Tài liệu Đề tài Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn 2001 - 2010: Lời nói đầu
Trong điều kiền toàn cầu hoá của đời sống kinh tế thế giới hiện nay, cũng như trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, Nghị quyết đại hội đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII đã xác định rõ tầm quan trọng của chiến lược kinh tế đối ngoại hướng mạnh vào xuất khẩu, một mũi đột phá của sự nghiệp công nghiệp hoá nước nhà.
Để tăng xuất khẩu trong thời gian tới Việt Nam chủ trương xuất khẩu những mặt hàng mà đất nước có lợi thế tương đối( Những mặt hàng xuất khẩu truyền thống: hàng nông lâm thuỷ sản, nhiên liệu và hàng dệt may) và một số hàng có hàm lượng kỹ thuật công nghệ cao bao gồm cả ô tô, xe máy, hàng điện từ và dịch vụ phần mềm …
Mặt hàng gạo là mặt hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam, kinh ngạch xuất khẩu năm 1999 đạt 304 triệu USD, đến năm 2000 đã tăng lên 679 triệu USD chiếm 6,7% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam. Và là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lần thứ 5 sau dầu thô, dệt may, dầy dép, thuỷ sản, điện tử máy tính linh kiện. Trong ...
80 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1137 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn 2001 - 2010, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Trong điều kiền toàn cầu hoá của đời sống kinh tế thế giới hiện nay, cũng như trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, Nghị quyết đại hội đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII đã xác định rõ tầm quan trọng của chiến lược kinh tế đối ngoại hướng mạnh vào xuất khẩu, một mũi đột phá của sự nghiệp công nghiệp hoá nước nhà.
Để tăng xuất khẩu trong thời gian tới Việt Nam chủ trương xuất khẩu những mặt hàng mà đất nước có lợi thế tương đối( Những mặt hàng xuất khẩu truyền thống: hàng nông lâm thuỷ sản, nhiên liệu và hàng dệt may) và một số hàng có hàm lượng kỹ thuật công nghệ cao bao gồm cả ô tô, xe máy, hàng điện từ và dịch vụ phần mềm …
Mặt hàng gạo là mặt hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam, kinh ngạch xuất khẩu năm 1999 đạt 304 triệu USD, đến năm 2000 đã tăng lên 679 triệu USD chiếm 6,7% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam. Và là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lần thứ 5 sau dầu thô, dệt may, dầy dép, thuỷ sản, điện tử máy tính linh kiện. Trong thời gian tới, tuy có sự thay đổi các mặt hàng xuất khẩu chính yếu của Việt Nam, nhưng gạo vẫn là một trong những mặt hàng xuất khẩu lớn của đất nước.
Mặt hàng gạo còn giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam, góp phần quan trọng trong việc giải quyết công ăn việc làm cho hàng cho triệu người dân và đảm bảo an ninh xã hội cho đất nước cũng như thoả mãn nhu cầu lương thực ngày càng tăng của thị trường trong nước và thế giới.
Nhận thức được tần quan trọng của xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian tới, cũng như trước đòi hỏi thực tế của việc hoàn thiện, nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam, cùng với những kiến thức được trang bị tại nhà trường và những tìm hiểu thực tế trong đợt thực tập cuối khoá tại vụ kế hoạch và thống kê - Bộ thương mại, em mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu: " Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn 2001 - 2010".
Mục đích của đề tài này là: từ việc nghiên cứu khẳng định tính đúng đắn của xuất khẩu gạo ở Việt Nam và phân tích thực trạng xuất khẩu gạo trong một số năm qua, đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo trong thời gian tới.
Do khuôn khổ bài viết có hạn chế, nên không tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô để đề tài có chất lượng cao hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Lê Hữu Khi, là người đã trực tiếp hướng dẫn và cho em những ý kiến quí báu, đồng thời xin cảm ơn PTS Hoàng Thịnh Lâm, và CVCC các cô chú ở Vụ kế hoạch Thống kê - Bộ Thương mại đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Chương I
Tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo trong quá trình phát triển kinh tế Việt Nam.
I. Tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân.
1. Các lý thuyết về thương mại quốc tế.
1.1. Tính tất yếu khách quan của thương mại quốc tế.
Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hoá giữa các nước thông qua trao đổi buôn bán nhằm mục đích kinh tế tối đa. Trao đổi hàng hoá là hình thức của các mối quan hệ hệ thống xã hội và phản ánh sự phụ thuộc sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những ngươì sản xuất kinh doanh hàng hoá riêng biệt của các quốc gia.
Quốc gia cũng như cá nhân không thể sống riêng lẻ mà vẫn đầy đủ được. Thương mại quốc tế đã trở thành vấn đề sống còn, vì nó cho phép thay đổi cơ cấu sản xuất và nâng cao mức tiêu dùng của dân cư một quốc gia. Ngày nay, khi quá trình phân công lao động quốc tế đang diễn ra hết sức sâu sắc thì thương mại quốc tế gắn liền với quá trình phân công lao động quốc tế. Xã hội càng phát triển, phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu sắc. Điều đó phản ánh mối quan hệ phụ thuộc kinh tế giữa các quốc gia ngày càng tăng lên. Thương mại quốc tế cũng vì thế mà ngày càng mở rộng và phức tạp.
Thương mại quốc tế xuất hiện từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên và xã hội giữa các quốc gia. Do đó các quốc gia phải tăng cường xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Lý thuyết này mặc dù cho phép giải thích bản chất bên trong của các hiện tượng kinh tế, song đó đã là những tư tưởng của các nhà kinh tế cổ điển về hiện tượng và lợi ích của ngoại thương. Kế đến là các lý thuyết về lợi ích tương đối của A.smit, lợi thế tương đối của D.Ricardo, và của Hecksches - Ohlin đã từng bước đi sâu vào phân tích bản chất của vấn đề và để lại nhiều ý nghĩa thực tiễn cho đến ngày nay.
1.2. Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của A.Smith.
A.Smith đề cao vai trò của thương mại, đặc biệt là ngoại thương. Theo ông, ngoại thương đã có tác dụng thức đẩy nhanh sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của một quốc gia. Ông khẳng định rằng mặc dù ngoại thương có vai trò rất to lớn, nhưng nó không phải là nguồn gốc duy nhất đem lại sự giàu có cho một quốc gia. Sự giàu có của một quốc gia không phải do ngoại thương mà là do công nghiệp. Theo ông, hoạt động kinh tế (bao gồm cả hoạt động sản xuất và hoạt động lưu thông) phải được tiến hành một cách tự do, do bộ máy cung cầu và thị trường qui định. Từ đó ông cũng cho rằng mỗi quốc gia cần phải chuyên môn hoá vào những ngành sản xuất có lợi thế tuyệt đối, nghĩa là phải biết dựa vào những ngành sản xuất c thể sản xuất ra những sản phẩm có chi phí sản xuất nhỏ hơn so với quốc gia khác nhưng lại thu được lượng sản phẩm nhiều nhất, sau đó đem số sản phẩm đó trao đổi với một quốc gia khác có mức giá trong nước cao hơn. Chính sự chênh lệch ở quốc gia khác làm cho nền kinh tế tăng trưởng.
Như vậy, lý thuyết lợi thế tuyệt đối của A.smith cho thấy: một nước có lợi thế tuyệt đối so với nước khác về một loại hàng hoá, nước đó sẽ thu được lợi ích ngoại thương, nếu chuyên môn hoá sản xuất theo lợi thế tuyệt đối. Tuy nhiên, do lý thuyết này chỉ dựa vào lợi thế tuyệt đối, nên không thể giải thích được tại sao một nước có lợi thế hơn hẳn so với các nước khác, hoặc một nước không có lợi thế tuyệt đối nào, vẫn có thể tham gia quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tê để phát triển các hoạt động thương mại quốc tế.
1.3. Lý thuyết lợi thế tưong đối của David Ricardo.
Nhà kinh tế học cổ điển anh David Ricardo đã bổ sung thêm vào ký thuyết thương mại của Adam Smith bằng lý thuyết lợi thế tương đối. Theo ông: Mọi nước đều có lợi ích khi phân công lao động quốc tế, bởi vì phát triển ngoại thương cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước. Nguyên nhân chính là do chuyên môn hoá sản xuất một số sản phẩm nhất định của mình để đổi lấy hàng nhập khẩu từ các nước khác thông qua con đường thương mại quốc tế.
Những nước có lợi thế tuyệt đối hoàn toàn hơn hẳn các nước khác, hoặc bị kém tuyệt đối hơn hẳn so với các nước khác, vẫn có thể có lợi thế khi tham gia vào phân công lao động và thương mại quốc tế, vì mỗi nước đều có những lợi thế tương đối nhất định.
Như vậy, có thể kết luận rằng: một trong những điểm cốt yếu nhất của lý thuyết lợi thế so sánh là những lợi ích do chuyên môn hoá sản xuất và thương mại quốc tế phụ thuộc vào lợi thế so sánh chứ không phải là lợi thế tuyệt đối.
1.4. Lý thuyết Heckches - Ohlin.
Lý thuyết Heckches - Ohlin đã bổ sung rất nhiều và hạn chế những thiếu sót của lý thuyết lợi thế tương đối như lợi thế so sánh do đâu mà có, vì sao các nước khác lại có lợi thế so sánh khác nhau …?
Lý thuyết này đã giải thích hiện tượng thương mại quốc tế là do trong một nền kinh tế mở cửa, mỗi nước đều hướng đến chuyên môn hoá các ngành sản xuất mà cho phép sử dụng nhiều yếu tố sản xuất đối với các nước đó là thuận lợi nhất. Nói cách khác, theo lý thuyết Lý thuyết Heckches - Ohlin một số nước này có lợi thế so sánh hơn trong việc xuất khẩu một số sản phẩm hàng hoá của mình là do việc sản xuất nhũng hàng hoá đó đã sử dụng nhiều yếu tố sản xuất, mà một nước có được ưu đãi hơn một số nước khác về lợi thế tự nhiên của các yếu tố sản xuất đã khiến một số nước đó có chi phí cơ hội thấp hơn (so với việc sản xuất các sản phẩm hàng hoá khác) khi sản xuất những sản phẩm hàng hoá đó.
Như vậy cơ sở khoa học của lý thuyết H - O vẫn chính là dựa vào lý thuyết về lợi thế so sánh của David Ricasdo, nhưng ở trình độ phát triển cao hơn vì đã xác định được nguồn gốc của lợi thế so sánh chính là ưu đãi về các yếu tố sản xuất. Đây chính là lý thuyết hiện đại về thương mại quốc tế.
II. Vai trò của xuất khẩu gạo đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam .
1 Đặc điểm của ngành sản xuất và kinh doanh lúa gạo.
1.1. sản xuất lúa gạo phụ thuộc nhiều vào tự nhiên.
Các nước đang phát triển trên thế giới gia tăng nguồn của cải vật chất phụ thuộc vào khả năng biến đổi các nguồn lực tự nhiên thành các nguồn lực sản xuất. Đói với nước ta, đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng của ngành nông nghiệp nói chung và ngành trồng lúa nói riêng. Quá trình canh tác lúa được tiến hành trên các cánh đồng lúa chiến phạm vi không gian tương đối lớn hơn so với các ngành khác. Tuy nhiên với diện tích đất trồng lúa nhất định đã hạn chế việc tăng sản lượng lúa. Để tăng diện tích gieo trồng lúa thì khai hoang và tăng vụ là hai điểm khác hay được dùng. Năm 1998, diện tích đất trồng lúa nước của nước ta chỉ có 4,2 triệu ha nhưng nhờ tăng vụ nên diện tích gieo trồng lúa lên đến 7,3 triệu ha, nâng hệ số sử dụng đất lên 1,7 lần.
Năng suất lúa cũng bị hạn chế bởi một yếu tố khá cơ bản là độ mầu mỡ của đất đai. Các vùng với chất đất khác nhau có thể cho năng suất lúa khác nhau với cùng loại gióng lúa và cùng mức chăm sóc. Một trong những yếu tố góp phần đưa năng suất lúa của vùng đồng bằng sông hồng (ĐBSH) lên 44,4 tạ/ha và vùng (ĐBSCL) lên 40,2 tạ/ha vào năm1995, cao hơn năng suất lúa trung bình cả nước (36,9 tạ/ha) là do hai vùng đồng bằng này có được loại đất trồng lúa là loại đất phù sa. Đất phù sa có tính hơi sốt, nhiều khoáng chất tự nhiên làm cho cây lúa dễ hấp thụ và sinh trưởng nhanh.
Sản xuất lúa gạo mang tính chất thời vụ do ảnh hưởng của thời tiết khí hậu. Tính thời vụ là đặc trưng của sản xuất nông nghiệp. Mỗi loài thực vật phát triển theo thời vụ và đòi hỏi thời gian sinh trưởng nhất định. Trong thời gian này, cây lúa ít cần có sự tác động của con người. Thời gian lao động ngắn hơn thời gian sản xuất và chỉ diễn ra cấp tập vào lúc gieo cấy, thu hoạch hoặc có hiện tượng bất thường của thời tiết.Một chu kỳ canh tác lúa kéo dài từ 3 - 5 tháng tuỳ theo từng loại giống lúa.
Đặc điểm thời tiết khí hậu từng vùng khác nhau trên lãnh thổ đất nước làm cho các vụ lúa của các vùng cũng khác nhau về thời gian. Tính theo thời điểm thu hoạch lúa thì thời gian gặt lúa ở hai miền Nam và Bắc như sau:
Bảng 1: Thời gian gặt các vụ lúa ở nước ta
Vụ lúa
Miền Bắc
Miền Nam
Đông Xuân
Tháng 6 - tháng 7
Tháng 3 - tháng 4
Hè thu
-
Tháng 8 - tháng9
Mùa
Tháng 10 - tháng 11
Tháng 12 - tháng 1
Nguồn: Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn
Miền Bắc chỉ có thể trồng được hai vụ lúa đông xuân và vụ mùa. Vụ hè thu chỉ thích hợp với khí hậu Việt Nam và làm cho Nam bộ chỉ có thể trồng 3 vụ lúa. Để tận dụng đất canh tác giữa hai vụ lúa thì người nông dân đã trồng xen canh các loại cây lương thực khác như ngô, khoai, sắn… Góp phần làm tăng sản lượng của vùng và của cả đất nước.
1.2. Tập quán kỹ thuật và canh tác từng vùng
Nước ta vốn là mọt trong những cái nôi của nền văn minh lúa nước từ lâu đời. Trải qua 4 ngàn năm lịch sử dụng nước và giữ nước, dân tộc ta đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm sử dụng đất đai, nguồn nước và thời tiết khí hậu để thâm canh cây lúa. cây lúa đã trở thành cây trồng chính trong sản xuất nông nghiệp của nước ta. Cách đây hàng ngàn năm. Kỹ thuật trồng lúa đòi hỏi người nông dân phải theo dõi chặt chẽ toàn bộ quy trình sản xuất từ khâu làm đất, tưới tiêu nước, gieo cấy, làm cỏ, bón phân đến khâu thu hoạch. Hộ gia đình nông dân tận dụng được sự phân công tự nhiên theo giới và theo lứa tuổi của các thành viên trong gia đình nên đã áp dụng được các đòi hỏi của kỹ thuật canh tác lúa.
Từ khi có nghị quyết 10 (4/1998) của Bộ chính trị về đổi mới quản lý nông nghiệp, hộ nông dân thực sự trở thành đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn, thay thế cho chủ thể sản xuất nông nghiệp là các hợp tác xã nông nghiệp trước đât. Người nông dân đợc làm chủ máy móc, trâu bò và các công cụ lao động khác. Họ được quyền mua bán và chuyển nhượng các phương tiện sản xuất trên thị trường. Đất đai hợp tác xã được giao hộ nông dân để họ an tâm sử dụng lâu dài. Tất cả những chuyển đổi trên đã khuyến khích người nông dân hăng hái đầu tư sức người, sức của vào sản xuất. ảnh hưởng của Nghị quyết 10 thấy rõ ở Miền Bắc nhưng ở Miền Nam ít có tác dụng, vì các hợp tác xã và tổ đội sản xuất thành lập sau năm 1975 ở Miền Nam chính là hình thức. Tuy nhiên do địa bàn phân bố sản xuất lúa thường trùng với địa bàn phân bố dân cư nên đất đai bị chia cắt thành các mảnh nhỏ một cách rất là manh múi. Trung bình cứ 5 mảnh ở một hộ gia đình đặc biệt là ở Miền Bắc đã gây khó khăn cho cơ khí hoá và thuỷ lợi hoá.
Do đặc điểm tự nhiên các vùng khác nhau nên tập quán canh tác lúa hình thành từ lâu đời ở các vùng có một vài đặc điểm riêng. ở đồng bằng Sông Hồng làm đất trước khi gieo trồng bằng cách cày sới đất, gieo mạ và cấy bằng cây mạ non. Khi thu hoạch thì nông dân ở đồng bằng sông hồng gặt lúa về nhà tuốt, phơi thóc và đem cất trữ những lúc khó khăn. ở vùng đồng bằng Sông Cửu Long do diện tích gieo trồng lớn, gần gấp 3 lần so với do dòng bằng sông hồng nhưng mật độ dân số lại chỉ bằng 1/3 so với đồng bằng Sông Hồng. Vì vậy nhân dân ở đồng bằng Song Cửu Long làm đất bằng cách trục đất và không cần làm nát gốc rễ cây lúa vụ trước. Đến khi thu hoạch họ gặt và tuốt lúa ngay tại ruộng. Sản xuất lúa ở đồng bằng Sông Hồng còn mang tính tự cung tự cấp trong khi ở đồng bằng Sông Cửu Long mang tính chất hàng hoá hơn.
Trong kỹ thuật canh tác lúa, thuỷ lợi được coi là biện pháp hàng đầu để bảo đảm ổn định sản xuất lúa, tạo ra khả năng thâm canh, tăng vụ, khai hoang mở thêm diện tích mới, cải tạo đất phèn mặn. cây lúa pởt rất cần có nước, nhất là với các loại cây lúa nước ở vùng đồng bằng. Ông cha ta đã đúc kết "Nhất nước,nhì phần, tâm cần, tứ giống". Nước phải được cung cấp đầy đủ và kịp thời, thừa hay thiếu nước đều làm giảm năng suất và sản lượng lúa. Chính vì vậy mà vai trò của thuỷ lợi với sản xuất lúa rất quan trọng. Các vùng chiếm trũng ở Miền Bắc trước đây chỉ trồng được vụ Đông xuân còn vụ Mùa không trồng được vào màu hè vì thường có mua bão gây ra úng lụt ở các ruộng lúa. Từ khi hệ thống thuỷ lợi gồm kênh mương và máy bơm phát triển thì nông dân vùng chiêm trũng đã trồng thêm được vụ Mùa làm tăng đáng kể sản lượng lương thực trong vùng.
1.3. Lúa gạo sau khi thu hoạch đòi hỏi phải được sơ chế ngay.
Sản phẩm của cây lưong thực đặc biệt là lúa gạo thuộc loại mau hỏng. Thành phần chủ yếu của lúa gạo là tinh bột là thức ăn của nhiều loài gặm nhấm, là môi trường dễ phát triển nấm mốc và các vi sinh vật có hại khác. Do đó hạt thóc sau khi được thu hoạch cần phải được phơi sấy và bảo quản lưu kho, khâu bảo quản còn được tiếp tục cho đến khi hạt thóc được đem ra tiêu thụ trong nước và xuất khấu.
Sơ chế đã góp phần làm tăng thời gian sử dụng lúa gạo. Phần lớn lúa gạo sau khi thu hoạch không được tiêu dùng hết ngay, còn nhu cầu về lúa gạo lại có quanh năm. Vì vậy bảo quản lưu kho lúa gạo thường thấy ở các hộ gia đình nông dân, tư tưởng và các doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh lúa gạo. Tuy nhiên nếu các phương tiện bảo quản không tốt thì thời gian bảo quản thóc bằng các bao đây ở các hộ gia đình nông dân hoặc ở các kho của các doanh nghiệp kinh doanh lúa gạo ở nước ta dễ làm giảm phẩm chất thóc gạo khi độ ẩm môi trường lên cao trên 70 - 80%. Do đó để tăng thời gian sử dụng lúa gạo hơn nữa thì phải nâng cao chất lượng của phương tiện bảo quản.
Giá trị và giá trị sử dụng của luá gạo cũng tăng lên qua sơ chế. Giá trị được tăng thêm gồm các chi phí cần thiết đã bỏ ra để tách trấu, tách tấm cám, lọc sạn, đánh bóng, phân loại. Giá gạo thường cao hơn giá thóc 70%. về mặt gái trị sử dụng sơ chế lúa gạo không những cung cấp cho các loại nhu cầu đa dạng của các tầng lớp dân cư mà còn cho xuất khẩu gạo. Gạo có chất lượng cao với tỷ lệ tấm dưới 15% được nước ta xuất khẩu nhiều hơn. Phụ phẩm của xay xát lúa gạo là tấm cám có thể làm thức ăn cho chăn nuôi đối với lợn, gà, vịt.. Gạo xấu có thẻ dùng để nấu rượu, làm bún bánh. ở một số vùng người nông dân còn dùng rơm làm thành nấm để ăn. Rợm rạ thu được sau khi tuốt lúa và vỏ trấu thu được trong xay xát được người nông dân ở nhiều vùng nông thôn dùng làm chất đốt để đun nấu cho sinh hoạt gia đình.
1.4. sản phẩm của ngành là mặt hàng thiết yếu của dân cư
lương thực là nhu yếu phẩm cần thiết hàng ngày của mọi người, là mặt hàng chiến lược của đất nước trước mắt cũng như lâu dài. K. Marx đã từng nói:" Con người trước hết cần phải có ăn mặc, ở trước khi lo đến chuyện làm chính trị, kho học nghệ thuật, tôn giáo.." Khi nền kinh tế phát triển, cơ cấu bữa ăn cảu con người thay dodỏi theo hướng tăng dần tỷ trọng của phần thức ăn giầu đạm như thịt, trứng, sửa… nhưng trong 1 đơn vị thức ăn gia súc có trên dưới 80% là nguyên liệu là từ lương thực. Trong điều kiện nước ta hiện nay, vến đề đang được quan tâm giải quyết trước tên là chất bột mà trong chất bột tập trung chủ yếu vào lúa gạo. Đối với đời sống nhân dân ta thì lúa gạo là mặt hàng thiết yếu. Gạo chiếm khoảng 80% toỏng năng lượng hàng ngày, quyết định đến việc đảm bảo năng lượng cho cuộc sống của con ngưòi. Tập quán nấu gạo thổi cơm đã có từ bao đời và là món ăn không thể thiếu được với đại đa số ngưòi dân Việt Nam.
Tuy vậy lúa gạo thuộc dạng thành phẩm thiết yếu ở dạng thô. Cung cầu lúa gạo dưới dạng thô thường không ổn định nên giá cả của nó cũng không ổn định và có xu hướng giảm so với gái hàng sản phẩm công nghiệp do sự phát triển của khoa học và công nghệ. Theo quy luật tiêu dùng sản phẩm của Engels thì khi thu nhập có thể sử dụng (DI) tăng lên thì lượng tiêu dùng sản phẩm thiết yếu như lúa gạo sẽ tăng lên nhưng với tốc độ chậm hơn tốc độ tăng DI. Từ đó ta có thể hệ số co dãn cuả cầu theo thu nhập (ED/I) của mặt hàng lúa gạo có dạng: 0< ED/I < 1.
Đồ thị 1" Mối quan hệ giữa lượng tiêu dùng sản phẩm thiết yếu với thu nhập có thể sử dụng.
Tâm lý và quán tính của lề lối cũ vẫn còn tạo nên độ trễ trong hành vi ứng xử của các chủ thể tham gia thị trường nhất là người nông dân ĐBSH. Mặc dù người nông dân là chủ thể sản xuất ra lúa gạo nhưng chủ thể kinh doanh lúa gạo hiện nay của nước ta do nhiều thành phần kinh tế tham gia là quốc doanh và các thành phần kinh tế khác. Điểm này khác với cơ chế trước đây chỉ có quốc doanh thực hiện thu mua, lưu thông, phân phối lương thực. Đố với việc xuất khẩu lúa gạo, Nhà nước ta quy định cho quóc doanh lương thực thực hiện là chủ yếu. Các thành phần kinh tế khác có thể mua bán l úa gạo ở những nơi trong nước mà họ cho là sẽ đem lại hiệu quả cho hoạt động ks của họ. Đây là đặc điểm quan trọng của ngành kinh doanh lúa gạo nước ta hiện nay.
2- vai trò của xuất khẩu gạo đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế ở nước ta.
2.1. Đối với tăng tưởng kinh tế
Nông nghiệp là ngành có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định và phát triển kinh tế trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá của các nước đang phát triển như nước ta. sản xuất lúa gạo hiện chiếm 10 - 15% GDP, 90% sản lượng lương thực và 65% tổng diện tích gieo trồng cả nước. Sản xuất lúa gạo phát triển đã góp phần làm cho nền kinh tế tăng trưởng bên vững. Tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự gia tăng về quy mô khối lượng sản xuất và dịch vụ thực hiện trong môt thời gian nhất định thường là một năm. Có hai chỉ tiêu cơ bản để đánh giá sự tăng trưởng kinh tế là mức gia tăng (DY) và tốc độ tăng trưởng (GT).
Nếu gọi Yt và yt - 1 là sản lượng sản xuất và dịch vụ của nền kinh tế hoặc của ngành vào năm (t) và năm (t - 1) thì:
Mức tăng trưởng: DY = Yt - Yt - 1
Tốc độ tăng trưởng: gt = Yi - Yt -1 . 100 (%)
Yt -1
Sản xuất lúa của nước ta những năm vừa qua liên tục gặt hái được những thành tựu trong việc gia tăng sản lượng. Sản lượng lúa tăng lên hàng năm với tốc độ trên 5%
Bảng 2: sản lượng lúa nước ta
Năm
1997
1998
1999
2000
sản lượng (triệu tấn)
23,528
24,937
26.397
27,524
Tốc độ tăng sản lượng (%)
-
5,98
5,85
4,27
Nguồn: Niên giám trhống kê năm 2000
Nhờ có sự đóng góp đáng kể của ngành trồng lúa mà GDP của ngành nông nghiệp những năm qua tăng lên cả về mức tăng trưởng và tốc độ tăng bình quân của GDP nông nghiệp từ năm 1997 đến năm 2000 vào khoảng 4%/năm. Riêng năm 2000 có mức tăng chậm hơn các năm trước đó ngành nông nghiệp chịu ảnh hưởng của thời tiết khí hậu bất thường và hậu quả của cuộc khủng hảng tài chính - tiền tệ Đông Nam á.
Bảng 3: GDP nông nghiệp của Việt Nam (tính theo giá so sánh 1994)
Đơn vị tỷ đồng
Năm
GDP nông nghiệp
DY
gt (%)
1996
50.145
-
-
1997
51.319
1.174
4,8
1998
53.577
2.258
4,44
1999
55.985
2.318
4,3
2000
57.422
1.527
2,7
Nguồn: Niên giám thống kê năm 1998
Theo mô hình nền kinh tế mở có tính đến xuất - nhậpk khẩu thì ta có:
AD = Y = C + G + I + X - N
TRong đó: AD: Tổng cầu của nền kinh tế
Y: Tổng sản lượng cuả nền kinh tế
C: Tiêu dùng của Chính phủ
I: Đầu tư của doanh nghiệp
X - N: Xuất khẩu ròng, là hiệu số của xuất khẩu và nhập khẩu
Kim ngạch xuất khẩu gạo tăng hàng năm góp phần không nhỏ vào việc thúc đảy kinh tế nông nghiệp nói riêng cũng như tăng trưởng kinh tế quốc dan nói chung trong thời kỳ đổi mới của nước ta. Xuất khẩu gạo nước ta bắt đàu từ năm 1989 và từ đó gạo trở thành một mặt hàng xuất khẩu thô chủ yếu của nước ta. sản lượng lương thực năm 1989 là 19 triệu tấn thì đến năm 1989 là 31 triệu tấn. Năm 1989 xuất được 1,43 triệu tấn gạo với kim ngach 321 triệu USD thì đến năm 1998 thì xuất được 3,8 triệu tấn. Xuất khẩu gạo một mặt chứng tỏ nước ta có đủ khả năng sản xuất để đảm bảo tiêu dùng trong nước, dự trữ, mặt khá có khả năng xuất khẩu do đó nước ta vừa không phải nhập khẩu gạo như những năm trước 1989, vừa góp phần tăng thu ngoại tệ cho đất nước và cán cân thương mại quốc tế cũng được cải thiện (giảm thâm hụt hoặc thặng dưu thương mại). Tham hụt cán cân vãng lai nước ta năm 1998 giảm còn 1,6 tỷ USD. Năm 1998 kim ngạch xuất khẩu gạo là 1.003 triệu USD, chiếm 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
2.2. Đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Cơ cấu ngành kinh tế là tổng hợp các ngành và mối quan hệ giữa các ngành với nhau trong việc hình thành tổng thể nền kinh tế quốc dân. Theo hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) thì các ngành kinh tế nước ta gồm 20 ngành kinh tế cấp I,. Tập chung vào 3 khu vực là nông - Lâm - Thuỷ sản (KVI), công nghiệp - xây dựng (KVII) và dịch vụ (KVIII). Sau đó lại chia thành các ngành nhỏ hơn có số cấp lớn hơn. Chẳng hạn ngành nông nghiệp (cấp I) -> trồng trọt (cấp 2) ->trồng cây lương thực (cấp 3) -> trồng lúa (cấp 4)…
Sản xuất lúa gạo là ngành đang giữ vai trò chủ yếu trong ngành nông nghiệp nước ta. hàng năm sản lượng lúa chiếm 90% sản lượng lương thực, giá trị sản lượng lương thực chiếm 60% giá trị tròng trọt, giá trị ngành trồng trọt chiếm 75% giá trị ngành nông nghiệp còn ngàng công nghiệp chiếm 27% GDP
Trong cơ cấu ngành kinh tế, ngành sản xuất lúa gạo có mối quan hệ chặt chẽ với nhiều ngành khác. Sản xuất lúa gạo cần có các yếu tố đầu vào là các vật tư nông nghiệp nưa phân bón, thủy lợi, thuốc trừ sâu, giống lúa. Khi ngành sản xuất lúa gạo phát triển, gia tăng về quy mô sản lượng và chất lượng lúa gạo thì đòi hỏi các ngành cung cấp đàu vào cũng phải phát triển cung cấp nhiều hơn và có chất lượng hơn để có thể đảm bảo đạt năng suất, sản lượng và chất lượng theo yêu cầu đề ra ban đàu. Đó là các mối quan hệ ngược. Ví dụ như ngành trồng lúa phát triển thì nó phải cần nhiều các giống lúa có năng suất cao và chất lượng tốt để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Các giống lúa có từ 2 nguồn là tự lai tạo nhập nội. Muốn có các giống lúa có nhiều phẩm chất tốt thì phải có đội ngũ các nhà khoa học giỏi trong lĩnh vực lai tạo giống lúa, hệ thống cơ sở vật chất như các phòng thí nghiệm ở các viện nghiên cứu phục vụ cho việc nghiên cứu tốt và đồng thời phải có hệ thống kiểm dịch tốt trước khi nhập các giống lúa của nước ngoài vào nước ta. Sản xuất lúa gạo cũng có mối quan hệ xuôi với các ngành sử dung lúa gạo như là một loại đầu vào của một ngành đó. Đó là các ngành xay xát, chế biến, chăn nuôi gia xúc, gia cầm, kinh doanh lúa gạo trong và ngoài nước. Khi sản xuất lúa gạo phát triển, sản lượng lúa gạo tăng lên làm cho ngành xay xát có điều kiện phát triển, phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Xay xát lúa gạo nước ta hiện nay phát triển chủ yếu ở thành phần kinh tế tư nhân có quy mô vừa và nhỏ, gọn và năng động. Khi các nhu cầu về ăn trực tiếp giảm thì nhu cầu về các loại khác chế biến từ gạo tăng lên như rượu, bia, bún bánh.. thực tế cho thấy ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm những năm gần đây của nước ta có nhiều triển vọng và đang trên đà phát triển nhờ có một phần tăng sản lượng lúa gạo. Đàn lựon nước ta năm 1991 có 12,19 triệu con, đến năm 1998 có khoảng 18 triệu con. Gia cầm nước ta năm 1995 có 142 triệu con, đến năm 1998 có khoảng 18 triệu con. Gia cầm nước ta năm 1995 có 142 triệu con, đến năm 1998 có 171 triệu con. Lượng gạo xuất khẩu của nước ta những năm qua tăng lên, đã làm tăng thu ngoại tệ cho đất nước và làm tăng tính sôi động của thị trường nội địa, nhất là ở các tỉnh phía nam.
Ngành sản xuất lúa gạo không chỉ có mối quan hệ trực với các ngành trên mà còn quan hệ gián tiếp với nhiều ngành khác. Khi sản lượng lúa gạo tăng lên, bán được gái cả có lãi ở thị trường trong nước và nước ngoài thì thu nhập của người nông dân được cải thiện và sức mua của họ với các sản phẩm công nghiệp và dịch vụ tăng lên. Thị trường nông thôn luôn là thị trường tiềm năng đối với các sản phẩm tiêu dùng và dịch vụ khi mà một số sản phẩm công nghiệp tiêu dùng ở thành phố thị trường đã bão hoà chẳng hạn đối với sản phẩm ti vi mầu do nội địa nắp ráp thì đang được thị trường các vùng nông thôn chấp nhận do chất lượng khá tốt và giá cả lại phù hợp với thu nhập ở nông thôn.
2.3. Phát triển kinh tế nông thôn
Trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, sản xuất lúa gạo thu hút nhiều lao động tham gia trong các dịch vụ cung cấp đầu vào, sản xuất và chế biến lúa gạo. Thu nhập của người lao động trong khu vực nông nghiệp được bước đầu ổn định và tăng lên làm cho họ có điều kiện nâng cao mức người tiêu dùng lương thực, thực phẩm mà các sản phẩm khác. Tổ chức nông, lương của Liên hiệp quốc (FAO -Food agriculture organization) Lấy mức 2.100 kcal làm ngưỡng cửa mức nghèo. ở nước ta năm 1993 mức bình quân 1.932 kcal/ người/ ngày. Theo cách phân loại này, năm 1993 tỷ lệ người nghèo ở Việt Nam chiếm 52%, là một trong những nước nghèo nhất thế giới. Trong khi đó tỷ lệ này ở Trung Quốc 9%, Indonesia là 15%, Thái Lan 16% và Philpin là 28%. Mục tiêu đến nam 2000 nước ta phấn đấu đạt mức bình quân là 2100 Kcal/người/ngày. Bộ lao động và thương bình xã hội Việt Nam lấy thu nhập quy thóc bình quân đầu người bình quân hàng tháng tính ra mức nghèo và mức rất nghèo ở nông thôn và thành thị như sau:
Rất nghèo: < 13 kg thóc ở nông thôn
< 15kg thóc ở thành thị
Nghèo: < 20kg thóc ở nông thôn, Đồng bằng và trung du.
< 15kg thóc ở miền núi
Theo cách này, tỷ lệ hộ rất nghèo và nghèo ở nước ta năm 1993 là 4,1% và 16,2%, tổng cộng hộ ở mức nghèo trở xuống là 19,3%. Tuy nhiên mấy năm qua nhờ có chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thong theo hướng ngành, đa canh và kinh doanh tổng hợp mà tỷ lệ hộ đói nghèo ở nước ta đang có xu hướng giảm dần. Năm 1998 tỷ lệ này giảm còn 13,5%.
Bảng 4: Tỷ lệ hộ đói nghèo ở nước ta từ năm 1993 - 1998
Năm
1993
1994
1995
1996
1997
1998
Tỷ lệ (%)
19,3
17,8
16,5
15,7
14,2
13,5
Nguồn: Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Tính đến nay, đời sống nông dân ở nước ta đã được cải tiến. Cả nước có 70% só xã có điện, 93% có đường ô tô đến trung tâm xã, 98% có trường cấp I, 76% có trường cấp II, 92% có trạm truyền thanh, 58% số hộ nông dân có nhà kiên cố và bán kiên cố, 65% số hộ có nước sạch hợp vệ sinh để dùng. Cơ sở hạ tầng nông thôn về thuỷ lợi, giao thông, điện khá lên
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu gạo Việt Nam
Kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường, đòi hỏi phải thường xuyên nắm bắt được các yếu tố của môi trường kinh doanh, xu hướng vận đng và tác động của nó đến toàn bộ quá trình hoạt động kinh doanh của các tổ chức. Đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu gạo, các tổ chức xuất khẩu phải chịu sự chi phối của các nhân tố bên ngoài nước. Các nhân tố này thường xuyên biến đổi vì vậy làm cho quá trình kinh doanh xuất khẩu gạo ngày càng phức tạp hơn. Để nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu đòi hỏi các tổ chức xuất khẩu gạo phải nắm bắt được và phân tích được ảnh hưởng của từng nhân tố tới hoạt động xuất khẩu của các tổ chức trong từng thời kỳ cụ thể.
1. Môi trường quốc tế.
Trong xu thế toàn cầu hoá thì phụ thuộc giữa các nước ngày càng tăng. Vì vậy, mỗi sự biến đổi của tình hình kinh tế xã hội ở nước ngoài đều có ảnh hưởng nhất định đến hoạt động kinh tế trong nước. Hoạt động xuất khẩu là lĩnh vực trực tiếp quan hệ với các chủ thể ở nước ngoài, chịu sự chi phối và tác động của các nhân tố ở nước ngoài nên nó lại càng rất nhạy cảm. Bất kỳ một sự thay đổi nào về chính sách xuất khẩu, tình hình lạm phát, thất nghiệp hay tăng trưởng và suy thoái kinh tế … của các nước đều ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu ở nước ta.
Thị trường gạo trên thế giới trong những năm gần đây có nhiều biến động. Cùng với sự phát triển kinh tế là sự gia tăng thu nhập quốc dân của mọi tầng lớp nhân dân, dẫn đến sự gia tăng tiêu dùng mọi mặt hàng, trong đó có mặt hàng gạo. Một bộ phận lớn người nghèo có thu nhập lên do đó họ gia tăng tiêu thụ gạo. Trong hiện tại và tương lai, sản phẩm gạo vẫn là nguồn lương thực không thể thiếu đối với con người. Dân số thế giới ngày một tăng lên, trong khi đó từ nay đến năm 2010, khả năng tăng sản lượng gạo không nhiều. Vì vậy, sẽ dẫn đến việc tăng nhanh chu chuyển gạo trên qui mô toàn cầu.
Ngay từ năm 1990 thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là Châu á và Châu phi. Tỷ trọng xuất khẩu gạo sang các nước Châu á tươg đối mạnh đồng thời giảm tỷ trọng xuất khẩu gạo sang các nước Châu phi. Trong những năm đầu ta chưa xuất khẩu trực tiếp mà phải thông qua các môi giới trung gian.
Trong đó, các Công ty môi giới Pháp chiếm 30 - 50% tiếp đó khách hàng Hồng Kông chiếm 10 - 15%, Hàn Quốc chiếm 5 - 15%, Nhật bản mua hàng năm chiếm 2% … Ngoài ra gạo Việt Nam được bán cho các thương nhân ở rất nhiều nước. Đến năm 1995 tuy gạo Việt Nam đã có mặt trên 80 nước thuộc tất cả các địa lục nhưng phần gạo xuất khẩu qua trung gian vẫn còn chiếm đáng kể. Thực sự thì Việt Nam chưa xây dựng được cho mình hệ thống bạn hàng trực tiếp tin cậy, lại bị giảm thu nhập xuất khẩu cho khoản hoa hồng môi giới. Để tăng cường xuất khẩu trực tiếp mạnh hơn nữa, bên cạnh sự chủ động tìm kiếm thị trường của bản thân doanh nghiệp, Nhà nước càn hỗ trợ việc mở rộng các quan hệ cấp chính phủ xung quanh hoạt động buôn bán gạo.
2. Môi trường văn hoá xã hội.
Môi trường văn hoá xã hội được coi là: một tổ hợp phức tạp gồm nhiều kiến thức, tín ngưỡng luật pháp, nghệ thuật, lý luận và tất cả những thói quen khác mà con người đã thu thập được vì là thành viên của xội. Vùng ảnh hưởng của một nền văn hoá có thể trải qua nhiều nước hoặc nhiều vùng.
Thị trường được xây dựng trước hết bởi khách hàng. Khách hàng và hành vi ứng xử của họ trên thị trường phụ thuộc rất lớn vào môi trường văn hoá xã hội (từ cách sống, cách chi tiêu, lựa chon sản phẩm …), cũng như các đối thủ cạnh tranh và cách sử dụng của họ chịu ảnh hưởng bởi môi trường văn hoá mà họ hoạt động. Đối với các doanh nghiệp hoạt động ngoại thương, do khách hàng là những người có quốc tịch khác nhau và do mỗi nền văn hoá có đặc trưng riêng, tác động lên các thành viên trong xã hội, do vậy nhu cầu, thị hiếu, thói quen, tập quán tiêu dùng … ở các nước là khác nhau. Bởi vậy, nghiên cứu thị trường cần phải nghiên cứu các tham số của môi trường này bao gồm: dân số, xu hướng vận động của dân số, thu nhập và phân phối thu nhập, chủng tộc, tôn giáo, nền văn hoá … Trong kinh doanh gạo cần thiết phải nắm rõ các tham số trên để đạt được tính hiệu quả cao, khai thác hợp lý các nguồn hàng, cung cấp đúng thị hiếu về sản phẩm gạo cho từng vùng thị trường.
3. Môi trường kinh tế và công nghệ.
Đây là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chiến lược và thời cơ kinh doanh của các doanh nghiệp. Môi trường công nghệ là cơ sở hạ tầng đảm bảo cho sự phát huy môi trường kinh tế và ngược lại, môi trường kinh tế tạo điều kiện và đưa ra những khả năng để phát huy môi trường công nghệ.
Hiện nay nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường, chịu sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế và mở cửa ra bên ngoài, tự do buôn bán, kinh doanh xuất nhập khẩu theo khuôn khổ luật pháp cho phép. Tất cả mọi vấn đề đều do các doanh nghiệp tự mình giải quyết, Nhà nước chỉ đóng vai trò quản lý, định hướng. Điều này tạo ra cho các doanh nghiệp quyền chủ động sáng tạo nhiều hơn và làm ăn có hiệu quả hơn. Các chính sách khuyến khích xuất khẩu của Nhà nước.
- Cho vay với lãi suất thấp.
- Trợ cấp xuất khẩu.
- Xây dựng biểu thức thuế xuất khẩu.
Yếu tố tỷ giá hối đoái hiện nay cũng tác động mạnh mẽ tới hoạt động kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp. Nó là một yếu tố tác động trực tiếp tới hiệu quả của thương mại quốc tế. Tỷ giá hối đoái tăng sẽ khuyến khích nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu và ngược lại.
Yếu tố lạm phát và khả năng kiểm soát lạm phát của chính phủ không chỉ là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu, mà còn kéo theo nhiều vấn đề kinh tế xã hội nảy sinh. Bởi vậy, mục tiêu của bất kỳ chính phủ nào cũng là kiểm soát lạm phát và kìm giữ lạm phát ở mức thấp nhất, tạo một môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp yên tâm sản xuất kinh doanh. Chính phủ Việt Nam đã đạt được thành công lớn trong việc kiểm soát lạm phát.
Các chính sách khác của Nhà nước như xây dựng các mặt hàng chủ lực, trực tiếp gia công xuất khẩu, đầu tư cho xuất khẩu, lập các khu chế xuất, các chính sách tín dụng xuất khẩu … cũng góp phần to lớn tác động tói tình hình xuất khẩu của một quốc gia. Tuỳ theo mức độ can thiệp, tính chất, phương pháp sử dụng các chính sách trên mà hiệu quả và mức độ ảnh hưởng của nó tới lĩnh vực xuất khẩu sẽ như thế nào.
Thành công của ngành lúa gạo bắt đầu từ đổi mới cơ chế đầu tư bao cấp sang cơ chế tự cân đối, tự trang trải, lấy nguồn thu trong xuất khẩu gạo để đầu tư lại cơ sở vật chất, kỹ thuật của ngành, gần việc đầu tư với việc áp dụng giống mới công nghệ mới, sản xuất với tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy việc tang cường đầu tư cho ngành sẽ tạo tiềm lực để phát triển, đáp ứng từng bước đòi hỏi của sản xuất, xuất khẩu, góp phần vào tăng trưởng của ngành, thúc đẩy xuất khẩu gạo phát triển.
Ngày nay, khoa học công nghệ tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Yếu tố công nghệ có tác động làm tăng hiệu quả trong kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp. Yếu tố công nghệ tác động đến tình hình khai thác, chế biến, tình hình sản xuất và chi phí lưu thông trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Khả năng cạnh tranh của gạo xuất khẩu là nhân tố quan trọng quyết định tới sự phát triển sản xuất và xuất khẩu gạo Việt Nam. Nếu sản phẩm có khả năng cạnh tranh càng cao thì càng dễ được thị trường chấp nhận, cũng có nghĩa là ngành lúa gạo có triển vọng mở rộng và phát triển. Mà một trong những nhân tố tác động trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm gạo xuất khẩu là công nghệ chế biến gạo xuất khẩu. Khoa học công nghệ tiên tiến tác động mạnh tới ngành công nghiệp chế biến gạo Việt Nam, chuyển sản phẩm xuất khẩu gạo từ sản phẩm thô, sơ chế là chủ yếu sang chủ yếu xuất khẩu những sản phẩm được chế biến sâu tinh chế. Nhờ áp dụng công nghệ khoa học kỹ thuật tiến tiến sẽ giúp cho việc phơi sấy, bảo quản sản phẩm gạo xuất khẩu được tốt hơn, duy trì chất lượng, áp dụng tiêu chuẩn chất lượng, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành gạo xuất khẩu trên thị trường quốc tế.
4. Môi trường chính trị và pháp luật
Đây cũng là một trong những nhân tố mạnh mẽ tới việc mở rộng hay kìm hãm sự phát triển, cũng như việc khai thác các cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp gạo xuất khẩu.
Nước ta có môi trường chính trị ổn định, tạo điều kiện cho các đối tác làm ăn với các doanh nghiệp kinh doanh gạo luôn tuân theo khuôn khổ pháp luật Nhà nước. Với chính sách đối ngoại: đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước. Đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với hơn 100 nước trên thế giới. Trên cơ sở các mối quan hệ ngoại giao, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác, liên doanh liên kết sản xuất kinh doanh giữa Việt Nam với các nước, đã mở ra cho các doanh nghiệp ngoại thương nước ta có nhiều cơ hội kinh doanh.
Ngành lúa gạo và các cơ quan chức năng của Nhà nước ngày càng xúc tiến mở rộng hoạt động giao dịch thương mại quốc tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo mở rộng thị trường.
Các luật điểu chỉnh các quan hệ trong thương mại quốc tế, tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động. Hiên nay các doanh nghiệp ngoại thương, vừa phải tuân thủ theo pháp luật trong nước, vừa phải tuân theo thông lệ quốc tê và luật của các nước nhập khẩu sản phẩm Việt Nam. Luật pháp nước ta chưa hoàn chỉnh, cụ thể, chi tiết. Bộ luật thương mại đến nay mới được ban hành và cần phải kiểm nghiệm nhiều qua thực tiễn, điều này gây không ít khó khăn cho hoạt động ngoại thương. Hơn nữa các chính sách, các qui định đối với hoạt động xuất nhập khẩu liên tục thay đổi, thêm vào đó đã có nhiều cải tiến tích cực như các thủ tục hành chính vẫn còn rườm rà, quan liêu, mất nhiều cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp.
Tuy nhiên Nhà nước đã và đang thực hiện các biện pháp nhằm khuyến khích xuất khẩu, đây là các dấu hiệu đáng mừng cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo. Đặc biệt là từ khi ra đời nghị định 57/1998 NĐ - CP ngày 31/7/1998 của chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành quyền tự do kinh doanh tất cả những gì mà pháp luật không ngăn cấm, tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp hoạt động. Thủ tục xin phép đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp với điều kiện ràng buộc về vốn, tiêu chuẩn, nghiệp vụ … đối với doanh nghiệp đã được dỡ bỏ. Những ảnh hưởng về thay đổi thủ tục thông qua xuất nhập khẩu tại các của khẩu, việc áp dụng các luật thuế mới đối với hàng hoá xuất nhập khẩu cũng ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu.
5. Môi trường địa lý.
So với các phương thức vận chuyển quốc tế bằng đường sắt, đường hàng không … vận tải đường biển thường đảm bảo tiện lợi, thông dụng và mức cước phí rẻ hơn. Hầu hết các khối lượng gạo của Việt Nam trong buôn bán quốc tế bấy lâu thường được vận chuyển bằng đường biển. Trong thực tiễn chuyển chở gạo bàng đường biển, Việt Nam có nhiều lợi thế đặc biệt. Đường biển nước ta có hình chữ S trải dài từ Móng cái ở phía bắc đến tận Hà tiên ở phía nam dài khoảng 3200 km suốt từ bắc, trung, nam, bở biển nước ta ở có nhiều cảng quốc tế tiện lợi như Cửa Ông, Hải Phòng, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Sài Gòn trong đó cảng Sài Gòn là thương cảng gạo quan trọng nhất. Cảng có hệ thống kho bảo quản xuất khẩu gạo. Việc vận chuyển gạo xuất khẩu từ các điểm thuộc ĐBSCL đến cảng thường bằng đường sông khá thuận lợi. Thời gian qua, gạo Việt Nam thường xuất khẩu theo điều kiện cơ sở giao hàng FOB, cảng Sài Gòn.
Việt Nam có vị trí giao thông đường biển rất thuận lợi, hệ thống cảng biển Việt Nam nói chung đều nằm gần sát đường hàng hải quốc tế và có thể hành trình đi theo các tuyến đi Đông bắc á - Thái bình dương, Trung cận đông, Châu âu, Châu phi và Châu mỹ.
Từ thực tế đó nói chung Việt Nam có khá nhiều thuận lợi, lợi thế cơ bản trong sản xuất và xuất khẩu gạo.
IV. Yêu cầu khách quan của việc nâng cao hiệu quả xuất
1- Các chỉ tiêu đánh giá hiêu quả của sản xuất gạo
Xét theo phương diện kinh tế thì hiệu quả hiểu là phương thức sử dụng tốt nhất nguồn lực nhất định để đạt được kết qủa cao nhất.
Với cách hiểu như vậy thì hiệu quả của xuất khẩu hạo là việc sử dụng tốt nhất nguồn lực là: Điều kiện tự nhiên, lao động, vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm.v.v… để đạt được lợi nhuận cao nhất trong hoạt động xuất khẩu gạo.
Để đánh giá hiệu quả cảu xuất khẩu gạo Việt Nam cần phải xem xét toàn diện các tiêu thức sử dụng để đánh giá hiệu quả khá nhiều, phụ thuộc vào mục đích của người quản lý. ở đây chúng ta có thể đưa ra một số chỉ tiêu cơ bản làm cơ sở cho việc đánh giá hiệu quả xuất khẩu gạo như sau:
Lợi nhuận = ổng doanh thu - Tổng chi phí
- Hệ hiệu qủa kinh tế
+ Vốn/ doanh thu
+ Vốn/ lợi nhuận
- Doanh thu bình quân của
- Tỷ suất sinh lợi của vốn
2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo Việt Nam
Gạo là mặt hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam, ki ngạch xuất khẩu năm 1990 đạt 27,5 nghìn tỷ là mặt hàng có 35,9 nghìn tỷ VNĐ là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn đứng thứ 5 trong giai đoạn hienẹ nay. Trong thời gian trung hạn tới, tuy có sự thay đổi thứ hạng các mặt hàng xuất khẩu chính yếu của Việt Nam, nhưng gạo vẫn là mặt hàng xuất khẩu lớn của đất nước.
Hơn nữa ngành lúa gạo còn giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam và góp phần quan trọng trong việc giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu người dân, đảm bảo an ninh xã hội cho đất nước, cũng như thoả mãn nhu cầu lương thực của thị trường.
Nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo đóng vai trò động lực cho sự phát triển sản xuất, đưa ngành sớm đi vào kinh tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế tham gia. Đồng thời giúp sắp xếp lại cơ cấu nghề nông theo hướng sản xuất hàng hoá, liên tục mở ra các tiềm năng tự nhiên và kinh tế, áp dụng các biện oháp kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm kinh doanh và quản lý hiện đại thời gian tới xuất khẩu gạo tiếp tục là mũi nhọn để phát triển ngành nông nghiệp và có vai trò quan trọng để phát triển và cơ cấu lại kinh tế nước ta theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Xét trên quan hệ cung cầu gạo thế giới, cơ hội thâm nhập, thị trường của gạo nước ta còn tiếp tục được mở rộng. Bởi nhu cầu tiêu thụ gạo ngày một cao, xét ở từng khu vực trên thế giới, sự tăng này do tăng dân số và tăng trưởng kinh tế, do thói quan và chất lượng ngày càng cao và đượcbiết đến ở nhiều nơi… Nhưng gạo xuất khẩu nước ta thời gian tới vẫn còn nhiều khó khăn và thách thức, đòi hỏi phải có giải pháp thích hợp đẻ nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo ở nước ta.
Sản phẩm gạo nước ta chủ yếu là ở dạng sơ chế, cơ cấu sản phẩm chưa có sức cạnh tranh cao, dạng sản phẩm chế biến thô còn chiếm tỷ trọng lớn, tiềm năng khai thác thị trường mới còn nhiều, nhưng chính ở đó còn vấp phải không ít khó khăn. Do vậy chỗ đứng còn bấp bênh, phải dựa vào nhiều thị trường tái chế trong khu vực hoặc được, sức ép cảu thị trường nhập khẩu luôn làm cho các nhà xuất khẩu nước ta vào thể bị động. Đai sau thế giới trong xuất khẩu gạo, chúng ta có những thể nhất định trong việc tiếp thu công nghệ và học tập kinh nghiệm kinh doanh quản lý. Tuy nhiên, có những lợi thế có từng thời điểm mà gạo nước ta chưa có điều kiện nắm lấy. Đối với nhiều nước đang phát triển, buôn bán gạo là nguồn đáng kể để thu ngoại tệ mạnh, trong khi đối tượng xuất khẩu và chủng loại mặt hàng của nhiều nước, nhất là các nước xung quanh, cũng tương tự như hàng gạo xuất khẩu Việt Nam.
Mở rộng thị trường là sự lựa chọn đúng đắn. Tuy nhiên để thâm nhập vào các thị trường mới có triển vọng phải vượt qua các thách thức như nâng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm.
Với vai trò quan trọng và to lớn của xuất khẩu gạo, cũng như những cơ hôi và khó khăn thách thức đối với xuất khẩu gạo ở Việt Nam, thì trong thời gian tới việc nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo của nước ta là một yêu cầu có tính khách quan.
Để nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo đòi hỏi sự nỗ lực thực sự để sử dụng một cách tốt nhất các nguồn lực trong đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực tiếp thị, đảm bảo tính cạnh tranh, thâm nhập thị trường đối với mọi đối tượng gạo xuất khẩu. Với những kinh nghiệm phát triển trong thời gian qua, và những lợi thế thừa hưởng do đẩy mạnh hợp tác quốc tế, với nguồn kiến thức kinh nghiệm sẵn có của thế giới và khả năng chuyển giao công nghệ tốt hơn trước môi trường đầu tư trong và ngoài nước ngày càng thuận lợi hơn sẽ tạo điều kiện nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo Việt Nam trong thời gian tới.
Chương II
Thực trạng sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam, những tồn tại và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sản xuất xuất khẩu gạo trong thời gian tới.
I. Thực trạng sản xuất lúa gạo Việt Nam từ năm 1990 đến nay.
1. Những nét tổng thể về sản xuất lúa nói chung của cả nước từ năm 1990 đến nay.
Nước ta là một nước nông nghiệp nên ngành sản xuất lúa gạo là ngành sản xuất chính. Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) nhất là sau khi có Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (4/1998) về khoán sản phẩm, ngành sản xuất lúa gạo có những hướng phát triển đúng và đem lại những thành tựu đáng kể trên nhiều mặt. Thành tự nổi bật trong những năm qua là đã vượt qua ngưỡng cửa đói nghèo thiếu lương thực. Sản xuất lương thực đã giành được thắng lợi ttrong 10 năm liên tục với mức tăng lương thực năm sau cao hơn năm trước, bình quân mỗi năm tăng hơn 1 triệu lần.
1.1. Về diện tích.
Kể từ năm 1990 đến năm 2000, diện tích trồng lúa đã phát triển từ 6 triệu ha lên đến 8 triệu ha, tăng gần 30%. Thực tế này chưa bao giờ diễn ra ở các thời kỳ trước. Một điều đáng chú ý nữa là xu hướng tăng diện tích của thời kỳ này cũng nhanh hơn so với năng suất.
Năm 1990, diện tích đạt mức tăng lớn nhất khoảng 4,5% tương ứng với 268000 ha. Những năm gần đây, mức tăng ấy cũng không giảm đáng kể. Năm 1998 tăng 3,7%, năm 1999 tăng 3,9%, năm 2000 tăng 3,1%. Trên thực tế diện tích lúa tăng chủ yếu dựa vào hướng thâm canh tăng vụ, đặc biệt là vụ hè thu, thứ đến là vụ đông xuân. Do quỹ đất có hạn nên những năm gần đây, để tăng diện tích lúa, Việt Nam không thể tập trung vào hướng quản canh. Đây là điểm nổi bật trong sản xuất lúa ở nước ta.
Nguyên nhân chính của việc tăng nhanh diện tích cũng như sản lượng trong thời kỳ là do có nghị quyết 10 của Bộ chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, mở rộng quyền tự chủ của hộ gia đình. Vì vậy nhân dân phấn khởi đẩy mạnh thâm canh, mở rộng diện tích gieo trồng lúa thu và chiêm xuân, chủ yếu là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Đồ thị: Xu hướng biến động về sản lượng và diện tích.*****
1.2. Về năng suất.
Xu hướng tăng về năng suất trong thời kỳ này có thấp hơn so với diện tích. Bởi vì, năm 1991 và 1992 do bị thiên tai nên năng suất giảm 3,7%. Tuy vậy, xu hướng chung của cả thời kỳ 1990 - 2000 vẫn đạt 2,5%.
Đồ thị: Xu hướng biến động về sản lượng và năng suất.*****
Như trên đã thấy, so với thành quả lớn đã đạt được về sự gia tăng sản lượng, năng suất lúa nhìn chung còn bị hạn chế hơn, Việt Nam đang thuộc loại nước có mức năng suất lúa thấp.
Hiện nay, tiềm năng sản xuất lúa của Việt Nam đang còn rất lớn. Cùng với các yếu tố: độ phì nhiêu của đất đai, thuỷ lợi, phân bón … và đặc biệt là giống, Việt Nam đang có điều kiện gia tăng nhanh hơn năng suất lúa.
1.3. Về sản lượng.
Từ năm 1990 đến nay sản lượng lúa của nước ta liên tục tăng bình quân mỗi năm tăng hơn 1,1 triệu tấn. Hiệu lực của có chế mới và tính đa dạng của mùa vụ đã tạo điều kiện cho nông nghiệp nước ta vượt qua được những trở ngại về điều kiện thời tiết, điều kiện thiên nhiên không mấy thuận lợi để phát triển ổn định. Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao so với các nước sản xuất lúa gạo khác trên thế giới. Trong thời kỳ 1990 - 2000, tốc độ tăng bình quân hàng năm về sản lượng lúa đạt 5,15% trong khi đó bình quân toàn thế giới chỉ đạt 1,4%. Mức tăng trưởng cũng đã vượt xa tất cả các thời kỳ trước của lịch sử trông lúa Việt Nam. Chưa bao giờ sản lượng lúa lại tăng mạnh, tăng liên tục và kéo dài nhiều năm như thời kỳ này.
Tổng quan về tình hình sản xuất lúa gạo Việt Nam
giai đoạn 1990 - 2000
Năm
Sản lượng
Diện tích
Năng suất
Sản lượng (ngàn tấn)
% thay đổi so với năm trước
Diện tích lúa
(ngàn ha)
% thay đổi so với năm trước
Năng suất lúa (tạ/ha)
% thay đổi so với năm trước
1990
19.225,2
1,2
6.027,7
22,4
31,9
- 1,24
1991
19.621,9
2,06
6.302,7
4,56
31,1
- 2,5
1992
21.590,3
10,03
6.475,4
2,74
33,3
7
1993
22.836,6
5,77
6.559,4
1,30
34,8
4,5
1994
23.528,3
3,03
6.598,5
0,6
35,6
2,3
1995
24.963,7
6,1
6.765,6
2,53
36,9
3,65
1996
26.369,7
5,63
7003,8
3,52
37,7
2,17
1997
27.523,9
4,38
7099,7
1,37
38,8
2,92
1998
29.145,5
5,89
7.362,7
3,7
39,6
2,06
1999
31.393,8
7,71
7.648,1
3,88
4,1
3,53
2000
34.652,7
4,28
7.863,8
2,63
38,6
2,96
Tốc độ bp/năm
Nguồn: Niên giám thống kê các năm - NXB TK
2. Thực trạng sản xuất gạo xuất khẩu.
Từ năm 1990 đến nay nhờ được sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước sản xuất gạo của Việt Nam đã có nhiều tiến bộ đáng kể. Trong khâu sản xuất cũng như công nghệ chế biến sau thu hoạch.
Trong sản xuất có rất nhiều yếu tố liên quan đến số lượng, chất lượng và chủng loại gạo xuất khẩu như: điều kiện tự nhiên, đất đai, phân bón, giống … trong đó giống là yếu tố cơ bản để tăng năng suất. Trong những năm qua, giống lúa ở Việt Nam được cải thiện đáng kể nhờ sự giày công nghiên cứu của các nhà khoa học trong nước cũng như quốc tế. Sản phẩm là hàng chục giống lúa mới đã được đưa vào sản xuất và cho kết quả tốt như: IR 7927, OM 997 - 6, IR 42 …
Tuy nhiên các giống đặc sản như tám thơm ở miền bắc và nàng hưong ở miền nam … vốn là thế mạnh của đất nước và được thị trường thế giới ưu chuộng thì chưa được chú trọng phát triển.
Về công nghệ sau thu hoạch: đây là một khâu hết sức quan trọng trong việc đảm bảo và nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu và nâng cao hiệu quả nghề nông. Đây cũng là một khâu cần đáng quan tâm nhất trong toàn bộ quá trình vận động của gạo Việt Nam từ khâu sản xuất đến tiêu dùng.
Cùng với khâu mở rộng diệc tích, tăng năng suất lúa, Nhà nước cũng đã chú trọng đến việc phát triển hệ thống bảo quản chế biến sau thu hoạch. Hiện nay, nước ta đã có một hệ thống bảo quản chế biến gạo xuất khẩu khá hiện đại, có công suất lớn như Nhà máy xay xát Satake Sài Gòn, công suất 600 tấn/ngày; Nhà máy Cửu Long, công suất 240 tấn/ngày với trang thiết bị đồng bộ các công đoạn xay xát, sàng, xoa, hồ tẩy, đánh bóng, đóng gói phục vụ xuất khẩu … Tuy nhiên, hệ thống này chiếm một tỷ trọng không lớn trong tổng năng lực xay xát, bảo quản của cả nước. Số các cơ sỏ kỹ thuật còn lại thì kém hiệu quả, công nghệ lạc hậu và gây nhiều lãng phí. Hơn nữa, việc đầu tư cho các thiết bị bảo quản, xay xát này còn mang tính tự phát riêng lẻ, thiếu đồng bộ, tập trung trong khu vực tư nhân là chính, đầu tư doanh nghiệp Nhà nước chưa đáng kể . Việc cải tiến kỹ thuật cũng mới chỉ giới hạn ở khâu xay xát chứ chưa chú trọng đồng bộ ở các khâu liên hoàn khác nên hiệu quả qui cách và phẩm chất gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn khoảng cách khá xa so với Thái lan và Mỹ. ở những thị trường khó tính, đòi hỏi chất lượng gạo cao, thị phần của gạo Việt Nam không đáng kể.
II. Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời kỳ 1990 đến nay.
1. Số lượng và kim ngạch xuất khẩu.
Trong giai đoạn từ năm 1990 đến nay, do sản xuất tăng nhanh và ổn định, mức lương thực bình quân nói chung và lúa gạo nói riêng liên tiếp được mở rộng, Việt Nam không chỉ tự túc được lương thực trong nước mà còn dư thừa lương thực để xuất khẩu. Năm 1990 đã đánh dấu một bước ngoặt lớn đối với nền kinh tế và ngoại thương nước ta. Việt Nam xuất hiện trên thị trường gạo thế giới với vị trí là nước xuất khẩu lớn thứ ba, sau Thái Lan và Mỹ. Trên thực tế số lượng và kim ngạch gạo xuất khẩu của Việt Nam những năm gần đây càng gia tăng nhanh hơn.
Bảng: Số lượng và kim ngạch gạo của Việt Nam 1990 - 2000
Năm
Số lượng (triệu tấn)
Kim ngạch (triệu USD)
Số lượng
% thay đổi so với năm trước
Kim ngạch
% thay đổi so với năm trước
1990
1,624
+ 13,95
310,403
- 3,35
1991
1,033
- 36,39
234,491
- 22,46
1992
1,946
+ 88,38
418,400
+ 78,43
1993
1,728
- 11,21
362,900
- 13,26
1994
2,040
+ 18,05
449,500
+ 23,86
1995
2,044
+ 0,19
546,800
+ 21,64
1996
3,020
+ 47,75
854,600
+ 56,29
1997
3,550
+ 17,55
885,000
+ 3,56
1998
3,8
+ 7,04
1050,000
+ 18,65
1999
4,0
+ 5,26
1080,000
+ 2,86
2000
4,2
+ 7,34
1086,000
+ 7,34
Nguồn: niên giám thống kê 2000 (có đối chiếu với số liệu của Bộ thương mại và Tổng cục hải quan)
Nhìn chung, từ năm 1990 đến năm 2000, gạo xuất khẩu của Việt Nam đã tăng 166,66% về số lượng và 210,74% về kim ngạch. Trong khi sản xuất lúa gạo ở Việt Nam tăng mạnh, đạt kỷ lục thế giới với mức 4%/năm thì xu hướng xuất khẩu gạo còn tăng nhanh hơn nhiều. So với sản xuất xu hướng tăng khối lượng xuất khẩu gạo gấp ba lần, về kim ngạch xuất khẩu gấp bốn lần.
Trong quá trình đó, có ba sự kiện đáng lưu ý diễn ra vào năm 1991, năm 1995 và năm 1996.
Một là: năm 1991 lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam giảm và đạt mức thấp nhất, kéo theo kim ngạch cũng ở mức thấp nhất so với các năm khác do giá cả thị trường thế giới giảm. Khi đó, Dakislan thay thế vị trí nước xuất khẩu gạo thứ 3 của Việt Nam trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, ngay năm sau, nước ta đã nhanh chóng dành lại vị trí đó của mình vói mức xuất khẩu trên 1,9 triệu tấn, tăng gần 90% so với năm trước.
Hai là: trong năm 1995 mặc dù xuất khẩu gạo Việt Nam đã đạt được 2,044 triệu tấn, vượt tất cả những năm trước nhưng vị trí thứ ba lại một lần nữa bị ấn Độ chiếm lĩnh.
Ba là: Trong năm 1996 Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu gạo với mức lón hơn. Lần đầu tiên kê từ năm 1990 khối lượng xuất khẩu gạo Việt Nam vượt mức 3 triệu tấn/năm, gấp rưỡi năm 1995 và gấp trên 3 lần năm 1991. Như vậy trong 10 năm qua (1990 - 2000) Việt Nam đã xuất khẩu được 22,15 triệu tấn gạo với kim ngạch 5339 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu gạo thực sự góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy kinh tế nông nghiệp nói riêng cũng như việc tăng trưởng kinh tế quốc dân nói chung trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Cần nói rõ hơn, số liệu xuất khẩu trên chưa tính phần xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới Tây nam sang Lào và Campuchia, nhất là biên giới phía bắc sang Trung Quốc, không có giấy phép xuất khẩu của Nhà nước và thực chất là xuất khẩu lậu. Phương thức thanh toán phổ biến ở đây là thanh toán tiền mặt hoặc hàng đổi hàng. Lượng xuất khẩu này được ước tính trung bình khoảng 0,25 - 0,3 triệu tấn/năm.
Tình hình gia tăng xuất khẩu gạo nói trên là do tác động tổng hợp của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Nhưng trước hết phải kể đến những yếu tố cơ bản sau:
Thứ nhất: sản xuất phát triển, sản lượng lúa tăng nhanh là yếu tố quyết định làm thay đổi hẳn cục diện tình hình. Việt Nam không những ổn định được nhu cầu lương thực trong nước mà còn dư thừa lúa gạo để xuất khẩu. Trong điều kiện nhu cầu lương thực được mở rộng do mức tăng dân số khá cao ở Việt Nam để có gạo dư thưà xuất khẩu, không có cách nào khác phải tăng nhanh sản lượng. Do sự nỗ lực của nông dân, sản xuất phát triển rất nhanh đã cho phép đẩy mạnh xuất khẩu ngày càng lớn.
Thứ hai: Cơ chế đổi mới từ năm 1998 trong nông nghiệp đã xác nhận quyền tự chủ của hộ gia đình, đồng thời xoá bỏ việc quản lý theo phương thức tập trung bao cấp
Hai cản trở lớn nhất trong sản xuất và lưu thông lương thực được khơi thông đã tạo ra động lực phát triển lớn trong thời kỳ đổi mới. Trước đổi mới Việt Nam đang còn là nước thiếu đói, phải nhập khẩu lương thực. Mười năm sau nghị quyết 10, Việt Nam đã bước lên vị trí thứ hai thế giới trong xuất khẩu gạo.
Thứ ba: Thị trường gạo thế giới trong những năm qua, nhìn chung có nhiều thuận lợi cho người xuất khẩu. Trong kinh tế thị trường, tiêu thụ là khâu quyết định đối với doanh nghiệp. Nhu cầu tiêu thụ gạo của thị trường thế giới mở rộng thực sự là cơ hội tốt cho việc đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam. Cùng với số lượng, nhu cầu đó cũng gắn liền với những đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng.
2. Chất lượng và chủng loại gạo xuất khẩu
2.1. Chủng loại gạo xuất khẩu.
Chất lượng gạo có liên quan đến một loạt các yếu tố từ khâu sản xuất như đất đai, nước tưới tiêu, phân bón, giống lúa đến khâu chế biến, vận chuyển bảo quản. Tuy nhiên, giống lúa và chế biến hiện nay là vấn đề co bản để nâng cao chất lượng gạo. Những năm qua, giống lúa Việt Nam đã được nhiều nhà khoa học trong nước và thế giới hợp tác nghiên cứu để đưa vào canh tác. Theo tổng kết của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn tại Hội nghị khoa học quốc tế ở Hà Nội tháng 5/1994, trên 70% diện tích trồng lúa, tương đương 4,7 triệu ha được cung cấp những giống lúa mới từ viện nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI). Hàng chục giống lúa mới đã cho năng suất cao, chất lượng tốt, có khả năng chống chịu giỏi với tình hình thời tiết, thiên tai, sâu bệnh. Trong đó có nhiều giống lúa đạt tiêu chuẩn chất lượng xuất khẩu. ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, đối với lúa đông xuân và hè thu, có 5 giống lúa xuất khẩu đạt hiệu quả tốt. IK 7927, IR 46, IR 59606, OM 9976. Đây là những giống lúa xuất khẩu có chất lượng cao trong mấy năm qua nên được khách hàng nước ngoài chấp nhận, đồng thời phù hợp với điều kiện sản xuất, thời gian sinh trưởng ngắn từ 90 - 100 ngày. Như vậy, trong khoảng 70 giống lúa hiện nay trong toàn vùng, không phải giống lúa nào cũng đạt chất lượng xuất khẩu.
Chất lượng xuất khẩu gạo gồm nhiều tiêu thức như hình dáng, kích cỡ, mùi vị, tỷ lệ thóc, tạp chất … nhưng trong đó, tỷ lệ tấm đóng vai trò quan trọng, thường được quan tâm tới. Bảng dưới đây phản ánh chất lượng xuất khẩu gạo theo tỷ lệ tấm của các cấp loại gạo.
Bảng: chất lượng xuất khẩu gạo qua các năm.
Đơn vị tính: %
Cấp loại gạo % tấm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
1%
3,1
5,2
10,8
21,3
41,2
30,8
5%
3,3
6,0
18,5
25,7
42,3
30,6
10%
13,1
30,0
20,8
25,6
23,6
22,3
15%
5,9
3,0
13,0
13,3
4,1
13,8
20%
2,0
8,0
1,2
8,2
8,5
11,6
25%
20,2
26,4
15,4
14,7
6,7
16,5
30%
-
0,5
-
3,0
-
-
35%
46,0
19,0
23,0
9,2
9,9
4,4
45%
5,0
2,0
1,0
-
8,2
0,7
Tấm
2,2
1,7
4,4
3,2
1,9
0,5
Nguồn: Trung tâm thông tin - Bộ thuơng mại.
Ngoài tỷ lệ tấm các tiêu thức khác: tỷ lệ hạt ẩm, tỷ lệ hạt đỏ, tỷ lệ hạt bọc bong, tỷ lệ hạt lẫn tạp chất cũng đều giảm và có tiến bộ đáng kể qua các năm. Mầu sắc và mùi vị tự nhiên cũng như thuỷ phần gạo xuất khẩu ngày càng được cải thiện. Từ năm 1994 Việt Nam đã bước đầu sản xuất được gạo cao cấp, điển hình tỷ lệ tấm 5% tương đương với gạo Thái Lan cùng tỷ lệ tấm.
2.2. Loại gạo đặc sản.
Về chủng loại, gạo xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu vẫn là gạo tẻ hạt dài được sản xuất hầu hết ở đồng bằng sông Cửu Long. Trong cơ cấu xuất khẩu đó, gạo đặc sản truyền thống chưa được chú trọng phát triển. Chúng ta mới bước đầu xuất khẩu gạo tám thơm được trồng ở miền bắc, gạo nàng hương ở miền nam với số lượng nhỏ và không đều đặn qua các năm.
Trong thời kỳ dài bao cấp trước đây (1957 - 1986), xuất khẩu gạo đặc sản của Việt Nam không thường xuyên và số lượng nhỏ, ở mức trên 10000 tấn/năm. Song năm 1987 và 1998 con số này cũng chỉ đạt 120 và 105 ngàn tấn. Vì lượng xuất khẩu quá nhỏ lại không thường xuyên cho nên nhìn chung xuất khẩu gạo đặc sản Việt Nam chưa đem lại hiệu quả lớn. Trong khi đó Thái Lan những năm qua vẫn đẩy mạnh xuất khẩu gạo đặc sản (Mali) với giá cao, gấp 1,5 lần laọi gạo tốt. Về giá trị kinh tế xuất khẩu gạo đặc sản sẽ đảm bảo tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, thị trường tương lai ưu chuộng chủng loại gạo quí hiếm này.
3. Thị trường và giá cả xuất khẩu.
3.1. Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Thái Lan và Mỹ là những nước xuất khẩu gạo truyền thống từ nhiều thập kỷ nay. Do vậy họ đã thiết lập được mối quan hệ lâu dài và ổn định về thị trường và khách hàng tiêu thụ bằng một hệ thống chính sách cụ thể đối với từng khu vực và từng nước tiêu thụ gạo của mình. Việt Nam chỉ thực sự là nước xuất khẩu gạo lớn từ năm 1989. Từ thực tế đó việc thâm nhập và mở rộng thị trường của Việt Nam trong những năm gần đây đã gặp không ít khó khăn vì thường đụng đến những khu vực thị trường quen thuộc của các nước xuất khẩu truyền thống đặc biệt là Thái lan (xem bảng dưới)
Ngay từ năm 1989 thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là Châu á và Châu phi. Tuy nhiên so với Thái Lan, thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm đầu (1989 - 1992) có hai điểm khác nhau cơ bản.
Bảng: Tỷ trọng của thị trường tiêu thụ gạo của Thái Lan.
Đơn vị tính: %
Các khu vực
1997
1998
1999
2000
1. Châu á
64,6
51,2
44,5
55,0
Trung Đông
07,3
- 04,4
08,0
11,5
2. Châu Phi
18,6
24,5
19,0
28,5
3. Châu Mỹ
20,6
27,5
32,4
25,0
4. Châu Âu
07,5
11,6
12,3
03,5
Nguồn: Vụ xuất nhập khẩu - Bộ thương mại
Một là: Trong cơ cấu chung, Việt Nam duy trì tỷ trọng xuất khẩu trước năm 1995 sang các nước Châu á thấp hơn Thái Lan, nhưng tỷ trọng xuất sang Châu Phi lớn hơn. Cho đến năm 1995, trên thực tế tỷ trọng xuất sang các nước Châu á tăng mạnh đồng thời tỷ trọng xuất sang các nước Châu phi giảm. năm 1989, ta chưa nhập được vào thị trường Trung Đông.
Hai là: Trong những năm đầu, đại bộ phận gạo xuất khẩu của Việt Nam thường phải thông qua môi giới trung gian
Bảng: Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam qua 3 năm
Đơn vị tính: %.
Các khu vực tiêu thụ
1995
1997
2000
1. Châu á
50,0
44,6
9,0
Trung Đông
0,0
10,5
10,0
2. Châu Phi
49,0
35,5
10,0
3. Châu Mỹ
0,9
15,1
09,0
4. Châu Âu
0,01
04,8
02,0
Nguồn: Vụ xuất nhập khẩu - Bộ thương mại
Trong số đó, các Công ty môi giới Pháp chiếm 30 - 80% tổng lượng gạo xuất khẩu của ta như Ricofi, Ipitrade sneclec … Tiếp đó khách hàng Hồng Kông (chiếm 10 - 15%) như BTS Tranding, Sun … Malaisia chiếm trên dưới 10% , Thái Lan chiếm gần 9%. Các khách hàng Hàn Quốc chiếm 5 - 15% như Samsung, Kolon, Indonesia chiếm 3 - 4%. Đến năm 1995 và năm 1996 tuy gạo Việt Nam đã có mặt trên 80 nước thuộc tất cả các đại lục như phần gạo xuất khẩu qua trung gian vẫn còn chiếm đáng kể.
Thực sự thì Việt Nam chưa xây dựng được cho mình hệ thống bạn hàng trực tiếp tin cậy, lại bị giảm thu xuất khẩu cho khoản hoa hồng môi giới. Để tăng cường xuất khẩu trực tiếp mạnh hơn nữa, bên cạnh sự chủ động tìm kiếm thị trường của bản thân doanh nghiệp, Nhà nước cần hỗ trợ việc mở rộng các quan hệ cấp chính phủ xung quanh hoạt động buôn bán gạo.
3.2. Giá xuất khẩu gạo.
Từ năm 1990 đến nay nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc trong việc nâng cao chất lượng gạo, tăng thêm mối quan hệ bạn hàng với nhiều nước trên thế giới nên giá cả gạo xuất khẩu qua các năm có xu hướng ngày một tăng.
Một trong những nguyên nhân chủ yếu của sự chênh lệch giá giữa gạo Việt Nam so với gạo các nước khác là chất lượng gạo của ta còn kém hơn. Chất lượng vẫn là yếu tố cạnh tranh số một của thương trường và giá cả gạo quốc tế hiện nay đòi hỏi chúng ta cần phấn đấu hơn nữa.
Bảng: Giá cả gạo quốc tế và giá cả gạo xuất khẩu Việt Nam
Đơn vị tính: Triệu tấn, %
Năm
Xuất khẩu gạo thế giới
Xuất khẩu gạo Việt Nam
Thị phần
1995
12,1
1,033
8,5
1997
16,7
1,983
11,9
2000
19,5
3,020
15,5
Từ năm 1995 - 2000 trong khi tổng xuất khẩu gạo thế giới từ 12,1 triệu tấn lên đến 19,5 triệu tấn tăng 6,1% lượng xuất khẩu. Việt Nam tăng từ 1,033 triệu tấn lên 3,020 triệu tấn tăng 192,4%. Do vậy, thị phần xuất khẩu gạo của Việt Nam được mở rộng gấp đôi, từ 8,5% lên 15,5%. Chính điều này giúp cho hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam có thể hạn chế được biến động giá quốc tế bất lợi đối với mình.
Phương thức thanh toán gạo xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là phương thức bằng L/C, chiếm trên dưới 76% tổng số gạo xuất khẩu. Phương thức thanh toán TTR từ 9,1% năm 1990 đến nay thường chỉ còn 1,5 - 2,5%. Phương thức hàng đổi hàng những năm qua duy trì ở mức trung bình 14%. Cuối cùng phương thức thanh toán trả nợ chiếm 16% năm 1990 và hiện nay thường ở mức 8%.
4. Tổ chức kênh phân phối và đầu mối xuất khẩu.
4.1. Kênh phân phối.
Từ nam 1989, việc độc quyền Nhà nước trong lưu thông phân phối lúa gạo ở trong nước đã được tháo gỡ, các thành phần kinh tế điều được tự do mua bán, vận chuyển lúa gạo từ nông thôn đến người tiêu dùng và các nhà xuất khẩu. Việc xuất khẩu gạo được tập trung vào các doanh nghiệp Nhà nước có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Tư nhân đang đóng vai trò to lớn trong lưu thông phân phối gạo xuất khẩu. Khoảng 90% khối lượng gao xay xát xuất khẩu do tư nhân thực hiện, các đơn vị xuất khẩu Nhà nước chỉ đảm nhiệm phần ít ỏi còn lại. Nguyên nhân chính của tình hình này là do vốn hạn chế, thứ đến là do bộ máy quản lý, điều này thiếu năng động trong các đơn vị kinh doanh lương thực thuộc Nhà nước. Phần lớn lúa gạo mua bán và xay xát do tư thương thực hiện. Điều này một mặt thúc đẩy tích cực cho xuất khẩu song mặt khác cũng dẫn đến tình trạng ép giá bán của nông dân khó thực hiện được chủ trương của Nhà nước trong việc duy trì mức giá đảm bảo cho nông dân mức lợi nhuận 25 - 40% để khuyến khích sản xuất.
Cơ sở xay xát có ý nghĩa lớn trong xuất khẩu gạo. Thực tế hiện nay, do rất nhiều cơ sở xay xát nhỏ, phân tán do tư nhân đảm nhiệm đã làm cho tiêu chuẩn chất lượng thống nhất và độ đồng đều của gạo xuất khẩu cũng bị hạn chế không nhỏ. Trong khi đó, các cơ sở xay xát lớn của quốc doanh chưa khai thác triệt để. Hiện nay công suất của các cơ sở xay xát cả nước đạt trên 25,936 tấn gạo/co, trên 13 triệu tấn/năm, đủ đáp ứng nhu cầu của cả nước với tổng công suất đó.
Kho chứa là một yếu tố quan trọng trong hệ thống kênh phân phối vận chuyển và bảo quản gạo xuất khẩu. Hiện nay tổng kho chứa lương thực chung cả nước là 2,8 triệu tấn, do quốc doanh lương thực quản lý, trong đó trên 50% là kho hiện có, còn lại là kho bán hiện có. Hiệu suất sử dụng 30% tổng dung tích kho, vì thế các doanh nghiệp vẫn phải tính khấu hao toàn bộ giá thành nên làm giảm hiệu quả kinh doanh. Trên thực tế cụm kho phụcvụ xuất khẩu lại có những nhược điểm đáng kể. Tư nhân đảm nhiệm tới 90% gạo xay xát nhưng họ sử dụng kho nhỏ gia đình hoặc thuê kho của quốc doanh. Do vị trí xây dựng kho được tính toán, bố trí từ thời gian bao cấp theo phương hướng tự sản xuất tự tiêu dùng trong nước nên nhiều khó khăn không thích hợp với cơ chế thị trường đẩy mạnh xuất khẩu hiện nay. Có những kho hiện nay trở thành kho thừa hoặc không sử dụng hết nhưng ở những địa bàn trọng điểm, nhất là cảng khẩu thì càng thiếu kho, trước hết là những kho hiện đại, đạt tiêu chuẩn kỹ thuật để bảo quản gạo xuất khẩu. do vậy, toàn bộ hệ thống này phải được tính toán một cách liên hoàn để tối thiểu hoá các chi phí thấp nhất là chi phí vận chuyển gạo từ nơi sản xuất đến tàu nhận hàng xuất khẩu ở cảng.
4.2. Đầu mối xuất khẩu.
Đầu mối xuất khẩu trong những năm qua là một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm của Nhà nước và các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước tìm mọi cách để trực tiếp xuất khẩu gạo. Do những hoạt động tranh mua, tranh bán của các doanh nghiệp, thương nhân nước ngoài lợi dụng tình hình đó để kìm giá, ép giá gây tổn hại cho lợi ích quốc gia trong xuất khẩu gạo. Để khắc phục tình trạng cạnh tranh tự phát, Bộ thương mại đã có nhiều cố gắng trong việc nghiên cứu và nắm vững biến động cung cầu, giá cả thị trường gạo quốc tế để quản lý chỉ đạo giá xuất khẩu trong nước, hướng dẫn các doanh nghiệp đầu mối xuất khẩu trên mức giá tối thiểu đã qui định. Năm 1992, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn cùng Bộ thương mại đã chủ trương tinh giảm các doanh nghiệp đầu mối nhằm nâng cao tình độ tập trung hoá và chuyên môn hoá xuất khẩu. Tuy nhiên quá trình thực hiện lại có nhiều trở ngại phức tạp nảy sinh. Về cơ bản, Nhà nước qui tụ được phần lớn gạo xuất khẩu tập trung vào những doanh nghiệp đầu mối chính, nhưng số doanh nghiệp nhỏ vẫn còn khá đông. Rốt cuộc, tổng số các doanh nghiệp được phép hoạt động xuất khẩu vẫn không giảm, thậm chí tăng lên qua các năm như sau:
- Năm 1990: 23 doanh nghiệp
- Năm 1991: 26 doanh nghiệp
- Năm 1992: 43 doanh nghiệp
- Năm 1993: 43 doanh nghiệp
- Năm 1994: 45 doanh nghiệp
Thực tế năm 1994, 17 doanh nghiệp xuất khẩu đầu mối đã kiểm soát được 70% hoạt động xuất khẩu gạo cả nước. Phần còn lại do 28 doanh nghiệp nhỏ thực hiện.
Năm 1998 có 20 doanh nghiệp đầu mối xuất khẩu.
Năm 2000 có 20 doanh nghiệp đầu mối xuất khẩu (Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Bến Tre, TP Hồ Chí Minh, Thái Bình, Tổng Công ty lương thực miền nam, Gedosico, TCT Vật tư nông nghiệp, Công ty Chân Hưng, Công ty ASC)
5. Thuế và hiệu quả xuất khẩu gạo.
5.1. Chính sách thuế xuất khẩu gạo
Từ ngày 10/7/1995 gạo xuất khẩu của nước ta không bị đánh thuế, từ ngày 10/7/1995 múc thuế xuất khẩu gạo 1% được quyết định số 105 TC/TCT ngày 10/6/1995 của Bộ tài chính. Từ ngày 16/9/1995 mức thuế 2% được áp dụng theo quyết định số 904TC/TCT ngày 18/8/1995 của Bộ tài chính từ ngày 1/10/1995 mức thuế 3% được áp dụng theo quyết định số 1036TC/TCT của Bộ tài chính. Từ ngày 16/9/1998 theo quyết định số 1233/QĐ - BTC quyết định thuế xuất khẩu gạo 25% tấm trở lên, chịu thuế suất 1,5%, gạo 8%, 10%, 15%, 20% tấm gạo đặc sản chịu thuế suất 2%. Quyết định số 1336/1998/QĐ/BTC ngày 30/9/1998 gạo các loại thì thuế suất là 1%. Và để hỗ trợ hoạt động kinh doanh lúa gạo trong 6 tháng đầu năm 1999, Bộ tài chính điều chỉnh thuế suất thuế xuất khẩu gạo các loại mức 0% thực hiện từ ngày 1/1/1999.
Vấn đề có nên đánh thuế hay không và đánh vào mức nào, và nhằm vào những mục tiêu nào, vẫn có những ý kiến khác nhau.
Thứ nhất: đánh thuế xuất khẩu là để lợi dụng sức mạnh độc quyền trên thị trường quốc tế, tăng thu cho ngân sách bằng cách đảy chi phí về thuế cho người tiêu dùng nước ngoài gánh chịu. Tuy nhiên thực tế cho thấy, số lượng gạo xuất khẩu của ta hàng năm đạt hơn 10% thị phần thế giới thì chưa thể coi là độc quyền xuất khẩu gạo trên thế giới. Vì vậy mục tiêu này không thể đạt được trong việc đánh thuế gạo xuất khẩu của ta.
Thứ hai: đánh thuế xuất khẩu là để điều chỉnh cơ cấu hàng xuất khẩu trong thời gian qua, mặt hàng gạo của ta không nằm trong danh mục hàng hoá hạn chế xuất, do đó đây cũng không phải mục tiêu chính của việc đánh thuế xuất khẩu gạo ở nước ta.
Thứ ba: đánh thuế xuất khẩu để ổn định cung cầu trên thị trường nội địa. Thông qua đánh thuế xuất khẩu để giảm bớt lợi nhuận của người xuất khẩu. Từ đó giảm bớt lượng xuất khẩu gạo của nước ta đã đạt được.
Trong bối cảnh Đảng và Nhà nước đang chủ trương giảm thuế nông nghiệp nhằm khuyến khích nông dân, việc đánh thuế xuất khẩu gạo sẽ làm giảm giá bán thóc của nông dân ở thị trường nội địa, nên sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của gạo xuất khẩu Việt Nam, trên thị trường thế giới và giảm lợi ích của nông dân sản xuất lúa gạo. Như vậy cần phải đánh giá lại một cách tổng hợp cái được, cái mất của chính sách đánh thuế xuất khẩu gạo.
5.2. Chính sách quản lý gạo bằng hạn ngạch.
Gạo là lương thực cơ bản và truyền thống của nước ta. Đó là mặt hàng rất nhạy cảm đối với sự ổn định chính trị xã hội trong nước. Do đó sụ ổn định cung cầu gạo trên thị trường nội địa là rất quan trọng. Vì vậy ngay từ năm 1989, khi mới có gạo xuất khẩu Nhà nước đã dùng hạn ngạch để kiểm soát, điều tiết luợng gạo xuất khẩu.
Hạn ngạch xuất khẩu gạo có thể điều chỉnh giá thóc gạo ở thị trường nội địa khi khống chế gạo xuất khẩu. Tuy nhiên nếu khống chế lượng đó hợp lý sẽ là một trong những cơ sở để ổn định mặt bằng giá cả nói chung trên thị trường nội địa. Hơn nữa trong hoàn cảnh Nhà nước đang có chủ trương tự do hoá, ngoại thương, chống tranh bán ở thị trường nước ngoài, thì việc sử dụng hạn ngạch xuất khẩu gạo là công cụ hợp lý nên tiếp tục áp dụng trong một thời gian nữa. Vấn đề ở đây là cần dự đoán tương đối chính xác sản lượng thu hoạch thóc hàng năm để có thể hạn ngạch phù hợp với yêu cầu đảm bảo sát cung - cầu gạo ở thị trường nội địa. Đồng thời cũng cần hoàn thiện cơ chế giao hạn ngạch sao cho giảm đến mức thấp nhất các lộn xộn trong mua bán hạn ngạch, chạy chat hạn ngạch như thực tế đã xảy ra trong những năm qua.
5.3. Hiệu quả sản xuất và xuất khẩu gạo.
Về hiệu quả sản xuất hoá hiện nay nhiều tài liệu tính toán khác nhau theo từng vùng và từng vụ lúa khác nhau. Theo số liệu của phân viện qui hoạch và thiết kế nông nghiệp miền nam. (xem bảng dưới)
Bảng: Hiệu quả sản xuất của nước ta.
Hạng mục
Vụ lúa
Vùng lúa
ĐXuân
HThu
Mùa
ĐBSH
BTB
DHMT
SLS
1. Giá bán thóc bình quân của người nông dân (đ/kg)
1156
1137
1294
1386
1314
1264
1126
2. Chi phí sản xuất cả thuế
707
714
911
1212
1204
1065
606
3. Lãi (đ/kg)
449
423
383
174
110
199
520
4. So sánh (3) với (1)
38,8
37,2
29,6
18,6
8,4
15,7
46,2
5. Lãi so với chi phí %
63,5
59,2
42,0
14,4
9,1
18,7
85,8
6. Hiệu quả 1 ha gieo trồng (1000đ)
7. Doanh thu
Trong đó:
6315
4728
4333
6459
4884
4908
5126
7.1. Chi phí kể cả thuế
3740
2913
3051
5524
4383
4054
2700
7.2. Lãi (đồng)
2199
1815
1282
935
801
854
2426
Cùng vùng lúa đồng bằng sông Cửu Long cũng có sự chênh đáng kể giữa lúa mùa thường, lúa mùa đông xuân có mức chi phí thấp hơn (279,18 USD/ha). Tuy nhiên, vì năng suất lúa đông xuân đạt cao nhất (80 tạ/ha) nên giá thành sản phẩm của nó vẫn duy trì được ở mức thấp. Rốt cuộc là:
- Mức thu nhập quốc dân trên 1 ha lúa đông xuân đạt gần 330 USD, tương đương hơn 3,6 triệu VNĐ, còn mức thấp nhất với vụ là 166,7 USD.
- Mức thu nhập quốc dân 1 ngày công: lúa đông xuân là cũng đạt 3,03 USD 3 loại lúa còn lại cũng đạt khoảng 20.000đ
- Lợi nhuận thu được trên 1 ha lúa đông xuân là 202,84 USD, tương đương 2,27 triệu VNĐ mức thấp nhất đối với mùa lúa thường cũng đạt 76,30 USD.
- Suất lợi nhuận cao nhất lúa đông xuân đạt 79,1% và thấp nhất lúa mùa thường đạt 499%
Bảng: Hiệu quả kinh tế sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu Long.
Hạng mục
Lúa mùa thường
Lúa mùa cao sản
Lúa đông xuân
Lúa hè thu
1. Chi phí sản xuất
173,70
257,00
279,18
266,20
1.1. Chi phí vật chất
83,30
127,80
170,18
136,20
1.2. Chi phí lao động
90,4
130,20
109,00
135,00
2. Hàng suất (tạ/ha)
26,0
40,0
30,00
40,00
3. Giá trị sản lượng
260,00
400,00
300,00
400,00
4. Giá thành sản phẩm (1) / (2)
66,68
64,80
55,84
66,55
5. Một số chỉ tiêu
5.1. Thu nhập quốc dân (V + m)/ha
166,70
272,50
329,82
268,80
5.2. Thu nhập quốc dân 1 ngày công
1,84
2,09
3,03
2,00
5.3. Lợi nhuận (m) của 1 ha
76,30
142,30
202,82
133,80
5.4. Tỷ lệ m/(c+m) (%)
43,90
55,20
179,10
180,26
Nguồn: Phân viện qui hoạch và thiết kế nônh nghiệp miền nam - Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Theo cục khuyến nông (Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn) các hạng mục chính về hiệu quả sản xuất được từng vùng lúa, ở từng vùng điển hình. Nhìn chung mức doanh thu ở đây còn cao hơn ở bảng trước (hiệu quả sản xuất lúa của nước ta) mức lợi nhuận cao nhất ở vùng ĐBSCL 2426000 đ/ha so với 2231000 đ/ha chênh lệch trên là 8% tưong ứng suất lợi nhuận 85,5% (so với 79,1%) chênh lệch 6,7%. Đáng chú ý, phần chi phí vật chất thường vượt chi phí lao động (trừ vụ lúa mùa) trong chi phí vật chất, ta thấy chi phí phân bón là lớn nhất thậm chí còn vượt tổng chi phí lao động, điều đó là do yêu cầu thâm canh, mặt khác cũng phải hỗ trợ đến xu hướng tăng của giá phân bón.
Theo số liệu của viện khoa học nông nghiệp miền nam và hiệp hội xuất khẩu lương thực Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh, giá thành sản xuất lúa ở ĐBSCL nhìn chung vẫn thấp so với giá gạo Thái Lan.
Bảng: Hiệu quả xuất khẩu gạo của ĐBSCL.
Đơn vị tính: USD
Hạng mục
Gạo 10% tấn
Gạo 20% tấn
Gạo 35% tấn
1. Giá mua 1 tấn thóc
100
100
100
2. Chi phí gia công xay xát vận chuyển sản phẩm
10
10
9,80
3. Sản phẩm phụ thu hồi
25
20
12
4. Tỷ lệ gạo thu hồi %
45
50
63
5. Giá thành 1 tấn gạo
189
180
154,80
6. Chi phí lưu thông
20
20
20
7. Lãi vay ngân hàng
5,7
5,4
4,6
8. Thuế xuất khẩu
0
0
0
9. Giá thành xuất khẩu 1 tấn gạo tại cảng
219,20
209,20
182,10
10. Giá gạo xuất khẩu tại cảng Việt Nam
240
210
185
Nguồn: Bộ thương mại (văn phòng tại TP HCM)
Về hiệu quả xuất khẩu gạo, đây cũng là điều ít có ý kiến hoài nghi hơn. Để xem xét khách quan và hệ thống xuất khẩu gạo năm 1992 là một trong hai năm giá gạo quốc tế biến động ở mức điển hình thấp (bảng trên) mặc dù vậy, đối với cả loại gạo (10%, 20%, 35% tấm) xuất khẩu được phân tích không bị loại gạo nào xuất khẩu bị lỗ cả trong đó mức lãi cao nhất là loại gạo 10% tấm đạt 9,5%
Tóm lại, để đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu đương nhiên phải xét hiệu quả ở từng khâu. Tuy nhiên đối với mặt hàng chiến lược này, không thể xem xét mức lỗ, lãi thuần tuý mà phải nhấn mạnh hiệu quả kinh tế đối ngoại của Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới hiện nay …
Bảng: Tỷ trọng các bộ phận chi phí chủ yếu cho sản xuất lúa.
Hạng mục
Cả năm
Đ xuân
H thu
Vụ mùa
1. Chi phí vật chất
58,0
58,8
64,0
48,6
1.1. Giống
16,7
16,6
16,9
16,7
1.2. Phân bón
42,6
44,8
41,4
40,7
+ Hoá học
37,1
38,9
36,8
34,1
1.3. Thuê làm đất
12,6
12,2
12,6
14,6
+ Cày máy
9,5
9,5
9,3
10,0
1.4. Thuỷ lợi
5,2
5,4
4,7
5,5
1.5. Khấu hao tài sản
3,0
3,2
3,3
2,2
2. Chi phí lao động
42,0
41,2
36,0
81,4
Cộng %
100,0
100,0
100,0
100,0
Nguồn: Cục khuyến nông - Bộ NN & PTNT
5.4. Địa vị và khả năng cạnh tranh của Việt Nam trong xuất khẩu gạo.
Trên thị trường gạo thế giới, tương quan lực lượng giữa các nước xuất khẩu đã có nhiều thay đổi, trong đó phải kể đến địa vị của Việt Nam. Trước năm 1995 Việt Nam xuất khẩu gạo đứng thứ ba sau Thái Lan và Mỹ. Đến năm 1995 Việt Nam vẫn đứng thứ ba nhưng vượt được Mỹ nhưng đứng sau ấn Độ. Từ năm 1997 đến nay Việt Nam đã vượt ấn Độ chỉ sau Thái Lan.
Như vậy, nước xuất khẩu cần quan tâm nhất hiện nay là Thái Lan. Việc đánh giá địa vị và khả năng cạnh tranh giữa Việt Nam và Thái Lan trong xuất khẩu gạo tất nhiên phải được xem xét toàn diện gồm các tiêu thức trong nước và ngoài nước. Các tiêu thức vĩ mô và vi mô, các tiêu thức định tính và định lượng. Tuy nhiên mức tăng sản xuất hoá của Việt Nam so với Thái Lan trong những năm vừa qua là yếu tố hết sức quan trọng để đảm bảo cho địa vị và khả năng cạnh tranh xuất khẩu gạo của Việt Nam ngày càng được củng cố vững chắc.
Giá thành sản xuất thấp, rất thấp đang là lợi thế quan trọng của Việt Nam trong xuất khẩu gạo. Theo số liệu tính toán của FAO, giá thành sản xuất bình quân 1 tấn gạo trong 5 năm sau (1990 - 1995) của 3 nước Nhật, Mỹ, Thái Lan như sau:
Nhật: 1910 USD/ tấn gạo
Mỹ : 341 USD/ tấn gạo
Thái Lan: 225 USD/ tấn gạo
Như vậy, Thái Lan có lợi thế hơn hẳn so với Mỹ và Nhật về giá thành sản xuất gạo. Còn giá thành sản xuất gạo Việt Nam theo số liệu tính toán của viện khoa học nông nghiệp giá thành sản xuất 1 tấn thóc năm 1996 của các tỉnh đồng bằng SCL như sau:
An Giang: 940 (lúa đông xuân)
Cần Thơ: 1086 (lúa đông xuân)
Đồng Tháp: 987 (lúa đông xuân)
Long An: 1084 (lúa đông xuân)
Tiền Giang: 1146 (lúa đông xuân)
Sóc Trăng: 900 (lúa mùa)
Trà Vinh: 1016 (lúa mùa)
Từ số liệu này cho thấy cần tính toán theo nguyên tắc sau:
- Chọn mức giá thành sản xuất ở tính cao nhất (Tiền Giang): 1146 VNĐ/ tấn
- Cộng thêm những chi phí cao khác của nông dân như: phải vay "nóng" với lãi suất cao ở thị trường tín dụng tự do chi phí về giống lúa mới, giá mua phân bón ở mức cao …
- Tính toán giá thành sản xuất 1 tấn gạo (chi phí xay xát, bảo quản, chuyên chở, tỷ lệ hao hụt …)
- Tính đẩy đủ mọi chi phí thực tế theo nguyên tắc cận biên.
- Tỷ giá tiền tệ năm 1996 (1 USD = 11.180 VND).
Theo nguyên tắc tính toán trên giá thành sản xuất 1 tấn gạo năm 1996 của Việt Nam chỉ tiếp cận ở mức 215 USD/1T. Đây là lợi thế quan trọng của cạnh tranh xuất khẩu gạo của Việt Nam với Thái Lan
II. Những tồn tại trong sản xuất và xuất khẩu gạo.
1. Những tồn tại trong sản xuất.
Cùng với những kết quả đạt được, chúng ta cũng đứng trước không ít vấn đề nổi cộm và bất cập cần phải giải quyết, trong đó phải kể đến những vấn đề sau:
1.1. Công nghệ sau thu hoạch.
Hiện nay, toàn bộ hệ thống sau thu hoạch lúa ở Việt Nam nhất là ĐBSCL chưa được tổ chức hợp lý và đồng bộ do chưa quan tâm đầu tư đúng mức, trong khi đó công nghệ sau thu hoạch lại đóng vai trò hết sức quan trọng nhằm khắc phục mức tổn thất báo động đang xảy ra hiện nay.
Hệ thống sau thu hoạch bao gồm các công đoạn như sau: gặt, tuốt, phơi, phân loại làm sạch, vận chuyển, bảo quản, xay xát chế biến, bao bì dóng gói, kiểm tra … Toàn bộ hệ thống này hiện đang rất thiếu đồng bộ với trình độ tổ chức lạc hậu, mang nặng tính truyền thống giản đơn, thủ công lạc hậu. Trong khâu bảo quản còn quá ít những phương tiện các phương tiện phòng chống sinh vật gây hại … và chưa đáp ứng được những đòi hỏi thực tế của quá trình sản xuất lưu thông.
Theo kết quả điều tra của tổng cục thống kê, tỷ lệ tổn thất bình quân sau thu hoạch lúa Việt Nam diễn ra ở các khâu cụ thể sau:
- Khâu thu hoạch: 1,3 - 1,7%
- Khâu vận chuyển: 1,2 - 1,5%
- Khâu tuốt: 1,4 - 1,8%
- Khâu phơi sấy: 1,9 - 2,1%
- Khâu bảo quản: 3,2 - 8%
- Khâu xay xát chế biến: 4,1 - 8%
Tổng cộng: 13,0 - 16,0%
(Theo GS - PTS: Nguyễn Ngọc Kính: Phát triển nông nghiệp bền vững (Tài liệu hội thảo 8/1996 Bộ NN & PTNT))
Như vậy, tổn thất lớn nhất là 3 khâu cuối. 3 khâu này chiếm 68 - 70% tổng số tổn thất, trong khi đó ở các nước tiên tiến thường chỉ chiếm 3,9 - 5,6%. Nếu như sắp tới có thể giảm 30% tổn thất sau thu hoạch chúng ta sẽ tận thu được thêm 1 lượng thóc đáng kể, tới 880.000 tấn và tương đương với 138.000 ha canh tác lúa.
2. Phát triển lúa gạo đặc sản xuất khẩu.
Việt Nam có những loại gạo đặc sản nổi tiếng như Tám thơm, Tám xoan, Dạ hương, nếp cái hoa vàng … Thường để phục vụ chủ yếu cho từng lớp thượng lưu. Nết nổi bật của gạo đặc sản quí hiếm này là dẻo, mềm, vị đậm và ngon, tinh bột cao cấp amilopectin chiếm tới 80% (tinh bột thường amiloza chỉ khoảng 20%), giá trị dinh dưỡng cao, dễ hấp thụ.
Do vậy trên thế giới hiện có loại gạo nào có mùi vị tuyệt vời đó. Ngay cả gạo đặc sản Thái Lan (Mali) xuất khẩu vào Mỹ cũng không có mùi vị độc đáo của gạo Tám đặc sản Việt Nam.
Vậy mà gần đây, việc khôi phục và phát triển sản xuất lúa đặc sản truyền thống, vẫn chưa được quan tâm đúng mức, xung quanh cây lúa đặc sản như Tám thơm và nếp hương lại càng đang tồn tại những nghịch lý:
Do giá lúa đặc sản cao hơn lúa thường, nên nhân dân một số nơi thi nhau cấy lúa tám thơm, nếp hương dẫn đến tình trạng năng suất thấp, lúa tám thơm 33,6% tạ/ha, nếp hương 34,17 tạ/ha.
Theo định hướng chiến lược của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2001, sản lượng lương thực Việt Nam phải phấn đấu đạt được trên 30 triệu tấn. Trong đó, phải phấn đấu được 6 triệu tấn gạo ngon (1 triệu tấn gạo đặc sản).
Hiện nay, việc thực hiện mục tiêu chiến lược đối với lúa gạo đại trà đang diễn ra theo chiều hướng rất khả quan. Tuy nhiên đối với mục tiêu đặc sản, chúng ta đang đứng trước những thách thức đáng kể, mặc dù nhu cầu gạo đặc sản của thế giới ngày càng tăng và giá gạo đạc sản quí hiếm có thể gấp 2 - 3 lần gạo đại trà. Điều quan tâm hàng đầu là chất lượng gạo đặc sản hiện nay về hương vị, bị giảm sút nhiều so với truyền thống trước đây. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do việc tuyển chọn giống không được đảm bảo, bản thân thóc giống bị lẫn lộn cho pha trộn, khí hậu lại ngày càng khắc nghiệt. Do vậy trong suốt thời gian dài không được chú trọng nên gạo đặc sản Việt Nam không đảm bảo được chất lượng tiêu chuẩn quí giá ấy. Vì vậy, điều quan tâm trước hết hiện nay là việc phát triển sản xuất gạo đặc sản chính là việc tuyển chọn giống, tìm kiếm lại giống lúa truyền thống xưa nhằm khôi phục lại độ thơm vốn có một thời của nó. Có như vậy gạo đặc sản truyền thống Việt Nam mới có thế mạnh để cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường thế giới. Bên cạnh đó, việc tăng cường đổi mới công nghệ chế biêến nhằm nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu cũng đang là vấn đề cấp thiết.
3. Chính sách đối với nông dân.
Theo điều tra của Tổng cục Thống kê, đời sống của nông dân sản xuất lúa gạo nói chung vẫn còn nghèo. Mặc dù đã được cải thiện song hiện nay tỷ lệ số hộ gia đình nghèo đói vẫn chiếm trên 20%. Đặc biệt là vùng ĐBSCL, trọng điểm lúa gạo số 1 của cả nước, xuất khẩu gạo nhiều song cũng là nơi có nhiều lũ lụt mỗi khi mùa nước đến. ở đây có trên 90% hộ chưa có nhà ở kiên cố, trên 30% thôn, xã chưa có đường ô tô, cơ sở vật chất còn quá thấp, mức sống còn quá nghèo. Do đó nhu cầu về vốn cho sản xuất vẫn đang là vấn đề nỏi cộm, đang quan tâm. Vì mức thu nhập thấp, do nhu cầu bức bách, người dân phải bán thóc cho tư thương với mức giá bất lợi cho chính họ. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển sản xuất lúa gạo. Chính sách vốn cho nông dân tuy đã được Nhà nước quan tâm nhưng vẫn chưa đủ lực để khuyến khích sản xuất. Một loạt các chính sách khác đối với nông dân như giá thu thóc, chính sách khuyến nông, ưu đãi … đang đặt ra những điều bức bách nhất.
4. Về thị trường.
Trước hết, ở thị trường trong nước, việc mở rộng mạng lưới tư thương, một mặt thúc đẩy việc lưu thông lúa gạo phục vụ tiêu dùng nội địa và xuất khẩu, mặt khác cũng dẫn đến những biểu hiện tiêu cực không nhỏ. Vì lợi nhuận, hoạt động của tư thương thường diễn ra hoạt động tranh mua, tranh bán, đầu cơ thao túng thị trường giá cả. trong khi đó nông dân cần đầu ra tin cậy để đảm bảo tiêu dùng ổn định sản phẩm sau khi thu hoạch với mức giá thoả đáng cho quyền lợi của mình.
ở khâu xuất khẩu, chúng ta vẫn chưa thiết lập được hệ thống thị trường thực sự ổn định với mạng lưới khách hàng thực sự tin cậy. Cho đến nay, phương thức xuất khẩu qua trung tâm vẫn còn chiếm tỷ trọng khá lớn, mặc dù ta đã có nhiều cố gắng để tăng cường xuất khẩu trực tiếp. Tình hình ấy đang diễn ra đòi hỏi chúng ta phải có những hiệp định lớn buôn bán gạo dài hạn cấp Nhà nước để mở ra các hợp đồng xuất khẩu gạo ổn định.
Việc nghiên cứu thị trường gạo thế giới cần phải được tăng cường hơn nữa để nám bắt kịp thời những thông tin cập nhật, chính xác nhằm đảm bảo hiệu quả hơn nữa cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Nhiều năm qua, các nguồn và tài liệu về thị trường gạo thế giới phục vụ hoạt động kinh doanh xuất khẩu cũng như phục vụ cho công tác quản lý xuất khẩu và công tác nghiên cứu, nhìn chung còn quá ít ỏi, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Trong khi đó hoạt đxuất khẩu đòi hỏi phải có những tin sâu, rộng về thị trường để theo dõi kịp thời và có hệ thống diễn biến cung và giá cả. Do nghiên cứu thị trường bị hạn chế chưa có được những thông tin cần thiết và đủ cho nên chưa chớp được nhanh và chưa ứng xử kịp thời với những diễn biến của thị trường. Từ thực tế đó, cũng có thể xác nhận rằng, trong kinh doanh thông tin thị trường thực sự là tiền bạc, thứ tiền bạc thật quí giá có thể đến và cũng có thể không đến với ta.
5. Về tổ chức.
Một trong những nội dung nổi bật hiện nay là hệ thống lưu thông phân phối gạo đảm nhận tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Nhà nước chủ trương tự do hoá lưu thông phân phối, mở rộng quyền tự chủ của tư nhân mua bán lương thực ở thị trường nội địa, trong đó có mạng lưới tư nhân mua bán gạo phục vụ xuất khẩu. Tuy nhiên hoạt động xuất khẩu gạo vẫn được tập trung vào các doanh nghiệp Nhà nước có đủ sức cạnh tranh và uy tín trên thị trường gạo thế giới. Bước chấn chỉnh về mặt tổ chức đó tuy có thông thoáng hơn nhưng không phải đã đảm bảo được mọi trật tự cần thiết cho hệ thống phân phối lúa gạo. Các cơ sở kho tàng, xay xát chế biến gạo vừa thừa lại vừa thiếu. Các tư thương và các doanh nghiệp Nhà nước chưa có sự phối hợp hài hoá trong dòng chảy lúa gạo từ người sản xuất đến người tiêu dùng trong nước và các nhà xuất khẩu.
Vấn đề nổi cộm thứ hai trong tổ chức và quản lý hiện nay là hoạt động xuất khẩu lưu thông qua việc buôn bán gạo ở biên giới sang Trung Quốc, Campuchia và Lào. Trong nhiều năm qua, tình trạng xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới mà Nhà nước không kiểm soát được chẳng những không giảm mà còn gia tăng. Theo đánh giá của Bộ thương mại và các cơ quan chức trách hầu hết các hoạt động xuất khẩu gạo qua biên giới do trốn thuế nên bán với mức giá rẻ thường thấp hơn 5 - 10% so với giá chính ngạch, xuất khẩu gạo theo kiểu này không chỉ gây tổn hại kinh tế cho đất nước do hạ giá và trốn thuế mà còn làm rối loạn thị trường lương thực trong nước và những hậu quả khác. Để có sự kiểm soát hoạt động xuất khẩu tiểu ngạch, trước hết phải có sự nghiêm khắc, cứng rắn của pháp luật đối với các đơn vị bán gạo trốn thuế, đồng thời cũng phải kể đến vai trò của hải quan, cảng xuất khẩu và các lực lượng hữu trách khác. Và là điều cần thiết để đảm bảo trật tự trong hệ thống lưu thông phân phối gạo của nước ta hiện nay.
Chương III
Những giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn 2001 - 2010.
I. Một số dự báo về thị trường thế giới.
1. Dự báo tăng trưởng kinh tế và thương mại nông nghiệp toàn cầu.
Theo công bố của IMF và OECD tốc độ tăng trưởng bình quân kinh tế toàn cầu thời kỳ 1990 - 2000 giảm xuống chỉ còn 3% mức thấp nhất trong năm thập kỷ qua. Tuy nhiên trong 10 năm phát triển bản đồ địa lý kinh tế thế giới đã có những bước thay đổi lớn chưa có trong thời kỳ nào trước đó. Kể từ khi cuộc cách mạng công nghiệp tư bản lần đầu tiên các nước công nghiệp phát triển không còn là khu vực đầu tàu duy nhất cho tăng trưởng kinh tế thế giới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đã chuyển theo hướng ngược lại trật tự kinh tế Bắc - Nam và thu hẹp lại chênh lệch Đông Tây.
Dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới 2001 - 2010
Khu vực
1990 - 1995
1996 - 2000
2001 - 2010
Thế giới
2.3
2.8
3
Các nước phát triển
1.9
2.4
2.3
Các nước đang phát triển
- 6,8
1.1
2.9
Các nước đang chuyển đổi
5.4
4.3
5
Đông & Đông Nam á
9
4.8
6.1
Nam á
5.4
5.3
5.4
Mỹ la tinh
3.1
4.1
4.3
Trung Đông
4.5
3.7
3.9
Châu Phi
2.4
3.2
3.5
Trong khi tăng trưởng các nuớc công nghiệp phát triển chỉ đạt 2,2% so với 5,5% thập kỷ 50 . 60 nền kinh tế của các nước đang phát triển đã tăng 5,8% đạt mức cao nhất từ trước đến nay. Các nước đang phát triển Châu á có tốc độ tăng cao nhất 7,3% trong số các nền kinh tế đang phát triển. Vòng cung Châu á Thái bình dương trở thành vùng động lực lớn nhất cho phát triển kinh tế toàn cầu. Kinh tế Châu phi tuy tốc độ không cao bằng Châu á nhưng cũng đạt 3% so với 2,6% thập kỷ 80, kinh tế khu vực Châu mĩ la tinh và Caribe cũng bắt đầu được cải thiện tăng 3% so với 2% trong thập kỷ trước.
Dự báo gia tăng thương mại nông nghiệp thế giới.
Sản phẩm
Sản xuất (%năm)
Nhu cầu
(% năm)
Xuất khẩu
(% năm)
1990
2000
2001
2010
1990
2000
2001
2010
1990
2000
2001
2010
Lương thực TP
1.9
2.2
1.9
2.1
2.8
2.6
Rau quả
3.4
2.5
3.4
2.9
2.3
2.8
Nông sản nhiệt đới
1.2
3.4
1.4
2.8
1.2
2.6
Nguyên liệu thô
1.1
1.7
1.6
2
1.1
1.2
Tăng trưởng mạnh của các nước đang phát triển nhanh hơn các nước chậm phát triển đã tạo điều kiện thúc đẩy và mở rộng trao đổi thương mại toàn cầu. Có lợi cho các nước xuất khẩu các mặt hàng mà thị trường của các nước này có nhu cầu phát triển.
Dự báo thương mại nông nghiệp các nước đang phát triển
Đơn vị tính: tỷ USD
Sản phẩm
Nhập khẩu
Xuất khẩu
Nhập khẩu ròng
2000
2010
2000
2010
2000
2010
Sản phẩm nông nghiệp
137,8
187,6
131,8
153,5
- 6
- 34,1
Hàng lương thực
95,5
112,4
80,9
94,5
- 17,9
- 14,6
Hàng phi lương thực
42,1
57,1
30,1
65,2
- 8
- 8,1
Trong vòng 20 năm trở lại đây kim ngạch thương mại nông nghiệp của các nước đang phát triển tăng liên tục, tốc độ tang xuất khẩu ròng lương thực cao hơn hàng thực phẩm. Bình quân nhập khẩu ròng lương thực tăng 2,9% thời kỳ 81 - 90 và 3,6% thời kỳ 91 - 2000. Với tốc độ tăng liên tục khối lượng giao dịch trong thời gian dài trong khi kim ngạch hiện chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong thương mại quốc tế và dân số sử dụng gạo như một trong các lương thực chính ngày càng tăng lên, tiềm năng thị trường gạo thế giới trong tương lai vẫn còn rất lớn.
2. Dự báo thị trường nhập khẩu gạo thế giới.
Năm 2000, dân số toàn cầu đã vượt con số 6 tỷ người. Khoảng 3,9 tỷ người đang dùng gạo là lương thực chính với nhu cầu cần 423 triệu tấn/ năm so với sản lượng hiện nay 400,3 triệu lần còn thiếu 24,5 triệu tấn.
Các thị trường nhập khẩu gạo lớn hiện nay bao gồm:
- Thị trường Châu á, dân số 3637 triệu người, tỷ lệ nghèo lương thực còn chiếm 4% hiện hàng năm đang phải nhập 11 - 12 triệu tấn gạo. Châu á thiếu gạo tập trung ở một số nước đông dân là Trung Quố (2,3 triệu tấn), ấn Độ (1,9 triệu tấn), Indonexia (1,2 triệu tấn), Bangladet (1 triệu tấn), iran (0,5 triệu tấn). Trong thời gian tới sản xuất tuy có tăng lên nhưng chưa đủ đảm bảo cung cấp theo kịp đã tăng dân số. Đến năm 2005, Châu á phải nhập khẩu ít nhất khoảng 11triệu tấn gạo.
- Thị trường Châu phi, dân số 771 triệu người trong đó 231,3 triệu người chiếm 30% dân số đang tình trạng nghèo khó lương thực. Ngoài các lương thực khác, hiện gạo đang phải nhập khẩu 10 - 11 triệu tấn mỗi năm. Châu phi hiện sản xuất được 4 triệu tấn lúa với mức tăng 2% sẽ tăng lên 4,6 triệu tấn và năm 2005. Khả năng tăng trưởng kinh tế bình quân 3 - 4% trong 5 năm tới. Vì vậy số hộ nghèo lương thực có thể giảm xuống còn 23%. Để đảm bảo đủ lương thực cho dân số còn lại nhập khẩu sẽ phải tăng thêm 2 triệu tấn từ nay đến năm 2005.
- Thị trường Mỹ la tinh và Caribe dân số 513 triệu người, tỷ lệ nghèo lương thực chiếm 3% dân số tương đương 15,4 triệu người, gạo đang nhập khẩu hàng năm 1 - 1,5 triệu tấn. Khu vuẹc này hiện sản xuất được 6 triệu tấn gạo mỗi năm với mức tăng 2% sản lượng đạt khoảng 7 triệu tấn đến 2005 để đáp ứng nhu cầu còn thiếu sẽ phải nhập khoảng 3,8 triệu tấn.
- Các khu vực khác gồm Châu âu, Bắc mỹ và Châu đại dương hiện mỗi năm nhập khoảng 0,8 triệu tấn chủ yếu là gạo chất lượng cao. Trong 5 tới nhu cầu tăng lên không lớn 200 - 300 nghìn tấn.
Dự báo thị trường nhập khẩu gạo thế giới 2000 2010
Đơn vị tính: triệu tấn
Thị trường
2000
2005
2010
Thế giới
23.8
28.5
32.7
Châu á
11.5
11
10.5
Châu Phi
10.3
13
15.5
Mỹ la tinh & Caribe
1.2
3.5
5.3
Các khu vực khác
0.8
1
1.4
3. Dự báo cạnh tranh xuất khẩu gạo thế giới.
Trong 10 năm Việt Nam vươn lên trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới thì một số nước có điều kiện phát triển lúa gạo tương đối tương đồng cũng quay trở lại hoặc từng bước tiến vào chiếm lĩnh thị trường thế giới. Trong đó có những nước nhỏ như Campuchia tuy xuất khẩu gạo hiện nay chưa đáng kể nhưng với tiềm năng và lợi thế trong sản xuất lúa gạo không thua kém Việt Nam cho thấy triển vọng không xa sẽ trở thành một trong những nước như một "Việt Nam" mới về xuất khẩu gạo trong 10 năm tới.
Xét về mặt tiềm năng và xu thế lâu dài, trong vòng 10 năm tới thị trường xuất khẩu gạo thế giới sẽ vẫn bị chi phối áp đảo bởi 8 nước xuất khẩu gạo dưới đây:
Các nước xuất khẩu gạo lớn thế giới.
Đơn vị tính: Nghìn tấn.
Nước
1990
1995
2000
Tốc độ 90. 2000
Thái lan
5151.4
6198
6250
1.7
Việt Nam
1080
2308,2
4500
31.4
Trung Quốc
1034.2
235.7
2900
18.3
ấn Độ
580.4
551.2
2850
35.6
Mỹ
2230
2528
2550
0.5
Pakistan
1311.8
1852.3
2000
16.7
Myanma
198.8
392.5
784
28.9
Campuchia
2.9
80
23.4
Tổng
11759,5
14065,9
21914
8.6
Theo dự báo USDA (văn phòng nông nghiệp Mỹ) trong vòng 10 năm tới xuất khẩu gạo của 3 nước có dân số lớn nhất thế giới là Trung Quốc, ấn Độ và Mỹ sẽ giảm xuống để đảm bảo nhu cầu trong nước. Tuy nhiên trừ Mỹ còn lại Trung Quốc và ấn Độ dù sản xuất vẫn chưa đủ cung cấp cho tiêu dùng trong nước nhưng với tiềm năng to lớn của mình vẫn là hai nước có khả năng xuất khẩu gạo lớn lâu dài.
- Thái lan: Là một nước có nền kinh tế nông nghiệp phát triển mạnh nhất trong các nước khu vực cả về cơ cấu vật chất và cơ cấu mềm. Diện tích 514.000 km2 trong đó 3/5 là đồng bằng, dân số 6,2 triệungưòi đa số là dân tộc Thái thành thạo canh tác lúa nước và lúa cạn. Kinh tế tăng trưởng bền vững 6 - 8% trong 3 thập kỷ qua song chính sách phát triển nông nghiệp lâu dài của chính phủ. Những điều kiện đó đã giữ cho xuất khẩu gạo của Thái Lan đứng vị trí độc tôn từ sau thế chiến lần thứ II đến nay và còn kéo dài nữa.
Về lâu dài Thái Lan có hai sự lựa chọn. Trường hợp thứ nhất, thu hẹp sản xuất chỉ đảm bảo đủ tiêu dùng trong nước và tập trung cho gạo xuất khẩu cấp cao với mức giá gấp 1,3 - 1,7 gạo bình thường, nhằm vào các thị trường cao cấp Bắc Mỹ, Nhật và EU.
Trường hợp hai rút kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua đồng thời để đảm bảo ảnh hưởng lan toả trên các mặt đối với bên ngoài. Tuy không mở rộng sản xuất nhưng tiếp tục trợ giá duy trì ở mức độ như hiện nay nhằm vào cả hai khu vực thị trường nhập khẩu gạo trung bình và khu vực thị trường gạo cao cấp. Khả năng thực tế Thái Lan sẽ lựa chọn giữa hai chiều hướng này, xuất khẩu gạo trong 10 năm tới sẽ ở trên mức 5 triệu tấn/năm.
- Trung Quốc và ấn Độ đến nay bình quân sản lượng lúa đầu người mới chỉ đạt 160 kg và 145 kg với điều kiện đảm bảo an ninh lương thực của FAO cho các nước đang phát triển là 240 kg. Năm 1999 Trung Quốc xuất đi 2,9 triệu tấn gạo nhưng cũng nhập vào 2,2 triệu tấn. Với tốc độ tăng như hiện nay sản lượng lúa của hai nước sẽ đạt 217,5 triệu tấn và 193,2 triệu tấn với dân số cũng tăng lên1385 triệu người và 1156 triệu người vào năm 2010, bình quân đầu người của Trung Quốc không thay đổi mà còn giảm xuống, ấn Độ tăng lên 163 kg/người. Tuy vậy cũng mới chỉ đạt xấp xỉ Trung Quốc hiên nay.
Tuy nhiên là hai tiểu lục địa và hao nền kinh tế đang cất cánh lớn nhất của thế giới, sản lượng lúa của hai nước càng lên đến 335,7 triệu tấn chiếm 56% sản xuất toàn cầu. Khả năng tiếp tục gia tăng xuất khẩu gạo của hai nước này trong 10 năm tới là rất lớn, đặc biệt là với ưu thế áp dụng khoa học công nghệ sinh học tạo ra các giống lúa lai có năng suất cao.
- Mỹ xuất khẩu gạo có nhiều khả năng giảm hơn do sản xuất phải cạnh tranh ngày càng khó khăn về giá thành so với gạo Thái Lan, ấn Độ và sắp tới Việt Nam và Trung Quốc đều hoàn thành ký hết hiệp định thương mại, buộc Mỹ phải hạ mức thuế nhập vào từ 30% xuống 3%. Mặt khác chính phủ Mỹ hiện nay cũng đang phải trợ giá rất cao cho các trang trại sản xuất lúa gạo trong nước, vì vậy sản xuất gạo của Mỹ sẽ giảm là thực tế.
II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo thời kỳ 2001 - 2010.
1. Điều chỉnh cơ cấu sản xuất.
Việt Nam là nước có dân số đứng thứ 11 trong 214 nước trên thế giới, nhu cầu lương thực về gạo rất lớn, an ninh lương thực quốc gia đến nay chưa được bảo đảm hoàn toàn, khả năng nhập khẩu gạo thay thế sản xuất trong nươc chỉ có thể từ 15 - 20 năm nữa. Nền kinh tế phụ thuộc nông nghiệp vừa đang phát triển vừa đang chuyển đổi, tăng trưởng chưa ổn định còn đang ẩn chứa nhiều rủi ro về thiên tai và tác động bên ngoài. Trong khi đó xu thế toàn cầu hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ, cạnh tranh về đầu tư và thị trường ngày càng quyết liệt thêm vào đó là các cuộc khủng hoảng kinh tế và xã hội ở các nước và khu vực chưa có nhiều hướng dịu đi. Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế xã hội còn phải kéo dài và diễn biến không thể hoàn toàn theo mong muốn. Vì vậy sản xuất lúa gạo trong 10 năm tới vẫn là một trong những khu vực có tác động lớn đến quá trình phát triển bền vững và ổn định của đất nước.
Vị thế sẵn có trong thị trường thế giới đồng thời là mặt hàng khai thác xuất khẩu có nhiều thuận lợi trong cạnh tranh phù hợp với nhiều lợi ích trong nước và quốc tế. Đồng thời với khả năng phát triển xuất khẩu của Việt Nam trong 10 năm tới gạo vẫn là 1 trong 10 sản phẩm mang về nguồn ngoại tệ lớn nhất. Do đó tiếp tục tăng cường đổi mới cơ chế chính sách hỗ trợ sản xuất và khuyến khích xuất khẩu gạo như một sản phẩm lợi thế là rất cần thiết.
Tuy nhiên hướng phát triển lúa gạo của Việt Nam trong thời gian tới không hoàn toàn có nghĩa là tiếp tục tăng cường mở rộng sản xuất và tìm mọi cách để giữ vững vị trí xuất khẩu gạo trên thị trường thế giới hiện nay. Mặc dù có ý nghĩa to lớn về cung cấp lương thực chỉ số ICOR cao nhung với đặc điểm hạn chế về giá trị sử dụng đất, hiệu quả sử dụng nước và tác động mạnh đến môi trường đất dốc trong điều kiện 3/4 diện tích đất là đồi núi, phát triển sản xuất chung của lúa gạo cần đặt trong hướng phát triển hiệu quả chung của nông nghiệp và các ngành kinh tế khác.
Tổng hợp nhu cầu sản xuất lúa gạo đến 2005 - 2010
Đơn vị tính: Nghìn tấn
Thời kỳ
Lương thực
Xuất khẩu
Sử dụng khác
Giống
Dự trữ
Tổng
2005
Gạo
Lúa
14231
21347
5420
8130
300
430
1380
300
19951
31607
2010
Gạo
Lúa
15123
22685
4610
6915
400
600
1450
300
20133
32400
Sử dụng khác: du lịch, chăn nuôi, chế biến thực phẩm vói khả năng đã đủ cung cấp lương thực sản xuất lúa gạo cần có sự chuyển hướng đi vào nâng cao chất lượng để đáp ứng nhu cầu gạo chất lượng đang tăng lên ở thị trường trong nước và ngoài nước. Với mức sống tăng lên kéo theo nhu cầu ti
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100265.doc