Tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình, khả năng thanh toán và nâng cao hiệu quả quản lý tài sản lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế - Coalimex: Mục lục
lời nói đầu
Trong nền kinh tế hiện đại với tư liệu sản xuất rất phát triển và trình độ phân công lao động ngày càng cao thì xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới ngày càng trở nên phổ biến với mỗi quốc gia. Hoạt động thương mại quốc tế ngày càng đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Thông qua hoạt động thương mại quốc tế, các mối liên hệ kinh tế được thiết lập trên cơ sở phát huy tiềm năng và thế mạnh của mỗi quốc gia. Chính thương mại quốc tế là sợi dây nối kết nền kinh tế của các nước, tạo hiệu quả chung cho quá trình phát triển. Vì vậy hoạt động xuất nhập khẩu giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế của các nước trong đó có Việt Nam.
ở nước ta, từ sau đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) với chính sách mở cửa nền kinh tế thì các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu ngày một đa dạng. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói chung, Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế Coalimex nói riêng không thể không tìm kiếm những giải pháp thích hợp hoàn thiện...
104 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1026 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình, khả năng thanh toán và nâng cao hiệu quả quản lý tài sản lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế - Coalimex, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
lời nói đầu
Trong nền kinh tế hiện đại với tư liệu sản xuất rất phát triển và trình độ phân công lao động ngày càng cao thì xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới ngày càng trở nên phổ biến với mỗi quốc gia. Hoạt động thương mại quốc tế ngày càng đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Thông qua hoạt động thương mại quốc tế, các mối liên hệ kinh tế được thiết lập trên cơ sở phát huy tiềm năng và thế mạnh của mỗi quốc gia. Chính thương mại quốc tế là sợi dây nối kết nền kinh tế của các nước, tạo hiệu quả chung cho quá trình phát triển. Vì vậy hoạt động xuất nhập khẩu giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế của các nước trong đó có Việt Nam.
ở nước ta, từ sau đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) với chính sách mở cửa nền kinh tế thì các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu ngày một đa dạng. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói chung, Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế Coalimex nói riêng không thể không tìm kiếm những giải pháp thích hợp hoàn thiện và tăng cường hoạt động kinh doanh của mình bởi vì xuất nhập khẩu là một hoạt động phức tạp sôi động và có tính cạnh tranh cao trên trường quốc tế. Đặc biệt các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần phải chú trọng đến việc quản lý hoạt động thanh toán của mình vì trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu người mua và người bán có sự khác biệt về điều kiện địa lý, luật pháp kinh doanh, tập quán buôn bán cũng như là đồng tiền sử dụng… thì hoạt động thanh toán càng trở nên phức tạp. Song song với điều đó thì công tác quản lý tài sản lưu động cũng gặp rất nhiều khó khăn và thường là kém hiệu quả.
Chính từ nhận thức trên của bản thân em và từ thực tiễn hoạt động của Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế Coalimex em đã chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình, khả năng thanh toán và nâng cao hiệu quả quản lý tài sản lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế - Coalimex ”. Với hy vọng sử dụng những kiến thức đã học kết hợp với tình hình thực tế tại công ty để đóng góp một số ý kiến, giải pháp cho hoạt động thanh toán và quản lý tài sản lưu động của Công ty trong thời gian tới.
Kết cấu luận văn của em gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về hoạt động thanh toán và quản lý tài sản lưu động.
Chương II: Thực trạng khả năng thanh toán và tình hình quản lý tài sản lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế -Coalimex.
Chương III: Một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình và khả năng thanh toán và nâng cao hiệu quả quản lý tài sản lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế -Coalimex
Để có thể hoàn thành luận văn tốt nghiệp này em rất cám ơn Thạc sỹ Lê Hương Lan đã tận tình chỉ bảo cho em đồng thời em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các cô các chú, các anh chị tại phòng Kinh tế kế hoạch -Tài chính và trong toàn Công ty đã giúp đỡ em rất nhiều để hoàn thành luận văn này.
Chương 1:
Những vấn đề cơ bản về hoạt động thanh toán và quản lý tài sản lưu động
I. Hoạt động thanh toán trong doanh nghiệp
1.Khái niệm và vai trò của hoạt động thanh toán đối với doanh nghiệp.
Thanh toán là việc thực hiện các nghĩa vụ tiền tệ phát sinh có liên quan tới các quan hệ trong nền kinh tế, thương mại và các mối quan hệ khác giữa chủ thể này với chủ thể khác trong nền kinh tế.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào dù lớn hay nhỏ đều nhằm mục tiêu chung là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có một lượng tài sản nhất định. Nếu như toàn bộ tài sản do doanh nghiệp nắm giữ được đánh giá tại một thời điểm nhất định thì sự vận động của chúng - kết quả của quá trình trao đổi - chỉ có thể được xác định trong một thời kỳ nhất định. Trong quá trình vận động - các nhân tố được kết hợp với nhau để tạo ra hàng loạt các dịch vụ có ích, phục vụ cho tiêu dùng hoặc để sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Như vậy trong một thời kỳ nhất định các doanh nghiệp đã chuyển hoá các yếu tố đầu vào thành các yếu tố đầu ra để trao đổi (bán).
Sản xuất -chuyển hoá
Đầu vào Đầu ra
Tài chính Tài chính
Trong số các tài sản mà doanh nghiệp nắm giữ, có một loại tài sản đặc biệt là tiền. Mọi quá trình trao đổi đều được thực hiện thông qua trung gian tiền. Do đó, tương ứng với dòng vật chất đi vào là dòng tiền hay dòng tài chính đi ra, đồng thời làm phát sinh nghĩa vụ thanh toán của doanh nghiệp đối với nhà cung cấp các yếu tố đầu vào. Và ngược lại, tương ứng với dòng vật chất đi ra là dòng tiền hay dòng tài chính đi vào. Lúc này nghĩa vụ thanh toán cũng phát sinh giữa người mua với doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trong quá trình này, việc đầu tư, mua sắm tài sản của doanh nghiệp phải đảm bảo thu nhập do đầu tư đem lại lớn hơn chi phí đầu tư. Điều đó có nghĩa là các giá trị dòng tiền do tài sản tạo ra phải lớn hơn chi phí của các tài sản đó.
Vậy là một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải cùng lúc đạt được hai mục tiêu:
Lợi nhuận
Duy trì khả năng thanh toán
Trong hai mục tiêu này thì mục tiêu số một là tối ưu hoá lợi nhuận. Mục tiêu duy trì khả năng thanh toán thực chất cũng là để hướng tới mục tiêu lợi nhuận. Trong hoạt động của mình, doanh nghiệp có duy trì được hoạt động kinh doanh, giảm thiểu được rủi ro thì mới có thể thu hút được lợi nhuận. Vì vậy, việc doanh nghiệp có duy trì được khả năng thanh toán hay không là rất quan trọng.
Hơn nữa, trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường, các doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật. Do vậy, ngoài doanh nghiệp sẽ có rất nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, đặc biệt là các ngân hàng, các chủ nợ, các nhà đầu tư. Không ai lại muốn cho vay hay đầu tư vào một doanh nghiệp mà tình hình tài chính yếu kém. Để biết được tình hình tài chính của doanh nghiệp tốt hay không cần phải xem xét khả năng thanh toán của doanh nghiệp như thế nào. Nếu tình hình tài chính tốt, doanh nghiệp sẽ ít công nợ, khả năng thanh toán dồi dào, ít đi chiếm dụng vốn. Điều đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động về vốn, bảo đảm quá trình kinh doanh thuận lợi. Ngược lại, tình hình tài chính kho khăn, doanh nghiệp nợ nần dây dưa kéo dài, mất tính chủ động trong kinh doanh và đôi khi dẫn đến tình trạng phá sản.
Nhiều doanh nghiệp đạt được lợi nhuận rất cao nhưng vẫn bị phá sản, nguyên nhân là do họ có một bảng cân đối tài sản không vững chắc: tình hình tài sản và nguồn vốn nếu xét riêng rẽ rất tốt nhưng họ bỏ qua mối quan hệ hữu cơ giữa tài sản và nguồn vốn. Tài sản lưu động tuy lớn nhưng không có khả năng trang trải các khoản nợ ngắn hạn và các khoản nợ đến hạn chiếm tỷ trọng quá lớn trong tổng nguồn vốn.
Như vậy, hoạt động thanh toán ảnh hưởng đến sự sống còn của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp bảo toàn và phát triển vốn, từ đó thu được lợi nhuận một cách an toàn. Các doanh nghiệp bị phá sản hầu hết là do không trả được các khoản nợ đến hạn chứ không phải trực tiếp do lợi nhuận thấp.
Do đó trong ba nội dung cơ bản của quản lý tài chính đối với doanh nghiệp:
Quyết định đầu tư
Huy động vốn (nguồn tài trợ dài hạn)
Quản lý hoạt động tài chính ngắn hạn
thì quản lý hoạt động thanh toán đóng vai trò hết sức quan trọng trong nội dung thứ ba kể trên. Ngoài việc xác định mục tiêu cho đầu tư dài hạn và tìm nguồn tài trợ cho đầu tư đó, doanh nghiệp phải chú trọng đến các quyết định tài chính ngắn hạn có liên quan chặt chẽ tới công tác quản lý tài sản lưu động và nợ ngắn hạn để không chỉ nâng cao khả năng sinh lợi mà còn bảo đảm khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
2. Phương pháp, trình tự và nội dung phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
2.1.Các phương pháp phân tích khả năng thanh toán
Phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp là một nội dung của phân tích tài chính doanh nghiệp, nó cho ta một nền tảng vô cùng quan trọng để đưa ra những đánh giá, nhận xét về thực trạng khả năng thanh toán và đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục những yếu kém, phát huy những ưu điểm để nâng cao khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Vì là một nội dung của phân tích tài chính doanh nghiệp nên nó có các phương pháp tương tự như phân tích tài chính doanh nghiệp nói chung song vì khả năng thanh toán có những đặc thù riêng của nó và ta cũng xem xét nó ở một góc độ khác không quá ràng buộc với những nội dung khác của phân tích tài chính doanh nghiệp nên nhìn chung ta áp dụng những những phương pháp sau:
ơPhương pháp phân tích tỷ lệ
Trong phân tích khả năng thanh toán ta áp dụng phương pháp này rất phổ biến, đây là phương pháp dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính, trong phân tích tình hình và khả năng thanh toán thì đây chính là mối quan hệ giữa các chỉ tiêu nợ (chủ yếu là nợ ngắn hạn) và tài sản lưu động. Sự biến đổi của các đại lượng tài chính sẽ dẫn đến sự biến đổi của các tỷ lệ này một cách tương ứng. Về nguyên tắc phương pháp tỷ lệ yêu cầu phải xác định được các ngưỡng, các định mức, để nhận xét, đánh giá tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp, trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với các tỷ lệ tham chiếu.
ưPhương pháp so sánh
Đây là phương pháp đơn giản nhất song lại có hiệu quả rất cao, so sánh giúp ta thấy rõ sự tăng giảm, đạt hay không đạt yêu cầu, tốt hay xấu của tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp trong các năm, các kỳ. Thường thì gốc so sánh được chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, chỉ số bình quân của ngành, của doanh nghiệp dẫn đầu và trong phân tích về tình hình và khả năng thanh toán ta hay lấy giá trị so sánh là các số tương đối hay các tỷ lệ ta đã nói ở trên. Như vậy có thể nói khi phân tích tình hình và khả năng thanh toán ta vận dụng cả hai phương pháp trên theo thứ tự lần lượt: phương pháp tỷ lệ rồi đến phương pháp so sánh.
2.2.Trình tự và nội dung phân tích tình hình và khả năng thanh toán
Sau khi thu thập đủ các thông tin cần thiết ta tiến hành xác định các chỉ tiêu về tình hình và khả năng thanh toán như: tỷ lệ thanh toán hiện hành, tỷ lệ thanh toán tức thời, tỷ lệ thanh toán nhanh… Tiếp đó ta tiến hành phân tích chi tiết nhu cầu và khả năng thanh toán nhằm đánh giá chính xác tình hình thanh toán của doanh nghiệp trước mắt và triển vọng trong thời gian tới đây chính là bước lập bảng phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán và dựa vào đó đưa ra những nhận xét, kiến nghị nhất định.
3. Nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán
Tình hình tài chính của doanh nghiệp được thể hiện khá rõ nét qua các chỉ tiêu về khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Khả năng thanh toán của một doanh nghiệp như đã trình bày ở phần 1 liên quan tới cả hai bên bảng cân đối tài chính của doanh nghiệp đó, cụ thể là tài sản lưu động và các khoản nợ ngắn hạn.
Mối quan hệ này được biểu hiện qua các chỉ tiêu sau:
3.1.Vốn lưu động thường xuyên
Vốn lưu động thường xuyên = Tài sản lưu động - Nợ ngắn hạn
Công thức 1
Vốn lưu động thường xuyên là chỉ tiêu dùng để đánh gía điều kiện cân bằng tài chính của doanh nghiệp.
Vốn lưu động thường xuyên > 0 tức là khả năng thanh toán của doanh nghiệp khả quan, tài sản lưu động đủ để doanh nghiệp trả các khoản nợ ngắn hạn.
Ngược lại, vốn lưu động thường xuyên < 0 nghĩa là tài sản lưu động không đáp ứng đủ nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của doanh nghiệp mất thăng bằng. Doanh nghiệp phải dùng một phải dùng một phần tài sản cố định để thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn trả.
Trong trường hợp như vậy giải pháp của doanh nghiệp là giảm các khoản nợ ngắn hạn hay tăng đầu tư vào tài sản lưu động hoặc cả hai (trong mối quan hệ tương đối của các tài sản và nguồn vốn trong doanh nghiệp thì điều này cũng có nghĩa là tăng cường huy động vốn dài hạn hợp pháp hoặc giảm quy mô đầu tư dài hạn).
3.2. Tỷ lệ thanh toán hiện hành
Tỷ lệ thanh Tài sản lưu động
=
toán hiện hành Nợ ngắn hạn
Công thức 2
Tỷ lệ thanh toán hiện hành là thước đo khả năng chi trả của một doanh nghiệp từ số tài sản sẵn có của mình.
Tỷ lệ này càng lớn thì khả năng thanh toán cáng tốt và thường phải >1.
Theo nguyên tắc chung là 2: 1, tuy nhiên con số này thay đổi theo ngành nghề kinh doanh và theo từng công ty. Tỷ lệ này càng nhỏ bao nhiêu thì doanh nghiệp càng mất dần khả năng thanh toán bấy nhiêu; khi tỷ lệ này gần bằng không thì doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và có nguy cơ phá sản.
3.3.Tỷ lệ thanh toán nhanh
Tỷ lệ thanh Tiền và các chứng khoán thanh khoản cao+ Phải thu
=
toán nhanh Nợ ngắn hạn
Công thức 3
Tỷ lệ thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ. Do vậy, chỉ có tiền, các chứng khoán thanh khoản (CKTK) cao và các khoản phải thu được tính đến với giả định rằng số hàng tồn kho không phải lúc nào cũng chuyển thành tiền được, do hư hỏng, lạc hậu hoặc do bản chất của mặt hàng đó.
Thông thường tỷ lệ này nếu > 1 thì tình hình thanh toán của doanh nghiệp là lành mạnh.
Ngược lại, nếu tỷ lệ này < 1 thì tình hình thanh toán của doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn. Doanh nghiệp sẽ bán gấp sản phẩm, hàng hoá để thanh toán các khoản nợ đến hạn.
3.4. Tỷ lệ thanh toán tức thời
Tỷ lệ thanh toán tức thời thông thường nếu > 0,5 thì tình hình thanh toán của doanh nghiệp là khá tốt và ngược lại nếu < 0,5 thì doanh nghiệp khó khăn trong khâu thanh toán.
Tỷ lệ thanh Tiền và CKTK cao
=
toán tức thời Nợ ngắn hạn
Công thức 4
Tuy nhiên, tỷ lệ này nếu quá cao lại là điều không tốt vì điều đó có nghĩa là vòng quay của tiền quá chậm, hiệu quả sử dụng vốn như vậy là không cao.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thanh toán
4.1.Các nhân tố khách quan
4.1.1Cơ chế chính sách của Nhà nước.
Đây là những yếu tố mà doanh nghiệp buộc phải nắm rõ và tuân thủ vô điều kiện vì yếu tố này thể hiện ý chí của Nhà nước. Những quy định trong các văn bản pháp luật của Nhà nước ảnh hưởng chặt chẽ đến mọi hoạt động của doanh nghiệp, trong đó có khả năng thanh toán. Ví dụ theo Nghị định của Chính phủ số 63/1998/NĐ-CP ngày 18/08/1998 về quản lý ngoại hối, với mục đích thanh toán tiền nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ cho tổ chức, cá nhân ở nước ngoài, các doanh nghiệp được phép mở và duy trì tài khoản ngoại tệ tại các ngân hàng được phép sử dụng ngoại tệ trên tài khoản. Đồng thời theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 173/1998/QĐ-TTg ngày 12/9/1998 về nghĩa vụ bán và quyền mua ngoại tệ của người cư trú là tổ chức, các doanh nghiệp phải bán ngay tối thiểu 80% số ngoại tệ thu được từ các nguồn thu vãng lai cho các ngân hàng được phép trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày ngoại tệ được chuyển hoặc nộp vào tài khoản ngoại tệ doạnh nghiệp mở tại ngân hàng.
Ngoài ra, các chính sách ưu tiên, khuyến khích hay hạn chế phát triển đối với ngành nghề kinh doanh cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động thanh toán của doanh nghiệp.
4.1.2.Sự biến động của tỷ giá hối đoái
Đối với mọi doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu thì tỷ giá hối đoái là một nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ. Nhu cầu thanh toán của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào sự biến động của tỷ giá, do đó khả năng thanh toán cũng bị ảnh hưởng. Chẳng hạn ngày 21/12/2000, doanh nghiệp cần thanh toán một lô hàng trị giá 10000 USD, nếu tỷ giá tại thời điểm đó là 14000VND/USD thì giá trị lô hàng sẽ ứng với 140000000VND, nhưng nếu tỷ giá tại thời điểm đó là 145000VND/ USD thì giá trị lô hàng sẽ là 145000000 VND, tức là chênh lệch so với giả thiết trước là 5000000 VND. Rõ ràng, tỷ giá biến động đã có tác động rất lớn đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
4.1.3. Sự phát triển của thị trường tài chính
Kinh tế hàng hoá và thị trường luôn là những khái niệm gắn bó với nhau. Những hàng hoá thông thường được mua bán trên thị trường hàng hoá thông thường, còn những hàng hoá đặc biệt, tài sản tài chính, lại được mua bán trên thị trường đặc biệt - thị trường tài chính.
Do chu kỳ về thu nhập, chi tiêu và đầu tư khác nhau nên ở mỗi thời đểm nhất định trong nền kinh tế, về phương diện tài chính, luôn tồn tại hai nhóm người: nhóm người đi vay và nhóm người cho vay. Thị trường tài chính là thị trường trong đó vốn được chuyển từ người hiện có vốn dư thừa (người cho vay) sang những người thiếu vốn (người đi vay). Thị trường này thực hiện chức năng kinh tế cơ bản bằng cách truyền dẫn vốn từ người tiết kiệm sang những nhà đầu tư. Đối với doanh nghiệp, thị trường tài chính không chỉ là nơi để họ huy động vốn với các kỳ hạn khác nhau mà còn là nơi giúp họ nâng cao khả năng thanh toán, đáp ứng được các nhu cầu thanh toán ngắn hạn.
Giả sử một doanh nghiệp có nhu cầu tiền cấp bách, thông qua thị trường tài chính, họ có thể bán các chứng khoán mà mình nắm giữ để đáp ứng nhu cầu tiền trước mắt.
4.1.4.Nhân tố thị trường cạnh tranh
Là một chủ thể kinh tế, khả năng thanh toán của doanh nghiệp gắn bó chặt chẽ với nhân tố thị trường. Thị trường chính là môi trường hoạt động của doanh nghiệp. Trong môi trường này, các doanh nghiệp phải tự đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, đồng thời phải cạnh tranh với nhiều doanh nghiệp khác để chiếm lĩnh thị trường. Một doanh nghiệp chếm lĩnh được thị trường sẽ dễ dàng trì hoãn được các khoản nợ đến hạn, đồng thời có khả năng dễ dàng trì hoãn được các khoản nợ đến hạn, đồng thời có khả năng chuyển hàng tồn kho thành tiền một cách nhanh chóng, do đó đáp ứng được nhu cầu thanh toán một cách nhanh nhất.
4.2. Nhân tố chủ quan
4.2.1 Cơ cấu tài sản và cơ cấu tài sản lưu động của doanh nghiệp
Cơ cấu tài chính là tỷ trọng giữa các nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp có tổng các khoản nợ ngắn hạn lớn hơn tài sản lưu động của mình thì tình hình tài chính của doanh nghiệp đó là thiếu lành mạnh, khả năng thanh toán quá yếu kém.
Trong các nguồn tài trợ của doanh nghiệp, nợ ngắn hạn là nguồn tài trợ có chi phí tương đối nhỏ song nó lại yêu cầu doanh nghiệp phải theo dõi một cách chặt chẽ, sát sao bởi vì nó gây áp lực nên hoạt động thanh toán của doanh nghiệp.
Khả năng doanh nghiệp có thể trì hoãn các khoản là rất thấp hoặc nếu có trì hoãn được thì chi phí cũng sẽ rất cao. Thông thường các doanh nghiệp cố gắng duy trì mức nợ ngắn hạn bằng 50% tổng tài sản lưu động.
Tuy nhiên, việc duy trì tỷ trọng nợ ngắn hạn trong cơ cấu tài chính của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào nguồn vốn tự có của doanh nghiệp, khả năng huy động các nguồn vốn dài hạn, khả năng huy động các nguồn vốn dài hạn, khả năng linh hoạt về tài chính của doanh nghiệp.
4.2.2.Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp
Doanh nghiệp sử dụng vốn hợp lý sẽ tạo điều kiện bảo toàn và phát triển vốn, tránh được lãng phí vốn, đồng thời tạo được uy tín với bạn hàng. Việc doanh nghiêp tiết kiệm được nhiều vốn lưu động sẽ giúp doanh nghiệp một cách gián tiếp nâng cao khả năng thanh toán.
Vì vậy, trong quản lý vốn lưu động, doanh nghiệp cần xác định được lượng vốn lưu động cần thiết trong kỳ kinh doanh, nhanh chóng thu hồi các khoản phải thu nhằm ngăn chặn hiện tượng chiếm dụng vốn, tránh ứ đọng vốn, thúc đẩy tốc độ luân chuyển vốn và thường xuyên tiến hành phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động nhằm có các biện pháp điều chỉnh kịp thời, bảo đảm khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
4.2.3.Quan hệ với khách hàng và nhà cung cấp.
Một doanh nghiệp có quan hệ tốt với khách hàng và nhà cung cấp thì có rất nhiều điều kiện thuận lợi trong hoạt động kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp có thể tận dụng nguồn vốn bằng cách mua bán hàng hoá chịu lẫn nhau. Đây là hình thức tín dụng nhà cung cấp hay tín dụng thương mại.
Hình thức tín dụng này xuất hiện do sự cách biệt giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, gây ra hiện tượng có một số nhà doanh nghiệp có hàng hoá muốn bán nhưng không có nhu cầu ngay về tiền mặt trong khi đó có một số nhà doanh nghiệp khác muốn mua nhưng không có tiền.
Trong điều kiện như vậy, doanh nghiệp với tư cách là người bán có thể bán chịu hàng hoá của mình cho người mua, mà thực chất là cho vay dưới dạng hàng hoá, dịch vụ và sẽ thu lại giá trị cho vay cùng với lợi tức bằng tiền. Ngược lại, với tư cách là người mua, doanh nghiệp có thể mua chịu hàng hoá. Nguồn này trong bảng cân đối của doanh ngiệp dưới dạng khoản phải trả người bán và phải thu người mua.
Một doanh nghiệp có mối quan hệ tốt với nhà cung cấp không chỉ tận dụng được các khoản tín dụng thương mại với các điều kiện ưu đãi mà còn có khả năng trì hoãn các khoản nợ phải trả với chi phí thấp hơn, giúp giảm bớt áp lực lên hoạt động thanh toán.
Thêm vào đó, một doanh nghiệp có uy tín với người mua sẽ khiến cho khách hàng tín nhiệm tin tưởng, do đó sẽ có ý thức thanh toán cho doanh nghiệp một cách đúng hạn nghiêm chỉnh hơn. Doanh ngiệp giảm được ít nhiều nguy cơ bị chiếm dụng vốn, hàng hoá tiêu thụ được dễ dàng hơn, nâng cao được khả năng thanh toán.
Trong hoạt động thanh toán của mình, doanh nghiệp phải nắm rõ được các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của mình để có thể hạn chế được các tác động tiêu cực, cũng như tận dụng được những ưu thế mà chúng tạo ra.
II. Các vấn đề cơ bản về quản lý tài sản lưu động
1.Khái niệm tài sản lưu động
Như ta đã biết, tư liệu lao động và đối tượng lao động là hai mặt của phạm trù tư liệu sản xuất. Nếu như phần lớn tư liệu lao động là tài sản cố định thì tài sản lưu động chính là đối tượng lao động và phần còn lại của tư liệu lao động.
Khác với tư liệu lao động, đối tượng lao động thường chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất và trong chu kỳ ấy chúng chuyển hoá toàn bộ giá trị của mình vào sản phẩm.
Do đó đến chu kỳ sản xuất sau lại phải sử dụng các đối tượng lao động khác. Phần lớn các đối tượng lao động thông qua quá trình chế biến để hợp thành thực thể của sản phẩm như bông thành sợi, cát thành thuỷ tinh… một số khác bị mất đi như các loại nhiên liệu. Bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng cần có các đối tượng lao động, lượng tiền ứng ra để thoả mãn nhu cầu về đối tượng lao động gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp chính vì thế ta có thể nói vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động. Tài sản lưu động là những tài sản ngắn hạn (thời hạn sử dụng dưới một năm) và luân chuyển thường xuyên trong quá trình sản xuất.
Như ta đã nói ở trên đối tượng lao động có những đặc điểm khác hẳn với tư liệu lao động nên kéo theo đó mà tài sản lưu động mang những đặc tính hoàn toàn khác với tài sản cố định là hầu như chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất và luân chuyển duy nhất một lần. Trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp thì tài sản lưu động chủ yếu được thể hiện ở các khoản mục như tiền mặt,các chứng khoán thanh khoản cao, phải thu và dự trữ tồn kho. Giá trị các loại tài sản lưu động của doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất thường chiếm từ 25% đến 50% tổng giá trị tài sản của chúng. Quản lý và sử dụng hợp lý các loại tài sản lưu động có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp. Quản lý tài sản lưu động có ảnh hưởng trực tiếp tới hai mục tiêu vô cùng quan trọng của doanh nghiệp là lợi nhuận và khả năng thanh toán cần thấy rằng sự bất lực của một số công ty trong việc hoạch đinh và kiểm soát một cách chặt chẽ các loại tài sản lưu động và các khoản nợ ngắn hạn là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản doanh nghiệp. Song do các đặc tính của tài sản lưu động củng như do sự đa dạng của nó mà việc quản lý tài sản lưu động trở nên rất phức tạp đòi hỏi rất nhiều cố gắng của doanh nghiệp.
2. vai trò của tài sản lưu động đối với doanh nghiệp.
Như ta đã biết trong bất cứ doanh nghiệp nào tài sản lưu động cũng là một phần không thể thiếu trong cơ cấu tài sản của mình. Để tiến hành sản xuất kinh doanh ngoài tài sản cố định như: máy móc, thiết bị, nhà xưởng.... doanh nghiệp còn phải bỏ ra một lượng tiền nhất định để mua sắm hàng hoá nguyên nhiên vật liệu... phục vụ cho quá trình sản xuất. Như vậy, tài sản lưu động là điều kiện đầu tiên để doanh nghiệp đi vào hoạt động hay nói cách khác tài sản lưu động là điều kiện tiên quyết cho quá trình sản xuất kinh doanh của bất cứ doanh nghiệp nào.
Ngoài ra, tài sản lưu động còn đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành thường xuyên liên tục. Do đặc điểm của đối tượng lao động là giá trị của nó được chuyển dịch toàn bộ một lần vào sản phẩm nên trong chu kỳ sản xuất sau lại phải thường xuyên mua sắm dự trữ vật tư hàng hoá để đảm bảo cho quá trình tái sản xuất. Lượng tài sản lưu động có hợp lý đồng bộ thì mới không làm gián đoạn quá trình sản xuất kinh doanh. Như vậy tài sản lưu động còn là điều kiện vật chất không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tài sản lưu động còn là công cụ phản ánh và đánh giá quá trình vận động của vật tư cũng tức là phản ánh và kiểm tra quá trình mua sắm, dự trữ sản xuất tiêu thụ của doanh nghiệp. Nhu cầu lượng vật tư dự trữ ở các khâu nhiều hay ít phản ánh nhu cầu vốn lưu động nhiều hay ít. Tài sản lưu động luân chuyển nhanh hay chậm phản ánh số vật tư tiết kiệm hay lãng phí, thời gian nằm ở các khâu có hợp lý hay không hợp lý và mức độ luân chuyển vốn lưu động đã đạt yêu cầu hay chưa. Bởi vậy thông qua sự vận động của tài sản lưu động có thể đánh giá được tình hình dự trữ tiêu thụ sản phẩm, tình hình sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp.
Tài sản lưu động còn có khả năng quyết định đến quy mô hoạt động của doanh nghiệp, trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp hoàn toàn tựa chủ trong việc sử dụng vốn nên khi muốn mở rộng quy mô của doanh nghiệp thì cần phải có thêm một lượng vật tư hàng hoá nguyên nhiên vật liệu... để dự trữ và đưa vào sản xuất. Vốn lưu động bằng tiền còn giúp cho doanh nghiệp chớp được thời cơ kinh doanh tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Ngoài ra tài sản lưu động còn đóng một vai trò là giúp doanh nghiệp một cách đắc lực trong việc thanh toán và duy trì khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn giúp cho doanh nghiệp tránh khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán và chặn đứng nguy cơ phá sản doanh nghiệp. Vì vậy có thể nói tài sản lưu động góp phần vô cùng quan trọng giúp doanh nghiệp hoạt động bình thường và đứng vững. Ta có thể khẳng định rằng tài sản lưu động động là không thể thay thế được trong bất cứ loại hình doanh nghiệp nào thuộc bất cứ thành phần kinh tế nào. Do đó quản lý tài sản lưu động là việc không thể thiếu trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp qua đó góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động cũng như góp phần đẩy mạnh sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
3. Cơ cấu của tài sản lưu động
Tài sản lưu động của doanh nghiệp được chia thành các loại sau:
3.1.Tiền
Tiền của doanh nghiệp là tài sản tồn tại trực tiếp dưới dạng giá trị bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, và các khoản tiền đang chuyển.
Việc duy trì một lượng tiền mặt hợp lý có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bởi vì:
Tiền đảm bảo giao dịch kinh doanh hàng ngày, thường là thanh toán cho khách hàng và thu tiền từ khách hàng.
Bù đắp cho ngân hàng về việc ngân hàng cung cấp các dịch vụ cho doanh nghiệp.
Đáp ứng nhu cầu dự phòng trong trường hợp xuất hiện những biến động không lường trước được của luồng tiền vào và ra
Hưởng lợi thế trong thương lượng mua hàng
Việc doanh nghiệp lưu giữ nhiều tiền có lợi thế sau:
Chủ động trong kinh doanh do có thể chủ động trong thanh toán chi trả
Khi mua hàng công ty có thể được hưởng chiết khấu do thanh toán ngay
Duy trì tốt các chỉ số thanh toán giúp doanh nghiệp tạo uy tín tốt với khách hàng và ngân hàng nên dễ dàng mua được hàng hoá với các điều kiện thuận lợi và được hưởng những ưu đãi trong việc đi vay
Dự trữ được lượng vật tư, hàng hoá lớn nếu giá cả hợp lý
Song việc giữ nhiều tiền cũng có những bất lợi đó là:
Tiền dễ bị mất giá
Khả năng sinh lời là không đáng kể
Do đó việc giữ đủ tiền cho sản xuất kinh doanh là rất quan trọng nó sẽ giúp doanh nghiệp phát huy các lợi thế trên và tối thiểu hoá các bất lợi.
3.2.Đầu tư ngắn hạn
Đây là các chứng khoán có giá trị hoặc góp vốn liên doanh bằng tiền, hiện vật có thể thu hồi kịp thời trong một chu kỳ kinh doanh hoặc trong thời gian không quá một năm (như tín phiếu kho bạc, trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng…) và các loại đầu tư khác không quá một năm.
Trong đầu tư ngắn hạn, việc đầu tư vào các chứng khoán có tính lỏng cao là hết sức quan trọng. Các chứng khoán này giữ vai trò như một “bước đệm” cho tiền mặt. Vì nếu số dư tiền mặt lớn, doanh nghiệp có thể đầu tư vào chứng khoán đó nhưng khi cần thiết cũng có thể chuyển đổi chúng thành tiền một cách dễ dàng ít tốn kém. Trong quản lý tài chính, các chứng khoán có tính lỏng cao được sử dụng để duy trì tiền mặt ở mức độ mong muốn.
3.3.Phải thu
Các khoản phải thu bao gồm:
Phải thu từ khách hàng: là khoản tiền mà doanh nghiệp cho người mua nợ dưới dạng hàng hoá, dịch vụ. Nhờ có khoản phải thu khách hàng mà doanh nghiệp có điều kiện tăng cao được số lượng hàng hoá tiêu thụ, từ đó nâng cao doanh thu có điều kiện mở rộng thị trường, tăng cường được quan hệ với người mua.
Phải thu nội bộ (giữa các đơn vị chính và đơn vị phụ thuộc)
Thế chấp (tài sản mang đi khi cầm cố khi đi vay vốn), ký cược (tiền đặt cược khi đi thuê tài sản), ký quỹ (tiền hoặc tài sản gửi để làm tin).
3.4.Hàng hoá tồn kho (dự trữ)
Khoản mục này bao gồm vật tư, hàng hoá, thành phẩm, giá trị sản phẩm dở dang.
Việc dự trữ mặc dù có chi phí nhưng nó cũng mang lại lợi ích cho doanh nghiệp, chẳng hạn như doanh nghiệp dự trữ một lượng lớn thành phẩm thì sẽ không bị mất cơ hội khi thị trường trở nên khan hiếm loại hàng hoá này. Nếu doanh nghiệp dự trữ một lượng nhỏ thành phẩm thì chẳng những bị lơ cơ hội khi hàng hoá khan hiếm và giá cả lên cao mà còn khó có khả năng thực hiện được hợp đồng giao hàng một cách chính xác. Tương tự như vậy, ta có thể thấy rằng nếu doanh nghiệp dự trữ nguyên vật liệu quá ít thì có thể dẫn tới tình trạng ngừng sản xuất do thiếu nguyên vật liệu.
3.5.Tài sản lưu động khác
Tạm ứng (cho công nhân viên chức) và chi phí trả trước (chi phí đã phát sinh nhưng có tác dụng tới kết quả nhiều kỳ hoạch toán, được tính vào chi phí của nhiều kỳ.
Ngoài ra, tài sản lưu động còn bao gồm các khoản chi phí sự nghiệp dở dang hoặc đã kết thúc nhưng đang chờ quyết toán. Chi phí sự nghiệp là những khoản chi phí của doanh nghiệp cho những công việc, những hoạt động được trang trải bằng nguồn kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp, cấp trên cấp phát.
Trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp thì tài sản lưu động chủ yếu được thể hiện ở các bộ phận là tiền mặt, các chứng khoán có tính lỏng cao, phải thu và hàng tồn kho. Quản lý các tài sản lưu động có ảnh hưởng hết sức quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp.
4. các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý tài sản lưu động của doanh nghiệp.
ý nghĩa của việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả quản lý tài sản lưu động của doanh nghiệp không nằm ngoài hai mục đích là nhằm xác định sự thay đổi của tài sản lưu động chịu ảnh hưởng của những nhân tố nào và quan trọng hơn là dự đoán sự biến động của các nhân tố này có ảnh hưởng như thế nào tới hiệu quả quản lý tài sản lưu động.
Trên thực tế có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả quản lý tài sản lưu động có thể khái quát một số nhân tố cơ bản sau đây:
4.1.Nhóm nhân tố khách quan
Đây là nhóm nhân tố nằm ngoài khả năng kiểm soát của doanh nghiệp và vì không thể tác động vào những nhân tố này được nên doanh nghiệp cần phải tận dụng triệt để những thuận lợi và từ điều chỉnh để thích ứng với những khó khăn do các nhân tố này mang lại. Thuộc nhóm nhân tố này gồm:
] Nhu cầu tiêu dùng.
ở đây ta đề cập đến nhu cầu tiêu dùng của thị trường đối với sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra. Yếu tố này luôn ảnh hưởng quyết định đến quy mô và cơ cấu hàng hoá của một doanh nghiệp sản xuất ra. Để đáp ứng được sự thay đổi của nhu cầu thị trường, doanh nghiệp phải tăng hay giảm lượng vật tư nguyên vật liệu cũng như hay thậm chí phải thay đổi cơ cấu hàng hoá, chuyển đổi quy trình sản xuất, tổ chức lại mạng lưới phân phối, cung cấp thêm các dịch vụ kèm theo, thay thế sản phẩm cũ bằng sản phẩm mới... từ đó dẫn tới những thay đổi lớn lao trong cơ cấu và quy mô tài sản lưu động đòi hỏi công tác quản lý tài sản lưu động cũng phải có những thay đổi tương ứng, kịp thời và phù hợp.
] Thị trường các nhân tố đầu vào
Bất kỳ doanh nghiệp nào muốn sản xuất đều phải có các yếu tố đầu vào và nếu như tài sản cố định là một nhân tố đầu vào được doanh nghiệp mua hay thuê ngay từ khi mới thành lập và sử dụng trong thời gian dài thì các nhân tố đầu vào thuộc nhóm tài sản lưu động đòi hỏi doanh nghiệp phải mua sắm thường xuyên liên tục. Do đó, sự biến động trên thị trường nhân tố đầu vào thuộc nhóm tài sản lưu động như: thị trường nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ.. có ảnh hưởng rất lớn tới việc quản lý tài sản lưu động của doanh nghiệp, bất kỳ một sự thay đổi nào dù lớn hay nhỏ về phía nhà cung cấp cũng như giá cả, chất lượng của thị trường này cũng đòi hỏi nhà quản trị doanh nghiệp phải có những biện pháp ứng phó kịp thời nhằm quản lý tài sản lưu động có hiệu quả hơn phù hợp với tình hình mới.
] Cơ sở hạ tầng xã hội
Việc bố trí cơ sở sản xuất kinh doanh tại những đầu mối giao thông quan trọng thuận tiện sẽ đem lại cho doanh nghiệp nhiều lợi ích trong việc vận chuyển nguyên vật liệu, hàng hoá tiêu thụ sản phẩm... từ đó việc quản lý tài sản lưu động cũng có nhiều thuận lợi hơn.
] Môi trường Kinh tế -Chính trị- Xã hội
Những chính sách của Nhà nước về quản lý tài chính doanh nghiệp, thuế... có ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý tài sản lưu động của doanh nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế. Tương tự như vậy môi trường Chính trị - Xã hội cũng có ảnh hưởng nhất định đến việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và công tác quản lý tài sản lưu động nói riêng.
4.2.Nhân tố chủ quan
Đây là những nhân tố thuộc doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể kiểm soát, điều chỉnh được. Cụ thể gồm:
] Đặc điểm ngành sản xuất kinh doanh
Đặc điểm của ngành sản xuất kinh doanh có liên quan đến chu kỳ kinh doanh, mỗi ngành khác nhau thì sản phẩm, hàng hoá sản xuất ra cũng có những đặc tính khác nhau, do đó chu kỳ kinh doanh của sản phẩm, hàng hoá đó cũng khác nhau. Điều này ảnh hưởng tới toàn bộ quyết định có liên quan đến việc sử dụng tài sản lưu động như: dự trữ nguyên vật liệu nào, trong bao lâu, duy trì lượng tiền mặt là bao nhiêu vận dụng chính sách tín dụng thương mại như thế nào...? Nếu chu kỳ kinh doanh càng dài thì thời gian thu hồi vốn càng lâu, vòng quay của vốn lưu động chậm và kết quả là hiệu quả quản lý tài sản lưu động sẽ thấp và ngược lại.
] Trình độ của cán bộ công nhân viên chức.
Đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới hiệu quả quản lý tài sản lưu động của tất cả các doanh nghiệp. Rõ ràng là trình độ cán bộ công nhân viên càng cao thì sẽ càng có những quyết định đúng đắn trong việc quản lý tài sản lưu động, giúp doanh nghiệp tiết kiệm được vốn và đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh cao.
] Cơ sở vật chất của doanh nghiệp.
Ta không thể phủ nhận là cơ sở vật chất là một yếu tố không kém phần quan trọng trong việc thay đổi hình thái vật chất của tài sản lưu động, chuyển toàn bộ giá trị của chúng vào sản phẩm, hàng hoá. ở đây ta đề cập đến dây chuyền sản xuất, máy móc, thiết bị... nếu những yếu tố này hiện đại tiên tiến sẽ góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển hoá giá trị của tài sản lưu động vào sản phẩm điều này đồng nghĩa với việc rút ngắn thời gian dự trữ nguyên vật liệu, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động và ngược lại.
Ngoài các nhân tố kể trên còn có rất nhiều các nhân tố khác cũng có ảnh hưởng tới hiệu quả quản lý tài sản lưu động của doanh nghiệp như: cạnh tranh, quan hệ với khách hàng, chính sách tài chính doanh nghiệp, chính sách tín dụng thương mại của doanh nghiệp...
5. Các nội dung quản lý tài sản lưu động
5.1.Quản lý tiền
Tiền được hiểu là tiền tồn quỹ, tiền trên tài khoản thanh toán của doanh nghiệp ở ngân hàng. Nó được sử dụng để trả lương, mua nguyên vật liệu, mua tài sản cố định, trả nợ…
Bản thân tiền là loại tài sản ít sinh lời, do vậy trong hoạt động quản lý tiền, việc tối thiểu hoá lượng tiền là mục tiêu quan trọng nhất.
Trong việc quản lý tiền, các doanh nghiệp thường sử dụng chứng khoán có tính lỏng cao để duy trì tiền ở mức mong muốn. Do đó việc quản lý tiền liên quan chặt chẽ đến việc quản lý các loại chứng khoán có khả năng thanh khoản cao.
Các loại chứng khoán gần như tiền mặt giữ vai trò như một bước đệm cho tiền mặt do khả năng chuyển đổi dễ dàng thành tiền của chúng.
Dựa vào mối tương quan và mô hình quản lý dự trữ theo phương pháp cổ điển hay mô hình đặt hàng có hiệu quả nhất - EOQ (Economic Odering Quantity) ta có một cách nhìn tổng quát trong quản lý tiền mặt như sau:
Giả sử rằng doanh nghiệp có một lượng tiền và phải dùng nó để trả cho các hoá đơn một cách đều đặn. Khi lượng tiền này hết, doanh nghiệp phải bán các chứng khoán có khả nằng thanh khoản cao để lại có lượng tiền như ban đầu. Chi phí lưu giữ tiền ở đây chính là chi phí cơ hội trong trường hợp quản lý dự trữ và chính là lãi suất doanh nghiệp bị mất đi do giữ tiền. Chi phí đặt hàng là chi phí cho việc bán chứng khoán.
Gọi: i là lãi suất doanh nghiệp mất đi do việc giữ tiền.
M là lượng tiền dự trữ của doanh nghiệp.
Chi phí cơ hội sẽ là:
Chi phí cơ hội M
= i
của việc giữ tiền 2
Công thức 6
Và nếu gọi: Mn là tổng mức tiền giải ngân mỗi năm
Cb là chi phí cho một lần bán chứng khoán thanh khoản
Như vậy, tổng chi phí cho việc bán chứng khoán thanh khoản sẽ là:
Tổng chi phí cho việc bán Mn
= Cb
chứng khoán thanh khoản M
Công thức 7
Vậy tổng chi phí dự trữ tiền sẽ là:
M Mn
TC = i + Cb
2 M
Công thức 8
Lấy vi phân theo M ta có TC nhỏ nhất khi M bằng:
Công thức 9
Trong đó M* là lượng tiền dự trữ tối ưu.
Ta thấy rằng, lãi suất càng cao thì doanh nghiệp càng giữ ít tiền, đồng thời chi phí cho việc bán chứng khoán càng cao thì doanh nghiệp càng giữ nhiều tiền.
Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, lượng tiền vào và ra thường không đều đặn nên mức dự trữ tiền dự kiến dao động trong một khoảng.Tức là lượng tiền dự trữ sẽ biến thiên từ cận thấp đến cận cao nhất. Nếu lượng tiền dưới giới hạn dưới thì doanh nghiệp phải bán chứng khoán để có lượng tiền ở mức dự kiến, ngược lại tại giới hạn trên doanh nghiệp sử dụng số tiền vượt quá mức giới hạn cần mua chứng khoán để đưa lượng tiền về mức dự kiến.
Khoảng dao động tiền dự kiến phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản sau:
Mức giao động của thu chi ngân quỹ hàng ngày lớn hay nhỏ. Sự giao động này được thể hiện ở phương sai của thu chi ngân quỹ. Phương sai của thu chi ngân quỹ là tổng các bình phương (độ chênh lệch) của thu chi ngân quỹ thực tế và thu chi bình quân. Phương sai càng lớn thì thu chi ngân quỹ thực tế càng có xu hướng khác biệt nhiều so với thu chi bình quân. Khi đó doanh nghiệp cũng sẽ quy định khoảng dao động tiền cao.
Chi phí cố định của việc mua bán chứng khoán. Khi chi phí này lớn người mua muốn giữ tiền nhiều hơn và khi đó khoảng dao động tiền sẽ lớn.
Lãi suất càng cao, doanh nghiệp sẽ càng giữ lại ít tiền và do vậy khoảng dao động tiền sẽ giảm xuống.
Khoảng dao động tiền được xác định bằng các công thức sau:
Công thức 10
Trong đó:
d: khoảng cách của giới hạn trên và giới hạn dưới của lượng tiền dự trữ
Cb:chi phí của mỗi lần giao dịch mua bán chứng khoán
Vb:phương sai của thu chi ngân quỹ
i: lãi suất
Mức tiền theo thiết kế được xác định như sau:
Mức tiền Mức tiền mặt Khoảng dao động TM
= +
theo thiết kế giới hạn dưới 3
Công thức 11
5.2.Quản lý các khoản phải thu
Trong nền kinh tế thị trường, việc mua bán chịu là tất yếu. Do vậy doanh nghiệp nào cũng xây dựng một chính sách tín dụng thương mại phù hợp bởi nó có thể giúp doanh nghiệp đứng vững trên thị trường, mở rộng hoạt động nhưng cũng có thể đem đến những rủi ro cho hoạt động của doanh nghiệp qua các yếu tố sau đây:
Tác động của doanh thu: nhờ bán chịu mà doanh nghiệp có thể làm tăng khối lượng hàng hoá tiêu thụ, đồng thời có thể bán với giá cao hơn làm tăng doanh thu bán hàng.
Tác động của chi phí: tín dụng thương mại làm giảm chi phí tồn kho của hàng hoá. Tuy nhiên tín dụng thương mại làm tăng chi phí có liên quan đến khoản phải thu như chi phí đòi nợ, đồng thời làm tăng chi phí trả cho nguồn tài trợ ngắn hạn để bù đắp sự thiếu hụt ngân quỹ.
Xác suất không trả tiền của người mua: khi đó thu nhập của doanh nghiệp bị giảm sút.
Với các tác động nêu trên, doanh nghiệp phải tiến hành phân tích tín dụng thương mại, trước hết là phân tích khả năng tín dụng của khách hàng. Công việc này bắt đầu bằng việc doanh nghiệp xây dựng một tiêu chuẩn tín dụng hợp lý đạt tới sự cân bằng giữa thu nhập và rủi ro. Sau đó, doanh nghiệp tiến hành xác minh phẩm chất tín dụng của khách hàng tiềm năng, dựa trên thông tin tín dụng bao gồm Báo cáo tài chính (Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, Bảng kế hoạch ngân quỹ…), báo cáo tín dụng về tình hình thanh toán của khách hàng đối với các doanh nghiệp khác, các ngân hàng, lịch sử thanh toán của khách hàng đối với các doanh nghiệp khác… Nếu khả năng tín dụng của khách hàng phù hợp với những tiêu chuẩn tối thiểu mà doanh nghiệp đưa ra thì tín dụng thương mại có thể được cấp.
Sau khi phân tích khả năng tín dụng của khách hàng, doanh nghiệp sẽ tiến hành đánh giá tín dụng. Việc phân tích này dựa vào việc phân tích NPV của luồng tiền.
Giả sử một khách hàng muốn mua một sản phẩm theo phương thức bán chịu với giá một đơn vị sản phẩm là P’. Nếu doanh nghiệp từ chối việc bán chịu thì khách hàng sẽ không mua. Nếu doanh nghiệp đồng ý bán chịu trong một thời hạn nào đó thì khách hàng có thể sẽ không trả tiền. Xác suất không trả tiền là p. Doanh lợi đòi hỏi về các khoản phải thu đối với thời hạn bán chịu là R, chi phí các khoản phải thu là V.
Nếu doanh nghiệp không bán chịu cho khách hàng thì tiền thu tăng thêm vào ngân quỹ là 0.
Nếu doanh nghiệp bán chịu cho khách hàng thì doanh nghiệp phải bỏ ra một khoản chi phí biến đổi là V và để thu được (1-p) P‘ vào ngân quỹ khi hết hạn cấp tín dụng.
Giá trị hiện tại ròng của việc cấp tín dụng thương mại là:
(1-p) P‘
NPV = - V +
1+R
Công thức 12
Nếu NPV > 0 thì doanh nghiệp nên cấp tín dụng cho khách hàng.
Sau khi đã quyết định cấp tín dụng thương mại cho khách hàng, doanh nghiệp theo dõi các khoản phải thu để có thể thay đổi chính sách tín dụng thương mại kịp thời. Thông thường, doanh nghiệp dựa vào các chỉ tiêu, phương pháp và mô hình sau:
Kỳ thu tiền bình quân đươc xác định bằng thương số của các khoản phải thu chia cho doanh thu tiêu thụ bình quân một ngày.
Khi kỳ thu tiền bình quân tăng lên mà doanh số bán và lợi nhuận không tăng thì có ngiã là vốn của doanh nghiệp bị ứ đọng trong khâu thanh toán. Khi đó nhà quản lý phải có biện pháp can thiệp kịp thời.
Sắp xếp “tuổi” của các khoản phải thu.Theo phương pháp này, nhà quản lý sắp xếp các khoản phải thu theo độ dài thời gian.
Xác định số dư tài khoản phải thu.
Theo phương pháp này, các khoản phải thu sẽ hoàn toàn không chịu ảnh hưởng bởi yếu tố thay đổi theo mùa vụ của doanh số bán, giúp doanh nghiệp theo dõi được nợ tồn đọng của khách hàng đối với doanh nghiệp.
5.3. Quản lý dự trữ
Vốn lưu động là giá trị của tài sản lưu động. Trong quá trình luân chuyển của vốn lưu động phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh thì việc tồn tại vật tư hàng hoá dự trữ là những bước đệm cần thiết. Hàng hoá tồn kho có ba loại: nguyên vật liệu thô phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh, sản phẩm dở dang và thành phẩm.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp không thể tiến hành sản xuất đến đâu mua hàng đến đó mà cần có nguyên vật liệu dự trữ. Nguyên vật liệu dự trữ không trực tiếp tạo ra lợi nhuận nhưng có vai trò rất lớn để cho quá trình sản xuất kinh doanh tiến hành được bìng thường. Do vậy, nếu doanh nghiệp dự trữ quá lớn sẽ tốn kém, ứ đọng vốn, còn nếu dự trữ quá nhỏ sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn gây ra hàng loạt các hậu quả tiếp theo.
Doanh nghiệp khi tiến hành dự trữ hàng hoá thì bản thân doanh nghiệp sẽ phải bỏ ra những chi phí nhất định nhưng tựu trung lại có hai loại:
ơ Chi phí cơ hội:
Là chi phí liên quan đến việc tồn trữ hàng hoá gồm có chi phí hoạt động và chi phí tài chính.
Nếu gọi lượng hàng hoá cung ứng mỗi lần là Q thì dự trữ trung bình là Q/2.
C1 là chi phí lưu kho thì tổng chi phí lưu kho sẽ là C1Q/2.
ư Chi phí đặt hàng:
Chi phí này bao gồm chi phí quản lý giao dịch và vận chuyển hàng hoá. Chi phí đặt hàng thường không ổn định phụ thuộc vào số lượng hàng hoá được mua.
Nếu gọi D là toàn bộ lượng hàng hoá cần sử dụng trong một đơn vị thời gian (năm, quý, tháng) thì số lượng cần cung ứng hàng hoá sẽ là D/Q.
Gọi C2 là chi phí mỗi lần đặt hàng thì tổng chi phí đặt hàng sẽ là C2D/Q.
Gọi TC là tổng chi phí tồn trữ hàng hoá ta sẽ có:
Q D
TC = C1 + C2
2 Q
Công thức 13
Lấy vi phân TC theo Q ta có TC nhỏ nhất khi:
Công thức 14
Với Q* là mức dự trữ tối ưu.
Qua đây ta thấy, doanh nghiệp cần xác định cho mình mức dự trữ tối ưu mà ở đó chi phí đặt hàng cân bằng với chi phí cơ hội.
Ngoài ra, trong quản lý dự trữ, doanh nghiệp cần xác định điểm đặt hàng lại sao cho hợp lý. Bởi vì nếu đặt hàng quá sớm sẽ làm tăng lượng nguyên liệu tồn kho, còn nếu đặt hàng muộn sẽ làm mất cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp.
Thời điểm đặt hàng lại mới là thời điểm mà nguyên liệu tồn kho bằng số nguyên liệu sử dụng mỗi ngày nhân với độ dài của thời gian giao hàng.
Mặt khác, do nguyên vật liệu sử dụng mỗi ngày không phải là số định mà chúng biến động không ngừng nên để đảm bảo cho sự ổn định của sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải duy trì một lượng dự trữ an toàn, tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp.
Lượng dự trữ an toàn là lượng hàng hoá dự trữ thêm vào lượng dự trữ tại thời điểm đặt hàng.
5.4.Các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng tài sản lưu động:
ơ Nhóm chỉ tiêu về tốc độ luân chuyển của vốn lưu động
Hệ số luân chuyển vốn lưu động: (vòng quay vốn lưu động) cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ kinh doanh hay số lần vốn lưu động được chuyển thành doanh số. Hệ số luân chuyển càng lớn càng tốt.
Hệ số luân Doanh thu thuần
chuyển vốn =
lưu động Vốn lưu động bình quân
Công thức 15
Thời gian một vòng luân chuyển vốn lưu động thể hiện số ngày cần thiết để vốn lưu động quay được một vòng. Thời gian một vòng luân chuyển càng nhỏ thì hệ số luân chuyển vốn lưu động càng cao.
Thời gian một 360
vòng luân chuyển =
vốn lưu động Hệ số luân chuyển vốn lưu động
Công thức16
Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động cho biết để tạo ra một đồng doanh thu thì cần mấy đồng vốn lưu động. Hệ số này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao, số vốn tiết kiệm được càng nhiều.
Hệ số đảm Vốn lưu động bình quân
nhiệm vốn =
lưu động Doanh thu thuần
Công thức17
ưChỉ tiêu về khả năng sinh lợi của vốn lưu động.
Chỉ tiêu này cho biết 100 đồng vốn lưu động tạo được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Khả năng sinh lợi vốn lưu động càng cao thì hiệu quả sử dụng tài sản lưu động càng lớn.
Khả năng Lợi nhuận
Sinh lợi vốn = * 100%
lưu động Tài sản lưu động
Công thức 18
đCác chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý của từng tài sản lưu động:
] Vòng quay hàng tồn kho
Vòng quay Doanh thu thuần
=
hàng tồn kho Giá trị hàng tồn kho
Công thức 19
Vòng quay hàng tồn kho là số lần dự trữ được chuyển thành doanh thu thuần trong một thời hạn nhất định (thường là một năm).
Nếu mức quay vòng vốn càng cao thì công ty lưu giữ càng ít số hàng tồn kho để tạo ra một lượng doanh số nhất định. Số hàng tồn kho càng ít thì số vốn ứ đọng càng ít và như vậy, nhìn chung, mức quay vòng tồn kho càng cao càng tốt.
] Vòng quay các khoản phải thu
Vòng quay Khoản phải thu
các khoản =
phải thu Mức bán hàng trong năm/360
Công thức 20
Vòng quay các khoản phải thu cho biết mức hợp lý của khoản phải thu và hiệu quả thu hồi nợ.
Nếu khoản phải thuđược thu hồi nhanh chóng thì số vòng luân chuyển các khoản phải thu sẽ cao và công ty ít bị chiếm dụng vốn, tuy nhiên nếu quá cao sẽ ảnh hưởng đến khối lượng hàng hoá tiêu thụ do phương thức thanh toán quá chặt chẽ.
¯Chu kỳ vận động của tiền mặt:
Đây là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của quá trình quản lý vốn lưu động. Chu kỳ vận động của tiền mặt là thời gian từ khi thanh toán khoản mục nguyên liệu đến khi thu được tiền từ những khoản phải thu do việc bán sản phẩm cuối cùng.
Có thể hình dung trình tự vận động như sau:
Công ty mua nguyên vật liệu để sản xuất, phần lớn những khoản mua này chưa phải trả ngay, tạo nên những khoản phải trả. Do vậy việc mua trong trường hợp này không ảnh hưởng ngay đến luồng tiền.
Lao động được sử dụng để chuyển nguyên vật liệu thành sản phẩm cuối cùng và thông thường tiền lương không được trả ngay vào lúc công việc được thực hiện, từ đó hình thành các khoản lương phải trả (phải trả khác)
Hàng hoá thành phẩm được bán, nhưng là bán chịu, do đó tạo nên khoản phải thu và từ đó việc bán hàng không tạo nên luồng tiền vào ngay lập tức.
Tại một thời điểm nào đó trong quá trình vận động nói trên doanh nghiệp phải thanh toán những khoản phải trả và nếu những khoản thanh toán này được thực hiện trứơc khi thu được những khoản phải thu thì sẽ tạo ra những luồng tiền ra ròng. Luồng tiền ra này phải được tài trợ bằng một biện pháp nào đó.
Chu kỳ vận động của tiền mặt khi doanh nghiệp thu được những khoản phải thu. Khi đó công ty sẽ trả hết nợ được sử dụng để tài trợ cho việc sản xuất và chu kỳ được lặp lại.
Từ sự xem xét trình tự vận động của vốn lưu động ta có thể rút ra những công thức cơ bản sau:
Chu kỳ vận Thời gian vận Thời gian thu Thời gian chậm
động của =động của + hồi khoản - trả của khoản
tiền mặt nguyên vật liệu phải thu phải trả
Công thức 22
Trong đó:
Thời gian vận Hàng tồn kho
động của =
nguyên vật liệu Mức bán mỗi ngày
Công thức 23
Thời gian vận động của nguyên vật liệu là độ dài thời gian trung bình để chuyển nguyên vật liệu thành sản phẩm cuối cùng và thơì gian để bán những sản phẩm đó. Hàng tồn kho bao gồm nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm tồn kho.
Thời gian thu Khoản phải thu
hồi những khoản =
phải thu Mức bán hàng trong năm/360
Công thức 24
Thời gian thu hồi những khoản phải thu là độ dài thời gian trung bình để chuyển những khoản phải thu của công ty thành tiền mặt.
Thời gian chậm Khoản phải trả
trả những =
khoản phải trả Giá vốn hàng bán trong năm /360
Công thức 25
Thời gian chậm trả những khoản phải trả là độ dài thời gian trung bình từ khi mua nguyên vật liệu và lao động đến khi thanh toán những khoản đó.
Công thức (15) có thể được viết theo một cách khác:
Thời gian Thời gian trì Thời gian
Trì hoãn do - hoãn do thanh = trì hoãn
thu tiền chậm toán chậm ròng
Công thức 26
Mục tiêu của công ty là rút ngắn chu kỳ vận động của tiền mặt càng nhiều càng tốt mà không có hại cho sản xuất. Khi đó lợi nhuận sẽ tăng lên và chu kỳ càng dài thì nhu cầu tài trợ từ bên ngoài càng lớn và mỗi nguồn tài trợ đều mang một chi phí nên lợi nhuận sẽ giảm.
Từ các công thức trên ta thấy chu kỳ vận động của tiền mặt có thể được giảm bằng các biện pháp giảm các chu kỳ vận động của các thành phần của nó như sau:
Giảm bớt thời gian vận động nguyên vật liệu thông qua sản xuất và bán hàng nhanh hơn.
Giảm thời gian thu hồi những khoản phải thu bằng việc tăng tốc độ thu.
Kéo dài thời gian chậm trả những khoản phải trả bằng việc trì hoãn thanh toán.
Những hoạt động trên được tiến hành trong một chừng mực mà chúng không làm tăng chi phí hoặc làm giảm bán hàng.
Chương 2:
Thực trạng khả năng thanh toán và tình hình quản lý tài sản lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế -Coalimex.
I.Giới thiệu chung về công ty Coalimex
1.Lịch sử hình thành và phát triển của công ty
Ban đầu công ty có tên là Công ty Xuất khẩu than và cung ứng vật tư được thành lập ngày 01- 01-1982 theo quyết định số 65 của Bộ mỏ và than chuyển công ty vật tư thành công ty xuất nhập khẩu và cung ứng vật tư, trực thuộc Bộ mỏ và than về sau trực thuộc Bộ năng lượng. Nhiệm vụ chính của công ty trong thời gian này là xuất khẩu than và cung ứng các trang thiết bị, vật tư kỹ thuật, thuốc nổ công nghiệp phục vụ cho quá trình khai thác và sản xuất của ngành than.
Tháng 1/1995, sau khi Tổng công ty than Việt Nam được thành lập, công ty được chuyển về và chính thức trở thành thành viên của Tổng công ty than Việt Nam, quy mô của công ty lúc này bị thu nhỏ lại chỉ còn trụ sở chính ở Hà Nội và hai chi nhánh ở Quảng Ninh và thành phố Hồ Chí Minh, 3 xí nghiệp trực thuộc công ty trước đây là xí nghiệp hoá chất mỏ, xí nghiệp vật tư vận tải Hải Phòng và xí nghiệp thu mua vật tư thiết bị được tách ra thành lập đơn vị riêng. Lúc này công việc của công ty trong ngành than bị thu hẹp hơn.Toàn bộ thị trường lớn xuất khẩu than chuyển lên Tổng công ty than thực hiện, công ty chỉ được phép giao dịch khai thác những khách hàng nhỏ lẻ ở thị trường mới.
Trước năm 1995, công ty gặp nhiều khó khăn trong công tác quản lý và kinh doanh của mình nhưng từ năm 1995 trở đi công ty đã xây dựng ban hành, thực hiện các hiệu quả kinh tế sau:
Giao khoán kế hoạch doanh thu, chi phí đơn giá tiền lương cho các đơn vị kinh doanh.
Quy chế trả lương (khuyến khích cá nhân có nhiều đóng góp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty).
Quy định thi đua khen thưởng hàng năm.
Nhờ những quy định và quy chế trên đã khuyến khích động viên được cán bộ công nhân viên hăng say lao động,yên tâm đưa hết sức lực và trí tuệ vào làm việc cho công ty.Vì vậy hàng năm tăng doanh thu, tăng lãi gộp, nộp ngân sách Nhà nước đầy đủ, tăng dần thu nhập cho cán bộ công nhân viên.
Ngày 25/12/1996 theo quyết định 3910 QĐ/TCCB của Bộ trưởng Bộ công nghiệp, công ty chính thức đổi tên thành Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế như ngày nay.
Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế là doanh nghiệp Nhà nước, hạch toán độc lập đơn vị thành viên của Tổng công ty than Việt Nam - Bộ công nghiệp.
Công ty có trụ sở chính tại: 47 Phố Quang Trung - Quận Hoàn Kiếm - Thành phố Hà Nội.
Tên giao dịch quốc tế:
COALIMEX, EXPORT IMPORT AND
INTERNATIONAL CooPERATION COMPANY
Tên viết tắt là: COALIMEX
Các đơn vị trực thuộc:
1chi nhánh ở tỉnh Quảng Ninh
1chi nhánh ở Thành phố Hồ Chí Minh
1xưởng sản xuất đá ăn sạch HCM
Các chi nhánh các đơn vị trực thuộc, hạch toán phụ thuộc, các đơn vị này gắn bó với nhau một cách chặt chẽ về mặt lợi ích kinh tế, dịch vụ, thông tin cung ứng, tiêu thụ… nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu của toàn công ty, hoàn thành tốt nhiệm vụ của Tổng công ty giao và nhu cầu vật tư nguyên vật liệu cho sản xuất công nghiệp.Với số vốn đăng ký kinh doanh khi trở thành đơn vị thành viên của Tổng công ty than Việt Nam ngày 25/12/1996 là 15.085.189.483 VND trong đó vốn cố định là: 6.054.935.972 VND vốn lưu động là: 9.030.253.511 VND.
Từ năm 1996 đến nay, công ty luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ và hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu được Tổng công ty than Việt Nam giao. Ngoài ra công ty còn hoạt động kinh doanh có hiệu quả, chấp hành tốt các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình công ty không những bảo toàn vốn mà còn phát triển vốn đồng thời cũng chú trọng nâng cao trình độ quản lý, kinh doanh của cán bộ công nhân viên của công ty.
2.Chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm kinh doanh của công ty
2.1.Các chức năng, nhiệm vụ cơ bản của công ty
Tuỳ thuộc vào từng thời kỳ kinh doanh mà công ty có các nhiệm vụ khác nhau, trong điều kiện hiện nay thì công ty có những chức năng, nhiệm vụ cơ bản sau:
Nhận nhập khẩu uỷ thác và kinh doanh vật tư thiết bị phụ tùng, xe máy, phương tiện vận tải, kim khí, nguyên vật liệu, hoá chất cho sản xuất công nghiệp, hàng tiêu dùng.
Hợp tác lao động quốc tế: tìm kiếm việc làm và đưa người Việt Nam đi lao động và đào tạo ở nước ngoài.
Kinh doanh sản xuất nước đá ăn sạch tại thành phố Hồ Chí Minh
2.2. Đặc điểm, tình hình kinh doanh của công ty.
Công ty Coalimex là doanh nghiệp Nhà nước, hạch toán độc lập và là đơn vị thành viên của Tổng công ty than Việt Nam. Chính vì vậy, mà hoạt động kinh doanh chủ yếu của công ty là xuất nhập khẩu phục vụ cho ngành than Việt Nam.
Hoạt động kinh doanh chủ yếu của công ty là xuất khẩu than và nhập khẩu các loại vật tư thiết bị phục vụ ngành than. Xuất phát từ đặc điểm hoạt động kinh doanh như vậy, công ty Coalimex đã tổ chức hoạt động kinh doanh như sau:
Ngoài hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ngoài ngành than theo đúng nhu cầu của thị trường, xuất khẩu lao động quốc tế, sản xuất kinh doanh một xưởng sản xuất nước đá ăn sạch tại thành phố Hồ Chí Minh. Song hoạt động chủ yếu của công ty vẫn là xuất khẩu than, nhập khẩu uỷ thác và kinh doanh các loại vật tư, thiết bị phục vụ quá trình khai thác và chế biến than.
Hàng năm lượng than công ty xuất khẩu ra thị trường thế giới đạt tới 500.000 tấn trị giá 15.000.000 USD. Loại than mà công ty thường xuất khẩu là ANTRACITE. Đây là loại than Việt Nam có chất lượng cao, độ tro thấp và hàm lượng lưu huỳnh thấp. Than ANTRACITE được công ty xuất khẩu phần lớn sang các nước Tây Âu, Thái Lan, Hàn Quốc,Trung Quốc, Bungary và châu Mỹ la tinh…
Nhập khẩu vật tư thiết bị phục vụ ngành than dưới sự chỉ đạo của Tổng công ty than Việt Nam theo cơ chế đấu thầu. Đồng thời công ty còn tìm kiếm các đối tác ngoài ngành khác để nhập khẩu các loại hàng hoá ngoài ngành phục vụ cho nhu cầu của thị trường.
ơCông tác xuất khẩu than
Với những nỗ lực phi thường trong việc tìm kiếm và đáp ứng nhu cầu của khách hàng trên mọi miền thế giới,và bằng truyền thống và kinh nghiệm làm công tác xuất khẩu than lâu năm,nguyên tắc luôn giữ chữ tín với khách hàng trong và ngoài nước công ty đã tòm thêm được khách hàng mới,duy trì thị trường và khách hàng cũ nên hàng năm công ty đều hoàn thành vượt mức kế hoạch của Tổng công ty giao (có năm đạt 200% so với kế hoạch).
Công ty đã thực hiện nhiều đổi mới trong các mặt quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nhờ đó mà than Việt Nam đã được toàn thế giới biết đến là sản phẩm đứng đầu thế giới về chất lượng nhiệt năng cao, lưu huỳnh thấp… Lượng than xuất khẩu của Coalimex ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng cao (khoảng 1/4) trong kim ngạch xuất khẩu của Tổng công ty than Việt Nam.
ư Công tác nhập khẩu vật tư thiết bị
Công ty thường tham gia đấu thầu với nhiều đơn vị xuất nhập khẩu khác trong và ngoài ngành than, cơ chế đấu thầu đã bắt buộc công ty phải năng động, thu nhập thông tin nhạy bén từ hai phía người bán và người mua. Muốn vậy phải bám cơ sở sản xuất nhiều hơn, sự hợp tác giữa người nhập và người xuất đa dạng hơn, phong phú hơn và thiết thực hơn.
Để tồn tại và phát triển nhiệm vụ nhập khẩu vật tư thiết bị công ty đã tìm ra con đường đi cho mình là:
Đẩy mạnh nhập khẩu vật tư thiết bị phục vụ cho ngành than
Tranh thủ tìm kiếm khách hàng ngoài ngành than để nhập khẩu vật tư thiết bị theo yêu cầu của họ.
Chính nhờ chủ trương đúng đắn như vậy mà giá trị nhập khẩu của công ty ngày càng tăng, tỷ trọng nhập khẩu ngoài ngành tăng lên đáng kể tiến đến bằng và vượt tỷ trọng nhập khẩu trong ngành. Chỉ tính trong 5 năm (1997-2000) công ty đã nhập khẩu được số hàng trị giá 84.380.717 USD trong đó nhập trong ngành là 35.433.306 USD chiếm 42% còn nhập ngoài ngành là 48.947.411USD chiếm 58%.
đCông tác xuất khẩu lao động
Đây là một nghề rất mới đối với công ty và hiện tại trên thị trường cũng có ít tổ chức hành nghề này nhưng với năng lực và cố gắng của mình công ty quyết tâm thực hiện nghề nghiệp mới này và coi đó là công việc thứ ba của công ty sau xuất khẩu than và nhập khẩu vật tư thiết bị. Kể từ khi bắt tay vào công việc này đến nay chỉ vỏn vẹn 10 năm công ty đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể lập nên một nền tàng vững chắc về kinh nghiệm chuyên môn và có lượng khách hàng lâu dài tín nhiệm là bước đệm cho công ty đi vào một giai đoạn mới với những thành công to lớn hơn trong lĩnh vực mới mẻ này, và tin chắc rằng từ nay trở đi số lượng lao động xuất khẩu của công ty sẽ ngày càng vượt xa con số 640 người đã xuất khẩu từ năm 1992 đến nay.
Để tăng doanh thu, công ty còn phát triển kinh doanh đa ngành, kinh doanh khách sạn. Mặt khác còn thực hiện đầu tư mở rộng mô hình sản xuất kinh doanh mới phát huy tiềm năng nội lực. Công ty đã đầu tư xây dựng một xưởng sản xuất nước đá ăn sạch, thiết bị của Thái Lan và đưa vào hoạt động tại thành phố Hồ Chí Minh từ đầu năm 1999. Từ ngày 01/9/1999 công ty đã làm thủ tục chuyển khách sạn Thanh Nhàn thành công ty cổ phần du lịch Thanh Nhàn.
3.Bộ máy quản lý của công ty
Công ty Coalimex tổ chức quản lý theo mô hình trực tuyến, từ Giám đốc xuống thẳng các phòng ban mà không cần phải qua một khâu trung gian nào. Bộ máy quản lý trong công ty gọn nhẹ, đảm bảo hoạt động kinh doanh cao nhất với chế độ một thủ trưởng.
Đứng đầu công ty là Giám đốc do Hội đồng quản trị của Tổng công ty than Việt Nam bổ nhiệm, miễn nhiệm, Giám đốc điều hành mọi hoạt động của công ty theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước, theo điều lệ của công ty và là người chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị của Tổng công ty than Việt Nam và pháp luật đối với toàn bộ hoạt động của công ty.
Giúp việc cho Giám đốc là hai Phó Giám đốc chịu trách nhiệm quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh của các phòng ban và các chi nhánh mà Giám đốc không trực tiếp điều hành.
Dưới Ban giám đốc là các phòng ban, chi nhánh có chức năng thực hiện các nhiệm vụ do công ty giao phó. Các phòng ban chức năng này có nhiệm vụ giúp đỡ Giám đốc giải quyết và điều hành mọi lĩnh vực hoạt động kinh doanh của công ty. Các phòng kinh doanh cũng đồng thời hoạt động kinh doanh độc lập dưới sự điều hành của Giám đốc và Phó giám đốc.
Các chi nhánh, xưởng của công ty đứng đầu là Giám đốc các chi nhánh đơn vị này mặc dù có tư cách pháp nhân nhưng không đầy đủ hạch toán phụ thuộc và chịu sự giám sát chỉ đạo của Giám đốc công ty, được mở tài khoản tại ngân hàng theo quy định của pháp luật. Các đơn vị này được triển khai các hoạt động kinh doanh trong phạm vi được Giám đốc uỷ quyền.
Nhìn chung, cơ cấu tổ chức của công ty theo mô hình tổ chức chức năng đã giúp cho công ty tận dụng tốt khả năng chuyên môn nghiệp vụ của các thành viên. Đồng thời điều đó giúp cho công ty nhanh chóng nắm bắt được những thay đổi trên thị trường cũng như trong kinh doanh qua đó có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, cơ cấu này cũng đòi hỏi việc tổng hợp thông tin nhanh chóng phù hợp với tiến độ công việc của toàn công ty (điều này đã được công ty thực hiện rất tốt thông qua mạng máy vi tính hệ thống nội bộ).
Khối các phòng ban gồm có:
ăPhòng tổ chức nhân sự và thanh tra
Được sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc công ty, được quyền tham mưu giúp đỡ cho Giám đốc trong việc tổ chức bộ máy quản lý của công ty, tổ chức cán bộ đáp ứng yêu cầu kinh doanh sản xuất của đơn vị.
Phối hợp với các phòng kế hoạch kinh tế - tài chính phân phối điều tiết lợi nhuận, tiền lương, chế độ của Nhà nước...
Thực hiện chế độ chính sách cho cán bộ công nhân viên như tiền lương, BHXH, BHYT, KPCĐ, hưu trí...
Chỉ đạo trực tiếp công tác thanh tra bảo vệ của công ty.
ăPhòng kế hoạch kinh tế - tài chính
Được sự chỉ đạo trực tiếp từ Giám đốc thực hiện theo dõi quan sát toàn bộ hoạt động kinh doanh của công ty.
Đảm bảo sử dụng đúng mục đích có hiệu quả, bảo toàn vốn và phát triển vốn. Có trách nhiệm thanh toán công nợ của công ty.
Giao kế hoạch chỉ tiêu hàng năm doanh thu cho các phòng kinh doanh.
Thực hiện việc phản ánh mọi hoạt động kinh doanh, mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh, tổng hợp, giám sát và quản lý chặt chẽ. Phòng kế hoạch kinh tế - tài chính có nghĩa vụ tập hợp các số liệu cho các đơn vị thành viên, chi nhánh báo lên từ đó cung cấp cho Giám đốc những thông tin cần thiết để sớm đưa ra phương hướng kế hoạch trong kỳ sau.
Thực hiện nghiêm chỉnh chế độ kế toán, thống kê theo pháp luật hiện hành, chế độ báo cáo định kỳ hoặc bất thường theo quy định của Nhà nước và Tổng công ty than Việt Nam. Chịu trách nhiệm về tính chính xác của các báo cáo đó.
ăPhòng xuất than
Là phòng được điều hành trực tiếp từ Giám đốc với nhiệm vụ giao dịch, mua bán và ký kết hợp đồng, thực hiện các hợp đồng xuất khẩu than sang nhiều nước khác nhau trên thế giới như thị trường than Tây Âu, Nhật Bản, Thái Lan, Hàn Quốc, Bungary và Châu mỹ la tinh…Phòng xuất khẩu than đem lợi nhuận khá lớn về cho công ty chiếm tới 30% doanh thu của công ty và hiện nay công ty còn muốn đẩy con số này lên cao nữa. Làm dịch vụ uỷ thác cho các đơn vị thành viên của Tổng công ty than Việt Nam xuất khẩu các sản phẩm chế biến từ than…
ăPhòng hành chính tổng hợp
Thực hiện mọi sự chỉ đạo của Giám đốc về quản lý tài sản và điều hành các phương tiện vận tải, văn thư lưu trữ. Đáp ứng các yêu cầu kinh doanh sản xuất của công ty, lưu trữ toàn bộ các loại văn bản của cơ quan Nhà nước, Tổng công ty than Việt Nam và cũng là nơi tiếp nhận phát hành các loại văn bản cho các đơn vị khác có liên quan.
ăTrung tâm xuất khẩu lao động
Thành lập đầu năm 2001 trên cơ sở sát nhập hai phòng xuất nhập khẩu lao động 1 và 2, tăng cường thêm cán bộ và các điều kiện vật chất để trung tâm hoạt động. Trung tâm có nhiệm vụ chuẩn bị nguồn nhân lực và thực hiện các hợp đồng về hợp tác lao động quốc tế. Hiện nay các thị trường lao động mà công ty khai thác được đó là Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc. Từ khi thành lập đến nay trung tâm hoạt động ngày càng có hiệu quả, điều đáng ghi nhận trong công tác xuất khẩu lao động của công ty Coalimex là phương pháp tổ chức tuyển người, tổ chức giáo dục, dạy nghề và tìm được những đối tác tin cậy để gửi gắm người lao động…
ăPhòng nhập khẩu 1
Thực hiện các hợp đồng kinh doanh và nhận nhập khẩu uỷ thác các loại vật tư thiết bị, phụ tùng, xe máy, phương tiện vận tải và theo dõi thực hiện các đơn đặt hàng từ thị trường SNG.
ăPhòng nhập khẩu 2
Thực hiện các hợp đồng nhập khẩu uỷ thác và kinh doanh các loại vật tư thiết bị phụ tùng từ thị trường các nước tư bản như Nhật Bản, Hàn Quốc các nước Đông Nam á và Tây Âu.
Thực hiện tiếp việc nhập khẩu vật tư thiết bị đồng bộ cho hai xí nghiệp than Hòn Gai và Cửa Ông.
ăPhòng nhập khẩu 3
Thực hiện các hợp đồng kinh doanh và nhận nhập khẩu uỷ thác các loại vật tư thiết bị phục vụ cho các mỏ than hầm lò từ thị trường Trung Quốc, Ba Lan.
ăPhòng nhập khẩu 4
Thực hiện các hợp đồng kinh doanh và nhập khẩu uỷ thác các loại vật tư, thiết bị phục vụ cho các mỏ than lộ thiên từ tất cả các thị trường (trừ thị trường SNG).
ăPhòng nhập khẩu 5
Đây là phòng kinh doanh tổng hợp, phòng thực hiện các hợp đồng kinh doanh ngoài ngành chủ yếu là các loại vật tư, thiết bị, phụ tùng và hàng tiêu dùng theo nhu cầu của thị trường trong nước cũng như máy hút bụi, máy điều hoà, xe máy…
ăChi nhánh Coalimex Quảng Ninh
Là nơi thực hiện việc giao nhận than giữa các đơn vị có than xuất khẩu với các hãng vận tải, do khách hàng nước ngoài chỉ định đến nhận hàng tại cảng Cửa Ông và Hòn Gai theo hợp đồng đã ký của Tổng công ty và công ty Coalimex. Ngoài ra chi nhánh Coalimex Quảng Ninh còn tự khai thác tìm kiếm các đơn đặt hàng uỷ thác xuất khẩu than sang Trung Quốc và nhập khẩu kinh doanh các loại vật tư thiết bị dưới sự chỉ đạo của công ty.
ăChi nhánh Coalimex thành phố Hồ Chí Minh
Được sự uỷ quyền của Giám đốc công ty thực hiện trực tiếp ký hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu hay những đơn đặt hàng về vật tư thiết bị tổng hợp có trị giá trị dưới 100.000 USD và đồng thời kinh doanh một xưởng sản xuất nước đá ăn sạch.
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty Coalimex nói chung thực hiện rất rõ ràng, các phòng kinh doanh thực hiện việc đàm phán ký kết hợp đồng với các bạn hàng theo đúng chức năng và thị trường được giao theo điều lệ và giấy phép kinh doanh của công ty. Nhiệm vụ của từng phòng kinh doanh là: xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu, tổ chức thực hiện kế hoạch đó sau khi được công ty phê duyệt, tự mình tìm kiếm các hợp đồng xuất nhập khẩu kinh doanh hoặc uỷ thác...
4.TìNH HìNH KINH DOANH CủA CÔNG TY TRONG GIAI ĐOạN HIệN NAY
Qúa trình 20 năm hình thành và phát triển công ty Coalimex đã trải qua nhiều chặng đường đầy khó khăn gian khổ song cũng rực rỡ những thành công và tích góp được khá nhiều kinh nghiệm quý báu. Chính vì vậy trong giai đoạn 1999-2001 tuy bị ảnh hưởng bởi những khó khăn chung của nền kinh tế do cuộc khủng hoảng tài chính khu vực gây ra song với quyết tâm của mình công ty đã vượt qua được và ngày càng có vị thế vững chắc trên thị trường thế giới.
Bảng 1: Kết quả kinh doanh của công ty Coalimex trong giai đoạn 1999-2001
Tên chỉ tiêu
Đơn vị
1999
2000
2001
Xuất khẩu than
Triệu USD
12,7
17,5
24,4
Nhập khẩu vận tư thiết bị
Triệu USD
30,4
13,5
14,59
Doanh thu
Triệu VND
67816
62768
66564
Số nộp ngân sách
Triệu VND
8977
10183
29517
Lợi nhuận
Triệu VND
817
1089
1131
Thu nhập bình quân (người lao động)
Nghìn đồng / người/tháng
1580
1788
2050
Đầu tư mới
Triệu VND
650
1185
2851
Nguồn: Phòng Kế hoạch kinh tế - Tài chính Coalimex
Qua bảng trên ta thấy tuy doanh thu có giảm từ 67816 triệu đồng năm 1999 xuống còn 62768 triệu đồng năm 2000 song đến năm 2001 doanh thu đã có dấu hiệu hồi phục đáng mừng - tăng lên đến 66564 triệu đồng, đi đôi với điều này tình hình xuất khẩu than và nhập khẩu vật tư thiết bị ngày càng ổn định và có cơ cấu hợp lý chứng tỏ đây là bước chuyển mình của công ty sang một thời kỳ tăng trưởng và phát triển mới.
Đáng chú ý hơn hết là lợi nhuận và đầu tư mới của công ty luôn giữ được tốc độ tăng đáng kể bất chấp những khó khăn trong việc kinh doanh và giảm trừ doanh thu điều này chứng tỏ hoạt động kinh doanh của công ty ngày càng có hiệu quả và mang tính chuyên nghiệp hơn. Song song với kết quả khả quan này là thu nhập bình quân của người lao động trong công ty tăng không ngừng từ 1580 ngìn đồng/người/tháng năm 1999 lên 1788 ngìn đồng năm 2000 và đến năm 2001 đã đạt đến mức 2050 ngìn đồng. Đây chính là bằng chứng xác thực nhất và đáng kể nhất chứng tỏ rằng Coalimex ngày càng kinh doanh có hiệu quả góp phần nâng cao mức sống cho lao động.
Cũng cần lưu ý một điểm là trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình công ty không những bảo toàn được vốn mà còn phát triển vốn một cách mạnh mẽ.
Bảng 2: Tình hình biến động vốn của Coalimex trong giai đoạn 1999-20001
Đơn vị : triệu đồng
Chỉ tiêu
1999
2000
20001
Tổng nguồn vốn
80320
89107
108553
Nợ
71137
78363
93422
Vốn chủ sở hữu
9183
10744
15131
- Vốn cố định
3521
4102
5210
- VLĐ do NSNN cấp
2817
3131
4855
- VLĐ tự bổ sung
2845
3511
4174
Nguồn: Phòng Kế hoạch kinh tế - Tài chính Coalimex
Như bảng trên đây cho thấy nguồn vốn của công ty tăng khá nhanh từ 80320 triệu đồng đến năm 2001 đã đạt đến con số mà nhiều doanh nghiệp mơ ước là 108553 triệu đồng. Tuy nhiên, trong đó vốn chủ sở hữu chỉ chiếm từ 10-14% điều này nói lên rằng công ty đã tận dụng khá tốt đòn bẩy tài chính trong hoạt động kinh doanh của mình song là lời cảnh báo về tình trạng rủi ro tài chính khá cao của công ty. Ta cũng nhận thấy rằng vốn chủ sở hữu của công ty tăng liên tục từ 9183 triệu đồng năm 1999 lên 10744 triệu đồng năm 2000 và đạt tới 15131 triệu đồng năm 2001 và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của công ty. Song song với điều đó vốn lưu động tự bổ sung từ 2845 triệu đồng đã tăng đáng kể lên tới 4174 triệu đồng năm 2001.
II. Thực trạng về khả năng thanh toán và quản lý tài sản lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế -Coalimex
A.Thực trạng khả năng thanh toán
1.Vốn lưu động thường xuyên
Bảng 3: Vốn lưu động thường xuyên Đơn vị tính: triệu đồng
Tên chỉ tiêu
1999
2000
2001
So sánh
2000/1999
2001/2000
+
%
+
%
Tài sản lưu động (1)
44419
62668
117393
18249
41
62761
87
Nợ ngắn hạn (2)
35375
54632
104114
19257
54
49482
91
Vốn lưu động thường xuyên =(1) - (2)
9043
8036
13279
-1007
-11
5243
65
Nguồn:Phòng Kế hoạch kinh tế -tài chính công ty Coalimex
Theo bảng trên ta thấy Vốn lưu động thường xuyên của công ty rõ ràng luôn luôn dương điều này chứng tỏ Tài sản lưu động của công ty luôn lớn hơn Nợ ngắn hạn và chứng tỏ rằng doanh nghiệp có đủ khả năng trang trải các khoản nợ ngắn hạn bằng Tài sản lưu động của mình mà không cần phải dùng đến Tài sản cố định. Do đó, ta có thể khẳng định rằng khả năng thanh toán của doanh nghiệp khá vững vàng và lành mạnh.
Tuy nhiên, cũng nên lưu ý rằng chỉ tiêu Vốn lưu động thường xuyên còn không ổn định. Năm 2000 chỉ tiêu này bị giảm sút so với năm 1999 là 1007 triệu đồng (tương đương với 11%) trong khi đó năm 2001 chỉ tiêu này tăng vọt so với năm 2000 là 5243 triệu đồng (tương đương vơí 65%). Sở dĩ có điều này là do trong năm 2000 nợ ngắn hạn đã tăng 19257 triệu đồng nhanh hơn mức tăng của tài sản lưu động là 18249 triệu đồng, nhưng đến năm 2001 thì tình hình lại hoàn toàn ngược lại tài sản lưu động tăng nhanh với mức tăng là 62761 triệu đồng trong khi đó nợ ngắn hạn chỉ tăng 49482 triệu đồng do đó chỉ tiêu vốn lưu động thường xuyên tăng lên đến 13279 triệu đồng (tương đương với 65%) làm chỉ tiêu này tốt hơn rất nhiều.
2.Tỷ lệ thanh toán hiện hành
Bảng 4: Tỷ lệ thanh toán hiện hành
Đơn vị tính: triệu đồng
Tên chỉ tiêu
1999
2000
2001
So sánh
2000/1999
2001/2000
+
%
+
%
Tài sản lưu động (1)
44419
62668
117393
18249
41
62761
87
Nợ ngắn hạn (2)
35375
54632
104114
19257
54
49482
91
TLTT hiện hành (lần) =(1) / (2)
1,2557
1,1471
1,1275
-0,1086
-8,6
-0,1228
-1,7
Nguồn:Phòng Kế hoạch kinh tế -tài chính công ty Coalimex
Dễ thấy Tỷ lệ thanh toán hiện hành của Coalimex là chấp nhận được vì nó lớn hơn 1 điều này chứng tỏ doanh nghiệp có đủ khả năng trả nợ trong kỳ do số tài sản lưu động ở trên có thể chuyển thành tiền mặt trong kỳ kinh doanh, từ đây ta để ý thấy doanh nghiệp chỉ cần giải phóng 35375triệu VND/44419 triệu VND*100% = 80% (năm1999) và hay 87% (năm2000) 88% (năm2001) tài sản lưu động hiện có là đủ để trang trải toàn bộ số nợ ngắn hạn của mình, đây là một dấu hiệu tốt giúp doanh nghiệp có thể thuyết phục các chủ nợ yên tâm về khả năng thanh toán của mình do đó có thể huy động thêm vốn nếu cần thiết. Song doanh nghiệp lại gặp phải một vấn đề đó là tỷ lệ này giảm dần theo thời gian sẽ tạo nên một ấn tượng không có lợi là khả năng thanh toán của doanh nghiệp ngày càng yếu đi từ 1,2557 lần năm 1999 giảm xuống còn 1,1471 lần năm 2000 giảm 8,6% và xuống tiếp còn 1,1275 lần (giảm 1,7%) vào năm 2001. Chỉ tiêu này giảm do nợ ngắn hạn tăng nhanh hơn mức tăng của tài sản lưu động hay nói cách khác so với nợ ngắn hạn thì tài sản lưu động thì tăng chậm một cách tương đối: nợ ngắn hạn tăng lần lượt là 54% và 91% còn tài sản lưu động chỉ tăng lần lượt là 41% và 87%. Nợ ngắn hạn tăng chủ yếu là các khoản vay ngắn hạn (năm 2000 tăng so với năm 1999 là: 21779 triệu VND - 0 triệu VND = 21779 triệu VND), phải trả nội bộ (năm 2000 tăng so với năm 1999 là: 14060 triệu VND - 2794 triệu VND = 11266 triệu VND).
3.Tỷ lệ thanh toán nhanh
Bảng 4: Tỷ lệ thanh toán nhanh
Đơn vị: triệu đồng
Tên chỉ tiêu
1999
2000
2001
So sánh
2000/1999
2001/2000
+
%
+
%
Tiền & CKTK cao (1)
13613
17727
35305
4114
30
17578
99
Phải thu (2)
30243
36286
61036
6043
20
24750
68
Nợ ngắn hạn (3)
35375
54632
104114
19257
54
19257
91
TLTT nhanh (lần) =(1)+(2) /(3)
1,2379
0,9887
0,9253
-0,2492
-20
-0,0634
-6,4
Nguồn:Phòng Kế hoạch kinh tế -tài chính công ty Coalimex
Bảng tỷ lệ thanh toán nhanh ở trên giải đáp cho ta câu hỏi là: Nếu các khoản nợ ngắn hạn đều yêu cầu thanh toán nhanh trong khi đó hàng tồn kho không thể tiêu thụ được ngay và đầu tư ngắn hạn không thể thu hồi vốn và lãi ngay… thì doanh nghiệp sẽ đáp ứng được bao nhiêu nhu cầu thanh toán chỉ bằng cách thu hồi những khoản phải thu, bán CKTK cao và dùng tiền của mình?
Ta có thể trả lời rằng chỉ ở năm 1999 thì doanh nghiệp có thể đáp ứng được 124% nhu cầu thanh toán nhanh đó còn hai năm sau này doanh nghiệp chỉ có thể đáp ứng 99% và 93% điều này chứng tỏ khả năng thanh toán nhanh của Coalimex ngày càng sút kém và tình hình thanh toán của doanh nghiệp xét về khía cạnh này đã có dấu hiệu thiếu lành mạnh (vì doanh nghiệp không hề nắm giữ các chứng khoán thanh khoản cao nên từ nay về sau trong các chỉ tiêu về tình hình tài chính và trong các nhận xét của em cụm từ “tiền và các chứng khoán thanh khoản cao” hoàn toàn bị thay bằng một từ là “tiền”). Như ta thấy ở trên tình trạng tỷ lệ thanh toán nhanh giảm 20% trong năm 2000 so với năm 1999 là do trong năm 2000 tiền và phải thu tăng chậm hơn so với nợ ngắn hạn. chúng chỉ tăng 30 và 20% trong khi đó nợ ngắn hạn như ta đã biết tăng 54%. Gần tương tự như vậy đến năm 2001 tiền tuy tăng nhanh hơn nợ phải trả nhưng nếu tính cả phải thu thì tốc độ tăng trung bình của chúng lại thấp hơn (99%*35305 triệu VND + 68%*61036 triệu VND)/(35305 triệu VND + 61036 triệu VND) = 78% < 91% chính vì vậy mà tỷ lệ thanh toán nhanh của năm 2001 giảm so với năm 2000 là 6,4% tiếp tục gióng một hồi chuông báo động về tình hình khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp.
4.Tỷ lệ thanh toán tức thời
Bảng 5:Tỷ lệ thanh toán tức thời
Đơn vị: triệu đồng
Tên chỉ tiêu
1999
2000
2001
So sánh
2000/1999
2001/2000
+
%
+
%
Tiền (1)
13613
17727
35305
4114
30
17578
99
Nợ ngắn hạn 2)
35375
54632
104114
19257
54
19257
91
Tỷ lệ thanh toán tức thời (lần) =(1)/(2)
0,3848
0,324
0,3391
-0,0608
-16
0,0515
4,4
Nguồn:Phòng Kế hoạch kinh tế -tài chính công ty Coalimex
Khả năng thanh toán tức thời của Coalimex rất kém thậm chí đến năm 2000 nó còn bị giảm đi so với năm 1999 và năm 2001 tuy có dấu hiệu tăng trở lại nhưng vẫn thấp hơn năm 1999. Năm 2000 tỷ lệ này bị giảm 16% từ 0,3848 xuống còn 0,324 lần do nợ ngắn hạn tăng đến 54% trong khi đó tiền chỉ tăng có 30%. Sang năm 2001 thì tiền đã tăng đáng kể 99% song do nợ ngắn hạn cũng tăng nhanh mà chỉ tiêu này chỉ tăng lên được chút ít so với năm 2000 - 4,4% tức là từ 0,324 lần lên tới 0,3391 lần. Trong cả ba năm này tỷ lệ thanh toán tức thời đều nhỏ hơn 0,5 chứng tỏ công ty gặp khó khăn trong việc đáp ứng tức khắc yêu cầu thanh toán các khoản nợ ngắn hạn khi dùng vốn bằng tiền. năm 1999 chỉ đáp ứng được 38%, năm 2000 chỉ đáp ứng được 32% còn sang năm 2001 công ty đáp ứng 34% điều này có nghĩa là Coalimex ứng phó rất khó khăn đối với các khoản nợ ngắn hạn nếu chúng đều đòi hỏi được thanh toán ngay khi đó Coalimex phải giải phóng số lớn tài sản lưu động khác để thanh toán như vậy sẽ rất bất lợi cho doanh nghiệp. Mà ta đã biết tiền là một loại tài sản linh động nhất dễ dàng sử dụng để thoả mãn nhu cầu chi tiêu, thanh toán trong quá trình kinh doanh, vì vậy tài sản là tiền giảm đi có nghĩa là tính chủ động về tài chính trong việc mở rộng quy mô, chớp lấy cơ hội đầu tư bị hạn chế.
Điều này gợi ý rằng doanh nghiệp phải nhanh chóng thu hồi các khoản phải thu và đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng hoá.
Để có cái nhìn trực quan hơn về sự xuống dốc về khả năng thanh toán tại công ty Coalimex trong giai đoạn 1999-2001 ta hãy xem xét biểu đồ dưới đây:
B.Thực trạng quản lý tài sản lưu động
Để đánh giá thực trạng quản lý TS lưu động trước hết ta cần tìm hiểu rõ về các số liệu phản ánh quy mô và cơ cấu TS lưu động, nó sẽ giúp ta dễ dàng xem xét và đánh giá các chỉ tiêu về hiệu quả quản lý TS lưu động. Bảng 7 dưới đây chính là nhằm mục đích ấy.
Bảng 7:Cơ cấu tài sản lưu động
Đơn vị: triệu đồng
Tên chỉ tiêu
1999
2000
2001
Trị giá
%
Trị giá
%
Trị giá
%
Tài sản lưu động
44419
100
62668
100
117393
100
Tiền mặt
13613
30,7
17727
28,3
35305
30,1
Hàng tồn kho
222
0,5
7809
12,5
19476
16,6
Đầu tư ngắn hạn
0
0
0
0
0
0
Phải thu
30243
68
36286
57,9
61036
52
Tài sản lưuđộng khác
341
0,8
846
1,3
1577
1,3
Tài sản lưuđộng khác
341
0,8
846
1,3
1577
1,3
Nguồn:Phòng Kế hoạch kinh tế -tài chính công ty Coalimex
1.Quản lý dự trữ
Coalimex là một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu không duy trì hệ hệ thống kho bãi, vì vậy, trong hoạt động kinh doanh của mình, công ty thực hiện phương thức giao hàng trực tiếp hay còn gọi là giao tay ba. Do đó, hàng tồn kho của công ty chỉ bao gồm hàng đi đường và hàng gửi bán. Hàng về đến cảng sẽ ngay lập tức chuyển thành hàng gửi bán hoặc thuộc về sở hữu của người mua.
Thêm vào đó việc tiến hành kinh doanh theo phương thức uỷ thác hay tự doanh đều dựa trên đơn đặt hàng của khách hàng. Khi nhận được đơn đặt hàng Coalimex sẽ tìm nghuồn cung cấp phù hợp. tiến hành giao dịch với nhà cung cấp nên việc đặt hàng thường không được tính toán trứơc.
Đối với hàng tồn kho, các chi phí về kho bãi hoàn toàn do người đặt hàng chịu, không tính trong giá hàng vốn hàng bán. Chi phí dự trữ do đó là không đáng kể.
Hơn nữa, các phòng nghiệp vụ hoạt động riêng rẽ, mỗi phòng đều có khách hàng riêng, tự quản lý riêng về hoạt động của mình do đó việc quản lý dự trữ nhìn chung không được chú trọng. Việc duy trì mức tồn kho nói chung mang tính ngẫu nhiên vì vậy qua bảng dưới đây ta thấy lượng hàng tồn kho của công ty là không ổn định khi cao nhất vào năm 2001 đạt tới 16,6% nhưng khi thấp nhất - năm 1999 chỉ đạt 0,5% so với tổng tài sản lưu động.
Để nắm rõ được mức dự trữ mà công ty duy trì có ảnh hưởng gì tới hoạt động của công ty, đặc biệt là khả năng thanh toán, chúng ta cần xem xét chỉ tiêu trong bảng dưới đây:
Bảng 8: Vòng quay hàng tồn kho
Đơn vị: triệu đồng
Tên chỉ tiêu
1999
2000
2001
So sánh
2000/1999
2001/2000
+
%
+
%
Doanh thu thuần (1)
67816
62768
66564
-5048
-7
3796
6
Hàng tồn kho (2)
222
7809
19476
7587
3418
11667
149
Vòng quay hàng tồn kho (vòng) = (1)/(2)
305,8
8,04
3,42
-297,76
-97
-4,62
-57
Nguồn:Phòng Kế hoạch kinh tế -tài chính công ty Coalimex
Qua bảng trên ta thấy vòng quay hàng tồn kho của công ty không ổn định trong ba năm chúng ta đã thấy sự giảm sút đáng ngạc nhiên của chỉ tiêu này từ 305,8 vòng vào năm 1999 đã giảm sút nhanh chóng xuống còn rất bé chỉ 8,04 vòng vào năm 2000 - giảm 97%, đến năm 2001 chỉ tiêu này lại giảm sút tệ hại hơn lúc này hàng tồn kho chỉ chu chuyển 3,42 vòng một năm -giảm 57%. Năm 1999 có thể coi là chuẩn mực trong việc tiêu thụ hàng tồn kho đây là con số rất tốt hiếm có doanh nghiệp naò đạt được song rất tiếc là Coalimex lại không duy trì được điều này tệ hơn nữa chỉ tiêu này không những giảm mà còn trở nên quá xấu không thể chấp nhận được nghuyên nhân chính là do trị giá hàng tồn kho ngày càng tăng nhanh - năm 2000 tăng 3418% so với năm 1999 còn năm 2001 lại tăng 149% trong khi đó doanh thu lại không hề tăng mà còn giảm. năm 2000 doanh thu thuần giảm 7% tuy đến năm 2001 chỉ số này có tăng lên 6% song không đáng kể và không thể ngăn được hiện tượng vòng quay hàng tồn kho ngày càng nhỏ. Không nghi ngờ gì nữa, tình hình này chứng tỏ công ty không mấy nỗ lực trong việc đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng hoá, quan trọng hơn nữa là Coalimex chỉ chủ yếu tiêu thụ theo phương thức uỷ thác, mọi hàng hóa mua về đều dựa theo hợp đồng nên vòng quay hàng tồn kho như vậy là không thể chấp nhận được ngoài ra vì là doanh nghiệp thương mại nên Coalimex chủ yếu kinh doanh bằng vốn đi vay theo hình thức vay theo hợp đồng nên việc chậm tiêu thụ hàng hoá cũng có nghĩa là khoản lãi phải trả ngân hàng tăng theo đẩy chi phí lên và làm giảm lợi nhuận của công ty.
Điều này đòi hỏi công ty phải ra sức mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá nhằm đẩy doanh thu thuần lên và giảm lượng hàng tồn kho xuống để có vòng quay hàng tồn kho cao hơn.
2.Quản lý các khoản phải thu
Các khoản phải thu của khách hàng chính là khoản tín dụng thương mại mà công ty cấp cho khách hàng trong một thời gian nhất định vì là một khoản tín dụng nên nó có rủi ro không thu hồi được và đồng thời cũng mang lại cho doanh nghiệp một khoản lãi đáng kể và những lợi ích khác như tăng mức tiêu thụ hàng hoá, tăng uy tín với khách hàng. Chính vì vậy mà ta phải quản lý và theo dõi kỹ tài sản lưu động này. Coalimex là một công ty hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu được hơn 20 năm, do vậy khách hàng của công ty chủ yếu là các khách hàng truyền thống. có mối quan hệ làm ăn lâu dài. Để có thể cấp tín dụng thương mại cho các khách hàng này, công ty thực hiện phân tích các Báo cáo tài chính và lịch sử thanh toán của khách hàng, các phân tích nhìn chung là đơn giản và việc cấp tín dụng thương mại chủ yếu dựa trên sự tín nhiệm lẫn nhau.
Tất cả các khoản phải thu đều được theo dõi trên sổ sách kế toán theo trình tự thời gian cuối năm công ty tiến hành lập bảng Phải thu - Phải trả và đối chiếu công nợ. Nhìn chung hoạt động quản lý của công ty còn đơn giản và chưa được chú trọng đúng mức.
Như ta đã thấy trên Bảng 7 các khoản phải thu năm 1999 chiếm 68% chủ yếu là các khoản phải thu nội bộ và phải thu khách hàng, song đến năm 2000 tỷ trọng này giảm xuống còn 57,9% trong đó phải thu nội bộ giảm 117% (từ 1451 triệu đồng xuống 254 triệu đồng) và phải thu khách hàng tăng 157%. Điều này có nghĩa là công ty đã tiến hành những biện pháp thu hồi nợ nội bộ một cách khá triệt để nhưng lại không chú trọng thu hồi các khoản phải thu của khách hàng thậm chí còn gia tăng cấp tín dụng cho khách hàng điều này sẽ đẩy công ty đến một tình huống đầy mạo hiểm vì đây là khoản phải thu có rủi ro cao nhất của doanh nghiệp. Sang năm 2001 tình trạng này vẫn tiếp diễn mặc dù công ty đã giảm tỷ trọng của các khoản phải thu trong tổng tài sản lưu động xuống còn 52% song phải thu khách hàng vẫn lớn một cách đáng lo ngaị - tăng 63% so với năm 2000 và chiếm đến 93,4% trong tổng khoản phải thu. Ta có thể kết luận rằng trong các năm qua tỷ lệ phải thu của doanh nghiệp là khá cao đặc biệt là phải thu khách hàng điều này làm vốn bị ứ đọng trong khâu lưu thông và kéo dài quá trình tiêu thụ sản phẩm, công ty bị khách hàng chiếm dụng vốn. Với tỷ lệ vốn bị chiếm dụng cao như hiện nay thì công ty cần phải đẩy nhanh tiến trình thu hồi nợ đồng thời tìm hiểu khách hàng kỹ hơn trước khi cấp tín dụng thương mại cho họ tránh trường hợp cấp tràn lan như hiện nay.
Để thấy rõ hơn tình hình quản lý của công ty ta đi vào phân tích chỉ tiêu vòng quay khoản phải thu:
Bảng9: Vòng quay khoản phải thu
Đơn vị: triệu đồng
Tên chỉ tiêu
1999
2000
2001
So sánh
2000/1999
2001/2000
+
%
+
%
Phải thu (1)
30243
36286
61036
6043
20
24750
68
Doanh thu thuần (2)
67816
62768
66564
-5048
-7
3796
6
Vòng quay khoản phải thu (vòng) = (3) = (2)/(1)
2,24
1,73
1,09
-0,51
-23
-0,64
-37
Thời gian thu hồi những khoản phải thu (ngày) =360/(3)
160
208
330
48
75
122
340
Nguồn:Phòng Kế hoạch kinh tế -tài chính công ty Coalimex
Theo bảng trên thì trong năm 1999 vòng quay khoản phải thu là quá thấp: 2,24 vòng, đồng thời thời gian thu hồi những khoản phải thu hay còn goi là kỳ thu tiền bình quân là quá cao 160 ngày. Đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu có lợi thế kinh doanh như Coalimex thì việc để cho khách hàng chiếm dụng vốn lâu như vậy là thiếu lành mạnh. Đến năm 2000 và 2001 thì tình hình ngày càng xấu hơn vòng quay khoản phải thu giảm dần xuống còn quá thấp đến mức đáng báo động: năm 2000 vòng quay khoản phải thu giảm 23% xuống còn 1,73 vòng năm 2001 chỉ tiêu này lại giảm 37% còn 1,09 vòng đây là mức không thể chấp nhận được, tương tự vậy thời gian thu hồi các khoản phải thu không ngừng tăng lên từ 160 ngày năm1999 sang năm 2000 là 208 ngày và năm 2001 là 330 ngày, tương ứng với tỷ lệ tăng lớn không ngờ - năm 2000 là 75% sang năm 2001 là 340%. Đây thực sự là dấu hiệu xấu. là con số đáng báo động chứng tỏ công ty ngày càng quản lý các khoản phải thu kém hơn đồng thời vốn của công ty bị chiếm dụng nhiều hơn. Trong khi đó doanh thu thuần của công ty lại giảm so với năm 1999 điều này chỉ rõ mặc dù phải cấp tín dụng thương mại nhiều hơn công ty cũng không tăng được lượng doanh thu chứng tỏ việc cấp tín dụng thương mại không phát huy được hiệu lực như nó phải có. Vấn đề đặt ra cho các nhà quản lý Coalimex là phải tăng vòng quay các khoản phải thu cũng như giảm thời gian thu hồi chúng để kéo công ty khỏi tình trạnh hiện nay không bị sa lầy vào việc bị chiếm dụng vốn, ứ đọng vốn quá lâu nhưng đồng thời cũng phải xem xét kỹ việc cấp tín dụng thương mại để nó vừa làm tăng doanh thu của công ty vừa không đặt công ty vào những hoàn cảnh rủi ro bị động trong thu hồi vốn.
Tóm lại qua xem xét thực trạng quản lý hàng tồn kho và các khoản phải thu tại công ty Coalimex trong giai đoạn 1999-2001 ta thấy các chỉ tiêu phản ánh mức độ hiệu quả của việc quản lý hai tài sản này ngày một xấu đi, để chứng minh một cách sinh động nhận xét này ta có biểu đồ 2 dưới đây:
3. Quản lý tiền
Thị trường tài chính của Việt Nam chưa phát triển do vậy có thể nói “chứng khoán thanh khoản cao” là một tài sản còn quá xa lạ trong bảng cân đối
Thị trường tài chính của Việt Nam chưa phát triển do vậy có thể nói “chứng khoán thanh khoản cao” là một tài sản còn quá xa lạ trong bảng cân đối của các doanh nghiệp. Công ty Coalimex cũng vậy trong bảng cân đối kế toán của công ty khoản mục đầu tư ngắn hạn luôn bằng 0. Chính vì vậy mà doanh nghiệp không hề có một “bước đệm ” vững chắc và an toàn cho tiền mặt điều này gây sức ép đáng kể lên việc quyết định lượng tiền cần duy trì của doanh nghiệp đồng thời nó cũng làm giảm khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Nhưng để thay đổi điều này cần khá nhiều thời gian không chỉ để thị trường chứng khoán hoàn thiện hơn hoạt động có hiệu quả hơn sao cho trên thị trường có những loại chứng khoán thật sự là thanh khoản - tốn ít thời gian và chi phí chuyển đổi thành tiền - mà còn để các doanh nghiệp thay đổi lối suy nghĩ và thực sự chấp nhận chứng khoán như là một tài sản được ưu tiên trong bảng cân đối kế toán vừa có khả năng sinh lợi cao vừa có tính thanh khoản.
Hiện nay đối với công ty công tác quản lý tiền mặt không được coi trọng lắm nên việc duy trì một lượng tiền bao nhiêu cũng mang tính ngẫu nhiên và hoàn toàn phụ thuộc vào việc mua bán hàng hoá việc thu hồi các khoản phải thu và thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của bản thân công ty.
Trong hoạt động quản lý, công ty cũng không lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ để xác định các nguồn tiền và sử dụng tiền của mình như thế nào.Trên thực tế. công ty duy trì một lượng tiền tại két là 1 tỷ VND phần còn lại sẽ được gửi vào tài khoản tiền gửi ngân hàng tại các ngân hàng thương mại với mức lãi suất khoảng 0,3% tháng.
Tỷ trọng vốn bằng tiền so với tài sản lưu động của công ty trung bình là 30%. theo nguyên tắc chung thì con số này nếu lớn hơn 10% và nhỏ hơn 50% là có thể chấp nhận được.
4. Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản lưu động
ở phần trên chúng ta đã xem xét công tác quản lý tài sản lưu động của công ty Coalimex nhưng vấn đề đặt ra là ta phải đánh giá hiệu quả chung của quá trình quản lý tài sản lưu động của công ty điều này đưa ta tới việc khảo sát các chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển vốn lưu động, khả năng sinh lợi của vốn lưu động và chu vận động của tiền mặt của công ty.
_ Các chỉ tiêu về tốc độ luân chuyển vốn lưu động
Coalimex là một doanh nghiệp thương mại nên vốn nhất là vốn lưu động vận động không ngừng thường xuyên qua các giai đoạn của quá trình kinh doanh, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển của vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp vì vậy, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng cần xem xét các chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển vốn lưu động.
Bảng10: Các chỉ tiêu về tốc độ luân chuyển vốn lưu động.
Đơn vị: triệu đồng
Tên chỉ tiêu
1999
2000
2001
So sánh
2000/1999
2001/2000
+
%
+
%
Doanh thu thuần (1)
67816
62768
66564
-5048
-7
3796
6
Vốn lưu động bình quân (2)
20154
16548
17389
-3606
-18
814
5
Hệ số luân chuyển VLĐ (vòng)(3) = (1)/(2)
3,3648
3,7931
3,8280
0,4283
13
0,0349
1
Thời gian luân chuyển 1vg VLĐ(ngày) =360/(3)
107
95
94
-12
-11
1
1
Hệ số đảm nhiệm VLĐ = (1)/(3)
0,2972
0,2636
0,2612
-0,0336
-11
-0,0024
-1
Nguồn:Phòng Kế hoạch kinh tế -tài chính công ty Coalimex
Kết quả ở trên cho ta thấy tốc độ luân chuyển vốn lưu động ngày một tăng so với năm 1999 thì năm 2000 số vòng quay vốn lưu động tăng thêm 0,283 vòng thời gian một vòng quay giảm được 12 ngày và hệ số đảm nhiệm vốn lưu động (một đồng doanh thu cần mấy đồng vốn lưu động) giảm thêm được 0,0336 đồng. Nếu tốc độ luân chuyển vốn năm 2000 không thay đổi so với năm 1999 thì để đạt được mức doanh thu năm 2000, công ty cần lượng vốn lưu động là:
Tổng doanh thu thuần năm 2000
=
Hệ số luân chuyển năm 1999
62816 triệuVND
=
3.3648 triệuVND
= 18669 (triệuVND)
Như vậy việc đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động năm 2000 đã giúp công ty tiết kiệm được 18669 triệu VND - 16548 triệu VND= 2121(triệu VND)
Đến năm 2001 hệ số luân chuyển vốn lưu động so với năm 2000 lại tăng thêm được 0,0349 vòng. thời gian luân chuyển vốn lưu động giảm thêm 1 ngày nữa, hệ số luân chuyển vốn lưu động cũng giảm thêm được 0,0014 đồng còn 0,2612 đồng. Tương tự như trên nhờ đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động so với năm 2000 công ty đã tiết kiệm được lượng vốn lưu động là 160 (triệuVND).
Như vậy, kết quả của ba năm từ 1999 đến 2001 cho thấy tính tích cực của công ty trong việc đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn. thể hiện việc sử dụng tài sản lưu động của công ty ngày càng có hiệu quả. Tuy nhiên cũng cần để ý rằng các hệ số chỉ tốc độ luân chuyển vốn lưu động của công ty là còn yếu do đó vẫn tồn tại sự lãng phí vốn.
_Khả năng sinh lợi của vốn lưu động
Theo bảng dưới ta thấy khả năng sinh lợi của vốn lưu động ngày càng tăng năm 1999 ta có 100 đồng vốn lưu động chỉ tạo ra 4,0517 đồng lợi nhuận cho công ty thì đến năm 2000 nó tạo ra được 6,5826 đồng tăng 62% và sang năm 2001 chỉ số này đã giảm xuống một ít còn 6,5069 đồng có thể nói đây là tình trạng rất tốt phản ánh khả năng sinh lợi nội bộ của tài sản lưu động là khá khả quan.
Bảng 11: Các chỉ tiêu khả năng sinh lợi vốn lưu động
Đơn vị: triệu đồng
Tên chỉ tiêu
1999
2000
2001
So sánh
2000/1999
2001/2000
+
%
+
%
Lợi nhuận sau thuế (1)
817
1089
1131
272
33
42
4
VLĐ bình quân(2)
20154
16546
17389
-3606
-18
814
5
Khả năng sinh lợi của VLĐ = (1)*100/(2)
4,0517
6,5826
6,5069
2,5309
62
-0,0757
1
Nguồn:Phòng Kế hoạch kinh tế -tài chính công ty Coalimex
_Chu kỳ vận động của tiền mặt
Bảng 12: Chu kỳ vận động của tiền mặt
Đơn vị: triệu đồng
Tên chỉ tiêu
1999
2000
2001
So sánh
2000/1999
2001/2000
+
%
+
%
Hàng tồn kho (1)
222
7809
19476
7587
3418
11667
149
Doanh thu thuần (2)
67816
62768
66564
-5048
-7
3796
6
Thời gian vận động của hàng hoá (ngày) (3) =360*(1)/(2)
75
45
105
-30
-40
60
133
Thời gian thu hồi những khoản phải thu (ngày) (Bảng 9)(4)
160
208
330
48
75
122
340
Khoản phải trả (5)
35375
32852
50379
-2523
-7
17527
53
Giá vốn hàng bán (6)
58506
51590
54515
-6916
-12
2925
6
Thời gian chậm trả những khoản phải trả (ngày) (7)=360*(5)/(6)
218
229
333
11
5
104
45
Chu kỳ vận động của tiền mặt (ngày) =(3)+(4)-(7)
15
24
103
9
60
79
329
Nguồn:Phòng Kế hoạch kinh tế -tài chính công ty Coalimex
Từ bảng trên ta thấy chu kỳ vận động của tiền ngày càng dài ra thể hiện xu hướng không tốt của quá trình quản lý tài sản lưu động. hiệu quả quản lý ngày càng có chiều hướng xấu đi. Từ năm 1999 chu kỳ vận động của tiền mặt là 15 ngày đây là con số rất tốt chứng tỏ công ty đã có những nỗ lực trong việc đẩy nhanh thời gian vạn động của hàng hoá 75 ngày và thời gian thu hồi các khoản phải thu 106 ngày đồng thời kéo dài thời gian chậm trả những khoản phải trả 218 ngày. Sang năm 2000 thời gian vận động của hàng hoá đã được giảm đi đáng kể song lại có sự tăng vọt của thời gian thu hồi những khỏan phải thu từ 106 lên 208 ngày tăng 96% đã làm tăng đáng 60% chu kỳ vận động của tiền mặt lên 24 ngày. Đến năm 2001 thì chính sự gia tăng của cả hai chỉ tiêu thời gian vận động của hàng hoá và thời gian thu hồi các khoản phải thu đã làm chu kỳ tiền mặt tăng vọt 329% lên đến 103 ngày mặc dù chỉ tiêu thời gian chậm trả những khoản phải trả đã gia tăng đáng kể từ 229 lên 333 ngày - tăng 45% - cũng không làm chu kỳ vận động của tiền mặt giảm xuống được. Tóm lại sự gia tăng của chu kỳ vận động tiền mặt đến mức báo động như hiện nay phản ánh rõ rệt sự quản lý tài sản lưu động yếu kém của Coalimex và ta cũng thấy nguyên nhân của việc này là do sự gia tăng của thời gian thu hồi các khoản phải thu. điều này là một gợi ý cho công ty trong việc tìm giải pháp rút ngắn chu kỳ vận động của tiền mặt phải bắt đầu từ việc tìm giải pháp giảm thời gian thu hồi các khoản tín dụng thương mại.
III.Đánh giá tình hình khả năng thanh toán và quản lý tài sản lưu động
1.Các kết quả đạt được và nguyên nhân
Qua chỉ tiêu về vốn lưu động thường xuyên ta thấy khả năng thanh toán cơ bản là lành mạnh vững vàng. Có được kết quả như vậy chính là nhờ công ty đã sử dụng hợp lý nguồn vốn dài hạn của mình nên ngoài việc tài trợ cho tài sản cố định nó còn dư thừa để tài trợ cho tài sản lưu động chính vì vậy mà tài sản lưu động mới lớn hơn nợ ngắn hạn và do đó vốn lưu động thường xuyên là dương, doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Xem xét đến chỉ tiêu về khả năng thanh toán hiện hành cho ta một cái nhìn khá lạc quan về tình hình thanh toán của Coalimex vì hai chỉ tiêu vốn lưu động thường xuyên và khả năng thanh toán hiện hành có cùng số liệu gốc nên ta cũng có thể áp dụng cách giải thích ở trên cho kết quả này.
Để có một cái nhìn tổng thể nhằm đánh giá khái quát hiệu quả quản lý tài sản lưu động tại Coalimex ta hãy cùng xem lại các chỉ tiêu đánh giá chung về hiệu quả quản lý tài sản lưu động đã được trình bày tại phần ngay trên này.
Các chỉ tiêu về tốc độ luân chuyển cho ta nhận xét rằng tốc độ luân chuyển vốn lưu động của công ty là chấp nhận được song vẫn còn hơi yếu có thể nói xét về khía cạnh này sự quản lý của công ty đối với tài sản là đạt yêu cầu song cần nâng cao hơn nữa trong thời gian tới. Đáng mừng là các chỉ tiêu về khả năng sinh lợi của vốn lưu động cho ta một kết luận vô cùng khả quan đó là vốn lưu động của công ty có khả năng sinh lợi cao kể cả xét chung hay chỉ riêng nội bộ công ty đây là điều đáng phát huy trong thời gian tới và cả sau này.
2.Hạn chế và nguyên nhân
Qua các chỉ tiêu đã xét ở trên ta thấy khả năng thanh toán của công ty nhìn chung còn yếu kém và thiếu ổn định. Nguyên nhân của tình hình này bắt nguồn từ sự thiếu hợp lý trong cơ cấu tài chính của công ty.
Khi xem xét chỉ tiêu thanh toán nhanh thì ta phát hiện ra sự thiếu lành mạnh trong khả năng thanh toán đồng thời chỉ tiêu thanh toán tức thời chỉ rõ sự yếu kém của công ty trong việc ứng phó với các khoản nợ ngắn hạn nếu chúng đòi hỏi thanh toán ngay lập tức, khi đó do lượng tiền mặt không đủ công ty phải giải phóng một lượng lớn các tài sản lưu động khác để bù vào (điều này sẽ rất bất lợi cho công ty trong việc duy trì sản xuất như cũ trong thời gian sau đồng thời việc giải phóng các tài sản lưu động một cách gấp rút sẽ bị thiệt thòi lớn do không thu được lượng giá trị tương ứng).
Nhận định trên chỉ rõ rằng trong cơ cấu tài sản lưu động, công ty đã duy trì tỷ trọng tiền quá thấp. Điều này khiến cho khả năng của công ty trong việc đáp ứng tức thời các khoản nợ ngắn hạn rất kém gây bất lợi cho công ty trong giao dịch, nhất là trong quan hệ với nhà cung cấp.
Trong khi đó các khoản phải thu vẫn còn cao tức là tỷ lệ vốn bị chiếm dụng rất lớn. Các khoản phải thu tăng lên một phần do công ty chưa có kế hoạch giám sát các khoản phải thu một cách chặt chẽ, chưa có kế hoạch thu nợ đều trong năm và giữa các năm. Tuy nhiên do ngày càng mở rộng quan hệ giao dịch nên công ty không thể tránh khỏi một vài khách hàng mất khả năng thanh toán. Tình hình các khoản phải thu tăng quá nhanh và ngày càng nhanh là một dấu hiệu đáng báo động về việc bị chiếm dụng vốn và ứ đọng vốn trong khâu tiêu thụ. Đặc biệt qua các chỉ tiêu vòng quay các khoản phải thu và thời gian thu hồi các khoản phải thu ta càng thấy rõ điều này. Song việc tăng các khoản phải thu cũng có thể chấp nhận được trong trường hợp nhằm tăng doanh số bán hàng và đặc biệt để tăng lợi nhuận của công ty mặc dù vậy lợi thế này của tín dụng thương mại không được công ty khai thác triệt để cho nên việc công ty duy trì giá trị khoản phải thu cao lại không gắn liền với việc tăng mức bán hàng và lợi nhuận mà là ngược lại.
Tỷ trọng hàng tồn kho khá không ổn định trong tổng tài sản lưu động. Như phần trên đã phân tích giá trị hàng tồn kho khi cao nhất là 16,6% nhưng khi thấp nhất chỉ có 0,5% điều này cho thấy rõ sự không đều đặn. thiếu chủ động trong việc tiêu thụ hàng hoá của công ty.Tuy nhiên vấn đề ở đây là vòng quay hàng tồn kho giảm quá nhanh một cách không ngờ đẩy chỉ tiêu này từ mức rất tốt đến mứ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24229.DOC