Đề tài Một số giải pháp giải quyết việc làm cho lực lượng lao động trẻ

Tài liệu Đề tài Một số giải pháp giải quyết việc làm cho lực lượng lao động trẻ: LỜI CẢM ƠN Trong thời gian thực tập và thực hiện chuyên đề tốt nghiệp, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi còn nhận được sự quan tâm, hướng dẫn tận tình của các thầy cô giáo trong khoa, tập thể các cán bộ Ban phát triển Nguồn nhân lực và các vấn đề xã hội và sự đóng góp chân thành của của các bạn. Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo TS. Phạm Ngọc Linh và tập thể thầy cô giáo trong khoa Kế hoạch và Phát triển, trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ rất nhiều để tôi thực hiện đề tài này. Đồng thời, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến TS. Phạm Lê Phương đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực tập vừa qua. Mặc dù đã rất nỗ lực cố gắng song do kinh nghiệm bản thân có hạn, thời gian không cho phép nghiên cứu quá sâu về đề tài và cũng bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu khoa học nên chuyên đề không tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp, hướng dẫn của thầy cô giáo để đề tài hoàn thiện hơn. Tôi xin...

doc106 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1149 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp giải quyết việc làm cho lực lượng lao động trẻ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN Trong thời gian thực tập và thực hiện chuyên đề tốt nghiệp, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi còn nhận được sự quan tâm, hướng dẫn tận tình của các thầy cô giáo trong khoa, tập thể các cán bộ Ban phát triển Nguồn nhân lực và các vấn đề xã hội và sự đóng góp chân thành của của các bạn. Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo TS. Phạm Ngọc Linh và tập thể thầy cô giáo trong khoa Kế hoạch và Phát triển, trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ rất nhiều để tôi thực hiện đề tài này. Đồng thời, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến TS. Phạm Lê Phương đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực tập vừa qua. Mặc dù đã rất nỗ lực cố gắng song do kinh nghiệm bản thân có hạn, thời gian không cho phép nghiên cứu quá sâu về đề tài và cũng bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu khoa học nên chuyên đề không tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp, hướng dẫn của thầy cô giáo để đề tài hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan bài Chuyên đề tốt nghiệp là bài viết của tôi dựa trên sự tham khảo một vài tài liệu của các văn bản, nghị định, báo cáo tổng hợp từ các cơ quan, các nhóm chuyên gia nghiên cứu về vấn đề việc làm cho lao động nói chung và cho lao động trẻ nói riêng. Tôi xin cam đoan trong bài viết này không có sự sao chép từ các tài liệu và luận văn sẵn có. Đây là bài viết do chính tôi thực hiện trên sự sưu tập tài liệu và sự hướng dẫn của các thầy cô trong khoa Kế hoạch và Phát triển cùng với các cán bộ Ban phát triển Nguồn nhân lực và các vấn đề xã hội, Viện chiến lược, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. Nếu bài của tôi có sự sao chép từ một tài liệu hoặc luận văn nào sẵn có thì tôi xin chịu mức kỷ luật do nhà trường đặt ra. Người cam đoan Trịnh Thị Lan Hương MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIẾU Sơ đồ cơ cấu lao động 3 Cơ cấu lao động chia theo tình trạng việc làm 10 Sơ đồ phân loại dân số và Nguồn lao động 12 Bảng 1: Dự báo tăng dân số trong tuổi lao động đến năm 2015 16 Bảng 2: Số thanh niên bước vào độ tuổi lao động hàng năm 2000 – 2007 28 Biểu đồ 1 Dân số trong độ tuổi 15 -34 năm 2006 – 2010 29 Biểu đồ 2: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động theo độ tuổi năm 1996 và 2007 30 Biểu đồ 3: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của lao động trẻ theo nhóm tuổi, giới tính 32 Bảng 3: Trình độ học vấn của lao động trẻ qua các năm 2000 – 2007 34 Bảng 4: Trình độ học vấn của lao động trẻ trong các doanh nghiệp năm 2001, 2003, 2007 35 Biểu đồ 4: Trình độ học vấn của lao động trẻ nói chung và trong các doanh nghiệp năm 2007 35 Bảng 5: Tỷ lệ lao động phân theo nhóm tuổi và trình độ chuyên môn kỹ thuật 36 Bảng 6: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động trẻ trong các doanh nghiệp năm 2001, 2007 38 Biểu đồ 5: Tổng cầu lao động trẻ trong nền kinh tế quốc dân và số việc làm mới trong các năm 2000 - 2007 39 Bảng 7: Cơ cấu đầu tư xã hội theo các nhóm ngành năm 2000 – 2007 41 Bảng 8: Cơ cấu việc làm mới tạo ra cho lao động trẻ các năm 2005 – 2007 42 Biểu đồ 6: Cơ cấu việc làm phân theo thành phần kinh tế năm 2007 43 Biểu đồ 7: Tỷ lệ lao động trẻ làm công ăn lương chia theo vùng năm 2006 và 2007 45 Bảng 9: Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trẻ và lao động lớn tuổi khu vực thành thị 46 Biểu đồ 8: Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trẻ ở khu vực nông thôn giai đoạn 1996 – 2007 48 Biểu đồ 9: Tỷ lệ đào tạo nghề ngắn hạn và dài hạn 52 Bảng 10: Nguồn vốn bổ sung cho quỹ 120 từ 2001 – 2008. 57 Bảng 11: Số việc làm tạo ra từ Quỹ 120 theo các giai đoạn 57 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ILO : Tổ chức lao động quốc tế KV : Khu vực NGO : Tổ chức phi Chính phủ ODA : Vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài Quỹ 120 : Quỹ quốc gia về việc làm THCS : Trung học cơ sở THPT : Trung học phổ thông MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của vấn đề Việt Nam là một đất nước đông dân có nguồn lao động dồi dào, đặc biệt nhóm dân số trẻ từ 15 – 34 tuổi chiếm tỷ lệ khá cao (khoảng 45,47% tổng dân số). Trong các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, lực lượng này luôn được coi là “lực lượng rường cột, nắm giữ vận mệnh của nước nhà”. Vì thế, quá trình trưởng thành của nhóm dân số trẻ là một trong những vấn đề được xã hội quan tâm nhiều nhất. Mối quan tâm này càng trở nên có ý nghĩa hơn trong giai đoạn có những biến đổi to lớn về kinh tế - xã hội như những gì đang diễn ra ở Việt Nam. Mức sống trong xã hội được nâng cao và tỷ lệ theo học đại học và sau đại học gia tăng khiến cho lớp trẻ ngày hôm nay không nhất thiết phải đi làm ngay sau khi học xong tiểu học hay trung học cơ sở như các thế hệ cha anh họ trước đây. Biến đổi xã hội ở Việt Nam gây nên những sức ép tâm lý trong đời sống của giới trẻ, hiện đang lớn lên giữa các giá trị truyền thống và hiện đại. Sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường trong xã hội Việt Nam, song song với tác động của quá trình toàn cầu hóa, đã và đang làm xói mòn những giá trị truyền thống. Thời gian đi học dài hơn, kết hôn muộn hơn và những đòi hỏi chuyên môn ngày một cao hơn là những điểm khác biệt trong đời sống của lớp người trẻ hôm nay so với thế hệ cha anh họ trước đây.Những khoảng cách và khác biệt thế hệ có thể dẫn đến những xung đột trong sinh hoạt thường ngày, trong nội bộ từng gia đình, cộng đồng và ngay tại nơi làm việc. Cái khó của các chính sách là làm sao đảm bảo được công ăn việc làm tốt và hữu ích cho lực lượng lao động trẻ. Trong mối liên kết giữa quá độ thị trường, toàn cầu hoá và biến đổi xã hội, giải quyết được các vấn đề nói trên và nắm bắt được bức xúc việc làm của lực lượng lao động trẻ là vô cùng quan trọng, không chỉ về lâu dài cho đất nước mà còn đối với ngay chính thế hệ trẻ hôm nay. Mặc dù nhiều vấn đề khác cũng rất quan trọng như tình dục, tàn tật, tiêm chích ma túy, mại dâm, HIV, di dân và trẻ lang thang… song mục tiêu giảm thất nghiệp, tạo việc làm, tăng khả năng tìm việc của lao động trẻ là những ưu tiên hàng đầu hiện nay đối với sự phát triển của đất nước. Nhận thức được vấn đề đó và bản thân cũng là một trong những người sắp bước vào lực lượng lao động trẻ trong thời gian tới, tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Một số giải pháp giải quyết việc làm cho lực lượng lao động trẻ”. 2. Mục đích nghiên cứu Đưa ra cái nhìn tổng quan về các khái niệm có liên quan đến lao động và việc làm, đặc biệt là lao động trẻ. Phân tích và đánh giá thực trạng một số giải pháp giải quyết việc làm cho lực lượng lao động trẻ hiện nay, tìm ra những vấn đề chưa được giải quyết thoả đáng từ đó có hướng đề xuất để nâng cao hiệu quả, hoàn thiện các giải pháp đó. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: việc làm cho lực lượng lao động trẻ. Phạm vi nghiên cứu: đề tài nghiên cứu trên phạm vi cả nước, đối với tất cả các thành phần kinh tế, các ngành nghề, chủ yếu trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay. 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: Phương pháp duy vật biện chứng Phương pháp thống kê và mô tả. Phương pháp phân tích tổng hợp và so sánh số liệu 5. Kết cấu của chuyên đề Ngoài các phần phụ lục, danh mục bảng biểu, các từ viết tắt, … chuyên đề gồm ba phần chính được chia làm ba chương: Chương I: Sự cần thiết phải giải quyết việc làm cho lực lượng lao động trẻ Chương II: Đánh giá một số giải pháp giải quyết việc làm cho lực lượng lao động trẻ Chương III: Hoàn thiện các giải pháp giải quyết việc làm cho lực lượng lao động trẻ CHUƠNG I: SỰ CẦN THIẾT PHẢI GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG TRẺ I. Vai trò của lực lượng lao động trẻ đối với sự nghiệp phát triển đất nước 1. Một số quan niệm về lực lượng lao động trẻ Nguồn lao động Ở một không gian và thời gian xác định, xét về khả năng có thể sử dụng theo Bộ Luật lao động thì nguồn nhân lực có ý nghĩa tương đương với Nguồn lao động: - Theo từ điển thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Liên Xô (Moscow 1997 – Bản Tiếng Nga) thì nguồn lao động là toàn bộ những người lao động dưới dạng tích cực (đang tham gia lao động) và tiềm tang (có khả năng lao động nhưng chưa tham gia lao động); - Theo từ điển thuật ngữ lao động Pháp (1977 – 1985 – Bản Tiếng Pháp) thì nguồn lao động không gồm những người lao động có khả năng lao động nhưng không có nhu cầu làm việc.Theo quan điểm này, phạm vi dân số được tính vào nguồn lao động theo nghĩa hẹp hơn so với quan điểm nêu trong từ điển thuật ngữ về lao động của Liên Xô cũ. - Theo giáo trình kinh tế lao động của trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nôị thì nguồn lao động là toàn bộ dân số trong độ tuổi lao động trừ những người trong độ tuổi này hoàn toàn mất khả năng lao động. Với quan điểm này, nguồn lao động sẽ không bao gồm dân số ngoài tuổi lao động đang thực tế làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân. Mặc dù đều giới hạn độ tuổi lao động theo luật định của mỗi nước nhưng thuật ngữ nguồn lao động và dân số trong đột tuổi lao động được phân biệt với nhau bởi quy mô: quy mô dân số trong độ tuổi lao động lớn hơn quy mô nguồn lao động do nguồn lao động chỉ bao gồm những người có khả năng lao động trong khi dân số trong độ tuổi lao động còn bao gồm bộ phận dân số trong độ tuổi lao động nhưng không có khả năng lao động như tàn tật, mất sực lao động bẩm sinh hoặc do các nguyên nhân khác như: chiến tranh, tai nạn giao thông, tai nạn lao động… Lực lượng lao động Theo quan niệm của Tổ chức lao động Quốc tế ( ILO ) thì lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp. ( Dân số đang làm việc trong tuổi + người thất nghiệp) Trong những chính sách hướng dẫn nghiệp vụ chỉ tiêu xã hội ở Việt Nam của Tổng Cục Thống Kê quy định Lực lượng lao động là những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm hoặc không có việc làm ( biểu thị dân số hoạt động kinh tế ) Các quan niệm nêu trên chỉ làm rõ phần nào về mặt định tính hoặc định lượng của chỉ tiêu lực lượng lao động, không thể dùng làm căn cứ để đánh giá thống kê về quy mô lực lượng lao động bởi trong đó còn có một số yếu tố chưa xác định Khái niệm về lực lượng lao động được sử dụng trong các cuộc điều tra lao động – việc làm hằng năm từ 1996 đến nay đã nêu ra : Lực lượng lao động ( tương đương với khái niệm dân số hoạt động kinh tế ) gồm toàn bộ những người từ đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc tìm việc làm nhưng có nhu cầu làm việc Ngoài ra, khái niệm lực lượng lao động trong độ tuổi lao động cũng được sử dụng một cách phổ biến. Lực lượng này còn được gọi là dân số hoạt động kinh tế trong độ tuổi lao động, bao gồm những người trong độ tuổi lao động ( nam từ đủ 15 tuổi đến hết tuổi 60, nữ đủ 15 tuổi đến hết 55 tuổi ), đang có việc làm hoặc không có việc làm ( thất nghiệp) nhưng có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc. Hai khái niệm này cơ bản thống nhất với khái niệm của TLO và quy định hiện hành của Tổng cục Thống kê, và chỉ cụ thể hơn nhóm thứ hai của lực lượng lao động là những người thất nghiệp, chứ không nói chung chung là không có việc làm ( không có việc làm = thất nghiệp + nội trợ, sinh viên…). Nó được sử dụng làm căn cứ khi tính toán thống kê cho lưc lượng lao động của Việt Nam ngày nay. Phân biệt lực lượng lao động và nguồn lao động: Lực lượng lao động tuy là một bộ phận của nguồn lao động nhưng không đồng nhất với nguồn lao động ở chỗ, lực lượng lao động không bao gồm dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng không tham gia hoạt động kinh tế như: đang đi học ( học sinh, sinh viên ), đang làm việc nội trợ cho gia đình mình hoặc chưa có nhu cầu làm việc. Ngoài các đặc trưng về nhân khẩu, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, lực lượng lao động còn bao hàm các đặc trưng về trình độ, cơ cấu kỹ năng, nghề nghiệp, cấu trúc đào tạo, tác phong kỷ luật lao động, đạo đực làm nghề, sự hiểu biết về pháp luật, khả năng đáp ứng được yêu cầu phát triển theo hướng Công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước theo định hướng XHCN, khả năng hội nhập với thị trường lao động trong khu vực và trên thế giới. Sơ đồ cơ cấu lao động Dân số Có việc làm Thất nghiệp Trong độ tuổi lao động Ngoài độ tuổi lao động Hoạt động kinh tế Không hoạt động kinh tế Lực lượng lao động trẻ Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VIII đã khẳng định: “ Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không… phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên… Nghị quyết đại hồi đoàn: Bổ sung thêm, nghị quyết mới hơn của đại hội X Trong sự phát triển của xã hội, thanh niên nói riêng và bộ phận dân số trẻ nói chung được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau: dưới góc độ tâm lý học, sinh lý học, triết học, kinh tế học, xã hội học, dân số học và các ngành khoa học khác. Mỗi một ngành khoa học nghiên cứu khoa học về bộ phận dân số này đều có cách tiếp cận riêng, tùy thuộc nội dung và góc độ nghiên cứu. Để có một quan niệm đúng về lứa tuổi này, cần nghiên cứu tổng hợp trên nhiều khía cạnh, có tính đến những quy luật bên trong sự phát triển Về thể chất và tinh thần. Bộ phận dân số này được tính từ đủ 15 tuổi đến 34 tuổi. Ở lứa tuổi này, con người phát triển nhanh về thể chất, sinh lý, tâm lý, đó là tuổi trưởng thành về đạo đức, nhân cách và văn hóa, là tuổi khẳng định cá tính sáng tạo, nhiều ý tưởng, ước mơ, hoài bão khát vọng và tràn đầy nhiệt huyết. Bước ngoặt trong lứa tuổi này được đánh dầu bằng những mốc lớn: tốt nghiệp phổ thông, đại học, cao đẳng hoặc một trường dạy nghề bước vào cuộc đời lao động, xây dựng tình bạn tình yêu, lập gia đình, đón nhận nghĩa vụ xã hội trong tư thế và tư cách công dân của mình. Bộ phận dân số trẻ của một đất nước, một dân tộc sống và hành động như thế nào thì đó là tấm gương phản chiếu bộ mặt tinh thần và sức sống của dân tộc, đất nước đó. Tóm lại, có thể hiểu lực lượng lao động trẻ là một nhóm người thuộc lực lượng lao động, với độ tuổi nằm trong giới hạn từ 15 đến 34 tuổi được gắn với mọi giai cấp dân tộc, mọi tầng lớp kinh tế xã hội và tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội và đặc điểm của từng quốc gia dân tộc. Đây là lực lượng lao động có lợi thế về sự phát triển mạnh mẽ của thể chất tinh thần, trí tuệ và phẩm chất nhân cách của một công dân hình thành thế giới quan và lý tưởng đạo đực cuộc sống, là những người nhanh nhạy với cái mới dễ dàng tiếp thu và chấp nhận cái mới cũng chính là đối tượng bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi những chuyển biến của sự phát triển kinh tế xã hội. 2. Các bộ phận cấu thành (phân loại) Có nhiều cách để phân loại lực lượng lao động trẻ thành các nhóm khác nhau. Sau đây là một vài cách phân loại chủ yếu : - Theo giới: Lực lượng lao động trẻ gồm hai bộ phận nam giới và nữ giới - Theo khu vực: Gồm hai bộ phận là lực lượng lao động trẻ ở thành thị và lực lượng lao động trẻ ở nông thôn - Theo vùng lãnh thổ Nước ta: Có 8 vùng lãnh thổ chính. Tương ứng với các lực lượng lao động trẻ ở mỗi vùng đó + Đồng bằng sông Hồng + Đông Bắc + Tây Bắc + Bắc Trung Bộ + Duyên hải Nam Trung Bộ + Tây Nguyên + Đông Nam Bộ + Đồng bằng sông Cửu Long - Theo tuổi: + Từ 15 đến dưới 18 tuổi: Lực lượng lao động trẻ chưa thành niên. + Từ đủ 18 đến 34 tuổi: Lực lượng lao động trẻ thành niên Theo trình độ chuyên môn, kỹ thuật, gồm 3 nhóm: + Lực lượng lao động trẻ đã qua đào tạo. + Lao động trẻ sau khi tốt nghiệp phổ thông không tiếp tục học trung học chuyên nghiệp hoặc là cao đẳng , đại học. + Lao động trẻ thất nghiệp, mất việc làm. Trong đó, cách làm phân loại theo giới và theo khu vực được sử dụng rộng rãi và phổ biến nhất 3. Vai trò của lực lượng lao động trẻ đối với sự nghiệp phát triển đất nước Ngày nay, hầu hết các nhà khoa học đề thừa nhận: để tăng trưởng kinh tế nói chung đều phải đảm bảo bốn nhân tố cơ bản: nguồn lao động, tài nguyên thiên nhiên, vốn và khoa học công nghệ. Song lý luận và thực tiễn đều chứng minh rằng, nguồn lao động là nhân tố tái tạo, sử dụng các nguồn lực còn lại. Lao động là một yếu tố đầu vào của quá trình kinh tế. Chi phí lao động. mức tiền công, số người có việc làm biểu hiện sự cấu thành của nguồn lao động trong hàng hóa và dịch vụ, nó trở thành nhân tố phản ánh sự tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, là bộ phận của dân số, nguồn lao động đã tham gia và tiêu dùng các sản phẩm và dịch vụ xã hội. Như vậy với tư cách là nguồn lực, lao động trực tiếp tạo ra cung của nền kinh tế, với tư cách là bộ phận dân số thực hiện quá trình tiêu dùng, người lao động trở thành nhân tố tạo ra cầu của nền kinh tế. Đây cũng chính la sự khác biệt cơ bản của người lao động và các nguồn lực khác, người lao động vừa tạo cung, vừa tạo cầu cho nền kinh tế, vừa trực tiếp điều tiết quan hệ đó gắn với các thể chế xã hội do con người tạo nên. Người lao động vừa có nhu cầu tự thân để phát triển với yêu cầu ngày càng cao và phong phú, vừa là chủ thể sáng tạo ra công nghệ, điều chỉnh cơ bản kinh tế để thỏa mãn các nhu cầu đó. Có thể nói con người là nhân tố có vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế Đặt trong bối cảnh hội nhập của Việt Nam, các quan hệ đối ngoại được tiếp tục mở rộng, vị thế quốc tế của nước ta không ngừng được nâng cao. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế là giữ vững định hướng XHCN, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, Xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hội nhập kinh tế quốc tế là công việc của toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Việt nam là một đất nước có dân số trẻ, khoảng % trong tổng số… triệu dân dưới 35 tuổi. Một đất nước có nguồn lực trẻ là một lợi thế quan trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững của một quốc gia. Vì thế, lớp người trẻ được đặt vào vị trí trung tâm, là động lực chính của phát triển. Mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam đến năm 2010 của Chính phủ đã nêu rõ: “ Giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo thế hệ thanh niên Việt Nam phát triển toàn diện, trở thành nguồn nhân lực trẻ có chất lượng cao và có vai trò xung kích sáng rạo của thanh niên trong sự nghiệp Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Lực lượng lao động trẻ ở Việt Nam không chỉ là lực lượng lao động chính , mà còn là nhân tố quyết định cho xu hướng phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn hội nhập ngày nay. Vì thế, hiện đại hóa nền kinh tế phải gắn liền với việc hiện đại hóa nguồn nhân lực trẻ để chuẩn bị tốt cho quá trình hội nhập. II. Một số vấn đề về việc làm 1. Những đặc điểm chung Khái niệm việc làm. Có ý kiến cho rằng, việc làm là một phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất hoặc những phương tiện để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần của xã hội. Như vậy, theo quan điểm này, khi và chỉ khi có sự phù hợp về số lượng của hai yếu tố “sức lao động” và “ tư liệu sản xuất” thì ở đó có việc làm. Với cách hiểu như vậy thì khái niệm việc làm chưa thật toàn diện, đó chỉ là điều kiện cần, còn điều kiện đủ chính là “ môi trường ( điều kiện ) lao động”. Nếu điều kiện lao động không đảm bảo thì quá trình lao động cũng không thể diễn ra được. Vì vậy, trong điều 13 Bộ luật lao động của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã nêu rõ: “Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Các hoạt động được xác định là việc làm bao gồm: làm các công việc được trả công dưới dạng tiền hoặc là hiện vật, công việc tự làm thu lợi nhuận cho bản thân hoặc tạo thu nhập cho gia đình mình nhưng không được trả công cho công việc đó. Việc làm tồn tại dưới ba hình thức chính: Một là, làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật hoặc để đổi công Hai là các công việc tự làm để thu lợi nhuận cho bản thân. - Ba là, làm các công việc nhằm tạo thu nhập ( bằng tiền hoặc bằng hiện vật) cho gia đình mình nhưng không hưởng tiền lương (tiền công). Bao gồm sản xuất nông nghiệp, hoạt động kinh tế phát triển nông nghiệp do chủ hộ hoặc một thành viên khác trong gia đình có quyền sử dụng, sở hữu hoặc quản lý. Người có việc làm. Người có việc làm là người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân mà trong tuần lễ liền kề trước điểm điều tra (gọi là tuần lễ tham khảo) có thời gian làm việc không ít hơn mức chuẩn quy định cho người được coi là có việc làm. Ở nhiều nước, mức chuẩn này là 11 giờ, ở Việt Nam mức chuẩn được sử dụng nhiều trong lao động, việc làm từ năm 1996 đến nay là 8 giờ. Riêng với những người trogn tuần lễ tham khảo không làm viêc vì lý do bất khả kháng hoặc do thai sản, nghỉ ốm, nghỉ phép, nghỉ hẹ, hoặc là đi học có hưởng lương, nhưng trước đó họ đã có một công việc nào đó với thời gian thực tế làm việc không ít hơn mức chuẩn quy định cho người được coi là có việc làm và họ sẽ tiếp tục trở lại làm việc bình thường sau thời gian tạm nghỉ việc, vẫn được tính là người có việc làm. Căn cứ vào thời gian thực tế làm việc, chế độ làm việc và nhu cầu làm thêm của người được xác định là có việc làm trong tuần lễ trước điều tra, người có việc làm lại được chia thành hai nhóm là người đủ việc làm và người thiếu việc làm. Người đủ việc làm: Là người có số giờ làm việc trong tuần lễ tham khảo lớn hơn hoặc bằng 36 giờ; hoặc những người có số giờ làm việc bé hơn 36 giờ nhưng có nhu cầu làm thêm; hoặc những người có số giờ làm việc bé hơn 36 giờ nhưng bằng hoặc hơn giờ chế độ quy định đối với người làm các công việc nặng nhọc, độc hại Người thiếu làm việc: Là người có số giờ làm việc trong tuần lễ tham khảo bé hơn 36 giờ hoặc ít hơn chế độ quy định đối với người làm những công việc nặng nhọc, độc hai, có nhu cầu làm thêm giờ hoặc sẵn sàng làm khi có việc Người thất nghiệp. Người thất nghiệp là người có đủ 15 tuổi trở lên có khả năng làm việc, đang không có việc làm nhưng có nhu cầu tìm việc và sẵn sàng làm việc Căn cứ vào thời gian thất nghiệp, người thất nghiệp gồm: Thất nghiệp dài hạn: là người thất nghiệp liên tục từ 12 tháng trở lên tính từ ngày đăng ký thất nghiệp hay từ thời điểm điều tra trở về trước. Thất nghiệp ngắn hạn: là người thất nghiệp dưới 12 tháng tính từ ngày đăng ký thất nghiệp hoặc từ thời điểm điều tra trở về trước. Căn cứ theo cơ cấu lao động thị trường ngày nay, thất nghiệp gồm: Thất nghiệp tạm thời: phát sinh do sự di chuyển không ngừng của con người giữa các vùng, công việc hoặc giai đoạn khác nhau của cuộc sống. Thậm chí trong một nền kinh tế đầy đủ việc làm, vẫn luôn luôn có một số chuyển động nào đó do tồn tại một số người đi tìm việc làm khi tốt nghiệp các trường, hoặc chuyển đến một nơi sinh sống mới, phụ nữ có thể quay lại lực lượng lao động sau khi có con, những công nhân thất nghiệp tạm thời thường chuyển công việc hoặc tìm những công việc tốt hơn nên người ta thường gọi họ là những người thất nghiệp tự ng… Thất nghiệp có tính cơ cấu: xảy ra khi có sự mất cân đối giữa cung và cầu lao động, nguyên nhân có thể vì mức cầu đối với một loại lao động phát triển lên khi mức cầu đối với một loại khác giảm đi. Trong khi đó mức cung không thể điều chỉnh một cách nhanh chóng. Trong thực tế vẫn có xảy ra những sự mất cân đối trong các ngành nghề hoặc trong các vùng do một số lĩnh vực phát triển so với một số lĩnh vực khác và do quá trình đổi mới công nghệ. Nếu tiền lương rất linh hoạt sẽ hạn chế được sự mất cân đối trên các thị trường lao động: tiền lương giảm khi cung tăng, tiền lương tăng khi cầu cao. Thất nghiệp theo chu kỳ: là tình trạnh thất nghiệp xảy ra do rơi vào đúng thời điểm suy thoái cua chu kỳ kinh tế hoặc ở giai đoạn suy thoái của một chu kỳ sản phẩm. Cơ cấu lao động chia theo tình trạng việc làm Thất nghiệp ngắn hạn Lực lượng lao động Lao động có việc làm Lao động thất nghiệp Thiếu việclàm Đủ việc làm Thất nghiệp dài hạn Thất nghiệp được đo lường thông qua chỉ tiêu tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ này được xác định bằng tỷ số phần trăm giữa số người thất nghiệp và tổng lực lượng lao động. UR = U/ LF (%) U: Số người thất nghiệp LF: Tổng số lực lượng lao động UR: Tỷ lệ thất nghiệp Tuy nhiên tỷ lệ này vẫn chưa phản ánh hết tình trạn sử dụng lao động ở các nước đang phát triển. Bởi ở các nước này còn tồn tại một hình thức thất nghiệp phổ biến mà người ta gọi là THẤT NGHIỆP TRÁ HÌNH Khác với thất nghiệp công khai (thất nghiệp hữu hình) theo đúng định nghĩa là một chỉ tiêu có thể xác định, đo đếm, tính toán được, thất nghiệp trá hình xuất hiện phổ biến trên thị trường lao động ở các nước đang phát triển với nhiều hình thức nhưng tồn tại ở hai dạng hình thức chính đó là: - Bán thất nghiệp: là những người có việc làm nhưng làm không đủ cho toàn phần thời gian. Ở Việt Nam, bộ phận này chủ yếu là nông dân, được đo lường thông qua chỉ tiêu tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn và tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn. Tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn = = (Theo chế độ = Số người đang làm * số giờ định mức Theo quy chuẩn = Số lượng thực ) - Thất nghiệp vô hình: là những người có việc làm và làm hết toàn phần thời gian lao động, tuy nhiên làm việc với năng suất và hiệu quả thấp Hiện tượng này thường xuất hiện trong các bộ phận hành chính của các cơ quan nhà nước. Trong bài viết sẽ nghiên cứu chủ yếu tỷ lệ thất nghiệp và thất nghiệp trá hình Những người không thuộc lực lượng lao động Những người không thuộc lực lượng lao động tương đương với nhóm dân số không hoạt động kinh tế bao gồm toàn bộ những người từ đủ 15 tuổi trở lên không thuộc bộ phận có việc làm và thất nghiệp Những người không thuộc lực lượng lao động trong độ tuổi lao động hay dân số không hoạt động kinh tế trong độ tuổi lao động gồm toàn bộ số người ( trong đó: nam từ đủ 15 tuổi trở lên đến hết tuổi 60; nữ đủ 15 tuổi trở lên đến hết 55 tuổi ) không thuộc bộ phận người có việc làm và người thất nghiệp trong độ tuổi lao động. Những người không hoạt động kinh tế chủ yếu là do: Đang đi học Đang làm công việc nội trợ cho gia đình mình Già cả , ốm đau kéo dài. Tàn tật, không có khả năng lao động Lý do khác. Sơ đồ phân loại dân số và Nguồn lao động Đủ việc làm Dân số trong độ tuổi lao động Dân số ngoài độ tuổi LĐ Dân số hoạt động kinh tế Dân số không hoạt động kinh tế Có việc làm Thất nghiệp Người mất khả năng lao động Người có khả năng lao động Thiếu việc làm Dài hạn Ngắn hạn Tổng dân số Nguồn lao động 2. Đặc điểm về việc làm của lực lượng lao động trẻ Vấn đề việc làm vốn là một vấn đề phực tạp, đặc biệt là vấn đề việc làm cho lực lượng lao động trẻ, bởi lực lượng lao động trẻ có những đặc điểm riêng biệt đặc thù cho lứa tuổi lao động trẻ. Trong những năm vừa qua (2001 – 2008 ), bộ phận dân số trẻ, mà đặc biệt là bộ phận thanh niên tham gia hoạt động kinh tế thường xuyên tăng không đáng kể, nguyên nhân là do lượng người được đi học ngày càng tăng, phần lớn trong số đó lao động trong các hộ gia đình không hưởng lương ( chiếm 55,3 % tổng số lực lượng lao động trẻ) ; 17,7 % lao động trẻ làm việc hưởng lương khu vực ngoài Nhà nước, chỉ có 9% số lao động trẻ làm việc trong khu vực Nhà nước và 1% vủa bộ phận này là chủ doanh nghiệp tư nhân. Số lao động trẻ được đào tạo nghề chiếm tỷ lệ nhỏ (khoảng 25%). Hàng năm có khoảng 120.000 số học sing tốt nghiệp THPT chưa có điều kiện học tiếp nâng cao lên đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề ở lại các địa phương. Đây chính là lực lượng lao động cơ bản và có nhu cầu việc làm. Thu nhập của người lao động chỉ xoay quanh 350 đến 400 m2 đất (đây là diện tích đất canh tác bình quân của một lao động trên một năm). Trong khi đó, thời gian và sức lao động dành cho sản xuất nông nghiệp không nhiều dẫn tới tình trạng dư thừa lao động ở địa phương , nhất là lực lượng thanh niên nông thôn. Lực lượng thanh niên nông thôn rất mong muốn có việc làm và thu nhập, hơn thế nữa là việc làm ổn định có thu nhập cao ngay tại địa phương. Nhưng phần lớn việc làm ổn định có thu nhập cao tại địa phương là không nhiều nên số lao động trẻ đi tìm việc làm ở các địa phương khác là khá đông. Mặc dù là một bộ phận lao động dồi dào nhưng bộ phận lao động trẻ lại được đánh giá là chất lượng chưa cao, tay nghề, trình độ chuyên môn chưa đáp ứng được yêu cầu của các nhà tuyển dụng. Theo kết quả của một cuộc điều tra mới đây đối với 10.000 lao động trẻ ( đã tốt nghiệp Đại học, Cao đẳng hoặc các trường trung học chuyên nghiệp ) tham gia tuyển dụng trong vài năm gần đây ( 2001 – 2007 ), có độ “ chênh” khá lớn giữa yêu cầu của nhà tuyển dụng với khả năng đáp ứng của người lao động. Có thể tổng kết lại hiện tượng thất nghiệp hiện nay của lực lượng lao động trẻ là do các nguyên nhân sau: Một là, không có việc làm vì thiếu kiến thức xã hội: Thông tin từ các buổi phỏng vấn tuyển dụng cho thấy; 80% ứng viên đi phỏng vấn sau khi tốt nghiệp đã từng lang thang tìm việc bằng cách rải hồ sơ, chờ may mắn chứ không có kế hoạch dài hạn, cụ thể nào để tìm việc làm. Đa số ứng viên còn không tìm hiểu nhiều về công ty mà mình tham gia thi tuyển. Hai là, các nhà tuyển dụng không tuyển những người thiếu tự tin. Tâm lý chung của các ứng viên đều coi trọng bằng cấp và coi thường các yếu tố khác, họ thường có tư tưởng ngắn hạn, chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt, như được trả lương bao nhiêu, quyền lợi là gì mà ít hình dung mình sẽ làm gì, đóng góp ra sao, công việc có phù hợp với năng lực chuyên môn hay không. Thực tế thì những đối tượng này có kiến thức nhưng đó chỉ là những kiến thức sách vở khi đem áp dụng vào thực tế cần thời gian, thử thách thậm chí cần phải đào tạo lại. Tâm lý “Đứng núi này trông núi nọ” là hệ quả của sự thiếu ổn định, thiếu tự tin của lực lượng lao động trẻ. Lao động trẻ thường muốn mọi việc suôn sẻ ngay, những yêu sách đưa ra phải được đáp ứng, nếu không được thoả mãn thì rất dễ nảy sinh tâm lý bất mãn, tiêu cực… Vì thế, bản chất của sự thay đổi công việc liên tiếp của lao động trẻ là quá trình đi tìm sự hợp lý giữa bằng cấp và đòi hỏi công việc trên thực tế. Thêm vào đó, lao động trẻ thường nôn nóng muốn khẳng định vị trí công việc và đồng lương nên thường “vỡ mộng” trong thời gian ngắn, tạo ra tâm lý muốn thay đổi vị trí công việc và nó đã tạo ra những “bước nhảy cóc” liên tiếp. Và mặc dù được đánh giá là có chất lượng lao động trẻ cao gấp 4 lần Thái Lan (theo tin đã đưa của Hãng AFP về nhận định chung của một số nhà lãnh đạo kinh tế đang làm ăn tại Việt Nam), nhưng nếu trình độ tay nghề, ý thức lao động về việc chấp hành nội quy, kỷ luật lao động… thì trong thời gian tới, lao động trẻ sẽ không còn là một lợi thế của Việt Nam nữa. Vì thế, cần phải có những biện pháp mới giúp hạn chế những nhược điểm trên của lực lượng lao động trẻ để có thể tiếp tục là “niềm hy vọng tốt nhất giúp Việt Nam thoát khỏi cuộc khủng hoàng kinh tế toàn cầu và là điểm tựa cho sự tăng trưởng trong tương lai”(Theo hãng tin AFP). 3. Sự cần thiết tạo việc làm cho lao động trẻ Việc làm và nghề nghiệp là nguyện vọng chính đáng và luôn là mối quan tâm hàng đầu của thanh niên. Trong những năm qua, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách và giải pháp giải quyết việc làm cho đối tượng này. Điều này một mặt phản ánh bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa do dân, vì dân, mặt khác nó còn bắt nguồn từ những nguyên nhân sau: Xu thế gia tăng cầu việc làm ở Việt Nam Sự gia tăng cầu việc làm ở Việt Nam chủ yếu do hai nguyên nhân chính: sự bùng nổ dân số và thất nghiệp gia tăng do khủng hoảng kinh tế. - Bùng nổ dân số: Sự bùng nổ dân số những năm 80 của thế kỷ trước dẫn đến những năm qua số người bước vào độ tuổi lao động ở Việt Nam tăng mạnh, trong khi đó số người ra khỏi tuổi lao động lại không nhiều dẫn đến sự gia tăng cao lực lượng lao động trong nền kinh tế. Việt Nam là một nước có quy mô dân số lớn, năm 2008, dân số nước ta là 86,3 triệu người.Trong đó, dân số trong độ tuổi lao động chiếm 92,27 %, đặc biệt dân số trong độ tuổi từ 15 – 34 tuổi là 32.411.751 người, chiếm 37,55 % trong tổng dân số và 40,7 % so với dân số trong độ tuổi lao động. Bên cạnh đó, Việt Nam có cơ cấu dân số trẻ với tỷ lệ dân số dưới 15 tuổi vào khoảng 21 % (số liệu thống kê năm 2008). Chính vì thế mà mức tăng dân số hàng năm ở Việt Nam vẫn còn ở mức cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong những năm tới, dự báo dân số Việt Nam sẽ tiếp tục tăng cao và do vậy. bộ phận dân số trong tuổi lao động, đặc biệt là lao động trẻ sẽ vẫn tăng cao. Điều này sẽ tạo ra áp lực lớn cho vấn đề giải quyết việc làm. Theo dự báo đến năm 2010, Việt Nam sẽ có khoảng 88,5 triệu người; đến năm 2019 là 95 triệu người và năm 2025 là 100 triệu người. Gia tăng dân số đồng nghĩa với việc gia tăng số người trong độ tuổi lao động và gia tăng lực lượng lao động. Cũng theo dự báo, đến năm 2010 sẽ có khoảng 57,08 triệu người trong độ tuổi lao động, như vậy bình quân mỗi năm tăng khoảng 1 triệu người, năm 2015 là 62,909 triệu người, bình quân mỗi năm tăng 1,16 triệu người. Bảng 1: Dự báo tăng dân số trong tuổi lao động đến năm 2015 Năm Dân số trong tuổi lao động (1000 người) % so với tổng dân số (%) Mức tăng bình quân/ năm (1000 người) Tốc độ tăng bình quân/năm (%) 2005 51580 62,1 1282 2,7 Dự báo 2010 57080 64,7 1100 2,1 Dự báo 2015 62909 66,2 1165,8 2,12 Nguồn: Số liệu thống kê Việt Nam các năm. Có thể thấy dân số trong độ tuổi lao động tiếp tục tăng nhanh về số lượng, mức gia tăng thời kỳ 2001 – 2005 là gần 7 triệu người, tốc độ tăng bình quân là 2,7%/ năm; thời kỳ 2006 – 2010 là 5,5 triệu người, bình quân là 1,1 triệu người/ năm. Thời kỳ 2006 – 2008, số người bước vào tuổi lao động là 5,478 triệu người (bình quân 1,826 triệu người/năm); dự báo 2009 – 2015, số người bước vào tuổi lao động là 10,722 triệu người (bình quân 1,787 triệu người/năm). Do vậy, mức gia tăng của dân số trong giai đoạn này vẫn còn rất cao, cộng với số chưa được đào tạo nghề, chưa có việc làm và thiếu việc làm đầu kỳ chuyển sang rất lớn nên giải quyết việc làm tiếp tục trở thành áp lực lớn trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tiếp theo của Việt Nam. - Thất nghiệp gia tăng do khủng hoảng kinh tế: Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới bắt đầu ở Mỹ vào khoảng tháng 12 năm 2007 và lan rộng ra toàn thế giới tạo nên một “bức tranh tài chính xám xịt” từ năm 2008 và dự báo sẽ còn kéo dài trong ít nhất là 2 – 3 năm tới. Những hậu quả kéo theo của cuộc khủng hoảng này đã bắt đầu có những biểu hiện ngày càng rõ rệt và nghiêm trọng. Một trong những vấn đề đó chính là giải quyết việc làm. Nền kinh tế thế giới đang đối mặt với tỷ lệ thất nghiệp tăng cao nhất trong vòng vài thập kỷ. Tính đến tháng 2 năm 2009, tỷ lệ thất nghiệp Mỹ tăng lên đến 8,1%, mức cao nhất trong 25 năm trở lại đây. Tại Việt Nam, tỷ lệ thất nghiệp tính đến thời điểm này là 6,23%, trong đó, số lao động thất nghiệp nằm trong độ tuổi lao động trẻ là 5,20%. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) cho biết tỷ lệ thất nghiệp trên thế giới sẽ tăng đến mức 7,1% vào cuối năm 2009, so với 6% năm 2008 và 5,7% năm 2007. Trong đó, các quốc gia đang phát triển chịu nhiều thiệt hại nhất do tình trạng có them nhiều người mất việc làm. Việt Nam cũng không nằm ngoài số đó. Đối với lực lượng lao động trẻ, vấn đề này lại càng trở nên nghiêm trọng bởi lực lượng này hầu hết thiếu kinh nghiệm, có một bộ phận lớn nằm trong diện mới được nhận vào làm việc, hoặc đang trong quá trình đào tạo lại, học việc, thu thập kinh nghiệm thực tế… nên rất dễ bị cắt giảm khi các nhà sản xuất phải thu hẹp quy mô hoạt động của các cơ sở kinh doanh. Mục tiêu thiên niên kỷ Tháng 9 năm 2000, thay mặt Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chủ tịch Trần Đức Lương đã ký cam kết Quốc tế về việc Việt Nam sẽ thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, trong đó có mục tiêu giải quyết việc làm. Theo đó, Việt Nam đã cam kết sẽ thực hiện các mục tiêu sau trong giai đoạn 2006 – 2010: Giải quyết thêm việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao động một năm, đạt tổng số trong 5 năm 2006 – 2010 là 8 triệu lao động. Nâng tỷ lệ lao động nữ trong tổng số việc làm mới 50% vào năm 2010. Nâng tỷ lệ qua đào tạo lên 40% vào năm 2010. Giảm tỷ lệ lao động chưa có việc làm ở thành thị xuống dưới 5% trong tổng số lao động trong độ tuổi lao động vào năm 2010. Trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam rất coi trọng đến việc giải quyết việc làm. Chính phủ đã xây dựng Chiến lược việc làm giai đoạn 2000 – 2010, xây dựng Chương trình Mục tiêu Quốc gia Xóa đói Giảm nghèo và Giải quyết việc làm giai đoạn 2001 – 2005 và Chương trình Mục tiêu Quốc gia Việc làm giai đoạn 2006 – 2010; và các Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp cũng như người lao động trong giai đoạn. Theo Chiến lược việc làm thời kỳ 2000 – 2010, Chính phủ đã xác định: Tạo việc làm là ưu tiên số một trong các chính sách kinh tế - xã hội. Giải quyết việc làm là nhân tố quyết định để phát huy yếu tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, lành mạnh xã hội, đáp ứng yêu cầu bức xúc của nhân dân. Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động – xã hội để chuyển dịch cơ cấu kinh tế kết hợp với tăng trưởng việc làm, không ngừng nâng cao chất lượng việc làm . Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển rộng rãi các cơ sở sản xuất kinh doanh tạo nhiều việc làm và phát triển thị trường lao động, đẩy mạnh xuất khẩu lao động và chuyên gia. Mục tiêu tổng quát của chiến lược và chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế, đảm bảo việc làm cho phần lớn lao động có nhu cầu làm việc, nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống cho nhân dân. Mục tiêu cụ thể trong năm nay là: tạo việc làm cho phần 13,5 triệu người; (trung bình 1,35 triệu người/ năm); đạt cơ cấu lao động trong ngành nông nghiệp là 50%; ngành công nghiệp là 23%; ngành dịch vụ là 27% vào năm 2010; giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 5% vào năm 2010; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 40% vào năm 2010. Theo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2006 – 2010) đã được Quốc hội thông qua; trong giai đoạn này, chúng ta sẽ tập trung giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động, trong đó, 6 triệu là tạo chỗ làm việc mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp thành thị xuống dưới 5%, tiếp tục chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm lao động nông nghiệp và thủy sản xuống còn 50% vào năm 2010, tăng lao động công nghiệp và xây dựng lên ít nhất là 24 – 28% và tăng lao động thương mại – dịch vụ lên ít nhất 26 – 27%. Theo kết quả điều tra lao động – việc làm năm 2007, tỷ lệ lao động chưa có việc làm ở thành thị trong tổng số lao động trong độ tuổi lao động (tỷ lệ thất nghiệp) là 4,91%, trong đó, lực lượng lao động trẻ chiếm 3,5 %, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn là 80,7%, với lực lượng lao động trẻ là 78,3%; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 34,75%, của lực lượng lao động trẻ là 32,4%; tỷ lệ lao động nông lâm nghiệp và thủy sản chiếm 52,20%, trong đó có đến 48,7% là lao động trẻ; lao động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm 19,20%, trong đó lao động trẻ chiếm 16,5%,; lao động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ là 28,6%, trong đó có 22,7% là lao động trẻ. Như vậy, trong giai đoạn 2006 – 2010, Việt Nam sẽ tiếp tục phải nỗ lực rất nhiều để giải quyết việc làm nhằm đạt các mục tiêu thiên niên kỷ đã cam kết với quốc tế và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2006 – 2010) đã được Quốc hội thông qua. Nằm trong mục tiêu chung về giải quyết việc làm, mục tiêu giải quyết việc làm cho lao động trẻ cũng đang được tập trung các nguồn lực để thực hiện bởi lực lượng này được coi là “niềm hy vọng tốt nhất để đưa nền kinh tế đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế, hội nhập sâu vào nền kinh tế tòan cầu…” III. Các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề giải quyết việc làm Việc làm là kết quả thu được của quá trình tạo việc làm, một quá trình đòi hỏi sự tham gia của Nhà nước – với vai trò quản lý trong lĩnh vực tìm việc làm để tạo ra môi trường thuận lợi cho sự kết hợp giữa hai yếu tố sức lao động của bản thân người lao động và tư liệu sản xuất của người sử dụng lao động. Vì thế, vấn đề giải quyết việc làm bị ảnh hưởng của cả những nguyên nhân chủ quan thuộc về phía người lao động và nguyên nhân khách quan đến từ môi trường bên ngoài. 1. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Mỗi quốc gia đều có chính quyền với tổ chức bộ máy Nhà nước. Nhà nước quản lý điều hành hoạt động của Quốc gia thông qua bộ máy công quyền bằng hệ thống pháp luật kết hợp với quan điểm đường lối phát triển kinh tế. Quan điểm, chiến lược phát triển kinh tế có một vai trò quan trọng, mang tính chất định hướng, quyết định đối với sự phát triển của một quốc gia. Nếu quan điểm đó đúng đắn sẽ góp phần thúc đẩy, tạo điều kiện cho tăng trưởng nhanh, bền vững và ngược lại. Việc làm vừa là kết quả, vừa là điều kiện cho tăng trưởng và phát triển. Khi kinh tế tăng trưởng nhanh, nhu cầu về việc làm tăng nhanh, nhu cầu việc làm tăng nhanh từ đó tạo ra nhiều công ăn việc làm cho xã hội. Ngược lại, khi kinh tế suy thoái thì nhu cầu về việc làm giảm dẫn đến tăng khả năng thất nghiệp của một bộ phận dân cư. Như vậy rõ rang các chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong mỗi thời kỳ vừa có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến công tác việc làm của mỗi quốc gia. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 đã xác định: GDP đến năm 2010 tăng gấp 2 lần năm 2000. GDP trong nông nghiệp tăng bình quân khoảng 4 – 4,5%/năm và phấn đấu đến năm 2010, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP chiếm 16 – 17%. Công nghiệp và xây dựng tăng bình quân hàng năm khoảng 10 – 15%và chiếm 40 – 41% trong GDP vào năm 2010. Dịch vụ tăng bình quân hàng năm khoảng 7 – 8% và chiếm 42 – 43% trong GDP vào năm 2010. Phân tích tác động của tăng trưởng kinh tế đến tạo việc làm thời gian qua cho thấy: cứ 1% tăng trưởng của GDP thì cầu lao động tăng 0,3 – 0,37%. Như vậy, với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, cầu lao động sẽ tiếp tục tăng khá. Đặc biệt, hệ số co giãn việc làm trong khu vực dịch vụ cao gấp 3 lần khu vực nông nghiệp và trong khu vực công nghiệp – xây dựng cao gấp 1,5 – 2 lần khu vực nông nghiệp càng cho thấy vai trò to lớn trong giải quyết việc làm của các hoạt động phi nông nghiệp. Trong thời kỳ 1991 – 2000, tính trung bình cứ tăng 1% tỷ trọng của khu vực phi nông nghiệp trong tổng GDP thì tương ứng sẽ tạo thêm được 287,6 nghìn việc làm trong khu vực này (tức là cầu lao động trong khu vực này tăng thêm); trong thời kỳ 2001 – 2007, tỷ lệ này là 1% và 402,15 nghìn. Vì vậy, việc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời kỳ tới sẽ tiếp tục làm tăng đáng kể cầu lao động. Việc làm phản ánh kết quả của đầu tư cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và tăng trưởng kinh tế. Khả năng thu hút lao động tạo việc làm của mọi nền kinh tế tùy thuộc rất nhiều vào mô hình tăng trưởng được áp dụng, đó việc lựa chọn các ngành trọng điểm để đầu tư phát triển thu hút nhiều lao động hay sử dụng nhiều vốn, đó là việc lựa chọn công nghiệp, là hướng nhập khẩu thay thế xuất khẩu…Những hoạt động đó đều phụ thuộc vào ý đồ của các nhà lãnh đạo đất nước, được thể hiện rất rõ trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từng giai đoạn. Ngoài ra, Chiến lược việc làm cũng cần dựa trên các điều kiện về kinh tế, xã hội khác như thu nhập, mức sống, khả năng cung cấp các dịch vụ xã hội và mức độ tiếp cận của người dân. Vì vậy, Chiến lược việc làm phải được xây dựng trên cơ sở Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và các Chiến lược thành phần khác 2. Hệ thống luật pháp và các chính sách tác động đến giải quyết việc làm Hệ thống luật pháp và các chính sách của Nhà nước cũng là những yếu tố quan trọng cần tính đến trong xây dựng chiến lược việc làm Với việc hoàn thiện luật đầu tư theo hướng nới lỏng các hạn chế với khu vực đầu tư, lĩnh vực và ngành nghề được đầu tư, mở rộng…. khuyến khích ( về thuế, đất đai, cung cấp nhân lực…) và hợp nhất hai luật đầu tư trong nước và đầu tư nước, ngoài trong thời gian tới môi trường đầu tư sẽ được cải thiện, các nguồn vốn trong dân sẽ được khai thông và được đưa vào đầu tư. Sản xuất phát triển sẽ có khả năng thi hút thêm nhiều lao động vào làm việc Luật doanh nghiệp mới sẽ tiếp tục được phát huy tác dụng, đặc biệt nếu việc hợp nhất các luật doanh nghiệp hiện hành, số lượng doanh nghiêp được thành lập hằng năm sẽ tăng lên nhiều và thu hút thêm lao động. Dự kiến đến năm 2015 sẽ có khoảng 1,2 triệu doanh nghiệp được thành lập và đi vào hoạt động thu hút từ 6 – 12 triệu lao động. Các cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp sẽ phát huy tác dụng và thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh như Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp, quỹ khuyến khích đầu tư, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là xuất khẩu… Theo thông tin mới nhất từ Bộ Lao Động – Thương Binh Xã Hội và Bộ Tài Chính, trong năm 2009, doanh nghiệp gặp khó khăn do suy giảm kinh tế sẽ được Nhà Nước cho vay để thanh toán tiền lương, đóng góp bảo hiểm xã hội và trợ cấp mất việc làm hoặc trợ cấp thôi việc cho người lao động ( theo quy định ) . Lãi suất của lần hỗ trợ này là 0% Được tiến hành đồng thời với các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp là các chính sách hỗ trợ cho người lao động. Các đối tượng được Chính Phủ hỗ trợ là những người lao động bị mất việc làm tại doanh nghiệp bỏ trốn năm 2009, không có người đại diện hợp pháp đứng sau giải quyết quyền lợi của người lao động và được UBND cấp tỉnh hoặc cơ quan có chức năng sẽ xác định người lao động có trong danh sách trả lương của doanh nghiệp, xác định cụ thể tiền lương còn nợ sau đó sẽ trả cho người lao động. Cũng tại lần hỗ trợ này, đối tượng được vay vốn là người lao động bị mất việc làm trong năm 2009 bao gồm cả người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng bị mất việc làm phải về nước trước thời hạn sẽ được vay vốn học nghề. Điều đáng chú ý ở đây là những đối tượng này đều được ở độ tuổi lao động trẻ Ngoài ra, hằng năm còn có các chính sách riêng dành cho lao động trẻ được triển khai bởi Đoàn thanh niên công sản Hồ Chí Minh phối hợp với các Ngân hàng. Năm 2007 có chương trình phối hợp giữa thành đoàn Hà Nội và Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội ( SHB) thỏa thuận ký kết “Chương trình hỗ trợ thanh niên lập nghiệp giai đoạn 2007 – 2012”; năm 2009 với tháng thanh niên có chủ đề “Tuổi trẻ hành động vì môi trường – hỗ trợ thanh niên về nghề nghiệp và việc làm”, triển khai ở tình thành đoàn. Đề án hỗ trợ học nghề này ( 2009 ) tập trung hỗ trợ thanh niên học nghề, tạo việc làm thông qua các hoạt động tư vấn tuyển sinh đại học, cao đẳng; hỗ trợ thanh niên học nghề, dạy nghề, hỗ trợ chuyển giao khoa học kỹ thuật, xây dựng và triển khai các dự án kinh doanh, ý tưởng kinh doanh của thanh niên, tư vấn, hỗ trợ thanh niên vay vốn Ngân hàng chính sách xã hội và các tổ chức tín dụng khác để học tập, tạo việc làm… Các luật như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế VAT, xuất nhập khẩu, thuế đất…sẽ tiếp tục cải tiến và sẽ có những tác động tích cực đến sự phát triển của doanh nghiệp Hệ thống luật pháp và chính sách về lao động tiếp tục được bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện theo hướng thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động, xóa bỏ dần các rào cản, tạo sự thông thoáng và linh hoạt trên cơ sở một hệ thống thông tin thị trường lao động hoàn thiện và đảm bảo tiếp cận tốt nhất cho người lao động. 3. Quy mô và sự phân bố dân số - nguồn nhân lực. Lao động và việc làm là hai mặt của một vấn đề sử dụng nguồn lực con người. Xây dựng chiến lược việc làm không thể không tính đến tình hình cung lao động. Bài toán cân đối cung – cầu lao động luôn là trọng tâm của mọi chiến lược việc làm. Chỉ có thông qua cân đối cung – cầu lao động mới có cơ sở xây dựng các giải pháp thích hợp nhằm giảm thất nghiệp và tăng hiệu quả sử dụng lao động. Như vậy, chiến lược việc làm cũng cần được dựa trên các quá trình dân số, trong đó đặc biệt là tốc độ tăng trưởng dân số ( tỷ lệ sinh và tỷ lệ chết ), tuổi thọ và tình hình di dân, chất lượng dân số ( sức khỏe, học vân, trình độ tay nghề…), chất lượng nguồn lao động. Theo chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010, quy mô dân số nước ta năm 2010 vào khoảng 88 – 89 triệu người, ứng với tốc độ tăng trưởng dân số khoảng 1.15 – 1,20% / năm. Trong đó dân số trong độ tuổi 15 – 34 là 22,97 triệu người, chiếm 25,95 % tỷ trọng dân số. Như vây, hằng năm dân sô tăng lên khoảng 1,1 đến 1,2 triệu người nói chung và 1,7 triệu người trẻ nói riêng. Với xu hướng này, cung lao động tiếp tục gia tăng với quy mô tương đối lớn trong những năm tới. - Biến đổi cơ cấu dân số Do tỷ lệ sinh liên tục giảm trong nhiều năm, đồng thời là xu hướng tuổi thọ của dân số, cơ cấu tuổi của dân số nước ta đang biến đổi theo hướng già hóa. Trẻ em dưới 15 tuổi giảm từ 39% năm 1989 xuống còn 33% năm 1999; giảm bình quân xuống 1,7% năm; từ 32% năm 2000 xuống còn 25% năm 2007. Trong những năm tới dự kiến tỷ lệ dân số dưới 15 tuổi tiếp tục giảm xuống, nghĩa là tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên sẽ gia tăng, số lượng dân số bước vào tuổi lao động vẫn còn cao. - Biến đổi trạng thái hoạt động của dân số Tình hình thực tế ở nước ta trong những năm gần đây cho thấy trạng thái hoạt động của dân số đang có những thay đổi theo thời gian. Đó là tăng tỷ lệ dân số không hoạt động kinh tế. Sở dĩ có hiện tượng này là do: tỷ lệ đi học tăng lên; tỷ lệ tàn tật – sức lao động giảm nhẹ; tỷ lệ nội trợ tăng nhẹ; tỷ lệ tham gia các hoạt động khác tăng nhẹ. Kết quả là tỷ lệ dân số hoạt động kinh tế giảm xuống. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động giảm có nghĩa là tốc độ tăng cung lao động sẽ thấp hơn tốc độ tăng lực lượng lao động nói chung. 4. Vấn đề toàn cầu hóa và hội nhập Việt Nam có lực lượng lao động lớn và tăng nhanh, đặc biệt là lao động trẻ. Trong những năm gần đây, tăng trưởng kinh tế luôn ở mức cao trong nhiều năm liền, tình trạng việc làm của lực lượng lao động được cải thiện. Tuy nhiên, hiện tượng việc làm của Việt Nam còn nhiều yếu kém: chất lượng việc làm thấp, năng suất lao động thấp, thị trường lao động kém phát triển…lại thêm ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu khiến cho hiện trạng việc làm ở Việt Nam xấu đi. Là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế, khi Việt Nam hội nhập ngày càng sâu và toàn diện vào nền kinh tế thế giới, vấn đề việc làm sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều, đặc biệt là việc làm cho lực lượng lao động trẻ bởi đây là đối tượng tiếp thu nhanh nhất cũng như bị ảnh hưởng nhiều nhất trước những điều kiện mới. Tác động của hội nhập kinh tế thế giới với việc làm và thị trường lao động của Việt Nam được thể hiện bằng những cơ hội và thách thức chủ yếu: 4.1. Cơ hội - Thứ nhất: Hội nhập tạo ra cơ hội có thêm nhiều việc làm có năng suất cao, trước hết là trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và thông qua việc nhập khẩu các loại máy móc thiết bị hiện đại với năng suất cao. Trên cơ sở đó Việt Nam xây dựng và phát triển được một bộ phận việc làm hiện đại với năng suất cao tác động lan tỏa ra toàn bộ nền kinh tế. Như vậy, Việt Nam có thể rút ngắn khoảng cách với các nước về trình độ công nghệ và sớm tiếp cận được trình độ công nghệ và năng suất lao động của các nước phát triển. - Thứ hai: Trong quá trình làm việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ( đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam và ở nước ngoài ), thông qua con đường đào tạo và học hỏi, Việt Nam có thể nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để có thể tiếp cận đến trình độ nguồn nhân lực cung của thế giới ( nhất là chuyên gia quản lý trong doanh nghiệp, kỹ sư và công nhân kỹ thuật lành nghề…). Đồng thời thu hút mạnh FDI để phát triển giáo dục và đào tạo ở trình độ tiên tiến. - Thứ ba: Đề hội nhập tốt nhất, Việt Nam sẽ cần có cải tiển hệ thống pháp luật và tổ chức quản lý Nhà nước về lao động khiến cho việc làm và thị trường lao động vừa phản ánh đúng yêu cầu thực tế của Viêt Nam vừa phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. - Thứ tư: Trong khi mở cửa hội nhập, Việt Nam cũng tiếp cận cả những kinh nghiệm về xây dựng mạng lưới an sinh xã hội và hệ thống tiêu chuẩn lao động tiên tiến của thế giới, trước hết là mạng lưới bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội, hệ thống định mức và chuẩn tiên tiến về vệ sinh, an toàn lao động, điều kiện làm việc và chế độ nghỉ ngơi… - Thứ năm: Đồng thời, Việt Nam cũng có cơ hội để mở rộng thị trường xuất khẩu lao động, trong đó có những thị trường là các nước phát triển có triển vọng đem lại thu nhập cao và nhờ đó đào tạo những kỹ năng và ngành nghề mới cho người lao động 4.2. Thách thức Bên cạnh những cơ hội từ việc hội nhập kinh tế thế giới đem lại, Việt Nam cũng gặp phải những thách thức: Thứ nhất, tình trạng thất nghiệp và nghèo có thể gia tăng. Do tác động của cạnh tranh nhiều doanh nghiệp và sản phẩm có thể bị phá sản hoặc thu hẹp quy mô sản xuất. Vì vậy, tất yếu có một bộ phận người lao động sẽ bị thất nghiệp, giảm thu nhập và trở thành người nghèo. Thứ hai, những khó khăn trong việc cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư. Đó là do ở Việt Nam hiện nay lực lượng lao động chưa qua đào tạo cũng … vể số lượng và chiếm tỷ trọng cao trong tổng lực lượng lao động, số lao động có trình độ chuyên môn và tay nghề cao cũng thiếu như phần lớn lao động làm nông nghiệp và sinh sống ở nông thôn. Vì vậy, khi có những nguồn vốn FDI lớn vào Việt Nam, những người này không thể đáp ứng dược yêu cầu của các nhà đầu tư, không được tuyển dụng, do đó không được tham gia và hưởng lợi từ quá trình phát triển do hội nhập kinh tế quốc tế đem lại. Thứ ba, đội ngũ cán bộ,công chức ( bao gồm cán bộ quản lý Nhà nước, quản trị doanh nghiệp và chuyên gia trong các lĩnh vực và doanh nhân của Việt Nam cũng thiếu và yếu cả về năng lực chuyên môn, kỹ năng quản lý,trình độ tin học, ngoại ngữ. Việt Nam cũng đang thiếu một đội ngũ luật sư giỏi, thông thạo luật pháp quốc tế và ngoại ngữ để tư vấn cho các doanh nghiệp trong kinh doanh và giải quyết các tranh chấp thương mại lao động. Thứ tư, hình thành và phát triển lao động trong nước liên thông với thị trường lao động quốc tế, trong đó người lao động nước ngoài tham gia vào thị trường lao động trong nước ở Việt Nam ngày càng nhiều, cạnh tranh trên thị trường lao động sẽ gay gắt, người lao động Việt Nam nếu không đào tạo tốt về kiến thức chuyên môn, kỹ năng lao động, thái độ phong cách và ý thức kỷ luật lao động sẽ bị thua thiệt đối với thị trường lao động ngoài nước, Việt Nam không thể duy trì… việc xuất khẩu lao động chưa qua đào tạo. Để giữ vững và mở rộng thị trường xuất khẩu lao động, Việt Nam phải tăng cường đào tạo nghề, ngoài giữ và pháp luật nước tiếp cận lao động cho những người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Thứ năm, khuôn khổ pháp lý về lao động, việc làm và thị trương lao động Việt Nam còn thiếu, có nhiều quy định lạc hậu và chưa thích ứng với các nước đối tác và quốc tế đang là những khó khăn cho việc thực hiện hội nhập quốc tế trong lĩnh vực lao động, việc làm và thị trường lao động 5. Đô thị hóa Xu hướng đô thị hóa, cùng với quá trình di dân nông thôn, được thực hiện làm tăng khá nhanh dân số khu vực đô thị trong thời gian gần đây. Dân số thành thị các năm 2000 – 2008 tăng với tốc độ 3,5…..trong khi khu vực nông thôn chỉ tăng trung bình khoảng 0,65% trước cùng thời kỳ. Xu hướng đô thị hoá nhanh sẽ tác động mạnh đến cơ cấu và đặc điểm việc làm. Xu hướng đô thị hoá cũng đặt ra nhiều vấn đề về đào tạo nhân lực, chuyển đổi nghề nghiệp và dịch vụ việc làm. Dự báo đến năm 2010 nước ta sẽ có khoảng 29,53% dân số sống ở khu vực đô thị. Kết quả này cũng khá phù hợp với báo cáo triển vọng đô thị thế giới năm 2003 của liên hợp quốc, theo đó đến năm 2010 sẽ có 29,4% dân sô Việt Nam sống ở các vùng đô thị. 6. Sự phát triển của khoa học công nghệ Khoa học công nghệ là nhân tố quan trọng ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất của con người. Để có việc làm với năng suất, chất lượng cao cần có kỹ thuật máy móc, công nghệ hiện đại, tiên tiến…ứng dụng công nghệ giúp con người khắc phục được những hạn chế và cho phép phát huy nhiều lợi thế của minh trong quá trình chinh phục thiên nhiên, cải tạo xã hội. Việc ứng dụng khoa học công nghệ đã và đang tạo ra các ngành nghề mới trong xã hội với quy mô và chủng loai không ngừng được mở rộng, tạo ra những việc làm mới cho con người trong các lĩnh vực khác nhau đặc biệt là các lĩnh vực có hàm lượng chất xám và công nghệ cao như: tự động hóa, điện tử, dịch vụ…Tuy nhiên, việc làm này cũng đòi hỏi một trình độ, tiêu chuẩn nghề nghiệp cao hơn nhiều đối với người lao động. Đây cũng là một lợi thế cho lực lượng lao động trẻ. Bởi đây là bộ phận có khả năng đáp tiếp thu và học hỏi các ứng dụng công nghệ mới rất nhanh nhạy và chính xác. Hơn nữa, bộ phận này ngày càng được chú trọng trong việc trang bị các kiến thức và kỹ năng cần thiết giúp nâng cao trình độ trước khi tham gia vào thị trường lao động. Tóm lại, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã có những tác động mạnh mẽ đến vấn đề việc làm của mỗi quốc gia. Ứng dụng khoa học kỹ thuât làm tăng năng suất lao động tức là giảm số suất việc làm nhưng cũng làm mở mang thêm nhiều ngành nghề tức là góp phần mở rộng quy mô việc làm cho xã hội. Hai quá trình này luôn tồn tại song song với nhau. Con người luôn tìm tòi, ứng dụng khoa học công nghệ để giải phóng sức lao động nhưng cũng không ngừng tạo ra nhiều ngành nghề việc làm mới thông qua nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật. Kết quả lao động trong xã hội luôn biến đổi, cơ cấu lại theo hướng hợp lý, đa dạng, phong phú hơn. CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG TRẺ I. Phân tích và đánh giá thực trạng lực lượng lao động trẻ 1. Quy mô Tính đến năm 2007, lực lượng lao động cả nước là 46,7 triệu người, trong đó dân số trong độ tuổi là 44,16 triệu người (chiếm 94,54%), lao động ở nhóm tuổi 15 – 34 là 21,27 triệu người (chiếm 45,54% trong tổng lực lượng lao động), là lợi thế lớn về nguồn nhân lực để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời cũng tạo nên sức ép lớn về nhu cầu việc làm của hơn 1 triệu người bước vào tuổi lao động mỗi năm. Bảng 2: Số thanh niên bước vào độ tuổi lao động hàng năm 2000 – 2007 Đơn vị : nghìn người Năm Thành thị Nông thôn Cả nước 2000 499 1476 1975 2001 478 1478 1956 2002 450 1491 1941 2003 425 1463 1888 2004 391 1484 1875 2005 386 1478 1864 2006 380 1454 1834 2007 374 1466 1840 2008 (sơ bộ) 369 1457 1826 Nguồn: Tổng Cục thống kê Theo kết quả điều tra của Tổng Cục thống kê , dân số trong độ tuổi lao động năm 2000 là 55,36 triệu, chiếm 65 % dân số; năm 2005 là 45,10 triệu, chiếm 54,3% dân số, đến năm 2007 là 44,16 triệu người, chiếm 51,85% dân số. Điều này cho thấy, quá trình “trẻ hóa” ở Việt Nam đang chững lại nhường chỗ cho quá trình “già hóa” của dân số, tỷ lệ người cao tuổi đang gia tăng trong khi tỷ lệ người trẻ lại có xu hướng giảm xuống. Dự báo đến năm 2010, dân số trong độ tuổi lao động là 57,4 triệu người, chiếm 64,65% dân số. Thời kỳ 2006 – 2010 được dự báo là sẽ có những biến động nhỏ về dân số trong độ tuổi lao động. Dân số trong độ tuổi gia tăng hàng năm với tốc độ bình quân khoảng 2%/năm song mức gia tăng dự kiến sẽ giảm vào hai năm cuối của thời kỳ. Dân số bước vào tuổi lao động tiếp tục gia tăng trong vài năm đầu, bắt đầu có xu hướng giảm từ năm 2007 – 2008 trở đi, trong khi đó dân số hết tuổi lao động lại gia tăng từ sau những năm đầu của thập niên này so với các năm 1989 và 1999. Cụ thể, dân số trong độ tuổi gia tăng khoảng 1,1 triệu người/năm trong giai đoạn từ năm 2006 – 2008, nhưng vào hai năm cuối 2009 – 2010, mức gia tăng được dự báo sẽ giảm xuống dưới 1triệu người/năm. Biểu đồ 1 Dân số trong độ tuổi 15 -34 năm 2006 – 2010 Đơn vị: triệu người Năm Dân số Dân số trong độ tuổi 15 - 34 % trong tổng dân số 2006 84 20,98 24,976 2007 85,14 21,64 25,41 2008 86,92 23,15 26,63 Dự báo 2009 87,9 22,65 25,76 Dự báo 2010 88,8 21,45 24,15 Nguồn : Số liệu thống kê lao động việc làm các năm Lực lượng lao động của cả nước đang có xu hướng già hóa và số lượng thanh niên tham gia hoạt động kinh tế thường xuyên tăng không đáng kể, từ 14 triệu người lên 14,9 triệu người, chiếm khoảng 60% trong tổng số thanh niên cả nước. So với dân số hoạt động kinh tế cả nước thì lực lượng này có xu hướng giảm dần : từ 35,6% năm 2001 giảm xuống còn 33,9% năm 2006 và đến năm 2007, tỷ lệ này chỉ còn 32,1%. Có nhiều lý do giải thích sự giảm dần tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế của lực lượng lao động trẻ so với tổng lực lượng xã hội, trong đó nguyên nhân chủ yếu là do số lượng thanh niên đi học ngày càng tăng. Riêng số học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp giai đoạn 2000 – 2006 tăng gấp 2,2 lần giai đoạn 1995 – 2000. 2. Cơ cấu Việc nghiên cứu cơ cấu (cấu trúc) dân số theo các tiêu chí khác nhau chính là việc làm rõ các đặc trưng về dân số của nhóm dân số đó ở các khía cạnh khác nhau. Các tiêu chí được dùng chủ yếu là giới, tuổi, ngành, thành phần kinh tế…Lao động trẻ là một nhóm dân số thuộc lực lượng lao động được chia khi nghiên cứu cơ cấu dân số theo tuổi – tức xem xét xem độ tuổi nào là lực lượng lao động chính, chiếm phần đông trong lực lượng lao động. Tuy nhiên, để có thể hiểu sâu hơn về cơ cấu lao động trẻ theo nhóm tuổi, việc nghiên cứu sẽ được lồng ghép với các tiêu chí khác. Trong bài viết này, hai tiêu chí khác được sử dụng để làm rõ thêm cơ cấu lao động trẻ là giới tính và vùng, lãnh thổ (hay khu vực thành thị và khu vực nông thôn). 2.1. Cơ cấu theo giới tính Cấu trúc của lực lượng lao động trẻ cho biết trong tổng số lao động trẻ thì có bao nhiêu là nam, bao nhiêu là nữ. Biểu đồ 2: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động theo độ tuổi năm 1996 và 2007 Đơn vị : % Nhìn vào biểu đồ ta thấy, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động trẻ là khá cao (chỉ trừ nhóm tuổi từ 15 – 19, đây là nhóm lao động vị thành niên), trung bình đạt 90,69 % năm 1996, và 88,68% năm 2007 cao hơn tỷ lệ tham gia lực lượng lao động ở các nhóm tuổi còn lại, năm 1996 là 70,71 %, năm 2007 là 73,27%. Tuy nhiên tỷ lệ này lại có sự giảm sút theo thời gian, tỷ lệ tham gia lao động của thanh niên từ 15 tuổi đến 24 tuổi năm 1996 cao hơn so với năm 2007, đặc biệt là những lao động thuộc nhóm tuổi 15 – 19; năm 1996 có hơn 1/2 (55,51%) số lao động ở nhóm tuổi này tham gia lao động nhưng đến năm 2007 tỷ lệ này chỉ còn khoảng 1/3 (36,91%); ở nhóm tuổi từ 20 – 24 tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là 86,69 % năm 1996 giảm xuống còn 79,11 % năm 2007. Sở dĩ có sự giảm sút này là do mức sống của người dân sau 10 năm có sự cải thiện đáng kể làm gia tăng cơ hội học tập ở các trường cao đẳng, đại học và dạy nghề cho thanh niên. Và cũng nhờ đó, tỷ lệ tham gia ở nhóm tuổi lớn hơn lại tăng lên; nhóm tuổi 25 – 29 và 30 – 34 là hai nhóm tuổi có số người tham gia lao động cao nhất cả nước lần lượt là: 91,5 5 và 93,43 % năm 1996, 93,27 và 93,67 % năm 2007. Biểu đồ 3: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của lao động trẻ theo nhóm tuổi, giới tính Tỷ lệ tham gia lao động của nam thanh niên cũnh cao hơn nữ thanh niên một phần là do cơ hội việc làm của nam giới thường cao hơn nữ giới, mặt khác do lứa tuổi này là lứa tuổi kết hôn và sinh đẻ nên có một số lượng lớn phụ nữ không thể tham gia vào lực lượng lao động để sinh con. Từ năm 1996 đến năm 2007 cũng có sự thay đổi đáng kể về tỷ lệ tham gia lao động của lực lượng lao động trẻ theo giới, số lao động nữ tham gia lao động đã cao hơn, do tâm lý trọng nam khinh nữ đã được xóa bỏ nên có sự công bằng hơn trong cơ hội cho nữ giới. 2.2. Cơ cấu theo vùng, lãnh thổ Lực lượng lao động trẻ trong khu vực thành thị là 10.549 nghìn người, chiếm 24,4 %; bình quân hàng năm tăng thêm 4,7% tương ứng với 495,803 nghìn người. Lực lượng lao động ở khu vực nông thôn có 32.706 nghìn người (tương ứng với 75,6%), bình quân hàng năm tăng 2,6 % với quy mô tăng thêm là 801,3 nghìn người. Tại các địa bàn khác nhau, tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế cũng khác nhau, tỷ lệ thanh niên nông thôn tham gia hoạt động kinh tế cao hơn thanh niên đô thị. Theo kết quả điều tra về Lao động – Việc làm của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội năm 2007, tỷ lệ thanh niên nông thôn tham gia hoạt động kinh tế là 66,3 %, tỷ lệ thanh niên đô thị tham gia hoạt động kinh tế là 55,2%. Có tình trạng trên là do một bộ phận thanh niên không có điều kiện hoặc không có khả năng học tiếp trung học, cao đẳng, đại học nên phải đi làm sớm. Khoảng cách về trình độ chuyên môn kỹ thuật giữa thanh niên nông thôn và thanh niên thành thị vẫn còn khá cao. Tổng điều tra dân số cho thấy, 70,5 thanh niên đô thị và 94,7 % thanh niên nông thôn không có chuyên môn nghiệp vụ, 15% thanh niên đô thị có trình độ đại học và trên đại học, trong khi tỷ lệ này ở thanh niên nông thôn chỉ là 1,9 %. Năm 2007, tỷ lệ thanh niên trong độ tuổi lao động đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật là 34,75%, chủ yếu là đào tạ nghề không chứng chỉ. 3. Chất lượng lực lượng lao động trẻ Chất lượng lao động là yếu tố hàng đầu, cực kỳ quan trọng, có vai trò quyết định đến khả năng cạnh tranh của lao động trẻ trên thị trường lao động. Chất lượng lao động thanh niên biểu hiện chủ yếu ở trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật. Chỉ tiêu này được xem xét ở phạm vi quốc gia và cấp doanh nghiệp. 3.1. Trình độ học vấn Một trong những chỉ tiêu hàng đầu để đánh giá khả năng và hiệu quả sử dụng các công nghệ tiên tiến của một nền kinh tế chính là trình độ học vấn. Nó cũng phản ánh khả năng làm việc của người lao động nhằm đáp ứng nhu cầu với nhu cầu và sự cạnh tranh ngày càng lớn trong thị trường lao động. So với các nước trên thế giới có cùng mức phát triển, trình độ học vấn của lao động Việt Nam tương đối cao. Theo kết quả điều tra Lao động – Việc làm hàng năm từ năm 2000 đến năm 2007, số lao động trẻ không biết chữ hoặc học hết tiểu học đã giảm liên tục, các cấp học cao hơn có xu hướng tăng. Lao động trẻ có trình độ học vấn cao hơn mức chung của cả nước, khoảng trên 50 % có trình độ hết THCS và THPT. Bảng 3: Trình độ học vấn của lao động trẻ qua các năm 2000 – 2007 Đơn vị : % Năm Trình độ học vấn 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Chưa biết chữ 5,7 5,1 3,8 4,1 4 3,7 3,6 Chưa hết tiểu học 22,8 20,3 18,6 18,0 16,5 15,4 14,2 Đã tổt nghiệp tiểu học 26,9 28,1 29,4 28,9 29,3 28,6 26,6 Tôt nghiệp THCS 31,1 32,4 32,3 31,9 33 34,2 36,4 Tốt nghiệp THPT 13,5 14,1 15,9 17,1 17,2 18,1 19,2 Cộng 100 100 100 100 100 100 100 Nguồn: Điều tra Lao động – Việc làm hàng năm 1996 – 2007 Số năm đi học bình quân của lao động thanh niên khá cao, bình quân là 7,8 năm, cao hơn mức chung của cả nước là 7,3 năm và không có sự khác biệt lớn về giới. Điều này thể hiện rõ tính ưu việt của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tuy nhiên, trình độ văn hóa của lao động trẻ nông thôn thấp hơn nhiều so với lao động trẻ ở thành thị. Tính đến năm 2006, có trên một triệu lao động nông thôn (tương đương với 89,5% tổng lực lượng lao động trẻ) bị mù chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học. Trình độ học vấn của lao động trẻ trong các doanh nghiệp khá cao so với lao động trẻ cả nước. Kết quả Điều tra thị trường lao động năm 2007 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tại 837 doanh nghiệp với 5078 lao động cho thấy: lao động trẻ có trình độ tiểu học đã giảm hẳn và chiếm tỷ lệ rất nhỏ, từ 3,6 % năm 2002 xuống còn 2,1 % năm 2007. Đại bộ phận lao động trẻ trong doanh nghiệp đã tốt nghiệp THPT (72,6% năm 2003 và 87,2 % năm 2007). Bảng 4: Trình độ học vấn của lao động trẻ trong các doanh nghiệp năm 2001, 2003, 2007 Đơn vị : % Trình độ học vấn 2001 2003 2007 Chưa tốt nghiệp tiểu học 0,5 0,4 0,2 Tốt nghiệp tiểu học 4,8 3,6 2,1 Tốt nghiệp THCS 24,8 23,8 10,5 Tốt nghiệp THPT 69,9 72,6 87,2 Tổng 100 100 100 Biểu đồ 4: Trình độ học vấn của lao động trẻ nói chung và trong các doanh nghiệp năm 2007 Nhìn vào biểu đồ ta có thể thấy, các doanh nghiệp đã góp phần tích cực và có hiệu quả để nâng cao trình độ học vấn cho lực lượng lao động trẻ. Đây cũng là điều kiện rất thuận lợi để lao động trẻ tiếp thu khoa học – kỹ thuật, công nghệ; nâng cao trình độ nghề nghiệp, kỹ năng và dễ dàng hơn trong hội nhập thị trường lao động. 3.2. Trình độ chuyên môn kỹ thuật Ngoài chỉ tiêu trình độ học vấn, chất lượng lao động trẻ còn thể hiện rất rõ trong cơ cấu trình độ chuyên môn kỹ thuật. Bảng 5: Tỷ lệ lao động phân theo nhóm tuổi và trình độ chuyên môn kỹ thuật Nhóm tuổi Tổng số Không có trình độ CMKT Sơ cấp/ chứng chỉ nghề Công nhân kĩ thuật không có bằng Công nhân kĩ thuật có bằng Trung học chuyên nghiệp CĐ, ĐH trở lên Cả nước 15 – 19 100 91,4 2,9 2,4 3,3 - - 20 – 24 100 79,8 4,1 4,3 5,4 2,8 3,6 25 – 29 100 77,2 3,2 5,0 5,4 3,3 5,9 30 – 34 100 80,0 3,0 4,82 5,0 4,2 3,6 Chung 15 – 34 100 81,3 3,3 4,3 4,9 2,8 3,5 Cả nước 100 80,3 3,2 3,9 4,6 3,9 4,2 Thành thị 15 – 19 100 80,4 1,2 4,4 14,0 - - 20 – 24 100 57,2 2,9 6,6 15,2 6,5 11,6 25 – 29 100 51,4 2,9 7,5 14,2 6,8 17,2 30 – 34 100 56,2 2,8 6,3 15,2 6,3 15,5 Chung 15 – 34 100 57,3 2,8 7,0 15,0 6,1 11,9 Thành thị 100 56,0 3,2 6,5 13,5 8,3 12,6 Nông thôn 15 – 19 100 92,8 3,1 2,1 1,9 - - 20 – 24 100 85,4 4,4 3,7 3,0 1,9 1,6 25 – 29 100 85,6 3,3 4,2 2,5 2,2 2,2 30 – 34 100 83,1 4,3 3,9 2,6 1,7 1,5 Chung 15 – 34 100 87,7 3,5 3,5 2,2 2,0 1,3 Nông thôn 100 87,9 3,2 3,1 1,8 2,5 1,5 Nguồn: Số liệu thống kê Lao động – Việc làm năm 2007 Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Số liệu thống kê Lao động – Việc làm các năm cho thấy chất lương lao động trẻ đang được cải thiện rõ rệt, nhưng còn ở mức thấp. Đến năm 2007, tỷ lệ lao động trẻ không có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm 81,3%, cao hơn 1% mức chung của cả nước (80,3%). Điều này có thể giải thích là do lao động trẻ đang trong thời gian đào tạo nghề nên chưa thể tham gia thị trường lao động. Đồng thời, số lao động tuyển mới vào doanh nghiệp đa số là lao động trẻ và có một phần khá lớn là lao động phổ thông. Tuy nhiên, số công nhân kỹ thuật có bằng hoặc không có bằng của lao động trẻ lại cao hơn mức chung của cả nước chứng tỏ lao động trẻ đang có xu hướng lựa chọn nghề nghiệp thích ứng với nhu cầu của thị trường lao động. Khoảng cách về trình độ chuyên môn kỹ thuật giữa lao động trẻ ở khu vực nông thôn và lao động trẻ ở khu vực thành thị cũng còn khá cao. Qua cuộc Tổng điều tra dân số năm 2007 cho thấy, 69,7% lao động trẻ ở khu vực đô thị và 93,4% lao động trẻ ở khu vực nông thôn không có chuyên môn nghiệp vụ. 18% lao động trẻ ở đô thị có trình độ đại học và trên đại học, trong khi tỷ lệ này ở lao động trẻ nông thôn chỉ là 1,9%. Năm 2006, tỷ lệ lao động trẻ trong độ tuổi lao động đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật là 32,9%, chủ yếu là đào tạo nghề không có chứng chỉ. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động trẻ trong các doanh nghiệp so với trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động trẻ chung của cả nước là khá cao. Số công nhân kỹ thuật có bằng , trung cấp, cao đẳng và đại học từ gần 2/3 năm 2001 lên trên ¾ năm 2007. Số lao động trẻ có trình độ chuyên môn kỹ thuật không có bằng chiếm khoảng ¼ đa số là lao động phổ thông mới tuyển vào doanh nghiệp được đào tạo ngắn hạn và kèm cặp, tích lũy kinh nghiệm ngay tại nơi làm việc. Đây cũng là hiện tượng phổ biến của các doanh nghiệp hiện nay, nhất là các doanh nghiệp mới thành lập, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu (dày da, may mặc, lắp ráp điện tử, chế biến thủy hải sản…) có nhu cầu tuyển nhiều lao động, trong khi lao động qua đào tạo không đủ để cung cấp cho doanh nghiệp. Bảng 6: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động trẻ trong các doanh nghiệp năm 2001, 2007 Đơn vị: % Trình độ chuyên môn kỹ thuật Năm 2001 Năm 2007 Công nhân kỹ thuật không có bằng 36,6 24 Công nhân kỹ thuật có bằng 31,2 36,4 Trung cấp 26,6 30,7 Cao đẳng, đại học 5,6 8,9 Nguồn: Điều tra thị trường lao động 2007 Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Qua việc nghiên cứu chất lượng lao động trẻ ta có thể thấy: Tỷ lệ lao động trẻ qua đào tạo, nhất là đào tạo nghề thấp, kỷ luật lao động, tác phong làm việc công nghiệp cơ bản đã có nhưng mới ở giai đoạn hình thành nên còn kém, nhất là đa phần lao động trẻ tuyển mới cho các doanh nghiệp mới thành lập, các khu công nghiệp, khu chế xuất, sản xuất hàng xuất khẩu và lao động nông thôn chưa qua đào tạo. Cơ cấu ngành, nghề đào tạo lao động trẻ về chuyên môn kỹ thuật còn nhiều bất cập so với yêu cầu của nền kinh tế và yêu cầu của thị trường lao động. Năm 2007, tỷ lệ đào tạo (chủ yếu của nhóm lao động trẻ) giữa Cao đẳng, Đại học và trên Đại học – Trung học chuyên nghiệp – Công nhân kỹ thuật là 1: 0,9: 2,8; trong khi các nước đang phát triển khác là 1:4:10 nên thiếu trầm trọng lao động có trình độ kỹ thuật cao, nhiều nghề và công việc phải thuê lao động nước ngoài, xuất khẩu lao động chủ yếu là lao động thanh niên ở khu vực nông thôn có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp hoặc chỉ qua giáo dục định hướng. Sự chênh lệch về chất lượng lao động trẻ ở khu vực đô thị và khu vực nông thôn còn cao chứng tỏ sự yếu kém và mất công bằng trong hệ thống đào tạo nghề giữa hai khu vực này. II. Phân tích và đánh giá thực trạng việc làm cho lực lượng lao động trẻ Thực trạng việc làm cho lực lượng lao động trẻ được phản ánh qua quy mô số việc làm (tổng cầu) cho lao động trẻ, cơ cấu việc làm và tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm. 1. Quy mô số việc làm Tổng cầu lao động trẻ trong nền kinh tế quốc dân có xu hướng tăng dần qua các năm Biểu đồ 5: Tổng cầu lao động trẻ trong nền kinh tế quốc dân và số việc làm mới trong các năm 2000 - 2007 Đơn vị: nghìn người Nguồn: + Tổng cục thống kê + Điều tra Lao động - Việc làm hằng năm của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Tổng cầu lao động trẻ có xu hướng tăng và chiếm trên 1/3 tổng cầu của nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt, số chỗ việc làm mới được tạo ra hằng năm tăng liên tục 1,2 triệu năm 2000 – 2002; 1,42 triệu năm 2004 và 1,6 triệu năm 2006 – 2007. Số chỗ này chủ yếu được tạo ra cho thanh niên và từ năm 200 trở đi, bằng hoặc cao hơn số thanh niên mới bước vào lực lượng lao động (khoảng 1,18 triệu người / năm). Tình hình việc làm cho lao động trẻ được thể hiện rõ thông qua tỷ lệ đủ việc làm của lao động trẻ qua các năm. Nhóm tuổi Thành thị Nông thôn Cả nước 2006 2007 2006 2007 2006 2007 15 – 19 71 77 85 86 84 85 20 – 24 81 81 87 88 86 86 25 – 29 88 88 90 91 89 90 30 – 34 90 92 95 92 92 93 Chung 15–34 85 87 90 91 88 89 Cả nước 90 90 92 93 91 92 Nguồn: Điều tra Lao động – Việc làm các năm 2006, 2007 Qua bảng trên ta có thể thấy, lao động trẻ trong lực lượng lao động có tỷ lệ đủ việc làm thấp hơn tỷ lệ chung của cả nước. Tỷ lệ đủ việc làm của lao động trẻ khu vực thành thị thấp hơn khu vực nông thôn từ 5 – 6 %. Trong nhóm lao động trẻ thì lao động ở nhóm tuổi từ 15 – 19 có tỷ lệ đủ việc làm thấp nhất, tiếp đến là nhóm tuổi 20 – 24 . Đây là 2 nhóm tuổi mới tham gia vào thị trường lao động, đang trong thời kỳ làm quen với công việc, thiếu kinh nghiệm và kỹ năng nghề nghiệp, vì thế việc làm thường không ổn định 2. Cơ cấu việc làm 2.1 Cơ cấu theo nhóm ngành Trong ba năm gần đây (2005 – 2007), số việc làm mới được tạo ra cho lao động trẻ là xấp xỉ 53,71% trong ngành nông – lâm – ngư nghiệp nói chung; >20% trong ngành công nghiệp và xây dựng; >25% trong ngành dịch vụ và thương mại. Điều này chứng tỏ lao động trẻ vẫn chủ yếu làm trong khu vực nông nghiệp, nông thôn, nơi chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập diễn ra còn chậm. Tuy nhiên, điều này dường như không đồng hành với xu hướng đầu tư cho phát triển khu vực nông nghiệp. Bảng 7: Cơ cấu đầu tư xã hội theo các nhóm ngành năm 2000 – 2007 Đơn vị : % Tỷ trọng VĐT phát triển khu vực KTNN theo giá so sánh 1994 Tỷ trọng VĐT của toàn xã hội theo giá so sánh 1994 Năm Ngành 2000 2003 2005 2007 2000 2003 2005 2007 Tổng 100 100 100 100 100 100 100 100 Nông – lâm – ngư nghiệp 13,11 9,69 8,88 8,88 14,4 9,87 9,04 9,01 CN – XD 35,72 42,48 41,47 41,16 36,78 39,94 40,54 40,51 Dịch vụ 51,17 47,82 49,65 49,66 48,82 50,19 50,42 50,47 Nguồn : Số liệu thống kê năm 2007 Từ năm 2000 – 2007 tỷ trọng đầu tư xã hội cho khu vực nông nghiệp giảm xuống từ 14,40 % xuống còn 9,01%. Nguyên nhân chủ yếu của tình hình này là do giảm sút đầu tư của Nhà nước cho khu vực nông nghiệp, từ 13,11% năm 2000 xuống còn 8,88% năm 2007. Trong bối cảnh xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải ưu tiên cho khu vực công nghiệp. Tuy nhiên, với mức độ và xu hướng đầu tư xã hội, cũng như đầu tư của Nhà nước cho khu vực nông nghiệp trong thời gian qua rõ ràng không tương xứng với yêu cầu giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông nghiệp. Bảng 8: Cơ cấu việc làm mới tạo ra cho lao động trẻ các năm 2005 – 2007 Đơn vị : % Ngành Năm Theo ngành Theo chương trình Nông – lâm – ngư nghiệp Công nghiệp – xây dựng Dịch vụ Chương trình phát triển kinh tế Chương trình XĐGN Chương trình XKLĐ và chuyên gia 2005 54,95 19,26 25,80 74,57 22,84 2,29 2006 53,71 20,06 26,23 74,22 22,53 3,25 2007 52,48 20,88 26,64 73,44 21,63 4,93 Nguồn: Số liệu thống kê các năm 2005 – 2007 Mặc dù vậy, lao động trẻ trong cơ cấu ngành nghề của lực lượng lao động xã hội cả nước cũng đã có những chuyển biến tích cực theo hướng giảm dần số lao động trong nông nghiệp, tăng dần lao động trong công nghiệp và dịch vụ. Năm 2000, cả nước có 69% lao động làm việc trong lĩnh vực nông – lâm – thủy sản, 10,9% làm việc trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng và 20,1% lao động làm trong lĩnh vực dịch vụ. Đến năm 2005, cơ cấu này đã có sự thay đổi, giảm xuống còn 60,5% đối với lao động nông – lâm – ngư nghiệp và tăng ở các ngành công nghiệp, xây dựng là 14,4%, và dịch vụ là 25,1%. Đến nay(ăm 2007), tỷ lệ lao động trẻ họat động trong lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp là 53,4%; công nghiệp và xây dựng là 24,2 %; dịch vụ là 22,4%. Dự báo xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động sẽ tiếp tục tăng, đến năm 2010, dân số lao động trong nông nghiệp chỉ còn khoảng 50%. Bên cạnh đó, theo kết quả thống kê Lao động - Việc làm từ năm 2001 – 2007 cho thấy, lao động trong nhóm tuổi 19 – 24 có tỷ trọng nữ làm công việc dịch vụ cao hơn so với nam và cao hơn so với tỷ lệ chung của toàn bộ lao động của nhóm tuổi này. Nguyên nhân là do có một tỷ lệ lớn lao động trẻ đã tham gia vào công việc buôn bán nhỏ, nhất là buôn bán các sản phẩm nông nghiệp. Đối với nhóm từ 15 – 34 tuổi thì tỷ lệ nam giới làm trong ngành công nghiệp – xây dựng cao hơn nhiều so với nữ do họ có sức khỏe tốt hơn. 2.2 Cơ cấu theo các thành phần kinh tế Từ sau quá trình cải cách và đổi mới kinh tế - xã hội, các loại hình kinh tế phát triển đã có điều kiện để phát triển mạnh mẽ. Do đó vấn đề việc làm và vai trò, vị trí của lao động trẻ có sự thay đổi đáng kể. Theo kết quả điều tra Lao động – Việc làm toàn quốc chỉ có 9% thanh niên làm việc trong khu vực Nhà nước, 17,7% thanh niên làm việc hưởng lương ngoài khu vực Nhà nước, 55,3% lao động trong hộ gia đình không hưởng lương, 16,5% ; lao động tự do, đặc biệt có 1% là chủ doanh nghiệp tư nhân. Biểu đồ 6: Cơ cấu việc làm phân theo thành phần kinh tế năm 2007 Quan sát trên biểu đồ, đa số (57%) lao động trẻ tham gia lao động dưới hình thức tự làm việc, chủ yếu là nghề nông, chỉ có 13% tham gia lao động trong các doanh nghiệp nhỏ của gia đình, 7% tham gia lao động ở khu vực kinh tế Nhà nước. Mặc dù cải cách kinh tế đã đề cao vai trò của khu vực kinh tế tư nhân, song tỷ lệ lao động trẻ hoạt động kinh tế trong lĩnh vực này vẫn rất khiêm tốn, mới chỉ dừng lại ở 6%. Thấp hơn nữa (5%) là lực lượng lao động trẻ công tác trong các cơ sở liên doanh với nước ngoài hoặc có tòan bộ vốn nước ngoài. Những kết quả trên đã cho thầy rõ lao động trẻ ít có cơ hội làm việc trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và tỷ trọng phân công lao động đã lỗi thời, với tỷ trọng nông nghiệp cao trong nền kinh tế nói chung. Trong hầu hết các trường hợp, các cơ sở sản xuất kinh doanh ngần ngại tuyển dụng lao động trẻ bởi lý do chi phí dado tạo cao. Đây là một nghịch lý vì các khu chế xuất ở miền Nam đều đang cần thêm lao động nhưng lại không tuyển dụng đủ số lao động cần thiết. Tay nghề trình độ thấp, chỉ có khả năng lao động thủ công là những yếu tố đang cản trở thanh niên Việt Nam tìm được việc làm trong những khu vực sản xuất công nghiệp và các lĩnh vực có công nghệ hiện đại khác. Các xí nghiệp tư nhân và quy mô nhỏ tuy được coi là nguồn tạo công ăn việc làm, nhưng cũng gặp phải nhiều bất cập trong tuyển dụng và đào tạo lao động trẻ nhằm đáp ứng được yêu cầu kỹ năng tay nghề. Khu vực Nhà nước chỉ đáp ứng được 7% việc làm cho lực lượng lao động trẻ. Chế độ bảo hiểm xã hội và các phúc lợi bảo trợ xã hội khác mà việc làm trong khu vực Nhà nước có được hầu như còn “nằm ngoài tầm tay” với phần lớn thanh niên hiện nay, đặc biệt là nhóm thanh niên ở độ tuổi từ 15 – 29. 2.3. Cơ cấu theo vị thế Vị thế công việc ở Việt Nam được hiểu là các loại làm việcquan trọng và hữu ích bao gồm: chủ sử dụng lao động; tự làm việc cho bản thân; làm công; làm việc gia đình không hưởng công và những người không thuộc vị thế công việc nào do không có đầy đủ thông tin. Tuy nhiên, vì không có điều kiện nghiên cứu sâu theo từng thành phần theo cách phân loại trên và để đơn giản hóa cho việc nghiên cứu, bài viết sẽ nghiên cứu vị thế lao động theo hai khía cạnh chính là làm công ăn lương và không làm công, ăn lương. Năm 2007, số lao động trẻ làm công ăn lương (tham gia thị trường lao động) chiếm 25,6% số lao động trẻ có việc làm, tăng 1,6% so với năm 2006. Trong 8 vùng lãnh thổ, vùng có tỷ lệ làm công ăn lương cao nhất là Đông Nam Bộ (44,2%), tiếp đến là Đồng bằng Sông Cửu Long (28,1%), Duyên hải Nam Trung Bộ (27,5%); Đồng bằng Sông Hồng (26,2%), thấp nhất là vùng Tây Bắc (9,8%), Đông Bắc (15,3%). Ở các vùng còn lại, tỷ lệ này dao động từ 15 – 16,4%. So với năm 2006, tỷ lệ làm công ăn lương đều tăng ở tất cả các vùng trong cả nước; trong đó có 4 vùng tăng khá nhanh là Đồng bằng Sông Hồng; Duyên hải Nam Trung Bộ; Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long. Biểu đồ 7: Tỷ lệ lao động trẻ làm công ăn lương chia theo vùng năm 2006 và 2007 Đơn vị: % Nguồn : + Số liệu thống kê lao động việc làm ở Việt Nam 2006 + Báo cáo kết quả điều tra Lao động – Việc làm 2007 Tuy tỷ trọng lao động hưởng lương có xu hướng tăng lên, song đến năm 2007, cũng mới chỉ chiếm khoảng ¼ số lực lượng lao động trẻ làm việc trong khu vực kinh tế hộ gia đình, trong khu vực phi kết cấu với đặc trưng cơ bản là năng suất và chất lượng lao động thấp. Điều này cũng nói lên rằng khu vực có quan hệ lao động còn nhỏ bé và thị trường lao động trẻ nói riêng và thị trường lao động cả nước nói chung của nước ta vẫn chưa phát triển. 3. Về tình hình thất nghiệp và thiếu việc làm 3.1 Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trẻ khu vực thành thị Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động khu vực thành thị năm 1996 là rất cao 10,5% (tỷ lệ này ở người lớn tuổi là 4,4%) đến năm 2006 tăng lên 13,4% (mặc dù tỷ lệ thất nghiệp ở người lớn tuổi đã giảm xuống còn 3,7%). Điều này phản ánh một thực tế là mặc dù tăng trưởng kinh tế nhưng tốc độ tạo việc làm không đủ để cung cấp cơ hội việc làm cho lực lượng lao động, đặc biệt là lao động trẻ. Bảng 9: Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trẻ và lao động lớn tuổi khu vực thành thị Năm Thanh niên Lớn tuổi 1996 10,5 4,4 1997 11,2 4,6 1998 13,4 5,1 1999 19,4 3,7 2000 16,8 4,3 2001 13,7 3,8 2002 16,1 4,0 2003 14,1 4,1 2004 13,9 4,0 2005 13,4 3,7 2006 14,5 3,6 2007 14,2 3,8 Nguồn : Số liệu Điều tra Lao động – Việc làm các năm Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng thất nghiệp là do hệ thống giáo dục của nước ta đang còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Theo kết quả tổng hợp gần đây của Viện Nghiên cứu thanh niên TP Hồ Chí Minh, có tới 88,6% doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng công nhân kỹ thuật, nhưng số người đáp ứng các tiêu chuẩn lại thấp, nơi tuyển được cao nhất cũng chỉ đạt 56,7% nhu cầu. Qua khảo sát 50 doanh nghiệp tại Hà Nội với 33.115 lao động thì7 doanh nghiệp cho biết số lao động trẻ được đào tạo từ các trường nghề về chất lượng kém hơn nhiều so với yêu cầu thực tế, 43 doanh nghiệp cho biết họ phải đào tạo lại từ 3 tháng đến 1 năm. Trong khi cuộc cạnh tranh để kiếm được việc làm có thu nhập ngày một tăng trong thanh niên, thì lại có sự hụt hẫng giữa kiến thức tiếp thu được trong nhà trường với những điều mà thị trường lao động đòi hỏi. Các doanh nghiệp ngần ngại không muốn tuyển dụng lao động trẻ chưa có kinh nghiệm trong công việc. Đối với những doanh nghiệp này, chi phí để đào tạo lại hoặc bổ túc tay nghề quá cao, dẫn đến việc họ không muốn tuyển dụng lao động trẻ. Việc tuyển dụng lao động trưởng thành, với kinh nghiệm công tác và tay nghề nhất định vừa rẻ, vừa dễ dàng. Ở những nơi cần đến tay nghề, khâu tuyển dụng lại càng cạnh tranh gay gắt hơn. Trong khi nhu cầu về số lao động có bằng cấp học thuật rất thấp thì nhu cầu đối với lao động có tay nghề và kinh nghiệm thực tế lại rất cao. Hệ thống giáo dục – đào tạo của nước ta đã làm trầm trọng thêm bất cập này. Nhiều ngành nghề đào tạo hiện nay đã trở lên lỗi thời, không phù hợp với sự thay đổi cơ cấu sản xuất và công nghệ tiên tiến. Việc chạy theo bằng cấp, học vị, kiếm “một chân” trong biên chế Nhà nước đã khiến một số thanh niên coi nhẹ việc đào tạo và lựa chọn những ngành nghề mà thị trường lao động thực sự cần thiết. Bên cạnh đó, do sự thiếu phối hợp hài hòa giữa một bên là là hệ thống giáo dục – đào tạo và một bên là nguồn cung cấp cơ hội việc làm nên mặc dù thanh niên có nhu cầu tìm việc song vẫn thất nghiệp. Mặt khác, thanh niên chỉ chú trọng vào việc tìm việc làm ở thành phố mà chưa chấp nhận đi đến những nơi xa, có điều kiện khó khăn. 3.2 Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động nông thôn Trong khi đô thị có tỷ lệ thất nghiệp cao hơn thì tình trạng thiếu việc làm ở khu vực nông thôn cũng đang là vấn đề khó khăn. Tỷ lệ thiếu việc làm của thanh niên ở khu vực nông thôn trong giai đoạn 1996 – 2007 mặc dù có giảm đi nhưng không đáng kể và có những biến đổi rất mạnh. Biểu đồ 8: Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trẻ ở khu vực nông thôn giai đoạn 1996 – 2007 Nguồn : + Số liệu thồng kê Việc làm và thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 1996 – 2005 + Số liệu Điều tra Lao động – Việc làm hàng năm Trong những năm gần đây, nếu thất nghiệp chủ yếu tập trung ở khu vực thành thị thì vấn đề thiếu việc làm tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn. Một trong những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do quá trình đô thị hóa quá nhanh, mở rộng liên tục nên đất canh tác nông nghiệp ngày càng có xu hướng bị thu hẹp lại, công nghiệp hóa nông nghiệp đã khiến cho thời gian nông nhàn nhiều hơn… Vì thế, lao động trẻ ở nông thôn, đặc biệt là lao động trong độ tuổi từ 15 – 29, bị đẩy vào thị trường lao động khi họ chưa được trang bị đầy đủ những yêu cầu cần thiết đáp ứng với thị trường lao động hiện nay, cộng thêm thói quen sản xuất theo phong tục tập quán càng trở thành một rào cản lớn. Đến hết năm 2006, vẫn còn trên 1 triệu lao động trẻ ở nông thôn (= 89,5% tổng số lao động trẻ) chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học; 94,7 % thanh niên nông thôn không có chuyên môn nghiệp vụ; chỉ có 1,9% thanh niên nông thôn có trình độ đại học và trên đại học… Trường hợp “nguồn lao động dồi dào nhưng chất lượng chưa cao” ở tỉnh Vĩnh Long là một ví dụ. Các công ty xuất khẩu lao động ở đây nêu lên thực trạng “thừa – thiếu” lao động tại địa phương. Do trình độ tay nghề của lao động địa phương hoặc thấp hoặc không có nên không thể đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp công nghệ cao gây nên tình trạng lao động không có việc làm còn nhiều nhưng nhà tuyển dụng vẫn luôn khan hiếm nguồn lao động để tuyển dụng vào làm việc cho đơn vị mình. Mặt khác, cơ cấu kinh tế nông nghiệp chậm chuyển đổi, hiệu quả đầu tư tài chính thấp, hệ số sử dụng đất còn thấp nên rất khó khăn tạo mở việc làm tại chỗ. Hơn nữa, sự phát triển của các ngành nghề còn hẹp nên việc chuyển đổi cơ cấu lao động cũng gặp nhiều khó khăn. Các chính sách lớn có khả năng sử dụng nhiều lao động như chính sách tín dụng, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn, chính sách đầu tư công nghệ chế biến hàng nông sản theo hướng kinh doanh thị trường… còn chưa thep kịp với yêu cầu thực tế, do vậy hạn chế các cơ hội việc làm cho thanh niên nông thôn. Tóm lại, nguồn lao động Việt Nam tuy dồi dào nhưng chất lượng lao động thấp, không đồng đều ở các vùng, địa phương, các nhóm ngành; tổng cầu lao động trẻ có xu hướng tăng nhưng tỷ lệ đủ việc làm của lực lượng này còn thấp hơn của cả nước; phần lớn lao động trẻ vẫn hoạt động kinh tế trong ngành nông nghiệp nhưng cũng đang có xu hướng giảm dần và tích cực tăng dần trong ngành công nghiệp và dịch vụ; cơ hội làm việc của lao động trẻ trong khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn ít mà chủ yếu (>50%) hoạt động kinh tế dưới hình thức tự làm việc (phần lớn là làm nghề nông); tỷ lệ thanh niên làm công ăn lương không cao chứng tỏ đây là khu vực lao động có quan hệ lao động còn nhỏ bé và thị trường lao động ở Việt Nam vẫn chưa phát triển hoàn thiện. III. Đánh giá tác động của các chính sách việc làm trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay Đảng, Nhà nước ta luôn xác định lao động – việc làm là một trong những lĩnh vực trung tâm của quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xóa đói giảm nghèo, ổn định và phát triển đất nước, trong đó lao động trẻ là nhân tố quyết định đến sự thành công. Với một thị trường lao động phát triển chưa hoàn thiện và một nguồn nhân lực dồi dào nhưng chưa được khai thác và sử dụng đúng với tiềm năng, sự can thiệp của Nhà nước trong vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động nói chung và cho lực lượng lao động trẻ nói riêng là rất cần thiết. Trong những năm qua, giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng đối với mỗi quốc gia , đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như Việt Nam. Vì thế, nhiều chương trình và chính sách giải quyết việc làm cho lực lượng lao động trẻ đã được đưa ra áp dụng. Những kết quả bước đầu thu được cho thấy, sự can thiệp này là rất cần thiết nhưng bên cạnh đó, quá trình thực hiện các giải pháp này cũng làm nảy sinh nhiều bất cập. 1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân thành công. 1.1. Kết quả đạt được 1.1.1. Về các chính sách a) Chính sách việc làm cho lao động trẻ. Từ tư tưởng chủ đạo của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010. Bộ Lao Động – Thương binh và Xã hội đã xây dựng chiến lược việc làm trong khoảng thời gian tương ứng với mục tiêu "chuyển dịch lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế, đảm bảo việc làm cho phần lớn cho lao động có nhu cầu việc làm, nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống cho nhân dân" với các chỉ tiêu cụ thể như: tạo việc làm cho 1,5 triệu lao động/năm, đạt cơ cấu lao động nông nghiệp, công nghiệp – xây dựng, dịch vụ với tỷ trọng tương ứng là 50%, 23%, 27%, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 6% năm 2005, và dưới 5% năm 2010…; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 30% vào năm 2005 (trong đó đào tạo nghề là 22%) và 40% vào năm 2010 (trong đó đào tạo nghề là 30%)… Mặc dù không có những số liệu bóc tách hoặc chính sách riêng về việc làm cho lực lượng lao động trẻ, song những vấn đề này đã được đề cập đến trong khung chính sách chung về việc làm ở Việt Nam. Ngay sau khi đất nước được hoàn toàn giải phóng, việc làm thanh niên đã trở thành mối quan tâm lớn, được nhắc nhiều trong các Nghị quyết của Đảng, các chiến lược quốc gia và trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội mà thanh niên là đối tượng được trực tiếp thụ hưởng.. Chính sách việc làm cho lao động trẻ là một cấu thành không thể thiếu trong chính sách chung của quốc gia. Các chính sách về lao động và việc làm đã đưa ra những biện pháp khai thác lực lượng lao động hiện có, nâng cao hiệu quả lao động, bố trí công việc cho lao động dư trong mối quan hệ hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm. Trong khuôn khổ những chương trình này, đã có biện pháp chính sách nhằm tạo việc làm và tăng thu nhập, đẩy mạnh giáo dục đào tạo, phát triển tài năng trẻ và động viên thanh niên nâng cao trình độ văn hóa của mình. Lao động trẻ được khích lệ, động viên hăng hái tham gia các chương trình và dự án liên quan đến việc làm, chung phấn đầu vị sự nghiệp xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam. Chính ở đây có sự tham gia đông đảo ở mọi tầng lớp thanh niên bao gồm cả những người công tác trong lĩnh vực quản lý Nhà nước, trong khu vực quốc doanh, trong các doanh nghiêp nông thôn hiện tham gia các dự án và chương trình phát triển kinh tế xã hội. Với việc thực hiện chương trình mục tiêu của chiên lược việc làm trên đây, giai đoạn 2001 – 2005, cả nước đã tạo việc làm cho 5,55 triệu lao động; năm 2006 là 1,22 triệu và năm 2007 là 1,25 triệu lao động. Trong đó, số việc làm cho lao động trẻ chiếm khoảng 80%. Việc làm được tạo ra chủ yếu ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ (hàng năm có từ 40 – 50.000 doanh nghiệp được thành lập, đến đầu năm 2007 đã có 234.000 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh). Hiện nay, cả nước có 150 khu công nghiệp, trong đó có 110 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động. Các thành phần kinh tế tập thể và tư nhân phát triển mạnh. Hiện cả nước có trên 3 triệu hộ kinh doanh cá thể. 17535 hợp tác xã kiểu mới, trên 2000 làng nghề…Đây là những cơ sở góp phần rất quan trọng tạo ra công ăn việc làm (Theo thông tin từ cuộc hội thảo "Chính sách việc làm và bảo hiểm thất nghiệp, diễn ra vào 28 – 29/8/2008 tại Vũng Tàu). b) Chính sách đào tạo nghề. Trong giai đoạn 2001 – 2007, hệ thống các cơ sở dạy nghề đã đào tạo cho 10.650.600 người, trong đó hầu hết là thanh niên, tăng trung bình 7,56%/năm tăng khoảng 25% so với giai đoạn 1996 – 2000. Tăng trưởng việc làm đạt bình quân 2,5%/năm. Biểu đồ 9: Tỷ lệ đào tạo nghề ngắn hạn và dài hạn Nguồn: Số liệu thống kê lao động – việc làm hàng năm Trong đó, dạy nghề dài hạn đạt 1.174.600 người, tăng bình quân 15%/năm. Chất lượng và hiệu quả dạy nghề đã có bước chuyển biến tích cực: khoảng 70% học sinh học nghề đã tìm được việc làm hoặc tự tạo được việc làm ngay sau khi tốt nghiệp; ở một số nghề và một số cơ sở dạy nghề, tỷ lệ này đạt trên 90%; kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp đã có nhiều tiến bộ; trình độ của học sinh tốt nghiệp bước đầu đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Về cơ bản, lao động trẻ Việt Nam đã đảm nhận được hầu hết các vị trí làm việc trong các doanh nghiệp, kể cả những doanh nghiệp với vốn đầu tư nước ngoài. Đặc biệt phải kể đến thành tích của đoàn học sinh học nghề trẻ Việt Nam tại cuộc thi tay nghề ASEAN với 2 lần đứng ở vị trí thứ nhất vào năm 2004 và 2006, kết quả này phần nào phản ánh chất lượng dạy nghề ở nước ta đang có vị trí quan trọng trong khu vực ASEAN và đang từng bước tiếp cận với trình độ quốc tế. Đối với việc dạy nghề cho lao động trẻ là người dân tộc thiểu số, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã tham mưu cho chính phủ thí điểm và triển khai 2 hình thức dạy nghề ngắn hạn và dài hạn. Dạy nghề ngắn hạn là hình thức có chính sách hỗ trợ kinh phí cho người học nghề, tổ chức dạy nghề miễn phí; giảm học phí, cấp kinh phí thường xuyên cho các cơ sở công lập để dạy nghề ngắn hạn cho thanh niên dân tộc. Dạy nghề dài hạn áp dụng cho đối tượng là những học sinh THCS và THPT dân tộc nội trú đã tốt nghiệp nhưng không có điều kiện vào các trường cao đẳng và đại học được học nghề với sự hỗ trợ kinh phí toàn phần của Nhà nước. Cho đến nay, đã có khoảng 81 nghìn học sinh thuộc diện này đã được học nghề và nội trú ở trình độ trung cấp nghề (QĐ số 267/2005QĐ – TTg ngày 31/10/2005 TTg CP về chính sách dạy nghề đối với học sinh dân tộc thiểu số nội trú tăng cường đào tạo nghề cho con em dân tộc). Đối với thanh niên nông thôn, Chính phủ cũng có chính sách dạy nghề ngắn hạn. Theo Quyết định số 81/2005/QĐ TTg ngày 18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách, cơ chế hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn và thông tư liên tịch số 06/2006/TTLT – BTC – BLĐTBXH ngày 19/1/2006 của Liên Bộ Tài Chính, Lao động – Thương binh & Xã hội hướng dẫn thực hiện chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn; lao động trẻ nông thôn được hỗ trợ phí học nghề. Mức hỗ trợ dạy nghề tính theo số lượng học viên thực tế tốt nghiệp khoá học, nhưng tối đa không quá 300.000đ/người/tháng và không quá 150.000đ/người/khóa học nghề. Đây là một trong những nỗ lực đổi mới sự quản lý của Nhà nước theo mô hình đầu ra. Sự nỗ lực này đã đem lại những kết quả đáng khích lệ trong năm 008 vừa qua, có đến 360.000 lao động trẻ ở khu vực nông thôn được dạy nghề ngắn hạn và 28000 lao động trẻ thuộc diện chuyển đổi mục đích sử dụng được dạy nghề. 1.1.2. Về các chương trình trọng điểm tạo việc làm. a) Chương trình phát triển kinh tế - xã hội Các chương trình dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội đã góp phần tích cực giảm sức ép việc làm trong nước, tạo thêm nhiều chỗ làm việc mới đặc biệt là các chương trình, dự án phát triển kinh tế trọng điểm như: Chương trình phát triển nông nghiệp và nông thôn; thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài phát triển dịch công nghiệp - dịch vụ; Chương trình phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống; kinh tế trang trại, kinh tế hợp tác, kinh tế hộ gia đình ngày càng đóng vai trò quan trọng trong tạo việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động… Việc duy trị tốc độ tăng GDP trong giai đoạn 2001 – 2005 trên 7% đã góp phần thu hút thêm lao động thông qua các chương trình, dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội là 5,5 triệu người với phần lớn là lao động trẻ. Từ năm 2001 đến nay, vốn đầu tư phát triển ngày càng tăng (trung bình chiếm từ 35 – 40 %/năm so với GDP) thu hút đầu tư nước ngoài cũng tăng nhanh (tính đến tháng 10/2008) tổng số vốn đăng ký là 58,3 tỷ $. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển mạnh (trung bình mỗi năm có khoảng 50.000 doanh nghiệp thạnh lập mới). Hiện nay, cả nước có trên 3 triệu hộ kinh doanh các thể, trên 17500 hợp tác xã kiểu mới., trên 2000 làng…các chương trình này, đặc biệt là chương trình phát triển các ngành dịch vụ du lịch, văn hóa, thể thao…đã góp phần thu hút 70% số việc làm được tạo ra hàng năm. Năm 2006, tạo việc làm cho 1,2 triệu lao động, năm 2007 tạo việc làm cho 1,25 triệu lao động và năm 2008 tạo việc làm cho khoảng 1,28 triệu lao động trong đó chủ yếu là lao động trẻ Bên cạnh đó, với đặc thù riêng của lao động trẻ, Chính phủ cũng đã ban hành nhiêu chính sách, pháp luật nhằm phát huy tính xung kích của thanh niên tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội, góp phần ổn định việc làm cho thanh niên. Có thể kể đên hai ví dụ điển hình là việc triển khai QĐ 770/TTg ngày 20/12/1994 và QĐ 354/QĐ – TTg ngày 28/4/2000. Theo quyết định 770/TTg ngày 20/12/1994 về tổ chức và chính sách đối với nhiều thanh niên xung phong…, nhiều chương trình dự án đã được giao cho thanh niên đảm nhận. Đến 2005 cả nước có 25 tỉnh thành và 5 tổng công ty, công ty Nhà nước và lực lượng thanh niên xung phong với 2 vạn lao động ổn định, gần 3 vạn lao động theo thời vụ. Trong đó có 20 khu kinh tế thanh niên đang quản lý gần 12000 ha đất nông, lâm, ngư nghiệp, thu hút 14250 hộ thanh niên lập nghiệp tại khu kinh tế mới, tạo việc làm thường xuyên cho 26000 lao động vùng dự án. Lực lượng thanh niên xung phong đã thực hiện 6 dự án thuộc chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng, chăm sóc,bảo vệ và khoanh nuôi 10600ha rừng, xây dựng 3 trạm xá trường học, 1 trung tâm khuyến nông; 10 km đường giao liên xã, giải quyết việc làm cho khoảng 10.000 lượt thanh niên vùng dự án. Thực hiện hai dự án thuộc chương trình 773, với tổng số vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước 12.14o triệu đồng, vốn huy động từ dân cư là 6500 triệu đồng, lực lượng lao động trẻ đã mạnh dạn tham gia đầu tư đầm nuôi tôm, giúp giải quyết việc làm thường xuyên cho 1000 lao động. Theo chương trình Biển hải đảo, thanh niên cũng thực hiện 2 dự án xây dựng "đảo thanh niên" tại đảo thanh niên Bạch Long Vĩ và đảo Cồn Cỏ với tổng vốn đầu tư là 33.030 triệu đồng tạo điều kiện cho 104 hộ thanh niên xung phong ra đảo xây dựng cuộc sống mới. Dự án xây dựng 4 làng thanh niên lập nghiệp ven đường mòn Hồ Chí Minh ở 4 tỉnh: Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Nam với tổng vốn đầu tư 10.790 triệu đồng cũng đã đưa được 300 hộ thanh niên lập nghiệp và giải quyết việc làm cho 1000 thanh niên vùng dự án, thu hút hàng ngàn lượt thanh niên, sinh viên tình nguyện lên làm việc tại dự án. Chương trình xây dựng cầu nông thôn mới thay thế cầu khỉ ở đồng bằng Sông Cửu Long, góp phần giải quyết việc làm cho trên 2500 thanh niên. Điều đáng chú ý là mô hình thanh niên xung phong hiện nay đã xuất hiện ngày càng nhiều các doanh nghiệp thanh niên xung phong làm ăn có hiệu quả, giải quyết việc làm cho nhiều lao động như: Công ty xây dựng và xuất khẩu giày da Hải Phòng, giải quyết việc là

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA6135.DOC
Tài liệu liên quan