Đề tài Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Mĩ

Tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Mĩ: Lời mở đầu N gành dệt may là một ngành tiên phong của phần lớn các quốc gia khi bước vào công cuộc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá; vị trí quan trọng của ngành dệt may trong nền kinh tế là do ngành này phục vụ nhu cầu tất yếu của con người, tạo được nhiều việc làm cho xã hội, đồng thời việc xuất khẩu hàng dệt may giúp cho cán cân thanh toán quốc tế của nước xuất khẩu ngày càng tốt hơn. Quá trình phát triển của các nước công nghiệp tiên tiến như Anh, Pháp, Nhật... trước đây, cũng như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore... hiện nay đều đã trải qua bước phát triển sản xuất, xuất khẩu những sản phẩm dệt may và coi đây là một ngành xuất khẩu chủ yếu. Ngành dệt may Việt Nam sớm được phát triển, nó thực sự chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế nói chung và trong hoạt động ngoại thương nói riêng từ những năm 90 trở lại đây. Đến nay, ngành dệt may được coi là một trong những ngành có lợi thế nhất của Việt Nam bởi nó sử dụng nhiều lao động và mang về nguồn ngoại tệ rất lớn cho đất nư...

doc100 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1168 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Mĩ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu N gành dệt may là một ngành tiên phong của phần lớn các quốc gia khi bước vào công cuộc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá; vị trí quan trọng của ngành dệt may trong nền kinh tế là do ngành này phục vụ nhu cầu tất yếu của con người, tạo được nhiều việc làm cho xã hội, đồng thời việc xuất khẩu hàng dệt may giúp cho cán cân thanh toán quốc tế của nước xuất khẩu ngày càng tốt hơn. Quá trình phát triển của các nước công nghiệp tiên tiến như Anh, Pháp, Nhật... trước đây, cũng như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore... hiện nay đều đã trải qua bước phát triển sản xuất, xuất khẩu những sản phẩm dệt may và coi đây là một ngành xuất khẩu chủ yếu. Ngành dệt may Việt Nam sớm được phát triển, nó thực sự chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế nói chung và trong hoạt động ngoại thương nói riêng từ những năm 90 trở lại đây. Đến nay, ngành dệt may được coi là một trong những ngành có lợi thế nhất của Việt Nam bởi nó sử dụng nhiều lao động và mang về nguồn ngoại tệ rất lớn cho đất nước (chỉ đứng sau ngành dầu khí). Mấy năm qua kim ngạch xuất khẩu của ngành này luôn tăng trưởng mạnh, rất khả quan trong việc đạt và vượt mục tiêu xuất khẩu theo quy hoạch tổng thể của ngành dệt may Việt Nam đến năm 2005 là 4-5 tỷ USD và năm 2010 là 8-9 tỷ USD. Tuy nhiên để đạt được mục tiêu ngành này phải duy trì mức tăng trưởng 14%/ năm; muốn đạt được điều đó toàn ngành cần có nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó việc mở rộng thị trường là vấn đề mấu chốt. Thị trường dệt may tại Mĩ là một thị trường rất tiềm năng, việc mở rộng thị trường hàng dệt may Việt Nam tại đây là vấn đề then chốt giúp ngành dệt may đạt chỉ tiêu. Bài viết này với nhan đề " mot so giai phap nham day manh xuat khau hang det may cua viet nam vao thi truong mi " sẽ đi sâu phân tích thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mĩ (1997-2002) và đề ra một số giải pháp chính nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường này. Kết cấu của chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận, được chia làm 3 chương chính: Chương I : Lý luận chung về xuất khẩu và tình hình sản xuất, buôn bán hàng dệt may trên thế giới. Chương II : Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mĩ, giai đoạn 1997-2002. Chương III: Định hướng và một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mĩ. Một thị trường rộng lớn như thị trường Mĩ, với cung cách làm ăn riêng có, những thói quen tiêu dùng mang đậm bản sắc Mĩ, những con người đầy cá tính mạnh mẽ và quyết đoán,... tất cả tạo nên một môi trường kinh doanh hết sức hấp dẫn với bất kỳ một ngành hàng nào của bất kỳ quốc gia nào muốn mở rộng thị trường, với dệt may Việt Nam thì đây quả là một thị trường đầy tiềm năng. Đây chính là nguyên nhân khiến nhiều tác giả đã cố công tìm hiểu về thị trường này nói chung và cho dệt may nói riêng. Quả thực là rất tiềm năng, nhưng để hàng dệt may Việt Nam chiếm lĩnh được thị trường Mĩ lại không phải dễ; bởi những diễn biến phức tạp của động thái thị trường, những yếu tố ảnh hưởng như hệ thống pháp luật, chính sách hạn chế nhập khẩu tinh tế, hạn ngạch,... luôn làm nản lòng các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Nhưng cũng chính bởi vậy, việc tìm kiếm các giải pháp hợp lý, mang tính thực tiễn cao nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường này lại luôn hấp dẫn. Thực tế, đã có đông đảo các tác giả tham gia nghiên cứu các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt nam sang thị trường Mĩ, theo đó một khối lượng lớn các bài viết liên quan ra đời. Theo trào lưu chung tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài này với mong muốn tìm ra những giải pháp mang tính mới mẻ và thực tế cao nhằm giúp các doanh nghiệp dệt may Việt nam có thể tham khảo, đánh giá từ đó tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhất cho mình, đồng thời đây cũng tài liệu tham khảo bổ ích cho các bạn đọc quan tâm đến dệt may Việt nam. CHƯƠNG I Lý LUậN CHUNG Về XUấT KHẩU và tình hình sản xuất, buôn bán hàng dệt may trên thế giới I . khái niệm và vai trò của xuất khẩu Xuất khẩu là hoạt động bán, cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ cho bên nước ngoài (bao gồm việc bán, cung cấp hàng hoá và dịch vụ sang thị trường nước ngoài; bán, cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho người nước ngoài ở trong nước hay bán, cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho các doanh nghiệp thuộc các khu công nghiệp, khu chế xuất ở trong nước hoặc hàng hoá và dịch vụ từ các khu chế xuất bán ra thị trường trong nước) trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán; tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một bên hay hai hoặc nhiều bên đối tác. Mục tiêu của xuất khẩu là khai thác được lợi thế so sánh của mỗi quốc gia trong phân công lao động quốc tế, nhằm phục vụ mục đích cuối cùng là tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp xuất khẩu, tăng ngân quỹ quốc gia,... ngoài ra nó còn là cơ sở để nhập khẩu đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế đồng thời giúp cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Xuất khẩu là một trong những hình thức kinh doanh quan trọng nhất của hoạt động thương mại quốc tế. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên phạm rất rộng, trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế, không chỉ là hàng hoá hữu hình như hàng hoá tiêu dùng, nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị,... mà cả hàng hoá vô hình như công nghệ, các dịch vụ ngân hàng, bưu chính viễn thông, giao thông, vận tải,...với tỷ trọng ngày càng lớn. Hoạt động xuất khẩu diễn ra rộng khắp cả về không gian và thời gian; nó có thể diễn ra trong thời gian rất ngắn song cũng có thể kéo dài hàng năm hoặc vài năm, thậm chí kéo dài hàng thế kỷ; nó có thể diễn ra trên phạm vi một quốc gia hoặc một nhóm các quốc gia hay trên phạm vi toàn thế giới. Bàn về vai trò của hoạt động xuất khẩu Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, không một quốc gia nào có thể tự sản xuất tất cả các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ để đáp ứng nhu cầu trong nước. Vì vậy tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế là điều cần thiết đối với mỗi quốc gia. Mỗi quốc gia phải thông qua trao đổi, mua bán với các quốc gia khác nhằm thoả mãn các nhu cầu của mình đồng thời khai thác tối đa tiềm lực đất nước phục vụ cho mục đích tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Như vậy, hoạt động xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá sự phát triển của quốc gia so với thế giới, đồng thời nó là chiếc cầu nối của nền kinh tế toàn cầu. Vai trò của hoạt động xuất khẩu được thể hiện rõ như sau: * Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế mỗi quốc gia Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một tất yếu của tiến trình phát triển kinh tế xã hội; đặc biệt đối với các nước đang và kém phát triển, nó khắc phục tình trạng nghèo nàn lạc hậu. Tuy nhiên nó đòi hỏi một lượng vốn đủ lớn để đầu tư, nhập khầu máy móc, thiết bị... Xuất khẩu là một trong những hình thức thu hút vốn quan trọng của mỗi quốc gia, xuất khẩu tạo tiền đề cho nhập khẩu, nó quyết định đến qui mô, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Một quốc gia đang ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá tất nhiên là cần nhập khẩu những thiết bị công nghệ hiện đại để khai thác chế biến nguồn tài nguyên sẵn có. Tuy nhiên, những quốc gia này thường không có đủ tiềm lực tài chính để làm việc đó, ngoài những biện pháp như vay nợ, nận tài trợ nước ngoài, quốc gia này thường chọn biện pháp an toàn là tăng cường xuất khẩu những gì sẵn có để bổ xung cho nguồn vốn hạn hẹp của mình. Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất Tuỳ thuộc vào chính sách hướng ngoại hay hướng nội của mỗi quốc gia mà xuất khẩu có mức độ tác động đến chuyển dịch cơ cấu và phát triển sản xuất khác nhau + Với chính sách hướng nội, các hoạt động sản xuất đều nhằm phục vụ các nhu cầu trong nước là chủ yếu, việc xuất khẩu chỉ được thực hiện đối với những sản phẩm thừa so với nhu cầu xã hội.Vì vậy, xuất khẩu chỉ bó hẹp trong một phạm vi nhỏ, tăng trưởng chậm, không phát huy được lợi thế so sánh của quốc gia, các ngành sản xuất kinh doanh không có cơ hội phát triển. Điều này có nghĩa là cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm và không kích thích phát triển mạnh sản xuất vì hoạt động sản xuất phụ thuộc phần lớn vào nhu cầu trong nước và nguồn lực nội tại của quốc gia. + Với chính sách hướng ngoại, thị trường thế giới được coi là mục tiêu để tổ chức sản xuất và xuất khẩu; việc xuất khẩu hàng hoá có tác động tích cực đến sự phát triển của các ngành sản xuất và dịch vụ trong cùng nhóm ngành; các nhóm ngành trong tổng thể nền kinh tế lại có liên quan với nhau trên giác độ vĩ mô, do đó xuất khẩu là nhân tố có ảnh hưởng đáng kể đến chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế và thúc đẩy phát triển nền sản xuất của toàn xã hội: _ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các nhóm ngành hàng có liên quan có cơ hội phát triển. Chẳng hạn, ngành may công nghiệp phát triển, sẽ kéo theo sự phát triển ngành dệt phục vụ nó phát triển, tiếp đến sự phát triển của ngành dệt thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp sợi và trước đó là nghề trồng bông, dâu tằm… _ Xuất khẩu có vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất của từng quốc gia. Thông qua xuất khẩu, nhu cầu về một sản phẩm sẽ tăng cao, nó lôi cuốn một lượng lớn lao động xã hội tương xứng, vô hình chung lượng lao động này sẽ chuyên sản xuất một mặt hàng, để duy trì sự tồn tại của mình họ tìm cách nâng cao hiệu quả sản xuất của sản phẩm đó. Xét tổng thể, mức độ chuyên môn hoá và hiệu qủa sản xuất của quốc gia sẽ tăng lên. _Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm, góp phần ổn định nền sản xuất sản phẩm cho xã hội, tạo lợi thế kinh doanh nhờ tăng qui mô. Một sản phẩm đã được xuất khẩu có nghĩa là thị trường của nó được mở rộng, kéo theo quy mô sản xuất sản phẩm đó được mở rộng, nếu nhiều sản phẩm trong tổng thể nền sản xuất xã hội được xuất khẩu thì nền sản xuất xã hội sẽ được ổn định. _Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, mở rộng khả năng tiêu dùng của mỗi quốc gia. Ngoài hình thức xuất khẩu gia công- hình thức nhập nguyên liệu về và xuất thành phẩm trở lại nước cung cấp nguyên liệu thì xuất khẩu thường đi liền với nhập khẩu những đầu vào liên quan đến sản xuất hàng xuất khẩu do đó khả năng cung cấp đầu và cho sản xuất được mở rộng, đồng thời xuất khẩu đem lại thu nhập xã hội do đó khả năng tiêu dùng xã hội tăng lên. Xuất khẩu tạo điều kiện cho hàng hoá của một quốc gia thâm nhập và cạnh tranh trên thị trường thế giới Trong một nền kinh tế đóng, các hoạt động buôn bán trao đổi hàng hoá chỉ diễn ra trong phạm vi một nước; các loại sản phẩm được sản xuất trong nước, tiêu dùng nội địa nên không có sức cạnh tranh. Trong khi nền kinh tế mở, hoạt động ngoại thương được mở rộng, các sản phẩm sản xuất trong nước được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Các sản phẩm này luôn gặp sự cạnh tranh của các sản phẩm cùng loại trên cùng một thị trường, nhưng khi đã có chỗ đứng trên thương trường, các sản phẩm này sẽ có điều kiện thâm nhập sâu hơn vào thị trường thế giới. Xuất khẩu giúp mở rộng ảnh hưởng của quốc gia đó trên trường quốc tế. Xuất khẩu nói riêng, hoạt động ngoại thương nói chung, là bước đệm cho việc thiết lập quan hệ giữa các quốc gia. Hoạt động ngoại thương giữa các quốc gia càng phát triển thì sự phụ thuộc giữa các quốc gia về mặt kinh tế càng lớn, phụ thuộc kinh tế sẽ kéo theo ảnh hưởng ít nhiều về chính trị. Như vậy có thể nói, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các quốc gia có một phần nguyên nhân từ hoạt động xuất khẩu. Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Xuất khẩu kích thích phát triển sản xuất trong nước qua đó tạo việc làm cho lao động xã hội, tăng thu nhập, tăng khả năng chi tiêu của họ, từ đó giảm thất nghiệp trong nước. Mặt khác, xuất khẩu còn tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu dùng làm cho người dân trở nên sung túc hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của họ. Xuất khẩu làm nền tảng để mở rộng và phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là một hoạt động chủ yếu, cơ bản, là hình thức ban đầu của hoạt động kinh tế đối ngoại, từ đó thúc đẩy các mối quan hệ khác như du lịch quốc tế, bảo hiểm, vận tải quốc tế, tín dụng quốc tế...phát triển theo. Ngược lại sự phát triển của các ngành này lại là những điều kiện tiền đề cho hoạt động xuất khẩu phát triển. 2.3 Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với các doanh nghiệp Mở rộng thị trường là nhu cầu tất yếu của bất kỳ doanh nghiệp nào muốn phát triển bền vững và có vị thế trên thương trường, việc mở rộng này được thực hiện phần lớn thông qua hoạt động xuất khẩu, xuất khẩu đem lại cho doanh nghiệp những lợi ích sau: Thông qua xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Những yếu tố đó đòi hỏi doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường. Chẳng hạn, một doanh nghiệp may muốn đưa sản phẩm của mình vào thị trường Mĩ, họ phải tổ chức lại cơ cấu sản xuất sao cho có hiệu quả nhất để sản phẩm của họ cạnh tranh được với các sản phẩm cùng loại của các đối thủ cạnh tranh, đồng thời phải thoả mãn các điều kiện mà phía Mĩ đưa ra. Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp luôn luôn phải đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. Sản phẩm đã xuất khẩu luôn gặp sự cạnh tranh mạnh mẽ của các sản phẩm cùng loại trên cùng một thị trường, nguy cơ bị mất vị thế luôn có thể sảy ra, các doanh nghiệp có sản phẩm xuất khẩu luôn phải tìm cách nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm của mình để giữ vững vị thế và tiếp tục mở rộng thị trường. Xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ kinh doanh với các bạn hàng cả trong và ngoài nước, trên cơ sở hai bên cùng có lợi, tăng doanh số và lợi nhuận đồng thời phân tán và chia sẻ rủi ro, mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng cường uy tín kinh doanh của doanh nghiệp. Một khi sản phẩm đã có vị thế trên thị trường, uy tín của doanh nghiệp sẽ được nâng cao; các khách hàng, các bạn hàng biết đến danh tiếng của doanh nghiệp ngày một nhiều; đơn đặt hàng, số lượng sản phẩm ngày một tăng. Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp có thêm mối quan hệ, thêm lợi nhuận và rủi ro cũng giảm bớt. Xuất khẩu khuyến khích việc phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp. Tăng cường xuất khẩu là mục tiêu cốt yếu của mọi doanh nghiệp xuất khẩu, để thực hiện mục tiêu này, các doanh nghiệp phải tăng cường các hoạt động như các hoạt động đầu tư, nghiên cứu thị trường, hoạt động phát triển sản xuất, marketing..., cũng như tăng cường phân phối và mở rộng trong việc cấp giấy phép. Xuất khẩu đem lại lợi nhuận cao giúp doanh nghiệp bù đắp chi phí, có lãi, tích luỹ nhằm nâng cấp xây mới cơ sở vật chất, bảo dưỡng hoặc trang bị kỹ thuật công nghệ hiện đại, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường . Như vậy, xuất khẩu có vai trò quan trọng không chỉ đối với sự tăng trưởng phát triển của nền kinh tế mà nó còn giúp bình ổn xã hội của một quốc gia đồng thời là mạnh lưu thông của nền kinh tế toàn cầu, tuy nhiên muốn phát huy vai trò của nó cần phải tìm hiểu sâu hơn ở nội dung và các hình thức xuất khẩu. II . các hình thức xuất khẩu chủ yếu Xuất khẩu là một hoạt động cơ bản của hoạt động ngoại thương, xuất hiện từ lâu đời, ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu. Hình thức cơ bản ban đầu của nó là hoạt động trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia, cho đến nay nó đã rất phát triển và được thể hiện thông qua nhiều hình thức, các hình thức đó là: 1. Xuất khẩu trực tiếp Đây là hình thức xuất khẩu trong đó bên xuất khẩu và bên nhập khẩu trực tiếp giao dịch với nhau, bên xuất khẩu trực tiếp giao hàng cho bên nhập khẩu mà không qua một khâu trung gian nào. Trước khi thực hiện giao dịch này, các bên phải làm một loạt các công việc như: gặp mặt để trao đổi hoặc thông qua thư từ, điện tín để bàn bạc và thoả thuận với nhau về hàng hoá, giá cả và các điều kiện giao hàng... Sau khi đã thoả thuận đầy đủ mọi điều khoản, các bên sẽ ký kết hợp đồng xuất khẩu. Hạn chế của hình thức xuất khẩu này là có thể làm tăng rủi ro trong kinh doanh do các doanh nghiệp chưa hiểu rõ thị trường bên ngoài, chưa nắm rõ được các thói quen kinh doanh, cũng như thị hiếu của người tiêu dùng; các rủi ro trong đàm phán và ký kết hợp đồng, rủi ro về vận tải biển, rủi ro trong giao nhận hàng. Tuy nhiên, hình thức này lại có ưu điểm là giúp cho các doanh nghiệp giảm bớt được các chi phí trung gian do đó có thể tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp. Do các doanh nghiệp có thể liên hệ trực tiếp, đều đặn với khách hàng và với thị trường nước ngoài nên có thể nắm bắt nhanh và chính xác nhu cầu, thị hiếu của khách hàng, xu hướng biến động của thị trường từ đó có thể đưa ra những chính sách linh hoạt về sản phẩm sao cho phù hợp; nhờ đó việc mở rộng thị trường cho sản phẩm sẽ thuận lợi hơn. Xuất khẩu trực tiếp thường được áp dụng ở những doanh nghiệp có nguồn vốn đủ lớn, đội ngũ cán bộ công nhân viên có năng lực và trình độ chuyên môn cao; đồng thời sản phẩm được xuất khẩu thường đã có vị thế trên thị trường trong nước và quốc tế. 2. Xuất khẩu gián tiếp Xuất khẩu gián tiếp là hình thức xuất khẩu mà trong đó việc thiết lập quan hệ giữa người bán và người mua đều phải thông qua khâu trung gian thương mại- người thứ ba- đó là các môi giới hoặc đại lý. Do quá trình trao đổi giữa người bán với người mua phải thông qua một người thứ ba nên tránh được những rủi ro gây ra từ việc không am hiểu thị trường như nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng hoặc do sự biến động của nền kinh tế.Tuy nhiên áp dụng phương thức giao dịch này, doanh nghiệp phải phụ thuộc nhiều vào các đại lý, các đại lý hoạt động có hiệu quả thì hoạt động xuất khẩu mới suôn sẻ, đồng thời doanh nghiệp phải mất một tỷ lệ hoa hồng nhất định, làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp giảm xuống. Hình thức này thường áp dụng ở những doanh nghiệp mới vươn ra thị trường nước ngoài, sản phẩm xuất khẩu thường là những sản phẩm mới hoặc những sản phẩm có tính cạnh tranh cao . 3. Xuất khẩu uỷ thác Xuất khẩu uỷ thác là hình thức mà trong đó một bên (bên có sản phẩm xuất khẩu) uỷ quyền cho một bên thứ ba đứng ra đóng vai trò là người trung gian thay mình ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương với người nhập khẩu, tiến hành các thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hoá của bên uỷ quyền. Bên uỷ quyền sẽ phải trả một khoản tiền gọi là "phí uỷ thác"(thường tính theo %giá trị lô hàng) cho bên được uỷ quyền. Hình thức này có ưu điểm là dễ áp dụng, bên có sản phẩm xuất khẩu không phải bận tâm việc đàm phán ký kết hợp đồng, các thủ tục xuất nhập khẩu; do đó tiết kiệm được thời gian, giảm rủi ro. Tuy nhiên nó có hạn chế là lợi nhuận bị chia sẻ, việc thu thập thông tin thị trường gặp khó khăn do đó khó có phản ứng linh hoạt với những biến động của thị trường, thiếu chủ động trong việc xuất khẩu sản phẩm của mình. Hình thức này được áp dụng chủ yếu ở những doanh nghiệp có tiềm lực hạn chế, chưa có chỗ đứng thật vững chắc trên thị trường hoặc không được phép xuất khẩu trực tiếp. 4. Buôn bán đối lưu Buôn bán đối lưu là một phương thức giao dịch trao đổi hàng hoá, trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng giao đi có giá trị tương xứng với lượng hàng nhận về. ở đây, mục đích của xuất khẩu không phải nhằm thu về ngoại tệ, mà nhằm thu về một lượng hàng hoá khác có giá trị tương đương. Lợi ích của buôn bán đối lưu là nhằm tránh những rủi ro về biến động tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối. Đồng thời còn có lợi khi các bên không đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình. Thêm vào đó, đối với một quốc gia buôn bán đối lưu có thể làm cân bằng hạng mục thường xuyên trong cán cân thanh toán. Tuy nhiên buôn bán đối lưu làm hạn chế quá trình trao đổi hàng hoá, việc giao nhận hàng hoá khó tiến hành được thuận lợi. Bởi nguyên tắc của buôn bán đối lưu là hàng có giá trị cao đổi lấy hàng có giá trị cao, hàng có giá trị thấp đổi lấy hàng có giá trị thấp, không phải lúc nào các bên cũng có các hàng hoá tương xứng để thực hiện việc trao đổi. Hình thức này thường áp dụng ở tầm quốc gia hoặc những tập đoàn công ty lớn, các bên tham gia thường đã có quan hệ buôn bán với nhau từ trước. 5. Gia công quốc tế Gia công quốc tế là một hình thức kinh doanh, trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên (bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm, giao lại cho bên đặt gia công và qua đó thu lại một khoản phí gọi là phí gia công. Hình thức này áp dụng chủ yếu cho các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển có nhiều tài nguyên, lao động dồi dào với giá rẻ nhưng lại thiếu vốn yếu kém về công nghệ, thị trường tiêu thụ sản phẩm. Gia công quốc tế đem lại lợi ích cho cả hai bên. Bên đặt gia công tận dụng được giá rẻ về nhân công, nguyên phụ liệu của nước gia công. Bên nhận gia công tạo được việc làm cho lao động trong nước, nhập được máy móc thiết bị, công nghệ mới. Tuy nhiên họ dễ bị phụ thuộc vào nước đặt gia công về số lượng, chủng loại, mẫu mã hàng hoá gia công và đặc biệt là dễ bị ép giá gia công. 6. Xuất khẩu tại chỗ Đây là việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ của một quốc gia cho người nước ngoài ở quốc gia đó hoặc việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ của các khu chế xuất ra thị trường nước sở tại. Đặc điểm của loại hình xuất khẩu này là hàng hoá không cần vượt ra biên giới quốc gia mà người tiêu dùng vẫn có thể mua được. Người xuất khẩu không cần phải trực tiếp ra nước ngoài để đàm phán với người nhập khẩu mà chính người nhập khẩu lại tìm đến người xuất khẩu. Và người xuất khẩu cũng không cần phải làm thủ tục hải quan, mua bảo hiểm, hay thuê phương tiện vận chuyển... do đó có thể giảm được một lượng chi phí khá lớn. 7. Xuất khẩu theo nghị định thư Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá (thường là trả nợ) được ký theo nghị định thư giữa hai chính phủ. Xuất khẩu theo nghị định thư có nhiều ưu điểm như khả năng thanh toán chắc chắn (do Nhà nước trả cho đơn vị xuất khẩu), giá cả hàng hóa tương đối cao, việc sản xuất thu mua có nhiều ưu tiên...Trên thực tế, hình thức này ít được áp dụng, chủ yếu là ở các nước XHCN trước kia. 8. Tái xuất khẩu Tái xuất khẩu là xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng hoá trước đây đã nhập khẩu, chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Ưu điểm của hình thức này là doanh nghiệp thực hiện nghiệp vụ có thể thu được lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất.Tuy nhiên nếu không được kiểm soát tốt, việc lưu chuyển hàng hoá nhập về nước tái xuất nhằm tránh thuế có thể sẽ gây thông tin nhiễu về cung cầu trên thị trường, điều này tác động trở lại các doanh nghiệp -dễ có những quyết định sai. Hình thức này được áp dụng rất phổ biến, nhất là với những nước, những doanh nghiệp chuyên kinh doanh buôn bán quốc tế. Trên đây là những hình thức xuất khẩu chủ yếu. Việc phân định này sẽ giúp cho các doanh nghiệp lựa chọn phương thức phù hợp với khả năng của chính mình sao cho đạt hiêụ quả cao nhất, tiết kiệm được chi phí, thu hồi vốn nhanh, doanh số bán hàng tăng, thị trường bán hàng được mở rộng thuận lợi trong quá trình xuất nhập khẩu của mình. Nhưng để thực hiện suôn sẻ hoạt động xuất khẩu cần phải tìm hiểu về nội dung của nó. III. nội dung của hoạt động kinh doanh xuất khẩu. 1. Nghiên cứu thị trường Thị trường, theo quan niệm của kinh tế học, là tổng thể của cung và cầu đối với một loại hàng hoá nhất định trong một không gian và thời gian cụ thể. Thị trường của doanh nghiệp là tập hợp những khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp đó, tức là những khách hàng đang mua hoặc có thể sẽ mua sản phẩm của doanh nghiệp đó. Thị trường quốc tế của doanh nghiệp là tập hợp những khách hàng nước ngoài tiềm năng của doanh nghiệp đó. Một doanh nghiệp muốn tiến hành hoạt động kinh doanh ra thị trường nước ngoài phải tiến hành việc nghiên cứu thị trường nước ngoài theo các bước: Nghiên cứu các nhân tố mang tính toàn cầu: đó là những nhân tố thuộc hệ thống thương mại quốc tế, nhằm tìm hiểu xem mức độ tự do hoá của thị trường mà doanh nghiệp tiến hành kinh doanh, là thị trường tự do thật sự hay chịu sự chi phối của các hạn chế thương mại như thuế, phi thuế…, xác định xem thị trường đó là thị trường đơn lẻ hay thuộc các liên kết kinh tế, từ đó xác định phương thức thâm nhập thị trường một cách hợp lý. Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường kinh tế : đó là việc nhà kinh doanh nghiên cứu nền kinh tế của từng nước dưói các góc độ: Thứ nhất, cấu trúc công nghiệp của nước đó là nền kinh tế tự cấp tự túc, là kinh tế xuất khẩu nguyên liệu thô, nền kinh tế đang công nghiệp hoá hay là nền kinh tế công nghiệp hoá; từ đó xác định các yêu cầu về sản phẩm và dịch vụ mà thị trường tại nước đó đang cần. Thứ hai, từ việc nghiên cứu cấu trúc công nghiệp và các nhân tố chính trị xác định mức phân phối thu nhập từ đó xác định thị trường là hấp dẫn hay kém hấp dẫn. Thứ ba, động thái kinh tế của quốc gia đó là nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao, có tốc độ tăng trưởng ổn định, có mức tăng trưởng thấp hay là nước có nền kinh tế trì trệ hoạc suy thoái; việc làm này giúp doanh nghiệp xác định tổng múc nhu cầu thì trường và tổng mức nhập khẩu sản phẩm của quốc gia nghiên cứu từ đó xác định lường sản phẩm có thể tiêu thụ được tại thị trường này. Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường chính trị- pháp luật: bao gồm thái độ đối với người kinh doanh nước ngoài, sự ổn định chính trị, sự điều tiết tiền tệ, tính hiệu lực của bộ máy chính quyền, các quy định mang tính bắt buộc về pháp luật…việc nghiên cứu này giúp doanh nghiệp nắm chắc đựơc những yếu tố ảnh hưởng bất khả kháng, xác định được rủi ro kinh doanh cũng như biết được rõ những ưu đãi của quốc gia đối với doanh nhân nước ngoài. Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường văn hoá:là việc tìm hiểu những yếu tố thuộc về văn hoá có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, việc nghiên cứu này nhằm tìm ra những điểm tương đồng cũng như sự khác biệt về văn hoá tiêu dùng, văn hoá đàm phán ký kết hợp đồng kinh doanh, từ đó giúp doanh nghiệp có quyết định chính xác về sản phẩm kinh doanh cũng như những yêu cầu trong văn hoá đàm phán ký kết hợp đồng kinh doanh. Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường cạnh tranh, là việc xác định mức độ cạnh tranh của thị trường, mức độ cạnh tranh của thị trường phụ thuộc vào số lượng các doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động trên thị trường đó và mức độ ưu đãi của chính phủ cũng như tinh thần dân tộc của khách hàng dành cho các doanh nghiệp trong nước hoặc tâm lý chuộng hàng ngoại, việc nghiên cứu các nhân tố này giúp doanh nghiệp xác định đâu là đối thủ cạnh tranh, đồng thời biết được tâm lý khách hàng, từ đó có những biện pháp phù hợp để thâm nhập thị trường. Nghiên cứu nhu cầu thị trường: nhu cầu thị trường được đánh giá qua các chỉ tiêu như tổng lượng sản phẩm có thể tiêu thụ, doanh số và lợi nhuận mà doanh nghiệp có thể hy vọng có được trên thị trường đó, xác định các chỉ tiêu này qua sơ đồ sau: Sơ đồ 1: Ước lượng doanh số dự kiến và lợi nhuận có thể thu được Dữ liệu cần thiết Nghiên cứu Dữ liệu kinh tế vĩ mô (dân số, sức mua, hoạt Tổng nhu cầu thị trường động công nghiệp…) Thông tin về cạnh tranh Ước lượng vị trí cạnh tranh của nội địa và nước ngoài …………………… doanh nghiệp và sản phẩm của nó Dự báo tổng lượng bán Có thể đạt được Phản ứng của nhu cầu nội địa với giá cả. …………………….Giá dự kiến Giá cạnh tranh Ước lượng doanh số tiềm năng Nghiên cứu cơ cấu thị trường: mỗi thị trường nước ngoài không bao giờ là thị trường thuần nhất. Nó bao gồm những nhóm khách hàng rất khác nhau về mọi đặc trưng kinh tế, dân số, xã hội và văn hoá. Vì thế nhà xuất khẩu cần phân tích tỷ mỷ cơ cấu của tập hợp khách hàng tiềm năng theo độ tuổi, giới tính, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ văn hoá, giai cấp và tầng lớp xã hội, tông giáo, các mức thu nhập, theo chủng loại sản phẩm, theo các đối thủ cạnh tranh chủ yếu và các snr phẩm cạnh tranh chủ yếu. Việc xác định các loại cơ cấu thị trường trên cho phép doanh nghiệp định vị từng đoạn thị trường mục tiêu với những tập tính tiêu dùng cụ thểnhằm xác định những đoạn thị trường có triển vọng nhất và khả năng chiếm lĩnh thị trường đó Ngoài những nội dung cơ bản trên, doanh nghiệp kinh doanh tại thị trường nước ngoài còn phải thực hiện việc nghiên cứu hành vi hiện thực, tập tính tinh thần của khách hàng; nghiên cứu cách thức tổ chức thị trường nước ngoài… 2. Lập phương án kinh doanh Trên cơ sở những kết quả của quá trình nghiên cứu tiếp cận thị trường, đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh. Phương án này là kế hoạch hoạt động của đơn vị nhằm đạt đến những mục tiêu xác định trong kinh doanh. Việc xây dựng phương án kinh doanh bao gồm các bước sau: 2.1. Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân Trong bước này, người xây dựng chiến lược cần rút ra những nét tổng quát về tình hình, phân tích thuận lợi và khó khăn trong kinh doanh. 2.2. Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu. Đây là một trong những nội dung ban đầu, cơ bản nhưng rất quan trọng và cần thiết để tiến hành hoạt động xuất khẩu. Để lựa chọn được mặt hàng mà thị trường cần, đòi hỏi doanh nghiệp phải có một quá trình nghiên cứu, phân tích có hệ thống nhu cầu thị trường. 2.3. Lựa chọn thị trường xuất khẩu. Sau khi đã lựa chọn được mặt hàng xuất khẩu, doanh nghiệp cần phải tiến hành lựa chọn thị trường xuất khẩu mặt hàng đó. Việc lựa chọn thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải phân tích tổng hợp nhiều yếu tố bao gồm cả những yếu tố vi mô cũng như yếu tố vĩ mô và khả năng của doanh nghiệp. Đây là một quá trình đòi hỏi nhiều thời gian và chi phí. 1.3. Lựa chọn bạn hàng. Lựa chọn bạn hàng căn cứ khả năng tài chính, thanh toán của bạn hàng và căn cứ vào phương thức, phương tiện thanh toán. Việc lựa chọn bạn hàng luôn theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi. Thông thường khi lựa chọn bạn hàng, các doanh nghiệp thường trước hết lưu tâm đến những mối quan hệ cũ của mình. Sau đó, những bạn hàng của các doanh nghiệp khác trong nước đã quan hệ cũng là một căn cứ để xem xét lựa chọn ở các nước đang phát triển. Các bạn hàng thường được phân theo khu vực thị trường mà tuỳ thuộc vào sản phẩm mà doanh nghiệp lựa chọn để buôn bán quốc tế, mà các quốc gia ưu tiên. 1.4. Lựa chọn phương thức giao dịch. Phương thức giao dịch là những cách thức mà doanh nghiệp sử dụng để thực hiện các mục tiêu và kế hoạch kinh doanh của mình trên thị trường thế giới. Hiện nay, có rất nhiều phương thức giao dịch khác nhau như giao dịch thông thường, giao dịch qua trung gian, giao dịch thông qua hội chợ hay triển lãm. Tuỳ vào khả năng của mỗi doanh nghiệp mà lựa chọn phương thức giao dịch sao cho đảm bảo các mục tiêu của sản xuất kinh doanh. 3. Đàm phán và ký kết hợp đồng. Đây là một khâu quan trọng trong kinh doanh xuất khẩu, vì nó quyết định đến tính khả thi hoặc không khả thi của kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả của đàm phán sẽ là hợp đồng được ký kết. Đàm phán có thể thông qua thư tín, điện tín và trực tiếp. Tiếp theo công việc đàm phán, các bên tiến hành ký kết hợp đồng xuất khẩu, trong đó, quy định người bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho người mua, còn người mua có nghĩa vụ trả cho người bán một khoản tiền ngang giá trị theo các phương tiện thanh toán quốc tế. Thông thường trong một hợp đồng xuất khẩu có những nội dung sau: a./ Phần mở đầu của hợp đồng xuất khẩu: - Số hợp đồng - Ngày và nơi ký kết hợp đồng. - Tên, và địa chỉ đầy đủ, tel, fax, đại diện của các bên. b./ Điều kiện tên hàng. c./ Điều kiện số lượng d./ Điều kiện về quy cách phẩm chất của hàng hoá. e./ Điều kiện về giá cả. f./ Điều kiện về bao bì , đóng gói , ký mã hiệu. g./ Điều kiện về cơ sở giao hàng. h./ Điều kiện về thời gian, địa điểm, phương tiện giao hàng. i./ Điều kiện về thanh toán. k./ Điều kiện bảo hành (nếu có). l./ Điều kiện về khiếu nại và trọng tài. m./ Điều kiện về các trường hợp bất khả kháng. n./ Chữ ký của các bên. Với những hợp đồng phức tạp, nhiều mặt hàng thì có thể thêm các phụ kiện là bộ phận không tách rời của hợp đồng. 4. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu, giao hàng và thanh toán. Sau khi đã ký kết hợp đồng hai bên thực hiện những gì mình đã cam kết trong hợp đồng. Với tư cách là nhà xuất khẩu, doanh nghiệp sẽ thực hiện những công việc sau: Sơ đồ 2: Trình tự các bước thực hiện hợp đồng Giục mở L/C và kiểm tra L/C Xin giấy phép xuất khẩu Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu Kiểm tra hàng hoá Uỷ thác thuê tàu Mua bảo hiểm hàng hoá Làm thủ tục hải quan Giao hàng lên tàu Làm thủ tục thanh toán Giải quyết tranh chấp (nếu có) Đây là trình tự những công việc chung nhất cần thiết để thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Tuy nhiên trên thực tế tuỳ theo thoả thuận của các bên trong hợp đồng mà người thực hiện hợp đồng có thể bỏ qua một hoặc một vài công đoạn * Giục mở L/C và kiểm tra L/C đó Trong hoạt động buôn bán quốc tế hiện nay, việc sử dụng L/C đã trở thành phổ biến hơn cả ,do lợi ích của nó mang lại. Sau khi người nhập khẩu mở L/C, người xuất khẩu phải kiểm tra cẩn thận, chi tiết các điều kiện trong L/C xem có phù hợp với những điều kiện của hợp đồng hay không. Nếu không phù hợp hoặc có sai sót thì cần phải thông báo cho người nhập khẩu biết để sửa chữa kịp thời. *Xin giấy phép xuất khẩu. Trong một số trường hợp, mặt hàng xuất khẩu thuộc danh mục nhà nước quản lý, doanh nghiệp cần phải tiến hàng xin giấy phép xuất khẩu do phòng cấp giấy phép xuất khẩu của Bộ Thương mại quản lý. *Chuẩn bị hàng xuất khẩu. Đối với những doanh nghiệp, sau khi thu mua nguyên phụ liệu sản xuất ra sản phẩm, cần phải lựa chọn, kiểm tra, đóng gói bao bì hàng hoá xuất khẩu, kẻ ký mã hiệu sao cho phù hợp với hợp đồng đã ký và phù hợp với luật pháp của nước nhập khẩu. *Kiểm định hàng hoá. Trước khi xuất khẩu, các nhà xuất khẩu phải có nghĩa vụ kiểm tra số lượng, trọng lượng của hàng hoá. Việc kiểm tra được tiến hành ở hai cấp: cơ sở và ở cửa khẩu nhằm bảo đảm quyền lợi cho khách hàng và uy tín của nhà sản xuất. * Thuê phương tiện vận chuyển. Doanh nghiệp xuất khẩu có thể tự thuê phương tiện vận chuyển hoặc uỷ thác cho một công ty uỷ thác thuê tàu. Điều này phụ thuộc vào điều kiện cơ sở giao hàng trong hợp đồng. Cơ sở pháp lý điều tiết mối quan hệ giữa các bên uỷ thác thuê tàu với bên nhận uỷ thác là hợp đồng uỷ thác thuê tàu. Có hai loại hợp đồng uỷ thác thuê tàu: Hợp đồng uỷ thác thuê tàu cả năm và hợp đồng thuê tàu chuyến. Nhà xuất khẩu căn cứ vào đặc điểm của hàng hoá để lựa chọn hợp đồng thuê tàu cho thích hợp. *Mua bảo hiểm hàng hoá. Hàng hoá trong buôn bán quốc tế thường xuyên được chuyên chở bằng đường biển, điều này thường gặp rất nhiều rủi ro, do đó cần phải mua bảo hiểm cho hàng hoá. Công việc này cần được thực hiện thông qua hợp đồng bảo hiểm. Có hai loại hợp đồng bảo hiểm: hợp đồng bảo hiểm bao và hợp đồng bảo hiểm chuyến. Khi mua bảo hiểm cần lưu ý những điều kiện bảo hiểm và lựa chọn công ty bảo hiểm. *Làm thủ tục hải quan. Hàng hoá khi vượt qua biên giới quốc gia để xuất khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Việc làm thủ tục hải quan gồm ba bước chủ yếu sau: - Khai báo hải quan: Doanh nghiệp khai báo tất cả các đặc điểm hàng hoá về số lượng, chất lượng, giá trị, tên phương tiện vận chuyển, nước nhập khẩu. Các chứng từ cần thiết, phải xuất trình kèm theo là: Giấy phép xuất khẩu, phiếu đóng gói, bảng kê chi tiết... - Xuất trình hàng hoá. - Thực hiện các quyết định của hải quan. *Giao hàng lên tàu. Trong bước này doanh nghiệp cần tiến hành các công việc sau: - Lập bản đăng ký hàng chuyên chở. - Xuất trình bản đăng ký cho người vận tải để lấy hồ sơ xếp hàng . - Trao đổi với cơ quan điều độ cảng để nắm vững ngày giờ làm hàng. Bố chí phương tiện vận tải đưa hàng vào cảng, xếp hàng lên tàu. - Lấy biên lai thuyền phó, sau đó đổi biên lai thuyền phó lấy vận đơn đường biển hoàn hảo và chuyển nhượng được, sau đó lập bộ chứng từ thanh toán. * Thanh toán. Thanh toán là bước cuối cùng của việc thực hiện hợp đồng nếu không có sự tranh chấp, khiếu nại. Trong buôn bán quốc tế, có rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau. - Phương thức chuyển tiền. - Phương thức thanh toán mở tài khoản. - Phương thức thanh toán nhờ thu. - Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Đối với nhà xuất khẩu, về phương tiện thanh toán cần phải xem xét những vấn đề sau: - Người bán muốn bảo đảm rằng, người mua có các phương tiện tài chính để trả tiền mua hàng theo đúng hợp đồng đã ký. - Người bán muốn việc thanh toán được thực hiện đúng hạn. Trên bình diện quốc tế, hai phương tiện thanh toán là nhờ thu ( D/P và D/A) và thư tín dụng (chủ yếu là L/C không huỷ ngang ) được áp dụng phổ biến hơn cả. Đến đây nếu không có sự tranh chấp và khiếu lại, một thương vụ xuất khẩu coi như đã kết thúc và doanh nghiệp lại tiến hành một thương vụ mới. III. các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng cho phép các nhà kinh doanh thấy được những gì họ sẽ phải đối mặt và đứng trước tình thế đó thì họ phải xử lý như thế nào? Tuỳ từng phạm vi nghiên cứu sẽ có các yếu tố khác nhau và mức độ ảnh hưởng khác nhau đến hoạt động xuất khẩu, cụ thể như: 1.Các yếu tố thuộc phạm vi doanh nghiệp 1.1 Tiềm lực tài chính Là một yếu tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua tổng lượng vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn. Vốn có thể là vốn tự có, vốn huy động (từ bên ngoài hoặc từ các thành viên thuộc doanh nghiệp ), vốn tích luỹ từ tỷ lệ chiết khấu hàng năm. Một doanh nghiệp có nguồn tài chính mạnh, được quản lý có hiệu quả sẽ có khả năng cung ứng tốt các nguồn hàng, có khả năng đảm nhận những đơn đặt hàng lớn, do đó khả năng chiếm lĩnh thị trường sẽ tốt hơn. Khả năng quản lý có hiệu quả các nguồn vốn trong kinh doanh của doanh nghiệp thể hiện qua các chỉ tiêu: Vốn chủ sở hữu (vốn tự có) Vốn huy động Tỷ lệ tái đầu tư về lợi nhuận Khả năng trả nợ ngắn hạn và dài hạn Các tỷ lệ về khả năng sinh lợi 1.2. Yếu tố công nghệ Công nghệ là hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật chế biến vật liệu và thông tin, nó bao gồm tất cả các kỹ năng, kiến thức, thiết bị và phương pháp sử dụng trong sản xuất, chế tạo, dịch vụ, quản lý và thông tin. Như vậy công nghệ gồm phần cứng là những yếu tố phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: nhà xưởng, máy móc thiết bị..., phần này giúp tăng năng lực cơ bắp và trí lực của con người; và phần mềm gồm: (1)phần con người là đội ngũ nhân lực có sức khoẻ, có kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm sản xuất, làm việc có trách nhiệm và năng suất cao, (2)phần thông tin gồm các dữ liệu, thuyết minh, dự án, mô tả, sáng chế, chỉ dẫn kỹ thuật, điều hành sản xuất, (3)phần tổ chức gồm những liên hệ, bố trí, sắp xếp, đào tạo đội ngũ cho các hoạt động như phân chia nguồn nhân lực, tạo mạng lưới, lập kế hoạch, kiểm tra điều hành . Công nghệ của doanh nghiệp càng hiện đại thì năng suất sản xuất, chất lượng hàng hóa càng được nâng cao; chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm giảm. Điều này làm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm và uy tín doanh nghiệp trên thị trường trong nước, khu vực và quốc tế, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường; đồng thời giúp doanh nghiệp tăng khả năng nắm bắt thông tin, việc thực hiện các hoạt động kinh doanh xuất khẩu cũng thuận tiện và có hiệu quả hơn. 1.3 . Yếu tố con người Con người là nhân tố quyết định thành bại trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Con người với cương vị là người lãnh đạo họ có trình độ về tổ chức, quản lý, điều hành doanh nghiệp hoạt động bình thường và có hiệu quả; với cương vị là người sản xuất kinh doanh họ có trình độ chuyên môn tốt có kỷ luật lao động cao khiến cho trang thiết bị trở nên có ý nghĩa. Tuy nhiên để có được điều đó con người cần phải được đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức chuyên môn, kỹ năng, kỹ xảo. Con người hay lao động trong một doanh nghiệp có trình chuyên môn tốt, kỷ luật lao động cao thì năng suất lao động của doanh nghiệp đó mới cao; năng suất lao động cao sẽ giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm uy tín doanh nghiệp giúp cho doanh nghiệp phát triển bền vững . 2. Các yếu tố thuộc phạm vi quốc gia 2.1. Các yếu tố kinh tế 2.1.1. Mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia Tuỳ thuộc vào mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế theo từng giai đoạn của mỗi quốc gia Chính phủ quốc gia đó có thể đưa ra các chính sách khuyến khích hay hạn chế xuất nhập khẩu. Chẳng hạn chiến lược phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa đòi hỏi phải khuyến khích xuất khẩu để thu ngoại tệ đáp ứng nhu cầu nhập khẩu các trang thiết bị máy móc phục vụ sản xuất; hoặc với mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước đưa ra chính sách hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng, đồng thời tìm cách đưa sản phẩm trong nước ra thị trường thế giới. . . 2.1.2. Tăng trưởng GDP và lạm phát Tăng trưởng kinh tế thường đi liền với gia tăng lạm phát, tăng trưởng dẫn đến thu nhập tăng, điều này làm cho nhu cầu tiêu dùng tăng nhanh hơn khả năng cung ứng dẫn đến giá tăng- dẫn đến lạm phát. Nếu lạm phát quá cao các nhà xuất khẩu sẽ bị thiệt họ sẽ không hứng thú trong việc sản xuất kinh doanh xuất khẩu, điều này làm cho sản xuất bị ngừng trệ hoặc thu hẹp dẫn đến tăng trưởng chậm, nếu lạm phát quá thấp sẽ không khuyến khích đầu tư sản xuât kinh doanh dẫn đến không mở rộng được quy mô sản xuất, không mở rộng được thị trường xuất khẩu. Một chính sách điều chỉnh lạm phát phù hợp từ phía chính phủ sẽ khuyến khích được sản xuất trong nước và hoạt động xuất khẩu cũng được đẩy mạnh. 2.1.3. Các chính sách liên quan đến hoạt động ngoại thương 2.1.3.1. Các chính sách thuế và phi thuế *Thuế quan: trong hoạt động xuất khẩu thuế quan là loại thuế đánh vào từng đơn vị hàng xuất khẩu. Việc đánh thuế xuất khẩu được Chính phủ ban hành nhằm quản lý xuất khẩu theo chiều hướng có lợi nhất cho nền kinh tế trong nước và mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại. Tuy nhiên, thuế quan cũng gây ra một khoản chi phí xã hội do sản xuất trong nước tăng lên không có hiệu quả và mức tiêu dùng trong nước lại giảm xuống. Nhìn chung, công cụ này thường chỉ áp dụng đối với một số ít mặt hàng nhằm hạn chế số lượng xuất khẩu và bổ sung cho nguồn thu của ngân sách. * Hạn ngạch: được coi là một công cụ chủ yếu trong hàng rào phi thuế quan, nó được hiểu như quy định của Nhà nước về số lượng tối đa của một mặt hàng hay một nhóm hàng được phép xuất khẩu trong một thời gian nhất định thông qua việc cấp giấy phép. Sở dĩ có công cụ này vì không phải lúc nào Nhà nước cũng khuyến khích xuất khẩu mà đôi khi vì quyền lợi quốc gia phải kiểm soát một vài mặt hàng hay nhóm hàng như sản phẩm đặc biệt, nguyên liệu do nhu cầu trong nước còn thiếu,... *Trợ cấp xuất khẩu: Trong một số trường hợp Chính phủ phải thực hiện chính sách trợ cấp xuất khẩu để tăng mức độ xuất khẩu hàng hóa của nước mình, tạo điều kiện cho sản phẩm có sức cạnh tranh về giá trên thị trường thế giới. Trợ cấp xuất khẩu sẽ làm tăng giá nội địa của hàng xuất khẩu, giảm tiêu dùng trong nước nhưng tăng sản lượng và mức xuất khẩu. 2.1.3.2. Chính sách về tỷ giá hối đoái và lãi suất ngân hàng Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ của nước kia. Chính sách về tỷ giá hối đoái là một công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế hết sức nhạy cảm nhất là đối với hoạt động xuất khẩu, việc điều chỉnh tỷ giá giữa đồng tiền trong nước và nước ngoài sao cho có lợi cho nhà xuất khẩu sẽ khuyến khích được xuất khẩu và ngược lại, tuy nhiên tỷ giá hối đoái như con dao hai lưỡi nhiều khi nó lại có tác động tiêu cực: chẳng hạn làm đội giá nguyên vật liệu nhập khẩu gây khó khăn cho nhà sản xuất, làm lệch mục tiêu của nhà hoạch định chính sách. Lãi suất cũng là yếu tố có tác dụng không nhỏ đến hoạt động xuất khẩu, chính sách dữ bình ổn lãi suất sẽ tạo tâm lý tốt cho các nhà đầu tư vào sản xuất kinh doanh xuất khẩu, nhất là với những mặt hàng cần huy động vốn lớn. 2.2. Yếu tố xã hội Hoạt động của con người luôn luôn tồn tại trong một điều kiện xã hội nhất định. Chính vì vậy, các yếu tố xã hội ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của con người. Các yếu tố xã hội là tương đối rộng, do vậy để làm sáng tỏ ảnh hưởng của yếu tố này ta có thể nghiên cứu ảnh hưởng của yếu tố văn hóa, đặc biệt là trong ký kết hợp đồng. Nền văn hóa tạo nên cách sống của mỗi cộng đồng sẽ quyết định cách thức tiêu dùng, thứ tự ưu tiên cho nhu cầu mong muốn được thoả mãn và cách thoả mãn của con người sống trong đó. Điều này có nghĩa là các nhà xuất khẩu luôn luôn phải quan tâm tìm hiểu những đặc điểm văn hóa riêng có ở mỗi thị trường mà mình tiến hành hoạt động xuất khẩu, nhằm thâm nhập và mở rộng thị trường một cách có hiệu quả. Văn hoá trong ký kết hợp đồng ở mỗi quốc gia cũng rất khác nhau, các nhà xuất khẩu cần phải biết điều này để việc đàm phán và ký kết hợp đồng được thuận lợi, có hiệu quả. 2.3. Yếu tố chính trị, luật pháp Các yếu tố chính trị pháp luật ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất khẩu. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất khẩu đều phải tuân thủ các quy định của các Chính phủ có liên quan, tập quán và luật pháp quốc gia, quốc tế: Các quy định của luật pháp quốc gia xuất khẩu đối với hoạt động xuất khẩu (thuế, thủ tục quy định về mặt hàng xuất khẩu, quy định quản lý về ngoại tệ...) Các hiệp ước, hiệp định thương mại mà quốc gia xuất khẩu tham gia Các quy định nhập khẩu của các quốc gia mà doanh nghiệp có quan hệ làm ăn Các vấn đề pháp lý và tập quán quốc tế có liên quan tới việc xuất khẩu (ví dụ Công ước Viên 1980; Incoterm 1990,2000....) Ngoài những vấn đề nói trên, chính phủ còn thực hiện các chính sách ngoại thương khác như: hàng rào phi thuế quan, ưu đãi thuế quan... Chính sách ngoại thương của Chính phủ trong mỗi thời kỳ thường có sự thay đổi. Sự thay đổi đó có thể là những bất lợi lớn đối với các nhà kinh doanh xuất khẩu. Vì vậy, họ phải nắm được chiến lược phát triển kinh tế của đất nước để biết được xu hướng vận động của nền kinh tế và sự can thiệp của Nhà nước. 2.4. Điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng và các dịch vụ liên quan đến hoạt động xuất khẩu * Điều kiện tự nhiên : Đặc điểm về khí hậu ở những thị trường khác nhau sẽ quyết định đặc điểm riêng của sản phẩm xuất khẩu, chẳng hạn một sản phẩm kim loại được sản xuất, sử dụng ở vùng khí hậu khô chắc chắn sẽ không phù hợp với khí hậu nhiệt đới, một sản phẩm sơn sử dụng trong điều kiện bình thường sẽ không bền nếu được sử dụng trong môi trường nước biển,... Điều này kéo theo một loạt các điều khoản quy định cụ thể với mỗi loại sản phẩm xuất khẩu trong hợp đồng ngoại thương. Khoảng cách địa lý giữa các Bên tham gia hợp đồng ngoại thương sẽ ảnh hưởng đến chi phí vận tải, tới thời gian thực hiện hợp đồng vận tải, tới thời gian thực hiện hợp đồng, thời điểm ký kết hợp đồng; do vậy nó ảnh hưởng tới việc lựa chọn nguồn hàng, mặt hàng xuất khẩu, lựa chọn thị trường tiêu thụ. Điều kiện bất khả kháng như bão, động đất... có thể ảnh hưởng đến việc sản xuất, thực hiện hợp đồng xuất khẩu, hạn chế giao dịch buôn bán. * Cơ sở hạ tầng và các dịch vụ liên quan đến hoạt động xuất khẩu Các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu, bao gồm: Hệ thống giao thông đặc biệt là hệ thống cảng biển: mức độ trang bị, hệ thống xếp dỡ, kho tàng... Hệ thống cảng biển nếu hiện đại sẽ giảm bớt thời gian bốc dỡ, thủ tục giao nhận cũng như đảm bảo an toàn cho hàng hóa xuất khẩu. Hệ thống ngân hàng: Sự phát triển của hệ thống ngân hàng cho phép các nhà kinh doanh xuất khẩu thuận lợi trong việc thanh toán, huy động vốn. Ngoài ra ngân hàng là một nhân tố đảm bảo lợi ích cho nhà kinh doanh bằng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Hệ thống bảo hiểm, kiểm tra chất lượng hàng hóa cho phép các hoạt động xuất khẩu được thực hiện một cách an toàn hơn, đồng thời giảm bớt được mức độ thiệt hại khi có rủi ro xảy ra... 3. ảnh hưởng của xu hướng biến động về mối quan hệ kinh tế -xã hội thế giới Trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa thì sự phụ thuộc giữa các nước ngày càng tăng. Mỗi biến động của tình hình kinh tế- xã hội trên thế giới đều ít nhiều trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến nền kinh tế trong nước. Hoạt động xuất khẩu hơn bất cứ một hoạt động nào khác bị chi phối mạnh mẽ nhất, bởi đây là hoạt động chủ yếu trong giao lưu kinh tế giữa các nước với nhau giữa các thành viên trong khu vực và giữa các khu vực với nhau. Khi xuất khẩu hàng hóa từ nước này sang nước khác, người xuất khẩu thường phải đối mặt với các hàng rào thuế quan, phi thuế quan. Mức độ lỏng lẻo hay chặt chẽ của các hàng rào này phụ thuộc chủ yếu vào quan hệ kinh tế song phương giữa hai nước nhập khẩu và xuất khẩu. Ngày nay, đã và đang hình thành rất nhiều liên kết kinh tế ở các mức độ khác nhau, nhiều hiệp định thương mại song phương, đa phương được ký kết với mục tiêu đẩy mạnh hoạt động thương mại quốc tế. Những quốc gia tham gia vào các liên kết kinh tế này hoặc kí kết các hiệp định thương mại thì sẽ gặp nhiều thuận lợi trong hoạt động xuất khẩu của mình. Ngược lại, đó chính là rào cản đối với việc thâm nhập vào thị trường khu vực đó. Tất cả những yếu tố trên đây có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động xuất khẩu nói chung, những yếu tố này ngày càng đa dạng, phức tạp, tác động ngày càng nhiều chiều đến hoạt động xuất khẩu theo đà phát triển của hoạt động ngoại thương nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Dưới đây sẽ đề cập đến đặc điểm riêng có của ngành dệt may. V. tình hình sản xuất và buôn bán hàng dệt may trên thế giới 1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ hàng dệt may trên thị trường thế giới (Các số liệu sử dụng trong mục này được sưu tập từ trung tâm thông tin thương mại –Bộ thương Mại, 91 Đinh Tiên Hoàng và Hiệp hội hàng dệt may Việt Nam ) 1.1. Tình hình sản xuất Từ những năm 1990 đến nay, tổng sản lượng sợi dệt của toàn thế giới liên tục tăng với tốc độ trung bình hàng năm là 2%/năm. Ngành công nghiệp dệt may chủ yếu tập trung ở hai khu vực chính là Châu á và Châu Âu. Năm 1997, hai khu vực này đã chiếm tới hơn 76,6% sản lượng sợi dệt toàn cầu. Châu á: Khu vực Châu á chiếm khoảng 60% sản lượng, thu hút hơn nửa số lao động trong ngành dệt may thế giới. Trong giai đoạn 1980 - 1996, sản xuất sợi dệt toàn cầu tăng bình quân 2,7%/năm, sản xuất của khu vực Châu á tăng 5%/năm. Trung Quốc là một điển hình nổi bật cho sự phát triển của ngành dệt, may Châu á. Giai đoạn 1985 - 1994, ngành dệt có tốc độ phát triển trung bình hàng năm là 13,5%, ngành may là 21,6%. Trung Quốc có sản lượng sợi bông, vải bông, vải tơ tằm, hàng dệt kim và quần áo đang giữ vị trí đứng đầu, xơ hoá học và vải len chiếm vị trí thứ hai trên thế giới. Sản lượng bông của Trung Quốc niên vụ 2000 - 2001 đạt 19,6 triệu kiện (480 pao/kiện). Châu Âu: Ngành dệt Châu Âu có sức cạnh tranh tốt nhất trên thị trường thế giới thời kỳ 1980 - 1990, đặc biệt là Đức và ý. Nhưng từ những năm 90, ngành dệt may Châu Âu đã suy giảm đáng kể cả về khối lượng sản xuất và thị phần. Năm 1980, sản xuất sợi dệt của Châu Âu Chiếm 30,0% trong tổng sản lượng sợi toàn cầu, năm 1990 giảm xuống còn 24,8%, năm 1997 chỉ còn 17,1%. ở các nước EU, tốc độ phát triển của ngành dệt đang giảm dần. Sản lượng sợi dệt năm 1997 có tăng so với 1996 nhưng sản xuất hàng may mặc vẫn tiếp tục giảm 5,1% và lao động ngành dệt may giảm 1,2%. ở các nước Trung Đông và Đông Âu, do kinh tế không ổn định trong thời kỳ chuyển đổi nên sản lượng hàng dệt may sụt giảm liên tục. Năm 1996, sản lượng vải và sợi dệt ở các nước Ba Lan, Cộng hoà Séc và Hungary chỉ bằng một nửa sản lượng mà họ sản xuất trong năm 1998. Nhưng sản xuất hàng may đã khởi sắc, một phần nhỏ chiến lược đầu tư sang khu vực này của EU. Châu Mĩ: Mĩ và Mexicô là những nước có ngành công nghiệp dệt khá phát triển. Ngành dệt Mĩ phát triển mạnh từ những năm 70 và trong hai thập kỷ gần đây đã có những thay đổi căn bản về công nghệ và thông tin nhằm phát triển sản xuất một cách có hiệu quả, hàng năm ngành đầu tư khoảng 3 tỷ USD để duy trì các thiết bị sản xuất hiện đại. Nếu lấy tốc độ phát triển ngành dệt năm 1990 của Mĩ là 100% thì năm 1995 là 116,0% và năm 1996 là 114,6%. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây các công ty sợi, dệt và may Mĩ đang gặp phải khó khăn. Cho dù giá trị bán hàng của 20 nhà sản xuất dệt may chính tăng 8,2% năm 2000, nhưng lợi nhuận kiếm được đã giảm 8,1%. Công nghiệp dệt năm 2000 kết thúc trong tình trạng báo động, và theo Viện các nhà sản xuất dệt Mĩ, lần đầu tiên toàn ngành đã thua lỗ kể từ hơn 50 năm qua. 1.2. Tình hình tiêu thụ Từ những năm 1950, khối lượng sợi dệt tiêu thụ toàn thế giới liên tục tăng cùng với tốc độ tăng dân số và nhìn chung, tốc độ tăng trưởng của tiêu thụ hàng dệt, may gắn liền với tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới. Tiêu thụ sợi dệt trên toàn cầu có tốc độ tăng trung bình hàng năm 2,5% trong thời kỳ 1975 - 1995, đạt mức 41,3 triệu tấn vào năm 1995. Tuy nhiên, mức tăng trung bình hàng năm giảm xuống 1,5% năm trong các năm 1990 - 1995. Mức tiêu thụ hàng dệt may bình quân của người dân ở Châu Âu và Bắc Mĩ cao nhất thế giới, nhưng Châu á là khu vực dẫn đầu thế giới về tiêu thụ sợi dệt, tuy nhiên mức cung ứng sợi dệt và quần áo vẫn còn lớn hơn rất nhiều so với mức tiêu thụ. Tóm lại: Sản xuất và tiêu thụ sợi dệt trên toàn cầu liên tục tăng nhưng nhịp độ đã giảm so với những năm trước đây, sản xuất tăng với tốc độ cao hơn tăng tốc độ tiêu dùng dẫn đến tình trạng cung lớn hơn cầu. Dư thừa chủ yếu là do khu vực Châu á. Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng các loại sợi dệt đang có sự thay đổi, các loại vải sợi tổng hợp đang có xu hướng tăng nhanh cả về nhịp độ và tỷ trọng trong tổng khối lượng tiêu thụ và sản xuất trên toàn cầu. Ngược lại, các loại vải sợi tự nhiên đang suy giảm do hạn chế về nguồn cung ứng. Công nghiệp dệt may của Châu á đang phát triển mạnh hơn so với các khu vực khác và chiếm tỷ trọng lớn trong sản xuất và tiêu thụ hàng dệt may của thế giới, các quốc gia ở Châu á đang có nhiều lợi thế so sánh trong sản xuất hàng dệt may. Ngược lại, sản xuất ở Châu Âu đang suy giảm và ở khu vực này đang diễn ra quá trình chuyển dịch sản xuất từ Tây Âu sang các nước ngoài khu vực và sang các nước Đông, Trung Âu để tận dụng chi phí sản xuất thấp. Tình hình buôn bán hàng dệt, may thế giới (Các số liệu sử dụng trong mục này được sưu tập từ trung tâm thông tin thương mại –Bộ thương Mại, 91 Đinh Tiên Hoàng và Hiệp hội hàng dệt may Việt Nam ) Kim ngạch buôn bán hàng dệt may của thế giới đạt khoảng 300 - 350 tỉ USD/năm, chiếm hơn 6% tổng kim ngạch mậu dịch toàn thế giới. Trị giá buôn bán quốc tế hàng dệt, may liên tục tăng qua các năm nhưng nhịp độ tăng bình quân thời kỳ 1990 - 1995 (8%/năm) đã giảm so với thời kỳ 1985 - 1990 (hàng dệt: 15%/năm; hàng may mặc: 17%/năm). Châu á, Tây Âu và Bắc Mĩ là ba trung tâm buôn bán chính hàng dệt, may, chiếm khoảng 80 - 90% kim ngạch xuất nhập khẩu của thế giới. Các nước xuất khẩu hàng dệt, may chủ yếu: ở khu vực Châu á, kinh doanh hàng dệt may có tốc độ tăng trưởng cao, gấp khoảng 2 lần tốc độ tăng trưởng của toàn thế giới. Trị giá xuất khẩu hàng dệt và may mặc của khu vực Châu á lớn nhất thế giới chiếm 45% tổng giá trị xuất khẩu hàng may mặc và 43% xuất khẩu hàng dệt của toàn thế giới. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu ngoại vùng của Châu á đang giảm dần do buôn bán nội vùng ở hai thị trường lớn của Châu á là Bắc Mĩ và Tây Âu đang ngày càng tăng. Kể từ đầu những năm 90, Trung Quốc luôn là một trong những nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu hàng dệt và may mặc, kim ngạch xuất khẩu chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng kim ngạch buôn bán hàng dệt may toàn cầu với kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2000 gần 52 tỷ USD chiếm 20% thị phần hàng dệt may thế giới. Những thị trường xuất khẩu chính của Trung Quốc là Hồng Kông, Nhật Bản, Mĩ và EU. Bốn thị trường chính này chiếm hơn 75% tổng giá trị xuất khẩu của Trung Quốc. Hồng Kông: cũng là nhà xuất nhập khẩu hàng dệt may lớn. Hiện nay, Hồng Kông có trên 4000 doanh nghiệp kinh doanh hàng dệt may, là đầu cầu lớn nhất cung cấp hàng dệt may cho thị trường Mĩ và Châu Âu với trị giá khoảng 36 - 37 tỉ USD/năm. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng tái xuất có giá trị gia tăng cao và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may của Hồng Kông. Thị trường xuất khẩu chính của Hồng Kông là Mĩ, EU và Trung Quốc. ở các nước Trung và Đông Âu, từ năm 1993 trở lại đây, kim ngạch nhập khẩu hàng dệt và xuất khẩu hàng may tăng lên rõ rệt, đặc biệt là các nước Ba Lan, Hungary, Rumani. Phần lớn hàng may mặc là hàng đặt may gia công được xuất khẩu trở lại EU và Mĩ. Thổ Nhĩ Kỳ đang dần khẳng định vị trí của mình trong thị trường dệt may thế giới. Từ cuối những năm 1980, xuất khẩu hàng dệt, may của Thổ Nhĩ Kỳ tăng lên nhanh chóng, chủ yếu là vải và quần áo. Trong giai đoạn 1990 - 1995, xuất khẩu hàng may mặc tăng với tốc độ 12,9%/năm. EU là thị trường lớn nhất của Thổ Nhĩ Kỳ về hàng may mặc, khoảng 73% của năm 1996. Tháng 1/1996, EU và Thổ Nhĩ Kỳ đã vào Liên minh hải quan nên trong tương lai EU vẫn tiếp tục là thị trường chính của Thổ Nhĩ Kỳ. Các nước chủ yếu nhập khẩu hàng dệt, may: Nhật Bản là nước lớn nhất Châu á, thứ ba thế giới về nhập khẩu hàng may mặc phục vụ cho tiêu dùng nội địa, nhịp độ tăng của hàng may mặc nhập khẩu khá cao, bình quân 17%/năm trong giai đoạn 1990 - 1996. Từ năm 1996, nhập khẩu quần áo bắt đầu chững lại và chỉ tăng 5% so với năm 1995 và giảm 14,3% trong năm 1997 chỉ đạt 16727 triệu USD. Nhật Bản nhập khẩu hàng may mặc từ Trung Quốc, Italia, Mĩ, Hàn Quốc... Nhập khẩu từ các nước Châu á tăng liên tục: thị phần của khu vực Châu á tăng từ 80,9% năm 1995 lên 82,2% năm 1997, chủ yếu là do nhập khẩu từ Trung Quốc tăng. Các nước EU đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng dệt may, đặc biệt là hàng may mặc với kim ngạch nhập khẩu hàng may năm 1997 đạt 80429 triệu USD và kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may đạt 54060 triệu USD. Nhập khẩu hàng may mặc của EU chiếm 45 - 46% trong tổng giá trị nhập khẩu của thế giới trong khi hàng dệt chỉ chiếm 34 - 35%. Tỷ trọng hàng dệt may nhập khẩu so với toàn thế giới đang giảm dần: 52,4% năm 1990 xuống 40,4% năm 1997. EU nhập khẩu nhiều nhất từ Châu á. Tuy nhiên, cơ cấu thị trường nhập khẩu của EU đã có thay đổi. Hàng dệt, may nhập khẩu từ Châu á đang có xu hướng giảm, ngược lại nguồn nhập khẩu từ các nước Trung - Đông Âu, từ Bắc Mĩ và Châu Phi lại có xu hướng tăng lên. Các nước Bắc Mĩ là những nhà nhập khẩu hàng dệt may lớn, đặc biệt là hàng may mặc, chiếm gần 30% khối lượng nhập khẩu toàn cầu. Hàng dệt may xuất khẩu từ các nước Châu á chiếm trên 60% trị giá nhập khẩu của Bắc Mĩ năm 1996. Tuy nhiên, thị phần của các nước Châu á tại Bắc Mĩ đang giảm dần: từ 65,7% năm 1994 xuống còn 61% năm 1996 ở Mĩ; từ 64,6% năm 1995 xuống 63,4% năm 1996 ở Canada. Ngược lại, thị phần của các nước trong khối đang mạnh dần lên: xuất khẩu của các nước thuộc NAFTA sang Canada tăng từ 18,5% năm 1995 lên 21,8% năm 1997. Hàng dệt may là mặt hàng nhập khẩu lớn thứ tư của Mĩ. Từ năm 1990, tỷ trọng hàng dệt may nhập khẩu vào thị trường Mĩ trong tổng giá trị nhập khẩu của thế giới vẫn tiếp tục tăng. Năm 1997, tổng giá trị nhập khẩu hàng dệt may của Mĩ là 62,760 tỷ USD, năm 2001 là 70,239 tỷ USD. Tóm lại: Xu hướng tăng cường buôn bán nội khu vực đang tiếp tục phát triển cùng quá trình liên minh kinh tế ngày càng chặt chẽ giữa các nước trong một khu vực (NAFTA, EU). Và sự xuất hiện các nhà sản xuất mới ở Trung và Đông Âu, Thổ Nhĩ Kỳ đã làm thay đổi cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu. Xu hướng này gây sức ép cạnh tranh lớn, gây khó khăn hơn cho các nước xuất khẩu từ bên ngoài và các nước xuất khẩu truyền thống của Mĩ và EU, đặc biệt các nước xuất khẩu từ Châu á. 3. Quá trình tự do hoá buôn bán toàn cầu hàng dệt may và những tác động tới buôn bán hàng dệt may thế giới 3.1. Quá trình tự do hoá buôn bán quốc tế hàng dệt may Từ những năm 30, các hạn chế về số lượng trong buôn bán dệt may đã được Mĩ và một số nước phương Tây áp đặt để hạn chế nhập khẩu hàng dệt may. Năm 1961, hàng dệt may bắt đầu được xem xét môt cách chính thức bên ngoài các qui định thông thường của GATT bằng các thoả thuận ngắn và dài hạn về sợi bông và sau đó (năm 1974) là Hiệp định Đa sợi (Multi Fibre Arrangement - MFA). Theo MFA, các nước nhập khẩu có thể thông qua các thoả thuận song phương hoặc trong trường hợp không đi đến thỏa thuận song phương có thể đơn phương thiết lập hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may đối với từng nước xuất khẩu và tốc độ tăng của hạn ngạch thay đổi tuỳ theo mỗi nước. Năm 1994, trong khuôn khổ vòng đàm phán Uruguay của tổ chức thương mại thế giới, Hiệp định về hàng dệt may (Agreement on Textile and Clothing- ATC) ra đời thay thế cho MFA và là hiệp định quốc tế chính bao trùm trong lĩnh vực dệt may. Theo quy định của ATC, quá trình tự do hoá buôn bán các sản phẩm dệt may sẽ trải qua một giai đoạn chuyển tiếp, bắt đầu từ 01/01/1995 và được thực hiện theo hai nội dung chính: Hàng dệt may hội nhập dần dần vào các quy định thông thường của GATT, quá trình này bao gồm 4 giai đoạn: - Ngày 01/01/1995 hội nhập không dưới 16% khối lượng hàng hóa nhập khẩu trong năm 1990 theo bản danh mục hàng hoá của Hiệp định. - Ngày 01/01/1998 hội nhập không dưới 17% tiếp theo của khối lượng hàng hoá nhập khẩu. - Ngày 01/01/2002, hội nhập không dưới 18% tiếp theo của khối lượng hàng hoá nhập khẩu. - Ngày 01/01/2005 tất cả số hàng hoá còn lại phải được hội nhập, các hạn chế theo MFA sẽ được loại bỏ hoàn toàn. Trong từng giai đoạn, mỗi nước nhập khẩu có quyền lựa chọn bất cứ sản phẩm nào trong 4 loại: sợi, vải, sản phẩm dệt và quần áo để đưa vào danh sách hội nhập. Các sản phẩm này không nhất thiết phải giống nhau ở mỗi nước nhập khẩu. Thông thường các sản phẩm được chọn lựa là những sản phẩm ít nhạy cảm. Gia tăng tốc độ tăng hạn ngạch đối với những sản phẩm còn bị hạn chế. Hiệp định đưa ra một công thức gia tăng tốc độ tăng trưởng hạn ngạch đối với các sản phẩm còn bị hạn chế theo các thoả thuận song phương trước đây của MFA. Trong giai đoạn 1 (từ 1995 đến hết 1997) đối với mỗi hạn chế song phương, mức tăng trưởng hạn ngạch sẽ không dưới 16%, là mức cao hơn so với mức gia tăng theo MFA. Trong giai đoạn 2 (từ 1998 đến hết 2001), mức tăng trưởng phải là 25%, cao hơn mức tăng ở giai đoạn 1. Giai đoạn 3 (từ 2002 đến hết 2004) mức tăng trưởng phải là 27%, cao hơn mức tăng trưởng giai đoạn 2. Các hạn chế không phải của MFA và không được điều chỉnh theo GATT phải được đưa vào để phù hợp với GATT hoặc bị loại bỏ luỹ tiến trong một thời hạn không vượt quá thời hạn của Hiệp định, tức là vào năm 2005. Trong thời kỳ chuyển đổi, Hiệp định cũng cho phép các nước thành viên có thể áp dụng các biện pháp tự vệ tạm thời đối với các sản phẩm chưa chịu sự điều tiết của Hiệp định. Tuy nhiên, cần phải chứng minh rằng các sản phẩm này đang được nhập khẩu với một khối lượng lớn làm thiệt hại nghiêm trọng hay đe doạ làm thiệt hại sản xuất các sản phẩm tương tự ở trong nước. 3.2. ảnh hưởng của atc đến buôn bán hàng dệt may Khi đánh giá những tác động của ATC tới sản xuất và buôn bán hàng dệt may chỉ so sánh do loại bỏ MFA với những gì có thể xảy ra nếu như không có cải cách. 3.2.1. ảnh hưởng của loại bỏ MFA Do loại bỏ MFA, sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may ở hầu hết các nước xuất khẩu đều tăng. Xuất khẩu từ các nước bị hạn chế theo MFA tới các nước áp đặt hạn ngạch sẽ tăng 26% đối với hàng may mặc và 10% đối với hàng dệt. Tăng trưởng xuất khẩu sẽ làm tăng GDP, đặc biệt là ở các nước mà ngành công nghiệp dệt may giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Việc loại bỏ MFA sẽ làm tăng cơ hội xuất khẩu cho tất cả các nước. Trong khi Bắc Mĩ và EU vẫn là thị trường nhập khẩu lớn của thế giới ở thế kỷ 21 thì bản thân các nước xuất khẩu khác cũng sẽ là một thị trường rộng lớn. 3.2.2. ảnh hưởng của gia tăng tốc độ tăng hạn ngạch Phải bắt đầu từ giai đoạn 2 và chủ yếu từ giai đoạn 3, hầu hết các hạn ngạch đều tăng đáng kể. Tốc độ tăng hạn ngạch ban đầu có vai trò quan trọng quyết định mức độ mở rộng hạn ngạch. Nếu nước nào có tỷ lệ tăng hạn ngạch ban đầu cao hơn thì khối lượng hạn ngạch gia tăng nhanh hơn. Tăng hạn ngạch tác động đến xuất khẩu lớn hơn nhiều so với sản xuất, đặc biệt là đối với các nước xuất khẩu nhỏ. Vì tỷ lệ xuất khẩu tương đối nhỏ trong tổng sản lượng nên tăng xuất khẩu chỉ tác động phần nào đến phát triển sản xuất nói chung. Xuất khẩu tăng tất yếu sẽ làm tăng GDP nhưng mức tăng không lớn. 3.2.3. Điều chỉnh chính sách công nghiệp và thương mại Như đã phân tích ở trên, ATC sẽ có những tác động tích cực đến sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may của toàn thế giới và ở từng nước tuỳ theo mức độ riêng biệt. Tuy nhiên, để có thể phát huy hết tiềm lực của từng nước trong điều kiện mới của ATC, việc điều chỉnh các chiến lược, chính sách công nghiệp và thương mại sao cho phù hợp là rất cần thiết, đặc biệt là các nước đang phát triển: ở các nước đang phát triển có mức thu nhập thấp, công nghiệp dệt may đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá. Trong điều kiện mới, thế mạnh về nguồn lao động, chi phí tương đối thấp vẫn là những thuận lợi lớn để các nước này tiếp tục tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may. Tuy nhiên, cũng phải tìm ra một cách kết hợp tối ưu về cơ cấu hàng hoá xuất khẩu tuỳ theo lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh tương ứng với từng nước. Cơ sở hạ tầng - đường bộ, đường sắt, cảng, phương tiện thông tin, dịch vụ công cộng cũng rất quan trọng đối với cạnh tranh trong xuất khẩu. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, phải có nền tảng cơ sở vững chắc trước khi muốn tăng trưởng xuất khẩu. Loại bỏ MFA sẽ khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài. Sản xuất sẽ được cải thiện nếu như các nước cùng cam kết xoá bỏ rào cản bằng các chính sách minh bạch và hài hoà cùng môi trường kinh tế cởi mở đối với các hoạt động đầu tư nước ngoài. Bên cạnh việc thực hiện cải cách MFA một cách nghiêm ngặt còn cần có biện pháp hạn chế việc tiếp tục duy trì bảo hộ dưới các hình thức khác như Luật về xuất xứ của Mĩ và Luật thuế về chống bán phá giá của EU... Hơn nữa, mặc dù sau vòng đàm phán Urugoay mức thuế đối với hàng dệt may đã được thoả thuận giảm bớt nhưng nhìn chung thuế quan về dệt may vẫn cao hơn nhiều so với các hàng hoá công nghiệp. Trong khi mức thuế đối với hàng công nghiệp được các nước phát triển cam kết giảm khoảng 40% thì thuế đối với hàng dệt may chỉ giảm 22%. Các nước xuất khẩu cần cố gắng phối hợp với nhau thông qua WTO để giảm hàng dệt may xuống tương đương với các hàng hóa khác. Khi xu hướng hội nhập ngày càng tăng thì một vấn đề quan trọng và cần thiết nữa là các nước cần phải cam kết tự do hoá thương mại và mở của thị trường đồng thời thực hiện các chính sách nội địa phù hợp để tăng cường tiềm lực xuất khẩu. Chương II Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may việt nam vào thị trường Mĩ, giai đoạn 1997-2002 I. tình hình sản xuấtvà xuất khẩu hàng dệt may của việt nam, giai đoạn 1997-2002 1. Thực trạng sản xuất của ngành dệt may, giai đoạn 1997-2002 1.1. Năng lực sản xuất của ngành dệt may Ngày 6-9-1995 Tổng công ty dệt may Việt Nam (VINATEX) được thành lập trên cơ sở sáp nhập Tổng công ty dệt và Tổng công ty may trước đây. Đây là một mốc quan trọng trong tiến trình phát triển của ngành dệt may Việt Nam. Hiện nay, VINATEX có trên 40 doanh nghiệp trực thuộc chiếm 30,6 %về sản lượng; 28% về kim ngạch xuất khẩu và 6,3%lao động của toàn ngành.Tổng công ty dệt may Việt Nam với chức năng quản lý nhà nước đối với ngành dệt may có nhiệm vụ tăng cường, tích luỹ, tập trung nguồn lực; phân công chuyên môn hoá và hợp tác kinh doanh, tạo cho các doanh nghiệp may phát huy được năng lực của mình.Tiếp đó ngày 14-11-1999, Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS) ra đời đáp ứng lòng mong mỏi của các doanh nghiệp. Từ đó các doanh nghiệp dệt may có một tổ chức thống nhất nhằm bảo vệ quyền lợi cho họ, tránh tình trạng dẫm chân lên nhau, chèn ép nhau tự mình làm hại mình như trước đây. Ngoài ra, VITAS còn hỗ trợ các doanh nghiệp về thông tin, về đầu tư, chuyển giao công nghệ, về thị trường và đào tạo nguồn nhân lực,... Hiện nay, toàn ngành dệt may Việt Nam có khoảng 822 doanh nghiệp dệt may, trong đó doanh nghiệp quốc doanh là 231, doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 370 và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 221, với năng lực: Về thiết bị có 1.050.000 cọc kéo sợi, 14.000 máy dệt vải, 450 máy dệt kim, và 190.000 máy may; về lao động thu hút khoảng 1.600.000 lao động, chiếm khoảng 25% lực lượng lao động công nghiệp; về thu hút đầu tư nước ngoài tính đến hết năm 2001 có khoảng 180 dự án sợi- dệt-nhuộm- đan len –may mặc còn hiệu lực với số vốn đăng ký đạt gần 1,85tỷ USD, trong đó có 130 dự án đã đi vào hoạt động, tạo việc làm cho trên 50.000 lao động trực tiếp và hàng ngàn lao động gián tiếp, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã chiếm trên 30% giá trị sản lượng hàng dệt và trên 25% giá trị hàng may của cả nước (theo tạp chí Phát triển kinh tế (TC PTKT) tháng 5 năm 2002). Năng lực của toàn ngành thể hiện ở giá trị sản xuất công nghiệp dệt may qua các năm ( xem bảng 1). Số liệu bảng 1 cho biết các doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo ở ngành dệt, nếu năm 1995 khu vực này đạt giá trị sản lượng 3509 tỷ đồng (chiếm 56,81% tổng giá trị sản lượng toàn ngành), năm 1997 là 55,38%, năm 1998 là 50,29%, năm 1999 là 54,30%, năm 2000 là 50,57%, đến năm 2001 con số này vẫn ở mức 48,45%; thứ nhì là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng trung bình cả giai đoạn là 24,08% và ổn định; sau cùng là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với con số tương đương là 23,42% và có xu hướng tăng. Trong khi đó ở ngành may thì các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có vị trí quan trọng hơn mặc dù có xu hướng giảm, năm 1995 ngành này đạt giá trị sản lượng 1388,6 tỷ đồng (chiếm 47.07% tổng giá trị toàn ngành ), năm 1997 chiếm 45,05%, năm 1998 là 44,46%, năm 1999 là 43,45%, năm 2000 là 43,30% và năm 2001 là 43,19%; sau đó là các doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nước có xu hướng giảm chiếm 34,75%, 34,48%, 32,66%, 33,26%, 31,88% và 31,725 lần lượt ở các năm 1995, 1997, 1998, 1999, 2000, 2001; đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lại có xu hướng tăng, chiếm tương tự ở các năm về giá trị sản lượng là 18,17% , 20,48% , 22,68% , 23,29%, 24,82% và 25,09%. Nguyên nhân dẫn đến thực tế trên cần phải kể đến như sau: Đối với ngành dệt, các doanh nghiệp nhà nước nhờ có vốn lớn nên có thể trang bị thêm cơ sở vật chất kỹ thuật, đầu tư theo chiều sâu, cải tiến công nghệ , nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như tiếp cận với thị trường xuất khẩu thế giới mà không Bảng1: Giá trị sản xuất công nghiệp dệt may theo khu vực sản xuất (Giá so sánh 1994) Đơn vị tính: Tỷ đồng Sản phẩm \ Năm 1995 1997 1998 1999 2000 2001 Sản phẩm (sp)dệt 6176,2 7261,2 8366,0 8388,4 10046,3 11577,6 - Khu vực QD 3509,0 4021,4 4207,6 4555,1 5080,5 5609,6 - Khu vực NQD 1597,0 1782,9 1893,7 2069,1 2355,6 2697,4 - Khu vực ĐTNN 1070,2 1456,9 2264,7 1764,2 2610,2 3270,6 Sản phẩm may 2949,8 4325,4 4666,6 5217,6 6042,3 6923,5 -Khu vực QD 1025,2 1491,2 1524,3 1735,6 1926,0 2196,1 -Khu vực NQD 1388,6 1948,5 2083,9 2267,0 2616,4 2990,5 -Khu vực ĐTNN 536,0 885,7 1058,4 1215,0 1499,9 1736,9 Tỷ trọng sp dệt (%) 100 100 100 100 100 100 -Khu vực QD 56,81 55,38 50,29 54,30 50,57 48,45 -Khu vực NQD 25,86 24,55 22,64 24,67 23,45 23,30 -Khu vực ĐTNN 17,33 20,67 27,07 21,03 25,98 28,45 Tỷ trọng sp may(%) 100 100 100 100 100 100 -Khu vực QD 34,76 34,47 32,66 33,26 31,88 31,72 -Khu vực NQD 47,07 45,05 44,66 43,45 43,30 43,19 -Khu vực ĐTNN 18,17 20,48 22,68 23,29 24,82 25,09 Nguồn: Niên giám thống kê năm 2001 cần phải thông qua một số khâu trung gian của các thương nhân nước ngoài. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, phần lớn là có vốn nhỏ; với số vốn nhỏ, các doanh nghiệp này khó có thể vươn lên vì cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, không thể áp dụng được những kỹ thuật dệt tiên tiến hiện nay trên thế giới. Do đặc điểm của ngành may là ít phải đổi mới toàn bộ công nghệ, chủ yếu là trang bị thêm trang thiết bị, nên ngành này đòi hỏi ít vốn hơn so với ngành may; cùng với những chính sách khuyến khích hợp lý của nhà nước, các doanh nghiệp may ngoài quốc doanh với số vốn khiêm tốn của mình đã tận dụng được đặc điểm ngành, nguồn lực nội tại và nâng cao được năng lực sản xuất của doanh nghiệp mình. Biểu đồ 1: Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất sản phẩm dệt may toàn ngành và từng khu vực (mốc so sánh: năm 1995) Nguồn: Niên giám thống kê năm 2001 Toàn cảnh năng lực sản xuất ngành dệt may Việt Nam, được thể hiện rõ hơn ở tốc độ tăng trưởng giá trị sản phẩm dệt may của toàn ngành và từng khu vực (xem biểu đồ 1). Giá trị sản phẩm dệt may toàn ngành và từng khu vực luôn tăng qua các năm, trong đó ở khu vực đầu tư nước ngoài tăng vọt ở các năm 1998, 2000 và 2001, cho thấy đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may tăng mạnh. Điều này là dễ hiểu, bởi vì Việt Nam là nước có nguồn nhân lực rồi rào rất phù hợp cho phát triển ngành dệt may, hơn nữa ngành dệt may lại cần ít vốn, và rủi ro tương đối thấp, lợi nhuận cao; vì vậy nó lôi cuốn được các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào ngành này. Tuy nhiên, do tỷ trọng giá trị sản phẩm dệt may của khu vực đầu tư nước ngoài còn nhỏ nên chưa kéo được giá trị sản phẩm dệt may của toàn ngành tăng mạnh. Về tình hình đầu tư trang thiết bị: ở các quốc gia trong khu vực, đứng đầu là Nhật bản, tiếp đến là Hàn Quốc, Đài Loan, Thái lan, Indonexia và đặc biệt là Trung Quốc, có tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu hàng năm là 25%, họ đã đầu tư 1.2tỷ USD để hiện đại hoá kỹ thuật, công nghệ ngành may. Ngành may tại Việt Nam, từ năm 1997, đã đầu tư hàng triệu USD để đổi mới các thiết bị công nghệ của các nước như Đức, Nhật, Hà Lan, Hàn Quốc để đạt được trình độ may tiên tiến. Từ năm 1997 đến nay, mỗi năm đều có khoảng trên 18.000 máy may thiết bị chuyên ngành được nhập khẩu vào Việt Nam, nâng tổng số thiết bị ngành may cả nước lên đến gần 200.000 chiếc các loại (số liệu trích lại từ TC PTKT tháng 5 năm 2002). Nhìn chung, việc nhập khẩu máy móc thiết bị thời gian qua được tiến hành thận trọng, đúng yêu cầu, giá cả hợp lý, máy về đúng tiến độ. Song do có một số đơn vị có nguồn vốn hạn hẹp nên phải mua thiết bị “second hand” để khách hàng lợi dụng đưa thiết bị quá cũ, tân trang lại nên hiệu quả sử dụng bị hạn chế. Vấn đề lập luận chứng đầu tư còn phiến diện, thiếu đồng bộ. Có trường hợp mua thiết bị dệt về mới phát hiện thiếu thiết bị lạnh nên phải chờ hai năm mới sử dụng. Hoặc thiếu sự phối hợp trong các khâu đầu tư dẫn đến việc thiết bị nhập về rồi mới tổ chức đào tạo nhân công. Tình trạng trên dẫn đến thời gian vay vốn kéo dài, làm mất chữ tín của doanh nghiệp. Trong ngành dệt, thiết bị dệt còn ít so với thiết bị kéo sợi, phần lớn lại là máy dệt thoi khổ nhỏ, chủng loại nghèo nàn, vải làm ra chưa đáp ứng được nhu cầu cao của thị trường. Dây chuyền nhuộm hoàn tất tuy đã được đổi mới, nhưng phần lớn là thiết bị khổ hẹp tiêu hao nhiều hoá chất, thuốc nhuộm, dẫn đến chi phí cao. Trong những năm gần đây, Tổng công ty dệt may Việt Nam đã khắc phục tình trạng yếu kém, thiếu đồng bộ của ngành dệt, tập trung chủ yếu đầu tư vào những khâu còn yếu như khâu dệt, và một số thiết bị hoàn tất để nâng cao chất lượng vải cho một số đơn vị dệt, đồng thời bảo lãnh cho một số doanh nghiệp vay vốn trả chậm để hiện đại hoá thiết bị và nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của ngành may xuất khẩu. Tuy nhiên, đầu tư hiện đại hoá thiết bị ngành dệt là một nhiệm vụ khó khăn đòi hỏi sự nỗ lực của Tổng công ty dệt may cũng như từng doanh nghiệp ngành dệt và sự hỗ trợ của các chính sách nhà nước. Về công nghệ trong thời gian gần đây đã có một số dây chuyền kéo sợi mới, sử dụng công nghệ bông chải liên hợp, tự động cao, các máy ghép tự động khống chế chất lượng, ứng dụng các kỹ thuật vi mạch điện tử vào hệ thống điều khiển tự động và kiểm tra chất lượng sợi: Trong khâu dệt vải bông, nhờ sử dụng các thiết bị se hấp, giảm trọng lượng nhiều sản phẩm giả tơ, giả len... đã bắt đầu được sản xuất và tạo uy tín trên thị trường. Trong khâu dệt kim do phần lớn máy móc được nhập khẩu từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Đức... thuộc thế hệ mới, nhiều chủng loại đã được trang bị máy vi tính đạt năng suất, chất lượng cao, tính năng sử dụng rộng, song công nghệ và đào tạo chưa được nâng cao tương xứng nên mặt hàng còn đơn điệu chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Công nghệ may cũng đã có những chuyển biến kịp thời, các dây chuyền may được bố trí vừa và nhỏ, sử dụng ít lao động, cơ động nhanh, có khả năng chấn chỉnh sai sót ngay, cũng như thay đổi mẫu mã nhanh. Khâu hoàn tất cũng được trang bị hiện đại tạo hiệu quả rất cao trong kinh doanh. 1.2. Quy mô sản xuất của ngành dệt may Trong những năm qua, tình hình sản xuất của ngành dệt may, đặc biệt là ngành may công nghiệp phục vụ xuất khẩu đã có những tiến bộ đáng kể. So với năm 1995 sản lượng sợi dệt năm 2001 đã tăng từ 59,22 nghìn tấn lên 100 nghìn tấn (gấp 1,69 lần). Trong đó, các doanh nghiệp trong nước chiếm tỷ trọng lớn và có tốc độ tăng trưởng cao, trung bình đạt 13,68%/năm; với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có mức tăng trưởng âm, đặc biệt giảm mạnh ở các năm 1997,1998 và mấy năm gần đây do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực và tình trạng thiếu nguyên liệu đầu vào cho ngành sản xuất sợi của khu vực này(xem biểu đồ 2). Biểu đồ2: Sản lượng sợi dệt của Việt Nam. Nguồn: Niên giám thống kê 2001 Do công nghệ còn lạc hậu, nguồn đầu tư còn nhỏ, thêm vào đó nguồn nguyên liệu sản xuất trong nước lại hạn chế, nên ngành sản xuất vải không có mức tăng trưởng cao như sản xuất sợi. Tuy nhiên, sản lượng của ngành này vẫn tăng đều qua các năm, từ 263 triệu m năm 1995 lên 315 triệu m năm 1998 và 378 triệu m năm 2001 gấp 1,44 lần năm 1995; đặc biệt các doanh nghiệp thuộc khu vực đầu tư nước ngoài có sản lượng tăng mạnh từ 41 triệu m năm 1995 tăng lên 2,85 lần năm 2001 tương đương với 117 triệu m (xem biểu đồ 3). Với các ưu thế riêng như vốn đầu tư ít, quay vòng vốn nhanh, khả năng chuyển sang xuất khẩu cao, ngành công nghiệp may là ngành có tốc độ tăng trưởng cao, cao hơn tốc độ tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp và mức tăng trưởng trung bình đạt 15,43%. Ngành dệt có tiềm năng tiêu thụ nội địa cũng như xuất khẩu cao, tuy nhiên, ngành này không mấy phát triển do không kịp đổi mới về thiết bị công nghệ để phù hợp với yêu cầu đa dạng hoá sản phẩm nhanh chóng của thị trường sản xuất các sản phẩm đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, bởi vậy ngành này có tốc độ tăng trưởng giá trị sản lượng thấp, trung bình đạt 11.27% . Nhưng do có sự ảnh hưởng Biểu đồ 3: Sản lượng vải lụa các loại Nguồn: Niên giám thống kê 2001 của cuộc khủng hoảng tiền tệ châu á năm 1997, giá trị tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp tăng chậm với tốc độ trung bình đạt 13,97%; nên tổng giá trị sản lượng ngành dệt may đã bắt kịp với tốc độ tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp, nhưng vẫn ở mức thấp hơn, với mức trung bình là 13,35% (xem biểu đồ 4). Nhìn chung, ngành dệt may Việt Nam ít chịu sự tác động của cuộc khủng hoảng tiền tệ châu á nên tốc độ tăng trưởng giá trị tổng sản lượng toàn ngành vẫn giữ ở mức ổn định và tăng trưởng dương. 1.3. Cơ cấu sản phẩm. Đi cùng với sự thay đổi dần máy móc, trang thiết bị thì các sản phẩm dệt may đã dần được đa dạng hoá. Trong khâu sản xuất sợi, tỷ trọng các mặt hàng Polyeste pha bông với nhiều tỷ lệ khác nhau tăng nhanh. Các loại sợi 100% polyeste, các sản phẩm cotton/visco, cotton/acrylic... đã được sản xuất và đưa ra thị trường cả trong và ngoài nước. Trong khâu dệt vải, nhiều mặt hàng dệt thoi mới, chất lượng cao đã Biểu đồ 4: Tăng trưởng giá trị sản lượng hàng dệt may ( mốc so sánh: năm 1995) Nguồn: Niên giám thống kê năm 2001. bắt đầu được sản xuất: đối với mặt hàng 100% sợi bông, các mặt hàng sợi đơn chải kỹ chỉ số cao phục vụ cho may xuất khẩu, mặt hàng sợi bông dày được tăng cường công nghệ làm bóng, tăng tính cơ học... Đối với một số mặt hàng sợi pha, các mặt hàng katê đơn màu sợi 76/76 đều thay sợi dọc 76/2, các loại vải dày như gabadin, kaki, simili,... tuy sản lượng chưa cao nhưng cũng bắt đầu được đưa vào sản xuất rộng rãi ở nhiều doanh nghiệp. Đối với mặt hàng 100% sợi tổng hợp, nhờ được trang bị thêm hệ thống xe săn sợi với độ săn cao, thiết bị comfit, thiết bị giảm trọng lượng đã tạo ra nhiều mặt hàng giả tơ tằm, giả len... thích hợp với khí hậu nhiệt đới, bước đầu giành được uy tín trên thị trường trong và ngoài nước. Đối với mặt hàng dệt kim, 75 - 80% sản lượng hàng dệt kim từ sợi Pe/Co được xuất khẩu, tuy nhiên chủ yếu là các mặt hàng thuộc nhóm giá thấp và trung bình, tỷ trọng các mặt hàng chất lượng cao còn rất thấp. Điều này không có nghĩa là cơ cấu sản phẩm may không có sự thay đổi mà nó đã có sự thay đổi đáng kể, từ chỗ chỉ may được quần áo bảo hộ lao động, quần áo thường dùng ở nhà, đồng phục học sinh... đến nay ngành may đã có những sản phẩm chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu của những nhà nhập khẩu khó tính, quần áo thể thao, quần jean... Sản phẩm phụ liệu may cũng đã có những tiến bộ nhất định cả về chủng loại và chất lượng. Những sản phẩm khác như chỉ khâu Total Phong Phú, khoá kéo Nha Trang, Mex Việt Pháp,... đủ tiêu chuẩn chất lượng cho khâu may xuất khẩu tuy sản lượng còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu cho sự phát triển. 2. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam, giai đoạn 1997-2002 2.1. về kim ngạcn xuất khẩu Từ năm 1995 đến nay, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may nước ta không ngừng tăng. Tuy nhiên trong giai đoạn này, nền kinh tế Việt Nam nói chung, ngành công nghiệp dệt may xuất khẩu nói riêng chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á; nên xuất khẩu dệt may có phần tăng chậm hơn so với giai đoạn trước đó, đặc biệt là năm 1997-1998. Năm 1995, tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may đạt 750 triệu USD gấp 5,01 lần so với năm 1991 với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 49,81%. Năm 2001, tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may đạt 2000 triệu USD gấp 2,67 lần so với năm 1995 chiếm tỷ trọng 13,25% cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu, với mức tăng trưởng hàng năm là 24,8% /năm, riêng năm 1998 so với năm 1997 chỉ tăng 0,15% (xem số liệu bảng 2). Năm 2002 được coi là năm thành công của ngành dệt may Việt Nam, tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đạt 2,75 tỷ USD tăng 37,5% so với năm 2001, điều này xuất phát từ thực tế là các nước trong khu vực đã cơ bản khắc phục được tình trạng nền kinh tế trì trệ, Chính phủ Việt Nam đã quan tâm nhiều đến xuất khẩu hàng dệt may, thêm vào đó là thị trường hàng dệt may Việt Nam được mở rộng đặc biệt là thị trường Mĩ. Có thể nói lợi ích đem lại từ hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ đã phần nào thể hiện trong năm vừa qua đặc biệt là ngành dệt may bởi chỉ trong 3 tháng đầu năm 2003 giá trị kim ngạch toàn ngành đã tăng lên 500 triệu USD (xem bảng 12), đây mức cao nhất kể từ năm 1997 và ngành dệt may đã vươn lên vị trí dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu (tính từ tháng 7/2002) trước cả ngành xuất khẩu dầu thô. Bảng 2 : Giá trị xuất khẩu hàng dệt may và xuất khẩu Việt Nam Đơn vị : Triệu USD Năm Chỉ tiêu \ 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 KNXKDM 750 1.150 1.349 1.351 1.682 1.892 2.000 2.750 TĐTT (%) - 53,33 17,30 0,15 24,50 12,48 5,71 37,5 TKNXKCN 5.200 7.255 8.759 9.361 11.523 14.455 15.100 16.530 TT/TS (%) 14,4 15,2 15,4 14,4 14,6 13,08 13,25 16,64 KNXKDM- kim ngạch xuất khẩu dệt may TĐTT- tốc độ tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu dệt may TKNXKCN- tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước TT/TS- tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu dệt may / tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước Nguồn: Bộ thương mại và TCTy VINATEX Tuy nhiên, phía trước còn rất nhiều khó khăn đòi hỏi ngành dệt may phải có sự phân tích và điều chỉnh hợp lý để hàng dệt may trụ được trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Mặc dù hàng dệt may của Việt Nam là một mặt hàng xuất khẩu trọng yếu nhưng so với các nước trong khu vực và với tiềm năng của nó thì kim ngạch đạt được khiêm tốn. Năm 1994, riêng Trung Quốc cũng đã xuất khẩu được 15 tỷ USD, hàng dệt may ấn Độ là 5,9 tỷ USD và Thái Lan là 4,2 tỷ USD (số liệu trích lại từ tạp chí Kinh tế và phát triển (TC KT-PT) số 33 năm 2000). 2.2. Về cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu So với ngành may thì công nghiệp dệt của Việt Nam còn rất hạn chế. Đây là ngành yêu cầu lượng máy móc thiết bị hiện đại đồng bộ và rất tốn kém. Do vậy, ngành dệt chưa đủ khả năng phục vụ ngay chính ngành may trong nước. Nguyên liệu cho ngành may xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu vẫn phải nhập ngoại. Đặc biệt là ở Việt Nam hình thức nhận gia công hàng may mặc là chủ yếu, các hợp đồng gia công thường không ổn định, giá gia công thấp và sự phụ thuộc về nguyên liệu đã khiến không ít doanh nghiệp may mặc Việt Nam lúng túng, bị động trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Những mặt hàng khó xuất khẩu khó làm như veston chiếm tỷ lệ nhỏ vì rất ít doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ để có khả năng đáp ứng yêu cầu của sản xuất. Các mặt hàng xuất khẩu truyền thống của ngành dệt may Việt Nam chủ yếu là áo jacket, áo váy, sơ mi đơn giản. Đến nay, những mặt hàng cao cấp đòi hỏi công nhân lành nghề, máy móc hiện đại còn nhiều hạn ngạch nhưng chỉ một số ít doanh nghiệp có khả năng thực hiện. Như vậy, trong thời gian tới, các doanh nghiệp không tự lấp lỗ hổng về mặt công nghệ, tức là sẽ tự mình làm mất đi một thị trường rất có tiềm năng cho ngành dệt may Việt Nam. 2.3. Về thị trường xuất khẩu Thực tế cho thấy thị trường tiêu thụ hàng dệt may Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn. Điều này một phần do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, một số nước như Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore, Nhật Bản...phá giá tiền tệ làm giá xuất khẩu của hàng Việt Nam đắt tương đối trên thị trường thế giới, đồng thời cơn lốc khủng hoảng làm cho sức mua của dân chúng giảm, từ đó ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam. Thị trường hàng dệt may Việt Nam có thể chia làm hai nhóm là thị trường có hạn ngạch và thị trường phi hạn ngạch. Các thị trường có hạn ngạch của hàng dệt may Việt Nam như EU, Thổ Nhĩ Kỳ, Canađa,... thị phần của nhóm này chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng thị phần hàng dệt may Việt Nam, riêng năm 2002 chiếm tới 45% kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam (xem biểu đồ 5) Biểu đồ 5: Thị trường xuất khẩu hạn ngạch và không hạn ngạch của hàng dệt may Việt Nam năm 2002 Nguồn: Vụ xuất nhập khẩu – Bộ thương Mại Trong nhóm này, EU là thị trường quan trọng chiếm tới 46,67% thị phần thị trường có hạn ngạch năm 2002 (xem số liệu biểu đồ 5 và bảng 3). Bảng 3: Tỷ trọng kim ngạch hàng dệt may xuất khẩu sang các thị trường so với tổng kim ngạch dệt may xuất khẩu năm 2002 Thị trường Mỹ EU Nhật Đài Loan TT.Khác % so với tổng kim ngạch dệt may xuất khẩu. 34% 21% 17,6% 7,5% 19,9% Nguồn: Bộ Thương Mại. EU là một thị trường rộng lớn, với dân số khoảng trên 360 triệu, lại có mức tiêu dùng hàng dệt may cao hàng đầu thế giới, cùng với việc Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc và quy chế ưu đãi phổ cập của EU, thì đây là cơ hội rất tốt để các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Việt Nam chiếm lĩnh thị phần ở thị trường EU. Tuy nhiên, hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU chủ yếu theo phương thức gia công nên các doanh nghiệp Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào đơn đặt hàng của nước ngoài hoặc xuất khẩu thông qua nước thứ 3, hơn nữa do bị khống chế về hạn ngạch nên kim ngạch xuất khẩu trong 3 năm gần đây cũng chỉ dao động ở mức 600 triệu USD/năm. Việc EU tiến tới bỏ dần hạn ngạch hàng dệt may của các nước là thành viên của WTO vào cuối năm 2004 là một bất lợi lớn đối với xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam do nước ta vẫn còn chịu chế độ hạn ngạch do chưa ra nhập WTO. Các thị trường phi hạn ngạch chủ yếu của hàng dệt may mà Việt Nam đã thâm nhập được như Nhật Bản, Mĩ, Singapore, châu úc, Nam Mĩ, Đông Âu..., nhóm này chiếm 55% thị phần hàng dệt may Việt Nam năm 2002 (xem biểu đồ 5). Trong nhóm này, thị trường Nhật Bản và thị trường Mĩ là trọng tâm hai thị trường này riêng trong năm 2002 chiếm tới 93.82% thị trường phi hạn ngạch (xem số liệu biểu 5 và bảng 3), bởi Nhật Bản không chỉ có lượng dân cư đông đúc hơn 125 triệu người mà còn là nước có mức tiêu thụ sản phẩm may mặc rất cao (27kg/người/năm). Tuy nhiên, phần lớn nhu cầu tiêu dùng là hàng may mặc chất lượng tốt có hàm lượng chất xám cao trong khi Việt Nam mới chỉ đáp ứng được nhu cầu may mặc bình dân của người Nhật Bản với các mặt hàng chủ yếu là áo gió nam, quần áo lao động, một số lọai áo sơ mi quần âu đơn giản (riêng thị trường Mĩ sẽ được nghiên cứu ở phần sau). Nhìn chung ở các thị trường này hàng dệt may Việt Nam khó cạnh tranh được với hàng Trung Quốc cả về chất lượng, giá cả, và mẫu mã. Tóm lại, xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào cả hai thị trường trên đây có tăng nhưng chưa tương xứng với tiềm năng, để tăng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may trong thời gian tới, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, đặc biệt là VINATEX cần có nhiều giải pháp đồng bộ nhằm phát huy được hết tiềm năng của ngành đồng thời tận dụng được hết các cơ hội từ phía đối tác. Việc mở rộng thị trường cho ngành dệt may hết sức cần thiết, đặc biệt là các thị trường phi hạn ngạch trong đó thị trường Mĩ là một thị trường đầy tiềm năng. II. Khái quát về thị trường hàng dệt may tại Mĩ và quan hệ thương mại việt- mĩ 1. Khái quát về thị trường Mĩ * Nước Mĩ hay Hoa Kỳ (tên đầy đủ là Hợp chủng quốc Hoa Kỳ) nằm trên tọa độ 47 độ, 30 phút đến 24 độ vĩ tuyến Bắc và 124 độ đến 69 độ kinh tuyến Tây tại Bắc Mĩ. Phía Đông giáp Đại Tây Dương, phía Tây giáp Thái Bình Dương, phía Nam giáp Mêxicô và vịnh Mêxicô, phía Bắc giáp Canađa. Mĩ gồm 50 bang với tổng diện tích là 9.373.000 km 2, dân số là 278,05 triệu người (07/2001) và là quốc gia đứng đầu thế giới về sản xuất công nghiệp cũng như tổng sản phẩm quốc dân. Giành được độc lập từ chế độ thực dân Anh năm 1776, Cộng hoà liên bang Mĩ lúc đầu đã được thành lập với 13 bang thành viên bên bờ đại Tây Dương một năm sau đó. Hai bang cuối cùng (thứ 49 và 50) được kết nạp vào Liên bang năm 1959 là Alaska (03/01/1959) và Hawai (21/08/1959), không có ranh giới chung với 48 bang trong đất liền. Thủ đô của Liên bang là Washington D.C (quận Columbia). Ngoài ra còn có các trung tâm công nghiệp và tài chính lớn như New York, Chicago, Los Angeles, Philadenphia, Houstan và Detroit. Từ đầu thế kỷ XX đến nay, kinh tế Mĩ phát triển với tốc độ khá nhanh mặc dù có một giai đoạn suy thoái vào đầu thập niên 30, và trở thành quốc gia giàu mạnh nhất thế giới. Tổng sản phẩm quốc dân từ mức 125,822 tỷ USD năm 1942 đã lên tới 213,588 tỷ USD khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Năm 1988 vọt lên 4.886,592 tỷ USD, năm 1991 là 5.567 tỷ USD và năm 2000 là 10.000 tỷ USD. Sự phát triển kỳ diệu này diễn ra là do nền kinh tế Mĩ đã hội tụ và phát huy được cả hai ưu thế cơ bản là đất đai rộng lớn, tài nguyên dồi dào và nguồn nhân lực có trí tuệ, rất năng động, có bản lĩnh kinh doanh đổi mới, sử dụng hiệu quả các thành tựu hiện đại về khoa học công nghệ Là một nước đứng đầu thế giới về phát triển kinh tế, thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, trong xu thế chuyển đổi sang nền kinh tế toàn cầu hoá và cách mạng về công nghệ thông tin, rõ ràng Mĩ chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới. *- Số liệu trong mục này trích lại từ tạp chí Châu Mĩ ngày nay các số năm 2001). Vậy thị trường của quốc gia có nền kinh tế phát triển nhất thế giới này có những đặc điểm gì đáng chú ý? 1.1. Thị trường lớn nhất thế giới Là một trong những trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới, Mĩ là một thị trường lớn với dân số 278,05 triệu người, với mức thu nhập quốc dân đầu người hơn 36.200 USD (năm 2000). Năm 2000, tổng sản phẩm quốc dân đạt 10.000 tỷ USD, chiếm khoảng 20% GDP của thế giới. Có thể nói dung lượng thị trường Mĩ cực kỳ phong phú vì chỉ cần một người dân Mĩ bỏ một đô la mua mặt hàng nào đó thì tổng doanh thu của mặt hàng đó trên toàn nước Mĩ đã gần 300 triệu USD. Mặt khác, xã hội Mĩ là xã hội tiêu dùng, trung bình một người Mĩ dùng 21% tổng thu nhập của mình cho nhập khẩu hàng tiêu dùng hàng năm. Vì sức tiêu thụ của thị trường mạnh như vậy nên mặc dù Mĩ là một trong những nước có nền sản xuất hiệu quả nhất thế giới, sản xuất trong nước hàng năm chỉ đáp ứng được hơn 60% nhu cầu của người dân. Hơn nữa, như bất kỳ một quốc gia nào khác, Mĩ cũng dành nguồn tài nguyên để sản xuất những mặt hàng mà mình có lợi thế. Chính vì thế, mỗi năm nước Mĩ nhập khẩu một lượng hàng hoá trị giá rất lớn (1223 tỷ USD năm 2000). Quả thực, Mĩ là thị trường quy mô lớn nhất thế giới mà nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam mong muốn hàng hoá của mình thâm nhập được vào. 1.2. Thị trường có nhu cầu phong phú Không những là một thị trường rộng lớn, sự đa dạng về sắc tộc còn là một yếu tố làm cho nhu cầu tiêu dùng của Mĩ rất phong phú. Trong số 278,05 triệu người thì khoảng 78% là da trắng; 11% da đen; 6% Mĩ La Tinh và 5% sắc tộc khác. Nếu từ thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 dòng người nhập cư từ châu Âu đã đổ vào Mĩ, thì thế kỷ 20 lại chứng kiến luồng nhập cư từ Châu á, Trung và Nam Mĩ. Tuy đã có những quy chế mới chặt chẽ, con số người nhập cư hiện nay ước tính là 500 nghìn người mỗi năm. Chính vì vậy, Mĩ là một quốc gia có nhu cầu hàng hoá đa dạng, phong phú mà không một nơi nào khác có. Ngoài ra, sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội Mĩ cũng góp phần tạo nên đặc điểm đa dạng nhu cầu của thị trường Mĩ. Nền kinh tế phát triển cao đã làm cho khoảng cách giàu nghèo ở Mĩ ngày càng tăng. Trong khi Mĩ có những tỷ phú hàng đầu như Bill Gates, người có thu nhập bằng GDP của 48 nước nghèo cộng lại thì cũng có không ít những người vô gia cư, sống trong các khu ổ chuột. Sự chênh lệch trong phân phối thu nhập ngày càng có thể được thấy rõ qua so sánh thu nhập của hai nhóm người trong xã hội: nhóm có thu nhập cao nhất và nhóm có thu nhập thấp nhất. Theo thống kê của Internal Revenue Service thì vào năm 1959, chỉ 2,1 triệu người thuộc nhóm có thu nhập cao nhất đã có tổng thu nhập là 31 tỷ USD, bằng 15,3 triệu người thuộc nhóm thu nhập thấp. Đến năm 1990 thì tình hình còn nghiêm trọng hơn khi chỉ 3,8 triệu người thuộc nhóm một đã có tổng thu nhập là 452 tỷ USD, bằng thu nhập của 49,2 triệu người thuộc nhóm hai. Sự đa dạng về sắc tộc và phân hoá giàu nghèo sâu sắc vô hình chung đã tạo nên yêu cầu đa dạng về chất lượng và giá cả sản phẩm ở Mĩ. Đây là nơi mà người ta có thể mua đủ các loại hàng “thượng vàng hạ cám", từ những hàng hoá có hàm lượng công nghệ cao, chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế của Anh, Canađa, Nhật Bản... đến những hàng hoá có tính chất thủ công, công nghệ thấp của các nước Đông Nam á, Châu Phi... Chỉ đơn cử hàng dệt may ở Mĩ cũng có tới 7 cấp độ chất lượng, từ hàng mang tính phổ thông đến hàng cao cấp. Trong những cấp độ này có nhiều cấp độ phù hợp với trình độ sản xuất của các nước đang phát triển như Việt Nam. Đây thực sự là một yếu tố thuận lợi cho nhiều mặt hàng có chất lượng chỉ ở mức trung bình khá của Việt Nam. 1.3. Cơ cấu nhập khẩu thiên về hàng tiêu dùng và quan hệ với bạn hàng theo chiều sâu Xã hội Mĩ là một xã hội hậu công nghiệp với 75% dân số sống ở thành thị. Điều này cũng ảnh hưởng đến nhu cầu nguời dân Mĩ. Hàng xuất khẩu của Mĩ chủ yếu là máy móc công nghiệp, thiết bị công nghệ cao... nhưng hàng nhập khẩu chủ yếu là hàng tiêu dùng, thực phẩm... Là một nước dẫn đầu về khoa học công nghệ, Mĩ chú trọng đến phát triển những ngành hoàn toàn mới và có xu hướng nhập khẩu để thay thế sản xuất những mặt hàng đòi hỏi nhiều nhân công, trình độ công nghệ thấp. Trong cơ cấu hàng nhập khẩu của Mĩ, các mặt hàng tiêu dùng có vị trí quan trọng, chiếm 20% tổng kim ngạch nhập khẩu. Đặc biệt là riêng hai mặt hàng dệt may và giày dép thường chiếm một tỉ trọng đáng kể trung bình là 8% (tương đương với 60 tỷ USD hàng may mặc và 15 - 20 tỷ USD hàng giày dép mỗi năm). Thương mại dịch vụ của Mĩ được thực hiện với các bạn hàng trên khắp các châu lục, cụ thể như sau (xem biểu đồ 6) Biểu đồ 6: Cơ cấu nhập khẩu của Mĩ theo lãnh thổ năm 1999 (Đơn vị:%) Nguồn: US Trade policy review (UNSTAD, Comtrade Database) Qua biểu đồ số 6 có thể thấy năm 1999 Châu á là bạn hàng lớn nhất của Mĩ, chiếm đến 43% tổng kim ngạch thương mại của Mĩ, trong đó riêng các nước ASEAN đã chiếm 8,3%. Tiếp theo đó là Châu Mĩ và Châu Âu với tỷ lệ tương ứng là 33% và 21%. Châu Phi vì có nền kinh tế chậm phát triển nên kim ngạch thương mại với Mĩ rất thấp, chỉ có 2%. Cuối cùng là Châu úc với 1%. Tuy nhiên, quan hệ thương mại của Mĩ thiên về chiều rộng hơn là chiều sâu. Chỉ 10 bạn hàng đứng đầu đã chiếm 60% trong tổng kim ngạch thương mại dịch vụ của Mĩ. Tây Âu là khách hàng lớn nhất của Mĩ, mặc dù tỷ trọng xuất nhập khẩu có giảm chút ít. Tiếp đến là Nhật Bản, một nước đơn lẻ nhập khẩu dịch vụ lớn nhất, chiếm 15,5% trong xuất khẩu dịch vụ của Mĩ; vận tải, phí bản quyền và giấy phép chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng kim ngạch nhập khẩu dịch vụ này. Xếp sau Nhật Bản là Anh và Canada với tỷ lệ 8,8% và 8,6%. Hàn Quốc là quốc gia nhập khẩu dịch vụ từ Mĩ đứng thứ hai Châu á, sau Nhật Bản, với tỷ lệ 2,5%. Anh là nguồn nhập khẩu dịch vụ lớn nhất của Mĩ, với tỷ trọng 12%, sau đó là Nhật Bản và Canada, 11% và 8,9%. Giữa thị trường Mĩ và các thị trường cung cấp hàng hoá và dịch vụ có mối liên hệ rất chặt chẽ. Đối với dịch vụ, 5 nước nhập khẩu và xuất khẩu lớn nhất là Canada, Đức, Nhật Bản, Mexico và Anh. Đối với hàng hoá, 5 nước xuất khẩu cũng đồng thời là 5 nước nhập khẩu lớn nhất gồm những nước kể trên trừ Anh và thêm Trung Quốc. 2. Khái quát về quan hệ thương mại Mĩ -Việt Nam Ngày 3.2.1994 Mĩ đã huỷ bỏ cấm vận thương mại đối với Việt Nam, tiếp đó Mĩ cho phép các công ty Mĩ được xuất khẩu các mặt hàng thiết yếu sang Việt Nam như: lương thực, thực phẩm, y tế, giáo dục... Bộ thương mại Việt Nam và các đại diện thương mại Mĩ, Bộ thương mại Mĩ đã gặp gỡ, thương thảo, giữ mối liên lạc thường xuyên hỗ trợ cho các doanh nghiệp hai nước đẩy mạnh buôn bán xuất nhập khẩu và đầu tư. Đến ngày 12.7.1995 Chính phủ Mĩ quyết định bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt Nam, đây là mốc đánh dấu quan trọng trong quan hệ giao thương giữa hai nước, là bước đệm cho việc đàm phán Hịêp định thương mại giữa hai nước. Ngày 25.7.1999 trải qua 8 vòng đàm phán hai Bên đã thoả thuận được về nguyên tắc các điều khoản của Hiệp định song phương. Đến ngày 13.7.2000 tại thủ đô Washington Hiệp định thương mại Việt –Mĩ đã được ký kết, đánh dấu bước ngoặt trong quan hệ thương mại giữa hai nước. Ngày 7.12.2001 tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá 10 Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã ký ban hành Hiệp định này và kể từ ngày 10.12.2001, Hiệp định chính thức có hiệu lực, đã mở ra nhiều cơ hội cho các ngành sản xuất của Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực ngoại thương. Chính nhờ sự hợp tác giữa hai nước nên kim ngạch buôn bán giữa hai nước đã tăng nhanh và tăng đột biến sau khi Hiệp định thương mại được ký kết, nếu năm 2000 (năm chưa thực hiện hiệp định song phương) tổng kim ngạch buôn bán đạt 1084,2 triệu USD gấp 2,32 lần năm 1995 (năm đầu tiên sau khi bãi bỏ lệnh cấm vận) thì năm 2001(năm đầu tiên có 2 tháng cuối năm thực hiện hiệp định song phương) con số đó đã là 1131,81 triệu USD gấp 2,42 lần so với năm 1995 và 1,04 lần so với năm 2000, chỉ riêng 6 tháng đầu năm 2002 đã đạt 1044,92 triệu USD xấp xỉ mức thực hiện năm 2001. Đáng chú ý là tốc độ tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu luôn tăng trưởng mạnh và dương, trung bình đạt 27,5%; nhập khẩu của Việt Nam từ Mĩ có xu hướng giảm về tốc độ tăng trưởng trừ năm 1996 và 1997, riêng năm 1998 tăng trưởng âm. Đặc biệt đáng chú ý là kể từ năm 1998 cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam so với Mĩ luôn dương, điều này là đáng mừng vì từ đây giúp cho Việt Nam giảm bớt thâm hụt cán cân thanh toán trong nền kinh tế quốc dân (xem bảng 4). Bảng 4: Quan hệ buôn bán Việt Nam-Mĩ Đơn vị tính: triệu USD Năm Xuất khẩu của VN sang Mĩ Tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu Nhập khẩu của VN từ Mĩ Tốc độ tăng trưởng của nhập khẩu Tổng giá trị buôn bán Cân đối 1995 193,96 - 252,86 - 466,82 (-) 1996 319,07 64,50 % 616,04 143,63 % 935,11 (-) 1997 425,51 33,36 % 817,23 32,66 % 1.242,74 (-) 1998 500,00 17,51 % 250,00 -0,69 % 750 (+) 1999 504,04 0,81 % 334,75 33,9 % 838,79 (+) 2000 732,44 45,31 % 351,76 5,08 % 1084,2 (+) 2001 758,12 3,51 % 373,69 6,23 % 1.131,81 (+) 2002* 814,55 - 230,37 - 1.044,92 (+) Nguồn: VER, tháng 2/1999, Bảng 3 tr.17; Standley Foundation, tr.42 và Tạp chí ngoại thương (TCNT) số 1/2001 tr.10, số 2

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100727.doc
Tài liệu liên quan