Đề tài Một số giải pháp hoàn thiện thị trường chứng khoán ở Việt Nam

Tài liệu Đề tài Một số giải pháp hoàn thiện thị trường chứng khoán ở Việt Nam: Mục lục Lời mở đầu 4 I. Tổng quan về thị trường chứng khoán 5 1 Chứng khoán 5 1.1 Khái niệm chứng khoán 5 1.2 Phân loại chứng khoán 5 1.2.1 Cổ phiếu 5 1.2.2 Trái phiếu 6 1.2.3 Chứng chỉ quỹ 7 1.2.4 Chứng khoán phái sinh 8 2 Thị trường chứng khoán 9 2.1 Quá trình hình thành và phát triển thị trường chứng khoán 9 2.2 Bản chất, chức năng, nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán 11 2.2.1 Bản chất của thị trường chứng khoán 11 2.2.2 Chức năng của thị trường chứng khoán 12 2.2.3 Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị truờng chứng khoán.. 14 2.3 Cơ cấu tổ chức của thị trường chứng khoán 16 2.4 Phân loại thị trường chứng khoán… 17 2.5 Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán 19 2.5.1 Nhà phát hành 19 2.5.2 Nhà đầu tư… 20 2.5.3 Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán 20 2.5.4 Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán .21 2.6 Cơ chế điều hành và giám sát thị trường chứng khoán 22 2.6.1 Khái niệm điều hành và giám sát thị trường 22 2.6.2 ...

doc43 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1025 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp hoàn thiện thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Lời mở đầu 4 I. Tổng quan về thị trường chứng khoán 5 1 Chứng khoán 5 1.1 Khái niệm chứng khoán 5 1.2 Phân loại chứng khoán 5 1.2.1 Cổ phiếu 5 1.2.2 Trái phiếu 6 1.2.3 Chứng chỉ quỹ 7 1.2.4 Chứng khoán phái sinh 8 2 Thị trường chứng khoán 9 2.1 Quá trình hình thành và phát triển thị trường chứng khoán 9 2.2 Bản chất, chức năng, nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán 11 2.2.1 Bản chất của thị trường chứng khoán 11 2.2.2 Chức năng của thị trường chứng khoán 12 2.2.3 Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị truờng chứng khoán.. 14 2.3 Cơ cấu tổ chức của thị trường chứng khoán 16 2.4 Phân loại thị trường chứng khoán… 17 2.5 Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán 19 2.5.1 Nhà phát hành 19 2.5.2 Nhà đầu tư… 20 2.5.3 Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán 20 2.5.4 Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán .21 2.6 Cơ chế điều hành và giám sát thị trường chứng khoán 22 2.6.1 Khái niệm điều hành và giám sát thị trường 22 2.6.2 Sự cần thiết phải điều hành và giám sát thị trường chứng khoán 23 2.6.3 Cơ chế điều hành và giám sát thị trường chứng khoán 23 II. Thị trường chứng khoán ở Việt Nam 25 1 Sự cần thiết của việc phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam 25 2 Sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam 26 3 Thuận lợi và khó khăn trong phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam 28 3.1 Những thuận lợi 28 3.2 Những khó khăn 30 4 Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay 32 4.1 Một số mặt tích cực 32 4.2 Một số mặt hạn chế 35 III. Các giải pháp phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam 38 1 Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2010 38 1.1 Mục tiêu phát triển 38 1.2 Quan điểm và nguyên tắc phát triển thị trường chứng khoán 38 2 Một số giải pháp nhằm phát triển thị trường chứng khoán. 39 Kết luận 42 Tài liệu tham khảo 43 Lời mở đầu Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam gắn liền với sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khóan. Trong 7 năm qua, thị trường chứng khóan Việt Nam đã dần khẳng định trở thành phong vũ biểu của nền kinh tế nước ta. Hiện nay, khi Việt Nam thực hiện hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới sẽ gặp nhiều khó khăn, nhưng lại mở ra những vận hội lớn cho tăng trưởng xuất nhập khẩu, tăng đầu tư, tăng chu chuyển vốn, từ đó có điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển. Trong phạm vi bài viết này, em xin đề cập đến một phạm vi nhỏ của thị trường chứng khoán trong thời kì nước ta gia nhập vào nền kinh tế thế giới, đó là vấn đề “Một số giải pháp hoàn thiện thị trường chứng khoán ở Việt Nam”. Nội dung bài viết này bao gồm: I. Tổng quan về thị trường chứng khoán II. Thị trường chứng khoán ở Việt Nam III. Các giải pháp phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam Kết luận: Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Khoa học quản lý, đặc biệt xin cảm ơn thầy giáo TS.Bùi Đức Thọ đã chỉ bảo và giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiên đề tài. Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng do khả năng và kinh nghiệm có hạn nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp và phê bình của các thầy cô. I. Tổng quan về thị trường chứng khoán 1. Chứng khoán 1.1 Khái niệm chứng khoán Chứng khoán là hàng hóa của thị trường chứng khoán. Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành, đó là những tài sản tài chính vì nó mang lại thu nhập, khi cần người sở hữu có thể bán nó để thu tiền về. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử. Các chứng khoán do chính phủ, chính quyền địa phương và các công ty phát hành với mức giá nhất định. Sau khi phát hành, các chứng khoán có thể mua đi bán lại nhiều lần trên thị trường chứng khoán theo các mức giá khác nhau tùy thuộc vào cung và cầu trên thị trường. 1.2 Phân loại chứng khoán Theo sự phát triển của thị trường, hàng hoá ngày càng phong phú và đa dạng. Căn cứ vào tính chất, chứng khoán thường được phân chia thành 4 loại chính là cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ và các công cụ phái sinh. 1.2.1 Cổ phiếu Cổ phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần. Lịch sử ra đời cổ phiếu gắn liền với lịch sử hình thành công ty cổ phần. Hay nói cách khác, cổ phiếu chính là sản phẩm riêng có của công ty cổ phần. Khi một công ty gọi vốn, số vốn cần gọi được chia thành nhiều phần nhỏ bằng nhau gọi là cổ phần. Người mua cổ phần gọi là cổ đông. Cổ đông được cấp một giấy xác nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu. Như vậy cổ phiếu là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu của cổ đông đối với công ty cổ phần. Quyền sở hữu của cổ đông trong công ty tương ứng với số lượng cổ phiếu mà cổ đông nắm giữ. Do đó, cổ phiếu còn được gọi là chứng khoán vốn. Cổ phiếu có những đặc điểm sau: - Là giấy chứng nhận góp vốn vào một công ty cổ phần. - Không có kỳ hạn, tồn tại cùng với sự tồn tại của tổ chức phát hành nó. - Được quyền nhận cổ tức hàng năm, có thể biến động hay cố định tuỳ theo từng loại cổ phiếu của tổ chức phát hành. - Người mua cổ phiếu chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn góp của mình và được quyền biểu quyết các vấn đề có liên quan. - Được quyền chuyển nhượng nếu là cổ phiếu vô danh. - Được chia phần tài sản còn lại theo quy định của pháp luật nếu công ty giải thể. 1.2.2 Trái phiếu Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành( người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán( người cho vay) một khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả số tiền vay ban đầu khi nó đáo hạn. Bản chất của trái phiếu là một công cụ nợ, được phát hành dưới hình thức chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu trái phiếu đối với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát hành. Việc phát hành công cụ này là tổ chức phát hành đứng ra vay theo phương thức có hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Người sở hữu trái phiếu sẽ không chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả hoạt động sử dụng vốn của tổ chức phát hành và trong mọi trường hợp, tổ chức phát hành phải có trách nhiệm hoàn trả cho người sở hữu trái phiếu theo các cam kết đã được xác định trong trái phiếu. Trái phiếu thường có thời hạn xác định. Thông thường trái phiếu có những đặc điểm chung sau: + Không làm thay đổi quan hệ sở hữu trong doanh nghiệp, tức là không ảnh hưởng đến quyền quản lý và kiểm soát doanh nghiệp, do đó được coi là biện pháp an toàn về mặt sở hữu để huy động vốn. + Chi phí vốn của phát hành trái phiếu bao gồm lợi tức trái phiếu phải trả cho người mua và các chi phí phát hành được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do đó có lợi cho doanh nghiệp về phương diện thuế thu nhập doanh nghiệp. + Các doanh nghiệp có thể chủ động phát hành trái phiếu theo nhu cầu vốn thực tế và điều chỉnh kì hạn huy động tương ứng hoặc ngắn hơn so với thời gian hoàn vốn của dự án. Tuỳ thuộc vào quyết định của từng doanh nghiệp và đặc điểm của từng dự án đầu tư mà lựa chọn trái phiếu phát hành theo lãi suất cố định hay thả nổi theo lãi suất thị trường. + Nghĩa vụ trả nợ (bao gồm gốc và lãi) đối với người sở hữu trái phiếu không phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh cuả tổ chức phát hành trái phiếu. 1.2.3 Chứng chỉ quỹ Chứng chỉ quỹ là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với một phần vốn góp của quỹ đại chúng. Về bản chất chứng khoán quỹ cũng giống như cổ phiếu của một công ty: là bằng chứng xác nhận quyền sở hữu, hưởng lợi nhuận trên phần vốn góp, và đặc biệt được niêm yết trên thị trường chứng khoán để mua bán giữa các nhà đầu tư vì quỹ đại chúng là quỹ đầu tư chứng khoán hình thành từ vốn góp của nhà đầu tư với mục đích kiếm lợi nhuận từ việc đa dạng hóa đầu tư vào chứng khoán và các dạng tài sản đầu tư khác nhau nhằm phân tán rủi ro, trong đó nhà đầu tư không có quyền kiểm soát hang ngày đối với việc ra quyết định đầu tư của quỹ. Khi muốn thành lập quỹ thì các công ty quản lý quỹ phải phát hành chứng chỉ quỹ, nhà đầu tư mua chứng chỉ quỹ tức là đã xác nhận sự góp vốn của mình vào quỹ chung đó. Tuy nhiên những điểm khác nhau giữa cổ phiếu và chứng chỉ quỹ như sau: - Thứ nhất: cổ phiếu là phương tiện huy động vốn của một công ty kinh doanh một vài ngành nghề cụ thể còn chứng chỉ quỹ là phương tiện để thành lập quỹ của một quỹ đầu tư chứng khoán mà ngành nghề hoạt động chính là “kinh doanh chứng khoán”. - Thứ hai: nếu người sở hữu cổ phiếu phổ thông có quyền biểu quyết hay quản lý công ty thì nhà đầu tư sở hữu chứng khoán quỹ không có quyền tương tự, mọi quyền hành đều do công ty quản lý quỹ quy định. - Thứ ba: được quản lý bởi một đội ngũ quản lý quỹ chuyên nghiệp đứng ra “ kinh doanh chứng khoán” nên độ an toàn và lợi nhuận kỳ vọng cao hơn khi đầu tư vào cổ phiếu mà không cần phải suy tính đầu tư vào chứng khoán nào. 1.2.4 Chứng khoán phái sinh Chứng khoán phái sinh là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ đã có như cổ phiếu, trái phiếu, nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận. Các chứng khoán phái sinh sẽ là đòn bẩy, làm tăng nhiều lần giá trị các đối tượng đầu tư như cổ phiếu, trái phiếu, để đảm bảo rằng nếu giá của cổ phiếu, trái phiếu có thay đổi bao nhiêu thì giá của các công cụ phái sinh vẫn sẽ được duy trì ở mức ban đầu. Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính như quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn. 2. Thị trường chứng khoán 2.1 Quá trình hình thành và phát triển thị trường chứng khoán - Thị trường chứng khoán trước công ty cổ phần Vào khoảng thế kỷ XV, XVI với sự xuất hiện của ngành hang hải, thương mại thế giới bước vào một kỷ nguyên phát triển dữ dội. Frankfurt ở Đức và Amstecdam ở Hà Lan, là hai thương cảng lớn nhất thời kỳ bấy giờ. Tại đây, người ta tụ tập nhau lại để buôn bán các chứng từ văn tự nợ (debenture). Các chứng từ ghi nợ là những giấy tờ được coi là những giấy tờ có giá trị như tiền vậy. Các chứng từ nợ gồm 2 loại: các kỳ phiếu (bills) và các hối phiếu (bill of exchange). Các kỳ phiếu là các giấy nợ có kỳ hạn thanh toán mà con nợ phải trả cho chủ nợ một số tiền nhất định. Các hối phiếu là một lệnh trả mà con nợ yêu cầu một người thứ 3 nào đó trả hộ mình một món nợ cho chủ nợ (có thể có kỳ hạn hoặc không có kỳ hạn). Khi muốn chuyển nhượng các văn tự nợ thì người đó phải trả một khoản lãi suất nhất định cho người mua do phải chờ đến kì hạn thanh toán. Hoạt động này gọi là sự chiết khấu (discounting). Cùng với sự phát triển của thương mại là sự nảy sinh các sáng kiến vay vốn trả lãi cho công chúng của Chính phủ nhằm huy động vốn xây dựng các công trình lớn như cơ sở hạ tầng, giao thong vận tải… Để có tài chính, Chính phủ đã huy động vốn từ dân bằng cách phát hành trái phiếu vay nợ (bond) ra công chúng. Người mua trái phiếu sẽ được hưởng lãi suất đã được ấn định và được hưởng lãi cho đến kỳ hạn thanh toán. Biện pháp này đã được các địa phương áp dụng. Tuy nhiên, cũng có người cần tiền mặt và họ phải bán, chuyển nhượng lại. Các hoạt động chuyển nhượng giấy tờ có giá trị vậy gọi là các hoạt động mua bán chứng khoán, nơi diễn ra các hoạt động này gọi là sở giao dịch chứng khoán, lĩnh vực xảy ra các hoạt động này gọi là thị trường chứng khoán. Những chứng khoán đầu tiên là những thương phiếu ( kỳ phiếu và hối phiếu) và các trái phiếu ( Chính phủ, Trung ương và địa phương). - Thị trường chứng khoán sau công ty cổ phần. + Công ty cổ phần: Vào thế kỷ XIX, nhiều ngành công nghiệp phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh những ngành công nghiệp truyền thống thì xuất hiện nhiều ngành mới (như đường sắt…) đòi hỏi vốn nhiều, và để có thể mở được doanh nghiệp, không một người chủ nào có thể tự đảm bảo được đủ số vốn ban đầu để mở mang doanh nghiệp. Trong khi đó, triển vọng của ngành này là rõ rệt và hấp dẫn đầu tư. Và đã có sáng kiến thành lập công ty cổ phần (Stock Company). Doanh nghiệp này là do một nhóm người cùng nhau góp vốn để kinh doanh thành lập nên. Phần đóng góp về tài chính của mỗi người trong công ty gọi là cổ phần (share). Mỗi người giữ các văn tự chứng thực cho sự đóng góp cổ phần của mình gọi là cổ phiếu (shares). Những người có cổ phần đóng góp gọi là cổ đông ( share holders). Có hai loại cổ phiếu cơ bản: cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. Cổ phiếu thường là những cổ phần theo đó việc hưởng lợi từ công ty phụ thuộc vào tình trạng kinh doanh của công ty. Những người nắm giữ cổ phần này có quyền tham gia vào việc ra các quyết định kinh doanh, do đó họ được hưởng lợi hay phải chịu rủi ro trong kinh doanh. Trái lại, cổ phiếu ưu đãi là những cổ phần dành cho những người không có khả năng hoặc không có điều kiện tham gia các hoạt động kinh doanh của công ty nhưng vẫn muốn đóng góp đầu tư để hưởng lợi và nếu trong trường hợp bị phá sản, toàn bộ tài sản của công ty sẽ được dùng để trả nợ (nếu còn) sẽ thanh toán cho các khoản đầu tư của cổ phiếu ưu đãi trước, và cuối cùng (nếu còn) mới thanh toán cho các cổ phiếu thường. Người sở hữu cổ phiếu có thể chuyển nhượng cho người khác. + Sự bùng nổ của thị trường chứng khoán: Với sự xuất hiện của công ty cổ phần, việc giao dịch mua bán chứng khoán đã bùng nổ và bước sang giai đoạn hoàn toàn mới. Điều này bắt nguồn từ nhiều lý do: thứ nhất, các lĩnh vực đầu tư đa dạng; thứ hai, mức độ kiếm lời và rủi ro của các lĩnh vực này lại khác nhau, do đó mức sinh lời cho đầu tư các lĩnh vực hay công ty khác nhau cũng khác nhau, thậm chí mức đầu tư còn phụ thuộc vào cả tình hình chính trị hay sự sống còn của một cá nhân có uy tín trong chính trường hay trong kinh doanh; thứ ba, tính chất đầu cơ trong giao dịch mua bán loại chứng khoán này xuất hiện; thứ tư, một khối lượng lớn giao dịch mua bán chuyển nhượng chứng khoán trên thị trường trở nên thường xuyên với sự tham gia hết sức đông đảo của hầu hết các tầng lớp trong xã hội. Thị trường chứng khoán đến lúc đó thực sự bước sang một giai đoạn phát triển hoàn toàn mới với sự phát triển cả về lượng cũng như về chất. 2.2 Bản chất, chức năng, nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán 2.2.1 Bản chất của thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán các loại chứng khoán trung và dài hạn (cổ phiếu, trái phiếu và chứng khoán phái sinh). Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành và diễn ra ở thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp. Như vậy xét về mặt hình thức, thị trường chứng khoán chỉ là nơi diển ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán. Xét về mặt bản chất của thị trường chứng khoán thì: - Thị trường chứng khoán là nơi tập trung và phân phối các nguồn vốn tiết kiệm. Tập trung các nguồn tiết kiệm để phân phối lại cho những ai muốn sử dụng các nguồn tiết kiệm đó theo giá mà người sử dụng sẵn sang trả và theo phán đoán của thị trường về khả năng sinh lợi từ các dự án của người sử dụng. Chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. - Thị trường chứng khoán là định chế tài chính trực tiếp, cả chủ thể cung và cầu vốn đều tham gia vào thị trường một cách trực tiếp. Ngược với cách tài trợ gián tiếp được thực hiện thông qua các trung gian tài chính, những người có vốn có đủ điều kiện về môi trường tài chính, pháp lý… sẽ trực tiếp đầu tư vào sản xuất, kinh doanh không cần qua các trung gian tài chính mà chuyển nhượng vốn thông qua thị trường chứng khoán, một thị trường vốn trực tiếp từ người có vốn sang người cần vốn theo nguyên tắc đầu tư. 2.2.2 Chức năng của thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán ra đời đã có vị trí rất lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế. Thị trường chứng khoán thực hiện các chức năng chủ yếu sau: - Huy động vốn cho nền kinh tế: Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Bằng cách hỗ trợ các hoạt động đầu tư của công ty, thị trường chứng khoán đã có những tác động quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Thông qua thị trường chứng khoán, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội. - Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng: Thị trường chứng khoán cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn cho mình loại hang hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. Chính vì vậy, thị trường chứng khoán góp phần đáng kể làm tăng mức tiết kiệm quốc gia. - Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán: Nhờ có thị trường chứng khoán, các nhà đàu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc thành các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh toán (khả năng chuyển đổi thành tiền mặt) là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với nhà đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán càng năng động và có hiệu quả thì càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường. - Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp: Thông qua giá chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của các doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm. - Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô: Các chỉ số của thị trường chứng khoán phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng; và ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, thị trường chứng khoán được ví là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua thị trường chứng khoán, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào thị trường chứng khoán nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế. 2.2.3 Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị truờng chứng khoán: Sự vận động của bất kì một thị trường nào cho dù đơn giản hay phức tạp đều có nguyên tắc hoạt động riêng của nó. Các nguyên tắc này đảm bảo sự tồn tại và phát triển của thị trường theo những hướng nhất định. Đối với thị trường chứng khoán, cơ chế vận hành của nó được dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau: - Nguyên tắc công khai: Chứng khoán là một loại hang hoá trừu tượng, người đầu tư không thể kiểm tra trực tiếp được các chứng khoán như các hàng hoá thông thường mà phải dựa trên các thông tinh có liên quan. Vì vậy, thị trường chứng khoán phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống công bố thông tin tốt. Việc công khai thông tin thị trường chứng khoán phải thoả mãn các yêu cầu: chính xác, kịp thời, dễ tiếp cận. Nguyên tắc công khai nhằm bảo vệ nhà đầu tư, song đồng thời nó cũng hàm nghĩa rằng, một khi đã được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời và chính xác thì nhà đầu tư phải chịu trách nhiệm về các quyết định đầu tư của mình. - Nguyên tắc trung gian: Thị trường chứng khoán hoạt động không phải do những người muốn mua hay muốn bán chứng khoán trực tiếp thực hiện, mà phải thông qua các môi giới, làm nhiệm vụ trung gian trong việc tổ chức và hoạt động của thị trường chứng khoán. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo các loại chứng khoán được giao dịch là chứng khoán thật, và thị trường chứng khoán hoạt động được lành mạnh, hợp pháp, bảo vệ được lợi ích của các nhà đầu tư. Nguyên tắc trung gian trong giao dich chứng khoán được thực hiện thông qua các nhà môi giới và các thương gia chứng khoán hay còn gọi là các nhà kinh doanh chứng khoán. Các trung gian môi giới phải là những người có kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán, có khả năng phân tích, đánh giá và nhận định xu hướng phát triển của nền kinh tế. - Nguyên tắc cạnh tranh: Theo nguyên tắc này, giá cả trên thị trường chứng khoán phản ánh quan hệ cung cầu về chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty. Trên thị trướng sơ cấp, các nhà phát hành (doanh nghiệp niêm yết chứng khoán) cạnh tranh với nhau để bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư, các nhà đầu tư được tự do lựa chọn các chứng khoán theo mục tiêu của mình. Trên thị trường thứ cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm cho mình một lợi nhuận cao nhất, và giá cả được hình thành theo phương thức đấu giá. Nguyên tắc này dựa trên mối quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định. - Nguyên tắc công bằng: Công bằng có nghĩa là mọi người tham gia thị trường đều phải tuân thủ những quy định chung, được bình đẳng trong việc chia sẻ thông tin và trong việc gánh chịu các hình thức xử phạt nếu vi phạm vào những quy định đó. - Nguyên tắc tập trung: Các giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra trên sở giao dịch và trên thị trường OTC dưới sự kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tự quản. 2.3 Cơ cấu tổ chức của thị trường chứng khoán Bất cứ thị trường chứng khoán nào, của bất kỳ quốc gia nào, dù mới thành lập hay đã phát triển, đều cấu thành bởi hai bộ phận thị trường có tổ chức khác nhau đó là thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị truờng sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán lần đầu được phát hành. Sự hoạt động của thị trường sơ cấp tạo ra một “kênh” thu hút huy động nguồn tiền nhàn rỗi của công chúng chuyển thành nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế. Thông qua thị trường này, nhà phát hành (doanh nghiệp niêm yết chứng khoán) thực hiện bán các chứng khoán mới cho nhà đầu tư làm tăng thêm được một lượng vốn mới. Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp và là một bộ phận quan trọng của thị trường chứng khoán, gắn bó chặt chẽ với thị trường sơ cấp. Những loại chứng khoán giao dịch ở đây có thể được mua đi bán lại nhiều lần với giá cả cao thấp khác nhau. Thị trường thứ cấp thực hiện vai trò điều hoà, lưu thông các nguồn vốn, đảm bảo chuyển hoá các nguồn vốn ngắn hạn thành dài hạn, để đưa vào đầu tư phát triển kinh tế. Sự hoạt động của thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành, nhờ có thị trường thứ cấp, những người có vốn nhàn rỗi tạm thời có thể yên tâm đầu tư vào chứng khoán vì khi cần tiền, họ có thể bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư khác trên thị trường chứng khoán. Giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, thị trường sơ cấp là cơ sở, là tiền đề, còn thị trường thứ cấp là động lực. Nếu không có thị trường sơ cấp thì thị trường thứ cấp sẽ không có hàng hóa (chứng khoán) để giao dịch. Nhưng nếu không có sự tồn tại của thị trường thứ cấp thì thị trường sơ cấp cũng khó có thể phát triển và hoạt động có hiệu quả. Nếu thị trường sơ cấp tạo thêm vốn cho nền kinh tế thì thị trường thứ cấp có vai trò phân phối các nguồn vốn đó vào các khu vực, lĩnh vực kinh tế khác nhau sao cho việc sử dụng các nguồn vốn một cách hiệu quả nhất. Vì thế, mặc dù hoạt động của thị trường thứ cấp không làm tăng thêm vốn đầu tư cho nền kinh tế song với sự tồn tại và hoạt động nhịp nhàng của thị trường thứ cấp làm cho thị trường sơ cấp hoạt động có hiệu quả và ngày càng phát triển. 2.4 Phân loại thị trường chứng khoán - Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường: + Thị trường chứng khoán tập trung (Sở giao dịch chứng khoán): các giao dịch mua bán trên thị trường chứng khoán chủ yếu được diễn ra trên thị trường chứng khoán tập trung hay còn gọi là sở giao dịch chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán là thị trường chứng khoán tập trung, nơi các thành viên của sở gặp gỡ nhau để mua bán các loại chứng khoán đã được niêm yết một cách có tổ chức theo luật định. Thành viên của sở giao dịch chứng khoán là các công ty chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán chỉ là thị trường giao dịch, không tham gia mua bán các loại chứng khoán; không ấn định giá chứng khoán và không can thiệp vào quá trình hình thành giá chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán chỉ đảm bảo cho việc mua bán chứng khoán (bằng hình thức đấu giá) diễn ra đúng pháp luật, công khai, tránh lừa đảo và bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. + Thị trường chứng khoán phi tập trung: Thị trường chứng khoán ngoài sở giao dịch chứng khoán còn được gọi là thị trường chứng khoá phi tập trung. Tính phi tập trung thể hiện rõ nét ở phương thức hình thành giá chứng khoán. Việc giao dịch mua bán chứng khoán không theo phương thức đấu giá mà được thực hiện thông qua thương lượng (thoả thuận) giữa các nhà môi giới chứng khoán. Tuỳ theo điều kiện của mỗi nước mà thị trường giao dịch ngoài sở giao dịch chứng khoán có thể bao gồm: thị trường OTC (over the counter), thị trường thứ ba, thị trường cửa hiệu, thị trường chợ đen và một vài thị trường đặc biệt khác. Hàng hoá giao dịch tại thị trường phi tập trung chủ yếu là chứng khoán của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa đủ điều kiện (tiêu chuẩn) niêm yết. Nói cách khác, chứng khoán được niêm yết trên thị trường phi tập trung có phẩm cấp kém hơn chứng khoán được niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung (phụ thuộc chủ yếu vào quy mô doanh nghiệp). Trong hệ thống thị trường chứng khoán phi tập trung thì thị trường OTC thường có thị phần lớn nhất. - Căn cứ vào mức độ quản lý của Nhà nước: + Thị trường chứng khoán chính thức: là thị trường chứng khoán có sự quản lý của nhà nước, đó là các sở giao dịch chứng khoán và chỉ tổ chức giao dịch các chứng khoán đã được phép niêm yết. + Thị trường chứng khoán phi chính thức: chỉ còn lại thị trường tự do, thị trường OTC… (các đối tượng tham gia thị trường không cần phải tuân thủ bất kỳ quy tắc luật lệ nào). Xét về mặt lịch sử, thị trường OTC được hình thành tự do rất lâu và đã từng là một bộ phận của thị trường phi chính thức. Tuy nhiên, cho đến ngày nay, hệ thống thị trường OTC, xét từ góc độ quản lý nhà nước, đã có sự phát triển nhảy vọt, được tách ra khỏi hệ thống thị trường tự do (nằm ngoài quỹ đạo quản lý chung) và hình thành một hệ thống thị trường được tổ chức và chịu sự quản lý chặt chẽ của nhà nước ( tuỳ theo mục tiêu, yêu cầu và khả năng quản lý của mỗi quốc gia). - Căn cứ vào đặc điểm các loại hàng hóa trên thị trường: + Thị trường cổ phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. + Thị trường trái phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các trái phiếu đã được phát hành (trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị, trái phiếu chính phủ). + Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh: là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính khác như quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn. - Căn cứ vào thời điểm giao dịch: + Thị trường giao ngay: còn gọi là thị trường thời điểm, có nghĩa là thị trường giao dịch mua bán theo giá của ngày hôm đó. Còn việc thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra tiếp theo sau đó vài ngày tuỳ theo mỗi thị trường chứng khoán. + Thị trường tương lai: là thị trường mua bán chứng khoán theo những hợp đồng mà giá cả đã được thoả thuận ngay trong ngày giao dịch, nhưng thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra trong một kì hạn nhất định trong tương lai có thể là 1 tháng, 6 tháng hoặc 1 năm… 2.5 Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán 2.5.1 Nhà phát hành Là các tổ chức thự hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán bằng cách phát hành các chứng khoán-hàng hoá ra thị trường chứng khoán. - Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu chính phủ và trái phiếu địa phương. - Công ty là nhà phát hành cổ phiếu và trái phiếu công ty. - Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ hưởng thụ… phục vụ cho hoạt động của họ. 2.5.2 Nhà đầu tư Là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán, gồm hai loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức. - Các nhà đầu tư cá nhân là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên thị trường chứng khoán với mục đích kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, trong đầu tư thì lợi nhuận luôn gắn với rủi ro, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn và ngược lại. Vì vậy, họ luôn phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với khả năng cũng như mức độ chấp nhận rủi ro của mình. - Các nhà đầu tư có tổ chức (các định chế đầu tư) thường mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Các tổ chức này thường có các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Một số nhà đầu tư chuyên nghiệp chính trên thị trường chứng khoán là các công ty đầu tư, các công ty bảo hiểm, các quỹ lương hưu và các quỹ bảo hiểm xã hội khác. Đầu tư thông qua các tổ chức đầu tư có ưu điểm nổi bật là có thể đa dạng hoá danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm. Một bộ phận quan trọng của các tổ chức đầu tư là các công ty tài chính. Các công ty tài chính được phép kinh doanh chứng khoán, có thể sử dụng nguồn vốn của mình để đầu tư vào chứng khoán nhằm mục đích thu lợi. Bên cạnh đó các công ty chứng khoán, các ngân hang thương mại cũng có thể trở thành nhà đầu tư chuyên nghiệp khi họ mua chứng khoán cho chính mình. 2.5.3 Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán - Công ty chứng khoán: là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán; có thể đảm nhận một hoặc nhiều các nghiệp vụ: bảo lãnh phát hành, môi giới, tự doanh, quản lý quỹ đầu tư và tư vấn đầu tư chứng khoán. Để thực hiện mỗi ngiệp vụ, các công ty chứng khoán phải đảm bảo được một số vốn nhất định và phải được phép của cơ quan có thẩm quyền. - Các ngân hàng thương mại: tại một số nước, các ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn tự có để tăng và đa dạng hoá lợi nhuận thông qua đầu tư vào chứng khoán. Tuy nhiên, họ chỉ được đầu tư trong những giới hạn nhất định để bảo vệ ngân hàng trước những biến động cuả giá chứng khoán. Một số nước cho phép ngân hàng thương mại thành lập công ty con độc lập để kinh doanh chứng khoán và thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành. 2.5.4 Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán - Cơ quan quản lý Nhà nước: được thành lập để thực hiện các chức năng quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán. Tại Việt Nam, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cũng đã được thành lập theo Nghị định số 75/CP ngày 28.11.1996 của Chính phủ. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước là một cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với thị trường chứng khoán ở Việt Nam. - Sở giao dịch chứng khoán: Thực hiện vận hành thị trường thông qua bộ máy tổ chức gồm nhiều bộ phận. Sở giao dịch chứng khoán cũng ban hành những quy định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán phù hợp với những quy định của luật pháp và Ủy ban Chứng khoán. - Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán: là tổ chức của các công ty chứng khoán và một số thành viên khác hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán; được thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích cho các công ty thành viên nói riêng và cho lĩnh vực chứng khoán nói chung. - Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán: là tổ chức nhận lưu giữ các chứng khoán và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán. - Các tổ chức tài trợ chứng khoán: được thành lập với mục đích khuyến khích mở rộng và tăng trưởng của thị trường chứng khoán thông qua các hoạt động cho vay tiền để mua cổ phiếu và cho vay chứng khoán để bán trong các giao dịch bảo chứng. Các tổ chức tài trợ chứng khoán ở các nước khác nhau có đặc điểm khác nhau; một số nước không có loại hình tổ chức này. - Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm: là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và theo những điều khoản đã cam kết của công ty phát hành đối với đợt phát hành cụ thể. Các mức hệ số tín nhiệm vì thế thường được gắn cho một đợt phát hành, chứ không phải cho công ty, vì thế một công ty phát hành có thể mang nhiều hệ số tín nhiệm. Các nhà đầu tư có thể dựa vào các hệ số tín nhiệm do các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm cung cấp để cân nhắc đưa ra các quyết định đầu tư của mình. 2.6 Cơ chế điều hành và giám sát thị trường chứng khoán 2.6.1 Khái niệm điều hành và giám sát thị trường Điều hành thị trường là các hoạt động được tiến hành nhằm duy trì sự vận hành bình thường của thị trường, hoạt động này thường được tiến hành bởi các chủ thể có quyền lực nhất định (các cơ quan quản lý Nhà nước). Giám sát thị trường là việc tiến hành theo dõi, kiểm tra các hoạt động diễn ra trên thị trường của các cơ quan quản lý Nhà nước, nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm, đảm bảo tính công bằng và hiệu quả của thị trường. 2.6.2 Sự cần thiết phải điều hành và giám sát thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán luôn luôn tồn tại tính hai mặt của nó đó là mặt tích cực và tiêu cực. Những mặt tiêu cực của nó có thể gây tác động xấu đến thị trường và các hoạt động kinh tế xã hội, đó chính là các hành vi gian lận, lừa đảo trong giao dịch chứng khoán như đầu cơ, mua bán nội gián, thao túng giá cả… Vì vậy,cần phải có một cơ chế điều hành và giám sát chặt chẽ mọi mặt hoạt động của thị trường chứng khoán. Xuất phát từ vai trò quan trọng cũng như tính chất phức tạp của thị trường chứng khoán, việc điều hành và giám sát thị trường là vô cùng cần thiết để đảm bảo tính hiệu quả, công bằng, lành mạnh trong hoạt động của thị trường, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các nhà đầu tư, dung hòa lợi ích của tất cả những người tham gia thị trường, tận dụng và duy trì được các nguồn vốn để phát triển kinh tế. 2.6.3 Cơ chế điều hành và giám sát thị trường chứng khoán Tại mỗi quốc gia, việc điều hành và giám sát thị trường chứng khoán được tổ chức ở nhiều cấp độ khác nhau. Nhìn chung các tổ chức tham gia quản lý và giám sát thị trường chứng khoán gồm 2 nhóm: các cơ quan quản lý của Chính phủ và các tổ chức tự quản. - Các cơ quan quản lý của Chính phủ: Đây là cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động của thị trường chứng khoán. Nhìn chung các cơ quan quản lý thị trường của Chính phủ chỉ thực hiện các chức năng quản lý chung chứ không trực tiếp điều hành và giám sát thị trường. Các cơ quan này có thẩm quyền ban hành các quy định điều chỉnh các hoạt động trên thị trường chứng khoán tạo nên cơ sở cho các tổ chức tự quản trực tiếp thực hiện các chức năng điều hành và giám sát thị trường của mình. Thông thường các cơ quan quản lý thị trường của Chính phủ gồm có Ủy ban Chứng khoán và một số bộ ngành liên quan như Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước. - Các tổ chức tự quản: Các tổ chức tự quản là các tổ chức hình thành cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, thực hiện chức năng điều hành và giám sát thị trường chứng khoán nhằm bảo vệ lợi ích chung của toàn thị trường. Các tổ chức tự quản thực hiện chức năng quản lý và giám sát thi trường trên cơ sở tuân thủ các quy định của các tổ chức quản lý và giám sát thị trường của Chính phủ. Các tổ chức quản lý Nhà nước và các tổ chức tự quản là hai hình thức điều hành và giám sát thị trường chứng khoán. Ở mỗi quốc gia khác nhau, sự áp dụng các hình thức cũng khác nhau. Tuy nhiên, để đảm bảo thị trường chứng khoán được điều hành và giám sát có hiệu quả cần phải có sự kết hợp hai hình thức này trên cơ sở phù hợp với điều kiện của từng nước. II. Thị trường chứng khoán ở Việt Nam 1. Sự cần thiết của việc phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam Để tiến hành công nghiệp hoá, thay đổi cơ cấu kinh tế, nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng nhanh, lâu bền, Việt Nam cần đến một khối lượng vốn khổng lồ mà hiện trạng thị trường tài chính không thể đáp ứng đầu đủ. Với cơ cấu hiện nay, thị trường tài chính chủ yếu chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu của nền kinh tế về vốn ngắn hạn. Trong khi đó, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá lại đòi hỏi ngay một khối lượng khổng lồ vốn dài hạn: trong năm 1991- 1995, để có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 2,8%/ năm cần 18,6 tỉ USD; thời kì 1996- 2000, để đạt được tốc độ tăng trưởng 9- 9,5%/ năm thì dự tính vốn đầu tư đã tăng hơn 2,2 lần, khoảng 40- 45 tỉ USD; với quy mô như vậy ước tính đến năm 2020 vốn đầu tư là 500- 600 tỉ USD. Trước những đòi hỏi bức xúc về vốn trung và dài hạn cho tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, khắc phục nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam cần phải có những chính sách huy động tối đa mọi nguồn lực trong nước cũng như các nguồn vốn nước ngoài bằng những hình thức khác nhau. Một trong những giải pháp đó là phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Việc xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam hiện nay còn cần thiết bởi những lý do sau: - Dưới góc độ kinh tế, với tư cách là một bộ phận của thị trường tài chính có chức năng phân bổ nguồn vốn trung và dài hạn, thị trường chứng khoán là trung tâm thu nhận, phân phối và giao lưu các nguồn vốn cho đầu tư và xã hội. Nó gắn bó hữu cơ trong sự phát triển đồng bộ hệ thống tài chính tiền tệ cấu thành nền tài chính quốc gia. - Thị trường chứng khoán giúp cho đồng vốn đi vào những ngành, những doanh nghiệp biết tạo ra hiệu quả thông qua sự định hướng của thị trường vốn. - Một thị trường chứng khoán hoạt động sẽ cung cấp những dự báo chính xác về chu kì kinh doanh trong tương lai, giúp Nhà nước hoạch định các chính sách thích hợp. - Thị trường chứng khoán mang lại nhiều lợi ích cho công chúng, giúp cho công chúng có thể đầu tư vào các chứng khoán khác nhau một cách dễ dàng. 2. Sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam Việc buôn bán cổ phiếu ở Việt Nam đã diễn ra sôi động kể từ sau khi các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá, nhưng thị trường chứng khoán nước ta mới chính thức hoạt động từ năm 2000, kể từ khi ra đời Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh ngày 28-7-2000. Khi đó mới có một vài cổ phiếu được giao dịch với tổng số vốn 27 tỉ đồng và 6 công ty chứng khoán thành viên. Hơn 6 năm đầu, mức vốn hoá của thị trường mới chỉ tăng lên 0,5 tỉ USD. Vài năm gần đây mức vốn hóa của thị trường chứng khoán Việt Nam đã tăng đột biến, tháng 12-2006 đạt 13,8 tỉ USD (chiếm 22,7% GDP) và đến cuối tháng 4- 2007, đạt 24,4 tỉ USD (chiếm 38% GDP), tăng hơn 1400 lần so với năm 2000, và nếu tính cả trái phiếu thì đạt mức 46% GDP. Số lượng doanh nghiệp niêm yết tăng 704% so với năm 2000. Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FDI) đổ vào thị trường chứng khoán Việt Nam cũng có sự gia tăng đáng kể. Tính đến nay, các nhà đầu tư nước ngoài đã đổ vào khoảng 4 tỉ USD. Theo dự tính, quy mô của thị trường còn tiếp tục được mở rộng do các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá sẽ tiếp tục niêm yết vào năm 2007-2008 trong đó có Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam với số vốn lên tới hàng ngàn tỉ đồng. Chỉ số VN-Index cũng đã chứng minh sự tăng trưởng nhanh chóng của thị trường. Nếu trong phiên giao dịch đầu tiên ngày 28-7- 2000, VN-Index ở mức 100 điểm thì tháng 3 - 2007, chỉ số này đã đạt ở mức kỷ lục trên 1.170 điểm và sau một vài tháng giảm sút, hiện nay VN-Index đang dao động xung quanh ngưỡng 1.000 điểm (đến giữa tháng 5-2007 đã lên 1.060 điểm), tăng hơn 10 lần so với năm 2000. Đặc biệt, số lượng các nhà đầu tư mới tham gia thị trường ngày càng đông, tính đến cuối tháng 12- 2006, có trên 120.000 tài khoản giao dịch chứng khoán được mở, trong đó gần 2.000 tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài. Số lượng các nhà đầu tư có tổ chức cũng tăng lên đáng kể, hiện có 35 quỹ đầu tư đang hoạt động tại Việt Nam, trong đó 23 quỹ đầu tư nước ngoài và 12 quỹ đầu tư trong nước. Ngoài ra, còn có gần 50 tổ chức đầu tư theo hình thức uỷ thác qua công ty chứng khoán. Hệ thống các tổ chức trung gian trên thị trường chứng khoán đã hình thành và phát triển nhanh chóng. Tính đến nay, trên thị trường có khoảng 55 công ty chứng khoán, tăng mạnh hàng năm, vốn điều lệ bình quân đạt 77 tỉ đồng/công ty. Ngoài ra, còn có sự tham gia của 18 công ty quản lý quỹ, 41 tổ chức tham gia hoạt động lưu ký chứng khoán, 6 ngân hàng lưu ký. Sự ra đời của Luật Chứng khoán (có hiệu lực từ ngày 01-01-2007) đã tạo khung pháp lý cao cho thị trường chứng khoán phát triển góp phần thúc đẩy khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế của TTCK Việt Nam. Những vấn đề liên quan đến thị trường chứng khoán, trong đó những quy định về đăng ký, lưu ký, công khai và minh bạch, giám sát và kiểm tra của các cơ quan chức năng quản lý hoạt động của thị trường chứng khoán từng bước được hoàn thiện. Đáng chú ý là Chính phủ đã chỉ đạo việc phối hợp giữa Bộ Tài chính, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước trong việc tăng cường kiểm soát thị trường chứng khoán ở nước ta, do đó thị trường này vẫn đang ổn định và phát triển khá mạnh. 3. Thuận lợi và khó khăn trong phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam 3.1 Những thuận lợi Việc đưa thị trường chứng khoán vào hoạt động sẽ tạo ra một động lực mới cho nền kinh tế, tạo ra cơ hội mới cho các doanh nghiệp cổ phần trong việc huy động vốn đầu tư và thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước nhanh chóng hơn. Thị trường chứng khoán hoạt động sẽ là một thành viên tích cực, năng động trong thị trường tiền tệ. - Thuận lợi cơ bản đầu tiên là chúng ta có một hệ thống chính trị ổn định. Bên cạnh đó, nền kinh tế nước ta đang phát triển với một tốc độ khá cao, lạm phát được khống chế. Đây là môi trường kinh tế vĩ mô hết sức thuận lợi cho việc phát triển thị trường chứng khoán. - Chính sách đa dạng hóa các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế của Đảng và Nhà nước đang giải phóng mọi năng lực sản xuất, kinh doanh, huy động mọi nguồn vốn cho phát triển sản xuất, tạo điều kiện cho sự phát triển của thị trường chứng khoán. - Quá trình cải cách đã cho ra đời và phát triển hàng loạt các ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính, tín dụng, các tổ chức bảo hiểm. Đây là các tác nhân quan trọng cho sự phát triển thị trường vốn và là tiền đề cho sự phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Nhu cầu về vốn của nước ta trong thời kỳ tới rất cao, để đạt được mục tiêu tăng gấp đôi GDP bình quân đầu người thì nhu cầu vốn của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ 2000-2010 là 543,5 tỷ USD. - Nền kinh tế đã thay đổi sắc thái, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phát triển khá nhanh. Kinh tế hộ gia đình phát triển mạnh ở các nông thôn và thành thị. Kinh tế tư nhân phát triển nhanh trong lĩnh vực dịch vụ và có xu thế phát triển rộng ra các ngành sản xuất. Số doanh nghiệp liên doanh và cổ phần đã thu hút vốn của nhiều hình thức sở hữu trong nước và nước ngoài xuất hiện ngày càng nhiều. Sự ra đời của các tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu do một số công ty, doanh nghiệp Nhà nước phát hành là những dấu hiệu đầu tiên manh nha cho sự xuất hiện của các công cụ tài chính trên thị trường chứng khoán. Nền kinh tế thị trường cũng đang làm thay đổi dần thói quen và nếp sống, nếp nghĩ của dân chúng trong việc sử dụng và tích luỹ của mình. - Đảng, Nhà nước quyết tâm cao trong việc tạo hàng hóa cho thị trường chứng khoán, đó là phát hành công trái để xây dựng tổ quốc, tín phiếu kho bạc, thực hiện cổ phần hoá cho các doanh nghiệp Nhà nước, tăng chứng khoán có uy tín trên thị trường. - Chúng ta đang tiến hành cải cách đổi mới nền hành chính quốc gia, tăng cường quản lý Nhà nước bằng pháp luật, đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức đủ “tâm” đủ “tầm” hoàn thành tốt nhiệm vụ. Do vậy hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước ngày càng có hiệu quả cao. Chúng ta đã có nhiều bộ luật mới sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật hiện hành. Đây là môi trường pháp luật thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán. - Hệ thống tin học phát triển nhanh phục vụ giao dịch chứng khoán tự động, hiện đại. Hệ thống kiểm toán xử lý thông tin kết quả kiểm tra đang phát triển từng bước phục vụ cho thị trường chứng khoán. - Chế độ kế toán doanh nghiệp mới sửa đổi và ban hành được áp dụng thực hiện trên thực tế đã gần gũi hơn với những chuẩn mực quốc tế. Bên cạnh đó hệ thống kiểm toán, kể cả kiểm toán Nhà nước và phi Nhà nước, kiểm toán nước ngoài đang được hình thành và phát triển. Đây cũng chính là một trong những mắt xích và đầu mối quan trọng không thể thiếu được trong quá trình hình thành và phát triển thị trường chứng khoán. - Con người Việt Nam rất có ý chí kinh doanh, sẵn sang chấp nhận rủi ro, mạo hiểm trên thương trường. Đảng và Chính phủ đang rất quan tâm đến đào tạo đội ngũ nhân lực cho thị trường chứng khoán. Chính sách mở cửa kinh tế, hội nhập với bên ngoài vừa qua đã thu được kết quả khả quan tạo thế thuận lợi cho thị trường chứng khoán nước ta. - Một yếu tố thuận lợi nữa đó là Việt Nam là nước phát triển sau nên có thể tranh thủ học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước. Nhờ chính sách kinh tế mở cửa hội nhập với bên ngoài, làm cho kinh tế trong nước cũng như kinh tế đối ngoại ngày càng thu được những thành quả rất đáng chú ý. Bên cạnh đó là sự giúp đỡ nhiệt tình và hiệu quả của các Quốc gia, các tổ chức quốc tế. Yếu tố này đã có những tác động tích cực đến việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta. 3.2 Những khó khăn Những thuận lợi đã có nhưng những khó khăn vẫn còn nhiều, và đây cũng chính là những nguyên nhân làm chậm lại quá trình hình thành thị trường chứng khoán ở Việt Nam. - Khó khăn thứ nhất đó là thu nhập người dân còn thấp, tỷ lệ giữa tiết kiệm và tiêu dùng còn quá chênh lệch. Tư tưởng “làm đồng nào xào đồng ấy” đang còn rất phổ biến trong dân và ngay cả trong một số doanh nghiệp trong khi tình hình lạm phát còn chưa ổn định và chứa đựng nhiều tiềm ẩn. - Hệ thống pháp lý về thị trường chứng khoán cho đến nay vẫn chưa được hoàn chỉnh. Một số văn bản pháp quy, các luật có liên quan, chi phối hoạt động hoặc có ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán đã ban hành nhưng trong phần nội dung còn nhiều bất cập, mâu thuẫn với hệ thống pháp lý về thị trường chứng khoán. Công tác thực thi pháp luật chưa nghiêm, các chế tài xử lý vi phạm còn nhẹ, chưa đủ sức răn đe. - Nền kinh tế chưa thực sự ổn định; hiệu quả của nền kinh tế quốc dân còn thấp. Năng suất lao động thấp, chất lượng của nhiều sản phẩm còn kém sự cạnh tranh, thị trường tiêu thụ còn hẹp. Ngân sách còn thâm hụt lớn, lưu thông tiền tệ chưa thông suốt. Trình độ quản lý còn non kém, nhiều sơ hở… chưa đẩy lùi được tệ nạn tham nhũng, buôn lậu, kinh doanh gian dối… - Tình hình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước còn chậm, nhất là các doanh nhiệp có vốn lớn. Số lượng cổ phần không đáng kể so với yêu cầu đặt ra. Các công ty cổ phần đã được thành lập còn quá ít và phần lớn có vốn rất nhỏ, chưa đủ mạnh để tạo ra các “hàng hóa” cần thiết. - Lượng cán bộ đã được đào tạo vừa qua vẫn chưa đủ về số lượng. Nhiều nhân viên làm việc trong các công ty chứng khoán vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu công việc, chưa có giấy phép hành nghề, thậm chí còn chưa có đủ các chứng chỉ có liên quan đến việc hành nghề về chứng khoán. - Hệ thống kiểm toán của nước ta tuy đã được hình thành và phát triển từng bước, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường chứng khoán kể cả về số lượng và chất lượng của các công ty kiểm toán, đặc biệt khi quy mô của thị trường chứng khoán được mở rộng. Điều đó làm dẫn đến sự thiếu minh bạch về chất lượng của bản cáo bạch, của báo cáo kinh doanh, cũng như các thông tin có liên quan đến doanh nghiệp. Trên thực tế, cho đến nay, nhìn chung những người bỏ vốn mua cổ phiếu của các doanh nghiệp cổ phần hóa thường thiếu thông tin về những tổ chức phát hành, họ thường chỉ căn cứ trên những dấu hiệu bề ngoài, lời đồn đại và cảm tính về khả năng sinh lời, uy tín của doanh nghiệp. Nhiều người không biết rằng đầu tư như vậy là thiếu chắc chắn, không đủ những căn cứ để ra quyết định và họ đã đương đầu với những rủi ro từ việc thiếu những thông tin cần thiết. Nhìn chung, mặc dù còn những khó khăn thách thức, song thuận lợi là cơ bản. Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước, các Bộ ngành hữu quan đã có nhiều cố gắng, nỗ lực trong việc phối hợp tạo ra các điều kiện, tiền đề cần thiết cho việc thành lập và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam. 4 Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay 4.1 Một số mặt tích cực Năm 2006 và đầu năm 2007, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc cả về khuôn khổ pháp luật, hàng hóa cũng như hệ thống các tổ chức tài chính trung gian. Hoạt động giao dịch trên thị trường chứng khoán trở nên rất sôi động và đã thu hút được một khối lượng vốn khá lớn thông qua hoạt động đấu thầu trái phiếu Chính phủ, đấu giá cổ phần lần đầu của các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá. Nhìn tổng thể, thị trường chứng khoán Việt Nam đã thể hiện rõ vai trò tích cực của mình đối với nền kinh tế, thể hiện qua một số điểm sau: - Luật Chứng khoán được Quốc hội Việt Nam thông qua vào tháng 6/2006, có hiệu lực thi hành từ 1/1/2007 đã có nhiều quy định theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế, theo đúng lộ trình cam kết, đàm phán gia nhập WTO: mở rộng phạm vi điều chỉnh về chào bán chứng khoán ra công chúng; quản lý giám sát thông qua cơ chế công bố thông tin của các công ty đại chúng, bảo vệ lợi ích nhà đầu tư; cho phép doanh nghiệp Việt Nam niêm yết tại các sàn giao dịch chứng khoán nước ngoài; tăng cường tự quản cho các thị trường giao dịch chứng khoán, sở giao dịch chứng khoán theo hướng là những tổ chức hoạt động độc lập, tự chủ tài chính và chịu sự quản lý giám sát bằng công cụ pháp luật từ Ủy ban Chứng khoán Nhà nước; cho phép mở chi nhánh công ty chứng khoán nước ngoài và thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam; thành lập công ty đầu tư chứng khoán (quỹ đầu tư chứng khoán dạng pháp nhân đầy đủ) tại Việt Nam… - Quy mô thị trường chứng khoán có tổ chức ngày càng mở rộng. Tính đến tháng 11/2007, sàn HOSE đã có 129 mã cổ phiếu được niêm yết và sàn HaSTC với số lượng là 101 mã. Tổng giá trị vốn hoá thị trường chứng khoán đạt 423.000 tỷ đồng, chiếm 40% GDP (vượt xa kế hoạch mục tiêu trong Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2010 là 10-15% GDP). Các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường chứng khoán ngày càng đông đảo, trong đó có một số tên tuổi của các nhà đầu tư chứng khoán quốc tế như Dragon Capital, JP Morgan, Merryll Lynch, Citigroup… Tính đến thời điểm hiện tại đã có hơn 400 tổ chức và gần 6.600 NĐT cá nhân nước ngoài được cấp mã số giao dịch. - Thị trường chứng khoán bước đầu khẳng định vị trí của mình như một kênh dẫn vốn dài hạn cho nền kinh tế. Ngày càng có thêm nhiều doanh nghiệp huy động vốn thành công qua thị trường chứng khoán. Nhìn chung, các công ty niêm yết đều có mức tăng trưởng khá cả về doanh thu và lợi nhuận, trình độ quản lý, trình độ quản trị công ty được nâng cao, tính công khai, minh bạch ngày càng được tăng cường, do đó càng thuận lợi trong huy động vốn. Ngoài ra, việc phát hành trái phiếu của các Ngân hàng, Tổng công ty cũng gia tăng. Ngân hang Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đã phát hành 3.350 tỷ đồng và đã được đưa vào niêm yết trên thị trường chứng khoán. Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định 52/2006/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ, Tổng công ty điện lực Việt Nam (EVN) đã phát hành 2.600 tỷ đồng; công ty chứng khoán Sài Gòn đã phát hành 500 tỷ đồng trái phiếu chuyển đổi… - Hệ thống các tổ chức trung gian được hình thành, phát triển và tích luỹ được những kinh nghiệm bước đầu trong hoạt động trên thị trường chứng khoán. Tính dến tháng 11/2007 đã có 62 công ty chứng khoán hoạt động trong các nghiệp vụ môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn. Nhìn chung, các công ty chứng khoán phát triển tốt, nhiều công ty chứng khoán đã đạt mức tăng trưởng gấp 2-3 lần và đã nâng quy mô vốn lên rẩt nhanh. Ngoài ra, cũng đã có 21 công ty quản lý quỹ và hàng chục quỹ đầu tư chứng khoán đang hoạt động; có 8 ngân hàng được cấp phép hoạt động lưu ký (2 ngân hàng trong nước và 6 ngân hàng nước ngoài); BIDV được lựa chọn là ngân hang chỉ định thanh toán. - Hệ thống thể chế thị trường chứng khoán từng bước hoàn thiện và phát triển: + Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh đưa vào hoạt động từ tháng 7/2000 đã từng bước được nâng cấp, mở rộng, đáp ứng yêu cầu giao dịch cổ phiếu niêm yết của các công ty lớn, và hiện nay đã trở thành sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. + Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội hoạt động tháng 3/2005 đã đóng góp tích cực vào hoạt động niêm yết, giao dịch chứng khoán các doanh nghiệp vừa và nhỏ. + Trung tâm Lưu ký Chứng khoán bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 5/2006 trên cơ sở tiếp nhận nhiệm vụ đăng ký, lưu ký và bù trừ thanh toán chứng khoán từ các Trung tâm Giao dịch Chứng khoán. Đến nay, Trung tâm Lưu ký Chứng khoán đã có 23 tổ chức tham gia hoạt động lưu ký chứng khoán, trong đó có 20 tổ chức lưu ký, 2 tổ chức tài chính và Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước đăng ký mở tài khoản trực tiếp. Trung tâm Lưu ký Chứng khoán đã nhận lưu ký cho trên 400 triệu cổ phiếu của các công ty cổ phần, hơn 550 triệu trái phiếu và gần 50 triệu chứng chỉ quỹ. Hoạt động lưu ký thông suốt, ổn định đảm bảo thanh toán kịp thời chính xác các giao dịch chứng khoán. 4.2 Một số mặt hạn chế 2006 và 2007 là 2 năm thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển bùng nổ về khối lượng giao dịch, số lượng nhà đầu tư cũng như số lượng các công ty niêm yết, đăng ký giao dịch và các tổ chức trung gian. Song bên cạnh đó, thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn tồn tại một số hạn chế sau: - Nhìn chung, ngoại trừ một số công ty lớn, lĩnh vực kinh doanh tương đối ổn định, có mức tăng trưởng đều qua các năm (khoảng trên 10 công ty), còn lại phần lớn các công ty niêm yết vẫn chưa phải là những công ty lớn nhất trong nền kinh tế và chưa đại diện tiêu biểu cho các ngành kinh tế đóng góp tỷ trọng lớn vào GDP của Việt Nam. Chính vì vậy, chỉ số giá cổ phiếu VN-Index tăng, giảm thất thường và chưa trở thành phong vũ biểu của nền kinh tế. Thị trường chứng khoán trong thời gian qua vẫn chưa đảm bảo sự tăng trưởng bền vững. - Hệ thống các tổ chức trung gian và hỗ trợ thị trường còn nhiều hạn chế về năng lực tài chính. Mặc dù các công ty chứng khoán đã phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu để tăng quy mô vốn hoạt động hoặc tăng vốn điều lệ từ các chủ sở hữu vốn (đối với công ty chứng khoán trực thuộc các ngân hàng thương mại) nhưng nhìn chung, mức vốn điều lệ vẫn còn rất thấp so với các nước trong khu vực, điều này làm ảnh hưởng đến khả năng tham gia thị trường của các công ty trong vai trò tạo lập thị trường, hoặc hạn chế năng lực khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành. - Số lượng tài khoản đầu tư gia tăng nhanh, nhưng phần lớn tập trung vào các tài khoản cá nhân, mua bán cổ phiếu ngắn hạn và bị chi phối rất lớn từ các nhà đầu tư lớn trên thị trường, do thiếu kỹ năng phân tích đầu tư. Các nhà đầu tư tham gia vào thị trường chứng khoán đa phần là các nhà đầu tư nội địa nhỏ-những người coi thị trường chứng khoán chỉ như một kênh đầu tư thay thế cho vàng và bất động sản. Kiểu chơi “nghiệp dư” khiến thị trường nhiều khi hưng phấn quá mức, rồi lại sụt giảm nhanh chóng. Phần lớn nhà đầu tư nhỏ lẻ chỉ quan tâm đến chuyện mua mà ít quan tâm đến các doanh nghiệp phát hành chứng khoán đang làm gì, có tỷ suất P/E hay lợi tức như thế nào. Hoạt động đầu tư theo phong trào làm cho giá cổ phiếu nhiều khi vượt ra khỏi giá trị thực của doanh nghiệp và đã gây ra tình trạng “nóng” trên cả thị trường có tổ chức và thị trường tự do. - Công ty quản lý, giám sát các hoạt động và tuân thủ pháp luật trên thị trường chứng khoán nhìn chung vẫn còn nhiều bất cập trong khi năng lực cưỡng chế thực thi của cơ quan giám sát còn yếu và thiếu. Đặc biệt, trước những diễn biến mới của thị trường, đòi hỏi công tác quản lý, giám sát phải chuyên sâu và có phương tiện giám sát hiện đại (phần mềm giám sát) chứ không thuần tuý giám sát thông qua báo cáo hoặc nắm tình hình thông thường. - Bên cạnh thị trường cổ phiếu, một nguồn cung tài chính quan trọng khác là thị trường trái phiếu, nhưng thị trường này và sản phẩm của nó hiện nay quá nghèo nàn và ít hấp dẫn dân chúng và doanh nghiệp. Sự phát triển lệch lạc của thị trường cổ phiếu với lợi nhuận kiểu bong bong đã làm lu mờ sự tồn tại của thị trường trái phiếu trong con mắt nhà đầu tư. - Thị trường tự do chiếm thị phần lớn và tiềm ẩn bất ổn cho cả hệ thống tài chính. Lượng mua bán trên thị trương OTC nhiều gấp gần ba lần thị trường chính thức ở cả hai sàn chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, số lượng công ty có niêm yết chính thức chỉ khoảng hơn 300, trong khi số công ty không niêm yêt là hơn 7000. Nhiều công ty ra đời từ các công ty quốc doanh cổ phần hóa hoặc do tư nhân sở hữu, chỉ chuyên mua bán cổ phần không chính thức. Hầu hết trái phiếu mua bán ngoài luồng chỉ được báo cho Hội đồng Quản trị Sở Giao dịch Chứng khoán theo thủ tục quy định và để thanh toán. III. Các giải pháp phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam 1 Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2010 1.1 Mục tiêu phát triển Ngày 5/8/2003, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 163/2003/QĐ-TTg phê duyệt chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2010 với mục tiêu cơ bản sau: Phát triển thị trường chứng khoán cả về quy mô và chất lượng hoạt động nhằm tạo ra kênh huy động vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển, góp phần phát triển thị trường tài chính Việt Nam; duy trì trật tự, an toàn, mở rộng phạm vi, tăng cường hiệu quả quản lý, giám sát thị trường nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đầu tư; từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế. 1.2 Quan điểm và nguyên tắc phát triển thị trường chứng khoán Để thị trường chứng khoán thực sự là một kênh huy động vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển, đảm bảo sự phát triển ổn định và bền vững của nền kinh tế; là công cụ hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp phát triển đòi hỏi việc xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán phải quán triệt các quan điểm và nguyên tắc sau: - Phát triển thị trường chứng khoán phù hợp với điều kiện thực tế và định hướng phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, với các thông lệ và tiêu chuẩn quốc tế, từng bước nhập với thị trường tài chính khu vực và thế giới. - Xây dựng thị trường chứng khoán thống nhất trong cả nước, hoạt động an toàn, hiệu quả góp phần huy động vốn cho đầu tư phát triển và thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước. - Nhà nước thực hiện quản lý bằng pháp luật, tạo điều kiện để thị trường chứng khoán hoạt động và phát triển; đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp và có chính sách khuyến khích các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán. - Bảo đảm tính thống nhất của thị trường tài chính trong phạm vi quốc gia, gắn việc phát triển thị trường chứng khoán với việc phát triển thị trường vốn, tiền tệ và thị trường bảo hiểm. 2. Một số giải pháp nhằm phát triển thị trường chứng khoán Hiện nay, khi Việt Nam thực hiện hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới sẽ gặp nhiều khó khăn, nhưng lại mở ra những vận hội lớn cho tăng trưởng xuất nhập khẩu, tăng đầu tư, tăng chu chuyển vốn, từ đó có điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển. Một số giải pháp cơ bản cho thời gian tới: - Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, sớm triển khai hướng dẫn Luật Chứng khoán (đã có hiệu lực từ 1-1-2007) theo hướng bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, đồng bộ với các quy định khác của pháp luật Việt Nam, nhưng phải phù hợp với thông lệ quốc tế. Nâng cao năng lực quản lý và kiểm soát của Nhà nước đối với thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng, trong đó chú trọng kiểm soát các hoạt động kinh doanh đối với thị trường OTC để bảo đảm sự ổn định của thị trường và cả đối với các nhà đầu tư nước ngoài để tránh sự thao túng thị trường của những nhà đầu tư này. - Tiếp tục phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính (bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn), tạo điều kiện tốt và thông thoáng hơn theo các cam kết khi gia nhập WTO cho việc phát triển các nhà đầu tư là doanh nghiệp, các định chế tài chính trung gian và các tổ chức phụ trợ trên thị trường, song phải đảm bảo khả năng cạnh tranh trong điều kiện mới, có nghĩa là phải năng cao năng lực tài chính, năng lực quản trị điều hành và kiểm tra kiểm soát nội bộ. - Nâng cao năng lực hoạt động của thị trường chứng khoán trên cơ sở hiện đại hoá hệ thống công nghệ thông tin, trước hết là ở các trung tâm giao dịch chứng khoán và các nhà đầu tư là doanh nghiệp. Đồng thời với việc này là tăng cường tính công khai và minh bạch của thị trường chứng khoán từ việc công bố thông tin, cáo bạch, báo cáo hoạt động của các nhà đầu tư là doanh nghiệp và các định chế liên quan khác . - Chú trọng đào tạo cho đội ngũ những nhà quản lí, những người tham gia kinh doanh chứng khoán, và các nhà đầu tư. Đi đôi với việc này là tăng cường tuyên truyền để nhiều người cùng biết và định hướng đúng đắn cho việc đầu tư có hiệu quả, tránh hiện tượng đầu tư kiểu phong trào như vừa qua. - Tăng cường hoạt động giám sát đối với thị trường chứng khoán nhằm giảm thiểu rủi ro, cảnh báo và ngăn chặn sớm sự đổ vỡ của các nhà đầu tư. Cần chú trọng tăng cờng thanh tra giám sát an toàn hoạt động của các ngân hàng thương mại để hạn chế tác động tiêu cực liên quan đến thị trường chứng khoán như: + Chấn chỉnh việc cho vay của ngân hàng thương mại đối với công ty chứng khoán để kinh doanh trên thị trường chứng khoán, đồng thời tăng cường giám sát hoạt động của các công ty này theo các quy định hiện hành về kinh doanh chứng khoán. + Chú trọng giám sát nhằm đảm bảo an toàn hoạt động của thị trường chứng khoán, chống nhà đầu tư nước ngoài thao túng thị trường, đảm bảo tính công khai và minh bạch trong hoạt động của các công ty chứng khoán và các định chế trung gian. + Tiến tới thành lập cơ quan giám sát thị trường tài chính (sau năm 2010) để thực hiện chức năng giám sát và bảo đảm an toàn cho toàn bộ thị trường tài chính trên cơ sở phát triển của thị trường chứng khoán, hệ thống ngân hàng thương mại và các định chế tài chính khác. Kết luận Thị trường chứng khoán với tư cách là thị trường vốn dài hạn sẽ chỉ có thể phát triển trên cơ sở một nền kinh tế phát triển cao, hệ thống tiền tệ, tỉ giá ổn định, và hệ thống các thị trường vốn ngắn hạn đã thiết lập, hoạt động trôi chảy và hiệu quả. Thi trường chứng khoán đánh dấu sự phát triển cao nhất của một nền kinh tế thị trường, nên quá trình thiết lập thị trường chứng khoán ở Việt Nam cũng như việc tiếp tục phát triển nó sau này đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ các giải pháp trên mọi phương diện nhằm tạo ra các tiền đề về kinh tế, pháp lý, kĩ thuật, tổ chức và điều kiện con người với mục tiêu chung là phát triển nền kinh tế Việt Nam ngang tầm với các nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Giáo trình những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán – NXB Chính trị quốc gia. 2. Luật chứng khoán – NXB Tài chính. 3. Quyết định số 163/2003/QĐ-TTg phê duyệt chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010. 4. Đại từ điển kinh tế thị trường - Viện nghiên cứu & phổ biến tri thức Bách Khoa. 5. Hướng dẫn thực hành thị trường chứng khoán Việt Nam – NXB Thống kê. 6. Website Ủy ban CK Nhà nước (ssc.gov.vn); Sở giao dịch CK thành phố HCM (vse.org.vn); TT giao dịch CK Hà Nội (hastc. org.vn) . 7. Website báo Đầu tư chứng khoán (tinnhanhchungkhoan.vn) .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc72977.DOC
Tài liệu liên quan