Tài liệu Đề tài Một số cơ sở lý luận về mở rộng thị trường tiêu thụ lúa gạo: LỜI MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống hiện đại, gạo vẫn là lương thực chính của hơn một nửa dân số thế giới. Bàn về lúa gạo là bàn về an ninh lương thực - một vấn đề tất yếu quan trọng của bất cứ một quốc gia nào trên thế giới. Ở Việt Nam, lúa gạo là một ngành truyền thống, đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Lúa gạo sản xuất ra không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân cư trong nước mà còn hướng đến xuất khẩu. Đã hơn 17 năm nay, xuất khẩu gạo luôn đạt được trong điều kiện đã đảm bảo an ninh lương thực quốc gia bền vững và liên tục. Gạo là một mặt hàng xuất khẩu nông sản chủ lực của nước ta với sản lượng bình quân 3 – 4 triệu tấn mỗi năm, kể cả trong những năm có thiên tai lớn, dịch bệnh hoành hành…
Song song với tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, tham gia vào tổ chức thương mại WTO, ngành lúa gạo Việt Nam đang đứng trước những khó khăn và thách thức lớn về chất lượng gạo và ổn định thị trường tiêu thụ. Điều kiện mới đặt ra những yêu cầu tất yếu mà mọi khâu: “ sản xuất - chế ...
33 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1270 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số cơ sở lý luận về mở rộng thị trường tiêu thụ lúa gạo, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống hiện đại, gạo vẫn là lương thực chính của hơn một nửa dân số thế giới. Bàn về lúa gạo là bàn về an ninh lương thực - một vấn đề tất yếu quan trọng của bất cứ một quốc gia nào trên thế giới. Ở Việt Nam, lúa gạo là một ngành truyền thống, đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Lúa gạo sản xuất ra không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân cư trong nước mà còn hướng đến xuất khẩu. Đã hơn 17 năm nay, xuất khẩu gạo luôn đạt được trong điều kiện đã đảm bảo an ninh lương thực quốc gia bền vững và liên tục. Gạo là một mặt hàng xuất khẩu nông sản chủ lực của nước ta với sản lượng bình quân 3 – 4 triệu tấn mỗi năm, kể cả trong những năm có thiên tai lớn, dịch bệnh hoành hành…
Song song với tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, tham gia vào tổ chức thương mại WTO, ngành lúa gạo Việt Nam đang đứng trước những khó khăn và thách thức lớn về chất lượng gạo và ổn định thị trường tiêu thụ. Điều kiện mới đặt ra những yêu cầu tất yếu mà mọi khâu: “ sản xuất - chế biến – tiêu thụ” lúa gạo của nước ta phải tiến hành qui trình liên kết đồng bộ. Trong đó mở rộng thị trường tiêu thụ nước ngoài và ổn định thị trường trong nước của hàng hoá lúa gạo là vấn đề then chốt.
Là một sinh viên của Khoa kinh tế Nông nghiệp và phát triển Nông thôn, qua những năm được đào tạo trong Trường, trên lớp, em ý thức được sâu sắc vấn đề: ý nghĩa kinh tế của sản xuất lúa gạo. Được tiếp cận thực hiện đề án môn học, em hiểu rằng đây là cơ hội lớn cho em vận dụng những kiến thức đã được học. Cùng với sự hướng dẫn của PGS.TS Vũ Đình Thắng em đã lựa chọn đề tài: “Một số cơ sở lý luận về mở rộng thị trường tiêu thụ lúa gạo” làm đề án chuyên ngành. Với mong muốn hoàn thiện và mở rộng những kiến thức lý luận về vấn đề thị trường tiêu thụ lúa gạo, làm cở sở phương pháp luận cho những vấn đề lý luận mà em sẽ tiếp tục thực hiện ở chuyên đề tốt nghiệp và những đề tài khác nữa; nên bài viết của em chú trọng thực hiện: phần cơ sở lý thuyết cho vấn đề được nghiên cứu. Bố cục nội dung chính của đề án bao gồm:
Khái niệm, bản chất, chức năng và vai trò của thị trường tiêu thụ lúa gạo.
Đặc điểm và tiêu chí nhận diện thị trường tiêu thụ lúa gạo.
Những nhân tố tác động đến thị trường tiêu thụ lúa gạo.
Xu hướng phát triển của thị trường tiêu thụ lúa gạo.
Các chỉ tiêu đánh giá về thị trường tiêu thụ lúa gạo.
Do trình độ lý luận và hiểu biết còn hạn chế, bài viết của em chắc chắn sẽ còn rất nhiều thiếu sót. Em mong nhận được sự đóng góp, chỉnh sửa hơn nữa của Thầy Thắng và các Thầy trong Khoa để bài víêt và phương pháp tiếp cận của em được tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Vũ Đình Thắng và các Thầy cô.
I. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ LÚA GẠO.
1. Khái niệm.
1.1.Khái niệm về thị trường tiêu thụ lúa gạo.
Dựa trên cơ sở khái niệm chung về thị trường và hoạt động tiêu thụ. Với đặc trưng của lúa gạo là hàng hoá tiêu dùng, đáp ứng cho đại bộ phận dân cư, ta có thể khái quát:
“Thị trường tiêu thụ lúa gạo là tập hợp những khách hàng có nhu cầu và mong muốn tiêu dùng lượng hàng hoá lúa gạo nhất định cho nhu cầu thiết yếu của bản thân, gia đình và tổ chức. Việc thoả mãn nhu cầu này dựa theo những đặc điểm tâm lý, giới tính, độ tuổi nhất định, ở một địa phương, một vùng lãnh thổ cụ thể”.
Hiểu theo nghĩa hẹp: “thị trường tiêu thụ lúa gạo là nơi diễn ra các hoạt động mua bán lúa gạo. Là nơi gặp gỡ giữa người mua và người bán, giữa người sản xuất và người tiêu dùng lúa gạo tại một địa điểm, một vùng lãnh thổ nhất định”.
Quá trình mua và bán được thực hiện thông qua tập hợp các thoả thuận giữa các bên mua và bên bán. Là sự gặp gỡ giữa cung và cầu ở mỗi mức giá thoả thuận. Định giá là một quá trình quan trọng; được coi là quá trình mặc cả hay đàm phán thương mại. Tham gia vào thị trường tiêu thụ lúa gạo, các chủ thể kinh tế quan tâm đến rất nhiều vấn đề: số lượng, giá cả, chất lượng, bao gói, mẫu mã, phương thức thanh toán, thời điểm giao nhận hàng, thời hạn giao hàng, phương thức vận chuyển…Nhưng quan trọng nhất là: đàm phán thương mại và trao đổi quyền sở hữu hàng hoá lúa gạo giữa các chủ thể mua bán.
Do hàng hoá lúa gạo đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho đại bộ phận dân cư. Nói đến thị trường tiêu thụ là phải gắn với đặc tính dân cư của vùng cụ thể. Đây là điều kiện tiên quyết của phương thức kinh doanh hiện đại: sản xuất đáp ứng cầu tiêu dùng, chỉ khi đó thị trường mới được mở rộng.
1.2. Mở rộng thị trường tiêu thụ lúa gạo.
Nhìn lại chặng đường 17 năm liên tục là nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới; có thể thấy sản xuất và xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khâm phục. Tuy nhiên, trong điều kiện mới, khi mà Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của WTO, thị trường tiêu thụ lúa gạo nước ta đang đứng trước những diễn biến khó khăn, thử thách to lớn:
Thứ nhất, thị trường tiêu thụ lúa gạo tại nông thôn chưa phát triển mạnh với sức mua yếu, chất lượng không cao; thị trường thành thị: cung sản phẩm lúa gạo chưa đáp ứng được cầu tiêu dùng. Người dân thành thị đang có tâm lý ưa chuộng gạo Tám Thái. Nếu không có chiến lược sản xuất và kinh doanh hợp lý, ta có thể bị thua ngay trên chính sân nhà.
Thứ hai, cầu lúa gạo thế giới hiện nay đang tăng mạnh, nhưng do công tác dự báo thiếu chính xác nên khi giá tăng, nông dân và doanh nghiệp không còn lúa gạo để bán. Trong khi hợp đồng đã ký trước đó một năm với giá thấp đang gây thiệt hại lớn cho nông dân và doanh nghiệp xuất khẩu gạo.
Thứ ba, hiện trạng sản xuất vẫn còn rất nhiều bất cập. Sản xuất mang tính tự phát và kinh nghiệm cao, chưa thực hiện được qui hoạch rộng rãi, công tác giống và công nghệ chế biến hạn chế. Chất lượng gạo của ta đang phổ biến ở mức trung bình và thấp. Đặc biệt tính liên kết trong tất cả các khâu từ sản xuất - bảo quản - chế biến- xuất khẩu lỏng lẻo và chưa đồng bộ.
Thứ tư, hoạt động tranh mua tranh bán còn phổ biến khi giá đội lên cao. Tỷ lệ thu mua gạo qua hợp đồng thấp và thường không tôn trọng hợp đồng. Hệ thống kênh phân phối thu mua lúa gạo rất phức tạp với nhiều đầu mối: đại lý, nông dân, người thu mua, người xay xát, tư thương bán buôn, bán lẻ và các doanh nghiệp Nhà nước, sức cạnh tranh không cao.
Thứ năm, thị trường nước ngoài có mở rộng nhưng không ổn định. Gạo chất lượng cao xuất khẩu vào thị trường EU, Mỹ, Nhật Bản, Úc…còn thấp. Giá xuất khẩu biến động và vẫn thấp thua giá gạo Thái Lan cùng loại. Công tác quảng cáo, xúc tiến thương mại, xây dựng và bảo vệ thương hiệu lúa gạo yếu kém.
Trong xu thế cạnh tranh gay gắt, đây là những hạn chế rất lớn. Yêu cầu đặt ra là phải giải quyết ngay thì mới giữ ổn định và chiếm lĩnh thị trường quốc tế. Hơn thế, ta cũng hạn chế được nguy cơ thị trường trong nước có thể bị biến thành “cửa hàng tiêu thụ” lúa gạo nước ngoài. Do đó việc mở rộng thị trường lúa gạo là một tất yếu khách quan. Hiện nay mở rộng thị trường tiêu thụ được xác lập theo phương hướng: Mở rộng thị trường tiêu dùng trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu lúa gạo.
2. Bản chất của thị trường tiêu thụ lúa gạo
2.1. Thị trường lúa gạo ra đời và phát triển gắn với phân công lao động xã hội của sản xuất hàng hoá lúa gạo.
Cũng như các hàng hoá nông sản khác, lúa gạo tuân theo qui luật kinh tế khách quan: “Ở đâu có sản xuất hàng hoá thì ở đó tồn tại thị trường”. Mặc dù từ xa xưa quan hệ trao đổi đã được thực hiện: “ 10 kg thóc = 1m vải = 2 con gà = 1 chỉ vàng”... Nhưng chỉ đến khi sản xuất có qui mô lớn, phân công lao động xã hội phát triển mới hình thành thị trường. Phân công lao động xã hội càng ở trình độ cao thì sản xuất hàng hoá càng lớn và thị trường tiêu thụ lúa gạo càng phức tạp. Thị trường ngày càng phải phát triển đồng bộ hơn.
Thị trường tiêu thụ lúa gạo phát triển gắn liền các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, gắn liền sự xã hội hoá lao động trong nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Hiện nay, cả nước mới chỉ có hai vùng tỷ suất hàng hoá cao là đồng bằng Sông Hồng và Sông Cửu Long; đặc biệt vùng đồng bằng sông Cửu Long ngày càng thiết lập được hệ thống gắn kết tất cả các khâu: sản xuất – thu gom - vận chuyển - chế biến – bán buôn - bán lẻ và xuất khẩu. Cần phải đẩy nhanh quá trình phân công lao động xã hội nội vùng, trong các vùng trên cơ sở tích tụ và tập trung đất đai. Phải tách biệt được các chủ thể có năng lực sản xuất; những chủ thê chuyên làm thuê; những chủ thế chuyển kinh doanh, chuyên làm nhiệm vụ phân phối và chuyên xuất khẩu…thì mới thiết lập được hệ thống phân công lao động ở trình độ cao.
Mặt khác, do lợi thế so sánh về xuất khẩu lúa gạo, nước ta ngày càng tham gia sâu vào hệ thống chuyên môn hoá và phân công lao động quốc tế. Do đó để đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm lúa gạo trước hết phải phát triển cao trình độ sản xuất hàng hoá lúa gạo.
2.2. Thị trường tiêu thụ lúa gạo phản ánh mối quan hệ kinh tế đặc trưng là: Cung – Giá - Cầu của hàng hoá lúa gạo.
Nói đến thị trường là nói đến mối quan hệ kinh tế đặc trưng: Cung – giá - cầu. Nó ẩn chứa những mối quan hệ kinh tế giữa người sản xuất – lúa gạo - người tiêu dùng; giữa hàng hoá - tiền tệ - hàng hoá. Nên ta xem xét từng nhân tố của mối quan hệ kinh tế này.
a). Cung sản phẩm lúa gạo.
Ở Việt Nam sản xuất lúa gạo diễn ra khắp 8 vùng sinh thái nông nghiệp của cả nước, trong đó tập trung chính ở hai vùng có tỷ suất hàng hoá lớn là đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long. Theo FAO, từ năm tổng lượng lúa gao tăng khoảng 70 triệu tấn thì Việt Nam đóng góp tới 10 triệu tấn. Chứng tỏ Việt Nam là một trong những nước có tiếm lực sản xuất lúa gạo.
Bảng 1. Sản lượng lúa gạo sản xuất của Việt Nam qua một số năm.
(Đơn vị: Triệu tấn)
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
32.5
31.1
34.1
34.5
34.5
35.8
36.2
( Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam).
Có thể thấy, cung lúa gạo tăng liên tục qua các năm, phản ánh năng lực sản xuất lúa gạo của nước ta là rất lớn. Đây là nguồn cung ứng lúa gạo dồi dào, tạo nền tảng mở rộng hơn nữa thị trường tiêu thụ. Hiện nay, cung lúa gạo trên thị trường có những đặc điểm khái quát sau đây:
Mức cung lúa gạo trên thị trường có xu hướng tăng mỗi năm và ổn định.
Cung lúa gạo phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và mang tính vùng, địa phương nhất định.
Cung lúa gạo chưa phù hợp với cầu tiêu dùng; do sản xuất vẫn là truyền thống dựa trên điều kiện tự nhiên thuận lợi sẵn có, chưa bám sát nhu cầu thị trường.
b). Cầu lúa gạo trên thị trường tiêu thụ.
Cầu trên thị trường tiêu thụ nội địa:
Với một lực lượng dân số đông việc cân đối tiêu dùng lương thực là hết sức quan trọng. Những nghiên cứu đánh giá cho thấy, mức tiêu dùng lương thực trong nước ngày càng có xu hướng tăng nhanh.
Bảng 2. Tiêu dùng lúa gạo ở Việt Nam.
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Sản lượng ( triệu tấn)
32.5
32.1
34.1
Thóc giống (triệu tấn)
1.187
1.156
1.155
Thóc hao hụt & TAGS( triệu tấn)
4.717
4.656
4.939
Xuất khẩu gạo( triệu tấn)
3.477
3.721
3.241
Dân số( triệu người)
77.6
78.7
79.7
Thóc lương thực & TAGS
22.9
22.2
24.7
%tiêu dùng so sản lượng
74
72.7
75.8
Mức tiêu dùng gạo (kg/người)
185
177
194
SL gạo trên người( kg/người)
281
273
286
Tiềm năng XK ở mức td 147kg/ng
6.5
6.2
7.1
( Nguồn: Số liệu TCTK – “Báo cáo tổng quan ngành lúa gạo Việt Nam”- Nguyễn Ngọc Quế và Trần Đình Thao. Hà Nội, tháng 5- 2004).
Qua bảng số liệu trên có thể thấy, nhu cầu tiêu dùng lúa gạo ngày càng tăng theo xu hướng mức tăng trưởng sản xuất. Những nghiên cứu của FAO còn chỉ ra rằng, chính sách tháo gỡ hạn ngạch và tăng xuất khẩu gạo trong thời gian vừa qua không gây tác động tiêu cực đến tiêu dùng lúa gạo trong nước hay an ninh lương thực Ngược lại cùng với sự gia tăng sản xuất gạo xuất khẩu, mức tiêu dùng gạo trong nước cũng có xu hướng gia tăng. Vấn đề là ở nắm bắt nhu cầu - thị hiếu người dân và thiết lập kênh phân phối hợp lý. Cầu lúa gạo hiện tại có đặc trưng sau:
Cầu tiêu thụ ở nông thôn tăng chậm. Do thu nhập thấp nên sức mua của khu vực nông thôn yếu. Các loại gạo tiêu dùng chủ yếu là gạo tẻ thường, có chất lượng không cao.
Cầu tiêu thụ lúa gạo ở khu vực thành thị đòi hỏi các loại gạo có chất lượng thơm ngon: Gạo tẻ thơm, có độ trong, độ trắng, độ dẻo cao. Tuy nhiên, do tỷ lệ dân cư đô thị và công nghiệp còn thấp so với cả nước(20%), nên qui mô tiêu dùng còn nhỏ.
Cầu hiện tại rất đa dạng về số lượng, chủng loại, và đang có xu hướng tăng nhanh các loại lúa gạo chất lượng cao.
Cầu tiêu thụ nước ngoài:
Hiện nay, cầu tiêu thụ ngoài nước đang tăng rất mạnh vượt quá cung lúa gạo. Thị trường mở rộng nhanh về số lượng các loại lúa gạo chất lượng cao.
Bảng 3. Xuất khẩu gạo của Việt Nam qua một số năm.
(Đơn vị: Triệu Tấn)
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
4
3.56
3.24
3.2
4.055
5.2
5
( Nguồn: Niêm giám Thống Kê)
Nhìn chung thị trường tiêu thụ lúa gạo của ta chủ yếu là Châu Á, Trung Đông, Châu Phi: những khách hàng không có đòi hỏi cao về chất lượng. Trong đó, thị trường Châu Á chiếm 52% tổng lượng xuất khẩu, chiếm 51% giá trị xuất khẩu. Riêng khu vực Đông Nam Á cũng chiếm 46,2% lượng xuất và 45.4 % giá trị xuất khẩu với hai khách hàng lớn lá Inđônêxia, Philippin. Tỷ trọng này của Trung Đông là 12,7 % và 16 %, của Châu Phi là 8.2 và 6.9 %. Riêng thị trường Mỹ ta mới chỉ chiếm lĩnh được 3,2 % tổng lượng và giá trị xuất khẩu.
Thị trường tiêu thụ lúa gạo của Việt Nam là lớn, tuy nhiên cơ cấu nhập khẩu tuỳ thuộc vào yêu cầu chất lượng riêng của mỗi khách hàng. Irăc, Mỹ, Nhật Bản… nhập gạo 5%; Inđônêxia nhập gạo 15% tấm, Philippin nhập gạo 25 % tấm…Do đó để mở rộng thị trường, phải thực hiện nghiên cứu đánh giá cụ thể nhu cầu khách hàng, thị hiếu sản phẩm và khả năng cung ứng của các đổi thủ cạnh tranh xuất khẩu gạo trên thế giới như Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan…Phải xác định rõ chiến lược: “ Xuất cái thị trường cần, chứ không phải xuất cái mà ta có”
c). Giá cả lúa gạo trên thị trường
Với mỗi một mức giá nhất định sẽ quyết định một lượng cung hoặc một lượng cầu lúa gạo được tiêu thụ trên thị trường. Do những đặc tính của sản phẩm thiết yếu và sản xuất lúa gạo; không thể có một giá lúa gạo thống nhất. Giá lúa gạo thay đổi tuỳ thuộc vào số lượng và chất lượng của hàng hoá có sẵn trên thị trường.
Giá cả là một yếu tố quyết định tính cạnh tranh của hàng hoá lúa gạo của nước ta. Giá cả không ổn định là mối lo ngại lớn nhất đối với các tác nhân tham gia kênh tiêu thụ lúa gạo trên thị trường. Giá cả vừa có tác dụng kích thích vừa hạn chế hoạt động sản xuất và tiêu dùng. Mặt khác, giá cả còn là công cụ để phân phối lại lợi nhuận của nông dân và cơ sở sản xuất kinh doanh.
Bảng 4. Giá xuất khẩu trung bình của hàng hoá lúa gạo Việt Nam.
(Đơn vị: USD/tấn)
Năm
Giá của gạo
1995 -1998
269
2003
188,2
2004
232
2005
265
2006
252
(Nguồn FAO – Facsimission. Bộ Thương Mại ).
Hiện nay giá gạo xuất khẩu đang ở mức cao. Gạo 5% tấm phổ biến với mức 270- 280 USD/tấn. Đặc biệt ta còn ký được những hợp đồng xuất khẩu 14000 tấn gạo sang Nhật Bản với giá 422 USD/ tấn. Xuất khẩu của Việt Nam đang thuận lợi về giá.
Ở thị trường tiêu thụ nội địa, giá thóc gạo có xu hướng tăng. Chênh lệch giá lúa gạo giữa các vùng có xu hướng gia tăng, ngay cả hai khu vực đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long. Gạo xuất khẩu chủ yếu là từ các tỉnh phía Nam, vì chi phí lưu thông gạo ở các tỉnh phía Bắc là cao. Đây là một cản trở cho sự điều hoà giá cả thị trường hai miền. Cần phải có sự điều tra phân tích cụ thể giá và chênh lệch giá giữa các vùng, để điều tiết. Hiện nay giá lúa gạo đang phổ biến ở mức: Lúa tẻ thường 2800- 2900 đồng/kg và có xu hướng tăng hơn nữa. Nhìn chung, giá lúa gạo có những đặc điểm sau:
Giá cả lúa gạo không ổn định phụ thuộc vào tính mùa vụ trong sản xuất lúa gạo và mang tính vùng nhất định.
Sự thay đổi của giá lúa là chậm so với hàng hoá công nghiệp do tác động của tự nhiên và chu kỳ sản xuất, dẫn đến tâm lý sản xuất tự cung tự cấp.
Do tác động của thị trường nước ngoài gây nên biến động giá cả, khi giá xuống thấp người nông dân chịu thua thiệt, khi giá lên cao lượng hàng hoá không còn nhiều.
Giá cả trong những năm gần đây có tăng đáng kể, nhưng so với sản phẩm cùng loại của Thái Lan, giá lúa gạo vẫn còn thấp.
Do đó muốn mở rộng thị trường tiêu thụ, phải giữ ổn định được giá bán. Giá lúa gạo phải đảm bảo được đời sống sản xuất cho hộ nông dân; đảm bảo cho các chủ thể kinh doanh có lãi và thị trường thì chấp nhận được.
2.3. Thị trường tiêu thụ lúa gạo là một lĩnh vực trao đổi tự do và ngang giá.
Trao đổi hàng hoá lúa gạo có nghĩa là chuyển quyền sở hữu nó giữa người mua và người bán. Người sản xuất thì trao đổi quyền sở hữu “giá trị sản phẩm” - là kết tinh của hao phí sức lao động và các chi phí sản xuất như: giống, phân bón, thuốc trừ sâu, phí thuỷ lợi…đổi lấy lượng tiền tệ sao cho có thể bù đắp được những chi phí sản xuất và có lãi. Còn người tiêu dùng sử dụng lượng tiền nhất định để mua “giá trị sử dụng” của hàng hoá lúa gạo. Giá trị sử dụng bao gồm: giá trị dinh dưỡng, ( lượng calo, sự thơm ngon…) giá trị thẩm mỹ, giá trị văn hoá khi tiêu dùng lúa gạo. Xuât phát từ nguyên lý này, mở rộng thị trường phải bám sát nhu cầu về giá trị sử dụng. Trong đó, sản xuất hiện nay hướng nhiều đến các sản phẩm sinh thái có hàm lượng Prôtêin cao 462 kg Prôtêin / ha, ở Việt Nam mới chỉ có hơn 300 kg.
Quá trình trao đổi là ngang giá và tự do. Các chủ thể tham gia thị trường là độc lập nhau, chịu sự dẫn dắt của lợi ích kinh tế và “bàn tay vô hình của thị trường”. Giá cả do cân bằng cung - cầu ở những thời điểm khác nhau quyết định. Không ai có quyền chi phối lớn trên thị trường. Do đó, thị trường tiêu thụ lúa gạo mang đặc điểm của thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Nó vận động với cơ chế phức tạp, thích ứng trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, quan hệ theo qui luật cạnh tranh để giải quyết các vấn đề của tổ chức kinh tế tham gia thị trường. Hiện nay, tồn tại các dạng cạnh tranh chủ yếu sau:
Cạnh tranh về chất lượng gạo.
Đây là dạng cạnh tranh dựa trên các đặc tính chất lượng khác nhau của lúa gạo như. Bản chất là cạnh tranh về gía trị sử dụng khi tiêu dùng lúa gạo.Tựu chung có:
Cạnh tranh giữa các loại gạo: Xi, X21, Bắc Hương, Nàng Hương, gạo tẻ thường và tẻ thơm; gạo cứng và gạo dẻo; gạo hạt tròn và gạo hạt dài; gạo có tỷ lệ tấm cao(>10%) và gạo có tỷ lệ tấm thấp(<5%); …
Cạnh tranh về tính đặc sản của vùng: gạo Tám Hải Hậu, gạo Điện Biên, gạo Thái Bình…
Cạnh tranh về giá lúa gạo:
Cạnh tranh về giá lúa gạo trên cơ sở chất lượng gạo.
Cạnh tranh trên giá trị gia tăng của sản phẩm qua các khâu dịch vụ vận chuyến, dịch vụ xay xát, chế biến, bảo quản…
Cạnh tranh về chất lượng dịch vụ: Mẫu mã, kiểu dáng bao bì, cung cách tiếp thị…
Cạnh tranh về thương hiệu.
Cạnh tranh thương hiệu doanh nghiệp: Nông trường Sông Hậu, Vietfood, công ty lương thực miền Nam,…
Cạnh tranh thương hiệu sản phẩm: gạo Kim Kê, gạo Sôhafarm, gạo Tám Thái Lan và Tám Việt Nam…
2.4. Kênh phân phối lúa gạo của thị trường tiêu thụ:
a). Hệ thống kênh phân phối của thị trường tiêu thụ lúa gạo.
Hệ thống kênh phân phối đóng vai trò quan trọng trong khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ lúa gạo. Hệ thống kênh phân phối chính là các kênh dẫn của hoạt động tiêu thụ. Hiện nay hệ thống tiêu thụ lúa gạo ở Việt Nam khá phức tạp thông qua nhiều mắt xích liên hệ giữa các đối tác khác nhau. Có thể được thiết lập với hai dạng kênh trực tiếp và kênh gián tiếp.
Lúa gạo có thể trực tiếp từ người sản xuất đến người tiêu dùng dưới các hình thức bán lẻ ở các kiôt ngay trong cơ sở sản xuất, bán ở chợ. Đây là dạng kênh ngắn, nhanh, tiết kiệm được chi phí lưu thông, nhưng nó chỉ phù hợp với biến động lúa gạo của các hộ nông dân, có khối lượng sản phẩm hàng hoá không lớn.
Lúa gạo có thể đến tay người tiêu dùng qua các khâu trung gian là chức năng thương nghiệp: Các đại lý, các công ty thương nghiệp Nhà nước và tư nhân. Ở đây, hộ nông dân, cơ sở sản xuất bán buôn lúa gạo cho tổ chức thương nghiệp để họ thực hiện bán lẻ cho giới tiêu dùng
Hệ thống lưu thông phân phối và tiêu thụ lúa gạo hiện nay hầu như hoàn toàn tự do với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, nhiều những đơn vị kinh tế, nhiều những chủ thể kinh tế khác nhau. Trong đó, khu vực kinh tế tư nhân chiếm lĩnh gần 95% thị phần thị trường nội địa. Khu vực kinh tế Nhà nước nắm giữ 96 % thị phần quốc tế.
Hệ thống kênh phân phối này cũng được thiết lập cho những vùng khác nhau. Do sự khác biệt lớn về lưu thông mà vùng đồng bằng sông Cửu Long tập trung chủ yếu cho xuất khẩu thông qua các DNQD, còn ĐBSH chủ yếu hướng vào thị trường tiêu dùng nội địa. Có thể khái quát hoá hệ thống kênh phân phối tiêu thụ lúa gạo theo sơ đồ sau đây:
N. bán buôn
Người thu gom
N. tiêu dùng
N.bán lẻ
Nhà xay xát
Xuất khẩu
Nông dân
DNQD có HĐXK
DNQD không có HĐXK
Nguồn: FAO, 2000. Nghiên cứu khả năng cạnh tranh của ngành Nông nghiệp Việt Nam.
Ghi chú: DNQD: Doanh nghiệp quốc doanh; HĐXK: Hợp đồng xuất khẩu
Kênh tiêu thụ lúa
Kênh tiêu thụ gạo
b). Thị trường lúa gạo - thị trường đa cấp.
Từ đặc điểm của đối tượng tiêu dùng lúa gạo và cơ cấu tổ chức của dây chuyền Marketing nhận thấy: thị trường tiêu thụ lúa gạo là một thị trường đa cấp. Trong đó:
Thương nhân mua lúa gạo từ người nông dân
Doanh nghiệp, nhà máy chế biến gạo mua lúa từ tư thương ở cấp thị trường bán buôn.
Người tiêu dùng mua lúa gạo ở cấp thị trường bán lẻ.
Tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của sản xuất hàng hoá và đặc tính tiêu dùng của mỗi địa phương mà thiết lập hệ thống phân phối trực tiếp hay gián tiếp. Để thiết lập một hệ thống kênh phân phối hợp lý, cần phân tích chi tiết hiệu quả của hệ thống đó trên các phương diện: chi phí, lợi nhuận và giá thành sản phẩm…Trên cơ sở điều tiết lợi ích, sẽ ràng buộc các chủ thế cùng tham gia trên kênh và mạng kênh.
3. Chức năng .
Bản chất của thị trường tiêu thụ lúa gạo còn thể hiện ở chức năng của thị trường tiêu thụ lúa gạo. Thị trường tiêu thụ lúa gạo cũng thể hiện đầy đủ các chức năng cơ bản của thị trường nông sản. Biểu hiện:
Chức năng thừa nhận
Khẳng định mọi yếu tố đầu vào của sản xuất lúa gạo như: giống, phân bón, thuốc trừ sâu, vốn, thuỷ lợi… và đầu ra của hàng hoá lúa gạo đều được bán trên thị trường. Tức là chuyển quyền sở hữu nó với những giá nhất định thông qua việc thực hiện một loạt các hoạt động thoả thuận về giá cả, chất lượng, số lượng, phương thức giao nhận hàng trên thị trường. Chức năng này có nghĩa là người bán chấp nhận bán trên thị trường; người mua chấp nhận mua hàng. Cung cầu gặp gỡ, hai bên trao đổi hàng hoá lúa gạo.
Thực hiện chức năng này có nghĩa là thừa nhận các hoạt động sản xuất và tiêu thụ lúa gạo tuân theo yêu cầu của kinh tế thị trường như: các qui luật cạnh tranh, giá cả, cân bằng cung cầu.
Chức năng thực hiện
Khi kinh tế thị trường phát triển, mọi yếu tố đầu vào cho sản xuất và đầu ra của lúa gạo đều được tiền tệ hoá thì mọi hoạt động mua bán là cơ sở quan trọng quyết định các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế. Chức năng này thể hiện ở chỗ, thị trường thực hiện hành vi trao đổi, thực hiện cân bằng cung cầu từng loại hàng hoá lúa gạo. Thị trường hình thành và điều tiết giá cả và thực hiện giá trị cho hàng hóa lúa gạo.
Chức năng điều tiết, kích thích.
Thị trường vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy các chủ thể kinh tế tiến hành hoạt động sản xuất – kinh doanh lúa gạo. Đây chính là cơ sở khách quan để thực hiện chức năng điều tiết kích thích thị trường. Nó sẽ điều tiết nguồn cung theo nhu cầu tiêu dùng lúa gạo trên từng thị trường nhất định. Điều tiết từ nơi giàu nguồn cung ứng đến những nơi khan hiếm, thông qua lợi ích kinh tế của việc kinh doanh. Thực hiện chức năng này, thị trường tiêu thụ có vai trò quan trọng trong việc phân bổ và sử dụng hợp lý các nguồn cho sản xuất lúa gạo. Trong đó phân bổ nguồn lực đất đai, lao động là quan trọng nhất.
Chức năng thông tin.
Có rất nhiều thông tin kinh tế, trong đó thông tin thị trường là rất quan trọng. Chức năng thông tin thị trường bao gồm: tổng cung, tổng cầu, cơ cấu sản phẩm lúa gạo, chất lượng, giá cả, thị hiếu, cách thức, phong tục tiêu dùng của nhân dân… Thông tin là tai mắt của thị trường. Thông tin chính xác là cơ sở quan trọng cho việc ra quyết định trao đổi, cung ứng hàng hoá lúa gạo đạt lợi nhuận tối đa.
Các chức năng nêu trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó chức năng thừa nhận là quan trọng nhất, quyết định nhất. Chừng nào chức năng này được thực hiện thì các chức năng khác mới phát huy tác dụng. Mặt khác, khi chức năng khác không thể hiện ra thì chắc chắn đã có những yếu tố phi kinh tế nào đó can thiệp vào thị trường làm cho nó biến dạng đi.
4. Vai trò
4.1. Thị trường là nhân tố quyết định việc xác định phương hướng sản xuất kinh doanh lúa gạo.
Thị trường là nhân tố quyết định những vấn đề quan trọng của sản xuất như: sản xuất loại lúa gạo gì? Sản xuất đáp ứng đối tượng nhu cầu nào? sản xuất theo hướng chuyên môn hoá ra sao? Tổ chức tốt hoạt động tiêu thụ trên thị trường sẽ có tác dụng mạnh mẽ đến quá trình sản xuất. Trước hết là chức năng quản trị sản xuất và các yếu tố của sản xuất như: đất đai; lao động; tiền vốn; giống… Tiêu thụ tốt và kịp thời lúa gao là tín hiệu tốt cho nông dân, cơ sở sản xuất kinh doanh lúa gạo bổ sung điều tiết kế hoạch cho quá trình sản xuất tiếp theo. Thông qua hoạt động tiêu thụ, mà doanh nghiệp nắm bắt được thị hiếu người tiêu dùng về: số lượng, chất lượng, chủng loại gạo. Từ đây người sản xuất mới có căn cứ để xác định cơ cấu sản phẩm sản xuất cho phù hợp. Do đặc điểm sản xuất nông nghiệp, không dễ có thể chuyển hướng sản xuất ngay được, điểm mấu chốt phải dựa trên nghiên cứu thị trường. Phải xác định: “ Dù có tham gia vào khâu nào trên thị trường thì chiến lược hoạt động của doanh nghiệp cũng đều phải hướng đến tới nhu cầu và thoả mãn tốt nhất nhu cầu thị trường so với đổi thủ cạnh tranh”.Phải bám sát thị trường để căn cứ xác định chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiện nay sản xuất lúa gạo của ta mới dựa trên những điều kiện tiềm lực. Hàng hóa bán ra phần lớn là bán cái mà mình có chứ chưa bán cái mà thị trường cần. Để đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ lúa gạo Việt Nam trước hết phải bám sát nhu cầu thị trường, đáp ứng tốt hơn và hướng đến tốt nhất yêu cầu khách hàng so với đối thủ cạnh tranh cùng ngành hàng.
4.2. Thực hiện giá trị hàng hoá lúa gạo.
Lúa gạo được tiêu thụ trên thị trường khẳng định: sản phẩm được thị trường chấp nhận. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm làm hàng hoá vận động từ tay người sản xuất đến tay người tiêu dùng. Đây là quá trình thị trường thực hiện giá trị của hàng hoá lúa gạo. Lúa gạo bán được giá cao, cho phép nông dân và cơ sở sản xuất – kinh doanh thu hồi được vốn, tránh ứ đọng vốn, và nhanh chóng chuyển hoá vốn sản xuất từ trạng thái hiện vật sang hình thái giá trị để chuẩn bị cho chu kỳ sản xuất tiếp theo. Trên cơ sở đó thúc đẩy sản xuất phát triển. Tiêu thụ sản phẩm nhằm thực hiện mục đích của sản xuất hàng hóa là sản phẩm sản xuất để bán và thu được lợi nhuận. Nó chuyển tải kết quả của sản xuất lúa gạo sang cho người tiêu dùng một cách kịp thời và nhanh chóng là tiền đề thực hiện phân phối thu nhập giữa các chủ thể tham gia sản xuất- kinh doanh hàng hoá lúa gạo.
4.3. Gắn kết các khâu: Sản xuất - chế biến- tiêu thụ của ngành lúa gạo.
Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp tồn tại và hoạt động kinh doanh với tính cách là những chủ thể kinh tế độc lập. Các chủ thế phải có mối quan hệ trao đổi với các chủ thể khác để đáp ứng nhu cầu về yếu tố đầu vào và tiêu thụ đầu ra thông qua môi trường kinh tế thị trường.
Hàng hoá lúa gạo được tiêu thụ trên thị trường là do kết quả của nhiều khâu: Sản xuất tạo ra chất lượng ban đầu; bảo quản chế biến gia tăng giá trị cho sản phẩm; tiêu thụ là luồng dẫn sản phẩm đến khách hàng, phản hồi thông tin sản phẩm có được chấp nhận rỗng rãi hay không? Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt, để mở rộng thị trường doanh nghiệp phải thực hiện tốt các khâu trên. Do đó tính liên kết hợp tác là tất yếu nhằm gia tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường. Thị trường buộc các chủ thể tham gia phải thực hiện liên kết; điều tiết quan hệ theo lợi ích kinh tế và giảm thiểu rủi ro.
Thị trường là chỉ tiêu đo lường hiệu quả kinh tế của vấn đề sản xuất lúa gạo; là động lực thúc đẩy nhanh quá trình phân công lại lao động xã hội. Thị trường phát triển gắn với nền sản xuất hàng hoá phát triển, theo đó tách biệt các chủ thể: Người có năng lực sản xuất – kinh doanh tồn tại; người không có năng lực trở thành người làm thuê…Những vùng có khả năng sản xuất lúa thì chuyên sản xuất lúa; những vùng không hiệu quả thì chuyển sang các loại cây trồng vật nuôi khác. Tránh để tình trạng nông dân cứ bám chặt lấy đất mà sản xuất không hiệu quả. Sự phân công lại lực lượng lao động này ở nông thôn sẽ có tác dụng điều chỉnh, tập trung các nguồn lực cho sản xuất lúa gạo nói chung, và cho cả nền nông nghiệp nước ta.
II. ĐẶC ĐIỂM VÀ TIÊU CHÍ NHẬN DIỆN THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ LÚA GẠO
1. Đặc điểm chung.
Ngoài những đặc trưng về cung; cầu; giá cả thị trường lúa gạo mang những đặc điểm hết sức khái quát của thị trường nông sản sau đây:
Thị trường tiêu thụ lúa gạo thuộc thị trường hàng hoá tiêu dùng, nó khác căn bản thị trường tư liệu sản xuất ở chỗ: Thị trường này do nhiều người mua hàng với số lượng rất lớn. Quan hệ thị trường mở rộng.
Thị trường tiêu thụ lúa gạo là thị trường nông sản lớn nhất do lúa gạo là sản phẩm đáp ứng nhu cầu tối cần thiết của con người. Sự phát triển của thị trường phụ thuộc rất nhiều vào cơ cấu dân cư, tỷ lệ cấu thành lực lượng lao động, mức thu nhập, trình độ học vấn, tôn giáo, sở thích, tuổi tác, nghề nghiệp, thị hiếu.
Thị trường tiêu thụ lúa gạo mang tính vùng và khu vực dựa trên lợi thế so sánh của các vùng sản xuất và nhu cầu tiêu thụ. Do đó hình thành nên các thị trường lúa gạo khác nhau: Chợ nông thôn, chợ đầu mối, trung tâm thương mại, cửa hàng, siêu thị, cảng xuất khẩu…
Thị trường lúa gạo chịu ảnh hưởng của yếu tố mùa vụ do đặc điểm khách quan sản xuất lúa gạo. Cung, cầu, giá cả biến động theo yếu tố này. Một bộ phận lớn lúa gạo được tiêu dùng nội bộ hoặc với tư cách là tư liệu sản xuất (làm giống cho vụ sau). Do đó thị trường tiêu thụ phải xem xét đến nhu cầu này để tổ chức tiêu thụ cho tốt.
2. Tiêu chí nhận dạng.
Hoạt động tiêu thụ phụ thuộc lớn vào cơ cấu, mức thu nhập của dân cư tiêu dùng lúa gạo. Do đó ta nhận diện thị trường theo đối tượng dân cư gắn với vùng lãnh thổ nhất định. Thị trường tiêu thụ được phân chia:
2.1. Thị trường nông thôn:
Với lực lượng dân cư đông đảo, chiếm gần 80% dân số cả nước. Nhu cầu về lúa gạo ở nông thôn là rất lớn. Nhưng do giới hạn về thu nhập tiêu dùng chủ yếu vẫn là sản phẩm thô, chất lượng thấp. Các loại lúa gạo được tiêu thụ chủ yếu là lúa gạo được sản xuất tại địa phương. Nhu cầu trao đổi tập trung tại thị trường địa phương gắn với những tập quán ăn uống và văn hoá nhất định. Cầu về lúa gạo chất lượng cao xảy ra ở thời điểm giáp Tết. Hoạt động thông thương các kênh tiêu thụ lúa gạo với các địa phương khác chậm phát triển. Chủ yếu là giao dịch nội vùng với các cấp xã, huyện, tỉnh. Đối tượng giao dịch là nông dân với tư thương thu mua, vận chuyển và xay xát lúa gạo.
Nơi nhận diện thị trường tiêu thụ chính là chợ nông thôn. Chợ nông thôn hiện nay phát triển với hai hình thức. Chợ tiêu dùng và chợ đầu mối: nơi tập kết lúa gạo nguyên liệu.
Chợ tiêu dùng:
Chợ tiêu dùng phân bố ở mọi miền sản xuất, mọi nơi ở nông thôn có nhu cầu mua bán lúa gạo. Nhìn chung chợ tiêu dùng ở nông thôn có qui mô nhỏ, hoạt động chủ yếu đáp ứng nhu cầu trao đổi của đời sống dân cư nội vùng. Chợ tập hợp tất cả những hàng hoá cho nhu cầu trao, lúa gạo được bày bán trên thị trường là không lớn. Do tập quán tích trữ lúa gạo của hộ gia đình trong quá trình sản xuất.
Hoạt động mua bán trực tiếp theo cơ chế: chào - trả. Do đó phương thức giao nhận và thanh toán cũng là trực tiếp. Hình thức này có ưu điểm: kênh phân phối ngắn, nhanh gọn, tiết kiệm được chi phí vận chuyển và giao dịch. Nhưng nó chỉ phù hợp với qui mô sản xuất và trao đổi nhỏ. Không thể phù hợp với sản xuất hàng hoá qui mô lớn.
Quan hệ mua bán phổ biến là trao đổi quyền sở hữu lúa gạo giữa người sản xuất (nông dân, các cơ sở sản xuất ) và người tiêu dùng qua những mức giá thoả thuận nhất định.
Chợ đầu mối:
Hiện nay, mô hình chợ đầu mối tại nông thôn là chưa phát triển. Chợ đầu mối về lúa gạo mới chỉ xuất hiện tại một số vùng chuyên canh lớn của đồng bằng sông Cửu Long. Chợ đầu mối được thiết lập riêng tại vùng sản xuất, cung ứng gạo nguyên liệu cho các nhà máy xay xát, chế biến gạo xuất khẩu. Hoạt động bao tiêu sản phẩm chủ yếu do Hợp Tác Xã tiêu thụ đảm nhận.
2.2. Thị trường thành thị:
Cầu về lúa gạo có tỷ trọng không lớn do dân cư đô thị và công nghiệp nước ta còn thấp. Nhưng cầu chất lượng sản phẩm tăng nhanh. Các sản phẩm lúa gạo yêu cầu là các loại gạo Tám thơm, tẻ thơm, phải ngon, có độ dẻo, độ trong độ mịn…
Nhận diện thị trường thường tại thành thị là rất sôi nổi với nhiều hình thức: cửa hàng bán buôn gạo, các kiôt, các trung tâm thương mại, siêu thị…
Quan hệ mua bán: Trao đổi quyền sở hữu giữa người cung ứng và khách hàng
Hình thức mua bán đa dạng hơn: Trực tiếp, gọi điện để thoả thuận với nhau…Do đó phương thức thanh toán, giao nhận cũng phong phú hơn.
Cầu tiêu dùng ở thành thị đang tăng mạnh các loại thực phẩm chế biến: Cơm hộp, cơm rang, cơm chay…Tại các khách sạn, cửa hàng phục vụ ăn uống, cầu về các loại gạo thơm ngon là phổ biến. Do đó cần đẩy mạnh nghiên cứu để phát triển hệ thống thị trường này.
2.3. Thị trường nước ngoài:
Đây là thị trường thể hiện ưu thế của nước ta. Thị trường này rất khó tính. Yêu cầu sản phẩm lúa gạo thường là nghiêm ngặt như: tỷ lệ tấm thấp, phải thơm ngon, hạt dài, trắng, dẻo,…Ngoài ra còn yêu cầu về mẫu mã, bao đóng gói, và đặc biệt là uy tín của người cung ứng lúa gạo: Các thương hiệu gạo và thương hiệu cơ sở cung ứng…
Nhận diện thị trường: Những nơi đầu mối tập trung lớn như chợ lúa gạo Cần Thơ…
Quan hệ mua bán: Trao đổi hàng hoá giữa tư thương nước ngoài và doanh nghiệp Việt Nam. Nhìn chung hoạt động thương mại chủ yếu do doanh nghiệp Nhà nước đảm nhận. Cần phải đẩy mạnh hơn nữa hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam. Đăc biệt phải thiết lập được quan hệ liên kết chặt chẽ để thu mua, xuất khẩu lúa gạo.
Hình thức mua bán: Đàm phán thương mại, theo hợp đồng thương mại buôn bán gạo.
III. NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ LÚA GẠO.
1. Nhân tố của sản xuất:
Sản xuất lúa gạo là khâu đầu tiên của quá trình gắn kết: sản xuất - chế biến – tiêu thụ lúa gạo. Sản xuất lúa gạo chất lượng cao gắn với xuất khẩu là xu hướng tất yếu trong giai đoạn hiện nay. Sản xuất lúa phát triển cả về số lượng và chất lượng tạo ra nguồn lúa gạo hàng hoá dồi dào đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và có thừa để xuất khẩu.Do đó phải khẩu trương hoàn thiện qui hoạch vùng sản xuất. Nội dung qui hoạch, kế hoạch và đầu tư cho vùng lúa gạo phải bám sát nhu cầu thị trường trong nước và thế giới trong từng giai đoạn cụ thế. Phải có cơ chế giám sát để đưa chính sách qui hoạch đi vào thực tế cuộc sống.
Giải quyết khâu giống: Cải tạo và sử dụng các giống lúa đặc sản chất lượng cao, tránh phụ thuộc giống lúa Trung Quốc. Phát triển bộ giống: IR64, IR9729, VN95-20, OM90-9, OMCS2000, lúa Tám thơm, Dự Hương, Nàng Hương… Thực nghiệm bộ giống OM2517, OM2717, OM2718 cho xuất khẩu.
Thực hiện qui hoạch sâu vùng sản xuất xuất khẩu gồm 7 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Sản xuất các giống lúa đặc sản ở Bắc Bộ.
Áp dụng phương pháp thâm canh cao, ứng dụng một số mô hình canh tác sinh học, liên kết sản xuất – xuất khẩu theo mô hình công nghệ cao của Nhật Bản tại một số địa phương tỉnh Cần Thơ.
2. Nhân tố tác động từ phía cầu tiêu thụ.
Theo nguyên lý chung, thu nhập của dân cư tăng thị cầu của người tiêu dùng tăng lên. Do lúa gạo là hàng hoá thiết yếu, tác động của thu nhập đối với mức tiêu dùng lúa gạo theo hai hướng sau:
Tuy là thu nhập thấp nhưng dân cư vẫn phải tập trung đầu tư cho tiêu dùng lúa gạo. Khi dân số tăng lên, cầu tiêu dùng lúa gạo cũng tăng lên. Thị trường tiêu thụ được mở rộng.
Mặc dù thu nhập cao nhưng nhu cầu ăn uống chỉ có giới hạn. Do đó người tiêu dùng hướng chuyển sang các loại lúa gạo có chất lượng cao. Đây là vấn đề tất yếu hiện nay, cần phải có phương hướng sản xuất và tiêu thụ hợp lý để mở rộng thị trường theo hướng này.
Là sản phẩm đáp ứng nhu cầu thiết yếu, do đó mức độ đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng là đặc biệt quan trọng quyết định khả năng tiêu thụ của nó. Thị hiếu người tiêu dùng thay đổi theo các nhóm tuổi, cơ cấu dân cư, lao động… Phải nghiên cứu đầu tư kỹ lượng mô hình cầu tiêu dùng đê lựa chọn phương án mở rộng khả năng tiêu thụ lúa gạo.
3. Công tác thu gom, vận chuyển và chế biến.
Mạng lưới thu mua, vận chuyển, chế biến lúa gạo hàng hoá xuất khẩu phụ thuộc quá lớn vào tư thương, chưa có sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp lương thực Nhà nước. Đến nay, Các tổng công ty lương thực miền Nam và miền Bắc vẫn phải sử dụng tư thương để thu gom, vận chuyển, chế biến và đánh bóng gạo xuất khẩu. Điều này gây khó khăn cho việc bố trí kênh tiêu thụ lúa gạo, giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa lúa gạo.
Tổn thất sau thu hoạch dựa theo ước tính của Viện Công nghệ sau thu hoạch là khoảng 10%. Con số này tương đối cao vì tính đến việc các hộ nông dân qui mô nhỏ làm khô thóc bằng phương pháp phơi nắng truyền thống, cũng như xay xát địa phương qui mô nhỏ. Mặt khác, tỷ lệ xay xát từ lúa ra gạo chủ yếu dựa vào các cơ sở chế biến xay xát có qui mô nhỏ ở các địa phương. Nhìn chung, cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ chế biến, bảo quản còn yếu kém lại phân bố không đồng đều. Hệ thống nhà máy xay xát, dánh bóng gạo tuy có được trang bị thêm máy móc, thiết bị hiện đại nhưng số lượng còn ít chủ yếu ở Thành phô Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Mỹ Tho. Trong khi những vùng và địa phương có nhiều lúa gạo hàng hoá phục vụ xuất khẩu như An Giang, Đồng Tháp, Sóc Trăng…lại không có các nhà máy chế biến và đánh bóng gạo hiện đại.
Những đầu mối xuất khẩu gạo còn hạn chế, mới chỉ mở rộng được cảng Cần Thơ, cảng Thành phố Hồ Chí Minh. Miền Bắc tập trung đầu mối tại cảng Hải Phòng. Riêng miền duyên hải Nam Trung Bộ tuy có thừa luá gạo để bán, nhưng thu gom, chế biến khó khăn nên thông thương và xuất khẩu không đáng kể.
Nhìn chung công tác vận chuyển thu gom, chế biến của ta còn yếu kém, chưa phát huy được giá trị gia tăng cho sản phẩm lúa gạo, hạn chế khả năng thâm nhập thị trường chất lượng cao. Hiện nay xu hướng đang tiến tới việc sử dụng công nghệ cao như: Xử lý hút trong chân không tránh ẩm mốc, đóng gói xử lý trong kho lạnh để giảm bớt độ nhão của hạt gạo đảm bảo gạo có chất lượng cao. Tuy nhiên khả năng áp dụng của nó còn hạn chế do hầu như các doanh nghiệp thiếu vốn cho đầu tư công nghệ cao, dẫn đến khả năng lưu kho bảo quản bị động trước diễn biến của thời tiết. Do đó khả năng giải quyết vấn đề trên không phải một sớm một chiều.
4. Chính sách tác động của Chính phủ
Lúa gạo là ngành đáp ứng cho cầu những sản phẩm thiết yếu. Mặt hàng này có giá cả chậm biến đổi so với hàng hoá công nghiệp và đặc biệt phản ứng rất nhạy với chính sách của Nhà nước. Ở đây không đi sâu phân tích các chính sách mà chỉ xem xét tác động của một số chính sách tới khả năng mở rộng thị trường.
4.1.Chính sách an ninh lương thực Quốc gia.
Chính sách an ninh lương thực có tác động đến tiêu thụ lúa gạo trên thị trường. Có đảm bảo an ninh lương thực vững chắc, ta mới có tiềm lực để tập trung cho xuất khẩu gạo ổn định. Chính sách gắn liền với chính sách bình ổn giá cả, hạn ngạch xuất khẩu, tạo việc làm và tăng thu nhập…Hiện nay, chính sách an ninh lưong thực quốc gia tập trung hướng đến: Cân đối nhu cầu lương thực trong nước - xuất khẩu và tăng khả năng tiếp cận lương thực cho những đối tượng thiếu lương thực ở những vùng miền sâu, miền xa, những hộ thiếu đói, thiếu việc làm, thiếu đất sản xuất, bị ốm đau, tai nạn…
Cần có những nghiên cứu kỹ lượng về an ninh lương thực để có phương hướng điều chỉnh cung ứng tiêu thụ lúa gạo phù hợp.
4.2.Chính sách thị trường và can thiệp giá.
Mặc dù Chính phủ không thể trực tiếp định giá lúa gạo trên thị trường, nhưng vẫn thực hiện nhiều biện pháp khác nhau để can thiệp giá trong những điều kiện thị trường biến động lớn. Chính phủ can thiệp bằng các công cụ giá:
Giá trần
Giá sàn
Tỷ giá hối đoái.
Những chính sách can thiệp giá có tác động rất lớn đến khả năng tiêu thụ sản phẩm lúa gạo. Vì đây là mặt hàng thiết yếu rất nhạy cảm với chính sách giá. Nhà nước cần có những giải pháp sử dụng thích hợp để kích thích hoạt động tiêu thụ lúa gạo. Đặc biệt là điều tiết lợi ích nội ngành sản xuất lúa gạo cũng như điều tiết lợi ích của người nông dân, ngưòi làm nông nghiệp so với các ngành kinh tế khác nhằm tăng khả năng hấp dẫn của ngành. Hướng nông dân làm giàu và làm giàu bền vững trên ruộng đất, trên ngành nghề họ lựa chọn.
4.3 Chính sách hạn ngạch và thuế xuất khẩu gạo.
Hạn ngạch và thuế xuất khẩu là công cụ đắc lực của Nhà nước sử dụng nhằm điều tiết xuất khẩu – an ninh lương thực quốc gia. Hạn ngạch có tác động lớn đến khả năng mở rộng thị trường nước ngoài. Do đó, khi sử dụng hạn ngạch Nhà nước cần phải căn cứ vào dự báo nhu cầu thị trường thế giới và khả năng cung gạo của ta để xác định lượng gạo tối thiếu có thể và cấn xuất khẩu.
Nhà nước cần công bố ngay mức hạn ngạch đầu năm, công bố mức thuế xuất khẩu tối thiểu, tối đa cho phần xuất khẩu ngoài hạn ngạch; tiến hành công khai bán đấu giá hạn ngạch cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Cho phép chuyến nhượng hạn ngạch cho nhau. Mới đây Chính phủ đã bãi bỏ thưởng xuất khẩu cho phù hợp luật định quốc tế.
Trong điều kiện gia nhập WTO các công cụ quản lý này của Nhà nước phải được nghiên cứu sử dụng hợp lý theo Luật thưong mại chung; làm sao để kích thích doanh nghiệp tìm kiếm thị trường, bạn hàng và tư thương mới. Cùng kích hoạt để mở rộng thị trường tiêu thụ lúa gạo.
4.4. Một sô chính sách khác…
Để tăng khả năng tiêu thụ lúa gạo, Nhà nước tuỳ từng giai đoạn đã sử dụng nhiều chính sách khác nhau. Một số chính sách có tác động lớn đến tiêu thụ lúa gạo là NQ 311/ QĐ ngày 20/03/2002 về phê duyệt tiếp tục tổ chức các thị trường trong cả nước, tập trung phát triển thị trường nông nghiệp nông thôn. NQ 80 về thu mua lúa gạo xuất khẩu theo hợp đồng.
Trong điều kiện hiện tại, cần phải tăng cường chính sách tiêu dùng. Gia tăng kiểm soát nguồn gốc sản phẩm; hưóng khuyến khích tiêu dùng và tạo ra thói quen ưa dùng các loại lúa gạo trong nước. Hướng cho người bán buôn phải bảo vệ cho các loại lúa gạo trong nước. Vì hiện nay, rất nhiều loại gạo của Việt am được trồng ở Việt Nam có chất lượng cao. Nhưng do thị hiếu ưa chuộng gạo Tám Thái, rất nhiều người bán hàng không ngần ngại quảng cáo đây là gạo Thái Lan. Điều này sẽ rất đến những hậu quả khôn lường cho nền sản xuất trong nước.
Chính sách thị trường có tác động lớn đến khả năng tiêu dùng lúa gạo.
5. Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho sản xuất – tiêu thụ.
Các nhân tố về cơ sơ vật chất - kỹ thuật bao gồm hệ thống cơ sở hạ tầng như: đường sá giao thông, phương tiện vận tải, hệ thống bến cảng, kho bãi, hệ thống thông tin liên lạc… Hệ thống này đóng vai trò quan trọng trong việc lưu thông nhanh chóng, kịp thời, đảm bảo an toàn cho việc tiêu thụ lúa gạo. Nhu cầu trao đổi giữa các vùng các miền càng tăng cao thì khả năng mở rộng thị trường ngày một lớn.
Hiện nay, nhà nước đã thực hiện đầu tư cho phát triển cơ sơ hạ tầng kỹ thuật nông nghiệp, nông thôn như: Chương trình 135, Nghị định 02/CP/2003 về phát triển và quản lý chợ nông thôn. Nhưng hiệu quả sử dụng và khả năng gia tăng lợi ích từ các công trình này là chưa nhiều. Cần phải đưa hệ thống này vào phục vụ đắc lực thị trường nông thôn và thị trường tiêu thụ lúa gạo nói riêng.
6. Công tác Nghiên cứu - dự báo thị trường và bảo vệ thương hiệu sản phẩm.
Để mở rộng thị trường tiêu thụ lúa gạo, phải bám sát nhu cầu thị trường. Muốn bám sát nhu cầu thị trường phải thực hiện công tác nghiên cứu và dự báo thị trường. Nghiên cứu dự báo thị trường và bảo vệ thương hiệu thuộc hợp phần chương trình Marketing cho ngành sản phẩm. Trong điều kiện gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, công tác này có vai trò rất lớn trong việc tiêu thụ sản phẩm lúa gạo. Do đó nó có thể được tách ra thành một chu trình riêng biệt.
Công tác nghiên cứu dự báo thị trường cho lúa gạo của ta hiện nay còn nhiều yếu kém. Khả năng nắm bắt thông tin của người dân, của doanh nghiệp là hạn chế do nguồn tin không cập nhật đầy đủ và thiếu độ chính xác cao; thường chỉ trông chờ vào Nhà nước. Dẫn đến nghịch lý: người nông dân và doanh nghiệp bị thiệt hại trong khi giá lúa tăng cao.
Vẫn biết Nông dân và doanh nghiệp rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước, vẫn biết khả năng nắm bắt thông tin thị trường để chuyển hướng sản xuất là hạn chế…Nhưng không thể chấp nhận mãi thực trạng hơn 50% nông dân sản xuất lúa gạo và doanh nghiệp kinh doanh- xuất khẩu cứ bàng quang trước thách thức hội nhập mới. Hoạt động tiêu thụ lúa gạo trong nước do tư thương đảm nhận lớn. Do đó họ phải đi đầu trong công tác này. Các doanh nghiệp phải tăng cường đào tạo cán bộ thương mại, thông qua phương pháp phân tích biến động giá cả, tiếp thị đề ra chiến lược kinh doanh mới. Thông qua thăm dò ý kiến khách hàng, nghiên cứu đối tượng khách hàng về thu nhập, giới tính, độ tuổi… để dự báo khả năng và triển vọng đáp ứng cầu tiêu thụ. Trên cơ sơ dự báo đúng đắn xác định cơ cấu sản lượng, chất lượng hàng hóa và thiết lập cung cách phục vụ, điều chỉnh bổ sung và quyết định đúng đắn trong sự phát triển kinh doanh. Thực tế cho thấy, những mặt hàng có lợi nhuận cao, việc nghiên cứu dự báo thị trường được thực hiện rất tốt. Trong khi những mặt hàng thiết yếu nhu lúa gạo do sức hấp dẫn thấp nên chưa có sự đầu tư đúng mức cho công tác dự báo thị trường. Cần phải thay đổi nhanh chóng lối tư duy này. Hơn nữa các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh lúa gạo cần tăng cường tính liên kết cộng đồng trong hoạt động kinh doanh- xuất khẩu. Như ông Nguyễn Trung Kiên – giám đốc công ty: Cồ phần thức ăn tổng hợp và chế biến Thốt Nốt đã từng nói: “Phải mở rộng liên kết tiêu thụ lúa ngoài địa bàn Cần Thơ qua thương lái tại địa phương cùa các vùng đống bằng sông Cửu Long”.
Đây là hướng cần thiết để cùng tìm kiếm và đáp ứng thị trường, cùng chia sẻ lợi ích và rủi ro thị trường. Mô hình liên kết rộng rãi tới các khâu sản xuất - chế biến và tiêu thụ… Thông qua liên kết để tăng khả năng cạnh tranh, xác định phương hướng thâm nhập - mở rộng thị trường. Xuất khẩu gạo Việt Nam có thể chờ đón những tập đoàn mạnh như
IV. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ LÚA GẠO
1. Chợ nông thôn:
Phát triển thành một mạng lưới, là nơi giao lưu buôn bán của người sản xuất kinh doanh lúa gạo và người tiêu dùng.
Phản ánh tăng sức mua của khu vực nông nghiệp, nông thôn. Phản ánh tiềm lực kinh tế của từng vùng trong cả nước.
Phát triển hệ thống chợ đầu mối, cung ứng nguồn nguyên liệu lúa gạo kịp thời và đầy đủ cho nhà máy chế biến, cho hoạt động xuất khẩu.
2. Hệ thống cửa hàng, trung tâm thương mại, siêu thị tại thành phố
Đa dạng các loại lúa gạo chất lượng cao trên thị trường
Tăng các loại hình dịch vụ cung ứng lúa gạo.
Phát triển mạnh mẽ các hình thức tiêu thụ lúa gạo bằng sản phẩm chế biến đồ ăn nhanh: cơm hộp; cơm rang thập cẩm; cơm niêu đất…
3. Thị trường nước ngoài.
Thị trường có cầu lúa gạo chất lượng cao tăng mạnh.
Thị trường cạnh tranh về chất lượng, kiểu dáng bao bì đóng gói
Thị trường cạnh tranh về nhãn hiệu hàng hoá lúa gạo, thương hiệu doanh nghiệp cung ứng.
Hệ thống kho tàng, đường sá, bến cảng phục vụ xuất khẩu được đầu tư thoả đảng, mở rộng cảng Cần Thơ trở thành cảng chủ yếu để xuất khẩu gạo. Bên cạnh đó tập trung đầu mối tiêu thụ tại cảng Hải Phòng.
Ổn định thị trường truyền thống: Châu Á( Philipin, Inđônêxia, Singapo, …), Châu Phi, Trung Đông (Irăc)
Mở rộng khai thác, phát triển thị trường mới tiềm năng: Nhật Bản, một số thị trường châu Phi trước tiêu dùng gạo Paskistan, nay chuyển sang tiêu thụ gạo của ta,…
V. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ LÚA GẠO.
1. Qui mô thị trường
Mức tiêu thụ hiện tại về sản phẩm lúa gạo trong nước: T
T = TSP sản xuất trong nước + TSP nhập khẩu + TSP tồn kho năm trước chuyển sang - TSP xuất khẩu - TSP tồn kho.
Ước tính tổng cầu: Q= n.p.q
Trong đó Q: tổng nhu cầu thị trường trong một năm
n: Số lượng người mua hàng hoá lúa gạo(với thị trường nhất định và những giả thiết nhất định).
p : Giá trung bình của một đơn vị hàng hoá lúa gạo
q : Số lượng lúa gạo trung bình một người mua trong năm
Sức mua tương đối của một khu vực thị trường:B = 0,5yi +0,3ri +0,2pi
Trong đó Bi : Tỷ lệ % trong tổng sức mua của cả nước nằm ở khu vực thứ i
Yi : Tỷ lệ % thu nhập cá nhân được sử dụng của khu vực thứ i
Ri: Tỷ lệ % trong doanh số bán lẻ của cả nước của khu vực i
Pi : Tỷ lệ % trong dân số toàn quốc của khu vực i
0,5; 0,3; 0,2 : trọng số của các biến yi, ri , pi
Ước lượng tổng cung lúa gạo: tổng lượng cung của các cá nhân đơn vị kinh tế tham gia vào thị trường.
Khả năng chiếm lĩnh thị trường trong nước và ngoài nước cho hàng hoá lúa gạo.
2. Đánh giá chất lượng.
Rất khó để đo lường các chỉ tiêu chất lượng thị trường. Để đánh giá hiệu quả hoạt động tiêu thụ lúa gạo người ta thường dựa trên các chỉ tiêu số lượng, giá cả; cơ cấu khách hàng chiếm lĩnh; cơ cấu giá trị và uy tín kinh doanh. Thông thường khi nói thị trường cạnh tranh lành mạnh là nói đến hiệu quả và tính bền vững của thị trường. Hiệu quả của thị trường biểu hiện qua hệ thống các chỉ tiêu thị trường được xác định như: Cung thị trường ổn định; hệ số co giãn của cầu, chỉ sổ giá do thị trường quyết định, không có tác nhân phi kinh tế gây biến động thị trường làm méo mó giá cả. Thị trường phản ứng linh hoạt với các điều kiện biến động của nền kinh tế. Kết quả trên thị trường phản ánh đúng tiềm lực, khả năng, thu nhập và tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp. Giá trị lợi nhuận thu được trên thị trường do mức độ đóng góp theo năng lực và vị trí chủ thể kinh thể trên dây chuyền hệ thống kênh phân phối. Không xảy ra hiện tượng tranh mua tranh bán, ép giá nông dân.
Thị trường chất lượng cao là một thị trường có môi trường cạnh tranh lành mạnh. Đảm bảo tính cân đối giữa các chủ thế tham gia trên thị trường: giữa nông dân và tư thương; giữa doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân…Các chủ tham gia thị trường tôn trọng luật lệ chung, tôn trọng hợp đồng; tôn trọng bạn hàng; người tiêu dùng và đối thủ cạnh tranh. Tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp được xác lập trên khả năng; mức độ đáp ứng tốt và tốt nhất thị hiếu người tiêu dùng so với đối thủ của mình. Thông tin thị trường minh bạch và có tính chính xác cao.
Tính bền vững của thị trường là biểu hiện khả năng gia tăng các quan hệ thương mại, khả năng duy trì ở mức ốn định cao thị phần hiện tại và có xu hướng chiếm lĩnh được lượng khách hàng tiềm năng. Do đó tất yếu khả năng đáp ứng phải thay đổi theo nhu cầu thị hiếu. Thậm chí phải đón trước nhu cầu thị hiếu tạo ra xu hướng tiêu dùng mới.
KẾT LUẬN
Lúa gạo là ngành sản xuất truyền thống, xét về giá trị ngoại tệ đóng góp chỉ thua sau dầu thô. Nhưng xét theo tính chất sản phẩm thì xuất khẩu gạo có nhiều ưu thế nổi trội hơn hẳn. Vì xuất khẩu gạo là xuất đi phần dư thừa sau khi đã thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước; nó là sản phẩm 100% của Việt Nam. Hơn nữa, gạo là sản phẩm trồng trọt, số lượng và chất lượng chỉ phụ thuộc vào kết quả sản xuất và trình độ thâm canh. Khả năng tiêu dùng tăng, thị trường mở rộng thì ngày càng tạo động lực mới để phát triển sản xuất theo hướng thâm canh tăng năng suất cao; tăng thu nhập cho nông dân và lại kích hoạt tăng mức đầu tư thâm canh và tăng chất lượng gạo.
Xét về hiệu quả kinh tế - xã hội - quốc phòng – an ninh và môi trường của sản xuất và xuất khẩu lúa gạo cao hơn rất nhiều so với bất kỳ mặt hàng nào của ta. Hiệu quả đó không chỉ trước mắt mà còn lâu dài vì nhu cầu an ninh lương thực thế giới đang tăng. Nếu cải thiện được vấn đề chất lượng gạo Việt Nam còn có thể vượt xa đến nhiều nước so với hiện nay. Mặc dù hiện tại, sản xuất và xuất khẩu còn nhiều bất cập; nhưng đánh giá cái được và cái mất; có thể tin tưởng rằng: Những hạn chế đó sẽ được khắc phục trong tương lai.
Vấn đề kinh tế của sản xuất lúa gạo hiện nay là một vấn đề thiết thực đòi hỏi sự nghiên cứu kỹ lượng của các nhà khoa học, những nhà kinh tế, nhà hoạch định chính sách, những giáo viên, cán bộ công tác trong ngành nông nghiệp và nhận thức đúng đắn của nông dân. Đề tài của em chỉ tập trung viết về: “ Một số cơ sở lý luận về mở rộng thị trường tiêu thụ luá gạo”, em mong tìm hiểu sâu hơn, rộng hơn về bản chất thị trường và các quan hệ kinh tế thị trường trong ngành lúa gạo. Qua đây em cũng mong rằng sản xuầt lúa gạo trong tương lai vẫn là ngành chủ lực, giải quyết vấn đề an ninh lương thực và đóng góp ngoại tệ cho nền kinh tế quốc dân. Hy vọng rằng, với chính sách của Nhà nước, với những nỗ lực của người dân trong công cuộc tìm hướng làm giàu và làm giầu bền vững từ lúa gạo, thị trường lúa gạo sẽ ngày càng phát triển hơn nữa. Trong bối cảnh hiện nay, các ngành; các cơ quan chức năng cần thấy rõ ý nghĩa kinh tế của sản xuất lúa gạo. Để thấy rằng ngành sản xuất lúa gạo cần có được sự đầu tư thoả đáng hơn nữa, đặc biệt cho khâu giống, công nghệ chế biến và cơ sở hạ tầng nông thôn. Phải đánh giá đúng những giá trị không thể lượng hoá về môi trường và đảm bảo giải quyết các vấn đề xã hội của ngành để có sự đầu tư thoả đáng lại cho sản xuất lúa gạo, cũng như tổng thể nông nghiệp nông thôn.
Thị trường tiêu thụ lúa gạo mở rộng có ý nghĩa quyết định những vấn đề hiệu quả sản xuất – kinh doanh lúa gạo. Mở rộng thị trường đòi hỏi phải thực hiện tốt các khâu sản xuất - chế biến – tiêu thụ. Nó phụ thuộc mạnh mẽ vào các chủ thể tham gia vào mối quan hệ kinh tế ngành lúa gạo. Mở rộng thị trường cần phải được quán triệt như mục tiêu triết lý kinh doanh: Dù có ở vị thế nào, đảm nhiệm chức năng nào trên dây chuyền Marketing, ở khâu sản xuất nông sản thô hay khâu cuối cùng là khâu bán lẻ và xuất khẩu thì mục tiêu vẫn là thoả mãn và hướng đến thoả mãn tốt nhất nhu cầu thị trường so với đối thủ cạnh tranh cùng ngành hàng. Có như vậy sẽ mở rộng và mở rộng bền vững thị trường tiêu thụ lúa gạo của Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Giáo trình: Marketing Nông nghiệp. TS. Vũ Đình Thắng chủ biên.
Giáo trình: Kinh tế Nông nghiệp. Cố GS.TS Nguyễn Thế Nhã – PGS.TS. Vũ Đình Thắng chủ biên.
Giáo trình: Quản trị kinh doanh nông nghiêp. PGS.TS. Trần Quốc Khánh chủ biên.
Sách: “ Báo cáo tổng quan ngành lúa gạo Việt Nam”. Hà Nội tháng 5 năm 2004. Nguyễn Ngọc Quế - Trần Đình Thao.
Sách: “ Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới 1986 – 2002”. Nguyễn Sinh Cúc.
Tạp chí: Thời báo kinh tế. Số tháng 12 năm 2004.
Tạp chí: Nghiên cứu kinh tế. Số 325 tháng 6 năm 2005.
Tạp chí: Thương mại. Số 5+ 6 + 7 /2006
Trang Web: Nông nghiệp Việt Nam, VietNam.net.
MỤC LỤC
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 66634.DOC