Tài liệu Đề tài Một số giải pháp nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản trên địa bàn tỉnh Hà Nam đến năm 2010: Lời mở đầu
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, thời gian qua nông nghiệp và nông thôn nước ta nói chung, Hà Nam nói riêng đã có những chuyển biến lớn và đã đạt được những kết quả đáng kể. Tốc độ tăng trưởng bình quân của nông nghiệp tỉnh Hà Nam đạt 5%/năm. Từ một tỉnh thiếu lương thực đến nay đã có đủ lương thực tiêu dùng và có dự trữ đảm bảo an ninh lương thực và có sản phẩm hàng hoá.
Cùng với những thành tựu đạt được trong sản xuất nông nghiệp, thị trường tiêu thụ nông sản đã bước đầu mở rộng và phát triển, tác động tích cực trở lại sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Tuy nhiên, vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hoá đang là vấn đề bức xúc hiện nay. Một số nông sản làm ra tiêu thụ chậm, giá cả không ổn định làm thiệt hại đến lợi ích của người sản xuất và không khuyến khích người lao động. Vì vậy em chọn đề tài: "Một số giải pháp nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản trên địa bàn tỉnh Hà Nam đến năm 2010" và mong muốn góp phần tìm hiểu thị trường hàng hoá nô...
66 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1136 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản trên địa bàn tỉnh Hà Nam đến năm 2010, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, thời gian qua nông nghiệp và nông thôn nước ta nói chung, Hà Nam nói riêng đã có những chuyển biến lớn và đã đạt được những kết quả đáng kể. Tốc độ tăng trưởng bình quân của nông nghiệp tỉnh Hà Nam đạt 5%/năm. Từ một tỉnh thiếu lương thực đến nay đã có đủ lương thực tiêu dùng và có dự trữ đảm bảo an ninh lương thực và có sản phẩm hàng hoá.
Cùng với những thành tựu đạt được trong sản xuất nông nghiệp, thị trường tiêu thụ nông sản đã bước đầu mở rộng và phát triển, tác động tích cực trở lại sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Tuy nhiên, vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hoá đang là vấn đề bức xúc hiện nay. Một số nông sản làm ra tiêu thụ chậm, giá cả không ổn định làm thiệt hại đến lợi ích của người sản xuất và không khuyến khích người lao động. Vì vậy em chọn đề tài: "Một số giải pháp nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản trên địa bàn tỉnh Hà Nam đến năm 2010" và mong muốn góp phần tìm hiểu thị trường hàng hoá nông sản, định hướng sản xuất, phát triển thị trường cho những năm tới và đề xuất một số giải pháp để nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
Đề tài được chia làm ba chương sau:
Chương I: Sự cần thiết phải nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
Chương II: Tình hình sản xuất, tiêu thụ hàng hoá nông sản trên địa bàn tỉnh Hà Nam giai đoạn 1996 - 2002.
Chương III: Các giải pháp nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản của tỉnh Hà Nam đến năm 2010.
Chương I
Sự cần thiết phải nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản trên địa bàn tỉnh Hà Nam đến năm 2010.
I. Sự cần thiết phải nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản.
1. Quan niệm về tiêu thụ hàng hoá nông sản.
Nếu xét hoạt động tiêu thụ như một hành vi thì hoạt động tiêu thụ nông sản là sự chuuyển giao hình thái giá trị của sản phẩm hàng hoá từ hàng sang tiền ( H -T) nhằm thoả mãn nhu cầu khách hàng về một giá trị sử dụng nhất định. Không có mua thì không có bán, song xét về mặt giá trị, xét bản thân chúng H -T và T-H thì là sự chuyển hoá của một giá trị nhất định , từ một hình thái này sang hình thái khác , nhưng H -T lại là sự thựchiện giá trị thặng dư chứa đựng trong H. Như vậy , nếu hiểu theo quan niệm này thì tiêu thụ sản phẩm là sự chuyển giao quyền sở hữu sản phẩm cho người mua và người bán thu đượctiền từ bán sản phẩm hay quyền thu từ người mua.
Nếu xét hoạt động tiêu thụ như môt khâu của quá trình sản xuất kinh doanh thì tiêu thụ hàng hoá là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất và kinh doanh. Tiêu thụ sản phẩm thực hiện mục đích là tiêu thụ của sản xuất và tiêu dùng, đưa sản phẩm từ nơi sản xuất tới nơi tiêu dùng. Nó là khâu lưu thông hàng hoá, là cầu nối trung gian giữa một bên là sản xuất, phân phối và một bên là tiêu dùng.
Nếu xét hoạt động tiêu thụ là một quá trình thì hoạt động tiêu thụ sản phẩm là một quá trình bao gồm từ việc nghiên cứu nhu cầu thị trường, biến nhu cầu đó thành nhu cầu mua thực sự của người tiêu dùng, tổ chức sản xuất, chuẩn bị sản phẩm, tổ chức bán và các hoạt động dịch vụ khách hàng sau khi bán.
Theo hiệp hội kế toán quốc tế, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ, lao vụ đã thực hiện cho khách hàng là việc chuyển dịch quyền sở hữu sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đã thực hiện cho khách hàng, đồng thời thu được tiền hàng hoá.
Như vậy, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá là tổng thể các biện pháp về mặt tổ chức, kinh tế và kế hoạch nhằm thực hiện việc nghiên cứu thị trường, tổ chức tiếp nhận sản phẩm hàng hoá và xuất bán theo nhu cầu của khách hàng với chi phí thấp nhất.
Trong cơ chế thị trường hiện nay, hoạt động tiêu thụ sản phẩm hàng hoá có vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm hàng hoá là khâu quyết định đến sự thành công hay thất bại của mỗi doanh nghiệp. Có tiêu thụ được sản phẩm mới tăng được vòng quay của vốn, tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Qua tiêu thụ sản phẩm thực hiện được giá trị sử dụng của sản phẩm. Sau khi tiêu thụ được sản phẩm doanh nghiệp không những thu được các khoản chi phi bỏ ra mà còn thu được lợi nhuận.
Các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam như : gạo, đậu tương, lạc, hạt điều, cà phê, chè, thịt, rau quả tươi và rau quả chế biến... được sản xuất và tiêu thụ ở Việt Nam với các mức độ khác nhau đã tác động đến sản xuất và tiêu thụ trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
2. Sự cần thiết phải nâng cao khả năng tiêu thụ.
Hà Nam là tỉnh nằm trong vùng châu thổ sông Hồng, đất đai mầu mỡ được bao bọc bởi hai con sông lớn là sông Hồng và sông Đáy, có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp là nền sản xuất chính của tỉnh, chiếm tới hơn 45,6% trong cơ cấu GDP của tỉnh.
Mấy năm vừa qua nhờ chuyển đổi cơ chế quản lý, áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thay đổi giống và biện pháp thâm canh tăng vụ, nông nghiệp Hà Nam đã có những tiến bộ rõ rệt. Tổng sản lượng lương thực năm 2002 đạt 424.000 tấn, bình quân 450kg/ người/năm. Chăn nuôi gia súc gia cầm, thuỷ sản phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện.
Trong những năm qua, cùng với mức tăng trưởng kinh tế cao, tỷ lệ hộ đói nghèo của Hà Nam đã giảm từ 15,4% năm 2000 còn dưới 10% vào năm 2002. Tuy nhiên, thu nhập bình quân đầu người của Hà Nam là 256.800 đồng/người/tháng, chỉ bằng 87,05% so với mức thu nhập bình quân đầu người của cả nước và bằng 91,6% của cùng đồng bằng sông Hồng.
Hà Nam đang phấn đấu: "Đẩy nhanh tốc độ phát triển nông thôn toàn diện theo hướng nâng cao chất lượng tăng giá trị sản xuất, vừa đảm bảo an ninh lương thực, vừa mở rộng sản xuất hàng hoá, gắn sản xuất nông nghiệp với công nghiệp chế biến và xuất khẩu". Dự báo đến năm 2010, sản xuất nông nghiệp của tỉnh Hà Nam chiếm khoảng 20 đến 26%GDP, tỷ trọng cơ cấu trong nông nghiệp thay đổi theo hướng tỷ trọng chăn nuôi tăng, sản lượng lương thực tiêu dùng còn khoảng 10000 tấn đến 150000 tấn lúa hàng hoá và nhiều loại nông sản hàng hoá khác.
Định hướng phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và kinh tế nông thôn trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010 của cả nước được trình bày tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX là:" Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn theo hướng đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động, hình thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn phù hợp với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh thái của từng vùng. Đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước, tăng cường đáng kể thị phần của các nông sản chủ lực trên thị trường thế giới.
Đối với Hà Nam tuy là một tỉnh nhỏ, dân số không lớn, nông sản hàng hoá chưa nhiều nhưng vấn đề nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản của tỉnh Hà Nam đã được đề cập trong báo cáo của ban chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI là :" Mở rộng thị trường, tăng nhanh hàng hoá xuất khẩu, nhất là xuất khẩu sản phẩm nông sản góp phần đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế...".
Nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản góp phần tạo công ăn việc làm tại chỗ cho nông dân, giảm khó khăn cho xã hội và hạn chế sự chuyển dịch lao động từ nông thôn ra thành thị vốn đã và đang dư thừa lao động, tạo điều kiện cho người dân gắn bó hơn với mảnh đất mà mình sinh sống.
Nông nghiệp giữ một vai trò quan trọng trong nền nông nghiệp Việt Nam, thể hiện thông qua tỷ trọng GDP nông nghiệp trong tổng GDP và các nguồn lực quốc gia.
Bảng 1: GDP phân theo ngành kinh tế năm 2000.
Ngành kinh tế
GDP theo giá hiện hành
(Tỷ đồng)
Cơ cấu GDP
(%)
Tăng trưởng GDP (2001 - 2002)
(%)
Tổng số cả nước
-Nông, lâm, ngư nghiệp
- Công nghiệp
- Dịch vụ - Thương Mại
399.942
101.724
137.750
160.259
100
25,43
34,49
40,07
7,67
4,22
11,47
7,36
Nhìn toàn bộ nền kinh tế, đóng góp của lĩnh vực nông nghiệp đã giảm tương đôi so với đóng góp trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Tiềm năng phát triển nông nghiệp và nông thôn đã thu hút hơn 200 dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài với hơn 2,4 tỷ USD vốn đầu tư và hơn 1,5 tỷ USD viện trợ phát triển chính thức. Thành tích của Việt Nam trong những năm qua chứng tỏ đầu tư vào sản xuất lượng thực và sản xuất nông sản để xuất khẩu là hướng đi đúng đắn, góp phần vào phát triển kinh tế và ổn định xã hội.
Sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam đã xuất khẩu tới trên 80 nước trên thế giới. Một số nông sản đã được xuất khẩu trực tiếp sang các thị trường truyền thống và các đối tác thương mại lớn. Chất lượng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể.
II. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản.
1. Điều kiện tự nhiên.
1.1. Vị trí địa lý.
Hà Nam là tỉnh đồng bằng thuộc vùng Đồng Bằng Sông Hồng có quy mô vừa phải, diện tích tự nhiên 842,4 km2 gồm 5 huyện, 1 thị xã và 114 xã, phường mới được tái lập từ ngày 1/1/97. Hà Nam nằm cách Hà Nội 58 km, là cửa ngõ phía Nam của thủ đô Hà Nội. Hà Nam có quốc lộ 1A và đường sắt xuyên Việt chạy qua, có nhiều sông lớn như sông Hồng, sông Đáy, sông Nhuệ, sông Châu tạo ra mạng lưới giao thông thuỷ bộ thuận lợi cho việc giao lưu giữa các tỉnh trong cả nước.
Hà Nam nằm ở vị trí gần trung tâm của vùng Đồng Bằng Sông Hồng,phía Bắc giáp với Hà Tây, phía Đông giáp với Hưng Yên và Thái Bình, phía Đông Nam giáp với Nam Định, phía Nam giáp với Ninh Bình và chỉ có phía Tây giáp với Hoà Bình - một tỉnh thuộc vùng Tây Bắc.
So với các tỉnh xung quanh, trừ Hoà Bình, Hà Nam đều có những nét tương đồng với các tỉnh còn lại như Hà Tây, Hưng Yên, Thái Bình về nhiều phương diện như trình độ phát triển kinh tế, điều kiện tự nhiên, đặc trưng văn hoá xã hội... Xuất phát từ những nét tương đồng đó, khả năng bổ xung lẫn nhau giữa Hà Nam với các tỉnh xung quanh trong quá trình phát triển của mình sẽ không lớn. Tuy nhiên, khả năng hợp tác giữa các tỉnh này trong sản xuất để đạt được tính kinh tế theo quy mô sẽ là hướng quan trọng cần quan tâm.
Với khoảng cách gần 60 km, mức độ ảnh hưởng tương tác giữa Hà Nội và Hà Nam mang tính trực diện, ở mức độ lớn và ảnh hưởng đó sẽ ngày càng lớn hơn cùng với sự phát triển của điều kiện giao thông, thông tin liên lạc và nhu cầu giao lưu của dân cư. Với vị trí trên trục giao lưu chủ yếu giữa Bắc và Nam của cả nước, Hà Nam có khả năng tiếp nhận được nhanh hơn so với nhiều tỉnh khác những ảnh hưởng cả theo ý nghĩa tích cực và tiêu cực từ bên ngoài trong quá trình phát triển mọi mặt kinh tế - xã hội của tỉnh.
1.2. Đất đai.
Tổng diện tích đất tự nhiên là 84328,5 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 47940 ha, đất lâm nghiệp chiếm 550 ha, bình quân một khẩu chỉ có 660 m2 đất nông lâm nghiệp. Đất đai của tỉnh gồm hai loại: Đất đồi và đất phù sa cổ, địa hình phức tạp, đất nông nghiệp chủ yếu là thấp, trũng, không bằng phẳng. Trong đất nông nghiệp, đất trồng cây hàng năm chiếm 93%(chủ yếu trồng lúa, ngô, khoai, sắn), đất trồng cây lâu năm chiếm 1,4%, còn lại là đất cỏ dùng vào chăn nuôi và đất vườn liền nhà. Bình quân đất trên đầu người thấp đòi hỏi phải thâm canh, xen canh tăng vụ... để tăng sản lượng cây trồng. Nhìn chung đất đai của Hà Nam phù hợp với việc gieo trồng cây lúa và một số cây nông sản khác.
1.3. Nguồn nước.
Tài nguyên nước dồi dào là lợi thế quan trọng trong việc trồng lúa nước.Chất lượng nước của tỉnh Hà Nam được coi là tốt, không có độ xâm nhập mặn, giàu chất dinh dưỡng, thích hợp cho phát triển nông nghiệp.
Hệ thống sông ngòi chằng chịt là ưu thế lớn cho sản xuất nông nghiệp ở Hà Nam. Tuy nhiên Hà Nam lại nằm trong khu vực trũng thấp của đồng bằng sông Hồng nên dễ xảy ra úng lụt nếu hệ thống tưới tiêu không đảm bảo.
1.4. Khí hậu.
Hà Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có số giờ nắng cao từ 1170-1600 giờ/năm. Lượng mưa hàng năm từ 1300 - 2200 mm. Nhiệt độ trung bình từ 23 - 24,30C. Tháng nóng nhất là tháng 6, tháng 7( nhiệt độ trung bình lên tới 300C). Khí hậu Hà Nam thích hợp cho việc trồng lúa. Mùa đông lạnh khô có thể phát triển cây á nhiết đới như: rau, khoai tây. Có thể phát triển vụ đông tạo ra nhiều loại rau quả có giá trị.
2. Điều kiện xã hội.
2.1. Nguồn nhân lực.
Với dân số là 80 vạn người trong đó lao động là 384000 người (lao động nông nghiệp là 309000 người chiếm 80% lực lượng lao động). Hà Nam có nguồn nhân lực dồi dào, con người Hà Nam có trình độ và kỹ năng lao động tốt, gắn bó với nghề công. Đây là một lợi thế để phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá.
Bảng 2: Dân số Hà Nam giai đoạn 1996 - 2002
Đơn vị: 1000 người
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Tổng số
Thành thị
Tỷ trọng
Nông thôn
Tỷ trọng
731,4
50,4
6,89
680,5
93,11
771,6
57,6
7,47
714
92,53
779,4
60,9
7,81
718,5
92,19
786,6
62,3
7,92
724,3
92,08
792,5
62,6
7,90
729,9
92,10
809,3
63,0
7,83
734,6
92,17
815,8
64,3
7,8
751,5
92,2
Nguồn: Số liệu thống kê tỉnh Hà Nam.
Hà Nam là một tỉnh nông nghiệp, dân số phân bố chủ yếu ở vùng nông thôn, tỷ lệ dân số đô thị khá thấp. Trong thời kỳ 1996 -2000, đồng thời với sự giảm tốc độ tăng dân số là sự giảm đáng kể tốc độ tăng của dân số nông thôn, nhưng tốc độ tăng dân số thành thị cũng bị suy giảm. Điều đó phản ánh xu hướng di chuyển của Hà Nam ra khỏi địa bàn tỉnh đang diễn ra ở cả khu vực nông thôn và khu vực thành thị. Chính vì vậy, tỷ lệ dân số đô thị của Hà Nam vốn đã thấp lại càng thấp hơn nhiều so với tỷ lệ chung của cả nước: năm 1995 tỷ lệ dân số đô thị của Hà Nam là 7,41% và của cả nước là 16,66% ; năm 2000 là 7,83% và 20,14%.
Bảng 3: Cơ cấu lao động theo ngành nghề trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
Đơn vị: người
Năm
Nông-lâm-thuỷ sản
Công nghiệp và xây dựng
Dịch vụ thương mại
1996
2000
Tốc độ tăng bình quân1996-2000(%)
271.246
312.500
1,60
45.590
43.920
-0,44
28.056
32.360
1,56
Nguồn: Số liệu thống kê tỉnh Hà Nam.
Trong giai đoạn 1996 - 2000, dân số trong độ tuổi lao động của Hà Nam đã gia tăng nhanh, từ nhịp độ tăng bình quân 1,32%/năm trong giai đoạn 1991 - 1995 lên nhịp độ tăng bình quân 1,71%/năm trong giai đoạn 1996 - 2000. Về cơ cấu lao động theo lĩnh vực kinh tế, trong giai đoạn 1996 -2000, tỷ trọng lao động trong ngành nông - lâm - thuỷ sản tăng từ 78,65% năm 1996 lên 80,4% năm 2000, tỷ trọng lao động dịch vụ từ 8,13% lên 8,30%, trong khi đoá tỷ trọng lao động ngành công nghiệp.
Cơ sở vật chất cho giáo dục phổ thông của tỉnh được phát triển khá tốt so với tình trạng chung của các tỉnh Đồng Bằng Sông Hồng, đặc biệt là đối với bậc học phổ thông cơ sở và phổ thông trung học. Tuy nhiên, nếu so sánh chỉ số giữa số lượng học sinh các bậc học từ phổ thông đến đại học với số dân thì các chỉ số của Hà Nam lại ở mức thấp hơn so với vùng Đồng Bằng Sông Hồng và với cả nước.
Bảng 4: Số học sinh và tỷ trọng học sinh so với dân số năm 2000.
Phổ thông
THCN
ĐH-CĐ
CNKT
Số học sinh (người)
- Cả nước
17866673
143389
421418
134271
-Đồng Bằng Sông Hồng
3787599
36918
178308
42089
-Hà Nam
178717
1139
565
1446
Tỷ trọng so với dân số(%)
-Cả nước
23,00
0,19
0,55
0,18
-Đồng Bằng Sông Hồng
22,26
0,22
1,06
0,25
-Hà Nam
22,09
0,14
0,77
0,18
Nguồn :Số liệu thống kê cả nước - Niên giám thống kê 2001.
Như vậy, chỉ số giữa số lượng học sinh các bậc học từ phổ thông đến đại học với số dân thì các chỉ số của Hà Nam ở mức thấp hơn so với vùng Đồng Bằng Sông Hồng. Về phương diện phát triển giáo dục và đào tạo, Hà Nam là tỉnh có truyền thống phát triển khá tốt và có sự vượt trội hơn so với nhiều địa phương khác trong cả nước. Vấn đề đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nhằm tạo ra lợi thế so sánh của tỉnh Hà Nam so với các tỉnh khác trong vùng Đồng Bằng Sông Hồng và cả nước đang là yêu cầu cấp thiết đặt ra cho tỉnh trong giai đoạn tới.
2.2. Cơ sở hạ tầng.
Cùng với xu hướng đầu tư và phát triển nhanh về cơ sở hạ tầng của cả nước, Hà Nam đã phát triển khá tốt các điều kiện cơ sở hạ tầng, đặc biệt cơ sở hạ tầng nông thôn.
Bảng 5: Các điều kiện cơ bản về cơ sở hạ tầng năm 2000.
Đơn vị:%
Cả nước
ĐB Sông Hồng
Hà Nam
1.Tỷ lệ xã có điện
2.Tỷ lệ xã có đường ô tô đến xã
3.Tỷ lẹ xã có đường ô tô đến thôn
4.Tỷ lệ xã có trường tiểu học
6. Tỷ lệ xã có trạm y tế
7.Số máy điện thoại trên 1000 dân
85,8
92,9
79,8
98,9
89,3
31,4
99,9
99,9
99,6
99,9
100
34,2
100
100
100
100
100
9,2
Nguồn: Số liệu thống kê cả nước.
Hệ thống thuỷ lợi của tỉnh tuy đã hoàn chỉnh nhưng do xây dựng đã lâu nên xuống cấp nghiêm trọng, chưa đảm bảo tưới tiêu chủ động. Hệ thống gioa thông thuỷ bộ trải khắp các xã, huyện nhưng cũng cần được nâng cấp. Các cơ sở thông tin, điện đã được xây dựng tương đối đến tất cả các xã. Các dịch vụ nông nghiệp đã đảm bảo phục vụ được nhu cầu của người nông dân. Các tiến bộ khoa học kỹ thuật từng bước được áp dụng phù hợp với điều kiện của tỉnh.
Như vậy, nếu xem các điều kiện cơ bản về cơ sở hạ tầng vừa phản ánh trình độ phát triển, vừa là những yếu tố cần thiết phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội, thì Hà Nam có lợi thế hơn so với mức trung bình của cả nước và của Đồng Bằng Sông Hồng.
2.3. Kinh tế xã hội
Hà Nam là một tỉnh mới được tái lập nên điểm xuất phát kinh tế thấp hơn một số tỉnh ở đồng bằng sông Hồng, nhiều chỉ tiêu kinh tế thấp so với mức trung bình của cả nước. Cơ sở vật chất ký thuật nhỏ bé, trình độ trang thiết bị còn lạc hậu, sản phẩm làm ra kém chất lượng, sức cạnh tranh trên thị trường không cao. Hệ thống kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ....Hà Nam lại nằm ở vùng trọng điểm Bắc Bộ, khu vực phát triển kinh tế với tốc đọ nhanh, tuy có điều kiện hội nhập song phải đối đầu với sự cạnh tranh gay gắt (cả thu hút đầu tư lẫn tiêu thụ hàng hoá). Đó là những yếu tố hạn chế sự phát triển nông nghiệp trong đó có nông sản hàng hoá.
Trong giai đoạn 1996 -2002, Hà Nam đã đạt được nhịp độ tăng trưởng GDP hàng năm ở mức cao hơn so với mức bình quân chung của cả nước, nhưng do mức khởi đầu thấp và mức tăng trưởng quá thấp so với cả nước vào năm 1996, nên GDP bình quân đầu người của Hà Nam hiện nay vẫn thấp, chỉ bằng 50% so với GDP bình quân đầu người cả nước. Mức giảm về tỷ trọng nông nghiệp trong GDP của Hà Nam tuy khá nhanh nhưng cơ cấu giữa các ngành trong lĩnh vực nông nghiệp chỉ thay đổi chút ít và trông trọt ( chủ yếu là cây lúa) vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp. Như vậy, trong giai đoạn 1996 - 2002, mặc dù cơ cấu kinh tế của Hà Nam có chuyển nhanh, nhưng không có sự cải thiện lớn về năng lực sản xuất, chưa tạo được nhiều khả năng sản xuất ra những sản phẩm hàng hoá có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và nhất là thị trường xuất khẩu.
3. Những cơ chế chính sách có liên quan.
Chỉ thị 100 về việc đổi mới hoạt động HTX và sản xuất, thực hiện khoán hộ trong nông nghiệp đã mở đầu sự đổi mới trong chính sách nông nghiệp. Nghị quyết 10/TW đã làm rõ hơn, xá lập quyền tự chủ và quyền lợi của hộ nông dân trong sản xuất.Luật đất đai năm 1993 đã xác lập quyền của hộ nông dân trên mảnh ruộng của họ trong thời hạn được giao. Luật đất đai sửa đổi năm 1998 xác định thêm những quyền cơ bản của người sử dụng đất.
Khi người nông dân làm chủ mảnh đất của mình, họ tìm đến các giống cây con mới và các tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng cường đầu tư thâm canh tăng năng suất. Để đáp ứng yêu cầu này, nghị định 14/CP của chính phủ tháng 3 năm 1993 đã xác định cho hộ nông dân vay vốn và quyết định số 67/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 30/9/1999 quy định một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn, đã tạo điều kiện cho việc phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
Cùng với các chính sách về thuế, về tín dụng, về khuyến nông... và gần đây là chính sách phát triển trang trại, các chính sách thương mại nông sản cũng được nhà nước quan tâm đổi mới : xoá bỏ tình trạng cát cứ, ngăn sông cấm chợ, mở rộng tự do lưu thông hàng hoá nông sản trong nước; mở rộng quyền xuất khẩu nông sản cho các thành phần kinh tế; tích cực chủ động hội nhập vào thương mại khu vực và quốc tế; cải tiến hàng rào thuế quan và biện pháp phi thuế quan.
III. Những thuận lợi và hạn chế trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế của tỉnh Hà Nam.
1. Những thuận lợi để phát triển kinh tế của tỉnh Hà Nam.
Những thành tựu để phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Nam trong giai đoạn vừa qua là những cơ sở kinh tế quan trọng trong phát triển thị trường của tỉnhvới quy mô ngày càng lớn hơn của cả cung và cầu hàng hoá, qua đó tạo ra môi trường thuận lợi để phát triển các hoạt động sản xuất và tiêu thụ hàng hoá nông sản.
Về lý thuyết, sự phát triển của cung có tác động kích thích đến sự hình thành và phát triển của cầu, nhưng không phải là yếu tố quyết định đối với cầu, ngược lại, sự phát triển của cầu sẽ quyết định về quy mô và cơ cấu của cung. Trong mối quan hệ tương tác giữa cung và cầu đó, mỗi sự phát triển của yếu tố này sẽ tạo nên những ảnh hưởng lan truyền, tạo nên hiệu ứng phát triển của yếu tố khác trong giai đoạn tiếp theo. Thực tế phát triển kinh tế - xã hội của Hà Nam trong giai đoạn vừa qua cho thấy đã có sự phát triển đáng kể của cả yếu tố cung và yếu tố cầu trên thị trường.
Vị trí địa lý của Hà Nam đã và đang trở thành yếu tố thuận lợi hơn cho quá trình phát triển kinh tế.Trong hoạt động thương mại, một trong những khâu quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến tính hiệu quả của nó là quá trình thực hiện lưu thông hàng hoá và chi phí kèm theo, đặc biệt là các chi phí cho vận chuyển và chi phí phát sinh do tổn thất trong quá trình vận chuyển. Vị trí của Hà Nam cùng với thực tế phát triển của các tuyến giao thông gắn với Hà Nam vừa qua có thể cho phép Hà Nam tiết kiệm được chi phí lưu thông hàng hoá giữa Hà Nam với các tỉnh khác.
Nguồn nhân lực và chất lượng giáo dục của nguồn nhân lực tỉnh Hà Nam đang và sẽ là lợi thế chủ yếu đối với sự nghiệp phát triển kinh tế của Hà Nam. Ngày nay cùng với sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật và công nghệ thì việc phát triển nguồn nhân lực cũng trở nên cấp thiết hơn đối với các nền kinh tế và với mỗi doanh nghiệp đang và sẽ tham gia vào thị trường có tính cạnh tranh ngày càng cao. Dân số trong độ tuổi lao động của Hà Nam đang có xu hướng tăng nhanh, tạo nên lực lượng lao động tương đối dồi dào và có trình độ giáo dục khá tốt.
Tuy nhiên, lợi thế này của Hà Nam cũng chỉ ở dạng tiềm năng, trong thực tế hiện nay thậm chí nó còn là áp lực đối với các nhà quản lý khi phải giải quyết việc làm có thu nhập ổn định cho người lao động. Vì vậy, để lợi thế này có thể trở thành hiện thực, Hà Nam cần tiếp tục coi trọng sự nghiệp giáo dục và quan trọng hơn là có định hướng và các chính sách thích hợp trong việc đào tạo kỹ năng, kiến thức cho người lao động và nuôi dưỡng, thu hút nhân tài vào mục tiêu phát triển chung của tỉnh.
2. Những hạn chế đối với việc phát triển kinh tế của tỉnh Hà Nam.
Khi trình độ phát triển về khoa học công nghệ, kỹ năng quản lý thấp là trở ngại ban đầu kìm hãm sự phát triển của thị trường và các hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Hà Nam. Tài nguyên thiên nhiên là những yếu tố đầu vào quan trọng của sản xuất, nhất là khi trình độ phát triển kinh tế còn thấp. Sự sẵn có về tài nguyên hay chi phí thấp của các yếu tố đầu vào cho sản xuất có thể sẽ tạo nên sức cạnh tranh cho sản phẩm. Tính đa dạng về tài nguyên thiên nhiên của Hà Nam cũng rất hạn chế bởi độ phì của đất thấp, độ trũng của mặt bằng sản xuất không đồng đều gây khó khăn cho việc mở rộng quy mô sản xuất.
Bên cạnh những thành tựu phát triển kinh tế đã đạt được, Hà Nam còn đang đứng trước rất nhiều khó khăn, trở ngại trong quá trình phát triển nền kinh tế - xã hội. Nền kinh tế địa phương vẫn đang ở điểm xuất phát thấp so với các tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng và so với mức bình quân chung của cả nước. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh sẽ gặp không ít khó khăn, bởi vì Hà Nam không có nhiều nguồn tài nguyên cho phép chuuyển dịch nhanh chóng cơ cấu sản xuất và cơ cấu kinh tế. Chỉ tiêu huy động ngân sách từ GDP, khả năng tích luỹ đầu tư từ GDP của tỉnh trong nhiều năm qua luôn ở tình trạng thấp so với các tỉnh trong vùng và cả nước.
Chương II
Tình hình sản xuất tiêu thụ hàng hoá nông sản của tỉnh Hà Nam giai đoạn 1996-2002.
I. tổng quan tình hình kinh tế của tỉnh Hà Nam giai đoạn 1996 - 2002.
1.Thực trạng phát triển kinh tế của Hà Nam giai đoạn 1996-2002.
Hà Nam là một tỉnh nằm ở khu vực đồng bằng sông Hồng, sự phát triển kinh tế - xã hội của Hà Nam liên quan mật thiết với phát triển khu vực, đặc biệt là các tỉnh lân cận như Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình và Hưng Yên. Nông nghiệp vẫn giữ một vai trò quan trọng trong nền kinh tế của các tỉnh lân cận Hà Nam, thể hiện tỷ trọng nông nghiệp trong GDP vẫn chiếm từ 43% - 50%. Cơ cấu kinh tế mang tính thuần nông độc canh. Số lao động đang sinh sống và làm việc ở nông thôn ở các tỉnh này chiếm trên 85%. Trong số lao động thường xuyên làm việc ở nông thôn thì có tới 80% số lao động làm việc chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp.
Trong giai đoạn 1996-2002, tình hình kinh tế -xã hội của Hà Nam ổn định và có bước tăng trưởng khá: GDP tăng bình quân 9,1%/năm, thu nhập bình quân đầu người tăng 1,6 lần so với năm 1996, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, trật tự xã hội được đảm bảo, quốc phòng an ninh được giữ vững. Cơ cấu kinh tế dần được chuyển dịch đúng hướng: giảm tỷ trọng nông nghiệp và tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của Hà Nam đạt 8,1%/năm, cao hơn so với tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của cả nước ( đạt 7,04%/năm) trong giai đoạn 1996-2002. Tuy nhiên, GDP tính bình quân đầu người của Hà Nam so với của cả nước trong giai đoạn này lại có xu hướng giảm rõ rệt, từ tỷ lệ 58,78% so với cả nước năm 1995 còn 49,48% vào năm 2002.
Bình quân trong giai đoạn 1996 -2000 công ty lương thực Hà Nam xuất khẩu được 10.000-15.000 tấn gạo một năm. Trong đó gạo trên địa bàn tỉnh với số lượng nhỏ, năm 1998 xuất bán cho IRắc được 1.000 tấn, năm 2000 xuất bán được 2000 tấn.
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, Hà Nam cũng đạt được tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hơn so với cả nước. Trong giai đoạn 1996-2002, tốc độ tăng trưởng GDP của lĩnh vực công nghiệp - xây dựng đạt bình quân 20,52%/năm, của dịch vụ là 5,9%/năm và của nông nghiệp là 4,1%/năm. Do vậy, tỷ trọng trong GDP của lĩnh vực nông nghiệp đã giảm tới trên 11% và của công nghiệp, xây dựng tăng trên 12% trong giai đoạn 1996-2000, trong khi đó của cả nước tương ứng chỉ là gần 3% và 8%. Tuy nhiên, nền kinh tế Hà Nam chủ yếu là nền kinh tế nông nghiệp.
Bảng 5: Cơ cấu GDP của Hà Nam và cả nước.
(giá hiện hành )
Đơn vị:%
1996
1997
1998
1999
2000
2001
1.Hà Nam
-Nông nghiệp
-Công nghiệp -XD
-Dịch vụ
100
52,64
16,26
31,1
100
49,58
18,83
31,59
100
48,29
19,11
32,6
100
48,00
20,05
31,95
100
43,65
25,69
30,66
100
41,31
28,51
30,18
2.Cả nước
Nông nghiệp
-Công nghiệp -XD
-Dịch vụ
100
27,2
28,8
49,0
100
27,8
29,7
42,5
100
25,8
32,1
42,1
100
25,8
32,6
41,6
100
25,4
34,5
40,1
100
24,3
36,6
39,1
Nguồn: Số liệu thống kê cả nước và Hà Nam.
Trong cơ cấu GDP của tỉnh, tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 52,64% năm1996 xuống còn 43,65% năm 2000 và 41% năm 2002. Tuy giảm tỷ trọng trong cơ cấu GDP nhưng giá trị tuyệt đối của sản xuất nông nghiệp ngày một tăng, cơ sở vật chất hạ tầng của nông thôn được cải thiện đáng kể, bộ mặt nông thôn ngày càng dổi mới thể hiện:
- Sản xuất nông nghiệp liên tục được mùa và năm sau cao hơn năm trước. Giá trị sản xuất nông lâm nghiệp tăng bình quân 6,1%/năm, sản xuất lương thực đạt cao cả về tổng sản lượng và năng suất. Năm 2001 năng suất lúa đã vượt 10tấn/ha/năm. Từ tỉnh thiếu lương thực đến nay đã có lương thực dự trữ và xuất khẩu.
-Bước đầu đã tạo được nhiều mô hình trồng cây nông nghiệp ngắn ngày, cây lương thực có giá trị kinh tế cao, mô hình chăn nuôi gia đình,mô hình vườn cây ăn quả đặc sản gắn với phủ xanh đất trống, đồi trọc theo chương trình 327 làm tiền đề cho việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi trong ngành nông nghiệp.
- Chăn nuôi được duy trì và phát triển. Tốc độ phát triển đàn gia súc, gia cầm hàng năm tăng từ 2,7%-6,3%, sản lượng thuỷ sản có tốc độ tăng hàng năm từ 6,6%-15,4%.
-Gắn xây dựng mô hình vườn cây ăn quả, đặc sản, mô hình trồng cây công nghiệp, cây thực phẩm có giá trị kinh tế cao, mô hình chăn nuôi gia đình với chương trình xoá đói, giảm nghèo, khuyến khích hộ gia đình, cá nhân sản xuất kinh doanh giỏi đã góp phần làm giảm tỷ lệ đói nghèo trong khu vực nônh thôn từ 15,3% năm 1997 xuống còn 10% năm 2002.
-Cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất, cơ sở hạ tầng nông thôn được quan tâm và đầu tư đúng mức. Quan hệ sản xuất trong nông nghiệp được củng cố phù hợp với lực lượng sản xuất và cơ chế chính sách mới.
Tuy nhiên phát triển nông nghiệp Hà Nam vẫn còn một số tồn tại: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ ngành chưa rõ nét theo hướng CNH-HĐH; Chưa có vùng sản xuất tập trung, hiệu quả sản xuất còn thấp; đã có nhiều loại hàng hoá nông sản nhưng chất lượng thấp, số lượng chưa nhiều; tiêu thụ sản phẩm còn kém và đặc biệt là chưa có công nghiệp chế biến hàng nông sản.
2.Tình hình phát triển ngành nông- lâm- ngư nghiệp.
Nông- lâm - ngư nghiệp là lĩnh vực kinh tế chủ yếu của Hà Nam hiện nay, chiếm tới trên 40% trong GDP của tỉnh. Trong giai đoạn 1996-2000, trong lĩnh vực sản xuất này, tốc độ tăng giá trị sản lượng cao nhất thuộc về ngành thủy sản ( bình quân tăng 9,0%/năm), tiếp đến là ngành lâm nghiệp (7,0%/năm ) và thấp nhất là ngành nông nghiệp (3,65%/năm). Điều đó đã mang lại sự thay đổi về cơ cấu giá trị sản lượng của các ngành sản xuất trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, do giá trị sản lượng của các ngành sản xuất lâm nghiệp, thuỷ sản chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ nên sự thay đổi về cơ cấu không lớn và tỷ trọng của ngành sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm tới trên 96% trong tổng giá trị sản lượng chung.
Bảng 6: Cơ cấu giá trị sản lượng
nông - lâm - ngư nghiệp của tỉnh Hà Nam.
Đơn vị:%
1998
1999
2000
2001
2002
Tổng số
1. Nông nghiệp
2. Lâm nghiệp
3.Thuỷ sản
100
97,21
1,17
1,62
100
96,29
1,63
2,08
100
96,67
1,43
1,9
100
96,4
1,33
2,27
100
96,64
1,34
2,02
Nguồn: Số liệu thống kê Hà Nam.
Trong sản xuất nông nghiệp, giá trị sản lượng trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất, theo số liệu năm 2002, trồng trọt chiếm 76,54%, chăn nuôi chiếm 22,56% và dịch vụ chỉ chiếm 0,9% trong tổng giá trị sản lượng nông nghiệp của tỉnh. Đồng thời tốc độ tăng trưởng bình quân trong giai đoạn 1996 - 2002 của giá trị trồng trọt cũng đật được cao nhất với 3,7%/năm, tiếp đến là 3,23% /năm và dịch vụ là 3,28%. Như vậy, trong nông nghiệp vẫn có xu hướng thiên về sản xuất các sản phẩm trồng trọt.
Bảng 7: Hệ số giữa giá trị sản lượng nông nghiệp tăng
thêm và tổng giá trị sản lượng nông nghiệp của tỉnh Hà Nam.
Đơn vị: %
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Các ngành nông nghiệp
-Trồng trọt
-Chăn nuôi
-Dịch vụ
62,26
67,54
47,45
36,00
63,00
67,59
49,86
35,00
63,53
68,10
51,04
35,00
63,37
67,11
50,97
35,67
63,11
67,06
50,07
35,67
63,24
67,09
50,45
35,23
Nguồn số liệu thống kê Hà Nam .
Cùng với xu hướng nâng cao khả năng tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp ở nước ta trong những năm qua, hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp của Hà Nam đã được nâng lên.
Trong nhóm hàng nông sản, các mặt hàng xuất khẩu chính của Hà Nam bao gồm: gạo, lạc nhân, đay tơ, long nhãn...Tuy nhiên, khối lượng xuất khẩu các mặt hàng thường không ổn định qua các năm và chiếm tỷ lệ nhỏ so với sản lượng sản xuất trừ mặt hàng lạc nhân xuất khẩu.
II. Thực trạng sản xuất, tiêu thụ hàng hoá nông sản của tỉnh Hà Nam giai đoạn 1996-2002.
1. Sản xuất, chế biến và tiêu thụ gạo.
Lúa gạo được trồng tại khắp các huyện, thị trong tỉnh với diện tích, năng suất và sản lượng năm sau cao hơn năm trước.
Bảng 8: Diện tích, năng suất, sản lượng lúa của Hà Nam
Chỉ tiêu
Năm
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(tấn)
1997
70.973
40,53
287.665
1998
73.366
46,62
343.336
1999
74.332
48,89
363.431
2000
75.036
51,10
383.453
2001
75.823
52,2
395.796
2002
76.256
52,8
402.632
Nguồn : Cục thống kê Hà Nam. Trong vòng vài năm trở lại đây, năm 2002 so với năm 1997: Diện tích tăng 7,4%, năng suất tăng 30,3%, sản lượng tăng 39,9%.Năng suất lúa tăng cao là do thời tiết thuận lợi và áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nên dẫn đến sản lượng tăng .Diện tích trồng lúa nhiều nhất là huyện Bình Lục, sau đó đến huyện Thanh Liêm, ít nhất là thị xã Phủ Lý . Năng suất lúa cao nhất là huyện Duy Tiên sau đó đến Lý Nhân và thấp nhất là thị xã Phủ Lý.
Cùng với việc tăng sản lượng lúa gạo, sản lượng các cây màu khác cũng tăng, tạo nên sự gia tăng về lương thực của cả tỉnh. Hiện nay Hà Nam đã có lương thực dự trữ và bước đầu có lương thực hàng hoá khoảng vài ngàn tấn nhưng lại nằm rải rác trong các hộ nông dân, thuận lợi cho việc bảo quản nhưng lại khó cho việc thu gom .
Năng lực chế biến lúa gạo của tỉnh còn hạn chế. Chỉ có một số dây chuyền xay xát lúa gạo để tiêu thụ trong tỉnh với công nghệ thô sơ và lạc hậu. Chất lượng chế biến chưa cao, tỷ lệ gạo nguyên hạt đạt 45-48%, dân đến hiệu quả kinh tế thấp. Năm 2002, để nâng chất lượng gạo xuất khẩu, công ty lương thực Hà Nam đã lắp đặt dây chuyền xay xát, đánh bóng gạo để xuất khẩu với số vốn đầu tư trên 1 tỷ đồng.
Bảng 9: Khối lượng tiêu thụ hàng hoá nông sản của tỉnh Hà Nam.
Nông sản chính
Đơn vị tính
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Lương thực
1000 tấn
327,5
345,0
358,7
365
Thịt các loại
1000 tấn
16,3
15,5
12,8
10,5
Trứng các loại
Triệu quả
74,8
77,6
82,5
87,6
Rau xanh
1000 tấn
762
765
768
770
Quả tươi
1000 tấn
7,5
9,8
12,5
13,8
Lạc
1000 tấn
1,2
1,3
1,5
1,8
Nguồn : Sở Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nam.
Việc tiêu thụ gạo của Hà Nam chủ yếu được thực hiện trong nội địa. Một phần gạo của Hà Nam được bán cho các tỉnh trung du miền núi phía Bắc, một phần bán cho Hà Nội. Việc tiêu thụ gạo trong nội địa chủ yếu thông qua các tư thương, công ty lương thực Hà Nam tiêu thụ một phần. Trong năm 1998 công ty lương thực Hà Nam cũng đã xuất khẩu được hơn 1000 tấn gạo của Hà Nam thông qua tổng công ty lương thực miền Bắc .
Các hạn chế trong việc xuất khẩu , chế biến, tiêu thụ gạo của Hà Nam:
-Hà Nam có nhiều loại thóc gạo, có rất ít giống đạt chất lượng cao. Giống còn chạy theo năng suất và phù hợp với đồng đất trũng.
-Giá thành sản xuất gạo của tỉnh cao hơn giá thành của một số tỉnh lân cận do điều kiện đất đai, trình độ thâm canh. Việc tiêu thụ bị động do sản lượng lúa gạo ít. Thêm vào đó, nông dân trong tỉnh còn nặng về tâm lý tích trữ lúa gạo đề phòng lúc thất bát. Vì vậy rất khó cho việc thu mua và tiêu thụ lúa gạo.
-Trong tỉnh chưa có quy hoạch vùng sản xuất lúa gạo, còn do hộ nông dân mạnh ai người nấy làm. Chưa có hệ thống thu mua thóc gạo từ tỉnh xuống đến xã. Tình trạng phân tán trong sản xuất và lưu thông là những trở ngại chính cho việc tiêu thụ lúa gạo của tỉnh.
-Công nghệ và thiết bị chưa đáp ứng được yêu cầu của chế biến gạo, phương tiện vận chuyển còn thô sơ. Mấy năm nay do được mùa liên tiếp nên mới có lương thực để trở thành hàng hoá. Cần phải có những chính sách để khuyến khích sản xuất, chế biến và tiêu thụ lúa gạo của tỉnh.
2.Sản xuất, chế biến và tiêu thụ đay.
Đay được trồng nhiều ở vùng bãi đồi ven sông Hồng thuộc huyện Duy Tiên, Lý Nhân và một số vùng thuộc huyện Bình Lục.Trong mấy năm gần đâydiện tích đay ổn định khoảng 800 ha, sản lượng đay của tỉnh tăng lên do được mùa đay.
Bảng 10: Diện tích, sản lượng đay của Hà Nam .
Chỉ tiêu
Năm
Diện tích (ha)
Sản lượng (tấn)
1999
822
1828
2000
807
2339
2001
831
2376
2002
795
2432
Nguồn: Cục thống kê Hà Nam
Hà Nam là một trong những tỉnh trồng nhiều đay của cả nước. Hàng năm lượng đay của Hà Nam khoảng 2000 tấn dưới dạng đay tơ và đay bẹ. Việc bảo quản chủ yếu thực hiện trong các hộ dân. Đay của Hà Nam được bán chủ yếu cho hai nhà máy đay của Nam Định và Thái Bình để sản xuất bao tải đay đóng hàng nông sản xuất khẩu.
Trong việc sản xuất và tiêu thụ đay của tỉnh Hà Nam có một số vấn đề nổi lên:
-Chất lượng đay của tỉnh ta chưa đảm bảo do giống cũ, kỹ thuật chế biến kém và thiếu nước sạch.
-Thị trường nguyên liệu đay thất thường, phụ thuộc chủ yếu vào việc xuất khẩu các loại nông sản khác của cả nước như: cà phê, hạt điều, lạc...
-Việc sản xuất đay chủ yếu do tập quán và điều kiện đất đai của từng vùng huyện, xã. Việc sản xuất trồng trọt đay trong mấy năm qua đã đem lại hiệu quả kinh tế hơn trồng lúa. Việc trồng đay chủ yếu để tận dụng đất đai ở các bãi ven sông Hồng và tận dụng lực lượng lao động dôi dư ở nông thôn.
-Quan hệ cung cầu về mặt hàng đay hoàn toàn theo cơ chế thị trường. Giữa các nhà máy chế biến đay và các hộ nông dân chưa có sự ràng buộc, chưa có sự phối hợp chặt chẽ để đảm bảo tiêu thụ sản phẩm đay cho người nông dân. Vì vậy diện tích trồng đay cá xu hướng hẹp
3.Sản xuất, chế biến và tiêu thụ lạc.
Diện tích và sản lượng lạc của Hà Nam trong giai đoạn này đều tăng, năm sau tăng so với năm trước. Lạc được trồng nhiều ở 2 huyện Kim Bảng và Duy Tiên. Diện tích và sản lượng lạc của 2 huyện Kim Bảng và Duy Tiên chiếm gần 3/4 diện tích và sản lượng lạc của cả tỉnh. So với các tỉnh lân cận thì Hà Nam là tỉnh có diện tích trồng lạc và sản lượng lạc thấp nhất.
Bảng 11: Diện tích, sản lượng lạc của Hà Nam qua các năm.
Chỉ tiêu
Năm
Diện tích (ha)
Sản lượng(tấn)
1999
692
920
2000
754
1327
2001
949
2084
2002
1042
2062
Nguồn : Cục thống kê Hà Nam
Trước đây tại Hà Nam có xí nghiệp ép dầu hoạt động có hiệu quả trong cơ chế bao cấp, nhưng những năm gần đây sản phẩm ép dầu, dầu lạc không đảm bảo chất lượng, khó cạnh tranh trên thị trường, hiệu quả không có nên xí nghiệp đã chuyển hướng kinh doanh.
Với sản lượng trên 2000 tấn lạc vỏ một năm, tiêu dùngtrong dân chiếm khoảng 40%còn lại là lạc hàng hoá. Số lượng lạc hàng hoá một phần được bán cho các đơn vị ép dầu, một phần cho tiêu dùng hàng ngày của người dân. Nhìn chung cây lạc là cây trồng có hiệu quả kinh tế nhưng vì diện tích đất đai của Hà Nam ít, đặc điểm cây lạc thích nghi với từng loại đất nhất định, do đó việc mở rộng diện tích trồng lạc phải có thời gian để cải tạo đất và lựa chọn giống.
Một số hạn chế trong việc sản xuất, tiêu thụ lạc ở Hà Nam:
-Chưa có giống lạc phù hợp với đất đai, vỏ lạc còn dày, hạt teo nhăn nhiều, năng suất chưa cao. Chưa có giống lạc phù hợp với thị hiếu tiêu dùng -Chủ yếu là tiêu thụ nội địa nên hiệu quả sản xuất chưa cao. Chưa có thị trường xuất khẩu trực tiếp, chủ yếu xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc.
-Sản phẩm tiêu thụ chủ yếu là thô và sơ chế với chất lượng chưa đảm bảo. Công nghệ chế biến gần như chưa có gì. Ngoài cây lạc, đỗ tương cũng được trồng ở nhiều nơi trong tỉnh. Huyện Lý Nhân và huyện Duy Tiên là hai huyện trồng nhiều đỗ tương nhất (trong năm 2000). Tổng diện tích và sản lượng đỗ tương của cả tỉnh trong mấy năm gần đây đều tăng. Thị trường tiêu thụ chủ yếu của Hà Nam là nội địa, nhìn chung công nghệ chế biến đỗ tương của tỉnh ta chưa có gì. Trong thời gian tới nếu muốn nâng cao hiệu quả sản xuất của đỗ tương thì phải cải tạo giống và quy hoạch thành vùng sản xuất.
4. Sản xuất, chế biến và tiêu thụ rau quả.
4.1. Sản xuất, chế biến và tiêu thụ các loại rau.
Diện tích trồng rau và sản lượng rau của tỉnh Hà Nam trong giai đoạn này tương đối ổn định. Diện tích trồng rau khoảng 6000 ha -7000 ha, sản lượng rau khoảng 70.000 - 85.000 tấn trong một năm. Các loại rau có địa bàn gieo trồng khác nhau và thị trường tiêu thụ khác nhau.
* Khoai tây:
Khoai tây được trồng nhiều ở Duy Tiên, Lý Nhân. Là cây vụ đông, khoai tây được trồng trên diện tích từ 1.300-1.500 ha. Sản lượng những năm gần đây khoảng 14.000 tấn. Trước đây khoai tây, ngoài tiêu dùng trong nội địa thường được xuất khẩu sang Liên Xô và Đông Âu. Từ ngày thị trường Đông Âu và Liên Xô tan rã, khoai tây của tỉnh ta chủ yếu tiêu dùng trong nội địa.
* Cây dưa chuột:
Hà Nam có điều kiện để phát triển việc sản xuất dưa chuột. Trong những năm gần đây dưa chuột được trồng nhiều ở Lý Nhân, Duy Tiên và Kim Bảng.
Năm 2000, diện tích trồng dưa chuột của tỉnh đã lên trên 200 ha, năng suất trung bình khoảng 20 tấn/ha.
Giống dưa chuột gồm nhiều loại: Dưa bao tử, dưa ta, dưa Nhật....Dưa chuột là loại cây vụ đông có giá trị tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Hiện nay tỉnh Hà Nam chưa có cơ sở chế biến dưa chuột. Ngoài nhu cầu thay thế rau xanh hàng ngày, dưa bao tử và dưa chuột ta được bán cho các nhà máy chế biến nông sản xuất khẩu ở Nam Định và Hưng Yên để đóng hộp (lọ) xuất khẩu sang thị trường các nước: Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapo...Dưa chuột Nhật được bán cho các công ty xuất nhập khẩu của Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương để muối sơ chế xuất khẩu cho Nhật ( các đơn vị này có hệ thống bể muối sơ chế dưa với vốn đầu tư trên một tỷ đồng cho một cơ sở muối ). Dưa chuột xuất khẩu là mặt hàng có hiệu quả, nếu so với trồng lúa thường gấp khoảng 3 lần. Nhưng do thị trường còn hạn chế, cơ sở chế biến chưa có do đó chưa nhân ra diện rộng được.
* Nấm:
Nấm là loại " rau sạch" được sản xuất với nguyên liệu rẻ tiền ( rơm rạ ). Nấm được sản xuất ở nhiều địa phương với khả năng tận dụng lao động và tăng thu nhập cho người nông dân. Đây là mặt hàng có hiệu quả, đang mở ra triển vọng lớn. Nhu cầu sử dụng nấm ngày một nhiều ở cả trong và ngoài nước. Hiện nay Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và công ty xuất nhập khẩu - Du lịch và đầu tư xây dựng Hà Nam đã phối hợp với Viện Di truyền Nông nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để chuyển giao công nghệ trồng nấm và đang nhân rộng trên địa bàn toàn tỉnh. Chắc chắn trong những năm tới việc sản xuất nấm sẽ phát triển đáp ứng nhu cầu của cả trong và ngoài nước.
Ngoài ra, Hà Nam còn có thể trồng hàng loạt các loại rau khác như: cải bắp, hành tỏi, bí xanh,... để cung cấp cho nhu cầu rau xanh ngày càng tăng của cuộc sống và được tiêu thụ ở một số đô thị.
4.2 Về sản xuất, chế biến và tiêu thụ các loại quả:
Điều kiện Hà Nam có thể trồng nhiều loại cây ăn quả có giá trị. Diện tích và sản lượng cây ăn quả mấy năm gần đây đều tăng. Giá trị do cây ăn quả đem lại ngày một lớn. Diện tích trồng cây ăn quả năm 1999 là 3.659 ha tăng 92% so với năm 1996.
Bảng12: Diện tích, sản lượng một số cây ăn quả
Diện tích(ha)
Cam, quýt, bưởi
Dứa
Nhãn, vải
1996
460
22
533
1997
493
20
573
1998
471
19
1515
1999
481
18
1762
Sản lượng(tấn)
1996
3068
92
1642
1997
3429
80
3325
1998
3322
76
7738
1999
3826
78
9775
* Cam, quýt, bưởi:
Diện tích trồng cam, quýt, bưởi nhìn chung ổn định, sản lượng hàng năm được trên 3000 tấn.
Cam, quýt, bưởi được trồng nhiều ở Lý Nhân, Duy Tiên, Kim Bảng và Thanh Liêm.
Việc tiêu thụ cam, quýt, bưởi chủ yếu phục vụ đời sống nhân dân trong tỉnh và các đô thị lân cận Hà Nam.
* Dứa:
Trước đây dứa được trồng nhiều ở khu vực đất đồi thuộc Kim Bảng, Thanh Liêm với sản lượng khoảng 100 tấn/năm.
Trong thời gian qua việc tiêu thụ dứa gặp nhiều khó khăn nên diện tích dứa bị thu hẹp. Hiện nay dứa có khả năng phát triển và mở rộng vì có hai nhà máy chế biến đồ hộp của Nam Định và Tam Điệp đang rất cần nguyên liệu dứa.
* Nhãn vải:
Diện tích và sản lượng của nhãn vải trong mấy năm gần đây đều tăng. Năm 1999 so với năm 1996: diện tích tăng 230%, sản lượng tăng gần 5 lần. Nhãn vải được trồng nhiều ở Kim Bảng, Duy Tiên và Lý Nhân. Ngoài việc tiêu thụ trong nước, nhãn vải của Hà Nam được xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc. Long nhãn là mặt hàng xuất khẩu truyền thống, có giá trị. Trước đây có năm Hà Nam xuất khẩu được 300 tấn long nhãn.
* Chuối:
Chuối được trồng nhiều trong các hộ nông dân trong tỉnh, chưa thành vùng tập trung, rất khó thu gom trở thành hàng hoá.
Thị trường tiêu thụ chuối chủ yếu trong nội địa. Trong những năm qua, cũng có thời kỳ Trung Quốc có nhu cầu về chuối xanh và Hà Nam tham gia xuất khẩu theo con đường tiểu ngạch thông qua các tư thương nhưng số lượng không lớn.
Ngoài ra, Hà Nam còn có loại chuối đặc sản gọi là chuối ngự được trồng nhiều ở Hoà Hậu (Lý Nhân). Tuy nhiên loại chuối này khó có thể nhân rộng được vì chỉ chất đất của vùng Hoà Hậu mới trồng và duy trì được chất lượng của chuối.
Rau quả Hà Nam rất đa dạng và phong phú, song cũng có một số hạn chế trong việc sản xuất và tiêu thụ:
+ Các giống rau quả được sử dụng đại trà hiện nay có năng suất thấp, không ổn định, hình dáng kích thước và độ chín không đồng đều rất khó cho việc bảo quản, tiêu thụ dặc biệt là xuất khẩu.
+ Việc sản xuất rau quả do các hộ nông dân đảm nhiệm khó thu gom trở thành hàng hoá. Cơ sở sản xuất và lưu thông rau quả còn lạc hậu, thiếu phương tiện hiện đại, thiếu phương tiện vận chuyển và bảo quản.
+ Không có cơ sở chế biến nên khi vận chuyển đi tiêu thụ sẽ giảm chất lượng, tỷ lệ hư hỏng cao.
+ Mạng lưới tiêu thụ hàng rau quả hầu như chưa có gì. Nông dân phải tự sản tự tiêu do vậy thường xảy ra mất cân đối cung cầu về rau quả, giá cả lên xuống thất thường (nhất là lúc thời vụ) độ rủi ro trong sản xuất và kinh doanh rau quả cao.
+ Chưa hình thành vùng nguyên liệu từ phía các doanh nghiệp chế biến tiêu thụ rau quả.
+ Tâm lý người nông dân còn chạy theo năng suất, xem nhẹ chất lượng sản phẩm, không thực hiện đúng quy trình sản xuất.....dễ làm giảm giá trị sản phẩm.
5. Về chăn nuôi, chế biến, tiêu thụ gia súc, gia cầm, thuỷ sản:
Trong những năm qua, nghành chăn nuôi cũng được tỉnh Hà Nam quan tâm tạo điều kiện phát triển. Tỷ lệ mất cân đối giữa trồng trọt và chăn nuôi trong nông nghiệp Hà Nam dần dần giảm xuống. Số lượng hầu hết các loại gia súc , gia cầm đều tăng.
Bảng 13: Số lượng trâu, bò, lợn, gia cầm qua các năm
( Đơn vị tính: Ngàn con)
Năm
Trâu
Bò
Lợn
Gia cầm
1996
10,1
23,8
229,0
1788,3
1997
8,8
23,9
245,9
1966,7
1998
7,8
23,4
251,6
2033,4
1999
6,5
24,9
268,2
2311,6
Nguồn: Cục Thống Kê tỉnh Hà Nam
- Đối với đàn trâu:
Trong những năm gần đây số lượng trâu giảm dần do áp dụng kỹ thuật cơ giới vào khâu làm đất. Năm 1996 đến năm 1999, tổng đàn trâu giảm 36%. Trâu được nuôi tương đối đồng đều ở các huyện trong tỉnh nhưng nhiều nhất ở Lý Nhân. Việc chăn nuôi trâu chủ yếu lấy sức kéo và lấy thịt.
- Đối với đàn bò:
Tổng số đàn bò qua mấy năm gần đây tương đối ổn định khoảng 24.000 con. Việc chăn nuôi bò cũng tương đối đồng đều ở các huyện trong tỉnh. Bò được chăn nuôi chủ yếu để lấy thịt. Huyện nuôi bò nhiều nhất là Lý Nhân. Thịt bò cũng được tiêu thụ chủ yếu trong nội địa, tại các trung tâm đô thị.
- Về đàn lợn:
Chăn nuôi lợn, ngày càng được chú ý hơn và có xu thế phát triển mạnh. Hàng năm tổng đàn lợn của tỉnh đêu tăng.
Lợn được nuôi nhiều ở Bình Lục và Lý Nhân. Nhìn chung nuôi lợn đều lãi nhưng mức độ lãi không cao.
Năm 1999, với tổng số đàn lợn 268.200 con cho số lượng thịt hơi 19.500 tấn, đã đủ cung cấp thịt lợn cho nhân dân trong tỉnh và bán ra cả tỉnh ngoài. Thị trường tiêu thụ thịt lợn của Hà Nam chủ yếu là Hà Nội và các đô thị. Hiện nay chưa có một doanh nghiệp nào trong tỉnh đứng ra tổ chức tiêu thụ thịt lợn cho nông dân.
Trong mấy năm qua có một lượng lợn sữa dù hạn chế được thu mua tại địa bàn tỉnh Hà Nam đem xuống giao cho công ty cổ phần chế biến nông sản xuất khẩu Nam Định để chế biến sau đó xuất khẩu sang thị trường Hồng Kông.
- Về gia cầm:
Sản lượng gia cầm của tỉnh ta trong mấy năm qua đều tăng. Năm 1999 so với năm 1996 tăng 29% (năm 1999 số lượng gia cầm là 2311,6 ngàn con). Gia cầm được nuôi tương đối đồng đều trong các huyện. Ngoài lấy thịt việc chăn nuôi gia cầm còn cho chúng ta một lượng trứng đáng kể tăng chất lượng bữa ăn hàng ngày. Việc tiêu thụ gia cầm chủ yếu trong nội địa tại các trung tâm, thị xã, đô thị..
Nhìn chung về chăn nuôi gia xúc, gia cầm có những hạn chế sau:
+ Chưa có tập quán và công nghệ chăn nuôi hiện đại.
+ Chất lượng sản phẩm gia súc gia cầm không cao, không phù hợp với tiêu chuẩn xuất khẩu.
+ Giá thành chăn nuôi cao, người nông dân chỉ lấy công làm lãi.
+ Sản xuất còn đơn lẻ, do các hộ nông dân đảm nhận vì vậy rất khó khăn cho tiêu thụ.
+ Giống, con năng suất thấp, khả năng lựa chọn giống mới yếu.
+ Vốn đầu tư cho chăn nuôi còn ít dẫn đến khả năng đột phá trong chăn nuôi gia súc, gia cầm chậm.
+ Chưa có cơ sở chế biến hiện đại đáp ứng yêu cầu thị trường.
- Về nuôi trồng thuỷ sản:
Sản lượng nuôi trồng thủy sản của tỉnh ta trong vài năm qua đều tăng. Sản lượng năm 1999 đạt 4.120 tấn so với năm 1996 là 39%. Thuỷ sản chủ yếu của ta là cá, tôm nước ngọt. Lý Nhân là huyện có sản lượng thuỷ sản cao nhất (1200 tấn năm 1999) sau đó đến Duy Tiên. Việc tiêu thụ thủy sản chủ yếu là thị trường trong nước. Hiện nay có một số giống cá nhập ngoại như: Rô phi, trê phi đơn tính...đã được nhiều cơ sở sản xuất. Ngoài ra có một lượng nhỏ ba ba, ếch, lươn được nuôi sau đó bán tại Hà Nội một số ít được xuất khẩu sang Trung Quốc theo con đường tiểu ngạch. Nhìn chung ngành thuỷ sản còn rất nhỏ yếu manh mún.
6. Đánh giá tổng quát về tiêu thụ hàng hoá nông sản của tỉnh Hà Nam.
6.1 Những thành tựu trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá nông sản của Hà Nam.
- Hà Nam là một tỉnh có các điều kiện tự nhiên, khí hậu, đất đai và nguồn nước phù hợp cho việc phát triển một nền nông nghiệp đa dạng, sản xuất hàng hoá. Có vị trí địa lý thuận lợi giao thông thuận tiện cho lưu thông hàng hoá trong và ngoài nước.
- Hà Nam có nguồn nhân lực dồi dào. Con người Hà Nam cần cù siêng năng có trình độ và kỹ năng lao động lại rất gắn bó với nghề nông. Hà Nam là một tỉnh nông nghiệp đã phát triển lâu đời có trình dộ thâm canh cao lại được từng bước áp dụng những thành tựu khoa học ký thuật hiện đại tiên tiến vào sản xuất.
- Có sự quan tâm thường xuyên, sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh các cấp, các nghành và của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp Hà Nam thành nghành sản xuất hàng hoá.
- Các hộ nông dân đã thấy được vai trò của khoa học kỹ thuật nên đã tích cực chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi nhằm nâng cao năng suất, sản lượng.
- Dù với số lượng hàng hoá nông sản hạn chế nhưng các thành phần kinh tế đã tích cực tìm kiếm trị trường tiêu thụ đồng thời khai thác tiềm năng thế mạnh của tỉnh để sản xuất đáp ứng yêu cầu của khách hàng trong và ngoài nước.
6.2. Những hạn chế trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá nông sản.
Hiện nay sản xuất của tỉnh Hà Nam là sản xuất nhỏ, trên cơ sở các hộ nông dân, rất nhiều trở lực cho sản xuất hàng hoá quy mô lớn. Các phương thức trồng trọt, chăn nuôi, cơ cấu sản xuất chủ yếu vẫn theo truyền thống cũ, việc áp dụng tiến bộ khoa học công nghiệp còn hạn chế. Năng suất cây trồng vật nuôi vẫn còn thấp, giá thành nông sản cao.
+ Chưa có vùng sản xuất hàng hoá nông sản, nông dân sản xuất theo mô hình kinh tế quy mô nhỏ, sản xuất phân tán, kinh tế trang trại chưa phát triển.
+ Nông dân chưa nhận thức đầy đủ về sản xuất hàng hoá, còn nặng nề tâm lý tiểu nông, chỉ thấy lợi ích trước mắt, chưa nghĩ tới lợi ích lâu dài.
+ Hệ thống tổ chức sản xuất kinh doanh, phương thức hợp tác, con người thực hiện, tiếp thị... chưa có nhiều đổi mới. Chưa có hệ thống thu mua,lưu thông hàng hoá nông sản.
+ Có nhiều loại hàng hoá nông sản song số lượng ít và chất lượng không ổn định. Chưa có hàng hoá nông sản chủ lực của tỉnh. Lượng hàng hoá dư thừa trong dân không đủ lớn lại phân tán, gây khó khăn cho việc tiêu thụ.
+ Cơ sở hạ tầng, công nghệ chế biến bảo quản còn hạn chế, gây nhiều khó khăn trong lưu thông bảo quản hàng hoá nông sản.
+ Hàng hoá nông sản của tỉnh thường được tiêu thụ dưới dạng thô sơ hoặc sơ chế, chất lượng chưa đảm bảo, vì vậy thường có giá trị thấp.
+ Đã có một số doanh nghiệp đưa vốn đầu tư cho nông dân song vì lợi ích trước mắt nông dân đã tự ý bán sản phẩm ra thị trường nếu thấy giá cao hơn giá trong hợp đồng đã ký. Doanh nghiệp bị phá vỡ hợp đồng đã ký với khách hàng ngoại và dẫn đến nhiều tác hại: Bị mất khách hàng, phạt hợp đồng... từ đó dẫn đến việc dân thiếu vốn mà doanh nghiệp không dám đầu tư.
+ Thiếu vốn cho việc mở rộng sản xuất, đặc biệt cho sản xuất nông sản xuất khẩu cũng như đầu tư cho chế biến.
+ Các thành phần kinh tế thực hiện lưu thông, tiêu thụ còn non yếu về nhiều mặt. Công tác thị trường, tiếp thị... chưa thực sự được quan tâm. Đội ngũ cán bộ làm công tác thị trường, tiếp thị còn yếu và thiếu.
Chương III
Các giải pháp nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản của tỉnh Hà Nam đến
năm 2010
I. Định hướng sản xuất hàng hoá nông sản của tỉnh Hà Nam đến năm 2010
1. Những căn cứ để xác định thi trường thị trường hàng hoá nông sản của tỉnh Hà Nam đến năm 2010.
1.1. Những căn cứ để xác định thị trường.
Việc xác định thị trường hàng hoá nông sản của Hà Nam từ nay đến năm 2010 được căn cứ vào một số yếu tố sau đây:
- Căn cứ vào thực trạng sản xuất tiêu thụ nông sản của Hà Nam trong những năm vừa qua, tiềm năng phát triển nông nghiệp Hà Nam.
- Căn cứ vào khả năng phát triển của công nghiệp chế biến ở Đồng bằng sông Hồng.
- Căn cứ vào những dự báo về tình hình thị trường nông sản thế giới và khả năng xuất khẩu của sản phẩm nông nghiệp Việt Nam, những dự báo về thị trường nông sản trong nước giai đoạn từ nay đến năm 2010 đặc biệt thị trường khu vực đồng bằng sông Hồng.
Ngoài những căn cứ cơ bản trên việc xác định thị trường nông sản Hà Nam từ nay đến năm 2010 còn dựa vào một số những thông tin khác như định hướng phát triển nông nghiệp Việt Nam, quy hoạch vùng và các chủ trương chính sách định hướng về kinh tế đối ngoại...
Một số các yếu tố khác ảnh hưởng đến nông nghiệp như thời tiết, sự tác động của các ngành được xem như thay đổi không lớn.
1.2.Một số chỉ tiêu dự báo về tình hình sản xuất nông nghiệp Hà Nam từ nay đến năm 2010.
Theo "Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội Hà Nam thời kỳ 2000 -2010", ngành nông nghiệp phát triển theo một số nội dung sau :
-Cây lương thực chủ yếu là: lúa, ngô, khoai. Phát triển sản xuất lúa theo hướng sản xuất hàng hoá.Dự báo đến năm 2010 sản lượng lương thực đạt 500.000 tấn, trong đó khoảng 100.000 - 150.000 tấn lúa hàng hoá xuất khẩu ra thị trường thế giới. Nhịp độ tăng sản lượng lương thực giai đoạn từ nay đến năm 2010 khoảng 4%/năm. phấn đấu năng suất lúa đạt 12 tấn/ha/năm.
-Đối với cây rau quả như bắp cải, cà rốt, cà chua, nhãn, chuối, hồng....Cần mở rộng sản xuất để đáp ứng nhu cầu tại chỗ và tham gia thị trường xuất khẩu.
Bảng 14: Dự báo sản lượng một số hàng hoá nông sản của Hà Nam.
Sản phẩm
Đơn vị tính
Năm 2000
Năm 2005
Năm 2010
Lúa
Tấn
375.000
390.075
415.000
Ngô
Tấn
27.000
33.600
37.000
Khoai lang
Tấn
30.000
33.620
36.000
Rau
Tấn
75.900
88.350
105.000
Đay
Tấn
2.400
2.400
2.500
Thịt lợn
Tấn
20.000
22.700
28.000
Trứng
1000 Quả
56.000
75.000
95.000
Nguồn: Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nam.
Các sản phẩm nông nghiệp của Hà Nam từ nay đến năm 2010 đơn điệu về chủng loại, khối lượng sản phẩm không lớn. Trong định hướng phát triển kinh tế xã hội Hà Nam thời kỳ 2000 - 2010 đã đưa ra một số những vấn đề về cải tạo giống cây, giống con cho phù hợp nhằm tạo tạo ra nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu và hiệu quả cao cho người sản xuất.
2. Định hướng chung về thị trường của các hàng hoá nông sản Hà Nam đến năm 2010.
2.1. Thị trường trong nước.
Trong giai đoạn 2001 - 2010 thị trường trong nước đặc biệt là thị trường khu vực đồng bằng sông Hồng vẫn là thị trường chủ yếu để tiêu thụ hàng hoá nông sản Hà Nam. Nhu cầu về hàng hoá nông sản ở thị trường khu vực này rất lớn để đáp ứng cho tiêu dùng cư dân và đáp ứng nguồn nguyên liệu cho một số nhà máy chế biến nông sản trong khu vực. Hà Nam có vị trí địa lý thuận lợi trong việc lưu thông hàng hoá, cách thị trường Hà Nội không xa. Đây là điều kiện thuận lợi để giẩm bớt chi phí vận chuyển hàng hoá.
Nhu cầu về hàng hoá nông sản ở thị trường đô thị trong khu vực rất lớn và đa dạng, đặc biệt là thị trường Hà Nội. Diễn biến của thị trường này phức tạp, cùng với Hà Nam còn có các tỉnh lân cận cung cấp nông sản cho trị trường nên khả năng cạnh tranh gay gắt, giá cả luôn có xu hướng giảm đặt biệt là lúc thời vụ. Khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông sản Hà Nam rất khó khăn vì giá thành sản xuất của nông sản Hà Nam thường cao hơn so với giá thành sản xuất các mặt hàng cùng loại của các tỉnh trong khu vực.
Mặt hàng chính để cung cấp cho thị trường này bao gồm: gạo, thịt lợn, thịt gia cầm, trứng, cá, đặc sản (ba ba, dê núi, lươn); mặt hang rau quả tươi, cây cảnh...Yêu cầu về chất lượng rất cao, ngon và sạch phù hợp với thi hiếu của người thành thị. Hà Nam cần tạo ra mặt hàng trái vụ đặt biệt là những mặt hàng đặt sản như hồng, chuối ngự, quýt...để tiêu thụ thì hiệu quả sẽ cao hơn.
Nhu cầu về nông sản làm nguyên liệu cho các nhà máy chế biến thì Hà Nam chưa có cơ sở chế biến lớn nên khối lượng nông sản làm nguyên liệu của Hà Nam hết sức nhỏ so với khả năng sản xuất, phụ thuộc hoàn toàn vào các cơ sở chế biến nên thiếu chủ động trong sản xuất. Các nhà máy chế biến nông sản của các tỉnh lân cận như Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình, Hà Nội vẫn là thị trường của nông sản Hà Nam để tiêu thụ các mặt hàng như: dưa, đay tơ, chuối xanh, thịt lợn, lợn sữa. Dung lượng của thị trường phụ thuộc vào khả năng xuất khẩu của các nhà máy này, xu hướng trong giai đoạn nay sẽ tăng dần, giá cả thị trường thường xuyên biến động không có lợi cho người sản xuất.
Như vậy, trong giai đoạn từ nay cho đến năm 2010, thi trường trong nước đặc biệt là thị trường đô thị vẫn giữ vai trò quan trọng đối với hàng hoá nông sản của Hà Nam.
2.2. Thị trường nước ngoài.
Từ việc nghiên cứu thị trường thế giới và những khả năng xuất khẩu nông sản của Việt Nam cho thấy: Khả năng xuất khẩu các sản phẩm nông sản của Hà Nam đến năm 2010 còn rất hạn chế về khối lượng và chủng loại vì không có những mặt hàng chủ lực có lợi thế cạnh tranh cao. Do đó hàng nông sản chưa thể vươn ra các thị trường "khó tính" như thị trường EU, Mỹ La Tinh mà chỉ có thể tham gia các thị trường trong khu vực ASEAN, các nước Châu á và thị trường các nước Đông Âu với khối lượng nhỏ, sản phẩm chủ yếu là dạng thô để làm nguyên liệu chế biến. Hình thức xuất khẩu chủ yếu bằng con đường tiểu ngạch, xuất uỷ thác, xuất trực tiếp không nhiều mặt hàng chủ yếu là gạo, rau quả và thịt lợn.
Một số thị trường chủ yếu Hà Nam có thể tham gia xuất khẩu :
* Thị trường các nước Châu á:
- Thị trường Trung Quốc: Hà Nam cũng như một số tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Hồng rất gần với thị trường trung Quốc, đây là thị trường tiêu thụ rất lớn hàng hoá nông sản của Việt Nam. Do Việt Nam và Trung Quốc chưa có hiệp định thương mại nên việc buôn bán hay bị rủi ro. Hà Nam chỉ có thể xuất khẩu sang Trung Quốc bằng con đường tiểu ngạch với các sản phẩm chủ yếu sau: long nhãn, nhãn khô, đậu nành, chuối xanh, lợn sữa.
- Thị trường Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông và các nước ASEAN: Hà Nam cá thể tham gia xuất khẩu các sản phẩm như lạc,dưa chuột, chuối xanh,lợn sữa, thịt lợn. Các sản phẩm này xuất sang các nước trên thông qua các cơ sở sơ chế trong nước, chủ yếu là uỷ thác xuất khẩu. Trong giai đoạn này các cơ sở kinh doanh của Hà Nam phải tiếp cận thị trường để ký hợp đồng xuất khẩu trực tiếp thì hiệu quả mới cao, mới có khả năng mở rộng sản xuất cho nông nghiệp.
* Thị trường các nước Đông Âu:
Nhiều nông sản hàng hoá của Hà Nam rất phù hợp với thị trường này đặc biệt là rau quả, thịt lợn, thịt gia cầm, trứng . .song hiện nay do sự bất ổn về tình hình kinh tế chính trị nên chưa thể mở rộng thị trường khu vực này. Để chuẩn bị cho việc tham gia thị trường này Hà Nam cần phải chuẩn bị cho việc quy hoạch vùng sản xuất, đổi mới cơ cấu cây trồng và vật nuôi thích hợp. Ngoài những thị trường trên hàng hoá nông sản Hà Nam từ nay đến năm 2010 có thể có cơ hội tham gia một số thị trường khác nhưng khối lượng xuất khẩu không lớn.
Tóm lại: Việc tiêu thụ hàng hoá nông sản của Hà Nam trên thị trường thế giới từ nay đến năm 2010 còn hết sức khó khăn với nhiếu trở ngại lớn như khối lượng hàng hoá nhỏ chất lượng chưa phù hợp,không có cơ sở chế biến trực tiếp và những điều kiện về thương mại khác. Song về mặt chiến lược thị trường cho nông sản Hà Nam vẫn là hướng về xuất khẩu. Chỉ có xuất khẩu mới có khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ tạo điều kiện để phát triển nông nghiệp Hà Nam.
3. Định hướng thị trường cho một số mặt hàng nông sản chính.
3.1. Mặt hàng gạo:
Hà Nam là một tỉnh thuần nông nên mặt hàng gạo có vị trí quan trọng. Dự báo đến năm 2010, Hà Nam có 500.000 tấn thóc, khối lượng lúa hàng hoá là 100.000-150.000 tấn. Tính ra gạo khoảng 65.000-100.000 tấn.
- Thị trường trong nước: Gạo đặc sản như gạo tám, gạo nếp chủ yếu tiêu thụ ở thị trường Hà Nội. Đây là thị trường có nhu cầu lớn đối với gạo đặc sản nhất là vào các dịp lễ tết. Đối với một số loại gạo bình thường tiêu thụ ở các tỉnh miền núi phía bắc như: Yên Bái, Lai Châu, Cao Bằng...
- Thị trường ngoài nước: Thị trường xuất khẩu gạo chủ yếu cho các nước như: Malaixia, Inđônêsia, Băng la đét, Philipin, Nhật bản và một số nước Trung Đông. Hiện nay nhà nước đã bỏ quản lý hạn ngạch đối với mặt hàng gạo, khuyến khích các doanh nghiệp tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Trên cơ sở năng lực sản xuất và khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường, hàng năm Hà Nam có thể xuất khẩu khoảng 10.000 - 20.000 tấn, đem về cho tỉnh 2.000.000 USD - 4.000.000 USD tiền gạo xuất khẩu. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, tỉnh cần có định hướng trong sản xuất và chế biến gạo theo hướng sau:
+Đối với sản xuất lúa gạo: Trên địa bàn tỉnh Hà Nam tất cả các huyện đều có khả năng trồng lúa xuất khẩu. Điều quan trọng là phải thay đổi được nhận thức trong nhân dân, đổi mới cơ cấu giống, cơ cấu mùa vụ, đổi mới kỹ thuật canh tác đưa khoa học tiên tiến vào sản xuất. Tập trung vào sản xuất những loại lúa gạo nào mà thị trường có yêu cầu. Phải có quy hoạch cụ thể vùng trồng lúa xuất khẩu, vùng trồng lúa đặc sản. Vùng trồng lúa đặc sản nên quy hoạch ở các huyện phía Bắc tỉnh như Duy Tiên.
+ Đối với chế biến: Tỉnh Hà Nam nên đầu tư xây dựng một xí nghiệp xây xát và đánh bóng gạo hiện đại đáp ứng được yêu cầu của thị trường quốc tế. Xí nghiệp này nên đặt tại địa bàn Phủ Lý để thuận tiện cho việc thu mua và vận chuyển thóc gạo. Chế biến cũng là một khâu quan trọng để đảm bảo chất lượng gạo xuất khẩu. Hiện nay công ty lương thực cũng có một dây truyền xay xát trị giá trên một tỷ nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu.
3.2 Mặt hàng ngô, sắn.
- Hà Nam hàng năm có thể sản xuất được khoảng 33.600 tấn ngô và 12.000 tấn sắn củ, khối lượng ngô và sắn không lớn, chủ yếu để phục vụ chăn nuôi. Theo định hướng phát triển nông nghiệp đến năm 2010 cơ cấu nông nghiệp chuyển đổi chăn nuôi thành nghành sản xuất chính (trồng trọt 60%, chăn nuôi 40%) thì nhu cầu về thức ăn gia súc càng đòi hỏi nhiều hơn nữa. Trong những năm tới nếu thị trường thế giới được mở rộng thì sắn tham gia xuất khẩu dưới dạng bột Tapioka, ngô hiện nay Việt Nam chưa tham gia xuất khẩu chỉ dùng để dùng làm thức ăn gia súc.
- Hà Nam trong những năm tới cần đẩy mạnh trồng ngô ở những vùng đất bãi ven sông như Duy Tiên, Lý Nhân và Bình Lục tăng cường gieo trồng ngô vụ đông để nâng cao sản lượng bổ sung cho nguồn thức ăn gia súc trong các hộ nông dân. Cây sắn tập trung dùng ở đồi núi như Kim Bảng, Thanh Liêm khi chưa có những cây khác thích hợp, có hiệu quả kinh tế hơn thay thế.
3.3. Mặt hàng đay.
Hà Nam chưa có nhà máy chế biến đay nên việc tiêu thụ cũng gặp nhiều khó khăn:
+ Thị trường trong nước: Đay chủ yếu được bán cho các nhà máy đay: Thái Bình, Nam Định, chế biến nguyên liệu để sản xuất bao bì, bao manh sản lượng đay mỗi năm khoảng 2000 tấn.
+ Thị trường nước ngoài: Đay chủ yếu xuất khẩu dưới dạng đã qua chế biến như manh đay, bao đay. Các loại bao đay dùng để đóng gói: Gạo, hạt điều, cà phê... do đó xuất được nhiều hay ít bao đay là phụ thuộc vào việc xuất khẩu hàng hoá nói trên. Thị trường tiêu thụ chủ yếu ở: Liên Bang Nga, Canada, Nhật Bản, Indonexia, Trung Quốc, Singapo và một số nước trung đông khác...
- Đối với sản xuất: cây đay thích hợp với đất bãi bồi ven sông Hồng, sông Châu. Do đó nên tập trung thu hoạch trồng nhiều ở vùng bãi bồi ven sông Hồng ở hai huyện Duy Tiên và Lý Nhân. Ngoài ra có thể trồng thêm ở vùng bãi ven sông Châu thuộc huyện Bình Lục. Nên ổn định trồng ở diện tích 800 ha là hợp lý. Nếu trồng nhiều quá rất khó cho tiêu thụ. Cần đầu tư đổi mới giống đay, đưa khoa học kỹ thuật tiên tiến vào trồng đay để đảm bảo năng suất cao, chất lượng tốt. Nếu so sánh với các tỉnh đồng bằng sông Hồng thì chất lượng đay của Hà Nam là kém nhất cần phải có biện pháp để nâng cao chất lượng. Trồng đay hiện nay có hiệu quả cao hơn so với trồng lúa.
- Đối với chế biến: Đay Hà Nam chủ yếu được chế biến dưới dạng sơ chế. Có hai loại đay là đay cạo và đay ngâm, chưa có nhà máy chế biến đay. Xã Hoà Hậu có hai cơ sở dệt bao đay gia công cho nhà máy đay Nam Định. Trước mắt nên tập trung việc nghiên cứu ngâm đay không để ảnh hưởng đến môi trường. Đối với các xã phía nam của tỉnh giáp Nam Định như: Hoà Hậu, Tiến Thắng, Nhân Thịnh... nên hình thành các làng nghề tập trung vào dệt manh đay, thảm đay để góp phần tiêu thụ nguồn đay tại chỗ.
3.4. Mặt hàng lạc.
Do điều kiện đất đai, khí hậu và giống nên lạc của Hà Nam còn rất hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Sản lượng bình quan hàng năm từ 2500 - 2700 tấn lạc vỏ.
+ Thị trường tiêu thụ trong nước: Dùng tiêu thụ trong nội bộ dân cư một số dùng để ép dầu tại xí nghiệp ép dầu Phủ Lý.
+ Thị trường nước ngoài: Lạc của Hà Nam có tham gia xuất khẩu theo con đường tiểu ngạch sang Trung Quốc. Xuất khẩu chính ngạch sang các nước khác thì lạc của Hà Nam còn rất hạn chế bởi chất lượng không đáp ứng được nhu cầu, khối lượng ít. Do năng suất thấp giá thành cao chất lượng kém nên lạc của Hà Nam khó có thể cạnh tranh được với lạc của các tỉnh : Bắc Giang, Vĩnh Phúc và Nghệ An.
- Đối với sản xuất: Do điều kiện đất đai thổ nhưỡng của Hà Nam phù hợp với cây lạc là rất ít, tập trung ở vùng đồi núi Kim Bảng, Thanh Liêm và Duy Tiên. Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 cần mở rộng diện tích có thể, đồng thời thay đổi giống lạc phù hợp với thị trường, có năng suất cao chất lượng tốt và hạ giá thành thì lạc của Hà Nam mới có thể tham gia xuất khẩu trực tiếp.
- Đối với chế biến: Cần đầu tư đổi mới công nghệ ép dầu tại xí nghiệp ép dầu Phủ Lý để chế biến lạc phục vụ đời sống của nhân dân, tiêu thụ nguồn nguyên liệu tại chỗ.
3.5. Mặt hàng đậu tương.
Cây đậu tương được trồng phổ biến vào vụ đông và trồng xen canh. Hàng năm Hà Nam có thể sản xuất khoảng từ 3200 - 3500 tấn.
+ Thị trường trong nước: Đậu tương dùng để chế biến thực phẩm phục vụ cho đời sống hàng ngày như: Đậu phụ, bột đậu nành, dầu đậu nành, sữa đậu nành và một phần chế biến thức ăn gia súc.
+ Thị trường nước ngoài: Đậu tương được xuất khẩu dưới dạng bột và hạt. Chủ yếu xuất sang thị trường Trung Quốc theo con đường tiểu ngạch, có nhu cầu rất lớn nhưng giá bán thấp.
Giai đoạn từ nay đến năm 2010, nhìn chung mặt hàng đậu tương đậu xanh có khả năng tiêu thụ lớn kể cả tiêu dùng trong nước và tham gia xuất khẩu đều có khả năng tăng nhanh. Do xu hướng tiêu dùng nói chung ít sử dụng mỡ động vật mà chủ yếu dùng dầu thực vật, trong đó dầu đỗ tương có một vị trí rất lớn. Tại Việt Nam hàng năm vẫn phải nhập từ 100.000 - 150.000 tấn dầu ăn. Triển vọng công nghiệp chế biến dầu ăn phát triển mạnh nhu cầu về đậu tương làm nguyên liệu là rất lớn và có tính hiện thực cao.
- Đối với sản xuất: Hà Nam trong những năm tới cần đẩy mạnh diện tích trồng đậu tương trên tất cả các huyện, đặc biệt xen canh vụ đông. Nông nghiệp Hà Nam cần thay đổi giống đậu tương phù hợp cho năng suất cao giá trị thương phẩm tốt để hạ giá thành cho phù hợp. Trồng đậu tương không những chỉ cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thực phẩm mà nó còn là một biện pháp cải tạo đất rất tốt.
- Đối với chế biến: Trong giai doạn từ nay đến năm 2005 Hà Nam cần củng cố đổi mới dây chuyền công nghệ hiện đại phù hợp ở các cơ sở chế biến các sản phẩm từ đậu tương như bột đậu, sữa đậu nành, đậu phụ và dầu đậu tương phục vụ cho nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân.
3.6. Mặt hàng hướng dương.
Bên cạnh cây lạc và cây đậu tương, cây hướng dương cũng là loại cây cung cấp dầu có hiệu quả. Đây là loại cây mới đối với nông nghiệp Việt Nam. Trong bài phát biểu tại hội nghị về nông nghiệp khu vực đồng bằng sông Hồng, đồng chí phó thủ tướng Nguyễn Công Tạn đã đề ra. Trong đề tài này, xin giới thiệu để ngành nông nghiệp Hà Nam nghiên cứu:
- Trong các loại cây lấy dầu thì hướng dương là cây có rất nhiều triển vọng phát triển ở đồng bằng sông Hồng.Đây là cây cho hạt chứa nhiều dầu. Hướng dương ưa khí hậu mát có thể trồng được ở vụ thu và đông ở các tỉnh miền Bắc, nên phát triển để khai thác tiềm năng về đất đai, đầu tư ít, nhanh ăn và hiệu quả cao, chi phí đầu vào 1, đầu ra đạt thấp nhất cũng là 3 - 4 lần, mức cao là 7 lần, cứ 1ha hướng dương 1 vụ (115 - 120 ngày) thu được 17 - 23 triệu đồng tiền dầu và khô dầu hướng dương. Với giá này thì mua hạt hướng dương của dân khoảng 5000đồng/kg như vậy 1ha với năng suất bình quân 2400kg dân thu được 12 - 15 triệu đồng có thể thay thế được một số cây vụ đông và vụ xuân.
- Theo nghị quyết 09 của chính phủ đã định hướng rõ phải phát triển mạnh cây lấy dầu để cung cấp dầu ăn cho nhân dân với mức khoảng 4 - 5kg/người/năm thì sản lượng dầu phải đạt 400 - 500 ngàn tấn/năm. Để giải quyết vấn đề giảm bớt kim ngạch nhập khẩu dầu ăn hiện nay chắc chắn Chính phủ có định hướng phát triển công nghiệp chế biến dầu ăn trong nước đồng thời phải mở rộng vùng nguyên liệu các cây lấy dầu, trong đó có cây hướng dương. Hà Nam cũng như các tỉnh đồng bằng Bắc bộ đều có cơ hội lớn để phát triển loại cây này.
3.7. Mặt hàng rau xanh.
Theo dự báo đến năm 2010 Hà Nam có thể sản xuất khoảng 100.000 đến 110.000 tấn rau các loại, nhu cầu tiêu dùng sinh hoạt nội tỉnh khoảng 75.000 - 80.000 tấn và còn một phần để phục vụ cho chăn nuôi thì lượng rau hàng hoá cần tiêu thụ cũng không nhiều. Nhưng khả năng sản xuất vẫn còn tiềm tàng rất lớn.
- Thị trường tiêu thụ:
+ Thị trường trong nước: Rau của Hà Nam chủ yếu để phục vụ nhu cầu đời sống của nông dân và cung cấp cho các đô thị trong khu vực. Hà Nam có một vị trí địa lý thuận lợi, phía nam gần thị trường thành phố Nam Định, phía Bắc có thị trường Phủ Lý, đặc biệt rất gần thị trường Hà Nội có dung lượng tiêu thụ rất lớn. Rau xanh tiêu thụ trên thị trường nội địa ngày càng có xu hướng giảm giá, chất lượng lại đòi hỏi cao, trong thời vụ thu hoạch giá bán rất thấp không đủ bù đắp chi phí sản xuất do cung vượt quá cầu.
+ Thị trường ngoài nước: Trước đây rau xanh của Hà Nam đã tham gia xuất khẩu ra thị trường các nước Đông Âu khá lớn, chủ yếu là khoai tây dưa chuột, cà chua, tỏi, ớt ở dạng sơ chế. Trong những năm tới khi Nhà nước giải quyết được thi trường Nga và Đông Âu, công nghiệp chế biến rau phát triển thì khả năng xuất khẩu rau với khối lượng lớn sẽ có nhiều triển vọng. Hà Nam có thể tham gia xuất khẩu với nhiều loại rau nhưng tập trung nhất vẫn là khoai tây, tỏi và dưa chuột...
- Đối với sản xuất: Do điều kiện thuận lợi về địa lý cách các thị trường đô thị không xa Hà Nam có thể phát triển trồng nhiều loại rau để cung cấp cho thị trường. Các xã vùng nam huyện Lý Nhân phát triển và mở rộng diện tích trồng rau cung cấp cho thị trường Nam Định. Khu vực Phủ Lý, Kim Bảng, Duy Tiên trồng rau cung cấp cho thị trường Phủ Lý và Hà Nội. Hà Nam cần nghiên cứu thay đổi phương pháp gieo trồng, giống phù hợp, tăng cường trồng các loại trái vụ, nhân rộng diện tích trồng rau sạch và quy hoạch vùng rau cụ thể.
- Đối với chế biến bảo quản: Do đặc thù của các loại sản phẩm này từ khi thu hoạch cho tới khi tiêu dùng rất ngắn, khó bảo quản nên cần phải có các kho lạnh hoặc sấy khô. Hà Nam có thể xây dựng một nhà máy chế biến rau, củ, quả tại thị xã Phủ Lý để chủ động trong việc tiêu thụ.
Nhu cầu tiêu dùng rau xanh ở trong nước và xuất khẩu trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 đòi hỏi được cung cấp các loaị rau sạch, rau chất lượng cao. Dưới đây đề tài sẽ giới thiệu một số loại rau mới mà nông nghiệp Hà Nam có thể nghiên cứu ứng dụng.
* Nấm:
Nấm là một loại "rau sạch" có thể sản xuất ở nhiều địa bàn với nhiều mùa vụ và quy mô khác nhau. Nguyên liệu đầu vào rẻ tiền dễ kiếm, đó là rơm rạ, mùn cưa. Kỹ thuật sản xuất không phức tạp, thời gian sinh trưởng ngắn. Nấm có thể được sử dụng dưới nhiều dạng: Nấm tưới, nấm khô và nấm sấy, nấm muối. Trồng nấm không đòi hỏi vốn đầu tư nhiều lại thu hồi vốn nhanh, các phế phẩm sau thu hoạch có thể làm phân bón rất tốt.
Thị trường tiêu thụ nấm: Trên thế giới nấm được sản xuất từ những năm 1950, hàng năm sản lượng đạt khoảng 15 triệu tấn, với tốc độ tăng khoảng 10%/năm. Trong đó 5 triệu tấn tham gia thương mại quốc tế chủ yếu ở các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Đức. Đặc biệt là Trung Quốc (sản lượng hàng năm chiếm khoảng 50% số lượng nấm thế giới).
Thị trường nấm chủ yếu trong nước hiện nay mới là các đô thị lớn. Năm 1998, Hà Nội tiêu thụ khoảng 300 tấn, thành phố Hồ Chí Minh tiêu thụ hàng năm khoảng trên 1000 tấn, một số địa bàn khác đã bắt đầu quen dần và lượng tiêu thụ đã tăng. Tại Việt Nam hiện nay sản lượng nấm gần đạt 30.000 tấn/năm, năng lực sản xuất nấm có thể đạt 500.000 tấn/năm.
+ ở Hà Nam có rất nhiều nguồn nguyên liệu, rơm rạ, mùn cưa và lượng lao động nông nhàn. Đây là những điều kiện để phát triển nghề nấm.
Hiện nay công ty xuất nhập khẩu - Du lịch và đầu tư xây dựng Hà Nam, Sở nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tổ chức sản xuất giống nấm các loại và chuyển giao công nghệ cho bà con nông dân trong toàn tỉnh sản xuất nấm. Nấm có nhiều loại: nấm rơm, mộc nhĩ, nấm sò, nấm mỡ, nấm hương, nấm limh chi tuỳ theo từng điều kiện cụ thể về thời tiết và thị trường để chọn loại giống cho thích hợp.
+ Hiệu quả trồng nấm: Ví dụ 1 tấn nguyên liệu đưa vào sản xuất sau 4 tháng cho 100-120 kg nấm với giá 8000 đồng/kg thu được 800.000 - 900.000 nghìn đồng trừ giống, vốn thu lại được 400.000 - 500.000 nghìn đồng trên diện tích hẹp khoảng 25m2lán. Đây là một nghề dễ sản xuất và góp phần xoá đói giảm nghèo cho nhân dân.
Dự kiến từ nay đến năm 2010 thị trường nấm của Việt Nam phát triển mạnh đặt biệt là xuất khẩu và tiêu thụ thị trường đô thị. Hà Nam có thuận lợi gần thị trường Hà Nội nên cần đẩy mạnh nghề trồng nấm sẽ đem lại hiệu quả cao cho nông dân.
* Rau bắp: Là loại rau sạch có hàm lượng dinh dưỡng cao, dễ trồng thích nghi với điều kiện đất bãi ven sông và những chân ruộng vàn. Tuy nhiên hiện nay cây này chưa phát triển nhiều ở Việt Nam, đang trong thử nghiệm ở Thái Bình, An Giang, năng suất đạt 10 - 12 tấn bắp/ha (tương đương với 2 tấn sản phẩm) trong thời vụ khoảng 50 ngày với giá bán khoảng 1500 đồng/kg bắp thì nông dân thu được khoảng 15 triệu/ha/vụ (50 ngày). Một năm có thể trồng được nhiều vụ, thân ngô, vỏ bắp ngô có thể làm thức ăn gia súc rất tốt, sau khi chế biến mỗi tấn sản phẩm xuất khẩu được từ 500 - 1000 USD.
Tuy nhiên đây là đang thử nghiệm ở Thái Bình, song trong những năm tới Hà Nam có thể tiếp cận để có thể trồng ở những vùng đất phù hợp, đáp ứng cho thị trường Hà Nội là rất thuận lợi và có hiệu quả hơn một số cây màu khác, thâm canh tăng vụ được nhiều xu hướng thị trường đang đòi hỏi kể cả thị trường trong nước và xuất khẩu.
3.8. Mặt hàng rau quả.
*Hoa tươi, cây cảnh: Nhu cầu tiêu dùng hoa tươi, cây cảnh trong dân cư ngày càng phát triển nó trở thành nhu cầu thường xuyên đặc biệt trong các ngày lễ hội. Khi xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu càng tăng, đặc biệt thị trườn đô thị.
- Thị trường tiêu thụ: Hà Nam hiện nay tuy đã trông được nhiều hoa và cây cảnh ở vung ngoại ô thị xã nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng, mà vẫn đang tiêu thụ hoa của Hà Nội, cây cảnh của Nam Định.
- Sản xuất: Trong những năm tới Hà Nam có thể quy hoạch vùng đất ven đô của các huyện lân cận Phủ Lý để đẩy mạnh trồng hoa hàng hoá và cây cảnh để phục vụ nhân dân ddặc biệt là thị xã Phủ Lý và hướng tới thị trường các tỉnh bạn. Cần đổi mới phương pháp gieo trồng, chọn những giống hoa phù hợp với thị hiếu. Đây cũng là mặt hàng có nhu cầu sử dụng ngày càng tăng và đem lại hiệu quả cao.
* Các loại quả: Hà Nam là một tỉnh có nhiều loại quả vùng nhiệt đới nhưng sản lượng hàng năm không lớn có thể nghiên cứu xác định thị trường cho một số loại quả chính của Hà Nam như sau:
Nhãn quả, long nhãn và nhãn quả khô:
Hà Nam là một trong những tỉnh ở đồng bằng bắc bộ có sản lượng nhãn cao, có nhiều kinh nghiệm chế biến, tiêu thụ long nhãn và nhãn quả khô.
- Thị trường tiêu thụ:
Nhãn quả tiêu thụ ngay khi thu hoạch thị trường chính trong nước tập trung ở các đô thị Hà Nội, Phủ Lý, Nam Định... Giá cả lên xuống từng năm phụ thuộc thời tiết và khả năng xuất khẩu long nhãn.
Sản phẩm long nhãn tiêu dùng trong nước số lượng không đáng kể (làm vị thuốc nam), chủ yếu là để xuất khẩu. Thị trường long nhãn và nhãn quả khô của Việt Nam nói chung và Hà Nam nói riêng vẫn là thị trường Trung Quốc, xuất khẩu theo hình thức tiểu ngạch. Các nhà kinh doanh long nhãn của Hà Nam không những chỉ tiêu thụ cho địa phương mà đã mở rộng thị trường thu mua trong cả nước, có kinh nghiệm trong chế biến và buôn bán long nhãn ở thị trường Trung Quốc. Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, sản lượng long nhãn của Hà Nam có xu hướng tăng nhanh. Thị trường chính vẫn là Trung Quốc, chưa được mở rộng sang các thị trường khác, nên buôn bán long nhãn với Trung Quốc thường hay gặp rủi ro, thường hay bị ép giá, ép cấp, không ổn định, những năm tới thị trường long nhãn và nhãn quả khô có nhiều diễn biến phức tạp bởi sự cạnh tranh gay gắt của các sản phẩm nhãn của Thái Lan và Trung Quốc.
- Sản xuất: Cần phải chủ động thay đổi giống nhãn có chất lượng cao, ngon và đặc biệt chú ý việc khắc phục các yếu tố về sâu bệnh và chăm sóc để nâng cao giá trị thương phẩm của nhãn.
- Chế biến: Cần phải cải tiến công nghệ chế biến nhãn theo phương pháp hiện đại để nâng cao chất lượng. Nghiên cứu chế biến ra nhiều các sản phẩm từ nhãn phục vụ cho nhu cầu ngày càng đa dạng cho nhân dân.
*Chuối xanh:
- Thị trường tiêu thụ : mặt hàng này chủ yếu xuất khẩu cho Trung Quốc với số lượng lớn theo con đường tiểu ngạch, nhưng giá cả thấp nên phát triển mặt hàng này còn hạn chế. Từ nay đến năm 2010, theo dự báo của Bộ Thương Mại thị trường được cải thiện mở rộng sang các nước Đông Âu với những sản phẩm đa dạng, khối lượng lớn như chuối xanh, chuối sấy khô. Hà Nam là một trong những tỉnh có nhiều khả năng tham gia xuất khẩu.
-Đối với sản xuất: Hà Nam cần phải có quy hoạch vùng để thuận lợi cho việc gieo trồng theo mô hình trang trại để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu gom. Cải tạo giống bằng việc nuôi cấy mô để có sản phẩm hàng hoá lớn có chất lượng cao để xuất khẩu.
- Đối với chế biến: Cũng như các sản phẩm rau quả khác,chuối xanh rất khó bảo quản sau khi thu hoạch. Muốn chủ động trong khâu tiêu thụ cần phải được chế biến bảo quản. Hà Nam cần xây dựng một nhà máy chế biến rau quả để chủ động trong khâu tiêu thụ.
* Dưa chuột xuất khẩu:
-Thị trường tiêu thụ: Dưa chuột tiêu dùng trong nước một số lượng rất ít, giá cả hạ nên không có hiệu quả cao cho người sản xuất.
Dưa chuột xuất khẩu chủ yếu sang thị trường các nước Nhật Bản, Hồng Kông và một số nước ở Đông Âu dưới dạng dưa chuột muối, dưa chuột dầm dấm. Hà Nam chưa có cơ sở chế biến nên việc xuất khẩu dưa phải thông qua các đơn vị kinh doanh ở Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Hải Dương, sản lượng xuất khẩu hàng năm khoảng từ 2000 - 3000 tấn dưa nguyên liệu. Hiện tại Hà Nam chưa có điều kiện xây dựng cơ sở chế biến nên vẫn phải bán dưa nguyên liệu cho các đơn vị bạn.
- Đối với sản xuất: Hà Nam có điều kiện thuận lợi để reo trồng các giống dưa xuất khẩu. Người nông dân không chủ động được về giống bởi các nhà kinh doanh chỉ mua những loại dưa do họ cung cấp giống. Trồng dưa chuột đem lại hiệu quả hơn so với một số cây vụ đông khác, thuận lợi cho việc thâm canh tăng vụ nhưng không tự mở rộng diện tích gieo trồng được mà phải phụ thuộc vào khả năng thương mại của các cơ sở chế biến.
Trong những năm tới một mặt các cơ sở trồng dưa phải thực hiện tốt hợp đồng đã ký với cơ sở chế biến, đảm bảo chất lượng sản phẩm và thời gian giao hàng. Trên cơ sở đó để tăng sản lượng và diện tích gieo trồng. Mặt khác về thương mại cần phải tiếp cận thị trường nước ngoài để ký kết hợp đồng như phải đầu tư xây dựng hệ thống các bể muối mới có thể chủ động trong việc mở rộng sản xuất và tiêu thụ mặt hàng này.
* Cây dứa: Hà Nam diện tích đất trồng dưa không nhiều cho nên sản lượng hàng năm không đáng kể chỉ tiêu dùng trong thị trường nội địa. Trong những năm tới nhà máy chế biến hoa quả Ninh Bình đi vào sản xuất, Hà Nam là vệ tinh để cung cấp nguyên liệu cho nhà máy, mở ra hướng sản xuất lớn, có thể mở rộng sản xuất ở vùng đồi Kim Bảng, Thanh Liêm thay cho cây chè và sắn.
3.9. Các sản phẩm chăn nuôi.
* Mặt hàng thịt lợn: Dự báo đến năm 2010 Hà Nam có khoảng 28.000-30.000 tấn lợn hơi xuất chuồng. Mức tiêu dùng nội tỉnh khoảng 60-70%, Hà Nam có điều kiện tăng khối lượng thịt hàng hoá khi có thị trường tiêu thụ. Đây là mặt hàng có thế mạnh của Hà Nam. Muốn thay đổi cơ cấu trong nông nghiệp đưa chăn nuôi thành ngành sản xuât chính ( trồng trọt 60%, chăn nuôi 40%) thì vấn đề thị trườngcủa các sản phẩm chăn nuôi có ý nghĩa hết sức quan trọng. Hà Nam cần phải đầu tư xây dựng lại nhà máy đông lạnh Đồng Văn để chủ động trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu và chủ động trong khâu tiêu thụ.`
* Mặt hàng thịt gia cầm: Nhu cầu về thịt gia cầm trên thị trường trong nước và thị trường thế giới đều có xu hướng tăng cao. Dự báo đến năm 2010, Hà Nam có thể sản xuất được từ 7-8 triệu con gia cầm và 70-75 triệu quả trứng, Hà Nam cần đẩy mạnh chăn nuôi gia cầm theo hướng sản xuất hàng hoá tập trung theo mô hình trang trại. Muốn mở rộng thị trường xuất khẩu cần phải phát triển công nghiệp chế biến.
* Một số thịt gia súc khác: Hà Nam có khả năng chăn nuôi bò thịt, dê thịt. Do điều kiện địa lý gần thị trường Hà Nội trên tuyến giao thông Bắc, Nam nên tiêu thụ thịt bò, thịt dê tương đối thuận lợi. Đặc biệt thịt dê là loại thực phẩm đặc sản nhu cầu ngày càng đòi hỏi nhiều hơn. Trọng điểm phát triển đàn dê và trâu, bò là vùng đồi núi của 2 huyện Kim Bảng và Thanh Liêm. Hiện nay đàn dê đã tăng trưởng khá đủ phục vụ cho nhu cầu trong tỉnh và khách du lịch, ngoài ra còn cung cấp cho các nhà hàng, khách sạn ở Hà Nam và các tỉnh lân cận không có điều kiện chăn nuôi dê.
* Mặt hàng cá, tôm : Nhu cầu về cá, tôm ngày càng tăng nhanh ngay cả trong thị trường nông thôn. Khu vực trọng điểm Bắc Bộ năm 2010 có nhu cầu tiêu thụ khoảng 190.000 -200.000 tấn cá. Hà Nam có khả năng đẩy mạnh nuôi cá nước ngọt, lại có thị trường tương đối thuận lợi, cần tập trung cải tạo giống cá nước ngọt, lại có thị trường tương đối thuận lợi, cần tập trung cải tạo giống cá có hiệu quả cao. Cần phát triển nuôi một số thuỷ sản quý hiếm như lươn, ba ba, ếch để cung cấp cho thị trường Hà nội và có thể tham gia xuất khẩu sang Trung Quốc.
Nhìn chung thị trường các sản phẩm ngành chăn nuôi của Hà Nam đến năm 2010 còn có rất nhiều khó khăn, chủ yếu là thị trường trong nước, thị trường xuất khẩu sẽ được cải thiện khi các sản phảm chăn nuôi của Hà Nam đáp ứng được nhu cầu thị trườngvà giá thành giảm. Đặc biệt phải đẩy nhanh công nghiệp chế biến thực phẩm coi trọng chế biến thịt gia cầm.
Tóm lại: Triển vọng về thị trường hàng hoá nông sản trên địa bàn tỉnh Hà Nam đến năm 2010 rất lớn với khả năng hiện thực cao trên thị trường tiêu thụ và mặt hàng chủ yếu tham gia thị trường .Đây là một vấn đề lớn phụ thuộc vào việc hoạch định các chính sách phát triển nông nghiệp của tỉnh, khả năng nâng cao sản lượng và chất lượng các mặt hàng nông sản, đồng thời còn phụ thuộc vào sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến, khả năng tiếp cận thị trường của các nhà sản xuất kinh doanh.
II. Các giải pháp để nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản của tỉnh Hà Nam.
1. Các giải pháp trong ngắn hạn.
1.1.Đối với mặt hàng lương thực, thực phẩm.
Hiện tại tổng sản lượng quy thóc toàn tỉnh bình quân đạt 424.000 tấn, phục vụ tiêu dùng dự kiến bình quân đạt 345.000 tấn - 350.000 tấn, còn dư khoảng 75.000 - 80.000 tấn. Dự kiến đến năm 2010 tổng sản lượng quy thóc đạt 500.000 tấn, dư thừa khoảng 100 đến 150.000 tấn. Nhưng với tốc độ phát triển chăn nuôi từ 7% - 10%/năm thì tổng lương thực dư thừa cũng chỉ đáp ứng cho chăn nuôi, nếu không có biện pháp đưa các loại nguyên liệu khác thay thế lương thực làm thức ăn chăn nuôi. Hơn nữa lượng lương thực dư thừa này chủ yếu phân tán trong dân, mỗi gia đình một ít, phục vụ cho chăn nuôi ngay trong mỗi gia đình để phát triển đàn gia súc gia cầm.
Như vậy trong những năm tới Hà Nam sẽ chuyển đổi sang sản xuất giống lúa gạo đặc sản làm hàng hoá, khả năng nguồn lương thực thực phẩm để phục vụ chăn nuôi sẽ thiếu, phải điều tiết từ nơi khác về hoặc phải tìm nguồn khác. Vì vậy khả năng lương thực và một số rau màu khác có thể tự cân đối được, vấn đề thị trường đối với lương thực trước mắt không phải là khó khăn.
1.2. Đối với mặt hàng chuối xanh.
Thị trường tiêu thụ chính là Trung Quốc, bằng con đường tiểu ngạch. Trên thị trường Hà Nam việc thu mua vận chuyển lên biên giới chủ yếu do tư thương thực hiện, chưa có một doanh nghiệp nào đứng ra kinh doanh với số lượng lớn vì còn vướng mắc về cơ chế xuất nhập khẩu giữa ta với Trung Quốc chưa được khai thông nên tỷ lệ rủi ro cao. Hơn nữa chuối xanh được trồng rải rác trong dân, thu hoạch quanh năm. Muốn có số lượng lớn phải tổ chức mua gom, nên chất lượng không đồng đều, khó bảo quản...Trên thị trường thế giới, chuối của Việt Nam nói chung chưa thể cạnh tranh với chuối của Philipin, Malaysia, Colombia... do chưa được quy hoạch trồng trên diện rộng kiểu trang trại, đồn điền như của họ.
1.3. Đối với mặt hàng dưa chuột:
Cây dưa chuột được đưa vào từ những năm cuối 1980 đầu1990 trở lại đây, nhìn chung trồng dưa có hiệu quả, sản lượng dưa chuột của Hà Nam khá lớn tập trung ở vùng Lý Nhân và Duy Tiên chủ yếu vào vụ Đông. Ngoài tiêu dùng làm rau xanh trong nhân dân và bán tại các đô thị ... thị trường tiêu thụ chính đối với dưa chuột là một số nhàn máy đồ hộp hoa quả xuất khẩu tại Nam Định, Ninh Bình, Hưng Yên và Hà Nội ... Do các nhà máy này chưa có thị trường xuất khẩu ổn định nên ảnh hưởng trực tiếp tới việc thu mua chế biến cũng như người chồng dưa . Đối với các hợp tác xã có diên tích trồng dưa nhiều, sản lượng thu hoạch lớn, cần phải xây đựng các bể muối dưa tại chỗ vvới số vốn đầu tư khoảng từ 500 triệu đến 1tỷ đồng. Dưa muối thành phảm có thể chủ động bán cho các nhà máy hoặc xuất khẩu trực tiếp. Về kỹ thuật sơ chế, muối dưa... cần liên hệ với các nhà máy hoặc Tổng Công Ty Rau Quả Việt nam để được giới thiệu, hướng dẫn cụ thể, nếu không người trồng dưa phải bán cho các nhà máy và thị trường tự do .
1.4 Đối với mặt hàng gia súc, gia cầm.
Tại Hà nam có một nhà máy chế biến thực phẩm tại Đồng Văn nhưng không tham gia chế biến thịt lợi và lợn sữa. Thị trường đối với mặt hàng này tiêu dùng tại chỗ, cung cấp cho các khu công nghiệp, các đô thị, thành phố, các vùng lân cận. Hà Nam hàng năm cung cấp một lượng lớn không nhỏ cho các nhà máy trên. Giải pháp trước mắt cho thị trường thịt lợn và lợn sữa đối với Hà nam sẽ là tiếp tục cung ứng nguyên liêụ cho các nhà máy này bằng cách bán thẳng cho nhà máy hoặc các đại lý thu mua của họ đặt tại địa phương. Tỉnh cần xem xét tiếp nhận, đầu tư nâng cấp cơ sở chế biến thực phẩm tại Đồng Văn hoặc đầu tư xây dựng nhà máy chế biến thịt lợn mới để chế biến thịt lợn và các loại gia súc gia cầm khác, sẽ là cơ sở quan trọng để đưa chăn nuôi của Hà Nam trở thành ngành sản xuất chính.
Do nhui cầu đời sống tăng cao, mặt hàng gia cầm và thuỷ sản (cá nước ngọt) chưa đáp ứng tiêu dùng nội địa và khu vực, đặc biệt lsf thị trường Hà Nội. Mặc dù hiện nay thị trường xuất khẩu đối với mặt hàng này còn nhiều hạn chế, nhưng tiếp tục phát triển chăn nuôi gia cầm, thuỷ sản vẫn sẽ là giải pháp tốt vừa tham gia chuyển đổi cơ cấu vật nuôi vừa giải quyết lượng lương thực dư thừa như đã nêu ở trên.
Tóm lại: Đối với một số hàng khó cân đối tiêu thụ tại chỗ, trước mắt tạm phải chấp nhận cơ chế thị trường hiện nay với các giải pháp tiêu thụ tại chỗ: Hà Nam là nơi cung cấp thực phẩm cho các đô thị và nguyên liệu cho các nhà máy chế biến thực phẩm của các tỉnh lân cận.
Để góp phần đẩy mạnh tiêu thụ hàng nông sản trong tỉnh, Sở thương mại Du lịch Hà Nam đã quan tâm, chỉ đạo các doanh nghiệp trong nghành tích cực tìm kiếm thị trường, nhất là thị trường xuất khẩu. Công ty Xuất Nhập khẩu - Du lịch và đầu tư xây dựng Hà Nam, là doanh nghiệp nhà nước có đủ các điều kiện về tổ chức bộ máy, cơ sở vật chất và nghiệp vụ kinh doanh XNK... đảm đương nhiệm vụ này. Công ty có các chi nhánh tại một số địa phương, đặc biệt là chi nhánh tại Lạng Sơn, Lào Cai và một số thành phố lớn. Công ty cần tập trung tìm kiếm khách hàng hoặc đại lý tiêu thụ hàng hoá tại các địa phương này, đặc biệt Lạng Sơn, Lào Cai tiến hành xuất khẩu sang Trung Quốc dưới hình thức xuất khẩu tiểu ngạch hoặc chính ngạch. Nếu cần xuất uỷ thác qua các doanh nghiệp của Lạng Sơn, Lào Cai...
Trong tỉnh, Công ty có thể tổ chức các trạm thu mua gom hàng tại một số vùng nông sản trọng điểm trong tỉnh hoặc thông qua các công ty thương mại các huyện, thị xã, tổ chức các chân hàng, sử dụng cơ sở vật chất hiện có để mua hàng, đóng gói xuất khẩu. Ngoài ra công ty cũng cần nghiên cứu xây dựng các đề án chế biến hàng nông sản, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất bằng nguồn vốn của công ty hoặc vốn vay ưu đãi... Đề nghị UBND tỉnh, các cấp các ngành tạo điều kiện cho Công ty và Sở Thương Mại Du Lịch thực hiện nhiệm vụ.
2. Những giải pháp có tính chiến lược để nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản của tỉnh Hà Nam.
2.1. Giải pháp về cơ chế chính sách.
Chính sách về thương mại, về thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh ngày càng được hoàn thiện đầy đủ và đồng bộ, nhìn chung tương đối thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh hàng hoá nói chung và hàng nông sản nói riêng.Để các chính sách trên đi vào thực hiện được tốt, cần thực hiện một số quan điểm nhận thức sau:
-Nhà nước Trung ương tạo dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý ở trong nước cũng như quan hệ quốc tế thuận lợi cho hoạt đoọng thương mại, điều tiết vĩ mô, chỉ đạo nghiệp vụ, quản lý hoạt động kinh doanh theo đúng pháp luật, hỗ trợ các địa phương và doanh nghiệp tìm kiếm thị trường.
- Địa phương tập trung cụ thể hoá các chính sách nhà nước ở địa phương, hướng dẫn quản lý các doanh nghiệp, nắm bắt thông tin về thị trường, hướng dẫn các doanh nghiệp và người sản xuất tổ chức sản xuất kinh doanh tiêu thụ sản phẩm. Thực hiện việc xúc tiến thương mại và quản lý các kênh thông tin trên địa bàn. Tăng cường công tác quản lý thị trường, hướng hoạt động thương mại của mọi thành phần kinh tế, mọi doanh nghiệp và cá nhân theo pháp luật, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về thương mại bảo đảm trật tự kỷ cương trên thị trường trong phạm vi địa phương Xây dựng các chế độ, quy chế khuyến khích sản xuất, xuất khẩu hàng hoá của địa phương do địa phương sản xuất.
-Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế căn cứ chức năng nhiệm vụ, ngành nghề đăng ký kinh doanh và theo quy định của pháp luật, chủ động sản xuất, kinh doanh theo khả năng và nhu cầu của thị trường, chủ động tìm kiếm đối tác, khách hàng. Trong cơ chế thị trường việc sản xuất kinh doanh mặt hàng gì hoàn toàn do thị trường quyết định, đòi hỏi doanh nghiệp phải theo dõi nắm bắt kịp thời.
-Kế hoạch sản xuất phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường trong nước và ngoài nước. Chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá, phải gắn sản xuất hàng hoá với thị trường và kinh doanh thương mại.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay là việc tuyên truyền, phổ biến các văn bản, chính sách pháp luật về việc thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh và kinh doanh thương mại đến người dân, đến doanh nghiệp còn nhiều hạn chế.
Để khuyến khích xuất khẩu, Bộ Thương mại đã có chính sách thưởng xuất khẩu tại Quyết định số 1555/1999/QĐ-BTM ngày 30/12/1999, theo đó hàng năm ngoài bằng khen của Bộ Thương mại cấp và đề nghị Thủ tướng chính phủ khen, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo pháp luật có thành tích xuất sắc, có hiệu quả cao, đủ các tiêu chuẩn theo quy định được xét thưởng bằng tiền với mức tiền thưởng từ 40.000.000 VNĐ đến 300.000.000VNĐ. Quỹ khen thưởng xuất khẩu lấy từ quỹ hỗ trợ xuất khẩu theo Quyết định số 195/1999/QĐ-TTg ngày 27/9/1999 của Thủ tướng Chính Phủ.
Tỉnh Hà Nam cũng cần đề ra chính sách thưởng của tỉnh mà trong đó yêu cầu các tiêu chuẩn thấp hơn Bộ thương mại nhằm tạo cơ hội và khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ của tỉnh vươn lên. Đối tượng thưởng khuyến khích xuất khẩu của tỉnh tập trung vào các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu đảm bảo một số tiêu chuẩn theo quy định của tỉnh, đặc biệt là xuất khẩu hàng hoá nông sản do Hà Nam sản xuất. Sở thương mại -Du lịch Hà Nam phối hợp với các ngành chức năng trong tỉnh xây dựng phương án và dự thảo tiêu chuẩn, quy chế thưởng khuyến khích xuất khẩu, định ra các chế độ và mức thưởng phù hợp với điều kiện của tỉnh trình UBND tỉnh ra quyết định. Bước đầu có thể mức thưởng cho mỗi tiêu chuẩn từ 10-20 triệu đồng. Tổng số tiền thưởng cho mỗi doanh nghiệp không quá 50 triệu đồng.
Ngoài ra đối với người sản xuất hàng nông sản chuyên dùng cho xuất khẩu tỉnh cũng cần có sự quan tâm đặc biệt. Ngoài hỗ trợ vốn, đầu tư cơ sở hạ tầng, giúp đỡ về kỹ thuật sản xuất, giống... cần hỗ trợ thêm về tài chính hoặc trợ giá cho mỗi đơn vị hàng nông sãnuất khẩu một khoản nhất định nhằm động viên ngươì sản xuất. Đối với cá nhân kinh doanh hoặc doanh nghiệp kinh doanh hàng nông sản nếu tìm được thị trường tiêu thụ mới hoặc tiêu thụ với số lượng lớn, ổn định, cũng cần được hỗ trợ một phần về tài chính, hoặc có thể miễn thuế thu nhập và một số loại thuế khác, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, cá nhân phát triển kinh doanh.
Về nguyên tắc và thủ tục để được xét hỗ trợ Sở Tài chính - vật giá, Sở Thương mại -Du lịch Hà Nam cùng các ngành có liên quan đề xuất xây dựng thành quy chế để UBND tỉnh quyết định, giao cho ngành tài chính thực hiện việc chi hỗ trợ cho doanh nghiệp trên cơ sở có sự thẩm định của hội đồngxét hỗ trợ và thưởng khuyến khích xuất khẩu do tỉnh giao.
Ngoài ra còn một số chính sách khác liên quan đến sản xuất kinh doanh như: Chính sách về thuế, đầu tư hoạt động khoa học công nghệ, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ và chuyển giao khoa học công nghệ vào sản xuất, chính sách ưu đãi đầu tư, sử dụng lao động, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn...cũng cần được xem xét cụ thể để vận dụng vào Hà Nam cho phù hợp trên cơ sở tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp nói chung, hàng nông sản nói riêng.
2.2. Giải pháp về phát triển và mở rộng thị trường.
2.2.1. Tổ chức nghiên cứu tình hình thị trường.
Chúng ta chuyển sang cơ chế quản lý mới được hơn 15 năm, nhìn chung sự vận hành của cơ chế mới đã đi vào cuộc sống và phát huy có hiệu quả. Tuy nhiên đại bộ phận nông dân vẫn chưa thích ứng với cơ chế mới này, còn mang nặng tư duy bao cấp trông trờ ỷ lại vào nhà nước. Hơn nữa do họ không có điều kiện tiếp cận thị trường nên thiếu thông tin về thị trường nhất là thị trường thế giới, trong khi tiến trình hội nhập quốc tế đang diễn ra sôi động việc tổ chức nghiên cứu tình hình thị trường đang là vấn đề rất cần thiết.
Cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại tại tỉnh Hà Nam là Sở Thương mại - Du lịch Hà Nam có chức năng phổ biến hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện pháp luật về thương mại đối với mọi thành phần kinh tế trong tỉnh. Sở có đội ngũ cán bộ chuuyên môn được đào tạo cơ bản, đã qua kinh doanh tại các doanh nghiệp, thường xuyên theo dõi, nắm bắt tình hình thị trường trong và ngoài nước, có đủ năng lực thu thập, xử lý thông tin về thị trường đáp ứng yêu cầu tìm hiểu thị trường đối với người sản xuất kinh doanh, sẵn sàng phục vụ các nhà doanh nghiệp trong lĩnh vực này. Sở đang đề nghị UBND tỉnh cho thành lập Trung tâm xúc tiến Thương mại để chuyên lo công tác xúc tiến thương mại cho tỉnh, nâng cao hơn nữa khả năng thu nhập xử lý thông tin để ngày càng có đầy đủ thông tin chính xác nhanh nhạy đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp.
Để có điều kiện đi thực tế nghiên cứu thị trường không những ở nước ngoài mà ngay ở trong nước, đòi hỏi phải có thời gian và kinh phí khá lớn. Tuỳtheo điều kiện của từng cá nhân và doanh nghiệp, các doanh nghiệp vận dụng như thế nào cho thích hợp. Nghiên cứu tình hình thị trường, vận dụng cơ chế thị trường vào sản xuất kinh doanh có hiệu quả là việc khó. Nhưng với tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế như chính phủ đã cam kết với các tổ chức thì: "thách thức" luôn đi liền với "cơ hội". Việc tham gia hội nhập quốc tế đến nay không còn là việc riêng của chính phủ" mà là việc của mọi doanh nghiệp, mọi địa phương. Vì vậy mọi người, mọi tổ chức và doanh nghiệp không còn con đường nào khác muốn tồn tại và phất triển phải tự vươn lên đáp ứng các yêu cầu đòi hỏi của thị trường, phải tự trang bị cho mình kiến thức về thị trường.
2.2.2.Tổ chức xúc tiến thương mại.
Muốn đẩy mạnh xuất khẩu và xây dựng nền sản xuất hướng về xuất khẩu, công tác xúc tiến thương mại rất quan trọng, nhất là trước xu hướng toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại hiện nay, các quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến việc xúc tiến thương mại. Đối với Hà Nam hoạt động thương mại còn chưa được phát triển nhất là công tác xuất nhập khẩu con nhiều hạn chế thì công tác xúc tiến thương mại lại rất cần thiết và phải được quan tâm đúng mức để chuyên lo công tác xúc tiến thwng mại của tỉnh phục vụ các doanh nghiệp. Tỉnh cần thành lập trung tâm Xúc tiến Thương mại trực thuộc Sở Thương mại - Du lịch Hà Nam, biên chế khoảng 3-5 cán bộ có năng lực, trình độ nghiệp vụ và am hiểu thị trường để làm công tác xúc tiến thương mại của tỉnh.
Hàng năm tỉnh nên mở các cuộc hội thảo hoặc toạ đàm với các Thương vụ Việt Nam ở các nước hoặc các vụ của Bộ Thương mại để trao đổi thông tin thị trường, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các tổ chức và các cá nhân trong tỉnh có cơ hội tiếp xúc tìm hiểu thị trường một cách có tổ chức.
Việc tổ chức hội thảo, toạ đàm do tỉnh chủ trì, Sở thương mại - Du lịch giúp UBND tỉnh xây dựng chương trình, nội dung liên hệ với Bộ Thương Mại. Ngoài ra có thể thông qua Hội Đồng hương Hà Nam tại các thành phố lớn, giới thiệu, môi giới thông tin về thương nhân và mặt hàng cần tiêu thụ, tổ chức giao lưu kinh tế với nhau.
Để tạo điều kiện cho hoạt động xúc tiến thương mại được tốt, cần đầu tư vốn, công nghệ nhất là thiết bị tin học, tạo điều kiện cho hoạt động tiếp thị thông qua mạng internet. Hiện nay, Sở Thương mại - Du lịch Hà Nam đã nối mạng với Bộ Thương Mại để thông qua Bộ Thương Mại thu thập những thông tin cần thiết về thị trường. Sở Thương mại - Du lịch cử cán bộ đi bồi dưỡng thêm kiến thức sử dụng máy và nghiệp vụ thông tin làm nhiệp vụ này có hiệu quả.
Đối với thị trường khu vực đồng bằng sông Hồng, bao gồm thị trường nông thôn và các đô thị lớn, việc nắm bắt nhu cầu tiêu dùng và chế biến nông sản phục vụ xuất khẩu của các nhà máy chế biến nông sản cũng là vấn đề rất cần thiết. Hiên nay Sở Thương mại - Du lịch Hà Nam đã thiết lập được mối quan hệ với các Sở Thương Mại các tỉnh trong khu vực, thường xuyên trao đổi thông tin qua lại với nhau về tình hình kinh tế xã hội nói chung, tình hình sản, xuất khẩu hàng nông sản nói riêng. Sự hợp tác chặt chẽ trong ngành Thương mại các tỉnh kết hợp với những thông tin của Bộ thương mại có thể giúp cho các doanh nghiệp trong tỉnh những thông tin bổ ích.
2.2.3. Phát triển dịch vụ thị trường và mở rộng quan hệ hợp tác thông tin về thị trường.
Dịch vụ thị trường bao gồm hoạt động của các cá nhân, các tổ chức , doanh nghiệp hoặc trung tâm tư vấn có hiểu biết về thị trường và pháp luật liên quan đến thương mại, làm dịch vụ tư vấn giúp cho người sản xuất, người kinh doanh nắm bắt, xử lý tình hình thị trường nhằm sản xuất kinh doanh có hiệu quả, thảo và dịch các hợp đồng, các văn bản. Hiện nay ở Hà Nam do sản xuất kinh doanh chưa phát triển nên chưa có dịch vụ này hoạt động. Nhưng trong tương lai cũng cần quan tâm đầu tư phát triển, tỉnh cần có chính sách hỗ trợ các loại dịch vụ này.
Tỉnh đã có cơ chế khuyến khích kêu gọi vốn đầu tư trong nước và ngoài nước vào tỉnh, các doanh nghiệp, doanh nhân trong tỉnh cần tích cực tìm đối tác đầu tư vào Hà Nam, tích cực tham gia các tổ chức, hiệp hội để có những thông tin về đối tác. Một trong những hiệp hội có tư cách pháp nhân được Chính phủ cho phép hoạt động lớn nhất là phòng Thương mại - Công nghiệp Viật Nam.Một số doanh nghiệp của Hà Nam đã trở thành hội viên của phòng Thương mại - Công nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên mức độ hoạt động và hiệu quả chưa cao.
Tỉnh cũng cần tranh thủ các Bộ, Ngành Trung ương hỗ trợ giới thiệu nguồn và tạo điều kiện để các doanh nghiệp, doanh nhân trong trong tỉnh có dịp ti
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10697.DOC