Đề tài Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức, sử dụng vốn lưu động ở Công ty Gạch ốp lát Hà Nội

Tài liệu Đề tài Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức, sử dụng vốn lưu động ở Công ty Gạch ốp lát Hà Nội: MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Chương I : Vốn lưu động và một số biện pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. I. Vốn lưu động và nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp. 1. Vốn lưu động 1.1. Vốn lưu động, nội dung vốn lưu động của doanh nghịêp. 1.2. Phân loại vốn lưu động của doanh nghiệp. 1.3. Kết cấu vốn lưu động và các nhân tố ảnh hưởng. 2. Nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp. 2.1. Căn cứ theo quan hệ sở hữu vốn. 2.2. Căn cứ theo nguồn hình thành. 2.3. Căn cứ theo thời gian huy động và sử dụng vốn. II. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả tổ chức, sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Ý nghĩa của việc phải nâng cao hiệu quả tổ chức, sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tổ chức sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Hàm lượng vốn lưu dộng. Mức doanh lợi vốn lưu động Một số chỉ tiêu khác. Một số biện pháp chủ yếu nâng cao hi...

docx74 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1003 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức, sử dụng vốn lưu động ở Công ty Gạch ốp lát Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Chương I : Vốn lưu động và một số biện pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. I. Vốn lưu động và nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp. 1. Vốn lưu động 1.1. Vốn lưu động, nội dung vốn lưu động của doanh nghịêp. 1.2. Phân loại vốn lưu động của doanh nghiệp. 1.3. Kết cấu vốn lưu động và các nhân tố ảnh hưởng. 2. Nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp. 2.1. Căn cứ theo quan hệ sở hữu vốn. 2.2. Căn cứ theo nguồn hình thành. 2.3. Căn cứ theo thời gian huy động và sử dụng vốn. II. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả tổ chức, sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Ý nghĩa của việc phải nâng cao hiệu quả tổ chức, sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tổ chức sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Hàm lượng vốn lưu dộng. Mức doanh lợi vốn lưu động Một số chỉ tiêu khác. Một số biện pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả tổ chức và sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. Chương II : Thực trạng việc tổ chức và sử dụng vốn lưu động tại công ty Gạch ốp lát Hà Nội. I. Một số nét về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. 1. Sơ lược sự hình thành và phát triển của công ty. 2. Chức năng, nhiệm vụ của công ty. 3. Đặc điểm tổ chức quản lý sản xuất và quản lý tài chính kế toán của công ty. 3.1. Cơ cấu tổ chức quản lý. 3.2. Cơ cấu tổ chức sản xuất. 3.3. Cơ cấu phòng tài chính kế toán. 4. Đặc điểm quy trình công nghệ. 5. Đặc điểm sản xuất kinh doanh. 5.1. Đặc điểm kinh doanh của công ty 5.2. Một số thuận lợi và khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. 6. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong một số năm qua. II. Tình hình tổ chức và hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty. 1. Nguồn vốn kinh doanh và nguồn vốn lưu động của công ty. 1.1. Vốn và nguồn vốn kinh doanh của công ty. 1.2. Nguồn vốn lưu động của công ty. 2. Tình hình phân bổ và cơ cấu vốn lưu động của công ty. 3. Vốn bằng tiền và khả năng thanh toán của công ty. 4. Tình hình quản lý các khoản phải thu của công ty 5. Tình hình tổ chức tiêu thụ sản phẩm và quản lý hàng tồn kho của công ty. 6. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty. 7. Những vấn đề đặt ra trong việc tổ chức quản lý, sử dụng vốn lưu động của công ty. Chương III : Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý và sử dụng vốn lưu động của công ty Gạch ốp lát Hà Nội. 1. Phương hướng phát triển của công ty trong thời gian tới. 2. Một số giải pháp đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý và sử dụng vốn lưu động tại công ty Gạch ốp lát Hà Nội. Kết Luận. Tài liệu tham khảo LỜI MỞ ĐẦU Để tiến hành bất cứ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có vốn. Quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng là quá trình hình thành phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Vì vậy, bất kì một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển phải quan tâm tới vấn đề quản lý và sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất, nhằm đem lại nhiều lợi nhuận nhất. Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh gay gắt của thị trường đã đòi hỏi các doanh nghiệp phải tính toán kỹ về hiệu quả của mỗi đồng vốn mà đảm bảo được tái sản xuất giản đơn, vốn bị mất dần sau mỗi chu kỳ kinh doanh, kéo theo tình trạng thua lỗ kéo dài và phải vắng bóng trên thị trường. Vốn kinh doanh có hai loại là vốn cố định và vốn lưu động. Trong đó, vốn lưu động như dòng máu luôn vận động tuần hoàn để nuôi sống doanh nghiệp. Chính vì vậy mà việc tổ chức quản lý và sử dụng vốn lưu động có hiệu quả hay không sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Với mong muốn góp phần vào sự phát triển của các doanh nghiệp công nghiệp nói chung và của công ty Gạch ốp lát Hà Nội nói riêng, sau khi nghiên cứu và nhận thức rõ tính cấp thiết của vấn đề đang đặt ra từ thực tiễn, em xin mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu và hoàn thành Luận văn tốt nghiệp với đề tài: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức, sử dụng vốn lưu động ở Công ty Gạch ốp lát Hà Nội. Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có các chương sau: Chương I : Vốn lưu động và một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp Chương II : Thực trạng việc tổ chức và sử dụng vốn lưu động ở Công ty Gạch ốp lát Hà Nội. Chương III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Công ty Gạch ốp lát Hà Nội. Do trình độ lý luận và nhận thức còn hạn chế, thời gian thực tập có hạn nên không tránh khỏi những thiếu sót. Em xin chân thành mong muốn nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, cán bộ công nhân viên của công ty để đề tài thêm hoàn thiện. En xin chân thành cảm ơn thầy giáo Bùi Văn Vần, phó trưởng khoa Tài chính doanh nghiệp Học viện Tài Chính, cùng toàn thể ban lãnh đạo Công ty và các cô chú phòng Tài chính Kế toán công ty Gạch ốp lát Hà Nội đã tạo điều kiện và giúp đỡ hoàn thành đề tài. CHƯƠNG I VỐN LƯU ĐỘNG VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP I. VỐN LƯU ĐỘNG VÀ NGUỐN VỐN LƯU ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1. Vốn lưu động của doanh nghiệp 1.1. Vốn lưu động, nội dung vốn lưu động của doanh nghiệp Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có 3 yếu tố : tư liệu lao động (TLLĐ), đối tượng lao động (ĐTLĐ) và sức lao động (SLĐ). Khác với các TLLĐ, ĐTLĐ (như nguyên vật liệu, bán thành phẩm...) chỉ tham gia vào một chu kì sản xuất và không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được chuyển dịch toàn bộ, một lần vào giá trị sản phẩm. Những ĐTLĐ nói trên, nếu xét về hình thái biểu hiện trong quá trình sản xuất kinh doanh được coi là các TSLĐ. Trong các doanh nghiệp, TSLĐ được chia thành TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu thông. - TSLĐ sản xuất bao gồm các ĐTLĐ như nguyên nhiên vật liệu và các tư liệu dự trữ cho sản xuất, các sản phẩm dở dang. - TSLĐ lưu thông bao gồm các sản phẩm, thành phẩm chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, các khoản vốn trong thanh toán. Đối với doanh nghiệp thương mại, dịch vụ thuần tuý chỉ có TSLĐ lưu thông không có TSLĐ sản xuất. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu thông luôn vận động thay thế và chuyển hoá lẫn nhau, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục và thuận lợi. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ, để hình thành các TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu thông, các doanh nghiệp phải ứng ra một số vốn đầu tư ban đầu nhất định. Số vốn ứng trước này được gọi là vốn lưu động(VLĐ) của doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, VLĐ của doanh nghiệp luôn vận động, thay đổi hình thái biểu hiện và trải qua 3 giai đoạn : Sự vận động của VLĐ qua các giai đoạn được mô tả theo sơ đồ sau : T - H......(SX)......H' - T' (đối với các doanh nghiệp sản xuất) T - H - T’ (đối với các doanh nghiệp thương mại) Trong đó : T' = T + DT Sự vận động của VLĐ trải qua các giai đoạn và chuyển hoá từ hình thái ban đầu là tiền tệ sang hình thái vật tư hàng hoá và cuối cùng quay trở lại hình thái tiền tệ gọi là sự tuần hoàn của VLĐ. Quá trình này diễn ra liên tục và lặp đi lặp lại có tính chất chu kỳ nên còn gọi quá trình chu chuyển của VLĐ. Sau mỗi chu kỳ sản xuất, VLĐ hoàn thành một vòng luân chuyển. Do quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra một cách thường xuyên, liên tục nên VLĐ cũng vận động không ngừng tạo ra sự chu chuyển vốn và tại mọi thời điểmVLĐ có thể cùng tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, cả trong sản xuất và lưu thông hàng hoá. Từ những phân tích ở trên ra có thể rút ra : VLĐ của doanh nghiệp là số tiền ứng ra để hình thành nên TSLĐ của doanh nghiệp, đảm bảo cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra một cách thường xuyên, liên tục và trong quá trình chu chuyển, giá trị của VLĐ được chuyển dịch toàn bộ một lần và hoàn thành một vòng tuần hoàn sau mỗi chu kỳ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. 1.2 Phân loại VLĐ của doanh nghiệp Để quản lý và sử dụng VLĐ có hiệu quả cần phần loại VLĐ của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau. Có những cách phân loại sau: Dựa vào hình thái biểu hiện, VLĐ được chia thành 2 loại : - Vốn bằng tiền: Là bộ phận VLĐ không biểu hiện bằng hình thái hiện vật.Vốn bằng tiền gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, các khoản phải thu, các khoản đầu tư chứng khoán ngắn hạn. - Vốn vật tư, hàng hoá: Là bộ phận VLĐ biểu hiện dưới hình thái hiện vật trong doanh nghiệp. Vốn vật tư, hàng hoá bao gồm : nguyên, nhiên, vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành phẩm. Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp có cơ sở để tính toán kiểm tra kết cấu tối ưu của VLĐ để dự thảo những quyết định tối ưu về mức tận dụng số VLĐ đã bỏ ra. Mặt khác, nó cũng là cơ sở để doanh nghiệp đánh giá khả năng thanh toán của mình. Dựa vào vai trò của VLĐ suốt quá trình sản xuất kinh doanh có thể chia VLĐ thành 3 loại : - VLĐ trong khâu dự trữ sản xuất : Bao gồm giá trị các khoản nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, động lực, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ. - VLĐ trong khâu sản xuất : Bao gồm các khoản giá trị sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, các khoản chi phí chờ kết chuyển. - VLĐ trong khâu lưu thông : Bao gồm các khoản giá trị thành phẩm, vốn bằng tiền (kể cả vàng bạc, đá quý...); các khoản vốn đầu tư ngắn hạn (đầu tư chứng khoán ngắn hạn, cho vay ngắn hạn...) các khoản thế chấp, ký cược, ký quỹ ngắn hạn; các khoản vốn trong thanh toán (các khoản phải thu, tạm ứng...). Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp xem xét đánh giá tình hình phân bổ VLĐ trong các khâu của quá trình chu chuyển VLĐ, từ đó đề ra các biện pháp tổ chức quản lý thích hợp. 1.3 Kết cấu VLĐ và các nhân tố ảnh hưởng : 1.3.1. Kết cấu VLĐ Kết cấu VLĐ phản ánh các thành phần và mối quan hệ tỷ lệ giữa thành phần VLĐ chiếm trong tổng số VLĐ của doanh nghiệp. Việc phân tích kết cấu VLĐ giúp cho doanh nghiệp thấy được tình hình phân bổ và tỷ trọng của mỗi khoản vốn trong quá trình sản xuất. Từ đó xác định đúng các trọng điểm và biện pháp quản lý VLĐ có hiệu quả hơn phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp. Mặt khác, với việc thay đổi kết cấu VLĐ trong những thời kỳ khác nhau có thể thấy được những biến đổi tích cực hay những hạn chế về mặt chất lượng trong công tác quản lý VLĐ của từng doanh nghiệp. 1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến kết cấu của VLĐ. Các nhân tố ảnh hưởng đến kết cấu VLĐ của doanh nghiệp có nhiều loại, có thể chia thành 3 nhóm chính : - Nhóm nhân tố về mặt sản xuất : + Chu kỳ sản phẩm có ảnh hưởng rất lớn đến tỷ trọng vốn sản phẩm dở dang. Nếu chu kỳ sản phẩm càng dài thì lượng vốn ứng ra cho sản phẩm dở dang càng lớn và ngược lại. + Đặc điểm của quy trình công nghệ và của sản phẩm. Nếu sản phẩm càng phức tạp thì lượng vốn ứng ra sẽ cao hơn. + Đặc điểm tổ chức sản xuất có ảnh hưởng đến sự khác nhau về tỷ trọng VLĐ bỏ vào khâu dự trữ và khâu sản xuất. Nếu doanh nghiệp tổ chức sản xuất đồng bộ, phối hợp được khâu cung cấp và sản xuất một cách hợp lý sẽ giảm bớt được một lượng dự trữ vật tư sản phẩm dở dang. - Nhóm nhân tố về mua sắm vật tư và tiêu thụ sản phẩm : + Khoảng cách giữa doanh nghiệp với đơn vị cung ứng vật tư, khoảng cách giữa doanh nghiệp với người mua hàng. Khoảng cách càng xa thì việc dự trữ vật tư, thành phẩm càng lớn. + Điều kiện và phương tiện giao thông vận tải cũng có sự ảnh hưởng đến vốn vật tư, thành phẩm dự trữ. Nếu như thuận lợi thì dự trữ ít và ngược lại. + Khả năng cung cấp của thị trường : Nếu là loại vật tư khan hiếm thì cần phải dự trữ nhiều và ngược lại. + Hợp đồng cung cấp hoặc hợp đồng về tiêu thụ sản phẩm : Tuỳ thuộc vào kỳ hạn cung cấp và giao hàng, số lượng vật tư nhập và xuất, nếu việc cung cấp thường xuyên thì dự trữ ít hơn. - Nhóm nhân tố về mặt thanh toán : + Phương thức thanh toán hợp lý, giải quyết thanh toán kịp thời thì sẽ làm giảm tỷ trọng vốn phải thu. + Tình hình quản lý khoản phải thu của doanh nghiệp và việc chấp hành kỷ luật thanh toán của khách hàng sẽ ảnh hưởng đến vốn phải thu. Nếu vốn phải thu lớn thì khả năng tái sản xuất của doanh nghiệp sẽ khó khăn dẫn đến tình trạng khả năng trả nợ của doanh nghiệp sẽ kém. Ngoài các nhân tố kể trên, kết cấu VLĐ còn chịu ảnh hưởng bởi tính chất thời vụ của sản xuất, trình độ tổ chức và quản lý... 2. Nguốn vốn lưu động của doanh nghiệp Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, bên cạnh VCĐ, doanh nghiệp cần phải có một lượng VLĐ thường xuyên cần thiết. VLĐ được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Sau đây là một số nguồn chủ yếu. 2.1. Căn cứ theo quan hệ sở hữu về vốn Theo cách này người ta chia VLĐ thành 2 loại: - Vốn chủ sở hữu : Là số VLĐ thuộc quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp có đầy đủ các quyền chiếm hữu, chi phối và định đoạt, bao gồm: Vốn điều lệ do chủ sở hữu đầu tư, vốn tự bổ sung từ lợi nhuận và từ các quỹ của doanh nghiệp, vốn do Nhà nước tài trợ (nếu có). Vốn chủ sở hữu được xác định là phần vốn còn lại trong tài sản của doanh nghiệp sau khi trừ đi toàn bộ nợ phải trả. - Nợ phải trả : Là số vốn thuộc quyền sở hữu của các chủ thể kinh tế khác, doanh nghiệp có quyền sử dụng, chi phối trong một thời hạn nhất định. Nợ của doanh nghiệp thường bao gồm 2 bộ phận: Nợ chiếm dụng ( các khoản vốn trong thanh toán mà doanh nghiệp được sử dụng một cách hợp pháp khi chưa tới kỳ hạn) và nợ tín dụng ( các khoản vốn vay từ các chủ thể khác như : ngân hàng, các tổ chức tài chính- tín dụng, các doanh nghiệp khác). Cách phân loại này giúp doanh nghiệp có biện pháp quản lý VLĐ một cách chặt chẽ. Từ đó xác địnhh được đâu là nguồn VLĐ phải trả lãi từ đó có kế hoạch sử dụng VLĐ một cách có hiệu quả. 2.2. Căn cứ theo nguồn hình thành VLĐ - Nguồn vốn điều lệ : Phản ánh số vốn do các chủ sở hữu của doanh nghiệp bỏ ra, gồm có : Vốn NS cấp (với DNNN); vốn cổ phần, vốn do chủ doanh nghiệp bỏ ra... - Nguồn vốn tự bổ sung : Phản ánh số vốn do doanh nghiệp tự bổ sung, chủ yếu từ lợi nhuận để lại nhằm đáp ứng nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất. - Nguồn vốn liên doanh, liên kết : Là số VLĐ được hình thành từ vốn góp liên doanh của bên tham gia doanh nghiệp liên doanh. Vốn góp liên doanh có thể bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật là vật tư, hàng hoá. - Nguồn vốn tín dụng : Là số vốn vay của các ngân hàng thương mại hoặc các tổ chức tín dụng, vay bằng việc phát hành trái phiếu. - Nguồn vốn chiếm dụng : Phản ánh số vốn mà doanh nghiệp chiếm dụng một cách hợp pháp của các chủ thể khác trong nền kinh tế, phát sinh trong quan hệ thanh toán như phải trả cho người bán, phải nộp ngân sách... Đây là nguồn vốn doanh nghiệp có thể tạm thời sử dụng mà không phải trả chi phí sử dụng vốn. Do đó, doanh nghiệp nên tận dụng tối đa nguồn vốn này. Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu nguồn tài trợ cho nhu cầu VLĐ. Từ đó lựa chọn cơ cấu nguồn tài trợ tối ưu nhằm giảm thấp chi phí sử dụng vốn. 2.3. Căn cứ theo thời gian huy động vốn và sử dụng vốn - Nguồn vốn lưu động thường xuyên : Là nguồn vốn có tính chất ổn định nhằm hình thành nên TSLĐ thường xuyên cần thiết. TSLĐ thường xuyên này bao gồm các khoản dự trữ về nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm. Nguồn VLĐ thường xuyên càng lớn doanh nghiệp càng chủ động trong tổ chức, đảm bảo vốn cho doanh nghiệp. Nguồn VLĐ tạm thời : Là nguồn có tính chất ngắn hạn dưới 01 năm, chủ yếu nhằm đáp ứng các nhu cầu có tính chất tạm thời về VLĐ phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm khoản nợ vay ngắn hạn ngân hàng, các tổ chức tín dụng, các khoản nợ ngắn hạn khác. Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp quản lý xem xét hoạt động của các nguồn VLĐ một cách phù hợp với thời gian sử dụng để nâng cao hiệu quả tổ chức và sử dụng VLĐ. Ngoài ra, nó còn giúp cho nhà quản lý lập các kế hoạch tài chính hình thành nên những dự định về tổ chức nguồn VLĐ trong tương lai. Trên cơ sở đó xác định quy mô, số lượng VLĐ cần thiết để lựa chọn nguồn VLĐ nào mang hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp. Mỗi cách phân loại vốn nêu trên có những ưu và nhược điểm riêng, do vậy người quản lý phải thận trọng suy xét trước khi lựa chọn hình thức huy động sao cho chi phí sử dụng vốn thấp nhất, khả năng rủi ro nhỏ nhất và hiệu quả kinh tế mang lại là lớn nhất. Từ việc nghiên cứu các phương pháp phân loại vốn lưu động: các doanh nghiệp hiện nay một mặt cần tăng cường quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn hiện có, mặt khác cần phải chủ động tổ chức khai thác các nguồn vốn đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC, SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1. Ý nghĩa của việc phải nâng cao hiệu quả tổ chức, sử dụng VLĐ trong doanh nghiệp. Điểm xuất phát của quá trình sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp là phải có một lượng vốn nhất định và nguồn tài trợ tương ứng, không có vốn sẽ không có bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Song việc sử dụng vốn như thế nào cho có hiệu quả mới là nhân tố quyết định cho sự tăng trưởng và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Quản lý VLĐ là một bộ phận trọng yếu của công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Quản lý VLĐ không những đảm bảo sử dụng VLĐ hợp lý tiết kiệm mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tiết kiệm chi phí bảo quản, đồng thời thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm và thanh toán công nợ một cách kịp thời. Vì vậy, kết quả hoạt động của doanh nghiệp tốt hay xấu phần lớn là do chất lượng quản lý VLĐ quyết định. Trước đây, trong cơ chế bao cấp, các doanh nghiệp quốc doanh được Nhà nước bao cấp vốn hoặc cho vay với lãi suất ưu đãi, bao cấp về giá, sản xuất kinh doanh theo chỉ tiêu pháp lệnh, lỗ đã có Nhà nước bù, lãi Nhà nước thu...Do đó, công tác quản lý sử dụng vốn trong các doanh nghiệp quốc doanh không được quan tâm đúng mức, vai trò của vốn bị xem nhẹ, vì vậy hiệu quả sử dụng vốn thấp. Từ sau Đại hội Đảng Việt Nam Khoá VI, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định nền kinh tế nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường với đa thành phần kinh tế tham gia có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng XHCN. Doanh nghiệp Nhà nước trong cơ chế thị trường là đơn vị hạch toán kinh doanh độc lập, nơi trực tiếp sử dụng và khai thác mọi khả năng để sản xuất kinh doanh hàng hoá sản phẩm, dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội và tích luỹ cho nền kinh tế. Kinh tế thị trường đã đem lại sự đa dạng hoá về loại hình sản phẩm, sự phong phú về loại hình doanh nghiệp...Cùng với nó là sự cạnh tranh khốc liệt, doanh nghiệp nào không đủ khả năng cạnh tranh sẽ phải rút lui, phải phá sản. Với tình hình như vậy, đòi hỏi mỗi đồng vốn tạo ra đều phải sinh lợi. Ngoài VCĐ, việc nâng cao hiệu quả tổ chức và sử dụng VLĐ sẽ mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp, điều đó xuất phát từ những lý do sau : Một là : Xuất phát từ vai trò vị trí của VLĐ trong quá trình sản xuất kinh doanh. VLĐ là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh. Do đó, việc nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ cũng sẽ làm hiệu quả vốn sản xuất kinh doanh tăng lên. Doanh nghiệp nào thiếu vốn thì việc chuyển hoá hình thái sẽ gặp nhiều khó khăn, VLĐ cũng không luân chuyển và quá trình sản xuất sẽ bị gián đoạn. Sự vận động của VLĐ phản ánh sự vận động của vật tư hàng hoá, số VLĐ nhiều hay ít phản ánh số vốn dự trữ ở các khâu nhiều hay ít. VLĐ luân chuyển nhanh hay chậm phản ánh số lượng vật tư sử dụng tiết kiệm hay lãng phí, thời gian nằm trên các giai đoạn luận chuyển có hợp lý hay không. Từ đó có thể kiểm tra một cách toàn diện đối với các mặt mua sắm dự trữ, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Mặt khác, với vai trò là vốn luân chuyển, vốn luân chuyển giúp tổ chức tốt quá trình mua hàng hoá từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực lưu thông. Sử dụng VLĐ hợp lý cho phép khai thác tối đa năng lực làm việc của các TSCĐ thuộc VCĐ, làm tăng lợi nhuận, góp phần làm tốt công tác bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh.Vì vậy, việc quản lý bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ là vấn đề quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp Hai là: Xuất phát từ đặc điểm chu chuyển của VLĐ là luân chuyển nhanh cho phép sử dụng linh hoạt trong quá trình sản xuất kinh doanh từ đó tạo ra nhiều khối lượng sản phẩm lớn cho các doanh nghiệp. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tốt hay xấu phần lớn phụ thuộc vào công tác quản lý và sử dụng VLĐ. Việc tăng cường quản lý, thực hiện bảo toàn nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ đảm bảo cho các giai đoạn luân chuyển và biểu hiện dưới nhiều hình thái khác nhau. Muốn cho quá trình tái sản xuất được liên tục thì doanh nghiệp phải có đủ vốn đầu tư vào lĩnh vực đó khiến các hình thái có được mức độ hợp lý tối ưu và đồng bộ với nhau khiến việc chuyển hoá hình thái vốn trong quá trình luân chuyển được thuận lợi. Ba là: Xuất phát từ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ. Hiệu quả sử dụng VLĐ là chỉ tiêu chất lượng phản ánh trường hợp những cố gắng, những biện pháp hữu hiệu về kỹ thuật đảm bảo với số vốn hiện có, bằng các biện pháp quản lý và trường hợp nhằm khai thác triệt để khả năng vốn có để có thể mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho doanh nghiệp. Lợi ích kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải sử dụng một cách hợp lý hiệu quả từng đồng VLĐ nhằm làm cho VLĐ được thu hồi sau mỗi chu kỳ sản xuất. Việc tăng tốc độ luân chuyển vốn cho phép rút ngắn thời gian chu chuyển của vốn, qua đó vốn được thu hồi nhanh hơn có thể giảm bớt được số VLĐ cần thiết mà vẫn hoàn thành được khối lượng sản phẩm hàng hoá bằng hoặc lớn hơn trước. Nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ còn có ý nghĩa quan trọng trong việc giảm chi phí sản xuất, chi phí lưu thông và hạ giá thành sản phẩm. Bốn là: Xuất phát từ yêu cầu bảo toàn VLĐ đối với hoạt động sản suất kinh doanh. Mục tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là thu được lợi nhuận và lợi ích xã hội chung, nhưng bên cạnh đó một vấn đề quan trọng đặt ra cho doanh nghiệp là cần phải bảo toàn VLĐ. Do đặc điểm VLĐ chu chuyển toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm và hình thái VLĐ thường xuyên biến đổi, vì vậy bảo toàn VLĐ thực chất là đảm bảo cho số vốn cuối kỳ được đủ mua một lượng vật tư, hàng hoá tương đương với đầu kỳ khi giá cả hàng hoá tăng lên thể hiện ở khả năng mua sắm vật tư cho khâu dự trữ của tổng số lao động nói chung, duy trì khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Hơn nữa, tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ còn giúp cho doanh nghiệp luôn có được trình độ sản suất kinh doanh phát triển, trang thiết bị kỹ thuật được cải tiến. Việc áp dụng kỹ thuật tiên tiến, công nghệ hiện đại sẽ tạo ra khả năng rộng lớn để nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Đặc biệt, khai thác được các nguồn vốn, sử dụng tốt nguồn VLĐ nhất là việc sử dụng tiết kiệm hiệu quả VLĐ trong hoạt động sản suất kinh doanh sẽ giảm bớt nhu cầu vay vốn cũng như việc giảm chi phí về lãi vay. Tóm lại, tổ chức quản lý tài chính là vấn đề quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. 2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tổ chức sử dụng VLĐ của doanh nghiệp. 2.1 Tốc độ luân chuyển VLĐ. Tốc độ luân chuyển VLĐ được biểu hiện bằng hai chỉ tiêu: - Số vòng quay VLĐ: chỉ tiêu này phản ánh vòng quay vốn được thực hiện trong một thời kỳ nhất định, thường tính trong một năm. L= M VLĐbq Trong đó: L: Số lần luân chuyển (số vòng quay) của VLĐ trong kỳ M: Tổng mức luân chuyển vốn trong kỳ : Phản ánh tổng giá trị luân chuyển của doanh nghiệp thực hiện trong kỳ. VLĐbq: Số vốn lưu động bình quân sử dụng trong kỳ VLĐbq = VLĐbq1 + VLĐbq2 + VLĐbq3 + VLĐbq4 4 Việc tăng vòng quay vốn lưu động có ý nghĩa kinh tế rất lớn đối với doanh nghiệp, có thể giúp cho doanh nghiệp giảm được lượng vốn lưu động cần thiết trong kinh doanh, giảm được lượng vốn vay hoặc có thể mở rộng được quy mô kinh doanh trên cơ sở vốn hiện có - Kỳ luân chuyển VLĐ: phản ánh số ngày ( thời gian cần thiết ) để hoàn thành một vòng luân chuyển VLĐ. K = 360 hay K = VLĐbq x360 L M Trong đó: K: Kỳ luân chuyển vốn lưu động M: Tổng mức luân chuyển vốn trong kỳ VLĐbq: Vốn lưu động bình quân trong kỳ. Tốc độ luân chuyển VLĐ nhanh hay chậm nói lên tình hình tổ chức các mặt hàng mua sắm dự trữ, sản suất và tiêu thụ của doanh nghiệp có hợp lý hay không. Vòng quay của vốn càng nhanh thì kỳ luân chuyển vốn càng được rút ngắn và chứng tỏ VLĐ càng được sử dụng có hiệu quả. 2.2 Hiệu quả sử dụng VLĐ Hiệu quả sử dụng VLĐ trong kỳ = Doanh thu trong kỳ VLĐbq trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh một đồng VLĐ trong kỳ có thể làm ra bao nhiêu đồng doanh thu. Doanh thu được tạo ra trên một đồng VLĐ càng lớn thì hiệu quả sử dụng VLĐ càng cao và ngược lại. 2.3 Hàm lượng VLĐ Hàm lượng VLĐ = VLĐbq trong kỳ Doanh thu trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh số VLĐ cần có để đạt được một đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng nhỏ thì hiệu quả sử dụng VLĐ càng cao và ngược lại. 2.4 Mức doanh lợi VLĐ (hiệu suất sử dụng VLĐ ) Mức doanh lợi VLĐ = Lợi nhuận trước (hoặc sau thuế) VLĐbq sử dụng trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh một đồng VLĐ có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế. Mức doanh lợi VLĐ càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng VLĐ càng tốt và ngược lại. Chỉ tiêu này càng cao là điều mong muốn của bất kỳ Doanh nghiệp nào. 2.5 Một số chỉ tiêu khác Ngoài các chỉ tiêu nêu trên để đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ người ta còn sử dụng các chỉ tiêu khác như: Khả năng thanh toán tạm thời = TSLĐ và đầu tư ngắn hạn Tổng nợ ngắn hạn Chỉ tiêu này thể hiện mức độ đảm bảo của TSLĐ với nợ ngắn hạn. Khả năng thanh toán nhanh = TSLĐ - vốn vật tư hàng hoá Tổng nợ ngắn hạn Hoặc: Khả năng thanh toán nhanh = Tiền + tương đương tiền Tổng nợ ngắn hạn Chỉ tiêu này nhỏ thì Doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong thanh toán công nợ. Số vòng quay hàng tồn kho: là số lần mà những hàng hoá tồn kho bình quân luân chuyển trong kỳ. Số vòng quay hàng tồn kho = Giá vốn hàng bán Trị giá hàng tồn kho bình quân Số vòng quay càng cao thì vốn luân chuyển càng nhanh, việc kinh doanh được đánh giá là tốt vì chỉ cần cho hàng tồn kho thấp mà vẫn đạt được doanh thu cao và ngược lại. Vòng quay các khoản phải thu: Phản ánh tốc độ chuyển đổi khoản phải thu thành tiền mặt của doanh nghiệp Vòng quay các khoản phải thu = Doanh thu tiêu thụ trong kỳ Số dư bình quân các khoản phải thu Vòng quay càng lớn chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải thu nhanh là tốt vì doanh nghiệp không phải đầu tư nhiều vào khoản phải thu (không cấp tín dụng cho khách hàng) Kỳ thu tiền bình quân: Đo lường khả năng thu hồi vốn nhanh trong thanh toán. Chỉ tiêu này phản ánh số ngày cần thiết để thu được khoản phải thu. Kỳ thu tiền bình quân = Chỉ tiêu này lớn hay nhỏ thì tốt còn tuỳ thuộc vào chính sách của doanh nghiệp: như mục tiêu mở rộng thị trường, chính sách tín dụng của doanh nghiệp. 3. Một số biện pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả tổ chức và sử dụng VLĐ của doanh nghiệp. Xuất phát từ các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ đã trình bày ở trên thì phương hướng cơ bản để nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ là không ngừng tăng doanh thu và tổ chưc sử dụng vốn tiết kiệm, hợp lý.Từ những xu hướng đó có thể chỉ ra một số biện pháp cơ bản sau: Thứ nhất: Xác định một cách chính xác nhu cầu vốn tối thiểu cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc xác định đúng nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh giúp doanh nghiệp đưa ra kế hoạch tổ chức huy động vốn nhằm hạn chế tình trạng thiếu vốn gây gián đoạn sản xuất kinh doanh hoặc phải đi vay ngoài kế hoạch với lãi suất cao, làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp đồng thời cũng tránh được tình trạng ứ đọng vốn, không phát huy được hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp. Thứ hai: Lựa chọn hình thức huy động vốn lưu động và đầu tư đúng đắn Tích cực khai thác triệt để nguồn vốn bên trong doanh nghiệp nhằm đáp ứng kịp thời cho nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp, đồng thời tính toán lựa chọn huy động các nguồn vốn bên ngoài với mức độ hợp lý của từng nguồn nhằm giảm tới mức thấp nhất chi phí sử dụng vốn. Khi quyết định đầu tư, doanh nghiệp cần phải cân nhắc kỹ thị trường tiêu thụ, tình hình cung ứng nguyên vật liệu, quy trình công nghệ, áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp để rút ngắn chu kỳ sản xuất. Thứ ba: Tổ chức tốt quá trình sản xuất và đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm Doanh nghiệp cần phải phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận sản xuất, không ngừng nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành, tiết kiệm được nguyên vật liệu. Mở rộng thị trường tiêu thụ, tăng cường công tác tiếp thị, marketing, thông tin quảng cáo giới thiệu sản phẩm, tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ, hạn chế tối đa sản phẩm tồn kho, tăng nhanh vòng quay của vốn. Thứ tư: Quản lý chặt chẽ các khoản vốn Quản trị tốt vốn bằng tiền bằng việc xác định mức tồn quỹ hợp lý, dự đoán, quản lý các luồng nhập, xuất ngân quỹ. Quản lý tốt công tác thanh toán công nợ, tránh tình trạng bán hàng không thu được tiền, vốn bị chiếm dụng, gây nên nợ khó đòi làm thất thoát VLĐ. Để đề phòng rủi ro, doanh nghiệp nên mua bảo hiểm và lập quỹ dự phòng tài chính. Thứ năm: Tăng cường phát huy vai trò của tài chính trong việc quản lý và sử dụng vốn. Thực hiện biện pháp này đòi hỏi doanh nghiệp phải tăng cường phát huy chức năng giám đốc của tài chính trong việc sử dụng tiền vốn nói chung và VLĐ nói riêng ở tất cả các khâu từ dự trữ, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm. Thứ sáu: Tăng cường bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý, nhất là đội ngũ quản lý cán bộ tài chính. Trên đây là một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ của các doanh nghiệp. Trong thực tế, do các doanh nghiệp thuộc các ngành nghề kinh doanh và lĩnh vực kinh doanh khác nhau nên mỗi doanh nghiệp cần căn cứ vào những giải pháp chung để từ đó đề ra những biện pháp cụ thể có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức và sử dụng VLĐ của doanh nghiệp mình, phục vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh. Sau đây là những nghiên cứu cụ thể về việc thực hiện tổ chức quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ ở công ty Gạch ốp lát Hà Nội. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG VIỆC TỔ CHỨC VÀ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TẠI CÔNG TY GẠCH ỐP LÁT HÀ NỘI I. MỘT SỐ NÉT VỀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÔNG TY GẠCH ỐP LÁT HÀ NỘI 1. Sơ lược sự hình thành và phát triển của công ty Công ty gạch ốp lát Hà Nội là một thành viên của công ty Thuỷ tinh và gốm xây dựng- Bộ xây dựng, chuyên sản xuất gạch ốp tường, gạch lát men phục vụ cho các công trình xây dựng. Trước đây công ty gạch ốp lát Hà Nội là một xí nghiệp công nghiệp thuộc công ty gốm xây dựng Hữu Hưng. Công ty gốm xây dựng Hữu Hưng được thành lập từ tháng 6 năm 1959 theo quyết định số 094A- Bộ xây dựng với tên gọi là xí nghiệp gạch ngói Hữu Hưng. Trụ sở của công ty tại Đại Mỗ huyện Từ Liêm- Hà Nội. Công ty có hai nhà máy: + Nhà máy gạch ốp lát Hà Nội trụ sở tại Thanh Xuân, chuyên sản xuất gạch ốp lát tráng men cao cấp. + Nhà máy gạch Hữu Hưng trụ sở tại Đại Mỗ- Từ Liêm, chuyên sản xuất gạch đất sét nung. Cùng với nhu cầu gạch xây dựng, gạch chống nóng nhu cầu gạch lát nền cũng trở nên rất cần thiết với yêu cầu của thị trường xây dựng. Tháng 2 năm 1994, công ty gốm Hữu Hưng đã mở rộng thêm sản phẩm gạch lát nền có công suất 1.015.000m2/năm, toàn bộ thiết bị là tự động hoá, được nhập từ Italia. Tháng 11 năm 1994, dây chuyền này đã đi vào hoạt động. Từ đó nhà máy gạch ốp lát thuộc công ty gốm xây dựng Hữu Hưng được thành lập. Sản phẩm gạch lát nền VICERA được bán rộng rãi trên cả nước, được khách hàng đánh giá rất cao. Đây là dây chuyền sản xuất gạch lát nền cao cấp được đầu tư xây dựng đầu tiên ở Việt Nam. Sản phẩm gạch lát nền của công ty được giấy chứng nhận về tiêu chuẩn chất lượng của Châu Âu cho gạch lát nền (cen/TC78) Sự ra đời của dây chuyền I với công suất hơn 1tr m2/năm không đáp ứng được là bao so với nhu cầu xây dựng của Việt Nam đang ngày càng gia tăng. Qua một số cuộc thăm dò về nhu cầu thị trường và thực tại chiến lược sản xuất kinh doanh của công ty, công ty thấy rằng thị trường tiềm năng thương mại của công ty còn rất lớn. Được sự chỉ đạo trực tiếp từ Tổng công ty Thuỷ tinh và Gốm sứ xây dựng, tháng 8 năm 1997 công ty tiếp tục lắp dặt dây chuyền thứ hai và cho đi vào hoạt động đã nâng công suất gạch của công ty lên hơn 3 tr m2/ năm. Tháng 5 năm 1998, công ty đổi tên thành công ty gạch ốp lát Hà Nội. Những thành quả bước đầu đạt được đã đánh dấu sự trưởng thành và phát triển của công ty. Cho đến nay, công ty đã có rất nhiều chi nhánh và đại lý trên khắp các tỉnh và thành phố trong cả nước nhờ chất lượng hàng đầu.Thị trường tiêu thụ của công ty trải khắp ba miền Bắc, Trung, Nam và tập trung nhiều ở các tỉnh thành phố lớn. Ngoài ra sản phẩm của công ty đã được xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới. Đây là thành tựu to lớn đánh dấu bước mở đầu cho việc làm ăn với các bạn hàng thế giới và đồng thời cũng ghi nhận sự trưởng thành và lớn mạnh của công ty gạch ốp lát Hà Nội. Có thể nói, chất lượng sản phẩm của công ty hầu như không thua kém gì so với hàng ngoại nhập song mẫu mã, hình thức sản phẩm, chất lượng vỏ hộp cũng là một yếu tố tạo nên sự cạnh tranh. Công ty đã cải tiến mẫu mã cho đẹp hơn mà vẫn mang nét đặc trưng truyền thống của công ty, đồng thời nghiên cứu và bổ sung thêm các chi tiết trang trí để tăng thêm sức hấp dẫn cho sản phẩm. Để tạo ra sự thống nhất về tên gọi với các sản phẩm khác của Tổng công ty thủy tinh và gốm xây dựng, ngày1/1/1999, nhãn hiệu sản phẩmVICERA của công ty gạch ốp lát Hà Nội được thay bằng nhãn hiệu VIGLACERA. 2. Chức năng, nhiệm vụ của công ty 2.1. Chức năng Công ty gạch ốp lát Hà Nội có chức năng sản xuất và kinh doanh sản phẩm gạch ốp tường, gạch lát nền, gạch ốp nhà vệ sinh nhằm phục vụ cho nhu cầu xây dựng và trang trí các công trình xây dựng. 2.2. Nhiệm vụ Công ty gạch ốp lát Hà Nội có những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Thực hiện nhiệm vụ sản xuất và kinh doanh gạch ốp lát theo kế hoạch phát triển của Tổng công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng VIGLACER - Xây dựng và phát triển nguồn vốn đầu tư, tạo nguồn vốn đầu tư sản xuất, tiêu thụ sản phẩm phục vụ cho nhu cầu xây dựng. - Thực hiện nghĩa vụ lao động đối với người lao động trong công ty, thực hiện nghĩa vụ đối với Ngân sách Nhà nước và với xã hội. - Tổ chức công tác quản lý nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ và công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ công nhân. 3. Đặc điểm tổ chức quản lý sản xuất và quản lý tài chính kế toán của công ty 3.1. Cơ cấu tổ chức quản lý Bộ máy quản lý của công ty được bố trí theo kiểu trực tuyến chức năng. Giám đốc là đại diện pháp nhân của công ty, là người có quyền lãnh đạo cao nhất trực tiếp chỉ đạo mọi hoạt động của Công ty, các phòng ban tham mưu cho giám đốc theo chức năng và nhiệm vụ của mình. Ban giám đốc: Ban giám đốc của Công ty gồm bốn người, một giám đốc và ba phó giám đốc. - Giám đốc là người đứng đầu bộ máy quản lý chỉ đạo và chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Ngoài việc ủy quyền cho các phó giám đốc, giám đốc còn chỉ đạo trực tiếp thông qua trưởng các phòng ban. - Các phó giám đốc là người giúp việc trực tiếp cho giám đốc, trực tiếp chỉ đạo về mặt nghiệp vụ, các bộ phận hoạt động trong phạm vi trách nhiệm của mình. Công ty có ba phó giám đốc: + Phó giám đốc sản xuất công nghệ. + Phó giám đốc thiết bị. + Phó giám đốc kinh doanh. Các phòng ban: Việc tổ chức ra các phòng ban tuỳ thuộc vào yêu cầu của sản xuất kinh doanh đứng đầu là các trưởng phòng và phó phòng chịu sự lãnh đạo trực tiếp của ban giám đốc và đồng thời cũng có vai trò trợ giúp giám đốc chỉ đạo các hoạt động sản xuất kinh doanh thông suốt. Công ty có các phòng ban sau: Phòng tài chính kế toán: Có chức năng lập kế hoạch tài chính và tổ chức thực hiện tốt kế hoạch đó theo tháng, quý, năm, cung cấp những chỉ tiêu kinh tế tài chính cần thiết cho giám đốc công ty; thực hiện hạch toán kế toán theo quy định của Nhà nước và điều lệ hoạt động của Tổng công ty, của công ty; lập báo cáo kế hoạch để phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của công ty. Phòng kế hoạch sản xuất: Có chức năng lập kế hoạch sản xuất và kế hoạch giá thành sản phẩm theo tháng, quý, năm, lập kế hoạch và tổ chức cung cấp đầy đủ, kịp thời, đúng số lượng và chất lượng các loại vật tư, nguyên nhiên liệu, phụ tùng thiết bị, phân tích đánh giá và tổng kết việc thực hiện kế hoạch và làm các báo cáo định kỳ. Phòng kinh doanh: Thực hiện các công việc về thương mại để bán hết sản phẩm của công ty sản xuất ra, thực hiện các công việc nghiên cứu thị trường và đề ra các chiến lược kinh doanh của công ty, thực hiện các công việc kinh doanh khác để sinh lời và các dịch vụ sau bán hàng. Phòng kỹ thuật-KCS: Có chức năng kỹ thuật và chức năng KCS. Phòng tổ chức lao động: Có chức năng xây dựng kế hoạch quản lý công tác tổ chức, lao động tiền lương, định mức lao động, bảo hiểm xã hội, quản lý công tác đào tạo, theo dõi ký kết hợp đồng lao động, quản lý hồ sơ cán bộ công nhân viên, giải quyết thủ tục tuyển dụng, thôi việc. Phòng hành chính: Quản lý và thực hiện toàn bộ công tác hành chính trong công ty theo quy định chung về pháp lý hành chính của Nhà nước; quản lý theo dõi việc sử dụng tài sản của công ty; thực hiện công tác đối nội, đối ngoại, giao dịch hàng ngày; thực hiện công tác y tế cơ sở. 3.2. Cơ cấu tổ chức sản xuất Cơ cấu tổ chức sản xuất của công ty được chia làm hai phân xưởng: Phân xưởng sản xuất gạch ốp lát: Có chức năng sản xuất có hiệu quả gạch ốp tường, lát nền theo kế hoạch của công ty giao cho, đảm bảo về số lượng và chất lượng; chịu trách nhiệm quản lý, bảo quản và sử dụng có hiệu quả tài sản cố định, vật tư nguyên liệu, nhiên liệu, phụ tùng, công cụ lao động sản xuất, thành phẩm chưa nhập kho; giữ bí mật về công nghệ, số liệu chủng loại trong quá trình sản xuất. Phân xưởng cơ điện: Có chức năng quản lý kỹ thuật về thiết bị máy móc của công ty, tổ chức thực hiện các công việc cụ thể phục vụ cho dây chuyền hoạt động ổn định, bền; đảm bảo thiết bị hoạt động an toàn; tổng kết đánh giá hiệu quả của thiết bị hoạt động. Tại các phân xưởng, các tổ chức sản xuất có quản đốc phân xưởng trực tiếp quản lý điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình. Các phòng ban và các phân xưởng có mối quan hệ chặt chẽ, cùng bàn bạc, triển khai công việc khi có lệnh giám đốc nhằm tổ chức thực hiện mọi công việc nhanh gọn và hiệu quả. Nhìn chung, công tác tổ chức bộ máy quản lý của công ty khá hợp lý, phù hợp điều kiện khách quan và chủ quan. Chính vì bộ máy tổ chức chặt chẽ như vậy mà Công ty đã đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực xản xuất chính của mình. Sản phẩm của công ty sản xuất ra đang được người tiêu dùng tin cậy, tạo cho công ty có chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong nước và trong tương lai sẽ có một chỗ đứng như vậy trên thị trường quốc tế. Bộ máy tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh của công ty gạch ốp lát Hà Nội được biêủ diễn theo sơ đồ sau: Sơ đồ 2.1. Sơ đồ bộ máy tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh của công ty gạch ốp lát Hà Nội Giám đốc Phó giám đốc KD Phó giám đốc thiết bị Phó giám đốc SX PX cơ điện PX sản xuất Phòng kinh doanh Phòng kỹ thuật KCS Phòng tài chính kế toán Phòng tổ chức Phòng chính hành 2.1.3.3 3.3. Cơ cấu tổ chức phòng tài chính kế toán Toàn bộ công việc tài chính- kế toán của công ty gạch ốp lát Hà Nội được sử lý hoàn toàn trên máy vi tính, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và hệ thống không chỉ ở bộ phận kế toán mà ở cả các bộ phận quản lý chức năng khác của công ty. Công ty sử dụng chương trình phần mềm Fast Accounting của công ty phần mềm tài chính kế toán Fast. Kế toán trưởng Phòng tài chính- kế toán của công ty gạch ốp lát Hà Nội được tổ chức theo hình thức tập trung. Sơ đồ 2.2: Tổ chức bộ máy kế toán của công ty gạch ốp lát Hà Nội Phó phòng Nhân viên thủ quỹ Nhân viên KT thanh toán TSCĐ,tiền lương, và BHXH Nhân viên kế toán vật tư Nhân viên kế toán ngân hàng - Về hình thức kế toán: Công ty áp dụng hình thức kế toán nhật ký chung nhưng công ty không sử dụng sổ nhật ký chuyên dùng.Trình tự ghi sổ như sau: Chứng từ gốc Sơ đồ 2.3 Sổ, thẻ kế toán chi tiết (1) (2) Sổ nhật ký chung (3) Bảng tổng hợp số liệu chi tiết (1) Sổ cái (5) Bảng cân đối số phát sinh (4) (6) Báo cáo kế toán Ghi hàng ngày Ghi cuối tháng Đối chiếu kiểm tra 4. Đặc điểm qui trình công nghệ. Công ty gạch ốp lát Hà Nội là công ty sản xuất sản phẩm gạch ốp lát tráng men cao cấp, sản phẩm của công ty rất đa dạng và phong phú (cả về hình dáng đến mẫu mã). Quy trình sản xuất trên dây chuyền hiện đại theo công nghệ mới đạt tiêu chuẩn Châu Âu. Dây chuyền sản xuất tự động và cơ giới hoá cao với chu trình sản xuất ngắn ( từ khi đưa nguyên liệu vào chế biến đến khi sản phẩm hoàn thành chỉ mất 45 phút), không gián đoạn về mặt kỹ thuật, chất lượng cao. Có thể khái quát quá trình sản xuất qua sơ đồ sau: Chuẩn bị nguyên vật liệu xương Quá trình nghiền xương Quá trình sản xuất và ủ ép bột Sản phẩm gạch mộc Chuẩn bị men và tráng men Nung sản phẩm Phân loại và đóng hộp - Chuẩn bị nguyên liệu xương: Nguyên vật liệu xương được mua về nhà máy theo kế hoạch sản xuất và đưa về kho dự trữ theo từng loại riêng biệt. Đất sét được tập kết về kho Đại Mỗ với trữ lượng đủ cho ba tháng sản xuất, sau đó chuyển dần ra kho của nhà máy. Penspat được tập kết về kho nhà máy một lượng đủ một tháng sản xuất, các nguyên liệu khác được dự trữ từ một đến hai tháng. - Quá trình nghiền xương: Nguyên vật liệu được nạp vào phễu định lượng rồi chuyển đến bộ phận nghiền,ở đây được trộn với nước để có được hồ với độ ẩm thích hợp, sau đó được đưa dần vào các bể chứa và bể chờ. - Quá trình sản xuất và ủ bộ ép: Hồ được bơm vào máy sấy phun để tạo ra bột và hạt nhỏ có độ ẩm theo yêu cầu, sau đó được ủ trong các bể chứa từ 2 đến 3 ngày. - Sản xuất gạch mộc: Gạch được sấy bằng máy sấy nhanh, sau khi sấy được chuyển đến dây chuyền tráng men. - Chuẩn bị men và tráng men: Men được gia công nghiền ướt trong các máy nghiền và được lưu trữ trong các bể khuấy, sau đó đưa vào dây chuyền tráng men và trang trí hoa văn bằng hệ thống in lưới lụa. Tiếp theo được chuyển vào hệ thống kho chứa mộc chuẩn bị nung. - Nung sản phẩm: Gạch sau khi tráng men được đưa vào lò nung ở nhiệt độ 1150o đến 1200o C, trong khoảng thời gian từ 40 đến 50 phút. - Phân loại và đóng hộp: Gạch sau khi nung được chuyển thẳng qua hệ thống băng chuyền vào hệ thống phân loại và đóng gói tự động, sau đó được bọc một lớp nilon bảo vệ nhờ một hệ máy màng co và nhập kho sản phẩm. 5. Đặc điểm sản xuất kinh doanh 5.1 Đặc điểm kinh doanh của công ty Công ty Gạch ốp lát Hà Nội là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, sản xuất chủ yếu để phục vụ cho nhu cầu trong nước. Sản xuất kinh doanh các loại gạch ốp và lát nền với các sản phẩm chủ yếu: Gạch lát nền 300x300mm; 400x400mm; 200x200mm; 500x500mm và gạch ốp tường 250x250mm, thêm vào đó còn có sản phẩm gạch Grannite Tiên Sơn. Đặc điểm về thị trường: Mặt hàng gạch ốp và gạch lát của công ty được tiêu thụ rộng rãi trong cả nước. Công ty phục vụ cho tất cả các đối tượng có nhu cầu về gạch ốp lát từ cá thể cho đến các công ty tập đoàn xây dựng lớn ở nước ta. Do uy tín và chất lượng sản phẩm của công ty được đánh giá cao trong nước cho nên số khách hàng lựa chọn sản phẩm của công ty là rất lớn. Thị phần của công ty trên thi trường chiếm tỷ trọng tương đối lớn so với các đối thủ cạnh tranh (năm 2001, sản phẩm gạch lát nền 300x300mm và 400x400mm là 11,25%; sản phẩm gạch ốp 250x250mm là 26,14% trong khi đối thủ cận kề với gạch lát là Đông Tâm chỉ chiếm 8% và CMC chỉ chiếm 5%, với gạch ốp Đồng Tâm chỉ chiếm 11,36%) 5.2. Một số thuận lợi và khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Gạch ốp lát Hà Nôị. Trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình, công ty gạch ốp lát Hà Nội đã không ngừng đẩy mạnh các hoạt động kinh doanh, tận dụng triệt để những thuận lợi và khắc phục những khó khăn từng bước khẳng định vị trí của mình trên thương trường. Những thuận lợi mà công ty có được gồm: Một là: Là một thành viên của Tổng công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng, công ty được sự ưu đãi về vốn, được Tổng công ty bảo lãnh cho vay vốn. Hai là: Công ty có thị trường hoạt động rộng, có mạng lưới kinh doanh trên địa bàn rộng và có vị trí kinh doanh thuận lợi. Với mạng lưới kinh doanh rộng khắp ba miền Bắc, Trung, Nam nên quy mô kinh doanh của công ty ngày được mở rộng tạo điều kiện để công ty phát triển mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh. Ba là: Cơ sở vật chất kỹ thuật là khá tốt, phần lớn máy móc được nhập từ các nước có nền công nghiệp phát triển như Italia, Tây Ban Nha...., quy trình công nghệ chế tạo sản phẩm là quy trình sản xuất liên tục, khép kín, khi thay đổi sản phẩm chỉ cần thay khuôn chứ không cần thay máy. Bên cạnh những thuận lợi mà công ty có được, trong quá trình hoạt động kinh doanh của công ty còn gặp phải một số khó khăn nhất định như : Một là: khó khăn về vốn: Được thành lập trong điều kiện không được cấp vốn, mọi chi phí đều phải đi vay và chịu lãi. Nguồn vốn do ngân sách Nhà nước cấp không đủ phải đi vay ngân hàng và các tổ chức kinh tế. Đã đi vay thì phải chịu lãi, do đó ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của công ty. Hai là: Sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt. Trong cơ chế thị trường luôn biến động. Công ty phải đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh đồng thời không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị trường, nâng cao sức cạnh tranh. Đó cũng là khó khăn đòi hỏi cán bộ công nhân viên trong công ty phải phát huy thế mạnh khắc phục mọi yếu điểm để kết quả sản xuất kinh doanh ngày càng cao. Trong thời gian qua, công ty đã nỗ lực rất nhiều trong việc khắc phục những khó khăn và tận dụng tốt những thuận lợi của mình. Để thấy rõ hơn điều đó, chúng ta đi xem xét kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà máy trong những năm qua. 6. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong một số năm qua Cùng với sự cố gắng nỗ lực của công ty là tình hình kinh tế xã hội của đất nước có chiều hướng thuận lợi. Tốc độ tăng trưởng chung của cả nước tăng đáng kể, nhu cầu nhà ở tăng mạnh kéo theo hàng loạt các dự án về đô thị hoá xây dựng những khu đô thị mới, nên những năm vừa qua tình hình sản xuất kinh doanh của công ty cũng đạt được những kết quả nhất định. Bảng 1: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty qua hai năm 2000 - 2001 STT Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2000 Năm 2001 So sánh 2001/2000 ± Số tiền ± % 1 Tổng doanh thu 1.000đ 214.092.193 219.151.840 5.059.647 2,36 2 Doanh thu thuần “ 213.735.206 218.762.273 5.027.067 2,35 3 Lợi nhuận “ 3.847.233 3.686.144 -161.089 -4,19 4 Nộp ngân sách “ 8.783.000 5.657.000 -3.126.000 -35,59 5 Tổng VKD bình quân “ 174.922.974 165.098.685 -9.824.290 -5,62 VCĐ bình quân “ 110.956.503 96.302.775 -14.653.728 -13,21 VLĐ bình quân “ 63.966.471 68.795.910 4.829.439 7,55 6 Doanh lợi vốn SXKD (3:5) 0,022 0,0223 0,0003 7 Doanh lợi doanh thu 0,018 0,0168 -0,0012 8 Tổng số lao động người 517 517 0 9 Tiền lương bình quân một công nhân /tháng 1.000đ 1.663 1.600 -63 -3,79 Qua bảng trên ta thấy: - Tổng doanh thu năm 2001 tăng so với năm 2000 là 5.059.647 (nđ). Tuy nhiên ta thấy rằng doanh thu của công ty rất cao nhưng lợi nhuận lại ít và đã giảm đi 161.089(nđ) so với năm 2000. Lý do là vì hàng năm công ty phải trả một khoản lãi vay ngân hàng rất lớn, cộng với các khoản chi phí khác như chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Khoản chi phí tài chính là một gánh nặng nợ nần mà công ty đang tìm cách khắc phục. Lợi nhuận giảm nhưng khả năng sinh lời của đồng vốn bỏ ra đã tăng lên. Cụ thể: - Doanh lợi vốn sản xuất kinh doanh tăng 0.0003 đồng, tức là cứ một đồng vốn khi tham gia vào quá trình SXKD năm 2000 tạo ra 0,022 đồng lợi nhuận sau thuế nhưng cũng với một đồng vốn đó trong kinh doanh năm 2001 đã tạo ra 0,0223 đồng lợi nhuận sau thuế. Con số này chứng tỏ công ty sử dụng vốn đã có hiệu quả hơn. - Doanh lợi doanh thu năm 2001 đã giảm 0,12% so với năm 2000. Cụ thể: Năm 2000, bình quân trong một đồng doanh thu có 0,018 đồng lợi nhuận sau thuế. Năm 2001, một đồng doanh thu chỉ còn 0,0168 đồng lợi nhuận sau thuế, chứng tỏ công ty chưa quản lý chặt chẽ các khoản chi phí trong quá trình SXKD, làm tăng giá thành sản phẩm. Đây là kết quả của việc sử dụng vốn lãng phí, chưa đúng mức. - Do lợi nhuận của công ty năm 2001 giảm nên việc thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước cũng giảm là 3.126.000 (nđ) với tỷ lệ giảm là 35,59% đồng thời thu nhập bình quân một công nhân cũng giảm tương ứng là 3,79%. Sau đây chúng ta cùng đi sâu xem xét tình hình tổ chức quản lý và sử dụng vốn lưu động của công ty để tìm ra những nguyên nhân và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng và vốn sản xuất nói chung. II. tình hình tổ chức và hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty gạch ốp lát hà nội 1. nguồn vốn kinh doanh và nguồn vốn lưu động của công ty 1.1. Vốn và nguồn vốn kinh doanh của công ty Xem xét tình hình vốn và nguồn vốn kinh doanh tại một thời điểm cho phép ta đánh giá được quy mô kinh doanh của doanh nghiệp, qua đó ta thấy được thực trạng tài chính và năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để thấy rõ được tình hình vốn và nguồn vốn kinh doanh của của công ty ta xem xét bảng 2 (trang bên): Qua bảng 2 ta thấy: - Về cơ cấu vốn kinh doanh: Vốn cố định luôn chiếm tỷ trọng lớn hơn vốn lưu động. Cụ thể: Đầu năm, vốn cố định chiếm 61,33% tổng số vốn kinh doanh,vốn lưu động chiếm 38,67%. Cuối năm, vốn cố định chiếm 55,04% còn vốn lưu động chiếm 44,96% tổng số vốn kinh doanh. Như vậy là đến cuối năm, tỷ trọng vốn lưu động đã tăng lên chứng tỏ công ty đã quan tâm hơn đến việc sử dụng vốn lưu động. - Về nguồn vốn kinh doanh: Nợ phải trả lớn hơn nhiều so với nguồn vốn chủ sở hữu. Cụ thể: Đầu năm, nợ phải trả chiếm 92,31% trong tổng nguồn vốn còn nguồn vốn chủ sở hữu chỉ chiếm có 7,69% trong tổng nguồn vốn. Cuối năm, nợ phải trả giảm cả về số tương đối và số tuyệt đối, chiếm 65,56% trong tổng nguồn vốn. Nợ phải trả cuối năm là 141.851.803 (nđ) chiếm tỷ trọng 90,11% tổng nguồn vốn kinh doanh.Trong đó: Nợ ngắn hạn là 55.064.309 (nđ) chiếm tỷ trọng 38,82% tổng nợ phải trả, tăng so với đầu năm. Nợ dài hạn là 80.907.839 (nđ) chiếm tỷ trọng 65,19% đã giảm so với đầu năm. Tuy nhiên nợ dài hạn vẫn chiếm một tỷ trọng khá cao trong tổng nợ phải trả. Công ty phải trả một khoản chi phí lãi vay cao, từ đó sẽ làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty. Bảng 2: Vốn và nguồn vốn kinh doanh của công ty năm 2001 STT Chỉ tiêu Đầu năm Cuối năm Số tiền (1.000đ) tt% Số tiền (1.000đ) tt% I Vốn kinh doanh 172.770.118 100 157.427.252 100 1 Vốn lưu động 66.808.793 38,67 70.783.026 44,96 2 Vốn cố định 105.961.325 61,33 86.644.225 55,04 II Nguồn vốn kinh doanh 172.770.118 100 157.427.252 100 1 Nợ phải trả 159.483.128 92,31 141.851.803 90,11 - Nợ ngắn hạn Trong đó: +Vay ngắn hạn +Phải trả người bán +Thuế và các khoản phải nộp nhà nước +Phải trả CNV +Phải trả phải nộp khác 50.379.376 35.928.026 3.947.954 7.598.657 1.258.756 1.645.981 31,59 71,31 7,84 15,08 2,50 3,27 55.064.309 37.662.126 5.236.489 8.651.357 1.657.481 1.865.854 38,82 68,40 9,51 15,71 3,01 3,37 - Nợ dài hạn 103.964.989 65,19 80.907.839 57,04 - Nợ khác Nhận ký quỹ ký cược dài hạn 5.138.764 3,22 5.879.654 4,14 2 Vốn chủ sở hữu 13.286.990 7,69 15.575.449 9,89 Vào thời điểm cuối năm, nợ ngắn hạn có: -Vay ngắn hạn của ngân hàng số tiền là 37.662.126(nđ), chiếm 68,40% tổng số nợ ngắn hạn. - Khoản nợ phải trả cho người bán là 5.236.489(nđ), chiếm 9,51% tổng số nợ ngắn hạn. - Công ty còn chiếm dụng được ở khoản thuế và các khoản nộp ngân sách số tiền là 8.651.357(nđ) chiếm tỷ trọng 15,71% trong tổng số nợ ngắn hạn. - Các khoản phải trả công nhân viên, các khoản phải trả phải nộp khác là những nguồn thứ yếu chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nợ ngắn hạn của công ty nhưng nó cũng góp phần đảm bảo cho nhu cầu vốn của công ty khi cần thiết. Công ty có thể sử dụng khoản này nhưng không nên thái quá thì nó cũng giúp cho công ty giảm được chi phí sử dụng vốn. Trên đây ta thấy được những khoản nợ ngắn hạn đảm bảo nhu cầu vốn kinh doanh nói chung và vốn lưu động nói riêng. Công ty cần phải tận dụng triệt để nguồn vốn này để đáp ứng nhu cầu vốn của mình. Từ số liệu bảng trên ta tính các chỉ tiêu: + Hệ số nợ = Tổng nợ Tổng vốn Hệ số nợ đầu năm = 159.483.128 = 0,923 172.770.118 Hệ số nợ cuối năm = 141.851.803 = 0,901 157.427.252 + Tỷ suất tự tài trợ = Nguồn vốn chủ sở hữu Tổng nguồn vốn Tỷ suất tự tài trợ đầu năm = 13.286.989 = 0,077 172.770.118 Tỷ suất tự tài trợ cuối năm = 15.575.448 = 0,099 157.427.252 Ta thấy rằng, hệ số nợ của công ty cuối năm đă giảm so với đầu năm. Cụ thể là giảm từ 0,923 xuống còn 0,901 nhưng tốc độ giảm không đáng kể. Hệ số nợ cao có phần hạn chế sự tự chủ về tài chính của công ty trong kinh doanh, đặc biệt là khi các chủ nợ không sẵn sàng cho công ty vay nữa. Cơ cấu vốn như vậy là không đảm bảo an toàn, công ty cần phải xem xét để giảm hệ số nợ hơn nữa. Với nguồn vốn chủ sở hữu tuy có gia tăng song vẫn còn hạn chế thì việc tăng vốn cho sản xuất kinh doanh cũng chỉ còn trông đợi vào nguồn vốn vay. Do đó, để đảm bảo an toàn thì công ty phải không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Có như vậy công ty mới có thể một mặt vẫn đảm bảo khả năng trả nợ vay, mặt khác lại có thể tăng cường lợi nhuận bổ sung thêm cho nguồn vốn chủ sở hữu. Xét về tính ổn định của nguồn vốn ta thấy: Nguồn vốn thường xuyên = Vay dài hạn + Vốn chủ sở hữu Đầu năm: Nguồn vốn thường xuyên =109.103.753 + 13.286.989 = 122.390.743 (nđ) chiếm tỷ trọng 70,84% tổng nguồn vốn. Trong đó đầu tư vào tài sản cố định là 105.961.325 (nđ) chiếm 90,37%. Do vậy, nguồn vốn thường xuyên cho nhu cầu vốn lưu động chỉ còn lại 16.429.418 (nđ) chiếm 13,42% nguồn vốn thường xuyên. Cuối năm: Nguồn vốn thường xuyên = 86.787.493 + 15.575.448 = 102.362.942 (nđ) chiếm tỷ trọng 65,02% tổng nguồn vốn.Trong đó đầu tư vào tài sản cố định là 86.644.225 (nđ) chiếm 89,80%. Còn lại 15.718.717 (nđ) để tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động, chiếm 15,36% nguồn vốn thường xuyên. Nguồn vốn tạm thời = Nợ ngắn hạn Đầu năm: Nguồn vốn tạm thời là: 50.379.375(nđ) chiếm 29,16% tổng nguồn vốn Cuối năm: Nguồn vốn tạm thời là: 55.064.309 (nđ) chiếm 34,98% tổng nguồn vốn Từ những tính toán trên có thể đi đến nhận xét, đánh giá khái quát tình hình nguồn vốn kinh doanh của công ty trong năm qua như sau: + Hệ số nợ của công ty quá cao cho thấy công ty đang trong tình trạng nợ nần, khả năng tự chủ tài chính thấp đe doạ sự an toàn của công ty trong kinh doanh. + Tính ổn định của nguồn vốn kinh doanh là khá tốt. Tuy nhiên, nguồn vốn thường xuyên đầu tư cho vốn lưu động còn quá ít nên đã tạo cho công ty nhiều khó khăn trong viêc huy động vốn lưu động phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh.Vì vậy, để đủ vốn lưu động cho yêu cầu sản xuất kinh doanh, công ty phải đi vay nợ nhiều với lãi xuất cao. Nhưng nguồn vốn thường xuyên vẫn chiếm tỷ trọng khá lớn như trên thì vẫn có thể đảm bảo an toàn về tài chính cho doanh nghiệp. 1.2. Nguồn vốn lưu động của công ty Gạch ốp lát Hà Nội Với mỗi loại hình doanh nghiệp cụ thể lại có các nguồn hình thành vốn khác nhau. Là một doanh nghiệp sản xuất, vốn lưu động chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn. Nguồn vốn lưu động của công ty gồm nguồn vốn lưu động thường xuyên và nguồn vốn lưu động tạm thời. Nguồn vốn lưu động thường xuyên tạo ra mức độ an toàn cho doanh nghiệp trong kinh doanh và làm cho tình hình tài chính của doanh nghiệp được đảm bảo vững chắc hơn. Nguồn vốn lưu động thường xuyên= Tài sản lưu động - Nợ ngắn hạn Đầu năm: Nguồn VLĐ thường xuyên = 66.808.793 - 50.379.376 = 16.429.418(nđ) chiếm 24,59% trong tổng số tài sản lưu động. Cuối năm: Nguồn VLĐ thường xuyên = 70.783.026 - 55.064.309 = 15.718.717(nđ) chiếm 22,21% trong tổng số tài sản lưu động. Để thấy rõ hơn về nguồn vốn lưu động của công ty, ta đi xem xét bảng 3 (trang bên): Bảng 3: Nguồn vốn lưu động của công ty năm 2001 Chỉ tiêu Đầu năm Cuối năm So sánh CN/ĐN Số tiền (1.000đ) % Số tiền (1.000đ) % ± Sốtiền (1.000đ) ± % I.Vốn lưu động 66.808.793 100 70.783.026 100 3.974.233 5,95 1.Tiền 1.509.585 2,26 694.751 0,98 -814.833 -53,98 2.Các khoản phải thu 56.319.226 84,30 59.065.813 83,45 2.746.586 4,88 3.Hàng tồn kho 8.300.819 12,42 9.972.469 14,09 1.671.650 20,14 4.TSLĐ khác 679.162 1,02 1.049.991 1,48 370.829 54,60 II.Nguồn VLĐ 1.Theo nguồn hình thành 66.808.793 100 70.783.026 100 3.974.233 5,95 -Ngân sách cấp và tự bổ sung 16.429.418 24,59 15.718.717 22,21 -710.701 -4,33 -Vốn vay 50.379.376 75,41 55.064.309 77,79 4.684.933 9,3 2.Theo thời gian huy động vốn 66.808.793 100 70.783.026 100 3.974.233 5,95 -Nguồn VLĐ thường xuyên 16.429.418 24,59 15.718.717 22,21 -710.701 -4,33 -Nguồn VLĐ tạm thời 50.379.376 75,41 55.064.309 77,79 4.684.933 9,3 Nhìn vào bảng trên ta nhận thấy, nguồn vốn dài hạn của công ty không những đáp ứng nhu cầu đầu tư cho TSCĐ mà còn tài trợ được một phần cho TSLĐ hay nói cách khác TSLĐ của công ty luôn lớn hơn nợ ngắn hạn, cũng có nghĩa là công ty có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn này.Tuy nhiên, nguồn vốn lưu động thường xuyên của công ty đến cuối năm lại giảm cả về số tương đối và tỷ trọng. Sở dĩ như vậy là do công ty đã phải huy động một nguồn vốn dài hạn tương đối lớn để đổi mới máy móc thiết bị. Do vậy, phần lớn tài sản lưu động trong giai đoạn này chủ yếu được tài trợ từ nợ ngắn hạn(77.79%).Với tình hình nguồn VLĐ thường xuyên như trên chứng tỏ đó là một tỷ trọng thấp, gây khó khăn cho công ty trong công tác tự chủ tài chính. - Lượng vốn vay chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn lưu động. Điều này cũng là một thực trạng chung của các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay.Trong điều kiện vốn ngân sách cấp quá ít, không đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh thì việc các doanh nghiệp tìm đến ngân hàng để vay vốn là một giải pháp tất yếu. Đầu năm, nguồn VLĐ tạm thời là 50.379.376(nđ) chiếm 75,41% trong tổng nguồn vốn lưu động. Cuối năm, con số này đã tăng lên 4.648.933(nđ) với tỷ lệ tăng tương ứng là 9,3%. Điều này sẽ ảnh hưởng đến sự chủ động về vốn lưu động.Từ đó có thể gây ra khó khăn cho công ty khi thực hiện chiến lược kinh doanh nhất là chiến lược kinh doanh lâu dài Song xét trên tình hình thực tế của công ty Gạch ốp lát Hà Nội thì tình hình vốn lưu động tạm thời như trên là hợp lý vì công ty đã biết khai thác và sử dụng tốt nguồn vốn tạm thời nhằm đảm bảo nhu cầu vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Chứng tỏ công ty đã rất năng động trong việc tổ chức nguồn vốn lưu động đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. 2. Tình hình phân bổ và cơ cấu vốn lưu động của công ty Chủ doanh nghiệp khi đã có vốn trong tay cần phải biết sử dụng chúng vào mục đích gì cho phù hợp lại có tính chất quyết định đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Nhiều giám đốc cho rằng, hiện nay, việc huy động vốn không khó bằng quản lý và sử dụng vốn như thế nào cho hiệu quả, làm thế nào để tạo ra lợi nhuận. Để biết được công ty Gạch ốp lát Hà Nội phân bổ vốn lưu động thế nào, có hợp lý hay không ta đi xem xét bảng 4: Tình hình phân bổ và cơ cấu VLĐ của công ty năm 2001 (trang bên): Bảng 4: Tình hình phân bổ và cơ cấu vốn lưu động của công ty năm 2001 Chỉ tiêu Đầu năm Cuối năm So sánh CN/ĐN Số tiền (1.000đ) % Số tiền (1.000đ) % ± Số tiền (1.000đ) ± % I.Tiền 1.509.585 2,26 694.751 0,98 -814.833 -53,98 1.Tiền mặt tại quỹ 1.098.792 72,79 193.872 27,91 -904.920 -82,36 2.Tiền gửi ngân hàng 410.792 27,21 500.879 72,09 90.086 21,93 II.Các khoản phải thu 56.319.226 84,30 59.065.813 83,45 2.746.586 4,88 1.Phải thu của KH 53.113.198 94,31 55.784.379 94,44 2.671.180 5,03 2.Thuế GTGT được khấu trừ 3.206.028 5,69 3.281.434 5,56 75.406.006 2,35 III.Hàng tồn kho 8.300.819 12,42 9.972.469 14,09 1.671.650 20,14 1.NVL tồn kho 1.586.069 19,11 1.744.676 17,49 158.606 10,00 2.Công cụ dụng cụ 274.764 3,31 291.250 2,92 16.485.894 6,00 3.Chi phí SXKD dở dang 396.244 4,77 435.868 4,37 39.624 10,00 4.Thành phẩm 6.043.740 72,81 7.500.673 75,21 1.456.932 24,11 IV. TSLĐ khác 679.162 1,02 1.049.991 1,48 370.829 54,60 1.Tạm ứng 469.546 69,14 628.336 59,84 158.790 33,82 2.Chi phí chờ kết chuyển 209.615 30,86 421.654 40,16 212.039 201,56 Cộng 66.808.793 100 70.783.026 100 3.974.233 5,95 Nhìn vào bảng trên ta thấy: Vốn lưu động của công ty tính đến thời điểm cuối năm 2001 là 70.783.026(nđ) tăng so với đầu năm là 3.974.233(nđ) với tỷ lệ tăng tương ứng là 5,95%. Sự tăng lên của vốn lưu động chủ yếu là do các khoản phải thu và hàng tồn kho là hai khoản mục chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu vốn lưu động đều tăng. Cụ thể: - Các khoản phải thu đến cuối năm 2001 là 56.319.226(nđ) tăng so với đầu năm 2001 là 2.746.586(nd) với tỷ lệ tăng tương ứng 4,88%. Đây là khoản vốn lớn nhất chiếm đến 83,45% vốn lưu động của công ty. - Hàng tồn kho cuối năm 2001 là 9.972.469(nđ) chiếm tỷ trọng 14,09% trong tổng vốn lưu động đã tăng so với đầu năm là 1.671.650(nđ) với tỷ lệ tăng 20,14%. -Tài sản lưu động khác là 1.049.991(nđ) chiếm 1,48% tổng vốn lưu động, tăng so với đầu năm là 370.829 (nđ) với tỷ lệ tăng 54,60%. Tài sản lưu động khác bao gồm các khoản tạm ứng: 628.336(nđ) tăng so với đầu năm là 158.790(nđ) với tỷ lệ tăng 33,82%; chi phí chờ kết chuyển là 421.654(nđ), tăng so với đầu năm là 212.039(nđ) với tỷ lệ tăng 1,16%. Qua xem xét khái quát tình hình vốn lưu động của công ty ta thấy cơ cấu vốn lưu động còn nhiều điều chưa hợp lý. Sự bố trí vốn trong các khoản phải thu và hàng tồn kho còn lớn gây nên hiện tượng ứ đọng vốn cả trong thanh toán và khâu dự trữ. Đặc biệt là với các khoản phải thu, công ty cần phải cố gắng trong công tác tổ chức thu hồi nợ và có biện pháp điều chỉnh hợp lý. Bởi vì, khoản phải thu chiếm một tỷ trọng lớn 83,45% trong tổng số vốn lưu động sẽ gây nên tình trạng bị chiếm dụng vốn trong khâu thanh toán, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sử dụng vốn của công ty. 3. Vốn bằng tiền và khả năng thanh toán của công ty Gạch ốp lát Hà Nội Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn có nhu cầu dự trữ một lượng tiền nhất định để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cần thiết. Vốn bằng tiền là yếu tố trực tiếp quyết định khả năng thanh toán của doanh nghiệp.Tương ứng với một quy mô kinh doanh nhất định, đòi hỏi phải có một lượng vốn bằng tiền để đảm bảo cho tình hình tài chính ở trạng thái bình thường. Để thấy rõ hơn về tình hình vốn bằng tiền của Công ty ta xem xét bảng số liệu sau: Bảng 5: Tình hình tăng giảm vốn bằng tiền năm 2001 Chỉ tiêu Đầu năm Cuối năm So sánh CN/ĐN Số tiền (1.000đ) % Số tiền (1.000đ) % ± Số tiền (1.000đ) ± % I. Tiền 1.509.585 100 694.751 100 -814.833 -53,98 1.TM tại quỹ 1.098.792 72,79 193.872 27,91 -904.920 -82,36 2.Tiền gửỉ NH 410.792 27,21 500.879 72,09 90.086 21,93 Từ bảng 4:Tình hình phân bổ và cơ cấu vốn lưu động của công ty ta nhận thấy: Vốn bằng tiền tại thời điểm cuối năm 2001 là 694.751(nđ) giảm so với đầu năm là 814.833(nđ) với tỷ lệ giảm là 53,98% làm cho tỷ trọng các loại vốn này trong tổng vốn lưu động cuối năm 2001 là 0,98%. Vốn bằng tiền giảm là do các nguyên nhân sau: - Tiền mặt tại quỹ giảm 904.920(nđ) với tốc độ giảm là 83,36%. Cụ thể: Đầu năm, tiền mặt tại quỹ là 1.098.792(nđ) chiếm 72,79% tổng số vốn bằng tiền. Đến cuối năm, tiền mặt tại quỹ còn 193.872(nđ) chiếm 27,91% vốn bằng tiền. Việc dự trữ một lượng tiền mặt thấp sẽ giúp cho công ty tăng cường được các tài sản lưu động sinh lãi, giảm chi phí cơ hội của việc giữ tiền. Nhưng bên cạnh đó nó cũng còn có hạn chế là công ty phải đi vay ngắn hạn ngân hàng để trang trải các khoản chi phí phát sinh - Tiền gửi ngân hàng của công ty đến thời điểm cuối năm 2001 là 500.879(nđ) tăng so với đầu năm là 90.086 (nđ) với tỷ lệ tăng 21,93%. Vốn tiền gửi ngân hàng tăng là do trong quá trình sản xuất kinh doanh, việc thanh toán hàng được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau nhưng chủ yếu là qua ngân hàng.Thanh toán bằng tiền mặt cho mua hàng chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Chính vì vậy số tiền gửi ngân hàng có xu hướng tăng lên và tiền mặt tại quỹ có xu hướng giảm đi. Đây cũng là một tất yếu trong nền kinh tế hiện nay. Qua việc phân tích tình hình vốn bằng tiền của công ty ta thấy tỷ trọng vốn bằng tiền trong tổng vốn lưu động là nhỏ.Trong thời gian tới công ty cần phải xem xét lại để nâng cao lượng vốn này để đảm bảo có một khối lượng tiền đủ khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn và các khoản chi tiêu hàng ngày của công ty. Khả năng thanh toán của công ty Việc dự trữ một lượng vốn bằng tiền nói riêng và tình hình vốn lưu động nói chung có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp.Trong nền kinh tế thị trường, các đối tác kinh doanh, nhất là các bạn hàng thường xuyên quan tâm đến khả năng thanh toán để xem xét đưa ra các quyết định tài chính khi quan hệ với doanh nghiệp. Với công ty Gạch ốp lát Hà Nội thì việc xem xét khả năng thanh toán còn có ý nghĩa điều chỉnh lại tình hình tài chính của mình đảm bảo cho khả năng thanh toán được tốt hơn. Sau đây ta đi xem xét đánh giá khả năng thanh toán của công ty: Hệ số khả năng thanh toán tổng quát = Tổng tài sản Tổng số nợ Hệ số khả năng thanh toán tổng quát đầu năm = 172.770.118 = 1,08 159.483.128 Hệ số khả năng thanh toán tổng quát cuối năm = 157.427.252 = 1,11 141.851.803 Hệ số khả năng thanh toán tổng quát đầu năm và cuối năm đều lớn hơn 1 chứng tỏ các khoản huy động bên ngoài đều được đảm bảo. Công ty có khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn và dài hạn bằng tài sản của mình. Hệ số khả năng thanh toán tạm thời= TSLĐ và đầu tư ngắn hạn Tổng nợ ngắn hạn Hệ số khả năng thanh toán tạm thời đầu năm = 66.808.793 = 1,33 50.379.375 Hệ số khả năng thanh toán tạm thời cuối năm = 70.783.026 = 1,29 55.064.309 Hệ số khả năng thanh toán tạm thời của công ty lớn hơn 1. Khả năng thanh toán tạm thời cuối năm so với đầu năm có thấp hơn, cụ thể là giảm 0,04 lần nhưng vẫn là mức an toàn và cho thấy công ty hoàn toàn có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn trong vòng 1 năm hoặc 1 kỳ kinh doanh. Để đánh giá khả năng đảm bảo thanh toán đúng hạn khi xảy ra biến động lớn trong nền kinh tế hoặc trong lĩnh vực hoạt động, khả năng đối phó với sự thu hồi nợ đột ngột hay đồng loạt của các chủ nợ thì người ta sử dụng chỉ tiêu thanh toán nhanh và khả năng thanh toán tức thời. Hệ số khả năng thanh toán nhanh = TSLĐ - Vốn vật tư hàng hoá Tổng nợ ngắn hạn Hệ số khả năng thanh toán nhanh đầu năm = 66.808.793 - 8.300.819 50.379.375 = 1,16 Hệ số khả năng thanh toán nhanh cuối năm = 70.783.026 - 9.972.469 55.064.309 = 1,10 Hệ số thanh toán nhanh đầu năm và cuối năm đều lớn hơn 1, chứng tỏ công ty có khả năng thanh toán nhanh các khoản nợ ngắn hạn mà không cần phải dựa vào việc bán các vật tư hàng hoá. Hệ số này cuối năm nhỏ hơn đầu năm là do vốn vật tư hàng hoá đã tăng lên. Hệ số khả năng thanh toán tức thời = Tiền + tương đương tiền Nợ ngắn hạn Hệ số khả năng thanh toán tức thời đầu năm = 1.509.585 = 0,029 50.379.375 Hệ số khả năng thanh toán tức thời cuối năm = 694.751 = 0,013 55.064.309 Hệ số khả năng thanh toán tức thời của công ty giảm từ 0,029 xuống còn 0,013. Hệ số này phản ánh khả năng thanh toán ngay các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp mà không cần dùng các khoản phải thu bán hàng tồn kho. Nếu hệ số này > 0,5 thì tình hình thanh toán của công ty tương đối khả quan. Nhưng ở công ty gạch ốp lát Hà Nội, hệ số này lại < 0,5 chứng tỏ công ty đang gặp khó khăn trong việc thanh toán công nợ, lượng tiền mặt tồn quỹ và tiền gửi ngân hàng của công ty đóng vai trò mờ nhạt trong thanh toán. Để xem xét một cách toàn diện chúng ta có bảng sau: Bảng 6: Chỉ số phản ánh khả năng thanh toán của công ty năm 2001 STT Chỉ tiêu Đầu năm Cuối năm Chênh lệch 1 Hệ số thanh toán tổng quát 1,08 1,11 0,03 2 Hệ số thanh toán tạm thời 1,33 1,29 - 0,04 3 Hệ số thanh toán nhanh 1,16 1,10 -0,06 4 Hệ số thanh toán tức thời 0,029 0,013 -0,016 Từ những phân tích trên ta thấy: Khả năng thanh toán của công ty là tương đối tốt, công ty có thể trang trải cho phần lớn nợ ngắn hạn. Tuy nhiên, khả năng thanh toán tức thời của công ty không đảm bảo an toàn và có xu hướng giảm dần ở cuối năm 2001 vì lượng tiền dự trữ tại thời điểm cuối năm quá ít. Điều này sẽ khiến doanh nghiệp vấp phải những khó khăn trong thanh toán công nợ, vì vào những lúc cần thanh toán các khoản nợ ngắn hạn có thể buộc phải sử dụng các biện pháp bất lợi như bán các tài sản với giá thấp để trả nợ. Công ty cần phải xác định lại dự trữ tiền mặt sao cho phù hợp. Mặt khác, ta cũng nhận thấy rằng khả năng thanh toán nhanh của công ty phần lớn được đảm bảo bởi các khoản phải thu. Do đó, nếu các khoản phải thu gặp rủi ro (trở thành nợ khó đòi) thì công ty sẽ mất khả năng thanh toán. Thực tế này đã đặt công ty trước một vấn đề hết sức khó khăn là phải có biện pháp quản lý các khoản phải thu sao cho có thể nhanh chóng thu hồi nợ khi nhu cầu thanh toán phát sinh. 4. Tình hình quản lý các khoản phải thu Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp thường chiếm dụng vốn lẫn nhau nhằm tăng thêm vốn kinh doanh hay nói cách khác, các khoản phải thu, phải trả thường xuyên phát sinh. Tuy nhiên, nếu các khoản công nợ này chiếm tỷ trọng lớn và ngày càng gia tăng sẽ gây khó khăn cho tình hình tài chính của doanh nghiệp. Chính vì vậy, giảm công nợ phải thu, nhanh chóng thu hồi tiền hàng, chiếm dụng vốn hợp lý...là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý vốn lưu động tại công ty Gạch ốp lát Hà Nội. Để xem xét tình hình quản lý các khoản phải thu của công ty ta có bảng 7 (trang bên): Qua bảng 7 ta thấy, tổng các khoản phải thu đến cuối năm 2001 là 59.065.813(nđ) tăng so với đầu năm là 2.746.586(nđ) với tỷ lệ tăng là 4,88%. Khoản mục quan trọng nhất chiếm tỷ trọng khá cao là khoản phải thu của khách hàng chiếm đến 94,44% tổng các khoản phải thu. Khoản phải thu khách hàng đến cuối năm 2001 là 55.784.379(nđ) tăng so với đầu năm là 2.671.180(nđ) với tỷ lệ tăng 5,03%. Khoản mục này tăng chủ yếu là do chính sách bán hàng trong năm 2001 cho phép khách hàng thanh toán chậm trong một khoảng thời gian nhất định. Chính sách bán chịu này đã làm cho công ty bị khách hàng chiếm dụng vốn rất nhiều, trong khi đó, công ty phải đi vay vì các khoản vốn đó. Chính vì vậy, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động công ty cần có những phương sách phù hợp để vừa thúc đẩy lượng hàng tiêu thụ đồng thời duy trì các khoản phải thu ở mức phù hợp. Khoản thuế GTGT được khấu trừ cuối năm 2001 đã tăng so với đầu năm là 75.406(nđ) với tỷ lệ tăng là 2,35%. Bảng 7: Tình hình quản lý các khoản phải thu của công ty năm 2001 Chỉ tiêu Đầu năm Cuối năm So sánh CN/ĐN Số tiền (1.000đ) % Số tiền (1.000đ) % ± Số tiền (1.000đ) ± % Các khoản phải thu 56.319.226 100 59.065.813 100 2.746.586 4,88 1.Phải thu của khách hàng 53.113.198 94,31 55.784.379 94,44 2.671.180 5,03 2.Thuế GTGT được khấu trừ 3.206.028 5,69 3.218.434 5,56 75.406 2,35 Để hiểu rõ hơn về công tác quản lý các khoản phải thu, chúng ta đi xem xét tốc độ thu hồi nợ của doanh nghiệp qua một số các chỉ tiêu sau: Vòng quay các khoản phải thu = Doanh thu thuần Số dư bình quân các khoản phải thu Vòng quay các khoản phải thu = 218.762.273 = 3,79 (vòng) 57.692.519 Kỳ thu tiền trung bình = Số dư bình quân các khoản phải thu x 360 Doanh thu thuần Kỳ thu tiền bình quân = 360 = 95 (ngày) 3.79 Từ các chỉ tiêu trên ta có thể rút ra một số nhận xét: - Vòng quay các khoản phải thu trong năm là 3,79 vòng chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải thu là không tốt vì công ty phải đầu tư nhiều vào các khoản phải thu (phải cấp tín dụng nhiều cho khách).Tình trạng này rất dễ xảy ra sự thiếu hụt về vốn đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh. - Kỳ thu tiền trung bình là 95 ngày, đây là biểu hiện không tốt. Công ty để khách hàng chiếm dụng vốn khá lớn và để thu hồi được một khoản phải thu, công ty phải mất đến hơn hai tháng. Như vậy sẽ làm tốc độ luân chuyển vốn lưu động chậm lại, đồng thời làm phát sinh khoản nợ vay ngân hàng từ phần vốn cấp tín dụng cho khách hàng. Để đánh giá kỹ hơn về tình hình công nợ của công ty, ta đi sâu xem xét và so sánh giữa khoản mà công ty phải thu với các khoản mà công ty phải trả. Ta chỉ so sánh các khoản phải thu với các khoản phải trả mang tính chất chu kỳ, đó là những khoản không phải trả lãi. Bảng 8: Tình hình công nợ của công ty năm 2001 Khoản phải thu Đầu năm Cuối năm Khoản phải trả Đầu năm Cuối năm 1.Phải thu của khách hàng 53.113.198 55.784.379 1.Phải trả người bán 3.947.954 5.236.489 2.Thuế GTGT được khấu trừ 3.206.028 3.281.434 2.Thuế và các khoản phải nộp nhà nước 7.598.657 8.651.358 3.Phải trả CNV 1.258.756 1.657.481 4.Phải trả phải nộp khác 1.645.981 1.856.854 Cộng 56.319.226 59.065.813 Cộng 14.451.348 17.402.182 Qua bảng trên ta thấy rằng: Cuối năm 2001, số tiền phải thu lớn hơn số tiền phải trả, chứng tỏ công ty bị chiếm dụng vốn nhiều hơn là đi chiếm dụng. Công ty bị chiếm dụng một khoản là 59.065.813(nđ), trong khi đó số tiền chiếm dụng được chỉ là 17.402.182(nđ).Từ đó cho thấy tình hình tài chính của công ty sẽ gặp nhiều khó khăn bởi chưa xét đến những cơ hội kinh doanh khác nếu được sử dụng khoản vốn bị chiếm dụng này, mà chỉ tính riêng đến khoản chi phí bỏ ra phục vụ cho quá trình theo dõi và thu hồi công nợ thì công ty sẽ phải mất đi một khoản tiền đáng kể. Tính tỷ trọng tổng số tiền phải thu so với số tiền phải trả có tính chất chu kỳ ở đầu năm so với cuối năm cho thấy: Tỷ trọng giữa các Tổng số tiền phải thu khoản phải thu so với = ___________________ các khoản phải trả Tổng số tiền phải trả Tỷ trọng đầu năm 2001 = 56.319.226 x 100% = 389,72% 14.451.348 Tỷ trọng cuối năm 2001 = 59.065.813 x 100% = 339,42% 17.402.182 Kết quả trên cho thấy, mặc dù bị chiếm dụng vốn lớn nhưng đến cuối năm 2001, tỷ trọng các khoản phải thu trên các khoản phải trả đã giảm đi 50,3% ( 339,72% - 339,42%), điều đó cũng đã góp phần làm giảm bớt căng thẳng về vốn cho công ty. Tóm lại, qua những phân tích trên cho thấy rằng trong thời gian tới công ty cần phải có nhiều biện pháp hữu hiệu hơn trong việc thu hồi nợ sao cho tăng được vòng quay các khoản phải thu và giảm được kỳ thu tiền bình quân. Có như thế mới đảm bảo được tình hình công nợ lành mạnh, hiệu quả quản lý các khoản phải thu cao hơn. 5.Tình hình tổ chức tiêu thụ sản phẩm và quản lý hàng tồn kho. Việc dự trữ hàng tồn kho là nhu cầu thông thường đối với mỗi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần phải xem xét để cân đối mức dự trữ. Nếu dự trữ quá lớn sẽ làm cho hàng hoá dư thừa gây ứ đọng làm giảm hiệu quả kinh doanh. Nếu dự trữ quá thấp có thể gây thiếu hụt, làm giảm sự nhịp nhàng...gây khó khăn cho việc đảm bảo nhu cầu hàng hoá của thị trường, làm gián đoạn quá trình kinh doanh và gây ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị. Bảng 9: Kết cấu hàng tồn kho của công tynăm 2001 Chỉ tiêu Đầu năm Cuối năm So sánh CN/ĐN Số tiền (1.000đ) % Số tiền (1.000đ) % ± Số tiền (1.000đ) ± % NVL tồn kho 1.586.069 19,11 1.744.676 17,49 158.606 10,00 CCDC trong kho 274.764 3,31 291.250 2,92 16.485 6,00 CKSX kd dở dang 396.244 4,77 435.868 4,37 39.624 10,00 TP tồn kho 6.043.740 72,81 7.500.673 75,21 1.456.932 24,11 Cộng 8.300.819 100 9.972.469 100 1.671.650 20,14 Qua bảng trên ta nhận thấy: Hàng tồn kho cuối năm 2001 đã tăng 1.671.650(nđ) so với đầu năm với tỷ lệ tăng 20,14%. Hàng tồn kho tăng lên chủ yếu là do nguyên vật liệu tồn kho và thành phẩm tồn kho tăng. Cụ thể: - Nguyên vật liệu tồn kho chiếm 17,49% trong tổng hàng tồn kho đã tăng lên so với đầu năm là 158.606(nđ) với tỷ lệ tăng 10%. Nguyên vật lệu tăng chủ yếu là do một phần nguyên vật liệu công ty sử dụng là nhập ở nước ngoài, vì vậy mà công ty luôn bị phụ thuộc vào thị trường nguyên vật liệu nước ngoài, chưa tận dụng được hết được nguồn nguyên liệu, vật liệu trong nước. Hơn nữa,do đặc điểm quy trình công nghệ của công ty, nguyên vật liệu phải được dự trữ trong kho với trữ lượng đủ từ hai đến ba tháng sản xuất. - Thành phẩm tồn kho chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số hàng tồn kho tăng. Đầu năm thành phẩm tồn kho là 6.043.740(nđ) chiếm 72,81% tổng hàng tồn kho. Cuối năm, thành phẩm tồn kho đã tăng lên tới 7.500.673(nđ), chiếm 75,21% tổng hàng tồn kho. Là một doanh nghiệp sản xuất, lượng thành phảm tồn kho quá lớn như trên là một biểu hiện không tốt. Điều đó chứng tỏ sản phẩm sản xuất ra chưa tiêu thụ được, điều này lại kéo theo việc những chi phí bỏ ra để sản xuất thành phẩm này chưa thu hồi được. Ngoài ra còn do một số nguyên nhân khác làm tăng lượng hàng tồn kho là: Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang tăng 39.624(nđ) với tỷ lệ tăng 10%. Công cụ dụng cụ trong kho cũng tăng so với cuối năm là 16.485(nđ) với tỷ lệ tăng 6%. Tóm lại, tình hình kết cấu hàng tồn kho của công ty là chưa tốt. Lượng thành phẩm tồn kho còn chiếm rất lớn trong tổng hàng tồn kho sẽ dẫn đến tình trạng hàng hoá bị ứ đọng gây nên việc sử dụng vốn kém hiệu quả làm giảm lợi nhuận của công ty.Vì vậy, khi quyết định dự trữ hàng hoá thì công ty nên có biện pháp tiêu thụ để đạt được mức dự trữ hàng hoá tối ưu, giúp công ty không bị ứ đọng vốn, tối thiểu hoá chi phí ,đảm bảo thực hiện các hợp đồng đã ký kết, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty. 6.Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty gạch ốp lát Hà Nội. Việc sử dụng thật hợp lý VLĐ được thể hiện ở chỗ tăng tốc độ luân chuyển VLĐ. Tốc độ luân chuyển VLĐ nhanh hay chậm nói lên hiệu quả sử dụng VLĐ cao hay thấp. Hiệu quả sử dụng VLĐ là một trong một trong những chỉ tiêu tổng hợp dùng để đánh giá chất lượng công tác quản lý và sử dụng vốn trong kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua phân tích chỉ tiêu hiệu quả sử dụng VLĐ có thể thúc đẩy doanh nghiệp tăng cường công tác quản lý kinh doanh, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả VLĐ. Để thấy được hiệu quả sử dụng VLĐ của công ty ta xem xét bảng 10 (trang bên): Qua phân tích bảng hiệu quả sử dụng VLĐ của công ty ta thấy: - Doanh lợi VLĐ năm 2000 là 6,01% nghĩa là 1 đồng VLĐ sử dụng trong kỳ tạo ra 0,0601 đồng lợi nhuận. Năm 2001, chỉ tiêu này là 5,36%, như vậy 1 đồng VLĐ sử dụng trong năm 2001 tạo ra được 0,0536 đồng lợi nhuận trước thuế, giảm 10,82% so với năm 2000. Vậy mức độ sinh lời của đồng VLĐ là chưa cao. Công ty cần phải điều chỉnh lại các khoản chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí hoạt động tài chính sao cho phù hợp, hợp lý hơn để tăng hiệu quả sử dụng VLĐ. Bảng10 : Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty qua hai năm 2000 và 2001 Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2000 Năm 2001 So sánh 2001/2000 ± tuyệt đối ± % 1. Tổng doanh thu 1.000đ 214.092.193 219.151.840 5.059.647 236 2.Doanh thu thuần “ 213.735.206 218.762.273 5.027.067 2,35 3.Lợi nhuận thuần “ 3.847.233 3.686.144 -161.089 4,19 4.Giá vốn hàng bán “ 148.545.968 149.042.736 496.768 0,33 5.Vốn lưu động bình quân “ 63.966.471 68.795.910 4.829.439 7,55 6.Vốn vật tư hàng hoá bình quân “ 6.299.132 9.141.644 2.842.512 45,13 7.Số dư BQ các khoản phải thu “ 54.998.518 57.692.519 2.694.001 4,9 8.Vòng quay VLĐ ( 2 : 5) Vòng 3,34 3,18 -0,16 -4,79 9.Kỳ luân chuyển VLĐ (5:2) Ngày 108 113 5 10.Vòng quay vốn vật tư hàng hoá (4: 6) Vòng 23,58 16,3 -7,28 -30,87 11.Số ngày một vòng quay vốn vật tư hàng hoá Ngày 15 22 7 12.Vòng quay các khoản phải thu Vòng 3,89 3,79 -0,1 13.Kỳ thu tiền trung bình Ngày 93 95 2 14. Doanh lợi VLĐ(3:5) ____ 6,01 5,36 -0,65 15. Mức đảm nhiệm VLĐ ____ 0,3 0,31 0,01 - Về tốc độ luân chuyển VLĐ. Năm 2001, chỉ tiêu này cũng có sự giảm sút, nó được thể hiện thông qua sự giảm sút của số vòng quay VLĐ và sự tăng lên của kỳ luân chuyển VLĐ. Cụ thể: năm 2001, số vòng quay VLĐ là 3,18 vòng đã giảm 0,26 vòng so với năm 2000. Kỳ luân chuyển VLĐ là 113 ngày, đã tăng 5 ngày so với năm 2000. Điều này chứng tỏ tốc độ luân chuyển VLĐ của công ty rất chậm, hiệu quả sử dụng vốn của công ty không cao. Đây là một biểu hiện không tốt trong việc sử dụng vốn. - Số vòng quay của vốn vật tư hàng hoá là 16,3 vòng giảm 7,28 vòng so với năm 2000, cho thấy công tác tổ chức mua sắm, dự trữ vật tư hàng hoá là không tốt. Phải mất 22 ngày vốn vật tư hàng hoá mới quay hết một vòng. - Vòng quay các khoản phải thu năm 2001 là 3,79 vòng đã giảm so với năm 2000 là 0,1 vòng. Điều này chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải thu thành tiền chậm. Đây là biểu hiện không tốt cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Công ty bị chiếm dụng vốn nên việc chủ động trong việc sử dụng vốn là rất khó khăn. Kỳ thu tiền trung bình là 95 ngày đã tăng so với năm 2000 là 2 vòng lại càng khẳng định việc tổ chức thanh toán với khách hàng là không tốt. Số ngày cần thiết để thu hồi các khoản nợ là hơn hai tháng lại càng hạn chế việc huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. - Mức độ đảm nhiệm VLĐ năm 2000 là 0,3 có nghĩa là để tạo ra một đồng doanh thu cần 0,3 đồng VLĐ. Năm 2001, để tạo ra một đồng doanh thu thì lại phải dùng đến 0,31 đồng VLĐ. Như vậy, có thể nói, hiệu quả sử dụng VLĐ của công ty năm 2001 là chưa được tốt. Công ty cần có phải có nhiều biện pháp thích hợp hơn để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong thời gian tới. 7. Những vấn đề đặt ra trong việc tổ chức quản lý, sử dụng VLĐ của công ty Công ty gạch ốp lát Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà nước với hoạt động chủ yếu là sản xuất và kinh doanh gạch ốp và lát nền. Trong điều kiện kinh tế nước ta có nhiều thay đổi, công ty còn gặp nhiều khó khăn từ khau huy động, tổ chức và sử dụng VLĐ phục vụ cho mục đích kinh doanh cho đến khâu tiêu thụ sản phẩm. Vốn ngân sách cấp hạn hẹp, vốn tự bổ sung lại ít nên công ty phải tự tìm nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu vốn của mình. Hiện nay, ngoài hai nguồn vốn trên công ty còn huy động VLĐ từ các nguồn vốn chiếm dụng của người bán, vốn chiếm dụng của ngân sách Nhà nước, các khoản phải trả công nhân viên. Đặc biệt là nguồn vốn vay, chủ yếu là vay ngắn hạn ngân hàng.Trong khi đó, điều kiện cho vay của ngân hàng: Ngoài thủ tục ra, thì ngân hàng chỉ cho công ty vay số tiền không quá tổng vốn kinh doanh tự có. Trong quá trình sử dụng VLĐ, công ty cũng còn gặp phải nhiều khó khăn. Công ty bị khách hàng chiếm dụng vốn nhiều buộc công ty phải đi chiếm dụng vốn của người khác. Ngoài ra còn một số tác động của nhân tố khách quan làm giảm hiệu quả sử dụng VLĐ của công ty như chính sách tiền tệ của nhà nước, thu nhập của người mua hàng.... Khắc phục những khó khăn đó, công ty đã đạt được những thành tựu đáng kể: Công ty đã rất năng động trong việc sử dụng vốn chiếm dụng được, giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục, không bị gián đoạn. Không ngừng tìm kiếm khách hàng mới và thị trường mới để từ đó thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm. Hoạt động kinh doanh vẫn có lãi, đời sống cán bộ công nhân viên không ngừng được mở rộng. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được, công ty còn bộc lộ một số tồn tại trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như trong công tác quản lý tài chính. Cụ thể: Công ty còn thiếu sự chủ động về nguồn VLĐ. Vốn lưu động của công ty chủ yếu được tài trợ bằng nguồn VLĐ tạm thời, còn nguồn VLĐ thường xuyên thì ít cho nên công ty đã không chủ động được trong việc lập kế hoạch VLĐ dài hạn. Việc quản lý các khoản phải thu của khách hàng chưa tốt, làm cho công ty phải đi vay vốn ngân hàng để đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, từ đó làm giảm lợi nhuận. Kỳ thu tiền bình quân còn lớn, vòng quay các khoản phải thu chậm. Công tác tiêu thụ sản phẩm chưa tốt. Sự gia tăng của hàng tồn kho một mặt gây khó khăn trong việc tìm kiếm lợi nhuận, mặt khác đòi hỏi công ty phải mất thêm một khoản tiền phục vụ cho việc theo dõi, bảo quản, trông coi, bảo dưỡng...gây ảnh hưởng không tốt trong việc sử dụng vốn. Qua tìm hiểu thực tế về tình hình VLĐ của công ty gạch ốp lát Hà Nội ta thấy được những khó khăn phức tạp của việc tổ chức quản lý và sử dụng VLĐ. Công ty cần phải nhìn nhận lại tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và tình hình VLĐ nói riêng từ đó tìm ra biện pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả tổ chức và sử dụng VLĐ, nâng cao hiệu quả kinh doanh. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TẠI CÔNG TY GẠCH ỐP LÁT HÀ NỘI 1. Phương hướng phát triển của công ty trong thời gian tới. Trong những năm qua, công ty gạch ốp lát Hà Nội đã đạt được những kết quả nhất định, sản xuất kinh doanh liên tục có lãi. Mặc dù, còn gặp phải nhiều khó khăn trong công tác sử dụng vốn lưu động, nhưng để khắc phục những khó khăn đó công ty đã không ngừng vươn lên phát huy nội lực và tận dụng mọi tiềm năng để đạt được kết quả cao hơn trong thời gian tới. Cụ thể trong những năm tới, công ty đề ra phương hướng tăng trưởng hàng năm khoảng từ 15%-20%. Ngoài ra, công ty còn tìm những biện pháp tổ chức quản lý, sản xuất, khai thác nhiều đơn đặt hàng trực tiếp để nâng cao hơn lợi nhuận, tạo điều kiện làm việc tốt hơn cho cán bộ công nhân viên, tăng đóng góp vào ngân sách nhà nước và tăng thu nhập bình quân hàng năm. Trên cơ sở những kết quả đã đạt được trong những năm qua, công ty đã xây dựng kế hoạch dự kiến năm 2002 với tổng doanh thu đạt 242.716.208(nđ) trong đó trả tín dụng Nhà nước 35.996.542(nđ), thu nhập bình quân 1.690.000 đồng/tháng.Trong những năm tới, công ty sẽ tiếp tục nghiên cứu và tìm các phương án phát triển mở rộng thị trường. Mục tiêu chiến lược của công ty là: Nâng cao chất lượng sản phẩm để có thể mở rộng thị trường của công ty tới thị trường của các nước phát triển như: ý, Đức, Tây Ban Nha, Mỹ... Tăng cường khâu tiếp thị, tích cực trong việc tìm kiếm nguồn cung cấp nguyên vật liệu phù hợp, giá rẻ, tăng cường sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước để giảm chi phí, hạ thấp giá thành, tăng lợi nhuận. Doanh thu tăng 15% -20% so với năm 2001, phấn đấu giảm giá thành, tăng khả năng cạnh tranh. Phấn đấu giảm khoản phải thu của khách hàng đồng thời vẫn đảm bảo tăng lượng hàng hoá tiêu thụ. Không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nhất là việc nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ. 2. Một số giải pháp đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý và sử dụng vốn lưu động tại công ty gạch ốp lát Hà Nội. Qua phân tích, nghiên cứu tình hình tổ chức quản lý, sử dụng VLĐ tại công ty gạch ốp lát Hà Nội có thể thấy việc tổ chức và sử dụng VLĐ của công ty còn một số hạn chế nhất định cần phải được tiếp tục nghiên cứu, giải quyết. Với thực tế nghiên cứu cùng với sự hiểu biết của mình, em xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiến nhằm tổ chức tốt hơn công tác quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ tại công ty gạch ốp lát Hà Nội. 2.1. Thực hiện tốt việc kế hoạch hoá VLĐ, đảm bảo việc chủ động huy động các nguồn vốn đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để tăng cường hiệu quả của số VLĐ bỏ ra, điều quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp là phải xác định được nhu cầu VLĐ tối thiểu. Đó là lượng VLĐ tối ưu vừa đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục hiệu quả vừa giúp cho công tác sử dụng VLĐ được chủ động, hợp lý, tiết kiệm. Thực trạng sử dụng VLĐ của công ty gạch ốp lát Hà Nội cho thấy công ty chưa thực sự chủ động trong công tác tổ chức và sử dụng vốn.Vốn lưu động của công ty chủ yếu là vốn vay (chiếm 75,41% tổng nguồn VLĐ năm 2000 và chiếm 77,79% tổng VLĐ năm 2001). Việc sử dụng vốn vay như con dao hai lưỡi. Một mặt nó giúp cho công ty có vốn để kinh doanh, mặt khác nó tạo nên gánh nặng nợ nần mà chỉ khi hoạt động sản xuất kinh doanh bị xấu đi là sẽ biết hậu quả của nó ngay vì tiền lãi phải trả rất lớn. Trong khi đó, nguồn VLĐ thường xuyên quá ít (chỉ chiếm 22,21% tổng nguồn VLĐ) làm công ty mất đi tính chủ động trong việc sử dụng vốn kinh doanh. Các khoản phải thanh toán chủ yếu phụ thuộc từ luồng thu từ bán hàng hay vay của công nhân qua quỹ lương. Thực tế cho thấy nếu hoạt động như vậy thì sẽ không có hiệu quả bền vững. Do đó, việc xác định nhu cầu VLĐ là hết sức cần thiết. Để xác định được nhu cầu VLĐ một cách chính xác, có thể đi theo hướng sau: - Trước hết, công ty cần tính toán nhu cầu VLĐ cần thiết đó, tính toán nhu cầu VLĐ cho từng khâu, từng khoản mục dựa trên các chỉ tiêu tài chính của kỳ trước và dự định về hoạt động của công ty trong kỳ kế hoạch để từ đó huy động đáp ứng VLĐ cho từng khâu từng khoản mục một cách đầy đủ, kịp thời, tránh lãng phí và đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục hiệu quả. Có nhiều cách để xác định nhu cầu VLĐ tối thiểu nhưng theo em công ty Gạch ốp lát Hà Nội nên tính toán nhu cầu này theo phương pháp tính toán căn cứ vào tổng mức luân chuyển vốn và số vòng quay VLĐ dự tính năm kế hoạch. Phương pháp tính như sau: Vnc = M1 L1 Trong đó: Vnc : Nhu cầu VLĐ năm kế hoạch M1 : Tổng mức luân chuyển VLĐ năm kế hoạch L1 : Số vòng quay VLĐ kỳ kế hoạch Như đã phân tích ở trên, tổng mức luân chuyển vốn năm 2001 đã tăng 2,35% so với năm 2000, và dựa trên dự định mở rộng sản xuất loại gạch ốp tường nhiều hơn nữa, vì thực tế năm 2001 vừa qua, doanh thu tiêu thụ loại gạch này đã tăng so với năm 2000, do vậy kế hoạch cho năm 2002 của công ty là sẽ tăng doanh thu, tăng tổng mức luân chuyển vốn năm 2002 là 10%, tức là tổng mức luân chuyển vốn năm 2002 là: 218.762.273.247 + (218.762.273.247 x 10%) = 240.638.500.571đ Và số vòng quay VLĐ cũng tăng thêm 0,5 vòng so với năm 2001, tức là đạt 3,7 vòng/ năm. Vậy nhu cầu VLĐ cho năm kế hoạch là: 240.638.500.571 Vnc = = 65.037.432.587 đ 3.7 Để xác định được nhu cầu VLĐ cần thiết năm kế hoạch cho từng khâu kinh doanh theo phương pháp tính toán trên, công ty có thể căn cứ vào tỷ trọng VLĐ được phân bổ hợp lý trên các khâu kinh doanh. Theo thống kê từ các năm trước, tỷ trọng VLĐ ở các khâu kinh doanh như sau: - VLĐ khâu dự trữ sản xuất: gồm giá trị các khoản NVL chính, vật liệu phụ, nhiên liệu động lực, công cụ lao động nhỏ, tổng cộng chiếm 10% tổng VLĐ. - VLĐ khâu sản xuất gồm giá trị các sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, tổng cộng chiếm 40% tổng VLĐ. - VLĐ trong khâu lưu thông chiếm 50% tổng VLĐ. Vậy nhu cầu VLĐ năm kế hoạch cho từng khâu kinh doanh là: - Khâu dự trữ sản xuất: 65.037.432.587 x 10% = 6.503.743.259 đ - Khâu sản xuất : 65.037.432.587 x 40% = 26.014.973.034 đ - Khâu lưu thông : 65.037.432.587 x 50% = 32.518.746.294 đ Cộng: 65.037.432.587 đ Phương pháp này có ưu điểm là tương đối đơn giản, giúp doanh nghiệp ước tính được nhanh chóng nhu cầu VLĐ năm kế hoạch để xác định nguồn tài trợ phù hợp. - Trên cơ sở nhu cầu VLĐ theo kế hoạch đã lập công ty cần có kế hoạch huy động và sử dụng vốn sao cho chi phí vốn bỏ ra thấp nhất và thu được hiệu quả cao nhất. ở đây cũng cần thấy rằng để quá trình SXKD được tiến hành thuận lợi thì nguồn VLĐ thường xuyên cần thiết của doanh nghiệp phải là nguồn vốn ổn định có tính vững chắc. Từ thực trạng của công ty ta thấy, nguồn vay ngắn hạn của công ty đã được khai thác triệt để (chiếm 61,80% tổng nợ ngắn hạn), công ty cần phải sử dụng nguồn vốn này một cách linh hoạt, hết sức khéo léo không nên lạm dụng quá gây mất uy tín với khách hàng, vì đây là những khoản nợ dưới một năm thậm chí một vài tháng nên công ty phải thường xuyên thay đổi chúng để không bị biến thành con nợ khó đòi. Để thuận lợi cho công tác tính toán, công ty nên áp dụng phương pháp tỷ lệ phần trăm trên doanh thu để xác định nhu cầu VLĐ của mình. Cụ thể như sau: Doanh thu thuần của năm 2001 là 218.762.273.247 đồng, từ đó ta có tỷ lệ phần trăm của các khoản mục có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với doanh thu như sau: Tài sản % Nguồn vốn % 1.Tiền 0,3 1.Phải trả người bán 2,4 2.Các khoản phải thu 27,0 2.Thuế và các khoản nộp NN 4,0 3.Hàng tồn kho 4,6 3.Phải trả CNV 0,7 4.Tài sản lưu động khác 0,5 4.Phải trả phải nộp khác 0,8 Cộng 32,4 Cộng 7,9 Như vậy, cứ 1 đồng doanh thu tiêu thụ sản phẩm tăng lên, công ty cần phải tăng 0,324 đồng VLĐ để bổ sung cho phần tài sản. Cứ 1 đồng doanh thu tiêu thụ sản phẩm tăng lên thì công ty chiếm dụng đương nhiên được 0,079 đồng. Vậy thực chất 1 đồng doanh thu tăng lên, công ty cần bổ sung: 0,324 - 0,079 = 0,245 đồng Vậy nhu cầu VLĐ cần huy động các nguồn khác ngoài nguồn chiếm dụng cho kỳ kế hoạch là: 240.638.500.571 - 218.762.273.247 = 21.876.227.324 đồng Sau khi xác định được nhu cầu VLĐ, cần xác định số vốn thừa thiếu để từ đó tìm nguồn tài trợ có lợi nhất đảm bảo cung ứng đầy đủ cho sản xuất với chi phí sử dụng vốn thấp nhất. - Khi thực hiện công ty cần căn cứ vào kế hoạch huy động và sử dụng VLĐ đã tạo lập được làm cơ sở điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế của công ty. Trong thực tế, nếu phát sinh thêm nhu cầu vốn công ty cần chủ động cung ứng kịp thời đảm bảo cho quá trình sản xuất được liên tục. - Việc lập kế hoạch huy động nhất thiết phải dựa vào sự phân tích tính toán các chỉ tiêu tài chính của kỳ trước với những dự tính về tình hình hoạt động kinh doanh, khả năng tăng trưởng trong kỳ tới và những dự kiến về sự biến động của thị trường như căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh của kỳ trước, dự kiến số lượng đơn đặt hàng cho kế hoạch từ đó dự kiến số lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ, dự kiến số VLĐ cần thiết cho kỳ kế hoạch. 2.2. Tổ chức tốt công tác tiêu thụ sản phẩm, đẩy nhanh quá trình thu hồi tiền hàng. Như đã phân tích ở trên, trong năm 2001, VLĐ của công ty còn bị chiếm dụng quá lớn và với tỷ trọng cao (83,45%). Điều đó cho thấy công tác bán hàng, thanh toán tiền hàng, thu hồi công nợ cần phải khắc phục hơn nữa. Công ty chưa có các biện pháp khuyến khích khách hàng mua với khối lượng lớn, thanh toán ngay hoặc thanh toán nhanh. Khi bán hàng qua đại lý thì bán được hàng, các đại lý mới thanh toán nên đã làm cho kỳ thu tiền bình quân kéo dài đến 95 ngày. Do đó, để đảm bảo sự ổn định, lành mạnhvà tự chủ về mặt tài chính, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển của VLĐ từ đó góp phần sử dụng vốn có hiệu quả, công ty cần có những biện pháp hữu hiệu để hạn chế tới mức tối đa tình trạng nợ nần dây dưa, chưa thanh toán của khách hàng. Theo em, công ty cần áp dụng một số biện pháp sau: + Trước khi ký kết hợp đồng tiêu thụ công ty cần xem xét kỹ lưỡng cơ sở vật chất của khách hàng, tình hình tài chính, khả năng tiêu thụ sản phẩm của khách hàng, công ty có thể từ chối ký hợp đồng với những khách hàng nợ nần dây dưa hoặc không có khả năng thanh toán, hoặc những đơn đặt hàng mà số tiền ứng trước là rất nhỏ. + Trong các hợp đồng tiêu thụ sản phẩm phải quy định rõ thời hạn thanh toán, phương thức thanh toán... và yêu cầu các bên phải chịu trách nhiệm một cách đầy đủ, nghiêm túc các điều khoản đã quy định trong hợp đồng phù hợp với chế độ chính sách tài chính quy định. Chẳng hạn, nếu thanh toán chậm so với thời hạn quy định phải chịu vi phạm hợp đồng, phạt nợ quá hạn hoặc phải chịu lãi theo lãi suất nợ quá hạn của ngân hàng. + Mở sổ theo dõi chi tiết các khoản nợ phải thu trong và ngoài công ty, thường xuyên đôn đốc để thu hồi đúng hạn. Nếu công ty có nhiều khách hàng mua chịu, các tài khoản kế toán phải được thiết kế sao cho chúng nêu lên được mỗi khách hàng đã mua được bao nhiêu, đã trả được bao nhiêu và công ty còn phải thu của mỗi khách hàng là bao nhiêu nữa. Và từ các sổ chi tiết đó, công ty nên lập dự phòng cho các khoản phải thu khó đòi. + Sử dụng chiết khấu bán hàng, giảm giá cho khách hàng mua với số lượng lớn, thanh toán sớm tiền hàng nhằm khuyến khích khách hàng thanh toán nhanh, hạn chế thanh toán chậm dẫn đến nợ nần dây dưa khó đòi. Để làm được điều đó thì tỷ lệ chiết khấu phải được đặt sao cho phù hợp, phát huy được hiệu quả của nó. Theo em, để có thể xác định tỷ lệ chiết khấu hợp lý cần phải đặt nó trong mối liên hệ với lãi suất vay vốn hiện hành của ngân hàng. Bởi vì, khi bán hàng trả chậm, công ty sẽ phải đi vay vốn để đáp ứng nhu cầu vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hàng liên tục. Vì vậy, việc công ty giảm cho khách hàng một tỷ lệ nhất định tính trên tổng số tiền hàng mà tỷ lệ đó nhỏ hơn lãi suất vay vốn để thu hồi tiền hàng ngay vẫn có lợi hơn là không chiết khấu để cho khách hàng nợ một thời gian và trong thời gian đó công ty lại phải đi vay vốn để chịu tiền lãi. Giả sử tất cả các khoản phải thu của khách hàng có thời hạn 1 tháng. Tại thời điểm 31/12/2001 khoản phải thu của khách hàng là 59.065.813.777 đồng. Với việc vay vốn ngân hàng với lãi suất 0,6%/ tháng, nếu khi khách hàng thanh toán ngay thì công ty sẽ không phải chịu số tiền lãi là: 59.065.813.777 x 0,6% = 354.394.883 đồng Do đó, để thu được tiền hàng ngay, công ty có thể chiết khấu cho khách hàng thanh toán ngay là 0,3% giá trị hàng bán. Khi đó số tiền chiết khấu cho khách hàng là: 59.065.813.777 x 0,3% = 177.197.441 đồng Số tiền tiết kiệm được do áp dụng chiết khấu là: 177.197.441 - 354.394.883 = - 177.197.442 đồng Từ những tính toán trên, công ty nên sử dụng tỷ lệ chiết khấu như sau: - Nếu khách hàng thanh toán ngay khi mua hàng, công ty có thể sử dụng chiết khấu cho khách hàng là 0,3% giá trị hàng bán. - Nếu khách hàng thanh toán chậm trong vòng 15 ngày công ty sẽ phải chịu mức lãi suất là: 15 ngày x 0,6% = 0,3% 30 ngày Do đó công ty có thể chiết khấu cho khách hàng 0,2% giá trị hàng bán. - Nếu khách hàng thanh toán trong vòng 15- 20 ngày, công ty sẽ phải chịu mức lãi suất là: 25 ngày x 0,6% = 0,5% 30 ngày Công ty có thể chiết khấu cho khách hàng 0.1% giá trị hàng bán. - Nếu khách hàng thanh toán trong vòng 15 -30 ngày thì công ty sẽ phải chịu toàn bộ lãi suất là 0,6%/ tháng khi vay vốn ngân hàng, do đó công ty không cần phải chiết khấu cho khách hàng - Nếu khách hàng thanh toán chậm sau một tháng công ty sẽ tính lãi suất theo lãi suất vay vốn của ngân hàng hiện hành trên số thanh toán chậm vốn trước đó. Việc sử dụng chiết khấu bán hàng như trên sẽ khuyến khích khách hàng thanh toán nhanh hơn và tỷ lệ chiết khấu có thể điều chỉnh dễ dàng khi lãi suất ngân hàng thay đổi. + Định kỳ công ty nên tổng kết công tác tiêu thụ, liệt kê những khách hàng quen, khách hàng mua với khối lượng lớn, mua thường xuyên thì nên hồi khấu một phần tiền hàng cho họ tính theo một tỷ lệ chiết khấu nhất định trên tổng số tiền hàng mà họ đã mua và đã thanh toán cho công ty. Sau đó, công ty có thể tổ chức hội nghị khách hàng để thông báo quyết định hồi khấu của mình trước toàn thể khách hàng nhằm khích lệ các khách hàng khác thanh toán nhanh. Việc sử dụng chiết khấu bán hàng, giảm giá và thực hiện hồi khấu, công ty cần ghi rõ trong hợp đồng tiêu thụ sản phẩm giữa hai bên và với cách bán hàng trên thì chắc chắn rằng khối lượng thành phẩm tồn kho của công ty sẽ giảm xuống, kỳ thu tiền bình quân sẽ rút ngắn lại, vốn sẽ luân chuyển nhanh hơn, sử dụng vốn sẽ tiết kiệm hơn và do đó việc sử dụng vốn nói chung và VLĐ nói riêng sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Ngoài ra, đối với các khoản nợ quá hạn đã đến hạn trả nhưng chưa thu được tiền, công ty cũng cần phải có những biện pháp tích cực để đòi nợ. Các biện pháp này có thể từ mềm mỏng như gọi điện, viết thư yêu cầu, đôn đốc hoặc cứng rắn hơn như cử người trực tiếp đến đòi, cắt bỏ hợp đồng, tiếp theo phạt tiền và thu hồi lại sản phẩm của công ty hoặc có thể gửi tới toà án, yêu cầu toà án can thiệp. 2.3. Thực hiện tồn kho hợp lý nguyên vật liệu. Hàng tồn kho dự trữ có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Việc sử dụng tiết kiệm và có kế hoạch dự trữ linh hoạt hợp lý sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến việc hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ của công ty. Thực tế ở công ty Gạch ốp lát Hà Nội, hàng tồn kho chiếm tỷ trọng tương đối lớn (gần 20%) và cũng có xu hướng ngày càng tăng lên.Trong đó nguyên vật liệu và thành phẩm tồn kho chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng hàng tồn kho.Để đảm bảo cho nguyên vật liệu của công ty được sử dụng tiết kiệm với mức dự trữ hợp lý công ty cần phải: - Lập kế hoạch sản xuất sản phẩm năm kế hoạch, trên cơ sở tình hình năm báo cáo, chi tiết khối lượng sản xuất theo từng tháng, từng quý. Kiểm tra bám sát chặt chẽ khâu mua nguyên vật liệu: khi nhận hàng từ người bán, công y cần phải kiểm tra chất lượng kỹ thuật cẩn thận từng kiện hàng. Nếu có hàng kém phẩm chất thì phải đề nghị người bán đền bù, tránh thiệt hại cho công ty. - Đối với nguyên vật liệu nhập ngoại, công ty cần phải có kế hoạch thu mua, dự

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxTC-09.docx