ty sẽ lập một biên bản final để xác nhận hàng giao đúng số lượng và chất lượng như hợp đồng xuất khẩu đã ký kết, nếu như hàng được giao đến và khách hàng kiểm tra thấy không đúng chất lượng, số lượng như thoả thuận trong hợp đồng thì Công ty sẽ bị phạt theo các điều khoảng ghi trong hợp đồng . 2.3.2.8 Giao nhận và đóng hàng lên phương tiện Căn cứ vào Booking note của hãng tàu và detail packing list có xác nhận của lãnh đạo phân xưởng (phù hợp với số liệu đã khai ở tờ khai xuất khẩu), nhân viên XNK đề nghị kho hoàn tất cho hàng lên xe chở container dưới sự giám sát của bảo vệ. Sau khi hàng đến cảng mà hãng tàu đã chỉ định, phòng xuất nhập khẩu sẽ gửi bản chi tiết làm booking đến hãng tàu. Căn cứ trên bảng chi tiết này, hãng tàu sẽ phát hành Bill of lading và hẹn ngày đến lấy. Khi lấy Bill từ hãng tàu, nhân viên xuất khẩu sẽ làm bộ chứng từ để xin cấp C/O, tại phòng thương mại và công nghiệp Bình Dương. Bộ hồ sơ gồm có : Bảng định mức sản phẩm; Giấy biên nhận bộ hồ sơ đề nghị cấp C/O Bản đăng ký danh mục sản phẩm xuất khẩu Tờ khai xuất; Hoá đơn chứng minh nguồn gốc sản phẩm được mua tại Việt Nam Tờ khai nhập photo chứng minh nguồn gốc sản phẩm được nhập từ nước ngoài. 2.3.2.9 Hoàn tất quy trình xuất khẩu Sau khi có C/O, nhân viên xuất khẩu sẽ gửi một bộ chứng từ gồm: Hoá đơn, Packing list, bill và C/O, đến phòng tài vụ, phòng tài vụ chịu trách nhiệm thực hiện khâu thanh toán của bộ chứng từ. 2.3.3 Phân tích kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm chủ yếu của công ty BẢNG 2.4 : Tình hình kim ngạch xuất khẩu theo sản phẩm qua các năm 2008-2009-2010 ĐơnVị Tính: USD Sản phẩm 2008 2009 2010 So sánh 2009/2008 So sánh 2010/2009 Kim ngạch % Kim ngạch % Kim ngạch % Chênh lệch % chênh lệch % Jacket 270,769 0.8 0 0 0 0 -270,769 -100 0 0 Áo sơ mi 7,176,740 21.28 10,935,303 25.92 10,555,695 28.15 3,758,564 52.37 -379,608 -3.47 Quần 22,991,867 68.17 29,686,515 70.37 25,566,310 68.19 6,694,648 29.12 -4,120,205 -13.88 Váy 0 0 403,955 0.96 39,006 0.1 403,955 100 -364,949 -90.34 Đồ thể thao 3,286,717 9.75 1,160,809 2.75 1,333,878 3.56 -2,125,908 -64.68 173,069 14.91 Pyjama 77,808 0.23 0 0 0 0 -77,808 -100 0 0 Túi ngủ 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Tổng 33,726,870 100  42,186,583 100  37,494,890 100  8,459,713 25.08 -4,691,693 -11.12 (Nguồn: Phòng xuất nhập khẩu) Theo số liệu Bảng 2.4 cho thấy giá trị kim ngạch xuất khẩu sản phẩm cao nhất thuộc về 2 sản phẩm là Quần các loại luôn chiếm gần 70% tổng trị giá kim ngạch xuất khẩu và Áo sơ mi chiếm trên 20% tổng trị giá kim ngạch xuất khẩu. Các sản phẩm còn lại như: Jacket, Váy, Đồ thể thao… chiếm tỉ trọng không cao, nhưng cũng đóng góp khoảng 10% giá trị kim ngạch xuất khẩu tại công ty. Số liệu kim ngạch xuất khẩu qua các năm cho thấy thì năm 2009 là năm công ty đạt được giá trị kim ngạch xuất khẩu cao nhất đạt giá trị 42,186,583 USD tăng 25.08% về giá trị so với năm 2008. Nguyên nhân tăng giá trị kim ngạch được các chuyên gia nhận định là do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế trong năm 2008 làm người tiêu dung phải thay đổi dần quan niệm về thời trang nói chung và xu hướng thời trang nói riêng, thị hiếu tiêu dùng thay đổi dần sang sử dụng các sản phẩm thông dụng mang tính phổ thông như Quần Jean, Áo sơ mi…Tránh việc chi tiêu quá nhiều cho sản phẩm hàng hiệu khi thật không cần thiết. Năm 2010 giá trị kim ngạch xuất khẩu giảm, chỉ đạt 37,494,890 USD tương đương chỉ đạt được 88.88% so với năm 2009, nhưng đây cũng là một con số làm thoả mản các vị lãnh đạo trong công ty vì sự nổi lực vược bật là không mất thị trường tiêu thụ cũng như không để sụt giảm kim ngạch xuất khẩu theo biến động phức tạp từ thị trường trong và ngoài nước. Trong khi cuốc khủng hoảng kinh tế cuối năm 2008 vừa gây ra chấn động mạnh đến nền thời trang thế giới, một loạt những nhãn hàng tên tuổi trong làng thời trang thế giới bị ảnh hưởng nghiên trọng như: Chỉ đến ngày 02/01/2009, hãng bán lẻ thời trang trẻ em của Anh, là Adams  Childrenswear, đã phải thông báo có thể sa thải 3.200 lao động tại Anh và Ireland, đến ngày 07/01/2009 hãng bán lẻ quần áo của Anh Marks & Spencer cũng thông báo đã đóng cửa 27 cửa hàng và cắt giảm 1.200 việc, Ngày 15/01/2009, hãng thể thao của Đức, Reebok  International, đã buộc phải cắt giảm 300 việc làm tại Bắc Mỹ và châu Mỹ Latinh, và ngày 16/01/2009 cửa hàng bán lẻ của Mỹ, Saks cho biết sẽ cắt giảm 1.100 việc làm. Mặc dù bối cảnh kinh tế rất ảm đảm, tỷ lệ thất nghiệp ngày càng tăng và sản xuất thì ngưng trệ nhưng vẫn có nhiều dấu hiệu hồi phục. Với các số liệu kinh tế vượt khủng hoảng chưa từng thấy và sự tồn tại của các thị trường mới nổi như Trung Quốc,Việt Nam… việc tìm ra những xu hướng lạc quan đã bắt đầu sớm từ đầu năm 2009. Một số thay đổi chúng ta có thể nhận biết như: hàng loạt chuổi cửa hàng bán lẻ những sản phẩm may mặc hàng ngày ra đời tại nhiều quốc gia, còn trong lĩnh vực thiết kế thì những nguyên vật liệu đắt tiền được sử dụng một cách tối thiểu để tạo ra những sản phẩm "giá rẻ nhưng vẫn đáp ứng nhu cầu thời trang" của người tiêu dùng. Theo như số liệu thể hiện thì người viết có nhận định như sau về các sản phẩm: Ba sản phẩm là Pyjama, Túi ngủ, Jacket: Một là công ty nên có chủ trương tạm thời ngưng sản xuất, vì sản lượng xuất khẩu thấp, giá trị kim ngạch xuất khẩu không cao, tốc độ tăng trưởng qua các năm giảm, mà các sản phẩm này đã từng là sản phẩm xuất khẩu chủ lực của công ty. Nên chuyển đội ngũ chuyên sản xuất 2 sản phẩm ấy, cũng như tận dụng nguồn máy móc thiết bị sang tập trung sản xuất các sản phẩm khác có nhu cầu tăng cuờng lao động, một mặt là tận dụng lao động có tay nghề, có thâm niên làm việc, mặt khác là nhằm giữ lại nguồn lao động có kỹ thuật tốt về sản phẩm có thể phục vụ sản xuất khi thị trường về sản phẩm hồi phục. Hai là công ty nên định hướng phát triển sản phẩm theo từng thị trường thật cụ thể, bởi vì có thể nhu cầu hoặc sở thích thời trang của sản phẩm đó không còn phù hợp với thị trường truyền thống nữa, mà có những thị trường khác đang có nhu cầu về sản phẩm. Hai sản phẩm Váy và Đồ thể thao công ty nên tăng cường đội ngũ phát triển sản phẩm, bởi lẻ xu hướng thời trang hiện nay về nhu cầu sản phẩm rất mạnh, trong khi công ty khó có thể chinh phục khách hàng tiềm năng bằng những thiết kế đơn giản, kỹ thuật may trung bình… mà phải đầu tư sâu hơn nữa. Vì đây cũng là sản phẩm mà những năm trước đem lại giá trị kim ngạch rất lớn cho công ty, sự tăng giảm kim ngạch qua các năm chứng tỏ nhu cầu thị trường về sản phẩm còn cao, cụ thể năm 2009 thị phần sản phẩm có giảm so với năm 2008 từ 9.75% xuống còn 2.75%, nhưng đến năm 2010 cũng có dấu hiệu tăng lại chiếm 3.56% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Hai sản phẩm là Áo sơ mi và Quần các loại là 2 sản phẩm chủ lực của công ty từ lúc mới thành lập cho đến nay, ban đầu công ty chỉ hoạt động gia công sản phầm rồi xuất sang các thị trường do đối tác yêu cầu, nhờ đó mà công ty đã có được nền tản trong việc phát triển sản phẩm. Trong những năm gần đây theo xu hướng hạn chế xuất khẩu gia công trong ngành may mặc Việt Nam, công ty cũng đã thành công trong việc chinh phục đối tác ký hợp đồng những sản phẩm hoàn toàn do công ty thiết kế và sản xuất ra. Trong tình hình như hiện nay thì 2 sản phẩm này được đánh giá cao là phù hợp với xu hướng tiêu dùng trên thế giới. Sản phẩm Áo sơ mi chiếm tỉ trọng tăng đều qua các năm nhưng giá trị kim ngạch thì biến động, năm 2009 kim ngạch xuất khẩu tăng 52.37% so với năm 2008, đạt giá trị là 10,935,303 USD, nhưng sang năm 2010 sản lượng có giảm nhưng cũng đạt gần 96% so với năm 2009. Sản phẩm Quần các loại trong đó có quần Jean là nhận được nhiều hợp đồng nhất, là sản phẩm chiếm tỉ trọng cao trong kim ngạch xuất khẩu của công ty nên công ty rất quan tâm phát triển sản phẩm từ khâu thiết kế đến sản xuất và wash sản phẩm theo yêu cầu cũng như thị hiếu khách hàng. trong năm 2008 kim ngạch xuất khẩu đạt giá trị là 22,991,867 USD sang năm 2009 giá trị kim ngạch tăng thêm 6,694,648 USD tương đương tăng 30% so với năm 2008, năm 2010 giá trị kim ngạch tuy có giảm nhưng cũng đạt con số ấn tượng là 25,566,310 USD. Vì thế công ty cần quan tâm hơn nửa chính sách phát triển sản phẩm sang các thị trường xuất khẩu tiềm năng. 2.3.4 Phân tích kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường chủ yếu của công ty BẢNG 2.5 : Tình hình kim ngạch xuất khẩu theo thị trường qua các năm 2008-2009-2010. ĐơnVị Tính: USD Thị trường 2008 2009 2010 So sánh 2009/2008 So sánh 2010/2009 Kim ngạch % Kim ngạch % Kim ngạch % Chênh lệch % chênh lệch % Anh 95,496 0.28 3,096 0.01 8,575 0.02 -92,400 -96.76 5,479 176.97 Đức 8,404,176 24.92 8,480,112 20.10 9,667,123 25.78 75,935 0.90 1,187,011 14.00 Mỹ 10,337,275 30.65 24,140,454 57.22 19,357,119 51.63 13,803,180 133.53 -4,783,335 -19.81 Bỉ 4,786,079 14.19 0 0.00 0 0.00 -4,786,079 -100.00 0 0.00 Nga 98,971 0.29 126,697 0.30 168,887 0.45 27,725 28.01 42,190 33.30 Nhật 2,638,773 7.82 601,328 1.43 667 0.01 -2,037,445 -77.21 -600,661 -99.89 Trung quốc 176,073 0.52 452,431 1.07 526,797 1.40 276,358 156.96 74,366 16.44 Thị trường khác 7,190,027 21.32 8,382,465 19.87 7,765,723 20.71 1,192,439 16.58 -616,743 -7.36 Tổng 33,726,870  100 42,186,583  100 37,494,890  100 8,459,713 25.08 -4,691,693 -11.12 (Nguồn: Phòng xuất nhập khẩu) Kim ngạch xuất khẩu vào các thị trường có sự tăng giảm không đều nhưng nhìn chung tổng kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp vẫn giữ vững. Kết quả này là do một số thị trường hết hạn ngạch và do sự mất ổn định về kinh tế và chính trị trên thế giới trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên một số thị trường đang được mở rộng do vậy mà tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty cũng tốt lên nhiều Kim ngạch xuất khẩu qua các thị trường có sự chênh lệch khá rõ, một số thị trường xuất khẩu chiếm thị phần cao như Mỹ, Đức, Và một số Thị trường mới, còn lại là thị trường lớn mà công ty đã xây dựng được mối quan hệ tốt nhưng thời gian gần đây đóng góp kim ngạch không cao. BẢNG 2.6: Một số thị trường xuất khẩu dệt may của Việt Nam tháng 8 và 8 tháng năm 2011 Thị trường Tháng 8/2011 (USD) So Tháng 7/2011 (%) So Tháng 8/2010 (%) 8Tháng/2011 (USD) So 8Tháng/2010 (%) Hàn Quốc 121.570.097 78,99 159,65 500.850.704 147,86 Đài Loan 23.088.014 33,21 40,80 138.297.699 28,94 Nhật Bản 186.183.861 27,70 70,85 1.044.641.321 51,25 Nga 12.611.965 -18,23 78,71 73.096.620 42,40 Hoa Kỳ 747.619.980 14,59 17,06 4.577.162.957 16,22 Đức 60.299.037 -16,55 38,49 409.648.224 44,21 (Nguồn: Trung tâm thông tin công nghiệp và thương mại-Bộ công thương) * Thị trường Đức. Đức là một nước dân số đông, với hơn 82 triệu người, lại là nước có thu nhập cao, sẽ là thị trường tiềm năng cho hàng dệt mayViệt Nam. Năm 2010, hàng may mặc của công ty đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất với 9,667,123 USD, tăng 14 % so với năm 2009, góp phần nâng thị phần từ 20% năm 2009 lên 25% năm 2010. Theo Bộ công thương Việt Nam, trong số các nước của Liên minh Châu Âu (EU) thì Đức là quốc gia có tỷ trọng nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất khu vực. Theo số liệu thống kê, tháng 08/2011 kim ngạch xuất khẩu dệt may việt nam sang thị trường Đức là 60 triệu USD, giảm 16% so với tháng 07/2011 nhưng tăng 38% so với cùng kỳ năm 2010. Tính đến cuối tháng 08/2011 tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may sang thị trường này đạt giá trị 409.648.224 USD. Người dân Đức không quá đòi hỏi yêu cầu về kiểu cách và mẫu mã, quan trọng là chất lượng thành phẩm và sự kỳ công của nhà sản xuất được thể hiện qua mũi kim đường chỉ, do đó đây sẽ là lợi thế cho hàng dệt may Việt Nam. Protrade khi muốn đưa hàng dệt may vào thị trường Đức, buộc phải tuân thủ quy chuẩn của cả EU và của Đức. Tuy nhiên, so với luật chung của EU thì luật của Đức nghiêm ngặt hơn. Trong đó cần chú trọng đến 3 tiêu chuẩn: chất lượng, vệ sinh sản phẩm và trách nhiệm xã hội. Ngoài ra, khi sử dụng nguyên phụ liệu dệt may, doanh nghiệp nên tránh các chất gây cháy như PPF hoặc nguyên liệu có tính chất tẩy trùng, bởi với các chất không đảm bảo về tiêu chuẩn chất lượng thì hải quan Đức sẽ tiêu huỷ và chi phí tiêu huỷ do phía Việt Nam chi trả. Một vài thị trường ngách, thị trường tiềm năng cho hoạt động phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty được xúc tiến bởi các cơ quan thương mại 2 quốc gia. * Thị trường Hàn Quốc. Một trong những thị trường có mức tăng trưởng cao nhất của xuất khẩu dệt may của Việt Nam là  Hàn Quốc, tính chung 8 tháng đầu năm 2011 giá trị kim ngạch đạt 500.850.704 USD, tăng tới 148% so với cùng kỳ năm 2010. Tỷ lệ tăng cao như vậy nhờ vào những hợp đồng ký được với Hàn Quốc sau Hiệp định thương mại được ký kết giữa ASEAN và Hàn Quốc trong năm 2010. Dưới đây là một vài điểm đã được các nhà khảo sát thị trường tổng hợp về thói quen tiêu dùng hàng dệt may của người Hàn Quốc: Nhu cầu của người tiêu dùng Hàn Quốc ở lứa tuổi từ thanh thiếu niên đến 30 tuổi đang ngày càng trở nên đa dạng. Do Hàn Quốc là một trong những nước mở cửa nhất trên thế giới, người tiêu dùng nước này có thể tiếp cận và chấp nhận những mặt hàng thời trang chưa từng có mặt trên thị trường. Nếu như người tiêu dùng truyền thống của Hàn Quốc quen đánh giá các nhãn hiệu thời trang thông qua việc so sánh đó là nhãn hiệu sản xuất trong nước hay nhập khẩu, thì ngày nay, người tiêu dùng ở lứa tuổi thanh thiếu niên đến 30 tuổi cân nhắc nhiều yếu tố khác nhau. Một vài yếu tố trong số đó bao gồm sự vừa vặn, giá cả và tính thời trang. Với các mặt hàng thời trang hết mùa và được bán hạ giá, người tiêu dùng Hàn Quốc thường ưu tiên mua qua các kênh bán lẻ hơn là mua tại các trung tâm mua sắm lớn. Ngày nay, các kênh bán lẻ này xuất hiện ngày càng nhiều ở nhiều lĩnh vực khác nhau, như các cửa hàng bán hàng trực tuyến, hệ thống bán hàng tại nhà thông qua các kênh tivi, các cửa hàng giảm giá và các cửa hàng thời trang tư nhân. Người tiêu dùng truyền thống, những người ở độ tuổi 40 trở lên và có thu nhập ổn định, có thói quen mua hàng ở các trung tâm mua sắm lớn. Họ cho rằng, mua sắm tại các trung tâm này tiện lợi hơn mua hàng trực tuyến hay mua hàng qua các kênh mua bán trên TiVi. Đây là thị trường tiềm năng, mà công ty có thể tiến hành đưa những sản phẩm mới của công ty thiết kế vào, để thử nghiệm sự chấp nhận sản phẩm của khách hàng. Nếu sản phẩm xâm nhập thành công thị trường này thì cũng tạo hiệu ứng tốt đối với thương hiệu công ty trên những thị trường khác. * Thị trường Đài Loan. Theo số liệu Bộ công thương, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Đài Loan tháng 8/2011 đạt 23 triệu USD, tăng 33.21% so với tháng trước và tăng 40.8% so với cùng tháng năm ngoái, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Đài Loan 8 tháng đầu năm 2011 đạt 138 triệu USD, tăng 28,9% so với cùng kỳ năm ngoái. * Thị trường Nhật Bản. Ngoài thuận lợi nhờ Hiệp định đối tác kinh tế Việt - Nhậ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNOI DUNG HOAN CHINH.doc