Tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm bảo đảm vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - Xã hội trên địa bàn tỉnh Yên Bái thời kỳ 2006-2010: MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm vừa qua cùng với sự đi lên của kinh tế của đất nước, kinh tế tỉnh Yên Bái đã có những bước chuyển biến rõ nét thể hiện trong tốc độ gia tăng GDP của tỉnh, thu nhập bình quân, đời sống nhân dân trong tỉnh đã có sự thay đổi đáng kể. Một trong những yếu tố quan trọng làm nên sự thành công của tỉnh là hoạt động đầu tư. Sự nỗ lực của tỉnh trong việc gia tăng đầu tư đã đem lại cho nền kinh tế tỉnh những kết quả đáng khích lệ. Bên cạnh đó, họat động đầu tư của tỉnh trong những năm vừa qua vẫn tồn tại nhiều khó khăn, chẳng hạn như đầu tư toàn xã hội còn thấp hiệu quả đầu tư một số ngành chưa cao. Vì vậy, làm thế nào để đảm bảo vốn đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội trong những năm tới là một vấn đề cần được quan tâm.
Song hoạt động đầu tư trên giác độ vĩ mô bao gồm rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu nhưng trong khuôn khổ có hạn của một bản chuyên đề thực tập, cũng như hạn chế trong việc thu thập tài liệu có liên quan, cho nên bài viết chỉ dừng lại ở mức...
71 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 946 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm bảo đảm vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - Xã hội trên địa bàn tỉnh Yên Bái thời kỳ 2006-2010, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm vừa qua cùng với sự đi lên của kinh tế của đất nước, kinh tế tỉnh Yên Bái đã có những bước chuyển biến rõ nét thể hiện trong tốc độ gia tăng GDP của tỉnh, thu nhập bình quân, đời sống nhân dân trong tỉnh đã có sự thay đổi đáng kể. Một trong những yếu tố quan trọng làm nên sự thành công của tỉnh là hoạt động đầu tư. Sự nỗ lực của tỉnh trong việc gia tăng đầu tư đã đem lại cho nền kinh tế tỉnh những kết quả đáng khích lệ. Bên cạnh đó, họat động đầu tư của tỉnh trong những năm vừa qua vẫn tồn tại nhiều khó khăn, chẳng hạn như đầu tư toàn xã hội còn thấp hiệu quả đầu tư một số ngành chưa cao. Vì vậy, làm thế nào để đảm bảo vốn đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội trong những năm tới là một vấn đề cần được quan tâm.
Song hoạt động đầu tư trên giác độ vĩ mô bao gồm rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu nhưng trong khuôn khổ có hạn của một bản chuyên đề thực tập, cũng như hạn chế trong việc thu thập tài liệu có liên quan, cho nên bài viết chỉ dừng lại ở mức độ khảo sát và đánh giá vấn đề bảo đảm vốn đầu tư của tỉnh trên một số khía cạnh :
+ Tổng đầu tư xã hội toàn tỉnh
+ Cơ cấu đầu tư theo nguồn
+ Cơ cấu đầu tư theo ngành
Về mặt thời gian, bài viết chủ yếu đề cập đến bảo đảm đầu tư của tỉnh trong giai đoạn 2006-2010 là giai đoạn có nhiều chuyển biến rõ nét và cập nhật nhất, các số liệu trước đó được dùng cho mục đích tham khảo so sánh.
Từ đó bản chuyên đề đưa ra “Một số giải pháp nhằm bảo đảm vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Yên Bái thời kỳ 2006-2010”. Với mục đích đó kết cấu của chuyên đề gồm :
Phần I: Sự cần thiết phải bảo đảm vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội
Phần II: Thực trạng hoạt động đầu tư tỉnh Yên Bái thời kỳ 2001-2005
Phần III: Một số giải pháp nhằm bảo đảm vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Yên Bái thời kỳ 2006 - 2010.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn đối với PGS.TS thầy Ngô Thắng Lợi, đã trực tiếp hướng dẫn em trong suốt quá trình lam bản chuyên đề này.
Qua đây, em cũng cảm ơn các cán bộ trong Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Yên Bái, những người đã cung cấp tài liệu và những ý kiến quý báu cho bản chuyên đề này.
Do những hạn chế về mặt nhận thức, cũng như về thời gian, bản chuyên đề này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được các thầy cô chỉ bảo để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
PHẦN I:
SỰ CẦN THIẾT PHẢI BẢO ĐẢM VỐN ĐẦU TƯ CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
I. Lý luận chung về đầu tư
1. Khái niệm và phân loại đầu tư
1.1. Khái niệm
Thuật ngữ “đầu tư” có thể được hiểu đồng nghĩa với sự “bỏ ra”, “sự hy sinh”. Từ đó có thể coi “đầu tư” là sự bỏ ra sự hy sinh cái gì đó ở hiện tại (tiền, sức lao động của cải vật chất, trí tuệ …) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai.
Tất cả những hoạt động (như mua bán chứng khoán, mua hàng dự trữ, gửi tiền tiết kiệm, mua cổ phần của các cổ đông, chi phí đào tạo giáo viên, chi đào tạo sinh viên, chi tiền xây dựng nhà cửa ...) nhằm thu được lợi ích nào đó (về tài chính, cơ sở vật chất, trí tuệ ...) trong tương lai lớn hơn những chi phí đã bỏ ra. Và vì vậy xét trên giác độ từng cá nhân hoặc đơn vị bỏ tiền ra thì các hoạt động này đều được gọi là đầu tư.
Tuy nhiên xét trên giác độ toàn bộ nền kinh tế thì không phải tất cả các hoạt động trên đều đem lại lợi ích cho nền kinh tế và được coi là lợi ích của nền kinh tế. Các hoạt động (mua cổ phiếu, gửi tiền tiết kiệm, mua hàng dự trữ ...) không hề làm tăng tài sản (tài chính, vật chất trí tuệ ...) cho nền kinh tế. Các hoạt động này thực chất chỉ là chuyển giao quyền sở hữu, quyển sử dụng (cổ phiếu, tiền, hàng hoá...) từ người này sang người khác. Giá trị tăng thêm của người này là sự mất đi của người khác, còn tổng giá trị tài sản của toàn xã hội không thay đổi.
Các hoạt động bỏ tiền ra xây dựng kho chứa hàng, xây cầu cống, tổ chức báo cáo khoa học đã làm tăng tài sản cho nền kinh tế. Các hoạt động này gọi là đầu tư phát triển hay đầu tư trên giác độ nền kinh tế.
Như vậy đầu tư trên giác độ nền kinh tế là sự hy sinh giá trị hiện tại, gắn với việc tạo ra các tài sản mới cho nền kinh tế. Các hoạt động mua phân phối lại, chuyển giao tài sản gữa các tổ chức, cá nhân không phải là đầu tư đối với nền kinh tế.
1.2. Phân loại đầu tư
1.2.1. Theo bản chất của đối tượng đầu tư:
Bao gồm đầu tư cho các loại vật chất, đầu tư cho các đối tượng tài chính và đầu tư cho các loại đối tượng phi vật chất. Trong các loại đầu tư đó thì đầu tư vật chất là điều kiện tiên quyết cơ bản làm tăng tiềm lực cho nền kinh tế.
1.2.2. Theo cơ cấu tái sản xuất :
Có thể phân loại thành đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu. Trong đó đầu tư theo chiều rộng vốn kê đọng lâu, tính chất kỹ thuật phức tạp, độ mạo hiểm cao. Còn đầu tư theo chiều sâu thì khối lượng vốn ít hơn, thời gian đầu tư không lâu, độ mạo hiểm thấp hơn so với đầu tư theo chiều sâu.
1.2.3. Theo nguồn vốn :
Bao gồm vốn đầu tư trong nước (tích lũy từ ngân sách, của doanh nghiệp, tiền tiết kiệm của dân cư) và vốn huy động từ nước ngoài (vốn đầu tư gián tiếp và trực tiếp). Phân loại này cho biết tình hình huy động vốn từ mỗi nguồn và vai trò của nguồn vốn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành, từng điạ phương và của toàn bộ nền kinh tế.
1.2.4. Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội:
Có thể phân thành đầu tư thương mại và đầu tư sản xuất. Đầu tư thương mại là hoạt động đầu tư mà thời gian thực hiện đầu tư và hoạt động của các kết quả đầu tư đsản xuất thu hồi vốn ngắn, độ mạo hiểm thấp do thời gian ngắn, tính bất định không cao lại đễ dự đoán. Còn đầu tư sản xuất là loại đầu tư dài hạn vốn lớn, thời gian thu hồi vốn lâu, độ mạo hiểm cao vì tính chất kỹ thuật của hoạt động đầu tư phức tạp.
1.2.5. Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư
Bao gồm đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Đầu tư trực tiếp là đầu tư trong đó người bỏ vốn không tham gia trực tiếp vào quá trình quản lý, thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. Còn đầu tư gián tiếp là loại đầu tư mà người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư.
1.2.6. Theo tính chất của hoạt động đầu tư.
Có thể chia vốn đầu tư thành hai loại: vốn đầu tư khôi phục và vốn đầu tư thuần túy. Vốn đầu tư khôi phục là bộ phận vốn có tác dụng bù đắp các giá trị hao mòn của vốn sản xuất đây chính là quỹ khấu hao. Còn vốn đầu tư thuân túy chính là phần tích lũy để tái sản xuất mở rộng quy mô.
2. Khái niệm và đặc trưng của vốn đầu tư .
2.1. Khái niêm vốn đầu tư
Có nhiều quan điểm về vốn, song những quan niêm đó đều thừa nhận rằng: Vốn là một yếu tố đầu vào quan trọng để tiến hành sản xuất, bảo đảm tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của mọi thời đại, mọi hình thái kinh tế - xã hội. Vốn được biểu hiện dưới dạng hiện vật và tiền. Về phương diện hiện vật bao gồm: các loại máy móc thiết bị, nhà xưởng, nguyên nhiên vật liệu, thành phẩm tồn kho…là nhân tố đầu vào, đồng thời bản thân nó lại là kết quả đầu ra của quá trình sản xuất khác. Về phương diện tiền tệ, vốn được định nghĩa là khoản tiền được đưa vào sản xuất kinh doanh với mục đích tạo ra lượng tiền lớn hơn số lượng ban đầu. Vốn tiền tệ là “trung gian” bảo đảm cho quá trình sản xuất diễn ra liên tục. Ngoài ra vốn còn tồn tại dưới dạng tài sản vô hình nhưng có giá trị nhưng bằng phát minh, sáng chế, nhãn hiệu.
Với quan niệm rông hơn, người ta có thể coi lao động, tài nguyên cũng là vốn. Lao động dư thừa từ khu vực truyền thống có thể đưa sang xây dựng đường sá, cầu cống mà hầu như không cần máy móc thiết bị khác. Trong trường hợp đó chính lao động trở thành nguồn vốn lớn. Ngoài ra cũng có thể khai thác tài nguyên đsản xuất tạo vốn. Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp nêu trên, dù ở mức độ tối thiểu, người ta cũng cần phải có vốn với tư cách là loại nhân tố sản xuất độc lập, khác hẳn với các loại nhân tố tài nguyên và lao động.
Từ đó ta có khái niệm về vốn đầu tư : là chi phí để thực hiện việc tái sản xuất tài sản cố định, bao gồm phần thay thế những tài sản bị thải loại, chi phí tăng thêm những tài sản cố định mới, chi phí tăng thêm tài sản tồn kho.
Vốn đầu tư được hình thành từ các nguồn tiết kiệm, tích lũy và nó là cơ sở cho vốn sản xuất, tạo ra vốn sản xuất. Để tiến hành quá trình sản xuất, đòi hỏi phải có máy móc, thiết bị và các loại hàng hóa khác phục vụ, điều kiện này có được khi thực hiện đầu tư. Các nguồn tài sản này (theo lập luận ở trên) sẽ trở thành vốn sản xuất khi chúng được tham gia vào sản xuất. Vốn sản xuất là yếu tố làm tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế, vì thế để tăng sản lượng của nền kinh tế thì đòi hỏi phải thực hiện quá trình đầu tư, đầu tư cả về chiều rộng lẫn chiều sâu từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng của mỗi đồng vốn.
2.2. Đặc trưng của vốn đầu tư
2.2.1. Vốn bao giờ cũng gắn liền với một chủ sở hữu nhất định
Muốn quản lý vốn đầu tư một cách có hiệu quả thì trước tiên vốn phải gắn liền với chủ sở hữu vốn. Chủ sở hữu có thể đồng nhất hoặc không đồng nhất với người sử dụng vốn.
Trong nền kinh tế thị trường giá trị tài sản xã hội được khai thác sử dụng nhằm phục vụ quốc kế dân sinh đều được quan niệm là vốn. Để khai thác tối đa các nguồn lực xã hội thì cần phải đa dạng hóa các phương thức khai thác và sử dụng. Vốn và các nguồn lực có thể huy động và khai thác từ nhiều nguồn khác nhau như: nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp, từ nguồn nước ngoài (FDI, ODA)…
2.2.2. Vốn phải tích lũy và tập hợp để phát huy hiệu quả
Với tất cả yêu cầu đã đề ra vốn phải được tích lũy đến mức độ nào đó mới được nhu cầu. Vì vậy cần phải tập trung vốn đầu tư toàn xã hội từ nhiều nguồn khác nhau.
Đối với điều kiện đất nước ta hoạt động khai thác và sử dụng vốn trong quá trình đổi mới, một mặt vốn chưa phát huy hết chức năng và vai trò của nó đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, mặt khác quản lý vốn nói chung và quản lý điều hành vốn đầu tư nói riêng đang còn gặp rất nhiều khó khăn.
2.2.3. Vốn phải vận động để mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội.
Trong thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp đã làm giảm đi tính hiệu quả của đồng vốn, chính vì thế mà đồng vốn đã được khai thác và sử dụng không hợp lý, lãng phí, hiệu quả thấp. Nhưng trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vôn luôn luôn thay đổi vận động cùng cơ chế thị trường để không ngừng mang lại hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.
2.2.4. Vốn luôn luôn biến đổi hình thái của nó trong quá trình vận động.
Đây là một đặc điểm cần phải hết sức chú ý để quản lý vốn sao cho thích nghi với hoàn cảnh kinh tế - xã hội.
2.2.5. Vốn là một loại hàng hóa đặc biệt.
Trên thị trường luôn luôn xuất hiện những người có thừa vốn (do tiết kiệm, do hưởng lợi nhuận, lợi tức), mặt khác trên thị trường lại xuất hiện những người không có đủ vốn. Vì vậy người không có đủ vốn sẽ sẵn sàng trả cho người thừa vốn một khoản tiền nhất định để nhận được quyền sử dụng lượng vốn đó. Có cung và cầu theo quy luật tự nhiên sẽ được hình thành trên thị trường vốn. Từ đó thị trường vốn ra đời có tác dụng tích cực tới sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội.
3. Cơ cấu vốn đầu tư
3.1. Cơ cấu vốn đầu tư theo thành phần kinh tế
- Khu vực kinh tế trong nước
+ Thành phần kinh tế nhà nước
+ Thành phần kinh tế tập thể
+ Thành phần kinh tế cá thể
+ Thành phần kinh tế hỗn hợp
- Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
+ 100% vốn nước ngoài
+ Liên doanh với các thành phần kinh tế nhà nước
+ Liên doanh với các thành phần kinh tế tập thể
+ Liên doanh với các thành phần kinh tế cá thể
+ Liên doanh với thành phần kinh tế hỗn hợp
- Khư vực kinh tế đầu tư ra nước ngoài
+ Thành phần kinh tế nhà nước
+ Thành phần kinh tế tập thể
+ Thành phần kinh tế tư nhân
+ Thành phần kinh tế cá thể
+ Thành phần kinh tế hỗn hợp
3.2. Cơ cấu vốn đầu tư theo nguồn vốn đầu tư
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế nước nhà, vốn đầu tư toàn xã hội ngày nay rất đa dạng, được hình thành từ nhiều nguồn vốn, có thể được phân loại chi tiết như sau:
- Vốn ngân sách nhà nước: (bao gồm ngân sách trung ương và địa phương). Vốn ngân sách được hình thành từ tích luỹ của nền kinh tế dùng để đầu tư theo kế hoạch Nhà nước, đối với những cơ sở hạ tầng kinh tế, các dự án trồng rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, các dự án xây dựng công trình phúc lợi công cộng, quản lý Nhà nước, công trình khoa học kỹ thuật an ninh quốc phòng và các dự án trọng điểm của Nhà nước do Chính phủ quyết định và không có khả năng trực tiếp thu hồi vốn.
- Vốn tín dụng ưu đãi thuộc ngân sách Nhà nước.
Dùng để đầu tư vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, các cơ sở sản xuất tạo việc làm, các dự án đầu tư của các ngành có khả năng thu hồi vốn được xác định trong cơ cấu kế hoạch của Nhà nước. Vốn tín dụng ưu đãi thuộc ngân sách nhà nước hình thành từ ngân sách Nhà nước, vốn thu hồi nợ từ các năm trước, vốn Chính phủ vay nợ nước ngoài theo mục tiêu dự án thoã thuận với nước ngoài. Việc bố trí đầu tư do Chính phủ quyết định cụ thể cho từng đối tượng trong thời kỳ kế hoạch. Vốn vay này được hưởng lãi suất ưu đãi hoặc không có lãi suất theo dự án công trình do Chính phủ quyết định.
- Vốn tín dụng thương mại
Dùng để đầu tư xây dựng mới, cải tạo mở rộng đổi mới kỹ thuật, và công nghệ các dự án sản xuất kinh doanh, dịch vụ có hiệu quả, có khả năng thu hồi vốn và có đủ điều kiện vay vốn theo quy định hiện hành. Vốn tín dụng thương mại được áp dụng theo cơ chế tự vay tự trả và thực hiện đầy đủ thủ tục vào đầu tư và điều kiện vay trả vốn, theo hình thức vay ngắn hạn, dài hạn với lãi suất bình thường.
- Vốn tự có huy động của các doanh nghiệp Nhà nước
Dùng để đâu tư phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm; doanh nghiệp phải sử dụng theo đúng chế độ quản lý vốn đầu tư theo hiện hành, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Vốn này hình thành từ lợi nhuận để lại, sau khi đã nộp đủ thuế cho Nhà nước, tiền từ thanh lý tài sản, từ vốn khấu hao được Nhà nước cho để lại, từ vốn cổ phần, vốn liên doanh với các doanh nghiệp khác và từ quỹ của doanh nghiệp có thể huy động được, cũng như các khoản tự vay khác mà doanh nghiệp tự có.
- Vốn hợp tác với các liên doanh nước ngoài của doanh nghiệp Nhà nước theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Vốn này là của các tổ chức các nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam bằng tiền nước ngoài hoặc tài sản thiết bị máy móc kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
- Vốn đầu tư của các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh
Là vốn của chủ đầu tư vào các đơn vị tổ chức kinh tế thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh như các hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiêm hữu hạn, công ty cổ phần dùng vào đầu tư xây dựng cơ bản. Vốn này gồm vốn tự có và vốn vay của các tổ chức nói trên để đầu tư cho các công trình của mình.
- Vốn góp của nhân dân
Là huy động nhân dân đóng góp bằng tiền, bằng hiện vật hoặc công lao động của các dự án đầu tư chủ yếu sử dụng vào xây dựng công trình phúc lợi công cộng phục vụ trực tiếp cho người đóng góp vốn theo các điều kiện cam kết khi huy động vốn.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Là phần vốn đầu tư mà nhà đầu tư nước ngoài đầu tư liên doanh một phần hoặc đầu tư 100% vốn tại Việt Nam
- Những nguồn khác
Ngoài những nguồn vốn nói trên, còn có vốn đầu tư của các cơ quan ngoại giao, tổ chức quốc tế và các cơ quan nước ngoài được phép xây dựng trên nước ta, sẽ được quản lý theo hiệp định hoặc thoả thuận đã được ký kết của Chính Phủ với các tổ chức cơ quan đó
3.3. Cơ cấu vốn đầu tư theo vùng và lãnh thổ
Nước ta bao gồm 8 vùng địa lý sau:
- Đồng bằng sông Hồng
- Đông Bắc
- Tây Bắc
- Bắc Trung Bộ
- Duyên hải Nam Trung Bộ
- Tây Nguyên
- Đông Nam Bộ
- Đồng bằng sông Cửu Long
3.4. Cơ cấu vốn đầu tư theo ngành kinh tế
- Nông lâm nghiệp
- Công nghiệp xây dựng
- Thương maị dịch vụ
- Hoạt động văn hoá thể thao
- Y tế, cứu trợ xã hội
- Hoạt động khoa học va công nghệ
- Và các ngành khác
II. Bảo đảm vốn đầu tư và nhân tố liên quan đến bảo đảm vốn đầu tư.
Bảo đảm vốn đầu tư là việc căn cứ vào nhu cầu vốn đầu tư để tổ chức thực hiện việc thu hút và cung ứng vốn một cách có hiệu quả trong thu hút và sử dụng vốn đầu tư.
1. Xác định được nhu cầu vốn đầu tư
Tùy thuộc vào từng chiến lược, kế hoạch, chương trình, dự án mà nhu cầu vốn đầu tư là khác nhau nhưng nhu cầu thường lớn hơn khả năng đáp ứng. Nhu cầu vốn đầu tư bao gồm :
Tổng vốn đầu tư cần có
Cơ cấu vốn đầu tư theo đối tượng, theo lĩnh vực sử dụng.
Nhu cầu về vốn đầu tư có thể được coi là cầu về quy mô vốn đầu tư để mở rộng và phát triển kinh tế. Việc xác định nhu cầu vốn đầu tư là hết sức quan trọng, chỉ trên cơ sở xác định nhu cầu vốn đầu tư là bao nhiêu và đầu tư vào đâu mới tổ chức huy động vốn đầu tư, bởi lẽ việc hoạt động vốn chính là nhằm mục đích sử dụng. Vậy nhu cầu vốn là bao nhiêu là câu hỏi cần thiết phải đặt ra, điều này phụ thuộc vào nhiều nhân tố mà chủ yếu là chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ của đất nước.
2. Bảo đảm vốn đầu tư bằng các nguồn vốn đầu tư
Đây là việc huy động vốn đầu tư từ các nguồn khác nhau để bảo đảm nhu cầu ở mức cao nhất.
Vốn đầu tư có thể được thu hút từ nhiều nguồn khác nhau, mỗi nguồn có khả năng cung cấp khác nhau phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Ta có thể phân ra hai nhóm nguồn vốn chính.
2.1. Nguồn vốn trong nước là chủ yếu
Với bất kỳ một quốc gia nào để có thể phát triển kinh tế đất nước thì bản thân quốc gia đó phải biết dựa vào sức mình là chính, dùng nội lực làm điểm tựa vững chắc để phát triển. Xuất phát từ thực tiễn của nhiều quốc gia nguồn vốn đầu tư trong nước luôn chiếm tỷ trọng cao hơn so với nguồn vốn nước ngoài điều đó được thể hiện trong chiến lược phát triển của từng quốc gia, bảo đảm sự phát triển liên tục bền vững và lâu dài.
Vốn đầu tư trong nước gồm ba bộ phận:
Nguồn vốn nhà nước: bao gôm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước.
- Đối với nguồn vốn ngân sách nhà nước: đây chính là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư. Đó là nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn.
Trong những năm gần đây, quy mô tổng thu của ngân sách nhà nước không ngừng gia tăng nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau (huyđộng qua thuế, phí, bán tài nguyên, bán hay cho thuê tài sản thuộc nhà nước quản lý…)
- Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước: cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước ngày càng đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nếu như trước năm 1990, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước chưa được sử dụng như một công cụ quản lý và điều tiết nền kinh tế thì trong giai đoạn hiện nay, nguồn vốn này đã có mức tăng trưởng đáng kể và bắt đầu có vị trí quan trọng trong chính sách đầu tư của chinh phủ.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.
Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu tư của nhà nước còn phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông qua tín dụng đầu tư, nhà nước thực hiện việc khuyến khích phát triển kinh tế xã hội của ngành, vùng, lĩnh vực theo định hướng chiến lược của mình. Đứng ở khía cạnh là công cụ điều tiết vĩ mô, nguồn vốn này không chỉ thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn thực hiện mục tiêu phát triển xã hội. Việc phân bổ và sử dụng vốn tín dụng đầu tư còn khuyến khích phát triển những vùng kinh tế khó khăn, giải quyết các vấn đề xã hội như xóa đói giảm nghèo. Và hơn nữa, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa.
- Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước: được xác định là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nên kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng vốn nhà nước khá lớn. Mặc dù vẫn còn một số hạn chế nhưng đánh giá một cách công bằng thì khu vực kinh tế nhà nước với sự tham gia của các doanh nghiệp nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần.
Với chủ trương tiếp tục đổi mới doanh nghiệp nhà nước, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này ngày càng được khẳng định, tích lũy của các doanh nghiệp nhà nước ngày càng gia tăng và đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn đầu tư của toàn xã hội.
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phân tích lũy của cac doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo đánh giá sơ bộ, khu vực kinh tế ngoài nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà chưa được huy động triệt để.
Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận không nhỏ trong dân cư có tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hoặc do tích lũy truyền thống. Nhìn tổng quan, nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không phải là nhỏ, tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặtcThực tế phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu của một số ngân hàng thương mại quốc doanh cho thấy, chỉ trong thời gian ngắn đã huy động được hàng ngàn tỷ đồng và hàng chục triệu USD từ khu vực dân cư.
Nhiều hộ gia đình thực sự đã trở thành các đơn vị kinh tế năng động trong các lĩnh vực kinh doanh thương mại, dịch vụ, sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. ở mức độ nhất định, các hộ gia đình cũng sẽ là một trong số các nguồn tập trung và phân phối vốn quan trọng trong nền kinh tế.
Vốn của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Quy mô của nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào:
- Trình độ phát triển của đất nước ( ở những nước có trình độ phát triển thấp thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp)
- Tập quán tiêu dùng của dân cư
- Chính sách động viên của nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng góp đối với xã hội.
Với khoảng vài vạn doanh nghiệp ngoài nhà nước (doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các hợp tác xã) đang và sẽ đi vào hoạt động, phần tích lũy của các doanh nghiệp này cũng sẽ đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn của toàn xã hội. Thực hiện chinh sách đổi mới cơ chế cởi mở nhầm huy động mọi nguồn lực cho đầu tư được thực hiện, trong những năm gần đây các loại hình doanh nghiệp dân doanh có những bước phát triển mạnh mẽ.
Thị trường vốn
Thị trường vốn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường. Nó là kênh bổ sung các nguồn vốn trung và dài hạn cho các chủ đầu tư, bao gồm cả nhà nước và các loại hình doanh nghiệp. Thị trường vốn mà cốt lõi là thị trường chứng khoán như một trung tâm thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm của từng hộ dân cư, thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức hành chính, chính phủ trung ương và chính quyền địa phương tạo thành một nguồn vốn khổng lồ cho nên kinh tế. Đây được coi là một lợi thế mà không một phương thức huy động vốn nào có thể làm được.
Thị trường vốn nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng không chỉ được coi là một kênh huy động vốn của nền kinh tế mà nó còn góp phần tích cực trong việc khắc phục tình trạng khan hiếm vốn và sự lãng phí trong quá trình sử dụng vốn của toàn xã hội.
2.2. Nguồn vốn nước ngoài là quan trọng
Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là dòng lưu chuyển vốn quốc tế. Về thực chất, các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu thị quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới.Trong các dòng lưu chuyển vốn quốc tế, dòng từ các nước phát triển đổ vào các nước đang phát triển thường được các nước thuộc thế giới thứ ba đặc biệt quan tâm. Dòng vốn này diễn ra dưới nhiều hình thức. Mỗi hình thức có những đặc điểm, mục tiêu và điều kiện thực hiện riêng, không hoàn toàn giống nhau. Theo tính chất lưu chuyển vốn, có thể phân loại các nguồn vôn nước ngoài chính như sau:
Nguồn vốn ODA
Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn ODF nào khác. Ngoài các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối lượng vốn vay tương đối lớn, bao giờ trong ODA cũng có yếu tố không hoàn lại (còn gọi là thành tố hỗ trợ) đạt ít nhất 25%.
Yếu tố không hoàn lại của từng khoản vay được xác định dựa vào các yếu tố lãi suất, thời hạn cho vay, thời gian ân hạn, số lần trả nợ trong năm và tỷ suất chiết khấu.
Thời gian qua việc thu hút ODA phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta đã diễn ra trong bối cảnh trong nước và quốc tế có rất nhiều thuận lợi.
Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này thường đi kèm các điêu kiện và ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn và thị trường…). Vì vậy, để nhận được loại tài trợ hấp dẫn nay với thiệt thòi ít nhất, cần phải xem xét dự án trong điều kiện tài chính tổng thể. Nêu không việc tiếp nhận viện trợ có thể trở thành gánh nặng nợ nần lâu dài cho nền kinh tế. Điều này còn hàm ý răng, ngoài những yếu tố thuộc về nội dung dự án tài trợ, cần có nghệ thuật thõa thuận để vừa có thể nhận vốn, vừa bảo tồn được các mục tiêu có tinh nguyên tắc.
Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại
Điều kiện ưu đãi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với nguồn vốn ODA. Tuy nhiên, bù lại nó có ưu điểm rõ ràng là không có gắn với các ràng buộc về chính trị, xã hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này thường tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo.
Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường thế giới và xu hướng lãi suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể được dùng để đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sáng sủa.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư và phát triển không chỉ đối với các nước nghèo mà kể cả nước công nghiệp phát triển.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác với các nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên nó có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về kỹ thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn. Vì thế, nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở nước nhận đầu tư.
Kinh nghiệm phát triển hiện đại của một số nước Đông á cho thấy rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của quốc gia này. Vấn đề hiệu quả sử dụng vốn FDI tùy thuộc chủ yếu vào cách thức huy động và quản lý sử dụng nó tại nước tiếp nhận đầu tư chứ không chỉ ở ý đồ của đầu tư. Đối với Việt Nam sau những năm thực hiện chính sách mở cửa, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp phần bổ sung vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, tăng cường tiềm lực để khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước như dầu khí, điện…
Không những là nguồn bổ sung vốn quan trọng, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn đóng góp vào việc bù đắp thâm hụt tài khoản vãng lai và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
Đóng góp cho ngân sách nhà nước của khu vực đầu tư nước ngoài cũng rất đáng kể. Đặc biệt, nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực vào việc hoàn chỉnh ngày càng đầy đủ và tốt hơn hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, bưu chính viễn thông…
Thị trường vốn quốc tế
Với xu hướng toàn cầu hóa mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng về các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu.
Đối với Việt Nam để thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững, nhằm mục tiêu công nghiệp hóa và hiện đại hóa, nhà nước rất coi trọng việc huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân. Trong đó, nguồn huy động qua thị trường vốn cũng được Chính phủ quan tâm. Các đề án về phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty ra nước ngoài cũng đã được xây dựng và xem xét. Tuy nhiên, đây là một hình thức huy động vốn rất mới mẻ và còn phức tạp đối với Việt Nam.
Như vậy, nguồn vốn đầu tư nước ngoài là rất lớn nên việc thu hút từ nguồn này là rất quan trọng cần phải có những chính sách để tạo môi trường và cơ hội đầu tư nhằm thu hút được nguồn này nhiều hơn.
3. Bảo đảm công tác cung ứng vốn hợp lý, kịp thời cho quá trình thực hiện các đối tượng đầu tư.
Mỗi hoạt động kinh tế - xã hội đều có những đặc điểm kinh tế kỹ thuật riêng biệt nên cần có các yếu tố đầu vào khác nhau và đem lại hiệu quả kinh tế cũng như xã hội khác nhau. Nắm được những đặc thù của từng đối tượng giúp cho việc cung ứng và sử dụng vốn đầu tư hiệu quả nhất vì vậy trong thực hiện đầu tư cần tiến hành tốt những nội dung sau:
- Xác định phương thức phân bổ vốn đầu tư cho các đối tượng đầu tư
- Tổ chức cung cấp vốn đầu tư theo phương thức tổ chức đối tượng
- Bảo đảm tiến độ cung cấp vốn đầu tư
- Bảo đảm hiệu quả vốn đầu tư
Điều này phụ thuộc chủ yếu vào trình độ của nhà sản xuất kinh doanh, nhà quản lý các công trình…những người trực tiếp sử dụng, phân bổ vốn đầu tư . Có thể nói bảo đảm vốn đầu tư là một khái niệm tổng quát, nó liên quan đến toàn bộ quá trình đầu tư, từ việc lập kế hoạch đầu tư để xác định lượng vốn cần thiết cho hoạt động kinh tế - xã hội. Việc thu hút vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu cho đến việc sử dụng vốn đầu tư như thế nào cho hiệu quả nhất.
III. Sự cần thiết phải bảo đảm vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội đối với tỉnh Yên Bái.
1. Bảo đảm vốn đầu tư và vấn đề thực hiện các mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Yên Bái lần thứ XV và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ thứ IX, trên cơ sở kết quả thực hiện kế hoạch 4 năm 2001 - 2004 và dự kiến kế hoạch năm 2005, có thể đánh giá nền kinh tế - xã hội của tỉnh 5 năm qua đã có những đã có những bước phát triển đáng kể: tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt tương đối cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, kết quả hạ tầng được đầu tư xây dựng mới và nâng cấp đã tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Trong đó bảo đảm được vốn đầu tư là nhân tố hàng đầu quyết định đến tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Với tổng lượng vốn đầu tư huy động được trong 5 năm 2001 - 2005 đạt gần 5,573 tỷ đồng bình quân 5 năm tăng 18,6%, so với giai đoạn 1996 - 2000 tăng gấp 2,54 lần. Tỷ lệ vốn đầu tư so với giá trị tăng thêm năm 2000 là 38,27%, dự kiến năm 2005 tăng lên 48,83%.
Xuất phát từ đó mà tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2001 - 2005 đạt 9,6%, trong đó ngành nông lâm nghiệp tăng 5,5%, ngành công nghiệp và xây dựng tăng 13,9%, các ngành dịch vụ tăng 11%. So với mục tiêu Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XV là 9,5% trở lên, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2001 - 2005 của tỉnh đã vượt mục tiêu đề ra. Có nhiều yếu tố tác động làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh tăng liên tục. Trong 5 năm, tỉnh đã huy động được tổng vốn đầu tư cao hơn so với dự kiến là 39,3%; thị trưởng tiêu thụ sản phẩm được mở rộng; cùng với các tiến bộ về khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, số lượng và chất lượng nguồn lao động đều được nâng lên là những nguyên nhân chủ yếu góp phần đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh đạt ở mức cao và vượt mục tiêu đề ra.
2. Bảo đảm vốn đầu tư với vấn đề khai thác triệt để các nguồn vốn đầu tư.
Như chúng ta đã biết nền kinh tế tăng trưởng cao chủ yếu là do khối lượng vốn đầu tư. Nguồn vốn này đã được khai thác một cách triệt để từ nhiều nguồn vốn đầu tư khác nhau. Trong đó nguồn vốn từ ngân sách nhà nước (bao gồm cả ODA) năm 2004 đã đạt 708,855 tỷ đồng ước 2005 đạt 756,89 tỷ đồng. Tín dụng đầu tư năm 2004 đạt 246 tỷ đồng ước 2005 đạt 400 tỷ đồng. Đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2004 đạt 7,8 tỷ đồng, ước 2005 đạt 8 tỷ đồng. Nguồn vốn của dân và tư nhân năm 2004 đạt 350 tỷ đồng, ước 2005 đạt 380 tỷ đồng. Vốn của doanh nghiệp năm 2004 đạt 32 tỷ đồng, ước 2005 đạt 30 tỷ đồng.
Về cơ cấu nguồn vốn: Nguồn vốn ngân sách nhà nước chiếm 54,9% tổng vốn đầu tư 5 năm 2001 - 2005, tăng 3,7% so với 5 năm 1996 - 2000 (gồm vốn ngân sách tập trung, vốn chương trình mục tiêu quốc gia, vốn ODA…); vốn tín dụng đầu tư chiếm 17,5%, tăng 11,3%; đầu tư trực tiếp của nước ngoài chiếm 0,57%, giảm 5,5%; vốn doanh nghiệp nhà nước chiếm 3%, tăng 1%.
3. Bảo đảm vốn đầu tư với vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Với tổng vốn đã huy động được tập trung đầu tư cho các ngành: nông lâm nghiệp là 850.101 triệu đồng bình quân 5 năm 2001 - 2005, công nghiệp xây dựng 1.342.278 triệu đồng, ngoài ra vốn còn được đầu tư vào các ngành thương mại, khách sạn, nhà hàng, vận tải, bưu điện, quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng, giáo dục đào tạo, y tế, cứu trợ xã hội, văn hoá thông tin, thể dục thể thao và các ngành khác.
Tuy nhiên, do sản xuất chưa phát triển mạnh nên các nguồn vốn tín dụng đầu tư, đầu tư trực tiếp của nước ngoài, vốn của doanh nghiệp còn chiếm tỷ trọng thấp. Nhu cầu đầu tư rất lớn so với khả năng cân đối, trong khi nguồn vốn ngân sách nhà nước còn hạn hẹp nên vẫn còn tình trạng đầu tư dàn trải và nợ đọng trong xây dựng cơ bản. Tư tưởng ỷ lại trông chờ vào đầu tư của ngân sách nhà nước còn khá phổ biến nên chưa khai thác và phát huy được hết mọi nguồn lực. Bên cạnh đó hệ thống kết cấu hạ tầng được đầu tư xây dựng mới hoặc nâng cấp đã làm thay đổi bộ mặt các đô thị và phục vụ tích cực cho sản xuất và đời sống sinh hoạt của nhân dân. Trong 5 năm 2001 - 2005 đã mở thêm 123,5 km đường tỉnh; 58,5 km đường đô thị; 368 km đường giao thông nông thôn. Một số công trình lớn được xây dựng như: Cầu Mậu A và cầu Văn Phú vượt sông Hồng; các tuyến đường Yên Bái - Khe Sang, Yên Thế - Vĩnh Kiên, Quy Mông - Đông An, Hợp Minh - Mỵ, Đại Lịch - Minh An, tuyến đường ngang Mậu A - Tân Nguyên; các công trình thuỷ lợi: Làng Sang, Phai My, Huổi Phai, Ngòi Róm….
4. Bảo đảm vốn đầu tư với quan điểm đường lối lãnh đạo các tỉnh miền núi.
Đầu tư là chìa khoá của mọi sự phát triển, đối với nền kinh tế bảo đảm vốn đầu tư là nhân tố quyết định đến sư tăng trưởng và phát triểncủa kinh tế, vai trò này càng dặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế Yên Bái
Là tỉnh miền núi, Yên Bái cách biệt với các vùng khác bởi rừng núi, giao lưu kinh tế văn hoá gặp rất nhiều khó khăn bởi giao thông đi lại vất vả, nền kinh tế Yên Bái còn chậm phát triển. Yên Bái có nguồn tài nguyên tương đối phong phú đặc biệt là rừng, là một thuận lợi lớn cho sự phát triển kinh tế của huyện, song việc khai thác vận chuyển bừa bãi làm cho nguồn tài nguyên này ngày càng cạn dần, phần thu từ khai thác không bù đắp tương xứng cho việc tái đầu tư. Do đó cần có sự đầu tư quản lý và khai thác có hiệu quả nhất.
Do điều kiện địa hình toàn là đồi, núi do dó phát triển kinh tế của Yên Bái chủ yếu dựa vào nông lâm nghiệp. Song hiện nay các sản phẩm này chủ yếu tiêu thụ trong tỉnh và xuất ra ngoài dưới dạng thô chưa qua sơ chế. Như vậy cần đầu tư và công nghiệp chế biến nông lâm sản vừa để tạo việc làm đồng thời cũng nâng cao giá trị hàng hoá trước khi xuất ra bên ngoài.
Hệ thống cơ sở hạ tầng rất yếu kém và đều đã xuống cấp nghiêm trọng, đặc biệt là hệ thống giao thông đường bộ, nhu cầu mở mới và tu sửa là rất lớn. Hiện nay việc đi lại của người dân vùng cao chủ yếu vẫn bằng con đường mòn, làm tốn nhiều thời gian và công sức cho việc đi lại và vận chuyển hàng hóa. Tỉnh có nhiều sông suối với nhiều ghềnh thác trong khi đó khả năng cung cấp điện của huyện còn rất hạn chế, không đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và sản suất, nhất là vào mùa khô. Hệ thống trường học và bệnh viện còn thiếu nhiều thêm vào đó các cơ sở này đều đã xuống cấp.
Chính từ những khó khăn này dẫn đến sự cần thiết phải bảo đảm vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng với một khối lượng vốn đầu tư lớn. Vấn đề đầu tư thực sự là yếu tố hàng đầu giúp Yên Bái khắc phục những khó khăn trên. Đây là những tiền đề quan trọng làm bàn đạp cho sự phát triển kinh tế giúp Yên Bái ngày càng phát triển hơn.
PHẦN II:
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM VỐN ĐẦU TƯ Ở TỈNH YÊN BÁI THỜI KỲ 2001 - 2005
I. Khái quát về tỉnh Yên Bái
1. Vị trí địa lý kinh tế
Yên Bái là một tỉnh nằm sâu trong nội địa vùng núi phía Bắc tổ quốc, phía Bắc giáp tỉnh Lào Cai, phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ, phía Đông giáp tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang, phía Tây giáp tỉnh Sơn La.
Tổng diện tích tự nhiên 6882,92 km2 bao gồm 9 đơn vị hành chính (1 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện) với 180 xã phường trong đó nhà nước đã công nhận 70 xã vùng cao, 70 xã thuộc vùng đặc biệt khó khăn.
Đặc điểm địa hình Yên Bái cao dần từ đông nam- lên tây bắc, địa hình khá phức tạp bị chia cắt mạnh mẽ bởi 3 dãy núi lớn đều chạy theo hướng Tây Bắc- Đông Nam: dãy Hoàng Liên - Púng Luông, dãy Con voi và dãy núi phía đông hồ Thác Bà. Yên Bái nằm sâu trong vùng núi khí hậu nhiệt đới gió mùa có nhiệt độ trung bình 22oC - 23oC, tổng nhiệt độ cả năm 7500 - 8000oC, có lượng mưa trung bình 1500 - 2200 mm/năm, độ ẩm trung bình 83 - 87%.
Tuy nằm sâu trong nội địa nhưng Yên Bái tương đối thuận lợi về giao thông, có cả đường bộ, đường sắt, đường thủy từ Hải Phòng, Hà Nội lên cửa khẩu Lào Cai. Trong tương lai có thể có cả vận tải hàng không trên cơ sở nâng cấp sân bay Yên Bái.
2. Nguồn lực
2.1. Tài nguyên thiên nhiên
- Về khoáng sản : đã phát hiện được 176 điểm mỏ khoáng sản thuộc 5 nhóm: năng lượng, vật liệu xây dựng, khoáng sản chất công nghiệp, kim loại và nước khoáng.
- Về đất đai: Yên Bái có tổng diện tích đất tự nhiên 688.292,2 ha, đất đai màu mỡ hiện đã khai thác và sử dụng 368814 ha chiếm 53.6% tổng diện tích tự nhiên, đất chưa sử dụng còn khá lớn 319.478 ha chiếm 46,6% diện tích tự nhiên, trong đó có khả năng huy động vào sản xuất nông lâm nghiệp 296.507 ha chiếm 43% diện tích tự nhiên.
- Về tài nguyên rừng: Trong trồng rừng đã sử dụng các giống cây lâm nghiệp mới như keo lai, bạch đàn mô…Ngoài nguồn lực được TƯ cân đối trong dự án 5 triệu ha rừng, tỉnh còn dành một lượng vốn đáng kể để trồng rừng các huyện phía Tây. Bình quân mỗi năm trồng mới hàng vạn ha rừng. Tổng diện tích rừng năm 2000 là 264.064 ha, dự kiến năm 2005 sẽ đạt 332.177 ha. Độ che phủ của rừng tăng từ 38,37% năm 2000 lên 48,26% năm 2005.
+ Rừng phòng hộ: Diện tích rừng phòng hộ là 130.987 ha năm 2000, dự kiến tăng lên 173.134 ha năm 2005, trong đó: rừng tự nhiên phòng hộ 142.500 ha, rừng trồng phòng hộ 30.634 ha.
+ Rừng sản xuất:
*Rừng nguyên liệu công nghiệp: Yên Bái nằm trên địa bàn quy hoạch vùng nguyên liệu của nhà máy giấy Bãi Bằng. Diện tích năm 2000 là 48543 ha, dự kiến tăng lên 59.833 ha năm 2005. Hàng năm khai thác từ 100.000 - 150.000 m3 gỗ và 70.000 - 100.000 tấn nguyên liệu sợi dài (tre, vầu, nứa) cung cấp cho các nhà máy giấy, cơ sở chế biến giấy, bột giấy…
*Rừng đặc sản quế: Quế là cây rừng có giá trị kinh tế cao, sản phẩm quế vỏ và tinh dầu quế đã được xuất khẩu trên thị trường thế giới. Diện tích quế hàng năm tăng khoảng 2.000 ha. Năm 2000 diện tích quế đạt 20.002 ha, dự kiến năm 2005 đạt 30.000 ha.
- Tài nguyên nước: Có 3 hệ thống sông suối lớn: Sông Hồng, sông Chảy và suối Nậm Kim có tổng chiều dài 320 km, diện tích lưu vực 3.400 km2 ngoài ra còn 20.913 ha mặt nước trong đó hồ Thác Bà 19.050 ha đây là nguồn tiềm năng phong phú để phát triển thủy điện và phục vụ sản xuất nông lâm nghiệp, phục vụ cuộc sống con người.
- Phát huy lợi thế về diện tích mặt nước ao hồ lớn, ngành thủy sản những năm gần đây đã bắt đầu phát triển. Tổng diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản toàn tỉnh là 26000 ha (ao hồ lớn 19.050 ha, ao hồ nhỏ 2000 ha, ruộng 3000 ha, sông suối 2000 ha), trong đó có 24000 ha diện tích có khả năng nuôi cá và đã sử dụng 21.050 ha. Tốc độ tăng trưởng tuy đạt cao, bình quân 5 năm 2001-2005 đạt 28,2%, nhưng sản lượng thủy sản còn rất thấp. Nhiệm vụ của ngành thủy sản trong thời gian qua chủ yếu là hướng dẫn bà con nông dân sản xuất cá giống, nuôi và đánh bắt cá thịt, tận dụng ao hồ, thực hiện một số dự án nuôi trồng thủy hải sản như: tôm càng xanh, rô phi đơn tính…Hàng năm sản xuất được trên 30 triệu cá giống cung cấp cho nhân dân nuôi cá lồng và nuôi cá thâm canh trên những diện tích ao hồ nhỏ. Sản lượng thủy sản năm 2000 đạt 1233,7 tấn tăng lên 2.784 tấn năm 2003, trong đó sản lượng nuôi trồng 2136 tấn, sản lượng đánh bắt 648 tấn, dự kiến năm 2005 sản lượng đạt 3000 tấn.
- Yên Bái có nhiều phong cảnh thiên nhiên đẹp, nhiều di tích cách mạng, nhiều dân tộc thiểu số có những nét văn hóa riêng biệt mang đậm đà bản sắc dân tộc vùng núi phía Bắc là tiền đề để phát triển ngành du lịch
Du lịch tỉnh Yên Bái giai đoạn 2001 - 2005 được đánh giá là bắt đầu khởi động. Từ năm 2004 nhà nước đã tiến hành đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu du lịch Tân Hương, nhằm khai thác các tiềm năng thế mạnh về du lịch của tỉnh. Hiện nay các dịch vụ du lịch mới chỉ ở hình thức kinh doanh lưu trú. Năm 2000 có 16 cơ sở kinh doanh lưu trú, đón 50.200 lượt khách, đạt doanh thu 9,9 tỷ đồng. Đến nay toàn tỉnh có 39 cơ sở kinh doanh lưu trú, tăng 2,4 lần năm 2000 với tổng số 1.180 phòng, trong đó có 4 cơ sở đạt tiêu chuẩn 2 sao. Năm 2004 có 105.000 lượt khách, trong đó khách quốc tế là 7.396 lượt, doanh thu dịch vụ du lịch đạt 16,172 tỷ đồng, tăng 62,5% so với năm 2000. Năm 2005 dự kiến sẽ có 44 cơ sở kinh doanh lưu trú, đón khoảng 130.000 lượt khách.
2.2. Nguồn nhân lực
Dân số năm 2001 là 702.412 người, mật độ 102 người/km2, trong đó dân số thành thị 20%, nông thôn 80%. Dân số trong độ tuổi lao động chiếm 48% dân số.
Ước năm 2005 tăng lên 729.400 người, trong đó: tỷ lệ nữ 50,41%, nam 49,59%, dân số thành thị là 149.360 người chiếm 20,48%, dân số nông thôn là 580.040 người chiếm79,52%.
Dân số trong tuổi lao động tăng từ 388.172 người năm 2000 lên 461.140 người năm 2005, so với dân số trung bình tăng từ 56% lên 53,2%. Lao động trong các ngành kinh tế quốc dân tăng từ 335.290 người năm 2000 lên 407.910 người năm 2005, so với lao động trong độ tuổi tăng từ 86,4% lên 88,4% . Số lao động được giải quyết việc làm hàng năm từ 16000 - 17000 người. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm từ 5,7% năm 2000 xuống 4% năm 2005. Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn tăng từ 76% năm 2002 lên 80% năm 2005. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 15% năm 2000 lên 25% năm 2005.
3. Tình hình kinh tế - xã hội
Về tăng trưởng kinh tế: dự kiến năm 2005 tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 10,15%. Giá trị tăng thêm bình quân đầu người năm 2005 ước đạt 4,21 triệu đồng bằng 45% so với cả nước. Tuy nhiên, nền kinh tế của tỉnh còn một số hạn chế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế còn chịu ảnh hưởng bởi sự biến động của tình hình trong nước và khu vực, chưa phát huy hết được các tiềm năng của tỉnh.
Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế: nhìn chung cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng tích cực, đạt và vượt mục tiêu đề ra, nhưng sự phát triển của cơ cấu kinh tế cũng còn một số hạn chế. Sự chuyển dịch cơ cấu theo thành phần còn hạn chậm, do các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chưa phát huy hết tiềm năng, chưa mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, số lượng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ít, quy mô sản xuất còn nhỏ bé. sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong từng ngành cũng còn chậm: Trong sản xuất công nghiệp, tỷ trọng công nghiệp chế biến tăng chậm; trong sản xuất nông nghiệp, mặc dù tỉnh đã chú trọng phát triển chăn nuôi, nhưng tỷ trọng chăn nuôi tăng chậm, một phần do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm năm 2003, nhưng chủ yếu là chưa có sự đột phá trong phát triển chăn nuôi.
Kết quả thực hiện một số ngành lĩnh vực chủ yếu:
- Về sản xuất nông lâm nghiệp: trong 5 năm 2001 - 2005 ngành nông lâm nghiệp đạt tốc độ bình quân 5,51%. Trong sản xuất nông lâm nghiệp đã thực hiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất, cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng, tập trung đầu tư thâm canh, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Đồng thời tỉnh đã có những chính sách hỗ trợ giống cây, con và vật tư nông nghiệp cho phát triển sản xuất nông lâm nghiệp.
- Về sản xuất công nghiệp: tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp 5 năm 2001 - 2005 tăng bình quân 12,55%. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2005 dự kiến đạt 1.100 tỷ đồng, bình quân 5 năm 2001 - 2005 tăng 14,8%.
- Thương mại, dịch vụ: họat động thương mại dịch vụ trên địa bàn đã có bước phát triển, góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Hoạt động lưu thông hàng hoá trên toàn địa bàn phát triển ổn định, thị trường khu vực nông thôn, vùng cao có dấu hiệu ngày càng phát triển hơn. Khu vực quốc doanh vẫn tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong lưu thông hàng hoá thiết yếu, mặt hàng chính sách xã hội, thực hiện tốt việc thu mua nông lâm sản cho nông dân, việc thực hiện văn minh thương mại đã được coi trọng. Khu vực ngoài quốc doanh đạt được tốc độ phát triển nhanh cả về quy mô, số lượng và cơ cấu ngành nghề. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội năm 2005 đạt 1.300 tỷ đồng, bình quân 5 năm tăng 16,25%.
Các lĩnh vực văn hoá xã hội:
- Giáo dục đào tạo: trong 5 năm 2001 - 2005, quy mô giáo dục đào tạo phát triển ở tất cả các ngành học, bậc học. Năm 2005 toàn tỉnh có 566 trường (159 trường mầm non, 383 trường phổ thông, 24 trường chuyên nghiệp). Về điều kiện đảm bảo phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo: dự kiến đến hết năm 2005 toàn tỉnh có tổng số 27 trường đạt chuẩn quốc gia, trong đó có 7 trường mầm non, 15 trường tiểu học, 3 trường THCS, 2 trường PTTH.
Về y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân: năm 2005 tổng số cơ sở điều trị, điều dưỡng toàn tỉnh là 248, tổng số cán bộ là 2735 người trong đó có 452 bác sỹ, số xã có cán bộ y tế là bác sỹ là 90 xã. Công tác thường trực cấp cứu, khám chữa bệnh tại các bệnh viện, phòng khám đa khoa khu vực và các cơ sở y tế đã được chú trọng nhưng còn nhiều hạn chế do các trang thiết bị y tế hiện đại còn thiếu, trình độ của cán bộ y tế còn yếu, hệ thống cơ sở y tế cấp huyện xuống cấp nghiêm trọng…
II. Thực trạng bảo đảm vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Yên Bái thời kỳ 2001 - 2005.
Trong những năm qua cùng với sự chuyển đổi mạnh mẽ của đất nước theo nền kinh tế thị trường mở cửa ra bên ngoài, thu hút đầu tư từ bên ngoài nhằm phát huy nội lực trong nước, đưa đất nước đi lên. Yên Bái cũng đạt được nhiều thành tựu nhất định về kinh tế xã hội, nâng cao mức sống dân cư... Trong các thành tựu trên thì vấn đề đáng quan tâm hơn cả đó là tình hình đầu tư trên địa bàn tỉnh thơì kỳ 2001 - 2005.
Trong thời gian qua đầu tư của tỉnh đã có nhiều thay đổi tích cực trong quy mô vốn đầu tư cũng như kết quả và hiệu quả mà đầu tư đem lại. Nguồn vốn đầu tư chủ yếu là vốn cấp phát, để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng xây dựng các công trình trọng điểm.... ổn định và nâng cao mức sống dân cư. Bên cạnh những thành tựu đó Yên Bái còn bộc lộ nhiều hạn chế trong lĩnh vực đầu tư như vốn đầu tư ngoài ngân sách quá nhỏ, đầu tư mất cân đối, quản lý và sử dụng vốn còn nhiều hạn chế, vốn đầu tư còn chậm phát huy hiệu quả...
Để nhận xét xác thực hơn về đầu tư của tỉnh ta phải dựa trên đặc thù kinh tế xã hội của tỉnh, Yên Bái là một tỉnh nghèo, kinh tế còn mang nặng tính tự cấp tự túc và đây là đầu tư trên địa bàn tỉnh nên vốn đầu tư được xem xét dưới góc độ do sở kế hoạch và đầu tư của tỉnh quản lý. Cụ thể hoạt động đầu tư của tỉnh được xem xét thông qua các khía cạnh sau.
1. Quy trình phân bổ vốn đầu tư của tỉnh
Vốn đầu tư toàn xã hội Yên Bái bao gồm vốn của nhà nước và vốn của dân cư .Vốn đầu tư của dân do dân trực tiếp đầu tư và quản lý. Còn đối với nguồn vốn đầu tư của nhà nước, bao gồm vốn ngân sách địa phương, ngân sách Trung ương, vốn vay các ngân hàng thương mại…sau khi được phê duyệt và đưa vào kế hoạch chuẩn bị thực hiện đầu tư, vốn này được tập chung lại do UBND tỉnh quản lý mà trực tiếp là phòng tài chính tỉnh. Để vốn đến khâu cuối cùng là thanh quyết toán cho các công ty, đơn vị nhận thực hiện dự án, hay hộ nông dân được cấp vốn đầu tư thì vốn đầu tư được phân bổ theo qui trình sau đây.
Sơ đồ phân bổ vốn đầu tư của tỉnh Yên Bái
Vốn đầu tư của nhà nước
Các công ty đơn vị thực hiện dự án
Ban định canh, định cư
Ban quản lý dự án
Các công ty đơn vị thực hiện dự án hay hộ nông dân được nhận vốn đầu tư
Các công ty đơn vị thực hiện dự án
Như vậy vốn đầu tư của Yên Bái được cấp cho ban quản lý dự án và ban định canh định cư, hai ban này có thể trực tiếp đứng ra tổ chức thi công xây dựng hoặc lựa chọn nhà thầu để thực hiện công việc đó. Còn lại là do UBND tỉnh trực tiếp cấp cho các đơn vị thực hiện, đây là các công trình do UBND trực tiếp tổ chức đấu thầu hoặc chỉ định thầu, có sự tham gia của phòng quản lý dự án.
2. Quy mô và nhịp độ vốn đầu tư
Quy mô và nhịp độ vốn đầu tư được đánh giá thông qua chỉ tiêu tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Vốn đầu tư toàn xã hội bao gồm vốn trong nước và vốn nước ngoài:
- Vốn trong nước được huy động từ các nguồn sau:
Thứ nhất: Vốn đầu tư từ ngân sách tập trung. Nguồn này có được do các khoản đầu tư từ ngân sách Trung ương qua địa phương hoặc Trung ương qua ngành trên địa bàn.
Thứ hai: Vốn huy động từ địa phương. Bao gồm các nguồn do Quốc hội để lại theo Luật ngân sách ( thuế khai thác tài nguyên, cấp quyền sử dụng đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp trồng lúa...). Ngoài ra còn có vốn huy động từ các doanh nghiệp và dân cư.
Thứ ba: Vốn tín dụng từ Trung ương, địa phương và vốn vay các ngân hàng thương mại.
-Vốn đầu tư nước ngoài.
Nguồn này có được từ hai hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài và hỗ trợ phát triển chính thức. Tuy nhiên khi tính chỉ tiêu này nếu cộng tất cả các khoản nói trên lại thì phần vốn hỗ trợ phát triển chính thức sẽ bị tính trùng, lý do là nguồn này đã được tính trong nguồn ngân sách tập trung.
Như vậy vốn đầu tư toàn xã hội là chỉ tiêu tổng hợp nhất về mức vốn đầu tư, tại Yên Bái vốn đầu tư toàn xã hội qua các năm được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 1: Vốn đầu tư toàn xã hội tỉnh Yên Bái
Đơn vị
2001
2002
2003
2004
ước 2005
Tổng vốn đầu tư
Tỷ đồng
754,296
890,2
1050,219
1343
1575
Tốc độ tăng vốn đầu tư liên hoàn
%
18,02
17,98
27,88
17,27
Tốc độ tăng vốn đầu tư định gốc
%
18,02
39,23
78,05
108,8
Nguồn : Tỉnh Yên Bái - báo cáo thực hiện kế hoạch các năm 2001-2005
Qua bảng số liệu cho thấy, tốc độ tăng liên hoàn của vốn đầu tư năm sau cao hơn năm trước, tuy nhiên có năm 2005 chỉ tăng 17,27% so với năm 2004. Năm 2004 là năm có tốc độ gia tăng đầu tư cao nhất đạt 27,88% so với năm 2003. Đây cũng là năm tăng cao nhất từ năm 1991 đến nay. Vì đây là năm tập trung nhiều nhất các chương trình dự án đầu tư của nhà nước như: chương trình định canh định cư, chương trình y tế giáo dục…Mặc dù có sự tăng lên song tốc độ gia tăng còn thấp và hàng năm tốc độ tăng chậm.
Thêm vào đó nói chung số tuyệt đối vốn đầu tư của tỉnh Yên Bái còn nhỏ, năm 2001 chỉ có 754,296 tỷ đồng, nói chung con số này cũng gia tăng qua các năm, vào năm 2005 ước tính tổng vốn đầu tư là 1575 tỷ đồng.
Quy mô vốn đầu tư còn được đánh giá thông qua tương quan của nó với GDP, chúng ta có nhận xét rằng để đạt tốc độ tăng trưởng trung bình khá, tổng vốn đầu tư phải đạt 15 -25% so với GDP.
Có nhiều vấn đề song quan trọng nhất đó là Yên Bái còn nghèo kinh tế chưa có gì nên tích luỹ đầu tư từ nội lực chưa nhiều, chủ yếu dựa vào nguồn ngân sách cấp phá từ trung ương, đi vay viện trợ với ưu đãi, do đó còn phụ thuộc vào cả cung cấp yếu tố bên ngoài để quyết định cho lượng vốn đầu tư có thể huy động. Đây là một trở ngại lớn trong việc huy động vốn thời kỳ qua cũng như giai đoạn tới cho hoạt động đầu tư của tỉnh Yên Bái.
3. Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn
Nếu phân theo nguồn huy động có thể chia thành 5 nguồn cơ bản sau:
- Vốn ngân sách nhà nước (bao gồm cả ODA)
- Tín dụng đầu tư
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
- Vốn của dân và tư nhân
- Vốn của doanh nghiệp
Đây là 5 nguồn vốn đầu tư chủ yếu của tỉnh Yên Bái, trong đó nguồn vốn ngân sách là quan trọng nhất (bao gồm vốn ngân sách, địa phương, ngân sách trung ương và các nguồn chương trình, mục tiêu quốc gia lồng ghép trên địa bàn).
Bảng 2: Cơ cấu đầu tư theo nguồn
Đơn vị
2001
2002
2003
2004
ước 2005
1. NSNN
- Vốn đầu tư
- Tỷ trọng
- Tốc độ tăng liên hoàn
tỷ đồng
%
%
382,9
50,8
550,1
61,8
43,6
602
57,3
9,4
708,9
52,8
17,7
756,9
48,1
6,8
2. Tín dụng đầu tư
- Vốn đầu tư
- Tỷ trọng
- Tốc độ tăng định gốc
tỷ đồng
%
%
157,9
21
65,5
7,4
-58,5
104
9,9
-34,2
246
18,3
55,8
400
25,4
153
3. ĐTTTNN
- Vốn đầu tư
- Tỷ trọng
- Tốc độ tăng định gốc
tỷ đồng
%
%
13
1,7
3
0,3
-76,7
0,35
0,03
-97,3
7,8
0,6
-39,6
8
0,5
-38
4. Vốn của dân, tư nhân
- Vốn đầu tư
- Tỷ trọng
- Tốc độ tăng đầu tư
tỷ đồng
%
%
183,7
24
215,2
24,2
17,2
308,1
29,3
43,1
350
26,1
13,6
380
24,1
8,6
5. Vốn của doanh nghiệp
- Vốn đầu tư
- Tỷ trọng
- Tốc độ tăng liên hoàn
tỷ đồng
%
%
16,9
2,5
56,3
6,3
232
36,1
3,4
-35,9
32
2,4
-11,3
30
1,9
6,3
Nguồn: UBND tỉnh Yên Bái báo cáo tổng kết thực hiện kế hoạch các năm 2001-2005
Từ bảng số liệu ta có thể thấy rằng Yên Bái đã bao gồm khá đầy đủ các nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế. Trong đó đầu tư nước ngoài (FDI) chiếm tỷ trọng khá nhỏ trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội vào những năm 2002 (3 tỷ đồng), 2003 (0,35 tỷ đồng) đã giảm rất lớn so với năm gốc 2001 (13 tỷ đồng) đây cũng là một khó khăn cho phát triển kinh tế của tỉnh, tín dụng đầu tư cũng là một nguồn được huy động khá lớn đặc biệt vào năm 2005 tới 400 tỷ đồng.
Tỷ trọng nguồn vốn ngân sách luôn chiếm khá cao trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội của tỉnh, năm 2002 là 61,8% và cũng có sự giảm dần qua các năm, đến năm 2005 tỷ lệ này là 48,1% xong nó vẫn giữ vai trò chính trong tổng vốn đầu tư. Hàng năm các chương trình dự án đều được đầu tư bằng nguồn ngân sách đầu tư, theo như đã nói ở trên nguồn thu ngân sách tỉnh không đáp ứn chi, do đó tổng vốn đầu tư không những chủ yếu là nguồn ngân sách còn chủ yếu là ngân sách trung ương. Đầu tư từ ngân sách tỉnh ngày càng ít đi, trong khi đó đầu tư từ ngân sách tỉnh luôn bảo đảm sự gia tăng vốn đầu tư của tỉnh trong những năm qua. Bên cạnh đó nguồn vốn từ doanh nghiệp nói chung chiếm tỷ trọng nhỏ 6,3% năm 2002 và giảm dần qua các năm, đặc biệt đến năm 2005 chỉ còn 1,9%. Do các doanh nghiệp thường chỉ quan tâm đến các hoạt động đem lại lợi nhuận kinh tế cao chứ không chú ý đến những lĩnh vực mang lại hiệu quả xã hội nên đầu tư cho xã hội thì vốn của doanh nghiệp tư nhân, trách nhiệm hữu hạn hầu như không đáng kể.
Đối với nguồn vốn huy động từ dân và tư nhân thì không có sự gia tăng đáng kể và đứng thứ hai sau vốn ngân sách và vẫn tiếp tục tăng qua các năm, mặc dù có sự gia tăng về giá trị song còn nhỏ. Năm 2001 là 183,7 tỷ đồng chiếm 24% trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong năm, đến năm 2002 tăng là 215,2 tỷ đồng chỉ chiếm 24,2%, đến năm 2005 là 380 tỷ đồng nhưng lại chỉ chiếm có 24,1%. Trong khi cuộc sống của người dân chưa có nhiều tích lũy, thì vấn đề dành cho đầu tư là một khó khăn lớn. Theo số liệu thống kê, công tác xóa đói giảm nghèo đã có nhiều chuyển biến tích cực. Năm 2000 tỉ lệ hộ nghèo là 19,3%, năm 2005 dự kiến giảm xuống còn 7%, tổng mức huy động vốn đầu tư cho các chương trình dự án tham gia thực hiện xóa đói giảm nghèo của tỉnh 5 năm 2001-2005 khoảng 1108 tỷ đồng, đay cũng là một nhân tố quan trọng làm cho nguồn vốn này không có sự gia tăng và tỷ trọng giảm dần trong khi các nguồn vốn khác luôn được đẩy mạnh.
Theo đó ta có:
Sơ đồ cơ cấu quản lý nguồn vốn của tỉnh Yên Bái
Tổng vốn đầu tư xã hội
ODA - OECF
NSNN
Vốn ngân sách địa phương ĐTXDCB
Ngân sách địa phương
Các chương trình quốc gia có tính chất XDCB
Nguồn do tăng thu địa phương
Nguồn do quốc hội để lại
Ngân sách tập trung
Đầu tư qua Bộ, ngành
Vay vốn các NHTM
Vốn đầu tư của các hộ cá thể
Vốn đầu tư của DNNN
Vốn đầu tư ưu đãi của nhà nước
Vốn quỹ hỗ trợ quốc gia
Vốn đầu tư của doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Nước ngoài
Trong nước
Thật khó có thể xem chi tiết được một cách đầy đủ việc sử dụng vốn thông qua từng nguồn đó với số liệu chi tiết qua tất cả các năm như đã phân loại ở trên, song qua cách phân loại đó ta có thể đánh giá việc sử dụng các nguồn vốn của Yên Bái năm 2004 như sau:
Đầu từ từ nguồn ngân sách tập trung .
Trong năm hầu hết các công trình được xây dựng dựa trên nguồn vốn này, và đầu tư chủ yếu cho hạ tầng cơ sở xây dựng giao thông, thuỷ lợi, giáo dục, y tế...Cụ thể một số công trình lớn như đường Hợp Minh - Mỵ, cầu Trái hút - Đông An… , các công trình giao thông như đường Yên Thế - Vĩnh Kiên, đường Yên Bái - Khe Sang, đường Xuyên á..., Xây dựng các trường học dạy nghề, các trường phổ thông, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp ... và một số công trình như bệnh viện đa khoa tỉnh, trường trung học y tế, bệnh viện Yên Bình, Trấn Yên, Lục Yên, phòng khám đa khoa khu vực…
Đầu tư từ nguồn tín dụng và đầu tư quỹ hộ trợ quốc gia.
Nguồn này chủ yếu vay để giải quyết việc làm xây dựng đường giao thông quốc lộ 32, 37, 32C và cầu Văn Phú - Phú Lộc, ngoài ra còn để sửa chữa nâng cấp trạm y tế.
Như vậy thời gian qua nguồn ngân sách nhà nước giữ vị trí chủ chốt trong tổng cơ cấu vốn đầu tư theo nguồn của Yên Bái. Trước mắt đây là một thuận lợi cho Yên Bái, nguồn này giúp cho Yên Bái giải quyết những khó khăn trước mắt về ổn định dân cư, vì tỷ lệ du canh du cư của Yên Bái khá lớn đặc biệt là các dân tộc vùng cao, việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các ngành, sẽ tạo điều kiện cho các nguồn vốn khác phát huy tác dụng, tạo việc làm cho người lao động.
Trong thực tế có thể nguồn vốn huy động trong dân có thể gia tăng cao và ngày càng bền vững, song nó phụ thuộc vào sự phát huy tác dụng của nguồn ngân sách, khi mà các công trình y tế, giao thông đi vào hoạt động. Lúc đó người dân ở các vùng xa có thu nhập từ nông lâm nghiệp mới có thể đem ra thị trường trao đổi để có nguồn thu, từ đó tất yếu có phần dành cho đầu tư. Trong thời gian qua, một phần là do người dân chưa biết vị trí sản phẩm của mình làm ra trên thị trường, và nữa là do đường giao thông nên sản phẩm làm ra không có điều kiện bán ra trên thi trường. Như vậy nguồn vốn huy động sẽ là nguồn chính cho phát triển trong tương lai còn hiện tại nguồn ngân sách vẫn là nguồn chủ đạo.
4. Cơ cấu đầu tư theo ngành
Các phân ngành phổ biến nhất hiện nay được áp dụng theo hệ thống tài khoản quốc gia (SNA), theo đó nền kinh tế sẽ được chia thành 3 khu vực.
Khu vực 1: Bao gồm các ngành nông nghiệp , lâm nghiệp, và thuỷ sản.
Khu vực 2: Bao gồm các ngành xây dựng, và công nghiệp
Khu vưc 3: là nhóm các ngành dịch vụ
Trong 5 năm qua lượng vốn đầu tư của tỉnh vào 3 khu vực này như sau:
Bảng 3: Cơ cấu đầu tư theo ngành
Đơn vị
2001
2002
2003
2004
ước 2005
1. Ngành công nghiệp xây dựng
- Vốn đầu tư
- Tỷ trọng
- Tốc độ tăng liên hoàn
tỷ đồng
%
%
214,3
38,8
183
25,9
-14,6
262,7
30,8
43,5
300
29,4
14,2
350
29,7
16,7
2. Ngành Nông lâm nghiệp, thuỷ sản
- Vốn đầu tư
- Tỷ trọng
- Tốc độ tăng liên hoàn
tỷ đồng
%
%
134,5
24,3
98,9
14
-26,5
171,9
20,2
73,9
200
19,6
16,3
250
21,2
25
3. Các ngành thương mại dịch vụ
- Vốn đầu tư
- Tỷ trọng
- Tốc độ tăng liên hoàn
tỷ đồng
%
%
204
36,9
424,1
60,1
108
417,9
40
-1,5
520
51
24,4
580
49,1
11,5
Nguồn: UBND tỉnh Yên Bái báo cáo tổng kết thực hiện kế hoạch 5 năm 2001-2005
Qua bảng ta có sơ bộ đánh giá, Yên Bái tập trung vốn vào ngành thương mại, dịch vụ, trong khi đó ngành nông lâm thủy sản hầu như không được đầu tư nhiều.
Trước hết, trong thời kỳ vừa qua do tốc độ tăng vốn đầu tư vẫn còn thấp và phụ thuộc nguồn bên ngoài nên tốc độ tăng của từng ngành cũng thấp và không ổn định.
Thứ hai, tốc độ tăng cao nhất thuộc về nhóm ngành thương mại dịch vụ năm 2002 tăng 108% so với năm 2001 và năm 2004 tăng 24,4% so với 2003 đây là sự tăng cao song năm 2003 giảm đi 1,5% so với năm 2002. Đứng thứ hai về sự gia tăng là khu vực nhóm các ngành công nghiệp xây dựng, tỷ trọng đầu tư cũng khá lớn, năm 2001 là 38,8%, năm 2003 là 30,8%. Song đây là ngành có tốc độ tương đối cao, năm 2003 tăng 43,5% so với 2002, tuy nhiên do năm 2002 tỷ trọng vốn đầu tư vào ngành thương mại dịch vụ quá lớn nên tốc độ tăng vốn giảm 14,6% so với năm 2001. Khu vực nông lâm nghiệp là ngành kinh tế trọng yếu được đầu tư một lượng vốn cũng khá cao và ổn định qua các năm, tuy nhiên tốc độ gia tăng thấp so với các lĩnh vực khác. Chỉ có năm 2003 tốc độ tăng rất lớn so với năm 2002 là 73,9%, và sau đó có xu hướng giảm dần năm 2004 tăng 16,3% so với năm 2003.
Như vậy, vốn đầu tư trong công nghiệp, xây dựng, thương mại dịch vụ và nông lâm thủy sản có xu hướng tăng về giá trị tuyệt đối. Tuy nhiên ngành nông lâm nghiệp, thủy sản có tốc độ tăng chậm và có xu hướng giảm dần trong cơ cấu vốn đầu tư của tỉnh. Bây giờ chúng ta xem xét từng khu vực để có thể hiểu rõ hơn về cơ cấu trên.
4.1. Ngành công nghiệp và xây dựng
Đây là ngành cũng chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội qua các năm, trừ năm 2002 chỉ chiếm có 25,9%, còn lại các năm hầu hết đều đạt 30% trở lên trong tổng vốn đầu tư, riêng năm 2001 chiếm 38,8%. Nguyên nhân đầu tiên là vốn đầu tư để thực hiện thường rất nhiều so với một dự án thuộc lĩnh vực khác và một đặc điểm riêng đối với các vùng sâu, vùng xa đặc biệt là Yên Bái đó là bắt đầu xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất cho các ngành kinh tế do vậy tỷ trọng vốn đầu tư cho khu vực này cũng khá cao. Trong khu vực này tỷ trọng vốn đầu tư trong công nghiệp có xu hướng tăng lên, tỷ trọng xây dựng giảm xuống.
Xác định phát triển công nghiệp để tạo bước đột phá cho phát triển kinh tế - xã hội, tỉnh đã chỉ đạo phát triển công nghiệp theo hướng tập trung vào các lĩnh vực chế biến nông lâm, khoáng sản, vật liệu xây dựng…nhằm khai thác tiềm năng lợi thế của tỉnh như : chế biến chè, tinh bột, gỗ, xi măng, cacbonatcanxi…Các doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư theo chiều sâu, mở rộng các dây chuyền sản xuất, tăng quy mô và nâng cao công nghệ sản xuất, liên doanh liên kết để thu hút các nguồn vốn đầu tư, đổi mới phương thức sản xuất, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Với tổng số vốn đầu tư trong 5 năm, tổng số các cơ sở sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã không ngừng tăng lên. Đến nay đã bước đầu hình thành khu công nghiệp phía Nam với một số doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh có hiệu quả như: công ty liên doanh đá vôi Yên Bái - BanPu, công ty liên doanh Yên Hà, công ty cổ phần khoáng sản, công ty cổ phần ván nhân tạo, công ty cổ phần chế biến lâm nông sản thực phẩm…Hiện tỉnh đang tiếp tục thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư, đồng thời tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng cho khu công nghiệp và đề nghị chính phủ quyết định công nhận khu công nghiệp này. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn hình thành một số cụm, khu công nghiệp nhỏ như khu công nghiệp Bắc Văn Yên, khu công nghiệp phía Tây, cụm công nghiệp tiểu thủ công nghiệp Đầm Hồng của thành phố Yên Bái.
Ta có:
Bảng 4: một số danh mục dự án đầu tư xây dựng cơ bản về ngành công nghiệp chủ yếu thời kỳ 2001-2005
Đơn vị : triệu đồng
STT
Danh mục dự án
Địa điểm thực hiện
Tổng vốn đầu tư
1
Sản xuất nguyên liệu gốm sứ
TP Yên Bái
85000
2
Sản xuất ván sơi ép
TP Yên Bái
120.000
3
Dự án chế biến gỗ ván dăm
Huyện Trấn Yên
110.000
4
Khai thác chế biến CaCO3
TP Yên Bái
375.000
5
Nhà máy sản xuất giấy để xuất khẩu
Huyện Trấn Yên
4759
6
Làng nghề Yên Bái
Huyện Văn Chấn
3500
7
Đầu tư dây chuyền chế biến đá xuất khẩu
Huyện Trấn Yên
3500
8
Nâng công suất chế biến chè
Huyện Yên Bình
3200
9
Thiết bị chế biến chè thành phẩm
Huyện Lục Yên
2400
10
Dự án khai thác tận thu chế biến đá vôi
Huyện Trấn Yên
11145
11
Dây chuyền sản xuất chế biến gạch Ceranit
Huyện Trấn Yên
55000
12
Dây chuyền sản xuất chè tinh
Huyện Yên Bình
88.000
13
Dây chuyền sản xuất sứ dân dụng
Huyện Trấn Yên
100.000
14
Cải tạo nâng cấp chợ trung tâm các huyện thị
Các huyện , thị
5.500
15
Mở rộng phân xưởng chế biến Cácbonát
Huyện Yên Bình
10.000
16
Sản xuất chế biến tinh dầu quế
Huyện Văn Yên
500
17
Dự án tận thu quặng sắt
Huyện Văn Chấn
2500
Nguồn: Báo cáo tổng kết thực hiện kế hoạch 5 năm 2001 –2005 của tỉnh Yên Bái
Phần đa số vốn đầu tư tập trung cho lĩnh vực xây dựng, các công trình xây dựng chủ yếu là đường giao thông, công trình thủy lợi, các cơ sở vật chất cho ngành y tế giáo dục. Cụ thể vốn đầu tư được sử dụng xây dựng cho một số công trình trọng điểm được hoàn thành trong thời kỳ 2001 - 2005 như sau:
Bảng 5: Một số công trình trọng điểm được hoàn thành trong thời kỳ 2001 - 2005
Đơn vị : triệu đồng
Công trình
Vốn đầu tư
1. Công trình thuộc lĩnh vực GTVT
- Đường xuyên á (quốc lộ 70)
1.800.000
- Quốc lộ 32, 37, 32C
506.000
- Dư án đường giao thông thành phố
80.000
- Đường Yên Thế- Vĩnh Kiên
78.500
- Đường Yên Bái - Khe Sang
71.000
- Đường Hợp Minh - Mỵ
66.000
- Cầu Văn Phú - Phú Lộc
58.585
- Cầu Trái Hút - Đông An
75.000
2. Công trình thuộc ngành giáo dục
- Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật các trường PT, CĐ, THCN.
101.978
- Đầu tư xây dựng các trường dạy nghề
19.600
3. Công trình thuộc y tế
- Bệnh viện đa khoa tỉnh
2000
- Trường trung học y tế
1000
- Trung tâm kiểm nghiệm dược phẩm
1500
- Bệnh viện Yên Bình
3000
- Bệnh viện Trấn Yên
2500
- Bệnh viện Lục Yên
1500
- Phòng khám đa khoa khu vực
2500
Nguồn: Báo cáo tổng kết thực hiện kế hoạch 5 năm 2001- 2005 của tỉnh Yên Bái
Các công trình này đã nâng tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực công nghiệp và xây dựng lên một cách đáng kể. Nhìn vào các công trình trọng điểm nêu trên có thể thấy ngay vốn đầu tư được phân bổ khá lớn vào các công trình thuộc lĩnh vực giao thông vận tải. Các công trình xây dựng trên được thực hiện do nguồn vốn ngân sách và vay ưu đãi, ngoài ra còn có một số phần đóng góp không nhỏ từ việc huy động công lao động của nhân dân cho ngành này, mà không cộng vào phần vốn đầu tư của ngành công nghiệp xây dựng nói trên.
Việc huy động ngày công được thực hiện thông qua xây dựng đường giao thông nông thôn các công trình thủy lợi, sữa chữa trường học, đóng bàn ghế cho học sinh, xây dựng các trạm y tế, ủy ban tỉnh. Như vậy, nếu tính cả phần huy động qua sự đóng góp của dân thì vốn đầu tư này thực chất lại cao hơn. Như đã biết việc vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh tập trung nhiều vào khu vực công nghiệp xây dựng còn được thể hiện qua các chương trình đầu tư của Chính phủ vào tỉnh như chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc 327, chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa…Mà phần lớn những nguồn này dành cho xây dựng cơ sở hạ tầng…Ngoài ra một nguồn vốn không nhỏ của chương trình 135 đã đầu tư toàn bộ cho xây dựng cơ sở hạ tầng cũng góp phần không nhỏ cho sự gia tăng trên.
Ta có thể thấy rằng trong những năm qua đầu tư cho công nghiệp và xây dựng ở Yên Bái đang phát triển theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Các công trình giao thông chủ yếu là mở rộng theo những con đường mòn đã có. Chủ yếu là đường đất với điều kiện là đồi núi và nhu cầu đi lại nhiều những công trình này sẽ bị nhanh chóng sạt lở nếu trong thời gian tới không được đầu tư nâng cấp, mà vốn cho phần này thực sự vẫn còn chưa nhiều. Các công trình khác cũng gần tương tự như vậy, phần lớn là giao cho các đơn vị để thi công không thông qua đấu thầu, thẩm định kỹ càng. Do vậy phân vốn quyết toán trong công trình thường cao hơn so với dự án, thiết kế kỹ thuật không bảo đảm yêu cầu và không phù hợp với điều kiện tự nhiên. Các mặt mạnh của tỉnh là sản phẩm của ngành nông lâm sản, khoáng sản nhưng chưa được đầu tư để khai thác chế biến, nông lâm sản của tỉnh được xuất ra khỏi tỉnh ở dạng thô, đây là một bất lợi lớn của tỉnh như ngành công nghiệp xây dựng còn cần một lượng vốn rất lớn để đầu tư cho cung cấp là vấn đề trong thời gian tới.
Trong những năm qua, tỉnh đã có các giải pháp và chính sách tích cực huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển nên tổng nguồn vốn đầu tư hàng năm liên tục tăng lên, góp phần thúc đẩy nhanh tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Hệ thống kết cấu hạ tầng được đầu tư xây dựng mới hoặc nâng cấp đã làm thay đổi bộ mặt các đô thị và phục vụ tích cực cho sản xuất và đời sống sinh hoạt của nhân dân.
4.2. Ngành nông lâm nghiệp, thủy sản.
Đây cũng là một trong những ngành kinh tế chính của tỉnh, do đầu tư vào nhóm ngành này đem lại lợi nhuận thấp và độ rủi ro cao nên lượng vốn đầu tư vào ngành này không được cao. Với tổng lượng vốn đầu tư trong 5 năm là 855,3 tỷ đồng, tuy nhiên có hai lý do chính khiến cho ngành này thu hút được vốn đầu tư là: thứ nhất do dân số Yên Bái chủ yếu sống dựa vào nông nghiệp, như vậy để nâng cao đời sống nhân dân trước hết phải nâng cao năng suất cây trồng và thứ hai đó là đầu tư vào các ngành vùng có lợi thế so sánh đối với Yên Bái là lâm nghiệp, lâm nghiệp Yên Bái có tiềm năng và điều kiện để phát triển. Tuy nhiên, trong thời kỳ vừa qua nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ cao trong tổng vốn đầu tư của ngành đồng thời bảo vệ rừng và trồng rừng cũng được quan tâm khá nhiều.
Trong mấy năm gần đây Yên Bái đã giảm hẳn việc khai thác gỗ Pơmu và năm 2001 thì dừng hẳn song nổi lên là việc trồng và thu mua một số cây như: thảo quả, trám…Nhưng việc đầu tư vào đây là hầu như chưa có thời gian. Trong khi đó đây là loại cây có giá trị kinh tế cao, việc trồng các loại cây này mang lại giá trị gấp rất nhiều lần so với các loại cây trồng khác. Nhưng chỉ được trồng ở các đỉnh núi cao do đó chủ yếu là các dân tộc sống trên vùng cao trồng. Công tác quản lý bảo vệ vốn rừng được thực hiện tốt, đã giao trên 200.000 ha rừng và đất rừng cho hơn 40.000 hộ quản lý và bảo vệ. Trong trồng rừng đã sử dụng các giống cây lâm nghiệp mới như keo lai, bạch đàn mô…ngoài nguồn lực được trung ương cân đối trong dự án 5 triệu ha rừng, tỉnh còn dành một lượng vốn đáng kể để trồng rừng các huyện phía Tây, bình quân mỗi năm trồng mới hàng vạn ha rừng.
Đối nông nghiệp trong thời kỳ vừa qua đã không ngừng được đẩy mạnh đầu tư cho cây giống và phân bón. Năm 2001 đầu tư cho phân bón là 1,88 tỷ đồng (tương đương 1160 tấn) và 4,35 tỷ đồng cho giống cây lương thực (được 255 tấn giống). Sản xuất nông nghiệp tập trung chủ yếu vào cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi gia súc, gia cầm và hình thành một số vùng nguyên liệu. Từng bước đầu tư thâm canh, tăng vụ, đưa các loại giống mới có năng suất cao, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tỉnh đã có chính sách khuyến khích phát triển sản xuất như: hỗ trợ đầu tư các loại giống như chè, lúa, ngô…Hỗ trợ chè theo phương pháp thâm canh ở vùng cao, hỗ trợ giống cây lâm nghiệp, hỗ trợ phát triển chăn nuôi…Bên cạnh việc thực hiện các cơ chế chính sách, tỉnh còn quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông lâm nghiệp như: các công trình thủy lợi, hệ thống kênh tưới tiêu, các trại sản xuất giống lúa lai, cá giống, giống cây lâm nghiệp…
Như vậy trong thời gian qua việc đầu tư cho nông nghiệp đã có nhiều chuyển biến tích cực nhưng nói chung tỷ trọng vẫn giảm qua các năm, năm 2003 là 20,2%, năm 2004 là 19,6%.
Bảng 6: Danh mục các dự án đầu tư cho ngành nông lâm ngư nghiệp thời kỳ 2001 - 2005
Đơn vị: triệu đồng
Danh mục dự án
Địa điểm thực hiện
Tổng vốn đầu tư
1. Nuôi trồng thủy sản và khai thác cá trên hồ Thác Bà
Huyện Yên Bình
75.000
2. Trồng và chế biến tinh dầu quế, bột quế
Huyện Văn Yên
547.500
3. Trồng rừng kinh tế
Các huyện
20.000
4. Dự án chế biến thức ăn chăn nuôi gia súc
Huyện Trấn Yên
13.970
5. Dự án trồng măng tre bát độ
Huyện Yên Bình
12.056
6. Trồng và chăm sóc chè
TP. Yên Bái
5938
7. Trồng rừng nguyên liệu giấy
Huyện Văn Chấn
17.621
8. Trồng chè shan
Huyện Văn Chấn
8940
9. Trồng rừng kinh tế xuất khẩu
Huyện Văn Yên
2.346
Nguồn: Báo cáo tóm tắt dự án rà soát bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Yên Bái thời kỳ 2001 - 2005.
Đối với ngành thủy sản, phát huy lợi thế về diện tích mặt nước ao hồ lớn, nguồn thủy sản những năm gần đây đã bắt đầu phát triển, đã được đầu tư cũng khá lớn đặc biệt nhà máy thủy điện Thác Bà là địa điểm lý tưởng để nuôi các loại thủy sản đáp ứng nhu cầu của người dân đồng thời cũng đầu tư xây dựng nhiều nhà máy chế biến thủy sản. Nói chung, tốc độ tăng trưởng tuy đạt cao bình quân 5 năm 2001 - 2005 đạt 28,2%, nhưng sản lượng thủy sản còn rất thấp. Nhiệm vụ của ngành thủy sản trong thời gian qua chủ yếu là hướng dẫn bà con nông dân biết nuôi và đánh bắt cá thịt, tận dụng ao hồ, thực hiện một số dự án nuôi trồng thủy sản như: tồm càng xanh, rô phi đơn tính…
4.3. Ngành thương mại dịch vụ.
Có thể nói ngành thương mại dịch vụ được đầu tư một lượng vốn nhiều nhất trong tất cả các ngành, năm 2003 tới 413 tỷ đồng chiếm 40% tỷ trọng trong các ngành trong năm. Ước đến năm 2005 là 580 tỷ đồng chiếm 49%. Hoạt động thương mại dịch vụ địa bàn đã có bước phát triển, góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Hoạt động lưu thông hàng hóa trên địa bàn phát triển ổn định, thị trường khu vực nông thôn vùng cao có dấu hiệu ngày càng phát triển hơn. Khu vực quốc doanh vẫn tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong lưu thông vật tư hàng hóa thiết yếu. Thực hiện tốt việc thu mua nông lâm sản cho nông dân, việc thực hiện văn minh thương mại đươc coi trọng trong khu vực ngoài quốc doanh đạt được tốc độ phát triển nhanh cả về quy mô, số lượng, và cơ cấu ngành nghề.
Do Yên Bái là tỉnh miền núi có tiềm năng rất lớn về du lịch như: nhà máy thủy điện Thác Bà, bãi đá Lục Yên… qua chương trình du lịch về cội nguồn phối hợp giữa 3 tỉnh Phú Thọ - Yên Bái - Lào Cai phần nào những danh lam thắng cảnh của Yên Bái đã được nhiều khách du lịch biết đến.
Với nguồn vốn đầu tư vào ngành đã đạt được nhiều thành tựu to lớn:
Các dịch vụ thông tin liên lạc những năm qua phát triển tương đối mạnh tiện lợi và nhanh chóng, đáp ứng tốt yêu cầu phát triển của nền kinh tế và nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của nhân dân. Trong 5 năm ngành bưu điện đã tiến hành đầu tư theo chiều sâu, nâng cao năng lực khai thác và sử dụng các dịch vụ mới: mạng viễn thông nông thôn, mạng các bưu điện tỉnh, mở rộng hệ thống chuyển mạch, tuyến truyền dẫn cáp quang Yên Bái - Trấn Yên - Văn Yên… đã có 7/9 huyện thị, thành phố được phủ sóng điện thoại di động
Đối với các đơn vị kinh doanh vận tải đã không ngừng đầu tư mới các phương tiện giao thông và nâng cao chất lượng phục vụ vận tải. Số lượng và chất lượng các phương tiện vận tải, khối lượng hàng hóa, hành khách vận chuyển và luân chuyển liên tục tăng lên, đáp ứng kịp thời nhu cầu vận tải và đi lại ngày càng cao của mọi thành phần kinh tế và nhân dân.
Trong khi đó tỉnh đã có nhiều giải pháp tăng thu cho ngân sách, song là một tỉnh còn nghèo, các ngành sản xuất chưa phát triển mạnh nên nguồn thu còn hạn hẹp, chủ yếu vẫn phụ thuộc vào trợ cấp từ trung ương.
Tổng thu ngân sách trên địa bàn năm 2005 dự kiến đạt 290 tỷ đồng, bình quân 5 năm 2001 - 2005 tăng 18,3%, trong đó: thu từ kinh tế trung ương dự kiến đạt 22 tỷ đồng, tăng bình quân 13,7%; thu từ kinh tế địa phương dự kiến đạt 30 tỷ đồng, tăng bình quân 3,2%; thu từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 3,2 tỷ đồng, tăng bình quân 33,2%. Mức huy động giá trị tăng thêm vào ngân sách năm 2000 đạt 7,55%, dự kiến năm 2005 tăng lên 9,4%.
Dự kiến chi ngân sách năm 2005 khoảng 1.140,5 tỷ đồng, trong đó: chi cho đầu tư phát triển là 319,2 tỷ đồng, chiếm 28% tổng chi, bình quân 5 năm tăng 14%; chi thường xuyên 623,8 tỷ đồng, bình quân 5 năm tăng 11,1%.
III. Đánh giá chung về việc bảo đảm vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Yên Bái thời kỳ 2001 - 2005
1. Bảo đảm quy mô vốn đầu tư
Như vậy quy mô vốn đầu tư được đánh giá thông qua chỉ tiêu tổng vốn đầu tư toàn xã hội và tương quan của nó với GDP. Vốn đầu tư trong nước và nước ngoài đã được huy động một cách triệt để. Tuy nhiên có nhiều vấn đề song quan trọng nhất đó là Yên Bái còn nghèo kinh tế chưa có gì nên tích luỹ đầu tư từ nội lực chưa nhiều, chủ yếu dựa vào nguồn ngân sách cấp phát từ TW, đi vay viện trợ với ưu đãi, do đó còn phụ thuộc vào cả cung cấp yếu tố bên ngoài để quyết định cho lượng vốn đầu tư có thể huy động. Đây là một trở ngại lớn cho việc huy động vốn thời kỳ qua cũng như giai đoạn tới cho hoạt động đầu tư của tỉnh Yên Bái.
2. Bảo đảm vốn đầu tư theo nguồn
Vốn đầu tư tỉnh Yên Bái đã được huy động từ rất nhiều nguồn như vốn ngân sách nhà nước, tín dụng đầu tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn của dân và tư nhân, vốn của doanh nghiệp. Như vậy, Yên Bái đã bao gồm khá đầy đủ các nguồn vốn quan trọng cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) còn chiếm tỷ trọng khá nhỏ trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Chính vì thế tỉnh cần có nhiều biện pháp nhằm huy động hơn nữa nguồn vốn này. Đầu tư từ ngân sách tỉnh ngày càng ít đi trong khi đó đầu tư từ ngân sách tỉnh luôn bảo đảm sự gia tăng vốn đầu tư của tỉnh trong những năm qua. Đối với nguồn vốn doanh nghiệp cần được chú trọng quan tâm hơn nhằm khuyến khích nâng cao khả năng mang lại nhiều hiệu quả xã hội. Đối với nguồn vốn huy động từ dân và tư nhân đứng thứ hai sau vốn ngân sách và vẫn tiếp tục tăng qua các năm. Trong khi cuộc sống của người dân chưa có nhiều tích luỹ thì vấn đề giành cho đầu tư là một khó khăn lớn cần phải luôn duy trì bảo đảm nguồn vốn này.
Như vậy nguồn vốn huy động sẽ là nguồn chính cho phát triển trong tương lai, còn hiện tại nguồn ngân sách vẫn là nguồn chủ đạo.
3. Bảo đảm vốn đầu tư theo ngành
Trong thời kỳ vừa qua do tốc độ tăng vốn đầu tư còn thấp và phụ thuộc nguồn bên ngoài nên tốc độ tăng của từng ngành cũng thấp và không ổn định.
Như vậy vốn đầu tư trong công nghiệp, xây dựng, thương mại, dịch vụ và nông lầm thuỷ sản có xu hướng tăng về giá trị tuyệt đối, tuy nhiên ngành nông lâm nghiệp, thuỷ sản có tốc độ tăng chậm và có xu hướng giảm dần trong cơ cấu vốn đầu tư của tỉnh.
4. Những mặt tồn tại và nguyên nhân trong quá trình bảo đảm vốn đầu tư ở tỉnh Yên Bái thời kỳ 2001 - 2005
4.1. Những mặt tồn tại
Thứ nhất: Trong khối lượng vốn
Bên cạnh những thành tựu đạt trên, Yên Bái còn đương đầu với nhiều vấn đề lớn và nổi bật nhất ở đây đó là, trong thời kỳ vừa qua vốn đầu tư toàn xã hội Yên Bái nói chung vẫn còn chưa đáp ứng được nhiều nhu câu được đặt ra, cần phải đầu tư một khối lượng vốn lớn hơn nữa vào ngành nông lâm thủy sản nói chung và một số lĩnh văn hóa xã hội nói chung.
Thứ hai: Trong huy động nguồn vốn đầu tư
Các nguồn vốn đến được với Văn Bàn rất đặc biệt là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đến nay hầu như vẫn còn rất nhỏ, thêm vào đó nguồn huy động từ dân còn qúa khiêm tốn, chủ yếu là dựa vào nguồn ngân sách tập trung, song nguồn này cũng chỉ đáp ứng từ ngân sách trung ương vì ngân sách hiện chưa đáp ứng được chi, trong khi đó nhu cầu về vốn của tỉnh ngày một gia tăng, do kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, đời sống của con người ngày càng được cải thiện, đồng tiền có xu hướng ngày càng mất giá hơn…
Thứ ba: Trong cơ cấu đầu tư
Mặc dù các ngành đều được đầu tư với lượng vốn ngày càng tăng, nhưng cơ cấu chưa tương xứng cho từng ngành, chủ yếu là đầu tư cho công nghiệp xây dựng, thương mại, dịch vụ công trình phúc lợi, còn đầu tư cho nông lâm nghiệp hầu như không được nhiều chưa tương xứng với nhu cầu chế biến lâm sản, hàng năm khai thác nhưng chủ yếu xuất ra ngoài dưới dạng gỗ tròn, còn không kể đến hàng 1.000 mét song mây khác.
Thứ tư: Trong công tác quản lý và sử dụng vốn đầu tư
Xây dựng cơ bản và các chương trình dự án trên địa bàn nhìn chung chậm phát huy hiệu quả, thời gian khởi công và xây dựng thực tế thường kéo dài hơn rất nhiều so với kế hoạch. Công tác quản lý, lập dự án còn nhiều bất cập, quá trình chuẩn bị dự án cũng như đi vào hoạt động còn nhiều lúng túng, giá quyết toán công trình thường cao hơn nhiều so với dự toán ban đầu
Thứ năm: Trong vấn đề đầu tư theo chiều sâu chưa được chú ý nhiều chủ yếu là đầu tư theo chiều rộng, do đó đầu tư theo chiều sâu cần được quan tâm để phát huy hiệu qủa sử dụng vốn đầu tư. Hiện nay Yên Bái còn khoảng 3200 lao động chưa có việc làm cần được giải quyết, tỷ lệ thất nghiệp ở thành phố là 4,31% nhiều công trình đang rất cần thực hiện nhưng chưa có vốn, đời sống nhân dân các vùng sâu, vùng xa của tỉnh còn nhiều khó khăn tỷ lệ đói nghèo còn cao, nghiện hút ma tuý và và một số hủ tục chưa được xóa bỏ.
4.2. Nguyên nhân tồn tại
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trên của Yên Bái, song những nguyên nhân lớn cần phải kể đến ở đây là:
Thứ nhất, do cơ sơ hạ tầng (đặc biệt là giao thông vận tải còn nghèo nàn lạc hậu) gây khó khăn cho việc vận chuyển hàng hoá cũng như việc đi lại của người dân nơi đây, hầu hết các xã vùng cao việc đi lại chủ yếu là ngựa thồ, người đi bộ. Đây cũng là một nguyên nhân làm gia tăng giá quyết toán các công trình, vì các công trình khi dự toán không tính hết được các yếu tố khó khăn gặp phải khi vận chuyển nguyên vật liệu, các công trình đã đến ngày khởi công mà nguyên vật liệu vẫn chưa đưa vào đến nơi vì lý do đường giao thông, làm chậm tiến độ thi công, xây dựng.
Thứ hai, Yên Bái nằm trong vùng khí hậu rất phực tạp, làm ảnh hưởng khá lớn đến sản xuất nông nghiệp và xây dựng cơ bản, nhiều nơi trong tỉnh sản xuất chủ yếu dưạ vào thiên nhiên do đó sản xuất bấp bênh, năng suất hiệu quả cũng khó ổn định. Địa hình phức tạp, khí hậu chia làm hai mùa rõ rệt làm cho các công trình xây dựng xong xuống cấp nhanh, thêm vào đó không có chế độ tu sửa thường xuyên nên hiệu quả sử dụng rất thấp. Các công trình khởi công không đúng và kịp tiến độ do đó khi mùa mưa đến lại phải dừng đợi đến mùa khô mới tiếp tục xây dựng được (đối với các công trình đường, cầu giao thông, thuỷ lợi).
Thứ ba, là tỉnh miền núi, vùng cao đội ngũ cán bộ của Yên Bái còn thiếu về số lượng và kém về chất lượng. Hàng năm có hàng chục công trình thuộc phạm vi tỉnh lập và quản lý thực hiện dự án (các dự án nhỏ hơn 500 triệu hoặc được cấp trên uỷ quyền quản lý thực hiện), trong khi đó ban quản lý dự án của tỉnh không đủ người nên không thể kham nổi tất cả công việc lập và quản lý các dự án đó, còn chưa kể đến các công trình ở một số xã phải đi mộ Mặt khác năng lực quản lý điều hành, của các cán bộ còn thiếu trình độ còn thấp, nhiều cán bộ chủ chốt của một số xã, huyện chỉ có trình độ lớp hai, thậm chí còn không biết đọc, điều này đã gây khó khăn lớn cho công tác đầu tư nơi đây. Ngay cả trong ban quản lý dự án tỉnh cũng chỉ có một số kỹ sư bằng cử tuyển và một số trung cấp xây dựng còn lại là bổ sung từ cơ sở khác chưa qua đào tạo, trong điêu hành quản lý còn nhiều lúng túng ngay cả trong thủ tục nghiệm thu, thanh quyết toán công trình.
Thứ năm, Trình độ dân trí còn thấp, tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào vốn nhà nước của nhân dân vùng dự án còn lớn, công tác tuyên truyền phổ biến tạo sức mạnh thực hiện dự án còn hạn chế, làm hiệu qủa dự án chậm được phát huy.
Thứ sáu, Công tác chuẩn bị để thực hiện dự án còn rất nhiều vướng mắc, việc lập đơn giá xây dựng, con giống, giá cây không sát với thực tế nên nhiều khi lại phải đợi trung ương duyệt lại mới thực hiện được. Vốn các dự án được trung ương phê duyệt danh mục đầu tư đến chậm, ví dụ có dự án đáng ra thực hiện trong năm nhưng đến tận tháng 8 mới xong thủ tuc giao vốn quyết định, một số nguồn thì đến tận 30/11 mới thông báo gây khó khăn cho việc triển khai thực hiện.
Thứ bảy: Công tác quản lý sản xuất còn bộc lộ nhiều nhược điểm.
Việc chỉ đạo kiểm tra kỹ thuật chưa được chặt chẽ (đặc biệt là kiểm tra qui trình khai thác rừng)
Trong những năm vừa qua việc thu mua gỗ Pơmu khoán khai thác cho dân là việc làm cần xem xét lại rút kinh nghiệm cho những năm tới.
Diện tích rừng trồng hàng năm còn ít chưa tương ứng với khối lượng và diện tích khai thác.
Phòng nông lâm nghiệp chưa phát huy hết chức năng quản lý nhà nước về lâm nghiệp, việc này chuyển cho hạt kiểm lâm đảm nhiệm.
PHẦN III:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM VỐN ĐẦU TƯ CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH YÊN BÁI
THỜI KỲ 2006 - 2010
I. Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu về vốn đầu tư từ 2006 - 2010
1. Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2006 - 2010
Tiếp tục phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nên kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tiếp tục phấn đấu đưa tỉnh Yên Bái trở thành tỉnh phát triển trong khu vực, vẫn xác định lấy công nghiệp làm khâu đột phá trong phát triển kinh tế. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học và nâng cao trình độ công nghệ trong các ngành sản xuất. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ môi trường sinh thái. Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo và chất lượng nguồn nhân lực. Khai thác có hiệu quả quan hệ kinh tế đối ngoại. Chủ động và chuẩn bị tốt cho hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đảm bảo yêu cầu phát triển của nền kinh tế - xã hội. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Tiếp tục thực hiện xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm cho người lao động. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch 5 năm 2001-2005, những khó khăn và thuận lợi khi bước vào xây dựng kế hoạch 5 năm 2006-2010, dự kiến các phương án phát triển của kế hoạch 2006-2010 như sau:
* Phương án cơ bản
Bảng 7:
Chỉ tiêu
đơn vị tính
Thực hiện 2000
ước 2005
Dự kiến 2010
Bình quân 5 năm (%)
2001-2005
2006-2010
1/GTTT (giá CĐ)
Tr. đồng
1.340.136
2.118.370
3.569.580
9,6
11
- Nông lâm nghiệp
Tr. đồng
601.130
785.990
1.017.560
5,5
5,3
- Công nghiệp, xây dựng
Tr. đồng
378.072
724.870
1.555.570
13,9
16,5
- Dịch vụ
Tr. đồng
360.934
607.510
996.450
11
10,4
2/ GTTT (giá TT)
Tr. đồng
1.670.197
3.071.640
6.068.280
3, TNBQ/ người (giá TT)
Tr. đồng
2,41
4,21
7,9
4/ Cơ cấu kinh tế
%
100
100
100
- Nông lâm nghiệp
%
45,75
39
30
- Công nghiệp, xây dựng
%
22,24
28
34
- Dịch vụ
%
32,01
33
35
5/ Vốn ĐTPT 5 năm
Tỷ đồng
2.192,8
5.573
12.000
Đây là phương án phấn đấu ở mức vừa phải. Phương án này sẽ thực hiện trên cơ sở kết hợp việc phát huy các nguồn tiềm năng nội lực với huy động mọi nguồn lực từ bên ngoài như: vốn, kỹ thuật, công nghệ… để phát triển kinh tế - xã hội. Theo phương án này, thu nhập bình quân đầu người năm 2010 tăng gần 3,3 lần so với năm 2000 và 1,9 lần so với năm 2005. Thực hiện theo phương án này là phù hợp với tình trạng kinh tế - xã hội và các điều kiện của tỉnh.
* Phương án cao:
Bảng 8:
Chỉ tiêu
đơn vị tính
Thực hiện 2000
ước 2005
Dự kiến 2010
Bình quân 5 năm (%)
2001-2005
2006-2010
1/GTTT (giá CĐ)
Tr. đồng
1.340.136
2.118.370
3.733.290
9,6
12,0
- Nông lâm nghiệp
Tr. đồng
601.130
786.990
1.027.260
5,5
5,5
- Công nghiệp, xây dựng
Tr. đồng
378.072
724.870
1.589.240
13,9
17,0
- Dịch vụ
Tr. đồng
360.934
607.510
1.116.790
11,0
12,9
2/ GTTT (giá TT)
Tr. đồng
1.670.197
3.071.640
6.364.600
3, TNBQ/ người (giá TT)
Tr. đồng
2,41
4,21
8,24
4/ Cơ cấu kinh tế
%
100
100
100
- Nông lâm nghiệp
%
45,75
39
30
- Công nghiệp, xây dựng
%
22,24
28
35
- Dịch vụ
%
32,01
33
35
5/ Vốn ĐTPT 5 năm
Tỷ đồng
2.192,8
5.573
13.000
Đây là phương án đặt ra để phấn đấu, các mục tiêu được đặt ra ở mức độ cao hơn phương án cơ bản, nếu gặp các điều kiện thuận lợi sẽ thực hiện theo phương án này để huy động tối đa các nguồn lực cho phát triển, rút nhanh khoảng cách chênh lệch so với cả nước. Theo phương án này, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ nhanh hơn: tỷ trọng ngành nông lâm nghiệp giảm nhanh hơn, tỷ trọng các ngành công nghiệp xây dựng và dịch vụ tăng nhanh hơn. Theo phương án này, thu nhập bình quân đầu người năm 2010 tăng 3,4 lần so với năm 2000 và tăng 1,95 lần so với năm 2005
Qua phân tích các phương án nêu trên, phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển các ngành, lĩnh vực 5 năm 2006-2010 được tính toán theo phương án cơ bản.
Ta có một số chỉ tiêu tổng hợp như sau:
- Dự kiến tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2006 - 2010 đạt 11%, cao hơn 5 năm trước 1,4%. Trong đó:
+ Ngành nông lâm nghiệp tăng 5,3%
+ Ngành công nghiệp và xây dựng tăng 16,5%
+ Ngành dịch vụ tăng 10,4%
- Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, giảm tỷ trọng ngành nông lâm nghiệp, tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp xây dựng và dịch vụ
Năm 2005 Năm 2010
+ Nông lâm nghiệp 39% 31%
+ Công nghiệp, xây dựng 28% 34%
+ Dịch vụ 33% 35%
- Thu nhập bình quân đầu người năm 2010 đạt khoảng 7,9 triệu đồng
- Tổng vốn đầu tư phát triển 5 năm 2006 - 2010 dự kiến khoảng 12.000 tỷ đồng, tăng 2,15 lần so với 5 năm 2001 - 2005
2. Nhu cầu về vốn đầu tư của tỉnh Yên Bái từ 2006 - 2010
Xuất phát từ tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh đặt ra cũng như bảo đảm có một sự phát triển bền vững và ổn định trong tất cả các lĩnh vực thì nhu cầu vốn đầu tư vào tỉnh Yên Bái 5 năm 2006 - 2010 dự kiến khoảng 12.000 tỷ đồng, tăng gấp 2,15 lần so với 5 năm 2001 - 2010.
Ta có tổng số vốn này được phân bổ vào các ngành như sau:
Bảng 9: Tổng hợp nhu cầu vốn đầu tư 5 năm 2006 - 2010
Đơn vị: tỷ đồng
Hạng mục đầu tư
2006 - 2010
Tổng cộng
12000
1. Nông lâm nghiệp
1828,8
2. Công nghiệp
2301,6
3. Xây dựng
499,1
4. Thương mại, KS nhà hàng
650,3
5. Giao thông vận tải, bưu điện
3937,8
6. Quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng
225,1
7. Giáo dục đào tạo
612
8. Y tế, cứu trợ xã hội
396
9. Văn hóa thông tin - TDTT
264
10. Các ngành khác
1285,3
Nguồn: UBND tỉnh Yên Bái, định hướng phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010.
Với tổng nhu cầu vốn đầu tư khoảng 12.000 tỷ đồng như đã nói ở trên thì trong đó:
- Vốn ngân sách nhà nước (gồm ngân sách tập trung, chương trình mục tiêu, ODA, NGO, vốn kiên cố hóa) chiếm 48,2%
- Vốn tín dụng đầu tư chiếm 21,5%
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 1,25%
- Vốn doanh nghiệp chiếm 4,2%
- Vốn của dân và tư nhân chiếm 24,85%
Sau đây ta sẽ có:
Bảng 10: Nhu cầu vốn cần huy động từ các nguồn
thời kỳ 2006 - 2010
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
2009
2010
Tổng đầu tư toàn xã hội
2.100
2.400
2.500
2.500
2.500
- Vốn trong nước
+ Ngân sách nhà nước
+ Tín dụng đầu tư
+ Doanh nghiệp nhà nước
+ Vốn dân cư
1.958
818
480
60
600
2.232
952
520
100
660
2.300
1.030
530
110
630
2.265
1.069
520
120
556
2.229
1.049
530
114
536
- Vốn ngoài nước
+ FDI
+ ODA
142
10
132
168
20
148
200
30
170
235
40
195
271
50
221
Nguồn: kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010
Như vậy, qua số liệu trên tỉnh Yên Bái cần tiếp tục huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển, khuyến khích mọi thành phần kinh tế mạnh dạn đầu tư, đặc biệt là các ngành nghề theo chính sách khuyến khích đầu tư của tỉnh, ưu tiên cho đầu tư phát triển sản xuất và xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là hệ thống giao thông, đảm bảo thuận lợi cho vận tải hàng hóa và hành khách, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, tôn trọng và đảm bảo quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Các ngân hàng tiếp tục tập trung cho vay vốn với các dự án phát triển sản xuất quan trọng trực tiếp phục vụ mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, để tăng nhanh nguồn vốn tín dụng đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện cho vay đối với tất cả các thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế dễ dàng tiếp cận với các nguồn vốn này theo nguyên tắc lấy hiệu quả kinh tế của các dự án làm tiêu chuẩn của việc cho vay vốn.
Tăng cường và đổi mới công tac quản lý nhà nước về xây dựng, thực hiện nghiêm ngặt. Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng. Nâng cao thẩm quyền và trách nhiệm cá nhân của chủ đầu tư trong quá trình xây dựng công trình. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát các chủ đầu tư, các nhà thầu, các ban quản lý dự án để đảm bảo chất lượng công tác quản lý đầu tư và xây dựng. Nâng cao năng lực và trách nhiệm của các tổ chức, đơn vị tư vấn trong các khâu khảo sát, thiết kế và giám sát thi công. Tăng cường kiểm tra giám sát và giám định đầu tư nhằm phát hiện và ngăn chặn các hành vi vi phạm quy định về quản lý đầu tư và xây dựng, chống thất thoát trong xây dựng cơ bản.
Để khắc phục tình trạng dàn trải và nợ đọng trong đầu tư xây dựng cơ bản, kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản hàng năm được căn cứ vào quy hoạch và kế hoạch 5 năm 2006 - 2010. Nếu các công trình, dự án đầu tư không có trong danh mục đầu tư của các quy hoạch và kế hoạch 5 năm thì sẽ không được bố trí kế hoạch hàng năm.
Ta có:
Bảng 11: Danh mục một số dự án ưu tiên đầu tư thời kỳ 2006 - 2010
Đơn vị: tỷ đồng
TT
Dự án
Vốn đầu tư
Tổng số
5.885,5
I
Nông lâm nghiệp
1.184
1
Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng
250
2
Chương trình 135
250
3
Chương trình hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nhà ở và nước, SH cho đồng bào dân tộc ít người có đời sống khó khăn
161
4
Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường
150
5
Dự án trồng cây gió bầu lấy trầm tại xã tân hợp, huyện Văn Yên
246
6
Dự án trồng hoa công nghệ cao tại xã Tuy Lộc, huyện Trấn Yên
21
7
Dự án xây dựng vùng nguyên liệu dứa Văn Yên
21
8
Dự án chăn nuôi theo phương pháp bán công nghiệp tại các huyện và một số doanh nghiệp
85
II
Công nghiệp
1.840,5
9
Dự án chế biến nước dứa cô đặc
70
10
Dự án chế biến tinh bột sắn xuất khẩu
30
11
Dự án chế biến măng tre xuất khẩu
3
12
Dự án sản xuất bột giấy và giấy Krap
47,5
13
Dự án cải tạo lò nung clinh ke
10
14
Các dự án sản xuất gạch xây dựng
20
15
Các dự án sản xuất xi măng
812
16
Dự án chế biến cao lanh chất lượng cao
4
17
Dự án xây dựng thủy điện Ngòi Hút
170
18
Dự án xây dựng thủy điện An Lương, Suối Quyền
589
19
Dự án điện các xã (50 xã)
15
20
Dự án chế biến Cacbonat canxi
70
III
Dịch vụ
1.021
21
Dự án xây dựng trung tâm khách sạn du lịch DV tổng hợp
10
22
Dự án xây dựng khu du lịch Tân Hương
218
23
Dự án xây dựng trung tâm khách sạn du lịch tổng hợp dịch vụ TM
541
24
Dự án xây dựng khu du lịch và nhà nghỉ sinh thái
210
25
Dự án xây dựng khu thể thao, sân golf
27
26
Dự án xây dựng vườn thú tự nhiên
15
IV
Văn hóa xã hội
1.840
27
Chương trình kiên cố hóa trường lớp học
568
28
Các chương trình mục tiêu quốc gia văn hóa xã hội
1.272
Nguồn: Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010
II. Một số giải pháp nhằm bảo đảm vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Yên Bái thời kỳ 2006 - 2010
1. Tăng cường khả năng huy động vốn
Ngoài những chính sách về luật pháp và thủ tục hành chính mà chính phủ cũng như Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Yên Bái đã thực hiện nhằm tạo môi trường đầu tư thông thoáng, những chính sách khuyến khích về thuế, phí… thì đứng trên giác độ quản lý và thẩm quyền của tỉnh, cần có thêm những biệt pháp sau:
1.1. Đối với nguồn vốn huy động từ nội bộ nền kinh tế
Với dự kiến huy động nguồn vốn từ nội bộ nền kinh tế tỉnh, đây thực sự là một nhiệm vụ nặng nề trong điều kiện nền kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn hiện nay của tỉnh Yên Bái
Vậy nên cần tập trung mọi khả năng có thể huy động vốn, huy động tiền nhàn rỗi trong dân tài sản và tiềm năng của mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư vào phát triển sản xuất kinh doanh.
Có những chính sách phù hợp để tạo vốn, Yên Bái có tài nguyên rừng rất lớn, như vậy có thể cho khai thác lợi dụng một cách hợp lý để tạo vốn.
Các nguồn vốn được huy động trước tiên tập trung xây dựng các công trình trọng điểm đặc biệt là kết cấu hạ tầng, giao thông điện nước… từ đó các nguồn vốn khác mới có điều kiện để phát huy.
Mở rộng và tận thu ngân sách. Hàng năm, Yên Bái suất ra ngoài hàng chục tấn các sản phẩm của rừng như: măng, trám, các loại nấm… xong hầu như khối lượng sản phẩm này không phải mất tiền đóng thuế. Bên cạnh đó không có sự can thiệp của chính quyền địa phương, do đó tư thương bên ngoài tự do ép giá, đẩy người dân luôn ở thế bị động, vừa gây thiệt hại cho người dân và không có thu cho ngân sách. Bên cạnh đó còn phải kể đến một lượng lớn gỗ vận chuyển trái phép ra khỏi tỉnh… gây thất thu lớn cho ngân sách. Như vậy, tỉnh nên có quy định cụ thể trong việc khai thác các loại sản phẩm đó, tăng cường kiểm tra chặt chẽ việc mua bán vận chuyển các loại hàng hóa này.
1.2. Đối với nguồn vốn huy động từ bên ngoài
Đây là phần thiếu hụt trong tổng vốn đầu tư được huy động từ bên ngoài. Nguồn vốn này hết sức quan trọng vì nguồn tích lũy đầu tư trong huyện còn rất hạn chế. Mặt khác thu hút đầu tư từ bên ngoài còn tạo điều kiện đổi mới công nghệ, đào tạo cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý và bảo vệ thị trường. Trong thời gian qua mặc dù nguồn vốn này chiếm tỷ lệ khá lớn song nguồn huy động còn rất ít, đặc biệt là nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Do đó để thu hút nguồn vốn từ bên ngoài cần tạo môi trường thuận lợi, mở rộng liên doanh hợp tác đầu tư với các doanh nghiệp trong và ngoài nước, việc liên doanh chủ yếu theo hướng phát triển khai khoáng và chế biến khoáng sản, trồng và chế biến nông lâm sản phát huy lợi thế của tỉnh.
Xây dựng các dự án đầu tư thích hợp trong phát triển kết cấu hạ tầng (giao thông, điện nước, y tế…) cho các xã vùng cao cụm kinh tế trọng điểm để thu hút nguồn vốn từ ngân sách hoặc nguồn vốn từ viện trợ của các quốc gia và các tổ chức quốc tế.
Xây dựng các dự án bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ, rừng thực nghiệm để kêu gọi nguồn vốn ngân sách.
Hiện nay trên địa bàn tỉnh ngoài vốn đầu tư thực hiện chương trình 135, còn có nguồn vốn đầu tư của các chương trình, dự án khác như: chương trình trung tâm cụm xã, chương trình định canh, định cư, chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục, y tế…đầu tư để trồng rừng, xây dựng các tuyến đường giao thông, các công trình thủy lợi các trường học… do đó để khắc phục tình trạng đầu tư trùng lặp có thể xảy ra, nâng cao hiệu quả và sử dụng nguồn vốn đầu tư cần phải có các kế hoạch lồng ghép các chương trình dự án trên địa bàn, lấy dự án trọng tâm làm trung tâm để xác định quy mô, khối lượng, thời điểm đầu tư các công trình cụ thể.
2. Khuyến khích đầu tư theo phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm
Trong điều kiện còn hạn chế về nguồn vốn đầu tư, phương châm này đã được Yên Bái đặc biệt quan tâm chú trọng phát triển trong thời gian qua, tuy nhiên mức độ đạt được còn rất khiêm tốn, trong thời gian tới để thực hiện tốt phương châm đó cần thực hiện các giải pháp sau:
- Trong lĩnh vực giáo dục y tế: trong khi nguồn vốn đầu tư của quốc gia còn hạn chế chưa đủ để bù đắp các chi phí để xây dựng trường và mua sắm đồ dùng dậy học, thì nhà nước có thể huy động vốn từ các thành kinh tế tự nhiên, các cơ quan, tổ chức kinh tế trong tỉnh. Thành lập quỹ để tu sửa xây dựng trường lớp từ các gia đình phụ huynh học sinh.
- Trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng: tình trạng hạ tầng giao thông điện nước, y tế, giáo dục ở Yên Bái còn yếu kém, nhu cầu xây dựng còn rất lớn, trong khi nguồn vốn còn hạn chế. Do đó vốn đầu tư để mua nguyên vật liệu xây dựng, còn huy động thêm ngày công của
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12261.DOC