Tài liệu Đề tài Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện: Lời mở đầu
Trong nền kinh tế đóng, với cơ chế quan liêu bao cấp, các doanh nghiệp chủ yếu thuộc sở hữu Nhà nước, vấn đề hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng không được chú trọng làm cho hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp không cao.
Sau quá trình chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN với sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, các doanh nghiệp được quyền tự chủ trong sản xuất và tiêu thụ các loại sản phẩm nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh của mình là lợi nhuận và phục vụ nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Để đạt được mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận thì việc sử dụng hợp lý các nguồn lực là hết sức quan trọng. Vốn là yếu tố đầu vào và có vai trò quyết định của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong điều kiện cạnh tranh hết sức quyết liệt của thị trường, cùng với sự hạn chế về nguồn lực sản xuất thì vấn đề quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả là một vấn đề được quan tâm hàng đầu đối với các doanh nghiệp. Nó không những giú...
87 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1106 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Trong nền kinh tế đóng, với cơ chế quan liêu bao cấp, các doanh nghiệp chủ yếu thuộc sở hữu Nhà nước, vấn đề hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng không được chú trọng làm cho hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp không cao.
Sau quá trình chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN với sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, các doanh nghiệp được quyền tự chủ trong sản xuất và tiêu thụ các loại sản phẩm nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh của mình là lợi nhuận và phục vụ nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Để đạt được mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận thì việc sử dụng hợp lý các nguồn lực là hết sức quan trọng. Vốn là yếu tố đầu vào và có vai trò quyết định của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong điều kiện cạnh tranh hết sức quyết liệt của thị trường, cùng với sự hạn chế về nguồn lực sản xuất thì vấn đề quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả là một vấn đề được quan tâm hàng đầu đối với các doanh nghiệp. Nó không những giúp doanh nghiệp tìm cách sử dụng có hiệu quả hơn nguồn vốn hiện có của mình, mà còn giúp các cơ quan quản lý của doanh nghiệp có biện pháp quản lý phù hợp.
Nhà máy thiết bị bưu điện 61 Trần Phú- Ba đình- Hà nội là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Tổng công ty Bưu chính viễn thông (nay là Bộ Bưu Chính - Viễn Thông), trong những năm qua đã có những đóng góp tích cực vào những thành tựu chung của toàn ngành. Hoạt động của Nhà máy có những nét đặc thù: là một khâu trên dây chuyền sản xuất, kinh doanh thống nhất toàn ngành. Sản xuất kinh doanh của Nhà máy có quan hệ chặt chẽ với các khâu, các đơn vị khác trong Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (nay là Bộ Bưu Chính - Viễn Thông). Bởi vậy, kết quả sản xuất kinh doanh của Nhà máy có liên quan trực tiếp đến kết quả hoạt động chung của hầu hết các đơn vị trực thuộc Tổng công ty (nay là Bộ Bưu Chính - Viễn Thông). Chính vì vậy, việc quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn mà Bộ Bưu Chính - Viễn Thông giao cho là một vấn đề bức xúc đối với ban lãnh đạo Nhà máy.
Trong quá trình thực tập tại Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện cùng với sự hướng dẫn của cô giáo Th.s Nguyễn Thu Thủy và các cô chú trong phòng Đầu tư-Kinh doanh, em đã lựa chọn đề tài: “ Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện “.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là tìm ra những tồn tại trong việc sử dụng vốn và trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa tình hình sử dụng vốn tại Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện.
Mặc dù được sự hướng dẫn và giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo và các cô chú trong phòng Đầu Tư-Kinh Doanh nhưng do thời gian có hạn, cùng với khả năng và thực tiễn chưa nhiều nên bài viết của em không thể tránh khỏi những sai sót, em mong được cô giáo có những nhận xét và sửa đổi giúp em hoàn thiện đề tài. Em xin chân thành cảm ơn.
Đề tài: “ Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện “ được chia thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về vốn và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
Chương 2: Thực trạng công tác sử dụng vốn tại Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện.
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện.
Chương 1
Những vấn đề chung về vốn và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường
I. Vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp
1. Khái niệm về vốn kinh doanh
Doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế quốc dân. Sự phát triển của các doanh nghiệp có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hoạt động của doanh nghiệp là sự huy động các nguồn lực sẵn có để sản xuất ra sản phẩm phục vụ xã hội, hướng tới mục tiêu lợi nhuận. Như vậy, muốn hoạt động được, yêu cầu trước nhất đối với mỗi doanh nghiệp là phải có vốn.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về vốn, đứng trên mỗi góc độ khác nhau và quan điểm khác nhau.
Theo quan điểm của K. Mác ông cho rằng: “ Vốn chính là tư bản, giá trị đem lại giá trị thặng dư “.
Theo Samuelson, một đại diện tiêu biểu của học thuyết kinh tế hiện đại cho rằng: “ Đất đai và lao động là các yếu tố ban đầu sơ khai, còn vốn và hàng hóa là yếu tố kết quả của sản xuất. Vốn bao gồm các loại hàng hóa lâu bền được sản xuất ra và được sử dụng như các đầu vào hữu ích trong quá trình sản xuất đó “.
Một số hàng hóa vốn có thể tồn tại trong vài năm, trong khi một số khác có thể tồn tại trong một thế kỷ hoặc lâu hơn. Đặc điểm cơ bản nhất của hàng hóa vốn thể hiện ở chỗ chúng vừa là sản phẩm đầu ra, vừa là yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất.
David Begg lại cho rằng: “ Vốn được phân chia theo hai hình thức là vốn hiện vật và vốn tài chính “.
Vốn hiện vật là dự trữ các hàng hóa đã sản xuất mà sử dụng để sản xuất ra hàng hóa khác.
Vốn tài chính là tiền và tài sản trên giấy của doanh nghiệp.
Qua một số quan điểm của các nhà kinh tế học ở trên thì ta có rất nhiều khái niệm khác nhau về vốn nếu đứng trên các góc độ khác nhau.
Mọi quá trình sản xuất đều được khái quát lại qua mô hình:
TLLĐ
T H TLSX SX H’ T’
Để có các đầu vào (TLLĐ, TLSX) phục vụ cho kinh doanh, doanh nghiệp phải có một lượng tiền ứng trước và lượng tiền ấy gọi là vốn của doanh nghiệp.
Vậy, vốn là biểu hiện bằng tiền của vật tư, tài sản được đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy vốn có một số đặc trưng sau:
Vốn là hàng hoá đặc biệt bởi các lý do sau:
+ Trước hết, vốn là hàng hoá vì nó có giá trị sử dụng và giá trị:
* Giá trị sử dụng của vốn thể hiện ở việc người ta sử dụng nó để đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh - mua máy móc thiết bị, nguyên vật liệu...
* Giá trị của vốn được thể hiện ở chi phí mà chúng ta bỏ ra để có được.
+ Vốn là hàng hoá đặc biệt bởi vì có sự tách biệt rõ ràng giữa quyền sử dụng và quyền sở hữu. Khi mua nó chúng ta chỉ có quyền sử dụng nó chứ không có quyền sở hữu nó và quyền sở hữu nó vẫn thuộc về chủ sở hữu nó.
Tính đặc biệt của vốn còn thể hiện ở chỗ: Nó không bị hao mòn hữu hình trong quá trình sử dụng mà còn có khả năng tạo ra giá trị lớn hơn bản thân nó. Chính vì vậy, giá trị của nó phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố của môi trường kinh tế vĩ mô. Nó không phụ thuộc vào lợi ích cận biên của bất kỳ doanh nghiệp nào. Điều này đặt ra nhiệm vụ đối với các nhà quản trị tài chính là phải làm sao sử dụng tốt hiệu quả của vốn để đem lại một giá trị thặng dư tối đa.
2. Phân loại vốn kinh doanh
2.1.Đứng trên giác độ pháp luật
Trên giác độ pháp luật, vốn kinh doanh được chia làm hai loại: Vốn pháp định và Vốn điều lệ.
Vốn pháp định: Là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập doanh nghiệp do pháp luật quy định đối với từng ngành, nghề, và từng loại hình sở hữu doanh nghiệp. Dưới mức vốn pháp định thì không đủ điều kiện thành lập doanh nghiệp.
Vốn điều lệ: Là mức vốn do các thành viên đóng góp và được ghi vào điều lệ của doanh nghiệp. Tuỳ theo từng loại doanh nghiệp theo từng ngành, nghề, vốn điều lệ không được thấp hơn vốn pháp định.
2.2.Đứng trên giác độ hình thành vốn gồm có
Vồn đầu tư ban đầu: Là số vốn có khi hình thành doanh nghiệp, tức là số vốn cần thiết để đăng ký kinh doanh, hoặc vốn đóng góp của doanh nghiệp, công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân hoặc vốn Nhà nước giao.
Vốn bổ xung: Là số vốn tăng thêm do bổ xung từ lợi nhuận, do Nhà nước bổ xung bằng phân phối hoặc phân phối lại nguồn vốn, do sự đóng góp của các thành viên, do bán trái phiếu.
Vốn liên doanh: Là vốn đóng góp do các bên cùng cam kết liên doanh với nhau để hoạt động thương mại dịch vụ.
Vốn đi vay: Trong hoạt động kinh doanh, ngoài số vốn tự có và coi như tự có, doanh nghiệp còn sử dụng một khoản vốn đi vay khá lớn của Ngân hàng. Ngoài ra, còn có khoản vốn chiếm dụng lẫn nhau của các đơn vị, khách hàng và bạn hàng.
2.3.Đứng trên giác độ chu chuyển vốn
Vốn lưu động: Là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động và vốn lưu động. Vốn lưu động dùng trong kinh doanh thương mại tham gia hoàn toàn vào quá trình kinh doanh và giá trị có thể trở lại hình thái ban đầu sau mỗi vòng chu chuyển của hàng hoá. Nó là một bộ phận của vốn sản xuất, bao gồm giá trị nguyên vật liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ,... Những giá trị này được hoàn lại hoàn toàn cho chủ doanh nghiệp sau khi đã bán hàng hoá. Trong quá trình sản xuất bộ phận giá trị lao động biểu hiện dưới hình thức tiền lương đã bị người lao động hao phí, nhưng được tái hiện giá trị mới của sản phẩm, còn giá trị mới của sản phẩm, còn giá trị NVL được chuyển toàn bộ vào sản phẩm trong chu kỳ sản xuất đó.
Vốn cố định: Là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định. Tài sản cố định dùng trong kinh doanh tham gia hoàn toàn vào quá trình kinh doanh, nhưng về mặt giá trị chỉ có thể thu hồi dần sau nhiều chu kỳ kinh doanh, nghĩa là về mặt thời gian phải trên một năm.
+ Hình thái hiện vật: Đó là toàn bộ tài sản cố định dùng trong kinh doanh của các doanh nghiệp bao gồm: Nhà cửa, máy móc thiết bị, công cụ...
+ Hình thái tiền tệ: Đó là giá trị tài sản cố định chưa khấu hao và vốn khấu hao khi chưa được sử dụng để sản xuất tài sản cố định, là bộ phận vốn cố định đã hoàn thành vòng luân chuyển và trở về hình thái ban đầu.
3.Đặc điểm của vốn
3.1.Đặc điểm của vốn lưu động
Vốn lưu động luôn luôn biến đổi hình thái từ tiền sang hàng, và từ hàng sang tiền, vốn lưu động chu chuyển nhanh hơn vốn cố định. Vốn lưu động bao gồm vốn dự trữ hàng hoá, vốn bằng tiền và tài sản có khác. Vốn lưu động thường được biểu hiện ở các hình thái khác nhau: hàng hoá dự trữ, vật tư nội bộ, tiền gửi ngân hàng, tiền mặt tồn quỹ, các khoản phải trả và phải thu,... Cơ cấu của chúng phụ thuộc rất lớn vào phương thức thanh toán, phương thức vay (tín dụng) và phương thức mua bán các loại hàng hoá. Nó thường xuyên biến động nhanh thể hiện căng thẳng thiếu vốn khi mua hàng nhiều, đặc biệt mua hàng thời vụ, có vốn khi bán hàng. Để điều hoà vốn, các doanh nghiệp thường phải quan hệ với các tổ chức tín dụng ngân hàng để vay mượn thanh toán và gửi tiền.
3.2.Đặc điểm của vốn cố định
Vốn cố định biểu hiện dưới hình thái TSCĐ. TSCĐ phải đạt được cả hai tiêu chuẩn. Một là, phải đạt được về mặt giá trị đến một mức độ nhất định. Hai là, thời gian sử dụng phải trên một năm trở lên.
TSCĐ giữ nguyên hình thái vật chất của nó trong thời gian dài. TSCĐ chỉ tăng lên khi có xây dựng cơ bản mới hoặc mua sắm, TSCĐ chuyển đổi thành tiền chậm hơn, nhưng TSCĐ như nhà cửa, kho tàng, cửa hàng, quầy hàng lại là TSCĐ có giá trị cao, là bộ mặt của doanh nghiệp nên có giá trị thế chấp đối với ngân hàng khi vay vốn.
Khi tham gia vào quá trình sản xuất, vốn cố định luân chuyển giá trị dần từng phần và tài sản cố định không bị thay đổi hình thái hiện vật ban đầu nhưng tính năng, công suất bị giảm dần (nó bị hao mòn và cùng với sự hao mòn về giá trị sử dụng thì giá trị của nó cũng giảm đi). Vì vậy, vốn cố định được chia làm hai phần:
Phần 1 của vốn cố định là giá trị hao mòn đã được chuyển vào giá trị sản phẩm sản xuất ra dưới dạng chi phí khấu hao và được tính lại sau khi sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ. Phần này được dùng vào tái sản xuất toàn bộ tài sản cố định khi chúng bị hư hỏng phải loại bỏ ra khỏi quá trình sản xuất.
Phần thứ hai chính là giá trị còn lại của tài sản cố định, tiếp tục phục vụ cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
4.Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp
Trong điều kiện kinh tế thị trường ngày nay, vốn là điều kiện cơ bản, quan trọng để một doanh nghiệp có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, đối với các nhà quản lý cần thiết phải có sự nhận thức đúng đắn về vai trò, tầm quan trọng của vốn sản xuất kinh doanh đối với doanh nghiệp mình. Thật vậy, vốn sản xuất kinh doanh có vai trò quan trọng đối với các doanh nghiệp như:
- Vốn kinh doanh của các doanh nghiệp có vai trò quyết định trong việc thành lập, hoạt động, phát triển của từng loại hình doanh nghiệp theo luật định. Tuỳ theo nguồn vốn kinh doanh cũng như phương thức huy động vốn mà doanh nghiệp xác định loại hình sở hữu và thành lập tên phù hợp.
- Vốn kinh doanh của doanh nghiệp lớn hay nhỏ là một trong những điều kiện quan trọng để xác định quy mô của doanh nghiệp và cũng còn là một trong những điều kiện để sử dụng các nguồn tiềm năng hiện có và tương lai về sức lao động, nguồn hàng hoá, mở rộng và phát triển thị trường, phát triển kinh doanh.
- Vốn kinh doanh thực chất là nguồn của cải của xã hội được tích luỹ lại, tập trung lại. Nó chỉ là một điều kiện, một nguồn khả năng để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên nó chỉ phát huy tác dụng khi biết quản lý tiết kiệm và có hiệu quả.
- Trong cơ chế mới, điều kiện mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh, việc có vốn và tích luỹ, tập trung được vốn nhiều hay ít vào doanh nghiệp có vai trò cực kì quan trọng để phát huy tài năng của ban lãnh đạo doanh nghiệp. Nó là một điều kiện để thực hiện các chiến lược, sách lược kinh doanh như: việc huy động vốn kịp thời giúp doanh nghiệp chớp được thời cơ kinh doanh, tạo lợi thế trong cạnh tranh.
5.Đa dạng hoá các nguồn cung ứng vốn
Trong cơ chế thị trường, với sự bùng nổ của các thành phần kinh tế và sự năng động của các doanh nghiệp, vốn kinh doanh của các doanh nghiệp cũng được cung ứng theo nhiều đường và nhiều nguồn khác nhau. Tuy vậy, có hai nguồn cung ứng chính đó là: Tự cung ứng và cung ứng từ bên ngoài theo sơ đồ:
Sơ đồ 1: Các nguồn cung ứng vốn của doanh nghiệp
Cơ chế tự cung ứng:
1. Điều chỉnh cơ cấu tài sản
Khấu hao TSCĐ
Tái đầu tư
Phát hành cổ phiếu
Quỹ hỗ trợ đầu tư từ NSNN
Liên doanh liên kết
Thuê mua
Tín dụng ngân hàng
Phát hành trái phiếu
Vốn nước ngoài(ODA)
Kết hợp công tư trong XD CSHT
Nước ngoài đầu tư trực tiếp(FDI)
Mua trả chậm
Tiền chiếm dụng
1. ứng trước
2. Trả sau
5.1.Tự cung ứng
Cung ứng nội bộ là phương thức cung cấp vốn của doanh nghiệp. Trong các doanh nghiệp, các phương thức tự cung ứng vốn cụ thể là:
5.1.1.Khấu hao TSCĐ
Trong quá trình sử dụng TSCĐ, doanh nghiệp phải xác định được mức độ hao mòn của chúng để chuyển dần giá trị hao mòn vào sản phẩm được sản xuất ra từ các TSCĐ đó. Xác định để chuyển dần giá trị hao mòn của tài sản vào giá trị sản phẩm được gọi là khấu hao TSCĐ. Việc xác định mức khấu hao cụ thể phụ thuộc vào thực tiễn sử dụng tài sản cố định cũng như ý muốn chủ quan của con người. Đối với các DDNN trong chừng mực nhất định, quá trình xác định khấu hao chịu ảnh hưởng của ý đồ của Nhà nước thông qua các qui định, chính sách cụ thể của cơ quan tài chính trong từng thời kỳ. Các doanh nghiệp khác có thể tự lựa chọn thời hạn sử dụng và phương pháp tính khấu hao cụ thể.Trong chính sách tài chính cụ thể của từng thời kỳ, doanh nghiệp có thể lựa chọn và điều chỉnh khấu hao TSCĐ và coi đây như một công cụ điều chỉnh nguồn cung ứng vốn bên trong của mình. Tuy nhiên, cần chú ý rằng việc điều chỉnh khấu hao không thể diễn ra một cách tuỳ tiện, không có kế hoạch mà phải trên cơ sở các kế hoạch tài chính dài hạn và ngắn hạn.
5.1.2.Tích luỹ tái đầu tư
Tích luỹ tái đầu tư luôn được các doanh nghiệp coi là nguồn cung ứng tài chính quan trọng vì có các ưu điểm sau:
Doanh nghiệp có thể hoàn toàn chủ động.
Giảm sự phụ thuộc vào các nhà cung ứng
Giúp doanh nghiệp tăng thêm tiềm lực tài chính nhờ giảm tỷ lệ Nợ/Vốn
Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong điều kiện chưa tạo được tín nhiệm với các nhà cung ứng tài chính thì đây là biện pháp có vai trò quan trọng.
Quy mô tự cung ứng vốn từ tích luỹ tái đầu tư tuỳ thuộc vào hai nhân tố quan chủ yếu là tổng số lợi nhuận thu được trong từng thời kỳ kinh doanh cụ thể và chính sách phân phối lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. Đối với các DDNN toàn bộ lợi nhuận thu được sẽ phải được sử dụng cho các khoản sau:
Nộp tiền sử dụng vốn ngân sách Nhà nước theo quy định.
Trả các khoản phạt quy định không được tính vào chi phí kinh doanh.
Lập các quỹ đặc biệt.
Chia lãi cho các đối tác liên doanh.
Phần còn lại được sử dụng để lập quỹ doanh nghiệp theo quy định gồm các quỹ sau:
+ Quỹ đầu tư phát triển
+ Quỹ dự phòng tài chính (10%) và số dư giới hạn < 25% vốn lưu động
+ Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm (5%) và số dư không quá 6 tháng lương
+ Quỹ khen thưởng, phúc lợi với mức trích < 2-3 tháng lương
Đối với các công ty cổ phần, toàn bộ lợi nhuận sau thuế sẽ được dùng để trích lập quỹ dự trữ bắt buộc (5% lợi nhuận) cho đến khi số dư quỹ bằng 10% vốn điều lệ. Số còn lại tuỳ thuộc chính sách phân phối cụ thể của công ty để phân phối.
5.1.3.Điều chỉnh cơ cấu tài sản
Phương thức này tuy không làm tăng tổng số tài sản sản xuất kinh doanh nhưng lại có tác dụng rất lớn trong việc tăng vốn cho các hoạt động cần thiết trên cơ sở giảm vốn ở những nơi không cần thiết. Do môi trường kinh doanh biến động nhiệm vụ kinh doanh thay đổi nên trong kinh doanh luôn diễn ra hiện tượng thừa tài sản này nhưng lại thiếu tài sản khác. Điều chỉnh cơ cấu tài sản chính là việc kịp thời có các giải pháp bán các TSCĐ dư thừa, không (chưa) sử dụng đến. Mặt khác, trên cơ sở thường xuyên kiểm tra tính toán và xác định lại mức dự trữ tài sản lưu động trên cơ sở ứng dụng mô hình dự trữ tối ưu nhằm giảm lưu kho TSCĐ không cần thiết, đảm bảo lượng lưu kho mỗi loại TSCĐ hợp lý.
Tuy nhiên, phương thức tự cung ứng vốn cũng có hạn chế cơ bản là quy mô cung ứng vốn là nhỏ và nguồn bổ xung luôn có giới hạn.
5.2.Các phương thức cung ứng vốn từ bên ngoài
5.2.1.Cung ứng vốn từ NSNN
Đây là hình thức cung ứng vốn ban đầu cho doanh nghiệp từ một lượng nhất định lấy từ NSNN. Thông thường hình thức này đòi hỏi nhiều điều kiện ngặt nghèo đối với doanh nghiệp được cấp vốn như các hình thức huy động vốn khác. Tuy nhiên, càng ngày hình thức cung ứng vốn từ NSNN đối với các doanh nghiệp cũng bị thu hẹp cả về quy mô và phạm vi được cấp vốn nên tính năng động không cao, hiệu quả kém.
5.2.2.Gọi hùn vốn qua phát hành cổ phiếu
Đây là hình thức doanh nghiệp được cung ứng vốn trực tiếp từ thị trường chứng khoán thông qua việc phát hành cổ phiếu và bán chúng trên thị trường chứng khoán. Hình thức cung ứng vốn có đặc trưng cơ bản là tăng vốn mà không tăng nợ của doanh nghiệp bởi những người sở hữu cổ phiếu trở thành cổ đông của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, không phải mọi doanh nghiệp đều được phép khai thác nguồn vốn này mà chỉ có những doanh nghiệp được phép phát hành cổ phiếu (công ty cổ phần, doanh nghiệp Nhà nước có quy mô lớn).
Ưu điểm của phương thức này là tập hợp được lượng vốn lớn ban đầu và dễ tăng vốn trong quá trình kinh doanh, quyền sở hữu vốn tách rời quyền quản trị một cách tương đối nên bộ máy quản trị doanh nghiệp được toàn quyền chủ động sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này.
Bên cạnh đó hình thức này cũng có nhiều hạn chế là doanh nghiệp phải có nghĩa vụ công khai hoá thông tin tài chính theo luật doanh nghiệp. Nếu có tình trạng thừa vốn thì không thể trả lại được, vì vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải tính toán trước khi huy động. Một nhược điểm nữa là tính ổn định của phương thức này không cao do chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố mà lớn nhất là kỳ vọng của các cổ đông muốn đạt được lợi ích cao từ việc mua cổ phiếu.
5.2.3.Vay vốn bằng phát hành trái phiếu trên thị trường vốn
Đây là hình thức huy động vốn trực tiếp từ công chúng với đặc trưng cơ bản là tăng vốn gắn liền vơí tăng nợ của doanh nghiệp.
Vay vốn bằng phát hành trái phiếu doanh nghiệp có ưu điểm:
Thu hút lượng vốn lớn, chi phí thấp hơn so với vay ngân hàng và không bị kiểm soát chặt chẽ như vốn tín dụng ngân hàng.
Nguồn này tương đối đa dạng và doanh nghiệp có quyền được lựa chọn phát hành trái phiếu phù hợp.
+ Trái phiếu lãi suất cố định
+ Trái phiếu lãi suất thả nổi
+ Trái phiếu có khả năng thu hồi
Nhược điểm của phương thức này:
Đòi hỏi doanh nghiệp phải nắm chắc các kỹ thuật tài chính để tránh áp lực nợ đến hạn và vẫn có lợi nhuận, đặc biệt khi kinh tế suy thoái, lạm phát cao.
Chi phí kinh doanh phát hành trái phiếu khá cao vì doanh nghiệp cần có sự trợ giúp của một số ngân hàng thương mại.
Không phải mọi doanh nghiệp mà chỉ có những doanh nghiệp nào thoả mãn các điều kiện theo luật định mới được phép phát hành trái phiếu.
5.2.4.Vay vốn của các ngân hàng thương mại
Vay vốn từ các ngân hàng thương mại là hình thức doanh nghiệp vay vốn dưới các hình thức cụ thể như: ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn từ các ngân hàng thương mại. Với hình thức này doanh nghiệp có thể huy động một lượng vốn lớn, đúng thời hạn và doanh nghiệp có thể mời các ngân hàng cùng tham gia thẩm định dự án nếu có nhu cầu vay đầu tư lớn. Phương thức này đòi hỏi doanh nghiệp phải có uy tín lớn, kiên trì đàm phán, chấp nhận các thủ tục thẩm định ngặt nghèo. Trong quá trình sử dụng vốn doanh nghiệp phải tính toán trả nợ ngặt nghèo. Trong quá trình sử dụng vốn doanh nghiệp phải tính toán trả nợ ngân hàng theo đúng tiến độ kế hoạch.
Mặt khác, có thể các ngân hàng còn đòi hỏi quyền kiểm soát các hoạt động của doanh nghiệp trong thời gian cho vay, dưới các hình thức:
Ngân hàng cho vay có thể khống chế giá trị các TSCĐ để tránh ngâm vốn, tránh rủi ro.
Doanh nghiệp không được đem thế chấp tài sản nếu không được sự đồng ý của ngân hàng cho vay.
Ngân hàng cho vay có thể áp đặt cơ chế kiểm soát chi phối hoạt động đầu tư để ngăn ngừa doanh nghiệp sử dụng vốn bừa bãi và còn nhiều hình thức khác nữa.
5.2.5.Tín dụng thương mại từ các nhà cung cấp
Để đối phó với nhu cầu tài chính và do đặc điểm quá trình cung ứng hàng hoá và thanh toán không thể khi nào cũng diễn ra đồng thời nên tín dụng thương mại xuất hiện và tồn tại như một tất yếu khách quan.
Sơ đồ sau khái quát một cách cụ thể và những hình thức tín dụng thương mại chủ yếu:
Sơ đồ 2: Các hình thức tín dụng thương mại
Bán Thu tiền
NVL SP dở dang Thành phẩm Khách nợ
Nợ nhà cung cấp Nợ khách hàng
- Nợ nhà cung cấp: Doanh nghiệp mua máy móc thiết bị theo phương thức trả chậm. Sẽ chỉ có được hình thức tín dụng này nếu được ghi rõ trong hợp đồng mua bán về giá cả, số lần trả và số tiền trả mỗi lần, khoảng cách giữa các lần trả tiền. Như vậy, doanh nghiệp có máy móc, thiết bị dùng ngay nhưng tiền chưa phải trả ngay. Trong môi trường kinh doanh hiện nay, với nhiều mặt hàng thì mua bán chưa phải trả ngay được coi là một chiến lược Marketing của người bán nên doanh nghiệp dễ dàng tìm được nguồn tín dụng này. Đặc biệt, khi thị trường có nhiều nhà cung ứng cạnh tranh với nhau doanh nghiệp có lợi thế về giá cả và kỳ hạn trả. Với phương thức tín dụng này doanh nghiệp có thể đầu tư chiều sâu với vốn ít mà không ảnh hưởng đến tình hình tài chính của mình.
Tuy nhiên nó cũng có hạn chế nhất định. Chẳng hạn, mua theo phương thức này doanh nghiệp sẽ phải trả chi phí kinh doanh sử dụng vốn khá cao. Mặt khác, sẽ chỉ mua theo phương thức trả chậm được nếu doanh nghiệp có uy tín, có truyền thống tín dụng sòng phẳng cũng như tình hình tài chính lành mạnh.
Nợ khách hàng (Vốn khách hàng ứng trước)
Trong quá trình kinh doanh, khi ký hợp đồng đặt hàng, khách hàng thường phải đặt cọc trước một số tiền nhất định, số tiền đặt cọc này doanh nghiệp được sử dụng mặc dù chưa sản xuất và cung cấp sản phẩm (dịch vụ) cho khách hàng. Thông thường số vốn chiếm dụng này không lớn. Mặt khác, để sản xuất sản phẩm (dịch vụ) doanh nghiệp phải đặt hàng (NVL) nên lại bị người cung cấp hàng chiếm dụng vốn của doanh nghiệp nên số dư vốn chiếm dụng hình thức này không nhiều.
Hạn chế lớn nhất của phương thức này là rủi ro lớn, chính vì vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải tính toán cân nhắc rất hiệu quả.
5.2.6.Tín dụng thuê mua
Trong cơ chế kinh tế thị trường, phương thức tín dụng thuê mua được thực hiện giữa một doanh nghiệp có cầu sử dụng máy móc, thiết bị với một doanh nghiệp thực hiện chức năng thuê mua. Hình thức này diễn ra khá phổ biến vì nó đáp ứng được các cơ bản của bên có cầu và bên đáp ứng cầu.
Sơ đồ 3: Các quan hệ phát sinh trong tín dụng thuê mua
Công ty thuê mua
Công ty bán máy móc thiết bị
Xuất vốn
Thiết bị
Doanh nghiệp
Ưu điểm của phương thức này:
Giúp doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích, tiết kiệm, hạn chế sự động vốn từ việc mua máy móc tthiết bị không đúng yêu cầu hoặc mua nhầm.
Đáp ứng kịp thời nhu cầu đào tạo vì doanh nghiệp không chỉ nhận được máy móc thiết bị từ công ty thuê mua mà còn nhận được tư vấn đào tạo và hướng dẫn kỹ thuật cần thiết.
Giảm được tỷ lệ nợ/vốn vì tránh phải vay ngân hàng thương mại.
Nâng cao khả năng cạnh tranh, nhanh chóng đổi mới TSCĐ, thông qua thuê, bán.
Nhược điểm của phương thức này:
Chi phí kinh doanh sử dụng vốn cao.
Hợp đồng tương đối phức tạp giữa doanh nghiệp và công ty cho thuê tài chính.
5.2.7.Vốn liên doanh liên kết
Là hình thức góp vốn liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp khác nhằm tạo vốn cho một hoạt động, một dự án trong một thời gian nhất định.
Ưu điểm:
Được coi là nguồn vốn nội bộ không làm tăng nợ.
Chia sẻ rủi ro, khai thác hiệu quả các nguồn lực.
Nhược điểm:
Tương đối phức tạp trong việc phân chia tỷ lệ đóng góp phân phối.
Sự thoả thuận chặt chẽ bằng văn bản về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên.
5.2.8. Cung ứng từ sự ký kết hợp công tư trong xây dựng cơ sở hạ tầng
Ưu điểm:
Huy động vốn từ các tập đoàn tư nhân ở nước ngoài, tận dụng được công nghệ kỹ thuật hiện đại.
Nước chủ nhà được quyền sở hữu các công trình cơ sở hạ tầng khi hết hạn hợp đồng.
Nhược điểm:
Tương đối phức tạp.
Chịu sự tác động của an ninh xã hội.
5.2.9.Nguồn vốn FDI
Là hình thức góp vốn hỗ trợ công nghệ kỹ thuật, chịu sự kiểm soát trực tiếp của nước ngoài.
Ưu điểm chính của phương thức này là có nguồn vốn sử dụng lớn, công nghệ kỹ thuật hiện đại, cùng được chia sẻ thị trường xuất khẩu. Nhưng nhược điểm là doanh nghiệp sẽ phải chịu sự kiểm soát điều hành của doanh nghiệp cấp vốn, phức tạp trong ăn chia phân phối.
5.2.10.Nguồn vốn ODA
Là nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức của Chính phủ các nước công nghiệp phát triển thông qua hình thức vay ưu đãi với lãi suất thấp hoặc viện trợ không hoàn lại, thời hạn hoàn vốn lâu. Tuy nhiên, để nhận được nguồn vốn này các doanh nghiệp phải chấp nhận các điều kiện thủ tục rất chặt chẽ. Đồng thời, doanh nghiệp phải có trình độ quản lý dự án đầu tư và trình độ phối hợp làm việc với các cơ quan Chính phủ và các chuyên gia nước ngoài.
II. hiệu quả sử dụng vốn
1.Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn
Kinh doanh là một hoạt động kiếm lời, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Để đạt tới lợi nhuận tối đa các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh trong đó quản lý và sử dụng vốn là một bộ phận rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong điều kiện các nguồn lực hạn chế, doanh nghiệp phải thường xuyên tự đánh giá mình về mọi mặt. Qua đó, thấy được chất lượng quản lý sản xuất kinh doanh, khả năng khai thác các khả năng sẵn có, biết mình đang ở đoạn nào trong quá trình phát triển, đang ở vị trí nào trong quá trình đua tranh với các doanh nghiệp khác.
Hiệu quả sử dụng vốn là một phần của công tác đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh nhưng để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình, các doanh nghiệp phải cố gắng tối đa trên nhiều lĩnh vực trong đó phải tìm ra cách nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của mình.
Vậy: ‘ Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác, sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời tối đa với chi phí thấp “.
2.Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
2.1.Doanh lợi vốn
Các chỉ tiêu doanh lợi thường được các nhà quản trị, các nhà tài chính,... quan tâm xem xét nhằm đưa ra các quyết định trong năm kế hoạch đồng thời xem xét việc cung ứng vốn hay không.
Các chỉ tiêu doanh lợi vốn gồm:
2.1.1.Doanh lợi của toàn bộ vốn kinh doanh
Được xác định theo công thức:
Trong đó:
DVKD(%): Doanh lợi của toàn bộ vốn kinh doanh của một thời kỳ.
PR : Lãi ròng thu được của thời kỳ tính toán.
TLW : Lãi trả vốn vay của thời kỳ đó.
Tuy nhiên chỉ tiêu này ít được sử dụng do quá phức tạp.
2.1.2.Doanh lợi trên vốn tự có
Được xác định theo công thức:
DVTC(%): Doanh lợi vốn tự có của một thời kỳ tính toán
VTC : Tổng số vốn tự có.
Chỉ tiêu này có hạn chế là doanh thu bán hàng của một thời kỳ tính toán cụ thể là kết quả của việc sử dụng toàn bộ lượng vốn kinh doanh hiện có chứ không chỉ có vốn tự có. Hơn nữa, nếu đánh giá hiệu quả kinh doanh theo chỉ tiêu này thì doanh nghiệp đi vay vốn càng nhiều hiệu quả kinh doanh càng cao nhưng không thực chất.
2.2.Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
Chỉ tiêu này đánh giá chung nhất kết quả của doanh nghiệp trong việc quản lý sử dụng các loại vốn sản xuất, thể hiện mối quan hệ giữa sản xuất kinh doanh trong kỳ và số vốn kinh doanh bình quân.
2.2.1.Số vòng quay toàn bộ vốn kinh doanh
Được xác định theo công thức:
Trong đó:
SVKD: Số vòng quay toàn bộ vốn kinh doanh
TR : Tổng doanh thu thuần trong kỳ
VKD : Tổng số vốn kinh doanh
2.2.2.Hiệu quả sử dụng vốn cố định
Hiệu quả sử dụng vốn cố định được đánh giá bởi chỉ tiêu hiệu suất sử dụng tài sản cố định:
Trong đó:
HTSCĐ: Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
TSCĐG: Tổng giá trị tài sản cố định sử dụng bình quân trong kỳ là tổng giá trị TSCĐ còn lại tính đến thơì kỳ tính toán
PR : Lãi ròng thu được trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết một đồng giá trị TSCĐ trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
2.2.3.Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Được xác định theo công thức:
Trong đó:
HVL: Hiệu suất sử dụng vốn lưu động
VLĐ: Vốn lưu động sử dụng trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận
2.2.4.Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động khác
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động tính theo lợi nhuận
Chỉ tiêu được xác định theo công thức:
Như vậy, nếu cố định chỉ tiêu tỉ trọng lợi nhuận trên vốn kinh doanh thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động tỉ lệ thuận với số vòng quay của vốn lưu động. Tăng số vòng quay của vốn lưu động sẽ góp phần làm tăng hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Số vòng luân chuyển vốn lưu động trong năm
Chỉ tiêu này được xác định theo công thức:
SVVLD: Số vòng luân chuyển vốn lưu động trong năm
- Số ngày bình quân của một vòng luân chuyển vốn lưu động
Chỉ tiêu này được xác định theo công thức:
2.3.Tỷ suất lợi nhuận
Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, căn cứ vào chỉ tiêu lợi nhuận tính bằng số tuyệt đối chưa thể đánh giá đúng chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, khi phân tích hiệu quả sử dụng vốn, bên cạnh việc xem xét mức biến động của tổng lợi nhuận, còn phải đánh giá bằng số tương đối (tỷ suất lợi nhuận) thông qua việc so sánh tổng số lợi nhuận trong kỳ với số vốn sản xuất sử dụng để sinh ra số lợi nhuận đó.
Tỷ suất lợi nhuận được tính theo các chỉ tiêu sau:
2.3.1.Tỷ suất lợi nhuận vốn sản xuất
Được tính theo công thức sau:
Tỷ suất lợi nhuận vốn sản xuất (%)
=
Tổng số lợi nhuận
Tổng số vốn sản xuất bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ sinh lời của vốn cố định
2.3.3.Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động
Được tính theo công thức sau:
Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động (%)
=
Tổng số lợi nhuận
Tổng số vốn lưu động bình quân
Các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận nói nên một trăm đồng vốn sản xuất trong kỳ mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Trên cơ sở đó so sánh các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận thực hiện năm nay so với kế hoạch, so với thực hiện năm trước và với các xí nghiệp có điều kiện tương đương có thể đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp nhằm tìm biện pháp nâng cao chỉ tiêu này.
2.4.Phân tích tình hình và khả năng thanh toán
2.4.1.Phân tích tình hình thanh toán
Các giao dịch kinh tế tài chính trong kinh doanh ở mọi doanh nghiệp thường xuyên phát sinh các khoản phải thu và phải trả và cần một thời gian nhất định mới thanh toán được.
Quan hệ nợ nần lẫn nhau giữa các doanh nghiệp về các khoản tiền mua hàng hoá, giữa doanh nghiệp với ngân sách về các khoản phải nộp thuế theo luật định, giữa doanh nghiệp với cán bộ công nhân viên về tiền lương,... là các quan hệ tất yếu khách quan. Tuy nhiên, trong kinh doanh các doanh nghiệp phải ngăn ngừa và giảm tối đa các khoản nợ đến hạn trả hoặc quá hạn vẫn chưa đòi được. Bởi vì, sự chiếm dụng vốn quá hạn của khách hàng một mặt gây khó khăn về vốn cho doanh nghiệp, mặt khác do thiếu vốn, thiếu tiền mặt để thanh toán các khoản phải trả, doanh nghiệp sẽ phải đi vay, chịu lãi suất tín dụng, điều đó làm giảm tỷ suất lợi nhuận, làm chậm tốc độ luân chuyển vốn.
Phân tích tình hình thanh toán của doanh nghiệp chính là xem xét mức biến động của các khoản phải thu, phải trả. Tìm nguyên nhân của các khoản nợ chưa đến hạn chưa đòi được hoặc nguyên nhân của việc tăng các khoản nợ đến hạn chưa trả được.
2.4.2.Phân tích khả năng thanh toán
Tỷ suất vốn hoạt động
Được tính theo công thức sau:
Tỷ số vốn hoạt động
=
Tài sản lưu động
Nợ ngắn hạn
Hệ số này cho biết tổng vốn lưu động của doanh nghiệp có đủ thanh toán các khoản nợ ngắn hạn hay không.
Sẽ là chấp nhận nếu “ Tỷ số vốn hoạt động ” >2.
Tỷ số khả năng thanh toán nhanh
Được tính theo công thức sau:
Tỷ số khả năng thanh toánh nhanh
=
TSLĐ - Hàng tồn kho
Nợ ngắn hạn
Sẽ phù hợp khi tỷ số này = 1/1
Tỷ số tiền mặt
Được tính theo công thức sau:
Tỷ số tiền mặt
=
Tiền mặt- Chuyển khoản
Nợ ngắn hạn
Với tỷ số này thì:
Nếu tỷ số > 1 sẽ là rất tốt
Nếu tỷ số = 1 sẽ là tốt
Nếu tỷ số < 1 sẽ là xấu
3.Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở các doanh nghiệp nước ta hiện nay
Với vai trò hết sức quan trọng, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn giúp các doanh nghiệp có một cái nhìn tổng thể về khả năng cũng như hạn chế của mình để đề ra các quyết định đúng đắn. Chính vì vậy việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở các doanh nghiệp là một điều hết sức cần thiết. Nó thể hiện qua các tiêu chí sau:
- Qua phân tích, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn mà doanh nghiệp nhìn nhận ra được những thiếu sót, những điểm yếu của mình trong quá trình sử dụng vốn cũng như các điểm mạnh để phát huy. Đồng thời khắc phục và hạn chế các điểm yếu bằng các biện pháp cụ thể như tăng cường quản lý, sử dụng tiết kiệm các yếu tố sản xuất để đạt hiệu quả cao hơn.
- Trong cơ chế thị trường mở cửa và ngày càng hội nhập, mọi doanh nghiệp phải chấp nhận và đứng vững trong cạnh tranh. Muốn chiến thắng trong cạnh tranh doanh nghiệp phải luôn tạo ra và duy trì lợi thế cạnh tranh về chất lượng, giá cả, sự khác biệt hoá sản phẩm, chi phí thấp và tốc độ cung ứng. Để đạt được các lợi thế này doanh nghiệp phải sử dụng tiết kiệm và hợp lý các nguồn lực khan hiếm của mình cũng như của xã hội, tạo ưu thế với các doanh nghiệp khác cùng ngành, mà nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là một điểm tất yếu nhằm đạt được các lợi thế cạnh tranh.
- Mục tiêu bao trùm và lâu dài của doanh nghiệp là lợi nhuận. Để thực hiện mục tiêu này, doanh nghiệp phải tiến hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh để tạo ra sản phẩm, dịch vụ cung cấp cho thị trường. Muốn vậy, doanh nghiệp phải sử dụng và sử dụng tiết kiệm các nguồn lực để đạt được hiệu quả cao nhất. Chính vì vậy, hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh tính tương đối của việc sử dụng tiết kiệm các nguồn lực sản xuất xã hội. Hiệu quả kinh doanh cao phản ánh doanh nghiệp đã sử dụng tiết kiệm các nguồn lực sản xuất. Mà muốn có hiệu quả kinh doanh cao không thể thiếu việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
- Giúp các cơ quan quản lý nhà nước, quản lý doanh nghiệp thường xuyên đánh giá được kết quả sản xuất kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, nhằm có các biện pháp tác động, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát huy cao nhất lợi thế, tiềm năng trong sản xuất kinh doanh hoặc có biện pháp hữu hiệu giúp doanh nghiệp trong những hoàn cảnh khó khăn.
Chương 2
thực trạng công tác sử dụng vốn tại Nhà máy thiết bị bưu điện
I. Quá trình hình thành và phát triển của Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện
1. Quá trình hình thành và phát triển của Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện
Tên cơ sở : Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện
Tên giao dịch quốc tế : Post and telecommunication equipment factory
Địa chỉ văn phòng Nhà máy : Số 61 - Trần Phú - Ba Đình - Hà Nội
Nhà máy Thiết bị bưu điện - 61 Trần Phú -Ba Đình-Hà Nội là một doanh nghiệp nhà nước, đơn vị thành viên hạch toán độc lập trực thuộc Tổng công ty Bưu Chính- Viễn Thông Việt Nam (nay là Bộ Bưu Chính- Viễn Thông). Trong lịch sử gần nửa thế kỷ hoạt động, cán bộ công nhân viên nhà mày đã nỗ lực vượt qua nhiều khó khăn để xứng đáng là cơ sở hàng đầu sản xuất sản phẩm phục vụ mạng lưới bưu chính viễn thông trong cả nước.
Năm 1954, Tổng cục Bưu Điện (nay là Bộ Bưu Chính - Viễn Thông) thành lập Nhà máy thiết bị truyền thanh, trên cơ sở mặt bằng diện tích sử dụng 22.000m2 và thiết bị cơ sở Nhà máy dây thép của Pháp.
Từ năm 1954-1956 là giai đoạn hình thành nền móng ban đầu của Nhà máy. Nhà máy thiết bị truyền thanh có nhiệm vụ cơ bản đáp ứng là nhu cầu sản xuất và góp phần phục vụ công cuộc kháng chiến chống đế quốc. Sản phẩm của Nhà máy trong thời kì này chủ yếu gồm loa truyền thanh, điện tử thanh, nam châm và một số thiết bị thô sơ khác.
Đến năm máy 1967 do yêu cầu phát triển đất nước thời kỳ này Tổng cục bưu điện đã tách Nhà máy thiết bị truyền thanh ra làm bốn Nhà máy trực thuộc: Nhà máy 1, Nhà máy 2, Nhà máy 3, Nhà máy 4.
Đến những năm 1970, kỹ thuật thông tin bưu điện đã phát triển lên một bước mới, chiến lược đầu tư theo chiều sâu nâng cấp mạng thông tin phục vụ ngành bưu điện đòi hỏi sự thích ứng mới của Nhà máy cả trong cung cấp sản phẩm và hoạt động Tổng cục Bưu điện lại sát nhập Nhà máy 1, Nhà máy 2, Nhà máy 3 thành Nhà máy thực hiện hạch toán độc lập sản phẩm cung cấp đã bước đầu được đa dạng hoá bao gồm :Các thiết bị dùng về hữu tuyến, vô tuyến, thiết bị truyền thanh và thu thanh một số sản phẩm chuyên dụng cho cơ sở sản xuất của nghành, ngoài ra còn một số sản phẩm dân dụng khác.
Tháng 12 năm 1986 Việt Nam bắt đầu chuyển đổi cơ chế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước. Nhà máy một lần nữa được tách ra thành hai Nhà máy:
- Nhà máy Thiết bị bưu điện ở số 61 đường Trần Phú, Quận Ba Đình, Hà Nội
- Nhà máy vật liệu điện từ, loa âm thanh đặt tại số 63 - Nguyễn Huy Tưởng - Thanh Xuân - Hà Nội.
Bước vào thập kỷ 90, thập kỷ của sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật và công nghệ, đặc biệt là trong lĩnh vực thông tin, nhu cầu của thị trường ngày càng đòi hỏi cao hơn nhất là về chất lượng sản phẩm. Điều đó đã đóng vai trò quyết định khối lượng sản xuất, tác động trực tiếp đến quy mô của doanh nghiệp. Một số yếu tố khác không kém phần quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của Nhà máy đó là sự chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường đánh dấu sự chuyển đổi nền kinh tế đất nước nói chung và của Nhà máy nói riêng.Trước những yêu cầu của tình hình mới, để tăng cường năng lực sản xuất, cũng như khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế tháng 3-1993 Tổng cục Bưu điện lại một lần nữa quyết định nhập 2 Nhà máy thành Nhà máy Thiết bị bưu điện.
Sau khi có quyết định 217-HĐBT, Nhà máy thực hiện hoạt động kinh doanh tự chủ về tài chính một cách năng động và hiệu quả.
Đến tháng 3-1993, Nhà máy trở thành một thành viên độc lập thuộc Tổng công ty Bưu Chính - Viễn Thông (nay là Bộ Bưu Chính - Viễn Thông), theo quyết định số 202-QĐ/TCBD ngày 15/03/1993 do Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện ký (nay là Bộ Bưu Chính - Viễn Thông). Giấy phép kinh doanh số105985 do chủ tịch trọng tài kinh tế Hà Nội cấp ngày 06/05/1993, số hiệu tài khoản TK 710A -0009 Ngân hàng công thương Ba Đình - Hà Nội. Với số vốn kinh doanh lúc đó là 20.277 triệu đồng Trong đó:
* Vốn cố định là: 8.135.triệu đồng
* Vốn lưu động là: 12.142 triệu đồng
Theo cơ cấu nguồn thì:
* Vốn ngân sách cấp: 5.653 triệu đồng
*Vốn doanh nghiệp tự bổ xung: 14.624 triệu đồng
Nhà máy được thành lập lại theo quyết định 42/TCKB ngày 9/9/1996 của
Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu Điện (nay là Bộ Bưu Chính - Viễn Thông). Phương hướng sản xuất kinh doanh của Nhà máy được xây dựng trên nền tảng các chức năng và nghĩa vụ được nêu trong điều lệ tổ chức và hoạt động của Nhà máy Thiết bị Bưu Điện.
* Hình thức sở hữu vốn Doanh nghiệp nhà nước
* Hình thức họat động: Hạch toán độc lập theo luật doanh nghiệp là đơn vị thành viên của Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam.
*Lĩnh vực kinh doanh: sản xuất linh kiện kỹ thuật, thông tin, sản phẩm điện tử tin học, cơ khí.
Hiện nay, Nhà máy có 2 cơ sở sản xuất chính tại Hà Nội với tổng diện tích đất sử dụng 30.000m2 - cơ sở 1 đặt tại Trần Phú; cơ sở 2 đặt tại Thanh Xuân. Ngoài ra, Nhà máy đã có 2 chi nhánh ở miền Trung và miền Nam:
- Chi nhánh miền Trung đặt tại Quận 2 - Thành phố Đà Nẵng.
- Chi nhánh miền Nam đặt tại Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh.
Các sản phẩm của Nhà máy tương đối đa dạng (từ 350 đến 400 loại) chủ yếu bao gồm: máy điện thoại ấn phím cố định, máy điện thoại di động GMS, máy fax, thiết bị đấu nối cáp đồng và cáp quang, nguồn viba và nguồn tổng đài, ống cáp viễn thông, cabin đàm thoại ... Nhà máy đang cố gắng phấn đấu góp sức mình cùng ngành Bưu chính - viễn thông thực hiện mục tiêu do Đại hội Đảng lần thứ 8 đề ra: “Phấn đấu phát triển công nghiệp Bưu chính-Viễn thông đến năm 2003 đạt mật độ 6-7 máy điện thoại /100 dân và mở dịch vụ liên lạc băng điện thoại đến 61 tỉnh thành trong toàn quốc”.
2. Mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh và quản lý của Nhà máy
2.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Nhà máy
Nhằm đáp ứng yêu cầu chuyên môn hoá sản xuất, thuận tiện cho việc hạch toán kinh tế nên toàn bộ cơ cấu quản lý và sản xuất bố trí sắp xếp thành các phòng ban, phân xưởng:
Sơ đồ 4: Hệ thống tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất của Nhà máy
Giám đốc
Phó giám đốc kinh doanh
Phó giám đốc sản xuất
Phòng kế toán thống kê
Phòng điều độ sản xuất
Phòng tổ chức lao động tiền lương
Phòng đầu tư phát triển
Phòng vật tư
Phòng kinh doanh điện thoại
Phòng tổ chức
Phòng kỹ thuật
PX PVCcứng
PX
PVC mền
PX2
PX1
PX8
PX7
PX6
PX5
PX3,4
a)Giám đốc
Là đại diện pháp nhân của Nhà máy chịu trách nhiệm về toàn bộ kết quả trước pháp luật, có nghĩa vụ đối với nhà nước về quản lý tài sản tránh thất thoát tài sản. Giám đốc Nhà máy là người quản lý điều hành mọi hoạt động của Nhà máy, chịu trách nhiệm trước pháp luật và tổng công ty về những nhiệm vụ mà mình được giao Giám đốc Nhà máy do tổng công ty đề bạt, bãi nhiệm, kỷ luật và khen thưởng.
b)Phó giám đốc
Do đặc thù sản xuất nên Nhà máy có hai phó giám đốc phụ trách về sản xuất và kỹ thuật. Các phó giám đốc hỗ trợ cho giám đốc trong việc đưa ra các quyết định quan trọng, thực hiện quản lý điều hoạt động trong lĩnh vực mình phụ trách.
Ban giám đốc phải chịu trách nhiệm trược pháp luật và trước toàn bộ Nhà máy về những nhiệm vụ mà mình được giao.
Để phục vụ đắc lực cho việc chỉ huy sản xuất kinh doanh được tập trung và thống nhất, đảm bảo sự nhịp nhàng và ăn khớp giữa các đơn vị, Nhà máy tổ chức các phòng ban chức năng sau:
c)Các phòng ban nghiệp vụ.
Phòng kế toán thống kê:
Tổ chức thực hiện công tác kế toán, thống kê tài chính và kế toán nội bộ Nhà máy có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
Đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh, theo dõi hoạt động của Nhà máy dưới hình thái giá trị để phản ánh chi phí và kết quả, đấnh giá chất lượng hoạt động của CB -CNV, phân tích kết quả hoạt động kinh doanh từng tháng, quý, năm, sau đó phân phối lại nguồn thu nhập. Đồng thời cung cấp thông tin cho BGĐ để nâng cao chất lượng quản trị cũng như cung cấp thông tin theo quy định của cấp trên.
Phòng hành chính- tổng hợp.
Làm nhiệm vụ tham mưu cho lãnh đạo, định ra đường lối, xắp xếp, phân phối lại lao động một cách hợp lý. Xây dựng chế độ tiền lương, tièn thưởng, BHXH một cách hợp lý...
Phòng đầu tư và phát triển:
Có chức năng tham mưu cho giám đốc trong công tác xây dựng các kế hoạch, chiến lược ngắn hạn dài hạn nghiên cứu cải tiến bổ sung dây truyền công nghệ.
Phòng vật tư:
Có nhiệm vụ mua sắm vật tư cung cấp nguyên vật liệu và bán thành phẩm trên cơ sở một hợp đồng đã ký kết ,viết hoá đơn kèm theo phiếu xuất kho ,xuất vật tư nội bộ
Phòng kinh doanh điện thoại:
Là một phòng mới được thành lập từ năm 1998, có nhiệm vụ kinh doanh các thiết bị đầu cuối viễn thông nhưng chủ yếu là kinh doanh điện thoại, tổ chức tiêu thụ sản phẩm đề ra kế hoạch sản xuất để đáp ứng đúng yêu cầu thị trường cần.
Phòng tổ chức- lao động- tiền lương:
Phòng chịu sự chỉ đạo trực tiếp của giám đốc Nhà máy, là bộ phận nghiệp vụ giúp việc cho giám đốc xây dựng và quản lý bộ máy tổ chức của Nhà máy theo dõi, quản lý, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ CNV.
Trụ sở, chi nhánh:
Nhà máy rất coi trọng việc nghiên cứu nhu cầu thị trường, chiến lược sản phẩm tiêu thụ cũng như chính sách thâm nhập vào thị trường, bằng mọi cách để mở 2 nhi nhánh ở 2 TP lớn là Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh. Đây là 2 nơi mà lượng rộng thị trường tiêu thụ. Ngoài trụ sở chính ở 61- Trần Phú- Hà Nội, Nhà máy còn có hàng tiêu thụ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu.
Các phòng ban tiêu thụ sản phẩm.
2 tổ tiêu thụ sản phẩm theo chuyên ngành (PVC cứng, PVC mềm ).
3 phòng tiêu thụ sản phẩm:
Được đặt tại 3 miền Bắc- Trung- Nam. Đây không chỉ là nơi trưng bày sản phẩm của Nhà máy, bán và giao dịch với khách hàng mà nó còn nhằm quảng cáo, khuyếch trương danh tiếng của Nhà máy. Trong cơ chế thị trường hiện nay nó đóng một vai trò vô cùng quan trọng.
Phòng ban kỹ thuật công nghệ.
Gồm các phòng ban có các chức năng sau:
Ban nguồn: Chuyên nghiên cứu lắp ráp các sản phẩm nguồn viễn thông.
Phòng điều độ sản xuất: là bộ phận giúp việc cho giám đốc trong công tác quản lý máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ trong toàn Nhà máy và công tác điều độ sản xuất.
Phòng kỹ thuật: theo dõi thực hiện quy trình công nghệ và đảm bảo chất lượng sản phẩm, cùng với bộ phận tiêu thụ sản phẩm nghiên cứu, chế tạo sản phẩm, theo dõi lắp đặt và sửa chữa thiết bị, đưa ra kế hoạch mua sắm thiết bị công nghệ mới.
Phòng công nghệ: Quản lý, nghiên cứu máy móc thiết bị công nghệ, đề ra các phương án công nghệ để chế tạo những sản phẩm khuôn mẫu, cơ khí chính xác.
Tổ kỹ thuật loa từ.
Phân xưởng chuyên sản xuất khuôn mẫu.
Các phân xưởng sản xuất
Gồm 12 phân xưởng với chức năng, nhiệm vụ chế tạo khuôn mẫu cho các phân xưởng khác, lắp ráp sản phẩm, tổ quấn biến áp, sản xuất và lắp ráp các thiết bị điện tử...
2.2. Năng lực về tài chính và kết quả sản xuất kinh doanh
Những năm gần đây với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin và sự mở cửa hội nhập của nền kinh tế đất nước, hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy đã từng bước phát triền về mọi mặt. Cùng với sự giúp đỡ của Tổng cục Bưu Điện (nay là Bộ Bưu Chính -Viễn Thông), các cơ quan ban nghành và sự hỗ trợ từ ngân sách Nhà Nước, Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện đã đạt được một số thành tựu, đóng góp một phần vào công cuộc CNH – HĐH đất nước.
Từ năm 1994 đến nay là khoảng thời gian ngắn cho sự phát triển của một doanh nghiệp, Nhà máy đã đạt được những thành tựu đáng kể trong sản xuất kinh doanh. Tình hình cụ thể được khái quát trong bảng sau.
Dưới đây là một số chỉ tiêu cơ bản về năng lực tài chính và kết quả sản xuất kinh doanh mà Nhà máy đạt được trong bốn năm qua (1999 -2002).
Số liệu trong bài viết này đều được làm tròn và đơn vị sử dụng là Triệu đồng
Bảng 1 : Năng lực tài chính và một số kết quả sản xuất kinh doanh chính
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
I.Chỉ tiêu cơ bản
1.Tài sản cố định
2.Tài sản lưu động
3.Vốn chủ sở hữu
4.Các khoản phải thu
5.Các khoản phải trả
6.Tổng doanh thu
7.Tổng lợi nhuận
II.Các khoản nộp NSNN
1.Thuế GTGT
2.Thuế thu nhập DN
3.Thuế khác
34.090
101.570
37.250
57.735
98.530
145.956
9.377
35.476
27.092
1.983
6.401
20.060
97.208
41.064
39.753
77.205
149.714
8.847
28.892
20.153
3.053
5.686
35.459
105.518
46.235
50.553
94.742
153.395
9.647
21.536
9.773
3.537
8.226
42.659
113.318
52.735
57.654
103.242 200.948
11.616
36.481
25.368
3.861
7.652
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 1999-2002 của Nhà máy Thiết bị bưu điện)
Kết quả kinh doanh trong bốn năm 1999 -2002 ổn định và tăng trưởng.Nhà máy đã bảo toàn và phát triển được nguồn vốn kinh doanh.
Doanh thu của Nhà máy có xu thế tăng trong các năm. Đây là một xu thế rất tốt bởi vì trong nền kinh tế của nước ta hiện nay có sự cạnh tranh rất gay gắt giữa các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực điện tử. Xu thế này thể hiện khả năng sử dụng các loại máy móc thiết bị, con người,...phù hợp với những biến động của thị trường trong nước và trên thế giới.
Nguồn vốn chủ sở hữu của Nhà máy cũng có xu hướng tăng đều qua các năm. Các khoản phải thu giảm trong năm 2000, nhưng có xu hướng tăng trở lại trong các năm 2001 và 2002.
Các khoản phải trả cũng giảm trong năm 2000, nhưng cũng có xu hướng tăng trở lại trong các năm 2001 và 2002. Đây là một đặc điểm trong kinh doanh, các doanh nghiệp lợi dụng vốn của nhau để sản xuất kinh doanh. Xu thế của các khoản phải thu và các khoản phải trả giống nhau chứng tỏ Nhà máy cũng rất quan tâm tới việc thanh toán cho nhà cung cấp, khách hàng và cán bộ công nhân viên.
Hàng năm, Nhà máy nộp ngân sách một khoản khá lớn trên dưới 30 tỷ đồng, thông qua các loại thuế. Năm 2000 và năm 2001 khoản nộp ngân sách giảm là do sự miễn giảm thuế của Chính phủ đối với một số loại thuế và cũng do số lượng linh kiện điện tử được nhập vào giảm đi.
Lợi nhuận của doanh nghiệp bị giảm vào năm 2000 là do Nhà máy bị thua lỗ quá lớn trong hoạt động đầu tư tài chính, nhưng lợi nhuận có xu hướng tăng trở lại trong các năm 2001 và năm 2002, điều đó thể hiện việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn kinh doanh, đồng thời thể hiện khả năng lãnh đạo của ban giám đốc cùng các trưởng phòng và sự cố gắng nỗ lực của toàn bộ tập thể công nhân viên trong toàn Nhà máy.
Với phương thức sản xuất kinh doanh là chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm, Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện đã thu hút được nhiều khách hàng trong nước và ngoài nước. Là một trong nhiều cơ sở thuộc công nghiệp của ngành Bưu chính viễn thông, sản phẩm của Nhà máy được sản xuất theo yêu cầu của Bộ Bưu chính- Viễn thông phục vụ nhu cầu ngành (85%), ngoài ra Nhà máy còn đa dạng hoá sản phẩm phục vụ nhu cầu ngoài ngành (15%).
Sản lượng các sản phẩm chủ yếu của Nhà máy trong năm 2002:
Bảng 2: Sản lượng sản phẩm chủ yếu trong năm 2002
Sản phẩm
Công suất
Máy điện thoại các loại
400.000 sản phẩm / năm
Thiết bị nguồn điện
600.000 sản phẩm / năm
Thiết bị điện tử mạng ngoại vi
17.000.000 đường dây / năm
Chi tiết cơ khí viễn thông
20.000 sản phẩm / năm
Sản phẩm bưu chính
600.000 sản phẩm / năm
( Nguồn: Phòng kinh doanh - Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện)
II. Một số đặc điểm kinh tế - kỹ thuật ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện
1. Đặc điểm của nghành
Ngành Bưu điện là ngành được Nhà nước ưu tiên phát triển với các chiến lược phát triển tăng tốc, đặt ra nhiều mục tiêu phấn đấu trong tương lai. Để xã hội ta trở thành một xã hội hoá thông tin trong thế kỷ tới, trước mắt là mục tiêu phát triển mạng thông tin rộng khắp đến tất cả các huyện, các xã vùng sâu vùng xa (100% số xã trên toàn quốc có máy điện thoại). Để thực hiện mục tiêu đó trong những năm qua Nhà nước đầu tư rất nhiều cho các doanh nghiệp trong ngành. Đây là thuận lợi lớn cho các doanh nghiệp này.
Các sản phẩm sử dụng trong lĩnh vực này đều do các doanh nghiệp trong ngành cung cấp. Với chiến lược phát triển tăng tốc của ngành Bưu điện thì thị trường cho các doanh nghiệp này sẽ được mở rộng. Cầu sẽ tăng, đặc biệt là cầu về máy điện thoại, cầu về tủ cáp, hộp đấu dây thuê bao, cabin đàm thoại v.v.. đây là cơ hội tốt cho Nhà máy vì các sản phẩm trên đều do Nhà máy sản xuất và cung cấp. Hơn nữa đây là một ngành độc quyền của Nhà nước, nên môi trường cạnh tranh không gay gắt, các đối thủ của Nhà máy chỉ một số ít các doanh nghiệp trong và ngoài ngành đối với một số sản phẩm như các sản phẩm nhựa, máy điện thoại. Nhưng cũng chính điều này sẽ tạo ra sức ép cho Nhà máy nếu Ban lãnh đạo không năng động trong kinh doanh, nắm bắt những biến đổi của môi trường kinh doanh quốc tế. Thị trường này sẽ trở nên sôi động và sự cạnh tranh sẽ gay gắt hơn khi Việt nam thực hiện cam kết AFTA, sự xâm nhập của các hãng nước ngoài là điều tất yếu. Để trụ vững trong hoàn cảnh đó đòi hỏi Nhà máy ngay từ bây giờ không được ỷ lại vào thế độc quyền, luôn luôn phấn đấu nâng cao chất lượng sản phẩm .
2. Đặc điểm về mặt hàng và thị trường
Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện chuyên sản xuất và kinh doanh các thiết bị phục vụ cho ngành Bưu chính - Viễn thông, do đó hầu hết các sản phẩm sản xuất ra mang tính độc quyền trên thị trường ( tủ cáp, cabin đàm thoại...) ngoài ra cũng có một số sản phẩm phục vụ tiêu dùng dân dụng nhưng chỉ chiếm 1 tỷ lệ nhỏ trong tổng giá trị sản lượng của Nhà máy. Đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú và đa dạng cũng như thị hiếu luôn thay đổi của khách hàng, Nhà máy đã không ngừng tiến hành đa dạng hoá sản phẩm.
Từ khi chính thức được thành lập đến nay, Nhà máy đã không ngừng mở rộng quy mô sản xuất cả về chiều rộng, chiều sâu, đổi mới trang thiết bị dây chuyền lắp ráp để tăng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, ngày càng đáp ứng cao hơn thị hiếu của khách hàng. Sản phẩm hiện nay của Nhà máy rất phong phú và đa dạng (trên 400 mặt hàng), chia làm hai loại chính là sản phẩm chế tạo và sản phẩm lắp ráp, bao gồm các sản phẩm như: máy điện thoại các loại, thiết bị bưu chính, tổng đài các loại, thiết bị đầu cuối, ống nhựa luồn cấp các loại, sản phẩm nhựa dân dụng, sản phẩm điện dân dụng, loa các loại, thiết bị bảo an (chống sét, chống chập điện), thiết bị nguồn (nguồn 48v, nguồn một chiều các loại), các sản phẩm cơ khí khác...
Nhìn chung các sản phẩm trên có tính năng sử dụng tốt, hệ số an toàn cao, đã chiếm được niềm tin của khách hàng. đây chính là yếu tố tiên quyết tạo tiền đề phát triển cho Nhà máy trong nền kinh tế thị trường.
Thị trường tiêu thụ của Nhà máy rất lớn, hầu như khắp đất nước. Do có nhiều sản phẩm mang tính chất độc quyền nên thị phần của Nhà máy rất lớn, với các sản phẩm như Cabin đàm thoại, tủ đầu nối, cân điện tử, dấu nhật ấn ... của Nhà máy chiếm tới 95% thị trường. Nhà máy đã thực hiện đầu tư thiết bị công nghệ mới để tăng năng suất lao động, tăng năng lực sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm góp phần giữ vững và mở rộng thị trường. Ngoài hai thị trường truyền thống là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, sản phẩm của Nhà máy còn được tiêu dùng ở hầu hết các tỉnh , thành phố khác trong cả nước. Đây điều kiện thuận lợi để Nhà máy mở rộng sản xuất kinh doanh cả về chiều rộng và chiều sâu, nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường trên khắp cả nước.
3. Đặc điểm về công nghệ và thiết bị công nghệ
Trong các doanh nghiệp công nghiệp, công nghệ sản xuất là nhân tố ảnh hưởng lớn đến tổ chức quy trình sản xuất hoạt động kinh doanh nói chung và tổ chức quản lý, sản xuất nói riêng.
Nhà máy Thiết bị Bưu Điện là Nhà máy sản xuất và lắp ráp cơ khí, sản phẩm của Nhà máy phong phú và đa dạng, được sản xuất theo một quy trình công nghệ phức tạp, chỉnh chu qua từng công đoạn. từ khi đưa nguyên vật liệu vào chế biến đến khi nhập kho là một quá trình liên tục, khép kín theo các dây chuyến công nghệ hiện đại với năng suất cao. Chu kỳ sản xuất sản phẩm khác nhau tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng loại sản phẩm nhưng đều tuân theo những bước sau:
Sơ đồ 5: Quy trình công nghệ
Vật tư
Sản xuất
Sản xuất
Sản xuất
Sản xuất
(Nguồn : Phòng kỹ thuật – Nhà máy thiết bị Bưu điện)
Quy trình công nghệ đó được mô tả như sau: Vật liệu từ kho vật tư chuyển đến phân xưởng sản xuất, có nhiều phân xưởng như: Phân xưởng sản xuất ép nhựa, đúc, dập, chế tạo, sản xuất các sản phẩm cơ khí... sau đó đưa xuống các phân xưởng lắp ráp còn các sản phẩm đơn giản, được sản xuất hoản chỉnh thì chuyển thẳng xuống kho thành phẩm. Sau khi lắp ráp hoàn chỉnh sản phẩm từ các bán thành phẩm, các chi tiết thì nhập vào kho thành phẩm. Trong suốt quá trình sản xuất theo quy trình công nghệ trên, mọi công đoạn đều có đội kiểm tra chất lượng của Nhà máy (KCS) loại bỏ những sản phẩm kém chất lượng, hỏng, không đạt tiêu chuẩn. Do quy trình công nghệ là liên tục, khép kín nên Nhà máy tiết kiệm được thời gian sản xuất và nguyên vật liệu nhưng cũng đòi hỏi phaỉ đảm bảo cho thiết bị công nghệ hoạt động được nhịp nhàng, liên tục.
Nhằm thực hiện chiến lược phát triển tăng tốc của ngành Bưu điện, Nhà nước đã danh nhiều vốn đầu tư vào các doanh nghiệp trong ngành, đặc biệt là trong khối các doanh nghiệp công nghiệp của ngành. Bên cạnh đó là các chính sách ưu đãi trong nhập khẩu thiết bị, chuyển giao Công nghệ bằng nguồn vốn ngân sách cấp cộng với nguồn vốn huy động Nhà máy đã nhập một số máy móc dây truyền từ nước ngoài ngay từ những năm đầu của thập kỷ 90 đó là dây truyền lắp ráp phím đầu nối, điện thoại của hãng SIEMEN (Đức) dây truyền sản xuất ống sóng dùng để chôn cáp ngầm của hãng DROSSBACK (Đức) các loại máy đột, dập, ép nhựa, nhờ đó bắt đầu từ năm 1994 thay bằng việc nhập khẩu sản phẩm, Nhà máy đã nhập các linh kiện dưới dạng CKĐ về lắp ráp đối với một số loại sản phẩm như: máy điện thoại, tủ cáp đầu dây, các loại đồng hồ tính cước. Từ năm 1996 Nhà máy đã có chủ trương chuyển từ lắp ráp linh kiện dạng CKĐ sang lắp ráp linh kiện IKĐ sản xuất vỏ sản phẩm và tiến tới tự sản xuất các sản phẩm thông qua nhập vật tư. Trong hai năm 1997 và năm 1998 Nhà máy đã đầu tư hơn 26 tỉ đồng để trang bị các loại máy móc mới hiện đại và hoàn thiện các dây chuyền Công nghệ như các loại dây truyền sản xuất linh kiện, dây truyền ép nhựa với Công nghệ cao để sản xuất vỏ sản phẩm và một số linh kiện khác, dây chuyền sơn tĩnh điện, ngoài ra Nhà máy còn thực hiện việc chuyển giao Công nghệ với các hãng điện tử nổi tiếng trên thế giới như AT&T (Mỹ) CASIO (Nhật Bản) SIEMEN (Đức) ERISSON (Thụy điển)...
Hiện nay trình độ Công nghệ của Nhà máy được đánh giá là tiên tiến so với mặt bằng Công nghệ chung của quốc gia, số lượng sản phẩm sản xuất ra đã đạt tới hơn 3500 sản phẩm, năm 1998 Nhà máy đã cho ra đời những chiếc máy điện thoại sản xuất tại Việt nam, đó là các sản phẩm mang tên điện thoại Postef V701, VN 2020 và VN 2040. Điện thoại Postef được sản xuất trên dây chuyền công nghệ hiện đại, tiên tiến và có công xuất thiết kế lớn nhất tại Việt nam được điều khiển bằng kỹ thuật số. Theo công xuất thiết kế, dây chuyền có thể sản xuất 10.000máy/1 lao động/1năm, có nghĩa là nó có thể cung cấp đủ máy cho thị trường Việt nam. Hầu hết máy móc thiết bị trên dây chuyền sản xuất đều được đầu tư mới vào năm 1998 với tổng số vốn khoảng 17 tỉ đồng. Nhà máy thực hiện chế độ khấu hao nhanh, chỉ trong thời gian từ 4-5 năm, do vậy đến khi Việt nam thực hiện cam kết AFTA Nhà máy có thuận lợi cho việc hạ chi phí sản xuất để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Năm 1999 Nhà máy đã ngừng việc nhập khẩu điện thoại (trừ điện thoại di động) và tung ra thị trường các sản phẩm mới của Nhà máy, hiện nay nhiều sản phẩm của Nhà máy đã được cấp chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm.
- Đặc điểm về máy móc thiết bị: Nhà máy có khoảng 170 chiếc máy khác nhau thuộc nhiều chủng loại như: máy đột, máy dập, máy khoan, máy ép... Trong đó, chủ yếu là các loại máy móc thiết bị được chế tạo tại Trung Quốc, Liên Xô (cũ) và Việt Nam chiếm tới 70% số lượng máy móc thiết bị của Nhà máy. Số máy móc thiết bị còn lại được nhập từ các nước như : Hàn Quốc, Mỹ, Đức, Nhật Bản, Bỉ...Những năm trở lại đây, Nhà máy đã liên tục đầu tư đổi mới máy móc thiết bị hiện đại, Các loại máy móc thiết bị sản xuất sau năm 1980 chiếm tới 90%. Tuy nhiên cũng có một số máy móc thiết bị công nghệ sản xuất ra từ năm 1960, số máy móc thiết bị này tuy vẫn vận hành được nhưng cũng đặt ra yêu cầu phải thay thế bằng thiết bị công nghệ hiện đại hơn.
Tóm lại, trình độ công nghệ và năng lực sản xuất của dây chuyền điện thoại là một thế mạnh của Nhà máy, chúng sẽ đem lại nhiều lợi thế cạnh tranh trong việc hạ giá thành và tăng năng suất lao động. Hơn nữa, do quy trình công nghệ khép kín nên Nhà máy có thể tiết kiệm thời gian của quá trình sản xuất, đưa nguyên vật liệu nhanh chóng chuyển thành bán thành phẩm, rồi sau đó chuyển thành sản phẩm ở các tổ, phân xưởng sản xuất, để tăng doanh thu và lợi nhuận. Đây là một điều kiện làm tăng hiệu quả sử dụng vốn của Nhà máy.
4. Đặc điểm về nguyên vật liệu
Khi chuyển sang cơ chế thị trường, Nhà máy phải chủ động tìm mua các loại nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất trên thị trường trong nước và cả quốc tế. Các đối tác cung cấp nguyên vật liệu chủ yếu cho Nhà máy là:
Đối tác trong nước: Tổng công ty kim khí, Tổng công ty nhựa, Tổng công ty xăng dầu, công ty thiết bị văn phòng...
Các nhà cung cấp nước ngoài gồm có rất nhiều các công ty của các nước như: Công ty Siemen (Đức), Công ty Motorola, Công ty At&T (Mỹ), Công ty Hyndai corporation, Alanchia, Koken (Hàn Quốc), Full Rise Electronic(Đài Loan)...
Do tính đặc thù của sản phẩm,lại thực hiện đa dạng hoá sản phẩm nên chủng loại nguyên vật liệu của Nhà máy rất lớn, khoảng từ 500 - 600 loại, chủ yếu là các loại kim khó, sắt thép bao gồm:
+ Kim khí đen : như tôn CT3, C45 dạng tấm dầy 1-5 mm, các loại thép phi tròn, thép dùng chế tạo khuôn mẫu dầy hàng trăm mm...
+ Kim khí màu: Đồng, chì, nhôm, kẽm, inox...
+ Các loại nhựa bao gồm: nhựa ABS, PP, PVC, PPMA, PA, PE, polycacbonat, PVC Compound...
+ Các loại linh kiện điện tử :linh kiện điện thoại (điện trở, bảng mạch...), đồng hồ, nguồn...
Do chủng loại nguyên vật liệu rất đa dạng và phong phú nên trong hoạt động đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, Nhà máy phải quan tâm đến sự tương thích giữa công nghệ sản xuất và nguyên vật liệu đưa vào, các nguồn cung cấp, giá thành nguyên vật liệu có được đảm bảo không... khi thực hiện đầu tư một thiết bị công nghệ hiện đại cũng như khi mất đi một nguồn cung cấp hay một loại nguyên liệu nào đó, Nhà máy luôn luôn phải chú ý đến mối quan hệ này. Hơn nữa, do nguồn cung cấp nguyên vật liệu phong phú nên Nhà máy cần chú ý lựa chọn nhà cung cấp cho phù hợp để có thể sử dụng được vốn của họ vào quá trình sản xuất kinh doanh của Nhà máy, làm tăng hiệu quả sử dụng vốn.
5. Đặc điểm về lao động
Với những máy móc và dây truyền Công nghệ hiện đại đã được trang bị cho Nhà máy thì yêu cầu tất yếu là đội ngũ cán bộ có trình độ quản lý cao và lực lượng công nhân có tay nghề giỏi có trình độ kỹ thuật. Nhưng trong những năm đầu đổi mới Nhà máy có lực lượng công nhân quá đông (1200 người), trình độ không đồng đều gây nên tình trạng thiếu lao động có trình độ kỹ thuật cao và thừa lao động giản đơn dẫn đến tình trạng hoạt động sản xuất kinh doanh trì trệ kém hiệu quả. Trước tình trạng đó Nhà máy đã chú trọng tới việc tuyển dụng lao động mới và bồi dưỡng lao động hiện có để có đội ngũ công nhân đủ trình độ làm việc với những máy móc và dây truyền hiện đại. Một thực tế là Nhà máy thực hiện đa dạng hoá sản phẩm cho nên mỗi công nhân phải làm được nhiều công việc khác nhau cho nên tình trạng trình độ chuyên môn hoá không cao dẫn đến năng xuất lao động chỉ đạt ở mức trung bình. Ví dụ: Điện thoại Postef được sản xuất chủ yếu ở các phân xưởng 6 và phân xưởng 7 nhưng những công nhân ở đây sẵn sàng được điều đi các phân xưởng khác nếu sản xuất ít điện thoại.
Ngược lại khi có nhiều đơn đặt hàng sản xuất điện thoại thì Nhà máy có thể điều động nhân công từ các phân xưởng khác sang để tăng cường nhân lực. Chính sự linh hoạt trong điều hành lao động này cũng là ưu điểm của Nhà máy, tránh được tình trạng nơi thừa nơi thiếu lao động. Nhưng đó cũng là nguyên nhân làm trình độ chuyên môn hoá không cao làm công tác điều độ sản xuất gặp nhiều khó khăn.
Việc làm thường xuyên của Nhà máy là tổ chức các lớp học, đào tại nâng cao tay nghề của công nhân, tuyển thêm lao động có trình độ kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu công việc để thay thế những người đã nghỉ. Đến nay số lượng cán bộ công nhân viên của Nhà máy đứng ở khoảng 518 người với trình độ chuyên môn đổng đều 100% đã qua các lớp đào tạo kỹ thuật hoặc tốt nghiệp cao đẳng hoặc đại học. Trong công tác quản trị nhân lực, Nhà máy rất chú trọng đến việc khen thưởng với những cá nhân và tập thể xuất sắc. Nhờ đó đã phát huy được sự hăng say và tính sáng tạo của mỗi người, đã có nhiều đề tài cấp ngành do cán bộ công nhân viên Nhà máy xây dựng được công nhận. Những đặc điểm về lao động nêu trên có rất nhiều thuận lợi cho việc sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của Nhà máy. Trước hết, đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật có trình độ, tay nghề cao của Nhà máy sẽ tự đánh giá được thực trạng về thiết bị công nghệ, từ đó có kế hoạch sửa chữa, mua sắm thiết bị công nghệ cho phù hợp với tình hình thực tế, sử dụng vốn đúng mục đích, tránh gây những lãng phí không cần thiết. Hơn nữa, với trình độ của mình, đội ngũ cán bộ nghiên cứu thị trường sẽ phân tích đúng sự biến động của thị trường, từ đó có những phương án sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trường, tăng khả năng cạnh tranh của Nhà máy trên thị trường đầy biến động.
Số lượng cán bộ công nhân viên của Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 3: Số lượng cán bộ công nhân viên của Nhà máy năm 2002
Đơn vị : Người
Chức danh
Số lượng
Đại học
Cao đẳng
Trung cấp
Sơ cấp
Trung học
Lãnh đạo
3
3
Trưởng, phó phòng
16
16
Quản đốc, phó quản đốc
12
8
3
1
Cán bộ, nhân viên
92
20
32
27
13
CNSX
395
54
52
152
77
60
Cộng
518
101
87
180
90
60
( Nguồn: Phòng tổ chức- Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện)
Tuy nhiên, căn cứ vào bảng số liệu trên ta thấy lao động của Nhà máy có đặc điểm sau: Lao động quản lý chiếm khá cao so với lao động của toàn Nhà máy. Điều này cho thấy số lao động quản lý của Nhà máy còn khá lớn, chưa đạt đến một tỷ lệ tối ưu. Điều này dù còn nhiều bất cập nhưng cũng là tình trạng chung của khối doanh nghiệp nhà nước hiện nay, do vậy làm giảm hiệu quả sử dụng vốn của Nhà máy.
6. Đặc điểm về tài chính
Vốn cần cho sản xuất kinh doanh rất lớn, trong khi đó nhiều khách hàng thanh toán chậm dẫn tới Nhà máy bị thiếu vốn, phải đi vay của các tổ chức tín dụng, việc đi vay của các tổ chức này làm tăng chi phí dẫn tới giá thành sản phẩm cao.
Tỷ suất lợi nhuận của Nhà máy khá cao (trên dưới 6%), đây là tiền đề cho một số năm tới, và tỷ suất lợi nhuận cao nên tích luỹ và phúc lợi của doanh nghiệp cũng khá nhiều.
Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực điện tử - viễn thông, do vậy nhu cầu về vốn là thường xuyên và tương đối lớn. Để tồn tại và phát triển trong quá trình nền kinh tế hội nhập, một mặt Nhà máy kiện toàn bộ máy, mặt khác Nhà máy tăng cường đổi mới trang thiết bị, công nghệ. Để đầu tư theo chiều sâu, mua sắm trang thiết bị công nghệ thì Nhà máy cần một lượng vốn tương đối lớn, Nhà máy đã huy động vốn cho sản xuất kinh doanh từ các nguồn sau:
Từ nguồn vốn đầu tư của ngân sách nhà nước. Hàng năm Nhà máy được ngân sách nhà nước cấp cho khoảng từ 4 - 8 tỷ đồng.
Nhà máy còn vay của các tổ chức tín dụng là chi nhánh Ngân hàng công thương Ba Đình, Ngân hàng ANZ, đây là hai tổ chức tín dụng đã cung cấp một lượng vốn khá lớn cho Nhà máy.
Nguồn vốn từ tiết kiệm trong sản xuất, từ sáng tạo cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, nguồn vốn này không nhỏ khi chính sách tiết kiệm được thực hiện có hiệu quả. Đây chính là nội lực của Nhà máy, nó không những làm tăng nguồn vốn kinh doanh mà còn góp phần giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm làm tăng khả năng cạnh tranh của Nhà máy trên thị trường.
Ngoài ra, Nhà máy còn vay của cán bộ công nhân viên trong Nhà máy. Đây là nguồn vốn nhàn rỗi của cán bộ công nhân viên, góp phần không nhỏ trong thành công của Nhà máy.
III. thực trạng về công tác sử dụng vốn và hiệu quả sử dụng vốn tại Nhà máy thiết bị bưu điện
1.Về cơ cấu vốn và nguồn vốn của Nhà máy
Tính đến cuối năm 2002, tổng số nguồn vốn của Nhà máy là 155.977 Triệu đồng. Số vốn này được hình thành từ hai nguồn:
Vốn chủ sở hữu: 52.735 Triệu đồng
Nợ phải trả : 103.242 Triệu đồng
Qua đó, ta thấy Nợ phải trả của Nhà máy gấp 1.96 lần so với Vốn chủ sở hữu. Đây là đặc thù của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh của nước ta hiện nay, các doanh nghiệp thường chiếm dụng vốn để sản xuất kinh doanh.
Vậy ta hãy xem xét về vốn kinh doanh và cơ cấu nguồn vốn kinh doanh của Nhà máy qua các bảng sau.
Bảng 4: Kết cấu vốn kinh doanh của Nhà máy năm 2002
Tài sản
Đầu kỳ
Cuối kỳ
Chênh lệch
Lượng
%
Lượng
%
Lượng
%
1.Tài sản cố định
2.Tài sản lưu động
-Vốn bằng tiền
-Vốn dự trữ
3.Tài sản thanh toán
-Phải thu
-Tài sản lưu động khác
35.459
52.537
3.382
49.155
52.979
50.553
2.426
25,15
37,27
2,4
34,87
37,58
35,86
1,72
42.659
54.434
3.109
51.325
58.884
57.654
1.230
27,35
34,9
2
32,9
37,75
36,96
0,709
7.200
1.897
-273
2.170
5.905
7.101
-1.196
20,3
3,61
-8,07
4,41
11,15
14,04
-49,29
Tổng
140.977
100
155.977
100
15.000
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2002 của Nhà máy Thiết bị bưu điện)
Qua bảng phân tích trên ta có một số nhận xét sau:
+ Vốn tài sản cố định:
Vốn này cuối kỳ tăng 7.200 triệu đồng. Cho thấy sự đổi mới, trang bị thêm về tài sản cố định, tạo điều kiện tốt hơn cho sản xuất kinh doanh.
Đầu năm số vốn này chiếm tỷ trọng 25,15% nhưng cuối năm tăng lên 27,35%. Điều đó chứng tỏ sự nhìn nhận đúng đắn của ban lãnh đạo, tiếp cận với công nghệ hiện đại. So với đầu kỳ về tương đối tài sản cố định tăng 20,3%.
+ Vốn tài sản lưu động:
Đối với một Nhà máy chuyên kinh doanh trong lĩnh vực điện tử viễn thông thì tổng giá trị tài sản lưu động là rất lớn.
Số vốn lưu động đầu năm 2002 chiếm tỷ trọng37,27% nhưng đến cuối năm còn chiếm 34,9% chứng tỏ năm 2002 lượng vốn lưu động hoạt động khá mạnh trong khi việc thu hồi các khoản nợ diễn ra chậm dẫn tới tình trạng vốn lưu động có tỷ trọng thấp ở cuối năm do đó ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của đầu năm sau.
Số vốn lưu động trong năm 2002 tăng 1.897 triệu đồng tức là tăng 3,61% trong đó vốn bằng tiền giảm 8,07%, vốn dự trữ tăng 4,41%.
+ Tài sản phải thanh toán:
Các khoản phải thu của Nhà máy chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản, điều đó chứng tỏ việc vốn của Nhà máy bị chiếm dụng lớn. Đầu năm các khoản phải thu chiếm tỷ trọng 35,86% và cuối năm tăng lên 36,96%. Vậy Nhà máy cần phải xem xét lại công tác thu hồi nợ nhằm bổ xung thêm nguồn vốn cho Nhà máy.
Tài sản lưu động khác của Nhà máy chủ yếu là Tạm ứng và Chi phí trả trước, khoản này cũng giảm mạnh vào cuối năm được thể hiện qua bảng số liệu: Đầu năm chiếm tỷ trọng 1,72%,cuối năm chiếm tỷ trọng 0,709% giảm 49,29%.
Qua bảng trên ta thấy, các khoản vốn của Nhà máy bị chiếm dụng quá lớn. Muốn có thêm vốn để hoạt động, Nhà máy lại phải đi vay và chịu lãi suất. Khoản phát sinh chủ yếu ở các khoản phải thu là do ứng trước cho người bán và người mua trả chậm dẫn tới tình trạng vừa thiếu vốn kinh doanh, vừa bị chiếm dụng vốn. Đây là điểm bất hợp lý trong sử dụng vốn của Nhà máy. Nhà máy cần có biện pháp nhằm thúc đẩy việc thu hồi nợ.
Để xem xét vốn của Nhà máy được hình thành từ đâu ta có bảng sau:
Bảng 5: Bảng cơ cấu nguồn vốn kinh doanh của Nhà máy năm 2002
Nguồn vốn
Đầu kỳ
Cuối kỳ
Chênh lệch
Lượng
%
Lượng
%
Lượng
%
1.Nguồn vốn CSH
NVKD
NV quỹ
2.Nguồn vốn tín dụng
Vay DHNH
Vay NHNH
Vay đối tượng khác
3.Nguồn vốn thanh toán
- Phải trả
46.235
46.101
134
75.034
23.120
51.914
-
19.707
19.707
32,8
32,7
0,1
53,2
16,4
36,8
-
14
14
52.735
52.549
186
75.996
21.150
54.846
-
27.246
27.246
33,81
33,69
0,12
48,72
13,56
35,16
-
17,47
17,47
6.500
6.448
52
962
-1.970
2.932
-
7.539
7.539
14,05
14
38,8
1,28
-8,52
5,65
-
38,26
38,26
Tổng
140.977
100
155.977
100
15.000
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2002 của Nhà máy Thiết bị bưu điện)
Qua bảng kết cấu vốn kinh doanh của Nhà máy, ta có một số nhận xét sau:
+ Nguồn vốn chủ sở hữu của Nhà máy tăng 6.500 triệu đồng đạt 14,05%. Trong đó nguồn vốn kinh doanh tăng 6.448 triệu đồng, nguồn vốn quỹ tăng 52 triệu đồng, chứng tỏ các quỹ của Nhà máy khá ổn định.
Nguồn vốn chủ sở hữu trong năm tăng 14,05% cũng thể hiện phần nào sự phát triển của Nhà máy.
+ Nguồn vốn tín dụng: Nhà máy vay ngắn hạn tại ngân hàng với tổng số tiền cuối năm 2002 là 54.846 triệu đồng tăng so với đầu năm là 2.932 triệu đồng. Số nợ dài hạn của Nhà máy giảm 1.970 triệu đồng. Tuy nhiên, tốc độ giảm của số nợ dài hạn không bằng tốc độ tăng của số nợ ngắn hạn. Chính vì vậy, vốn lưu động của Nhà máy tăng nhẹ trong năm 2002 như đã nói ở trên.
+ Nguồn vốn thanh toán: Đầu năm, số vốn này chiếm 14%, cuối năm con số này tăng lên 17,47%. Con số này nói lên việc chiếm dụng vốn khá lớn của Nhà máy, số vốn này tăng thêm 7.539 triệu đồng. Đây có thể là hệ quả của việc muốn tự chủ về tài chính nhưng lại đi chiếm dụng vốn của người khác của Nhà máy, hoặc có thể do phương thức thanh toán mà Nhà máy thoả thuận với nhà cung cấp,... nên dẫn tới việc nợ khách hàng quá nhiều.
2.Công tác sử dụng vốn lưu động của Nhà máy Thiết bị Bưu Điện
2.1.Cơ cấu vốn lưu động
Là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực điện tử viễn thông, cho nên nguồn vốn của Nhà máy dùng để tài trợ cho tài sản lưu động hay còn gọi là vốn lưu động là khá lớn. Bên cạnh đó, nhu cầu về vốn lưu động của Nhà máy phần lớn là trong ngắn hạn, thường xuyên biến động, nên Nhà máy chủ yếu sử dụng nợ vay ngắn hạn và tín dụng ngắn hạn để tài trợ cho nó.
Để đánh giá cơ cấu nguồn vốn lưu động của Nhà máy ta có bảng sau:
Bảng 6: Cơ cấu vốn lưu động của Nhà máy
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Lượng
%
Lượng
%
Lượng
%
Lượng
%
1.Tiền mặt
2.Phải thu
3.Tồn kho
4.TSLĐ khác
5.707
57.735
36.797
1.331
5,6
56,8
36,3
1,3
4.890
39.753
52.016
504
5,0
40,9
53,5
0,6
3.382
50.553
49.155
2.426
3,2
48
46,6
2,2
3.109
57.654
51.325
1.230
2,7
50,9
45,3
1,1
Tổng VLĐ
101.570
100
97.208
100
105.518
100
113.318
100
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 1999-2002 của Nhà máy Thiết bị bưu điện)
Qua bảng số liệu ta có một số nhận xét sau:
+ Quy mô của vốn lưu động biến đổi phức tạp trong cả thời kỳ. Năm 2000 giảm so với năm 1999 là 4.362 triệu đồng, chủ yếu là do giá trị TSLĐ khác và lượng tiền mặt giảm mạnh. Nhưng năm 2001 so với năm 2000 lại tăng 8.310 triệu đồng chủ yếu là do các khoản phải thu tăng mạnh, đồng thời giá trị TSLĐ khác và tồn kho có tăng nhưng với tốc độ chậm, lượng tiền mặt cũng giảm nhẹ so với tốc độ tăng của các khoản phải thu. Năm 2002, quy mô vốn lưu động tăng so với năm 2001 là 7.800 triệu đồng tương đương tăng 7,4% chủ yếu là do các khoản phải thu tăng 7.101 triệu đồng (14%), tồn kho tăng 2.170 triệu đồng (4,4%). Giá trị TSLĐ khác giảm 1.196 triệu đồng (49,3%), tiền mặt giảm 273 triệu đồng (8%). Nhưng tốc độ giảm của tiền mặt và TSLĐ khác không bằng tốc độ tăng của các khoản phải thu và tồn kho, nên quy mô của vốn lưu động tăng .
+ Tiền mặt của Nhà máy năm 2000 giảm so với năm 1999 là 817 triệu đồng (14,3%), năm 2001 giảm so với năm 2000 là 1.508 triệu đồng (30,8%), năm 2002 giảm so với năm 2001 là 273 triệu đồng (8%). Từ đó có thể nói rằng, Nhà máy có xu thế giảm dự trữ tiền mặt.
+ Nếu khoản phải thu năm 2000 giảm mạnh so với năm 1999 là 17.982 triệu đồng (31,1%), thì năm 2001 lại tăng so với năm 2000 là 10.800 triệu đồng (27,17%), năm 2002 tăng so với năm 2001 là 7.101 triệu đồng (14%), ta thấy tốc độ tăng năm 2002 chậm hơn so với năm 2001 chứng tỏ Nhà máy đã đẩy mạnh công tác thu hồi nợ.
+ Ta thấy giá trị hàng hoá tồn kho của Nhà máy chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng VLĐ, đây cũng là đặc thù của nghành bưu chính viễn thông, do vậy Nhà máy cần có biện pháp để giảm bớt lượng hàng tồn kho tránh cho việc vốn bị ứ đọng.
+ TSLĐ khác của Nhà máy năm 2001 tăng mạnh chủ yếu là do việc tạm ứng tăng, vì vậy Nhà máy cần có biện pháp để giảm các khoản tạm ứng.
Qua số liệu về vốn lưu động ta thấy năm 2002 Nhà máy bị chiếm dụng vốn là 57.654 triệu đồng, trong khi đó Nhà máy đi chiếm dụng vốn là 103.242 triệu đồng. Trong thực tế số vốn của Nhà máy đi chiếm dụng nhiều hơn số vốn của Nhà máy bị chiếm dụng. Tuy nhiên, Nhà máy cần có những biện pháp nhằm tránh bị phụ thuộc vào số vốn này.
2.2.Nguồn vốn lưu động
Cơ cấu của vốn lưu động của Nhà máy trong mối quan hệ với cơ cấu nguồn năm 2002
Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên
=
Phải thu
+
Tồn kho - Nợ ngắn hạn
= 57.654 + 51.325 - 82.092
= 26.887
Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên >0 chứng tỏ nguồn vốn ngắn hạn không đáp ứng được nhu cầu vốn lưu động. Nhà máy cần có thêm nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho vốn lưu động.
Bảng 7: Cơ cấu nguồn vốn lưu động của Nhà máy
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Lượng
%
Lượng
%
Lượng
%
Lượng
%
1.Nợ phải trả
2.Vốn CSH
98.530
3.040
97
3
77.205
20.003
79,4
20,6
94.741
10.777
89,8
10,2
103.242
10.076
91
9
Tổng VLĐ
101.570
100
97.208
100
105.518
100
113.318
100
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 1999-2002 của Nhà máy Thiết bị bưu điện)
Qua số liệu ta thấy:
Tỷ trọng của nợ phải trả và vốn chủ sở hữu dùng để tài trợ cho vốn lưu động biến động không ổn định, về quy mô thì nguồn nợ phải trả giảm mạnh trong năm 2000, nguồn vốn chủ sở hữu cũng tăng mạnh trong năm này.
+ Năm 2000/1999 Vốn chủ sở hữu tăng 16.963 triệu đồng (558%)
Nợ phải trả giảm 21.325 triệu đồng (21,6%)
+ Năm 2001/2000 Vốn chủ sở hữu giảm 9.226 triệu đồng (46,2%)
Nợ phải trả tăng 17.536 triệu đồng (22,7%)
+ Năm 2002/2001 Vồn chủ sở hữu giảm 701 triệu đồng (6,5%)
Nợ phải trả tăng 8.501 triệu đồng (8,97%)
Điều đó chứng tỏ:
Năm 2000, Nhà máy đã dùng vốn chủ sở hữu để tài trợ cho vốn lưu động nhưng đến năm 2001,2002 thì nguồn vốn lưu động chủ yếu được lấy ra từ vốn vay và vốn chiếm dụng.
Để xem xét việc tăng quy mô vốn lưu động vào cuối năm 2002 có hiệu quả hay không ta hãy phân tích chỉ số sinh lời doanh thu và doanh lợi trên vốn tự có.
Bảng 8: Hệ số sinh lời DT và doanh lợi trên vốn tự có
Chỉ tiêu
Năm
1999
Năm
2000
Năm
2001
Năm
2002
2001/2000
2002/2001
Lượngg
%
Lượng
%
LNST
DT thuần
Vốn CSH
7.393
143.708
37.250
5.793
148.621
41.064
6.768
152.082
46.235
7.755
199.425
52.735
975
3.461
5.171
16,8
2,32
12,6
987
47.343
6.500
14,6
31,1
14,1
Hệ số
SLDT(%)
5,14
3,9
4,45
3,9
DL/VCSH
(%)
19,85
14,1
14,64
14,7
Qua bảng trên ta thấy:
+ Năm 1999,2001,2002 thì quy mô của vốn lưu động phù hợp với sự thay đổi của doanh thu, còn năm 2000 thì có sự biến động trái ngược: quy mô vốn lưu động giảm so với năm 1999 nhưng doanh thu vẫn tăng. Cụ thể :
Năm 2001: Vốn lưu động tăng so với năm 2000 dẫn tới doanh thu thuần của năm 2001 cũng tăng so với năm 2000 là 3.461 triệu đồng (2,32%).
Năm 2002 vốn lưu động tăng so với năm 2001 là 7.800 triệu đồng (7,4%), trong khi doanh thu thuần tăng 47.343 triệu đồng (31,1%), chứng tỏ việc sử dụng vốn lưu động có hiệu quả.
+ Hệ số sinh lời của doanh thu biến động không ổn định. Đó là do: Tốc độ tăng của LNST không bằng tốc độ tăng của doanh thu, Nhà máy cần xem xét lại những khoản phát sinh đột biến cụ thể là khoản chi phí quản lý doanh nghiệp, và hoạt động tài chính làm cho lợi nhuận sau thuế tăng không bằng tốc độ tăng của doanh thu.
+ Doanh lợi trên vốn chủ sở hữu giảm mạnh vào năm 2000, nhưng sau đó cũng có sự tăng trưởng đều đặn . Điều này là do tốc độ tăng của lợi nhuận sau thuế cao hơn so với tốc độ tăng của vốn chủ sở hữu.
Vậy việc tăng vốn lưu động năm 2002 đem lại hiệu quả chưa như mong muốn của tập thể cán bộ công nhân viên của Nhà máy Thiết bị Bưu Điện. Do vậy, Nhà máy cần tìm ra cách giải quyết làm giảm các khoản chi phí tăng đột biến để tốc độ tăng của LNST cao hơn tốc độ tăng của vốn lưu động.
2.3.Quản trị vốn lưu động
Việc quản trị vốn lưu động tập trung vào 3 vấn đề :
Quản trị tiền mặt
Quản trị dự trữ tồn kho
Quản trị các khoản phải thu
2.3.1 Quản trị tiền mặt
Tiền mặt của Nhà máy bao gồm : Tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển.
Các khoản tiền mặt tại quỹ Nhà máy phục vụ cho việc chi trả lương cho cán bộ công nhân viên, thanh toán đột xuất khi cần thiết, tạm ứng,...
Tiền gửi ngân hàng chính là tiền gửi thanh toán, phục vụ mục đích chi cho sản xuất kinh doanh.
Do đặc điểm ngành nghề và đặc thù của Nhà máy nên Nhà máy quan hệ với hệ thống các khách hàng và ngân hàng nên việc quản lý tiền mặt rất phức tạp, nó đòi hỏi phải được theo dõi từng ngày.
Để đánh giá tình hình tiền mặt ta có một số thông tin sau:
Bảng 9:Tình hình quản lý tiền mặt tại Nhà máy:
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Tiền mặt tại quỹ
Tiền gửi ngân hàng
Tiền đang chuyển
Tiền vay ngân hàng
352
5.355
-
39.808
273
4.616
-
52.028
208
3.074
-
75.033
193
2916
-
75.996
( Nguồn: Báo cáo tài chính năm 1999-2002 của Nhà máy Thiết bị bưu điện)
Qua bảng trên ta thấy :
Lượng tiền mặt của Nhà máy giảm đều trong năm, lượng tiền gửi ngân hàng của Nhà máy cũng giảm liên tục trong toàn thời kỳ đặc biệt giảm mạnh vào năm 2001. Đó có thể là do các nguyên nhân như việc xuất hiện các khoản phải tạm ứng, trả lương,... tất cả đều cần tiền mặt.
Nhưng đối với bất kỳ một đơn vị sản xuất kinh doanh nào trong đó có Nhà máy Thiết bị bưu điện thì công tác ngân quỹ đều được coi trọng nhằm đưa ra các biện pháp giữ số dư tiền mặt tại quỹ ở một mức độ an toàn đảm bảo cho nhu cầu sản xuất kinh doanh cũng như hoạt động của bộ máy Nhà máy.
2.3.2. Quản trị dự trữ tồn kho
Với đặc thù là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực thiết bị bưu điện, dự trữ tồn kho của Nhà máy hầu hết là thành phẩm tồn kho, nguyên vật liệu tồn kho, hàng gửi đi bán với số liệu cụ thể :
+ Năm 1999 chi phí sản xuất kinh doanh dở dang là 36.797 triệu đồng.
+ Năm 2000 chi phí sản xuất kinh doanh dở dang là 52.016 triệu đồng.
+ Năm 2001 chi phí sản xuất kinh doanh dở dang là 49.155 triệu đồng.
+ Năm 2002 chi phí sản xuất kinh doanh dở dang là 51.325 triệu đồng
Ta thấy trong các năm qua hàng tồn kho ở cuối năm tăng mạnh vào năm 2000, sau đó giảm nhẹ vào năm 2001 nhưng lại có xu hướng tăng trở lại vào năm 2002 chứng tỏ sự quản trị kém hiệu quả các khoản chi phí này, việc tồn đọngvốn lưu động ở các khâu như nguyên vật liệu tồn kho, thành phẩm tồn kho, hàng gửi đi bán là rất lớn . Vì vậy, ban giám đốc Nhà máy cần có những biện pháp cụ thể như nâng cao chất lượng hàng hóa, cải tiến công tác Marketing,...để giảm lượng hàng tồn kho và lượng hàng gửi đi bán.
2.3.3.Quản trị các khoản phải thu
Khoản phải thu là một bộ phận chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn lưu động của Nhà máy. Hơn thế nữa, nó lại liên quan trực tiếp tới chu kỳ vận động của vốn lưu động và ảnh hưởng tới lợi nhuận của Nhà máy .
Qua số liệu cho thấy tổng các khoản phải thu có quy mô tăng dần với tốc độ khá cao.
Năm 2001 so với năm 2000 tăng 10.798 triệu đồng (27,17%)
Năm 2002 so với năm 2001 tăng 7.121 triệu đồng (14,09%)
Bảng 10: Tình hình quản trị các khoản phải thu
Chỉ tiêu
Năm
1999
Năm
2000
Năm
2001
Năm 2002
2001/2000
2002/2001
Lượng
%
Lượngggg
%
1.Phải thu của KH
2.Trả trước
3.Thuế GTGT được khấu trừ
4.Phải thu nội bộ
5.Phải thu khác
6.Dự phòng phải thu khó đòi
57.232
-
1.392
-
-
(889)
38.617
415
109
-
678
(84)
48.076
1.800
378
-
486
(187)
54.132
2.300
1.120
-
325
(223)
9.459
1.385
269
-
-192
-103
24,5
333,7
246,8
-
-28,3
122,6
6.056
500
742
-
-161
-36
12,6
27,8
196,3
-
-33,2
19,3
Tổng
57.735
39.735
50.533
57.654
10.798
7.121
( Nguồn: Báo cáo tài chính năm 1999-2002 của Nhà máy Thiết bị bưu điện)
Khoản phải thu của Nhà máy khá lớn nên chúng ta cần xem xét chi tiết ở các khoản mục chính :
-Khoản phải thu của khách hàng: Qua các năm ta thấy có sự biến động không đồng đều, năm 2000 có sự sụt giảm mạnh nhất so với các năm 1999, 2001, 2002 cả về số tương đối và tuyệt đối :
Năm 2001 tăng so với năm 2000 là 9.459 triệu đồng (24,5%)
Năm 2002 tăng so với năm 2001 là 6.056 triệu đồng (12,6%)
- Khoản trả trước: Trong ba năm 2000, 2001 và năm 2002 ta thấy khoản này tăng lên rõ rệt . Điều đó chứng tỏ, số vốn của Nhà máy bị các đơn vị khác hoặc khách hàng chiếm dụng .
Khoản thuế GTGT được khấu trừ: Khoản này biến động không đồng đều, sụt giảm mạnh vào năm 2000 và có xu hướng tăng trở lại. Đây là khoản bổ xung cho nguồn vốn kinh doanh của Nhà máy, vì vậy Nhà máy cần nhanh chóng thu hồi để sử dụng cho phù hợp với tình hình thực tế của Nhà máy.
Khoản dự phòng phải thu khó đòi: Khoản này giảm mạnh vào năm 2000 và có xu hướng tăng trở lại vào năm 2001 và 2002, điều này chứng tỏ các khoản phải thu khó đòi của Nhà máy tăng lên . Nhà máy đã có các biện pháp cần thiết để giảm các khoản phải thu khó đòi để tăng nguồn vốn kinh doanh cho Nhà máy. Việc tăng các khoản thu mang lại bất lợi cho Nhà máy không chỉ vì rủi ro đồng tiền mất giá mà còn làm cho Nhà máy tạm thời thiếu vốn sản xuất kinh doanh, nhưng do đặc thù của nghành sản xuất thiết bị bưu điện nên đôi khi Nhà máy cũng khó khăn trong việc giảm khoản này. Trên đây là những kết quả sơ bộ về quản trị vốn lưu động. Để đánh giá một cách chính xác hơn nữa về tình hình sử dụng vốn lưu động chúng ta xem tiếp hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Nhà máy trong thời gian qua.
2.4.Hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Nhà máy
2.4.1.Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Nhà máy
Là một Nhà máy kinh doanh trong lĩnh vực viễn thông, nên nguồn vốn của Nhà máy dùng để tài trợ cho tài sản lưu động hay còn gọi là vốn lưu động. Lượng vốn lưu động này chủ yếu ở dưới dạng hàng tồn kho và phải thu của khách hàng.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Nhà máy, ta có bảng sau:
Bảng 11: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Chỉ tiêu
Năm
1999
Năm 2000
Năm
2001
Năm 2002
1.Tổng doanh thu
2.Vốn lưu động bình quân
145.956
101.570
149.714
97.208
153.395
105.518
200.948
113.318
Hiệu quả sử dụng VLĐ
1,44
1,54
1,45
1,77
Kết quả cho thấy năm 1999 và năm 2000 hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng nhưng năm 2001 kết quả bị giảm và sau đó tăng trở lại. Điều này cho thấy việc sử dụng vốn lưu động của Nhà máy cũng tương đối ổn định.
+ Năm 2000 tăng so với năm 1999 là 7%
+ Năm 2001 giảm so với năm 2000 là 6.2%
+ Năm 2002 tăng so với năm 2001 là 22%
Năm 2001 hiệu quả sử dụng vốn lưu động giảm là do tốc độ tăng của vốn lưu động tăng nhanh hơn tốc độ tăng của doanh thu, làm cho hiệu quả sử dụng vốn lưu động giảm xuống. Nhưng đến năm 2002 Nhà máy đã sử dụng có hiệu quả nguồn vốn lưu động này làm cho hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng 22% so với năm 2001.
2.4.2..Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động
Chỉ tiêu này cho ta biết 100 đồng vốn lưu động bỏ ra có được bao nhiêu đồng lợi nhuận
Bảng 12: Tỷ suất lợi nhuận của Nhà máy
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1.Lợi nhuận sau thuế
2.Vốn lưu động
7.393
101.570
5.793
97.208
6.768
105.518
7.755
113.318
TSLN VLĐ
7,2
5,9
6,4
6,8
Ta thấy tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động của Nhà máy cũng khá cao, bị giảm mạnh vào năm 2000 nhưng sau đó tăng trở lại vào năm 2001 và năm 2002. Sở dĩ năm 2000 tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động giảm là do thuế thu nhập của Nhà máy không được miễn giảm, mặc dù lợi nhuận trước thuế kém năm 1999 và năm 2001 không nhiều, nhưng thuế thu nhập doanh nghiệp cao nên lợi nhuận sau thuế bị giảm mạnh dẫn tới tỷ suất lợi nhạn vốn lưu động giảm.
Năm 2001 và năm 2002 tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động của Nhà máy liên tục tăng. Đây là kết quả của sự nỗ lực của toàn bộ tập thể cán bộ công nhân viên Nhà máy trong quá trình sản xuất kinh doanh đã tiết kiệm chi phí, là cơ sở để hạ giá thành, tăng doanh thu dẫn tới tăng lợi nhuận.
2.4.3.Tốc độ luân chuyển vốn lưu động
Ta có bảng số liệu
Bảng 13: Tốc độ luân chuyển vốn lưu động
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Doanh thu thuần
Vốn lưu động
143.708
101.570
148.621
97.208
152.082
105.518
199.387
113.318
Số vòng quay VLĐ
1,41
1,52
1,44
1,76
Số ngày luân chuyển VLĐ
259
240
253
207
Từ bảng số liệu ta có:
Số vòng quay của vốn lưu động năm 2002 đạt cao nhất 1,76 vòng và số ngày cần thiết cho một vòng quay là 207 ngày.
- Vốn lưu động bình quân năm 2000 giảm so với năm 1999 là 4.362 triệu đồng (3,3%). Trong khi doanh thu thuần tăng 4.913 triệu đồng (3,4% ), điều này làm cho số vòng quay vốn lưu động của năm 2000 tăng từ 1,41 lên 1,52 vòng.
- Vốn lưu động bình quân năm 2001 tăng so với năm 2000 là 8.310 triệu đồng (8,5%). Trong khi doanh thu thuần tăng 3.461triệu đồng (2,3%), điều này làm cho số vòng quay vốn lưu động của năm 2001 giảm từ 1,52 vòng xuống 1,44 vòng.
- Vốn lưu động bình quân năm 2002 tăng so với năm 2001 là 7800 triệu đồng (7,3%). Trong khi doanh thu thuần tăng 47.305 triệu đồng (31%), điều này làm cho số vòng quay vốn lưu động của năm 2002 tăng từ 1,44 lên 1,76 vòng.
Nhà máy cần có biện pháp đẩy nhanh tốc độ tăng doanh thu đồng thời kết hợp giảm chi phí để tận dụng tốt vốn lưu động mà mình có.
3.Công tác sử dụng vốn cố định của Nhà máy
3.1. Cơ cấu vốn cố định
Để có được đánh giá về cơ cấu vốn cố định của Nhà máy, ta sử dụng bảng số liệu sau:
Bảng 14: Cơ cấu vốn cố định của Nhà máy
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1.TSCĐ hữu hình
Nguyên giá
Hao mòn
Giá trị còn lại
2.TSCĐ thuê tài chính
3.TSCĐ vô hình
65.460
31.371
34.089
-
-
72.908
52.503
20.405
535
-
102.720
67.594
35.126
333
-
114.790
72.362
42.428
231
Tổng TSCĐ
34.089
20.940
35.459
42.659
( Nguồn: Báo cáo tài chính năm 1999-2002 của Nhà máy Thiết bị bưu điện)
Qua bảng số liệu ta thấy:
TSCĐ hữu hình của Nhà máy là TSCĐ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong vốn cố định gồm chủ yếu là máy móc, thiết bị, và các trang thiết bị văn phòng của Nhà máy nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Tỷ trọng vốn cố định qua các năm là:
+ Năm 1999: Tỷ trọng vốn cố định/Tổng nguồn vốn là 25,1%
+ Năm 2000: Tỷ trọng vốn cố định/Tổng nguồn vốn là 17,7%
+ Năm 2001: Tỷ trọng vốn cố định/Tổng nguồn vốn là 25,2%
+ Năm 2002: Tỷ trọng vốn cố định/Tổng nguồn vốn là 27,3%
Như vậy, năm 2000 TSCĐ của Nhà máy giảm mạnh nhưng lại tăng trở lại vào các năm tiếp theo, chiếm một tỷ trọng khá cao trong tổng nguồn vốn. Năm 2001 TSCĐ của Nhà máy tăng mạnh đánh dấu sự đổi mới trang thiết bị phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Nó phù hợp với xu thế của nền kinh tế thị trường hiện nay.
3.2.Nguồn vốn cố định
Trước hết, ta xem xét tỷ xuất tài trợ vốn cố định bằng nguồn vốn tự có của Nhà máy ra sao:
Tỷ suất tài trợ
=
Nguồn vốn tự có
Tổng TSCĐ
Ta có bảng sau:
Bảng 15: Tỷ suất tài trợ vốn cố định của Nhà máy
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1.Nguồn vốn chủ sở hữu
2.Tổng vốn cố định
37.250
34.089
41.064
20.940
46.235
35.459
52.735
42.659
Tỷ suất tài trợ
1,09
1,96
1,3
1,24
Trong tất cả các năm tỷ suất tài trợ đều lớn hơn 1. Do vậy, Nhà máy chỉ dùng nguồn vốn chủ sở hữu để tài trợ cho TSCĐ mà không phải đi vay dài hạn ngân hàng, giảm bớt được chi phí trả lãi vay ngân hàng. Nhưng đây cũng là hạn chế khi không tận dụng được nguồn vốn vay dài hạn.
3.2.Hiệu quả sử dụng vốn cố định ở Nhà máy
3.2.1.Hiệu quả sử dụng vốn cố định
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định, ta có bảng sau:
Bảng 16: Hiệu quả sử dụng vốn cố định
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Doanh thu thuần
TSCĐ sử dụng trong kỳ
143.708
34.089
148.621
20.940
152.082
35.459
199.387
42.659
Hiệu quả sử dụng VCĐ
4,22
7,11
4,29
4,67
Qua bảng trên ta thấy:
Một đồng vốn cố định của Nhà máy tạo ra doanh thu cao nhất là 7,11 đồng vào năm 2000. Tuy nhiên,nhìn vào bảng ta thấy hiệu quả sử dụng vốn cố định của Nhà máy không cao và biến đổi không ổn định. Điều này được lý giải như sau:
Năm 2000 so với năm 1999, doanh thu thuần tăng 4.913 triệu đồng (3,4%), trong khi vốn cố định giảm 13.149 triệu đồng (62,8%), dẫn tới hiệu quả sử dụng vốn cố định tăng 2.89 đồng (68,5%).
Năm 2001 so với năm 2000, doanh thu thuần tăng 3.461triệu đồng ( 2,3%), trong khi vốn cố định tăng 14.519 triệu đồng (69,3%), dẫn tới hiệu quả sử dụng vốn cố định giảm 2,19 đồng (65,7%).
Năm 2002 so với năm 2001,doanh thu thuần tăng 47.305 triệu đồng (31% ), trong khi vốn cố định tăng 7.200 triệu đồng (20,3%), dẫn tới hiệu quả sử dụng vốn cố định tăng 0,38 đồng (8,9%).
3.2.2.Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định
Bảng 17: Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định của Nhà máy
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1.Lợi nhuận sau thuế
2. Vốn cố định
7.393
34.089
5.793
20.940
6.768
35.459
7.755
42.659
Tỷ suất lợi nhuận VCĐ (%)
21,68
27,66
19,09
18,18
Qua bảng trên ta thấy:
Tỷ suất lợi nhuận năm 2000 là cao nhất, đạt 27,66%. Điều đó cho thấy sự hiệu quả của việc đầu tư thêm máy móc thiết bị. Tuy nhiên đến năm 2001 và 2002 thì hiệu quả của việc đầu tư thêm máy móc thiết bị giảm xuống. Vậy nhiệm vụ của Nhà máy trong thời gian tới phải làm sao phát huy hơn nữa hiệu quả trong công tác này.
4.Công tác thanh toán của Nhà máy
Để đánh giá được khả năng thanh toán của Nhà máy, ta xét đến hai chỉ tiêu cơ bản là: Hệ số thanh toán nhanh và hệ số vốn hoạt động, ngoài ra còn đánh giá thông qua Hệ số tiền mặt.
Bảng 18: Bảng đo lường khả năng thanh toán của Nhà máy
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Tài sản lưu động
Tổng nợ ngắn hạn
Các khoản phải thu
Vốn bằng tiền
101.570
89.467
57.735
5.707
97.209
70.788
39.753
4.890
105.518
69.746
50.553
3.382
113.318
72.469
57.654
3.109
Hệ số thanh toán nhanh
0,72
0,63
0,81
0,86
Hệ số vốn hoạt động
1,135
1,37
1,512
1,563
Hệ số tiền mặt
0,063
0,069
0,048
0,043
Qua bảng trên ta thấy:
Hệ số thanh toán nhanh của Nhà máy biến động phức tạp qua các năm, nhưng chưa năm nào khả năng thanh toán của Nhà máy được thực hiện tốt (đều thấp hơn 1), điều này chứng tỏ Nhà máy bị động về tài chính và phụ thuộc quá nhiều vào ngân hàng.
Hệ số vốn hoạt động của Nhà máy luôn lớn hơn 1, chứng tỏ Nhà máy có khả năng thanh toán chưa được tốt và tình hình tài chính của Nhà máy như vậy là chưa khả quan. Nguyên nhân cơ bản dẫn tới tình trạng này là số vốn của Nhà máy bị chiếm dụng và Nhà máy đi chiếm dụng. Chính điều này làm ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của Nhà máy khi mà các khoản phải trả lớn hơn các khoản phải thu.
Lượng vốn bằng tiền của Nhà máy giảm liên tục giảm mạnh qua các năm, do đó làm hệ số tiền mặt cũng giảm mạnh theo và luôn ở mức thấp, điều này cũng là bất lợi cho Nhà máy khi dự trữ ít tiền mặt như vậy.
5. Đánh giá chung về công tác sử dụng vốn tại Nhà máy
Việc phân tích và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động và vốn cố định một cách riêng rẽ chưa phản ánh đầy đủ hiệu quả sử dụng vốn của Nhà máy. Hơn thế nữa, chúng lại có xu hướng vận động tương đối độc lập với nhau nên chưa thể đưa ra nhận xét tổng quát tình hình chung .
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của Nhà máy ta có các chỉ tiêu sau:
Bảng 19: Hiệu quả sử dụng vốn chung của Nhà máy
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Doanh thu thuần
Lợi nhuận sau thuế
Vốn kinh doanh
143.708
7.393
135.780
148.621
5.793
118.269
152.082
6.768
140.977
199.387
7.755
155.977
Số vòng quay của vốn kinh doanh
1,05
1,25
1,07
1,27
Tỷ suất lợi nhuận của vốn kinh doanh (%)
5,44
4,89
4,8
4,97
Qua bảng trên ta thấy:
Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Nhà máy biến động phức tạp qua các năm. Điều này thể hiện hiệu quả trong công tác tiết kiệm giảm chi phí sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao lợi nhuận được thực hiện qua các năm là không đồng đều. Việc này cũng phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Năm 2000, doanh thu tăng nhưng lợi nhuận sau thuế lại bị giảm mạnh dẫn, thêm vào đó vốn kinh doanh cũng giảm dẫn tới hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh giảm so với năm 1999.
Năm 2001, doanh thu cũng tăng so với năm 2000, nhưng tốc độ tăng của doanh thu không bằng tốc độ tăng của vốn kinh doanh cho nên hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh giảm so với năm 2000. Điều này thể hiện việc sử dụng không hợp lý nguồn vốn kinh doanh dẫn tới lãng phí nguồn lực.
Năm 2002, doanh thu tăng rất cao so với năm 2001, nhưng tốc độ tăng của lợi nhuận sau thuế không bằng doanh thu nên hiệu quả sử dụng vốn cũng không cao.
6.Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn tại Nhà máy Thiết bị Bưu Điện
6.1.Những kết quả đạt được trong việc sử dụng vốn của Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện
Trong thời kỳ đổi mới, nghành Bưu Chính - Viễn Thông trong những năm gần đây đã có những tiến bộ vượt bậc. Trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước thuộc Bộ Bưu Chính - Viễn Thông Việt nam, Nhà máy Thiết Bị Bưu Điện là một Nhà máy lớn, có vị trí quan trọng trong nghành. Nhu cầu nắm bắt thông tin kèm theo đó là nhu cầu sử dụng các thiết bị viễn thông, thông tin liên lạc như việc sử dụng các thiết bị điện thoại ấn phím, điện thoại di động, tủ buồng đàm thoại,... ngày một gia tăng. Việc giao dịch, liên lạc qua bưu điện phát triển nên các sản phẩm của Nhà máy phục vụ cho nghành bưu điện như dấu nhật ấn, dây buộc cổ túi thư, máy cước, máy xoá tem,... cũng tăng lượng tiêu thụ (khả năng chiếm lĩnh thị trường của những sản phẩm này là 100%), các sản phẩm , thiết bị điện thoại do Nhà máy sản xuất ra thị trường tốn ít chi phí hơn so với các sản phẩm ngoaị nhập, lại không phải chịu thuế nhập khẩu nên giá thành thấp, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm của Nhà máy trên thị trường.
Với sự cố gắng vươn lên của đội ngũ cán bộ công nhân viên Nhà máy, trong những năm qua theo số liệu báo cáo tài chính có thể thấy Nhà máy là một doanh nghiệp luôn luôn làm ăn có lãi, đạt và vượt kế hoạch do Tổng công ty Bưu Chính - Viễn Thông (nay là Bộ Bưu Chính - Viễn Thông) đề ra. Những năm gần đây, Nhà máy không ngừng mua sắm đổi mới dây chuyền công nghệ nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, tăng năng lực cạnh tranh. Trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt, việc Nhà máy vẫn bảo đảm được sự tăng trưởng về doanh thu và lợi nhuận, thu nhập của cán bộ công nhân viên không ngừng tăng là những cố gắng rất đáng khâm phục. Trong đó công tác sử dụng vốn đã góp phần quan trọng vào những thành công này.
6.1.1.Đối với công tác sử dụng vốn cố định
Kể từ ngày được thành lập, Nhà máy đã không ngừng mở rộng quy mô sản xuất, tăng cường đổi mới máy móc trang thiết bị, dây chuyền lẵp ráp hiện đại, nâng cao tay nghề công nhân và nghiệp vụ của cán bộ quản lý để nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhà máy luôn chứng tỏ là một đơn vị năng động và không ngừng vươn lên thông qua các kết quả tăng trưởng đạt được. Với số vốn ban đầu của tổng công ty cấp và được bổ sung từ lợi nhuận để lại hàng năm, Nhà máy đã không ngừng mở rộng quy mô sản xuất. Mặc dù vốn cố định có tỷ trọng thấp nhưng Nhà máy vẫn huy động tối đa mọi nguồn lực để đầu tư đổi mới trang thiết bị, máy móc phương tiện vận tải truyền dẫn, nhà xưởng,... Trong năm 2002, Nhà máy đã tăng cường đầu tư cho TSCĐ một khoản rất lớn: 42.659 triệu đồng, tăng 7.200 triệu đồng (20,3%) so với năm 2001. Các loại máy móc hiện đại như máy cắt, đột dập, máy băng chuyền, các dây chuyền sản xuất PVC cứng, dây chuyền phục vụ phân xưởng bưu chính,... cũng được đầu tư đổi mới. Trong các phòng quản lý, Nhà máy hầu như trang bị toàn bộ máy vi tính, may fax và các máy móc chuyên dụng khác, giúp cho cán bộ quản lý làm việc hiệu quả hơn và công tác giao dịch, tiếp cận khách hàng cũng thuận lợi hơn.
6.1.2.Đối với công tác sử dụng vốn lưu động
Trong công tác sử dụng vốn lưu động, Nhà máy cũng đạt được những thành công nhất định. Vốn lưu động được đảm bảo và không ngừng tăng qua các năm. Năm 2002 tăng 7.800 triệu đồng (7,4%) so với năm 2001. Nhà máy đã tìm cách khai thác các nguồn vốn từ bên ngoài để đảm bảo cho nhu cầu sản xuất kinh doanh nhưng vẫn đảm bảo sự lành mạnh, tự chủ, độc lập về tài chính. Quá trình sản xuất và công tác tiêu thụ sản phẩm đã có sự phối hợp nhịp nhàng, năng suất lao động và chất lượng sản phẩm không ngừng được nâng cao.
Tuy vậy, bên cạnh những thành công đạt được, vẫn còn những tồn tại nhất định trong quá trình sản xuất kinh doanh và đặc biệt trong công tác sử dụng vốn sản xuất kinh doanh tại Nhà máy.
6.2.Những tồn tại trong quá trình sử dụng vốn sản xuất kinh doanh ở Nhà máy Thiết bị Bưu Điện
6.2.1.Trong hoạt động sử dụng vốn cố định
Trong năm 2002 mặc dù có sự tăng lên trong đầu tư cho TSCĐ nhưng hiệu quả sử dụng TSCĐ và vốn cố định có bị giảm sút. Điều này là do công suất của máy móc thiết bị không phát huy hết tác dụng và việc sử dụng máy móc thiết bị không đồng bộ. Bên cạnh đó, giá trị còn lại của TSCĐ của Nhà máy còn rất thấp (phần lớn đã khấu hao gần hết) do đó ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm của Nhà máy. Điều này cho thấy mặc dù tăng về quy mô nhưng nhìn chung tình trạng kỹ thuật của TSCĐ vẫn chưa được cải thiện, công tác đổi mới dây chuyền thiết bị chưa đồng bộ và toàn diện làm cho hiệu suất sử dụng TSCĐ trong năm qua giảm xuống.
6.2.2.Trong hoạt động sử dụng vốn lưu động
Công tác tổ chức bán hàng, thanh toán tiền h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12128.DOC