Tài liệu Đề tài Một số biện pháp tài chính chủ yếu nhằm tăng lợi nhuận tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vận tải Hà Nội: Lời nói đầu
Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hết sức gay gắt. Doanh nghiệp nào yếu kém tất yếu sẽ bị thị trường loại bỏ, doanh nghiệp nào không ngừng đổi mới, thay đổi linh hoạt, thích ứng được đối với thị trường thì doanh nghiệp đó thành công.
Để tồn tại và phát triển thì nhất thiết các doanh nghiệp phải làm ăn có hiệu quả. Có lợi nhuận, doanh nghiệp mới mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, nguồn vốn chủ sở hữu, thu nhập của cán bộ công nhân viên tăng và sẽ là động lực khuyến khích tăng năng suất lao động, đồng thời tăng phần đóng góp vào Ngân sách Nhà nước. Như vậy, lợi nhuận là nguồn nội lực tăng cường và biểu hiện trực tiếp sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp, là đích cuối cùng mà mỗi doanh nghiệp phải vươn tới nhằm đảm bảo sự sinh tồn, phát triển và thịnh vượng trong nền kinh tế thị trường.
Việc nghiên cứu về lợi nhuận giúp chúng ta có một cái nhìn toàn diện hơn về các hoạt động như quản trị kinh doanh và đặc biệt là quản trị tài chính sao cho đ...
40 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 944 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số biện pháp tài chính chủ yếu nhằm tăng lợi nhuận tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vận tải Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hết sức gay gắt. Doanh nghiệp nào yếu kém tất yếu sẽ bị thị trường loại bỏ, doanh nghiệp nào không ngừng đổi mới, thay đổi linh hoạt, thích ứng được đối với thị trường thì doanh nghiệp đó thành công.
Để tồn tại và phát triển thì nhất thiết các doanh nghiệp phải làm ăn có hiệu quả. Có lợi nhuận, doanh nghiệp mới mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, nguồn vốn chủ sở hữu, thu nhập của cán bộ công nhân viên tăng và sẽ là động lực khuyến khích tăng năng suất lao động, đồng thời tăng phần đóng góp vào Ngân sách Nhà nước. Như vậy, lợi nhuận là nguồn nội lực tăng cường và biểu hiện trực tiếp sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp, là đích cuối cùng mà mỗi doanh nghiệp phải vươn tới nhằm đảm bảo sự sinh tồn, phát triển và thịnh vượng trong nền kinh tế thị trường.
Việc nghiên cứu về lợi nhuận giúp chúng ta có một cái nhìn toàn diện hơn về các hoạt động như quản trị kinh doanh và đặc biệt là quản trị tài chính sao cho đồng vốn đem lại nhiều hiệu quả nhất.
Xuất phát từ định hướng trên, trong thời gian thực tập tại Công ty XNK và hợp tác đầu tư giao thông vận tải Hà Nội, trên cơ sở kiến thức đã được học tại trường và tình hình thực tế tại Công ty cùng với sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo Lê Văn Chắt, em đã chọn đề tài “Một số biện pháp tài chính chủ yếu nhằm tăng lợi nhuận tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vận tải Hà Nội”.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm ba phần:
Phần I: Lý luận chung về lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Phần II: Tình hình thực hiện lợi nhuận tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vận tải (Tracimexco - Hà nội )
Phần III: Một số biện pháp chủ yếu nhằm tăng lợi nhuận tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vận tải hà nội
Phần I
Lý luận chung về lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
I. Lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường.
Khái niệm và nội dung cơ bản của lợi nhuận.
Khái niệm.
Chúng ta đã biết, doanh nghiệp là những đơn vị kinh tế và là tế bào của nền kinh tế quốc dân. Nó trực tiếp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh để sản xuất, chế tạo sản phẩm và thực hiện cung cấp các loại lao vụ, dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội. Để tồn tại và phát triển bền vững, hướng tới mục tiêu hàng đầu của mình, đòi hỏi các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh phải thu được lợi nhuận. Vậy lợi nhuận của doanh nghiệp là gì?
Lợi nhuận của doanh nghiệp là phần chênh lệch giữa thu nhập và chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để đạt được thu nhập đó trong một thời kỳ. Với khoản thu nhập này, doanh nghiệp tiến hành bù đắp các khoản chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh như: Chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công, chi phí khấu hao máy móc thiết bị, chi phí tiêu thụ sản phẩm, chi phí quản lý... nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh thực hiện một cách thường xuyên liên tục. Phần thu nhập còn lại sau khi đã bù đắp các khoản chi phí chính là lợi nhuận. Thực chất lợi nhuận phản ánh phần giá trị thặng dư vượt quá phần giá trị tất yếu mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nội dung của lợi nhuận.
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh : là số lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh thường xuyên của doanh nghiệp. Đây là bộ phận lợi nhuận chủ yếu của doanh nghiệp.
Lợi nhuận từ hoạt động khác: là số lợi nhuận thu được từ các hoạt động khác của doanh nghiệp như lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường.
2. Vai trò của lợi nhuận đối với hoạt động của doanh nghiệp
2.1. Vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp
Lợi nhuận là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Lợi nhuận giữ một vị thế hết sức quan trọng trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế “ Lấy thu bù chi bảo đảm có lãi” thì doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không điều đó phải phụ thuộc vào việc doanh nghiệp có tạo ra lợi nhuận hay không và lợi nhuận nhiều hay ít. Với ý nghĩa là kết quả, mục đích, động lực, đòn bẩy của sản xuất kinh doanh, lợi nhuận được coi là thước đo cơ bản và quan trọng nhất đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận có tác động đến tất cả các mặt hoạt động, quyết định trực tiếp tình hình tài chính của doanh nghiệp. Thực hiện tốt chỉ tiêu lợi nhuận là điều kiện quan trọng đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp lành mạnh và vững chắc.
2.2. Vai trò của lợi nhuận đối với Nhà nước.
Lợi nhuận của doanh nghiệp một phần được đóng góp vào Ngân sách Nhà nước dưới hình thức thuế thu nhập doanh nghiệp. Do đó, lợi nhuận là một trong những khoản thu nhập của Ngân sách Nhà nước
Lợi nhuận là động lực phát triển đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung. Nhà nước thông qua chỉ tiêu lợi nhuận để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và quản lý doanh nghiệp bằng nhiều công cụ khác nhau trong đó có thuế.
2.3. Vai trò của lợi nhuận đối với người lao động.
Việc tăng lợi nhuận sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp bổ sung vào các quỹ như: Quỹ tiền lương, quỹ khen thưởng, phúc lợi, trợ cấp khó khăn, trợ cấp mất việc làm ... Từ đó giúp cho việc tái sản xuất sức lao động được tốt hơn làm tăng năng suất và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người lao động.
Phương pháp xác định lợi nhuận doanh nghiệp.
Lợi nhuận của doanh nghiệp là số chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí, được xác định như sau:
Lợi nhuận = Tổng thu - Tổng chi
Trong nền kinh tế thị trường, muốn tối đa hóa lợi nhuận thì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải rất phong phú và đa dạng. Các doanh nghiệp không chỉ tiến hành sản xuất kinh doanh, mà còn có thể tiến hành các hoạt động khác. Khi đó lợi nhuận của doanh nghiệp được tổng hợp từ 3 nguồn lợi nhuận khác nhau, đó là lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh( SXKD), lợi nhuận từ hoạt động tài chính(HDTC), và lợi nhuận bất thường(HĐBT). Như vậy, ta có công thức xác định lợi nhuận của doanh nghiệp như sau:
Lợi nhuận doanh nghiệp
=
Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh
+
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính
+
Lợi nhuận từ hoạt động bất thường
Phương pháp xác định lợi nhuận doanh nghiệp được sử dụng khi lập kế hoạch lợi nhuận và lập báo cáo thu nhập hàng năm của doanh nghiệp thường được áp dụng theo 2 phương pháp sau:
Phương pháp trực tiếp.
* Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh là bộ phận lợi nhuận chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng lợi nhuận thực hiện của doanh nghiệp. Đây là yếu tố cơ bản nhất quyết định lãi lỗ của doanh nghiệp sau kỳ kinh doanh.
Lợi nhuận hoạt động kinh doanh
=
Doanh thu thuần
-
Trị giá vốn hàng bán
+
Chi phí bán hàng
+
Chi phí QLDN
Hoặc:
Lợi nhuận hoạt động kinh doanh
=
Doanh thu thuần
-
Giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hóa và dịch vụ tiêu thụ trong kỳ
Trong đó:
Doanh thu thuần = Tổng doanh thu - Các khoản giảm trừ
Doanh thu thuần: Là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và các khoản giảm trừ doanh thu của doanh nghiệp(giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại, thuế gián thu)
Tổng doanh thu(doanh thu bán hàng): Là tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ được thực hiện do việc bán hàng hóa, sản phẩm, cung ứng, lao vụ, dịch vụ cho khách hàng.
Các khoản giảm trừ bao gồm:
Chiết khấu hàng bán: Là số tiền tính trên tổng số doanh thu trả cho khách hàng
Giảm giá hàng bán: Là số tiền giảm trừ cho khách hàng ngoài hóa đơn hay hợp đồng cung cấp dịch vụ do các nguyên nhân đặc biệt: hàng kém phẩm chất, hàng không đúng quy cách.
Hàng bán bị trả lại: Là số hàng đã được coi là tiêu thụ nhưng bị người mua trả lại do không tôn trọng hợp đồng kinh tế như đã ký kết.
Các khoản thuế phải nộp: Thuế VAT tính theo phương pháp trực tiếp, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu...
Trị giá vốn hàng bán: Đối với doanh nghiệp sản xuất là giá thành sản xuất của khối lượng sản phẩm tiêu thụ. Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thương mại (chỉ mua vào bán ra) thì trị giá vốn hàng bán là trị giá hàng mua và chi phí vận chuyển, bốc dỡ, bảo quản.
+ Đối với doanh nghiệp hoạt động sản xuất:
Trị giá vốn hàng bán
=
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
+
Chi phí sản xuất chung
+
Chi phí nhân công trực tiếp
+ Đối với doanh nghiệp thương mại kinh doanh lưu chuyển hàng hóa:
Trị giá vốn hàng bán
=
Giá mua sản phẩm hàng hóa
+
Các chi phí thu mua, vận chuyển, bảo quản sơ chế
Chi phí bán hàng: Là những khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, lao vụ, dịch vụ trong kỳ như: tiền lương, các khoản phụ cấp cho nhân viên bán hàng, tiếp thị, đóng gói, vận chuyển, bảo quản, khấu hao tài sản cố định, chi phí vật liệu, hao phí dụng cụ, chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí bằng tiền khác như chi phí bảo hành sản phẩm, chi phí quảng cáo...
Chi phí quản lý doanh nghiệp: Là các khoản chi phí cho bộ máy quản lý và điều hành doanh nghiệp, các chi phí có liên quan đến hoạt động chung của doanh nghiệp như: chi phí tiền lương cho nhân viên quản lý, chi phí vật liệu dùng cho quản lý, chi phí khấu hao tài sản cố định dùng cho quản lý doanh nghiệp, thuế, phí, lệ phí.
* Lợi nhuận từ hoạt động tài chính.
Là lợi nhuận thu được từ các hoạt động như tham gia góp vốn liên doanh, hoạt động đầu tư, mua bán chứng khoán ngắn hạn, dài hạn, cho thuê tài sản, các hoạt động đầu tư khác, do chênh lệch lãi tiền gửi ngân hàng và lãi tiền vay ngân hàng: cho vay vốn, bán ngoại tệ, hoàn nhập khoản dự phòng giảm giá chứng khoán.
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính được xác định bằng chênh lệch giữa thu nhập hoạt động tài chính với chi phí hoạt động tài chính.
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính
=
Thu nhập từ hoạt động tài chính
-
Chi phí hoạt động tài chính
-
Thuế gián thu (nếu có)
Trong đó:
Thu nhập từ hoạt động tài chính: Là các khoản thu từ hoạt động góp vốn tham gia liên doanh, hoạt động đầu tư mua bán chứng khoán ngắn hạn, dài hạn, cho thuê tài sản, hoạt động đầu tư khác, cho vay vốn, bán ngoại tệ, hoàn nhập các khoản dự phòng giảm giá...
Chi phí về hoạt động tài chính: Là chi phí cho các hoạt động nói trên.
* Lợi nhuận bất thường.
Lợi nhuận bất thường là số chênh lệch giữa thu nhập bất thường với chi phí bất thường.
Lợi nhuận bất thường
=
Thu nhập bất thường
-
Chi phí bất thường
-
Thuế gián thu (nếu có)
Thu nhập bất thường: Là những khoản thu mà doanh nghiệp không dự tính trước hoặc có dự tính đến nhưng ít khả năng thực hiện được hoặc những khoản thu không mang tính chất thường xuyên. Những khoản thu bất thường có thể do chủ quan hay khách quan đưa tới bao gồm các khoản thu từ nhượng bán thanh lý tài sản cố định, thu tiền phạt vi phạm hợp đồng, thu các khoản nợ khó đòi đã xử lý, xóa sổ, không xác định được chủ, thu do hoàn nhập dự phòng giảm giá hàng tồn kho. Các khoản thu nhập kinh doanh của những năm trước bị bỏ sót hay lãng quên ghi sổ kế toán, năm nay mới phát hiện ra.
Chi phí bất thường: Là khoản chi phí cho các hoạt động trên.
Do lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp được cấu thành từ các bộ phận của lợi nhuận hoạt động kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận bất thường nên tổng hợp cả ba lợi nhuận, ta xác định được chỉ tiêu tổng lợi nhuận của doanh nghiệp (lợi nhuận trước thuế).
Lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp
=
LN từ hoạt động SXKD
+
LN từ hoạt động tài chính
+
Lợi nhuận bất thường
Theo quy định về quản lý tài chính của Nhà nước, mọi tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc có thu nhập nhất định phải có nghĩa vụ đóng một khoản nhất định vào Ngân sách Nhà nước, khoản đó gọi là thuế thu nhập doanh nghiệp. Phần lợi nhuận còn lại sau khi nộp thuế thu nhập gọi là lợi nhuận sau thuế (lợi nhuận ròng).
Từ đó,có thể xác định lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp trong kỳ.
Lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp trong kỳ
=
Lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp
-
Thuế thu nhập doanh nghiệp trong kỳ
Phương pháp gián tiếp (xác định lợi nhuận qua bước trung gian).
Ngoài phương pháp xác định lợi nhuận ở trên, còn có thể xác định lợi nhuận của doanh nghiệp trong kỳ bằng cách tiến hành tính dần lợi nhuận của doanh nghiệp qua từng khâu hoạt động, trên cơ sở đó giúp cho người quản lý thấy được quá trình hình thành lợi nhuận và tác động của từng khâu hoạt động hoặc của từng yếu tố kinh tế đến kết quả hoạt động kinh doanh cuối cùng của doanh nghiệp là lợi nhuận sau thuế hay còn gọi là lợi nhuận ròng. Phương pháp xác định lợi nhuận như vậy được gọi là phương pháp xác định lợi nhuận qua các bước trung gian. Tùy theo yêu cầu quản lý của doanh nghiệp, người ta có thể thiết lập các mô hình khác nhau trong việc xác định lợi nhuận qua các bước trung gian. Dưới đây là mô hình xác định lợi nhuận theo phương pháp này đang được sử dụng tại nước ta hiện nay.
Tổng doanh thu bán hàng, cung ứng dịch vụ
(Doanh thu của các nghiệp vụ kinh doanh)
Doanh thu hoạt động khác
Hoạt động tài chính
Hoạt động bất thường
- Giảm giá
- Hàng bị trả lại
- Thuế gián thu
Doanh thu thuần
Lợi nhuận hoạt động khác
Chi phí hoạt động khác
Giá vốn hàng bán
Lợi nhuận gộp hoạt động kinh doanh
Lợi nhuận hoạt động khác
- Chi phí bán hàng
- Chi phí quản lý doanh nghiệp
Lợi nhuận hoạt động kinh doanh
Lợi nhuận hoạt động khác
Lợi nhuận trước thuế
Thuế thu nhập doanh nghiệp
Lợi nhuận sau thuế
III. Các chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận.
Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp nói lên kết quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý doanh nghiệp. Sau đây là một số chỉ tiêu thường dùng để đánh giá lợi nhuận tại các doanh nghiệp.
1. Tỷ suất lợi nhuận doanh thu
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận và doanh thu tiêu thụ trong kỳ.
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu
=
Lợi nhuận sau thuế trong kỳ
Doanh thu thuần trong kỳ
Hệ số này phản ánh mối quan hệ giữa lợi nhuận sau thuế và doanh thu thuần trong kỳ của doanh nghiệp. Nó thể hiện khi thực hiện một đồng doanh thu thuần trong kỳ, doanh nghiệp có thể thu được bao nhiêu lợi nhuận ròng trong kỳ. Thông thường tỷ suất này càng cao càng tốt, nhưng khi phân tích và so sánh với doanh nghiệp khác cùng ngành cần phải căn cứ vào đặc điểm loại hình sản xuất kinh doanh của ngành để có nhận xét đánh giá phù hợp.
2. Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh
Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận trước thuế trong kỳ và vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kỳ, được xác định theo công thức sau:
Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh trong kỳ
=
Lợi nhuận trước thuế trong kỳ
Vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kỳ
Chỉ tiêu này thể hiện mỗi đồng vốn kinh doanh trong kỳ có khả năng đưa lại cho chủ sở hữu bao nhiêu đồng lợi nhuận sau khi đã trang trải lãi tiền vay. Như vậy, nó cũng phản ánh mức sinh lời của đồng vốn có tính đến ảnh hưởng của lãi vay nhưng chưa tính đến ảnh hưởng của thuế thu nhập doanh nghiệp.
3. Tỷ suất lợi nhuận ròng của vốn kinh doanh
Tỷ suất lợi nhuận ròng của vốn kinh doanh là mối quan hệ giữa lợi nhuận sau thuế và vốn kinh doanh sử dụng trong kỳ, được xác định theo công thức sau:
Tỷ suất lợi nhuận ròng của vốn kinh doanh
=
Lợi nhuận sau thuế
Vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh cứ mỗi đồng vốn bỏ ra kinh doanh trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng hay đưa lại bao nhiêu đồng thực lãi
4. Hệ số khả năng sinh lời của vốn kinh doanh hay tỷ suất lợi nhuận trước thuế và lãi vay của vốn kinh doanh
Hệ số này là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận trước lãi vay, thuế với vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kỳ, được tính theo công thức:
Hệ số khả năng sinh lời vốn kinh doanh
=
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
Vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kỳ
Hệ số khả năng sinh lời của vốn kinh doanh phản ánh khả năng sinh lời của đồng vốn kinh doanh không tính đến ảnh hưởng của thuế thu nhập doanh nghiệp và nguồn gốc của vốn kinh doanh. Nó thể hiện rõ nhất kết quả công tác quản lý và hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp.
5. Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu.
Tỷ suất này thể hiện mối quan hệ giữa lợi nhuận sau thuế và vốn chủ sở hữu sử dụng trong kỳ, được xác định bằng công thức sau:
Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu trong kỳ
=
Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu bình quân sử dụng trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả mỗi đồng vốn chủ sở hữu ở trong kỳ có thể thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng. Hiệu quả vốn chủ sở hữu một mặt phụ thuộc vào hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh hay phụ thuộc vào trình độ sử dụng vốn, mặt khác phụ thuộc vào cơ cấu nguồn vốn hay trình độ tổ chức nguồn vốn của doanh nghiệp.
6. Tỷ suất lợi nhuận chi phí (hoặc giá thành)
Tỷ suất lợi nhuận chi phí là mối quan hệ giữa lợi nhuận sau thuế so với chi phí hoặc giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hóa đã tiêu thụ.
Tỷ suất lợi nhuận chi phí
=
Lợi nhuận sau thuế
Chi phí (giá thành)
Thông qua chỉ tiêu này có thể thấy rõ hiệu quả của chi phí hoặc giá thành toàn bộ bỏ vào hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Nó cho biết cứ mỗi đồng chi phí hoặc giá thành thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Tóm lại, quá trình hoạt động của mỗi doanh nghiệp là quá trình hình thành và sử dụng vốn kinh doanh. Mục tiêu hàng đầu của hoạt động kinh doanh là thu được lợi nhuận. Vì thế, hiệu quả sử dụng vốn được thể hiện ở số lợi nhuận doanh nghiệp thu được trong kỳ và mức sinh lời của một đồng vốn kinh doanh. Lợi nhuận thể hiện kết quả tổng thể của nhiều biện pháp mà doanh nghiệp áp dụng.
IV. các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Để tối đa hóa lợi nhuận thì một vấn đề tiên quyết là các doanh nghiệp phải luôn xem xét và đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận để từ đó đưa ra các biện pháp nhằm kích thích hoặc hạn chế những nhân tố ảnh hưởng lớn tới lợi nhuận.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, giữa doanh thu, chi phí và lợi nhuận của doanh nghiệp có mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Những nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập và những nhân tố ảnh hưởng đến chi phí sản xuất là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận. Ngoài ra, lợi nhuận còn chịu sự tác động của nhiều nhân tố kinh tế xã hội: tình hình kinh tế xã hội của đất nước, của ngành và doanh nghiệp, thị trường thế giới và thị trường trong nước... Tất cả những nhân tố đó có thể tác động có lợi hoặc bất lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Dưới đây là một số nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp.
Nhân tố 1: Khối lượng sản phẩm tiêu thụ
Khi các nhân tố khác cấu thành nên giá cả hàng hóa không thay đổi thì lợi nhuận của doanh nghiệp thu được nhiều hay ít phụ thuộc vào số lượng hàng hóa tiêu thụ trong năm nhiều hay ít. Nhưng số lượng sản phẩm hàng hóa tiêu thụ trong năm nhiều hay ít phụ thuộc vào quan hệ cung cầu và chất lượng sản phẩm. Khi cung nhỏ hơn cầu thì việc tiêu thụ sản phẩm sẽ nhanh hơn và ngược lại, với điều kiện chất lượng hàng hóa phải đảm bảo. Chất lượng hàng hóa thể hiện được chữ “tín” của doanh nghiệp đối với khách hàng.
Nhân tố 2: Giá thành hoặc giá vốn hàng bán
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tiêu hao lao động sống và lao động vật hóa để sản xuất và tiêu thụ một loại sản phảm nhất định. Đây là một trong những nhân tố quan trọng chủ yếu ảnh hưởng tới lợi nhuận, có quan hệ tác động ngược chiều đến lợi nhuận. Nếu giá vốn hàng bán giảm sẽ làm lợi nhuận tiêu thụ tăng lên và ngược lại. Nhân tố giá vốn hàng bán thực chất phản ánh kết quả quản lý các yếu tố chi phí trực tiếp như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung.
Nhân tố 3: Giá bán đơn vị sản phẩm.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp có quyền tự chủ trong việc định giá sản phẩm của mình. Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu. Việc thay đổi giá bán cao hay thấp một phần quan trọng do quan hệ cung cầu quyết định. Các doanh nghiệp khi định giá sản phẩm thường căn cứ vào chi phí bỏ ra để làm sao giá cả có thể bù đắp phần chi phí tiêu hao và tạo nên lợi nhuận thoả đáng để tái sản xuất mở rộng. Tuy nhiên, trong thực tế sự biến động của giá cả sẽ tác động trực tiếp đến khối lượng sản phẩm tiêu thụ vì thế giá bán sản phẩm tăng chưa chắc đã tăng được lợi nhuận cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc sản xuất kinh doanh phải gắn liền với việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp.
Nhân tố 4: Tổ chức quá trình quản lý kinh doanh của doanh nghiệp
Tổ chức quá trình quản lý kinh doanh là rất quan trọng, có ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Quá trình quản lý bao gồm các khâu cơ bản như: định hướng chiến lược phát triển doanh nghiệp, xây dựng chiến lược kinh doanh, kiểm tra đánh giá và điều chỉnh các hoạt động kinh doanh. Các khâu của quá trình tổ chức các hoạt động kinh doanh, nếu làm tốt sẽ làm tăng sản lượng, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm nhờ giảm được chi phí quản lý và chi phí bán hàng. Đó là điều kiện quan trọng để tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp: Là các chi phí liênquan tới việc tiêu thụ hàng hóa và quản lý doanh nghiệp. Đây là nhân tố có quan hệ tỷ lệ nghịch với lợi nhuận. Nếu các chi phí này tăng thì lợi nhuận sẽ giảm và ngược lại. Những nhân tố này có ảnh hưởng tương đối lớn đến lợi nhuận của các doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp thương mại). Vì vậy, vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp làm giảm hai loại chi phí này bằng việc giám sát quản lý chặt chẽ, căn cứ vào tình hình nhu cầu thực tế và mục tiêu lợi nhuận, xây dựng các định mức cho từng khoản mục chi phí cụ thể. Có làm được như vậy, doanh nghiệp mới có khả năng đảm bảo thu được lợi nhuận cao.
Nhân tố 5: Chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế quốc dân, hoạt động của nó không chỉ chịu tác động của các quy luật kinh tế thị trường mà còn chịu sự chi phối của Nhà nước thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô như: chính sách thuế, tín dụng, tiền tệ, các văn bản và quy chế quản lý tài chính. Tất cả những điều đó đều gây ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khả năng thu lợi nhuận của doanh nghiệp.
Trong đó thuế là một công cụ giúp cho Nhà nước thực hiện việc điều tiết vĩ mô của mình. Nó tác động rất lớn đến các mặt hoạt động của doanh nghiệp và ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp.
Chính sách thuế:
Thuế là hình thức động viên bắt buộc theo luật định và không hoàn trả trực tiếp đối với mọi tổ chức kinh tế và mọi công dân cho Nhà nước.
Thuế phải nộp
=
Thuế suất
x
Giá trị tính thuế
Tuỳ theo tính chất, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, một doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh phải nộp nhiều loại thuế khác nhau: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhà đất, thuế tài nguyên. Các loại thuế này được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh. Ngoài ra còn có một số loại thuế gián thu như VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế này được tính trong giá bán và đối tượng chịu thuế là người tiêu dùng.
Đây là nhân tố khách quan do Nhà nước quy định tuỳ thuộc vào giá tính thuế và thuế suất từng mặt hàng. Bởi vậy, đòi hỏi doanh nghiệp phải theo dõi, giám sát sao cho đúng vì khi có những thay đổi về thuế phí và lệ phí thì các khoản mục hạch toán của doanh nghiệp cũng thay đổi và do đó kéo theo sự thay đổi của lợi nhuận.
Nhân tố 6: Khả năng về vốn của doanh nghiệp
Vốn là tiền đề vật chất cho hoạt động của doanh nghiệp, do vậy nó là một trong những nhân tố quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh doanh và lợi nhuận của doanh nghiệp. Trong quá trình cạnh tranh trên thị trường, doanh nghiệp nào có “trường vốn”, có lợi thế về vốn thì sẽ có lợi thế kinh doanh. Khả năng về vốn dồi dào sẽ giúp doanh nghiệp giành được thời cơ trong kinh doanh, có điều kiện để mở rộng thị trường, từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng doanh thu và tăng lợi nhuận.
Nhìn chung trong tất cả các nhân tố cơ bản đã được trình bày ở trên, mỗi nhân tố có vị trí quan trọng khác nhau, tác động đến lợi nhuận doanh nghiệp khác nhau. Điều chỉnh các nhân tố chủ quan, khắc phục các nhân tố khách quan là việc làm mà các doanh nghiệp luôn mong muốn để tăng lợi nhuận. Để làm được điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải sử dụng tổng hợp các biện pháp kinh tế, kỹ thuật, tổ chức quản lý đồng thời phải có sự nghiên cứu tìm ra nguyên nhân chủ yếu làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp để từ đó có biện pháp hữu hiệu. Song, bên cạnh những giải pháp góp phần tăng lợi nhuận của doanh nghiệp đòi hỏi phải có những giải pháp đảm bảo cho sự tăng trưởng bền vững. Đây chính là mục tiêu các doanh nghiệp hướng tới.
V. Một số biện pháp tài chính nhằm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp
Từ ảnh hưởng của các nhân tố nói trên, đứng ở góc độ tài chính doanh nghiệp, để tăng lợi nhuận các doanh nghiệp cần phải quan tâm tới các biện pháp chủ yếu sau:
1. Phấn đấu giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm.
Đây là biện pháp cơ bản làm tăng lợi nhuận doanh nghiệp. Bởi vì giá thành sản phẩm là 1 chỉ tiêu tổng hợp quan trọng đối với doanh nghiệp sản xuất cũng như đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Giá thành sản phẩm cao hay thấp, tăng hay giảm đồng nghĩa với việc lãng phí hay tiết kiệm lao động xã hội, bao gồm lao động sống, lao động vật hoá trong quá trình sản xuất ra sản phẩm. Nói cách khác, giá thành sản phẩm cao hay thấp phản ánh kết quả của việc quản lý, sử dụng vật tư lao động, tiền vốn của doanh nghiệp. Việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn trên sẽ xác định việc hạ giá thành và ngược lại. Đó cũng là một đòi hỏi khách quan khi các doanh nghiệp thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Như chúng ta đã biết, đối với các doanh nghiệp sản xuất, việc hạ giá thành sản xuất là con đường chủ yếu để tăng lợi nhuận cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, nó cũng là tiền đề để hạ giá bán nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường, kể cả trong và ngoài nước. Trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế, việc hạ giá thành sản phẩm của các ngành sản xuất sẽ mang lại sự tiết kiệm lao động xã hội, tăng tích luỹ cho nền kinh tế nói chung. Đặc biệt khi chính sách thuế của Nhà nước thay đổi. Thuế là hình thức thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước, trong đó có thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp. Việc hạ giá thành sản phẩm sẽ làm tăng số lợi nhuận do đó làm tăng nguồn thu cho ngân sách. Như vậy, vấn đề hạ giá thành sản phẩm không phải chỉ là vấn đề quan tâm của từng ngành sản xuất, từng doanh nghiệp mà còn là vấn đề của toàn ngành, toàn xã hội.
Đứng trên góc độ quản lý, cần phải biết nguồn gốc, nội dung của giá thành để từ đó biết được nguyên nhân cơ bản nào, những nhân tố cụ thể nào đã làm tăng hoặc giảm giá thành và chỉ trên cơ sở đó ngành quản lý mới đề ra các biện pháp để hạn chế, loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố tiêu cực, phát huy mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tích cực, khai thác khả năng tiềm tàng của việc quản lý sử dụng các nguồn vật tư, lao động và tiền vốn, không ngừng hạ giá thành của từng sản phẩm cũng như của toàn bộ sản phẩm. Để hạ giá thành sản phẩm, biện pháp cơ bản nhất là phải tiết kiệm mọi chi phí trong quá trình tạo ra sản phẩm cũng như chi phí để tiêu thụ sản phẩm. Nói cụ thể là, phải tiết kiệm về nguyên nhiên vật liệu, tiết kiệm nhân công, tiết kiệm chi phí sản xuất chung, chi phí bất thường, chi phí quản lý v..v. Tuy nhiên, tìm mọi biện pháp tiết kiệm trong điều kiện phải đảm bảo nâng cao năng suất lao động và năng cao chất lượng sản phẩm. Làm được điều đó mới thực hiện được mục đích hạ thấp giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm. Tăng cường được chữ “Tín”, tăng tiêu thụ và cuối cùng là tăng lợi nhuận.
2. Tăng thêm sản lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Đây là một biện pháp quan trọng nhằm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Giả sử các điều kiện khác không thay đổi thì khối lượng sản phẩm, hàng hóa dịch vụ, tiêu thụ cung ứng có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Khả năng tăng sản lượng sản phẩm trong các doanh nghiệp ở nước ta còn rất lớn vì đa số các doanh nghiệp mới chỉ sử dụng khoảng 50-60% công suất máy móc thiết bị. Nếu chúng ta biết tận dụng hết công suất máy móc, thiết bị thì việc tăng sản lượng ngay từ nội lực của doanh nghiệp là một việc hoàn toàn có khả năng thực hiện được. Đi đôi với việc tăng sản lượng của sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ cung ứng phải nâng cao chất lượng sản phẩm. Bởi vì chất lượng của sản xuất kinh doanh nói chung, chất lượng của sản phẩm nói riêng là vấn đề sống còn của các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay. Chất lượng của sản phẩm càng cao thì sản phẩm của doanh nghiệp càng có uy tín trên thị trường, tạo ra sức cạnh tranh lớn để doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường, tiêu thụ được sản phẩm, đó chính là điều kiện cơ bản cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Mặt khác, trong điều kiện các yếu tố sản xuất không thay đổi, việc đảm bảo và tăng được chất lượng sản phẩm là điều kiện cơ bản để tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Để nâng cao chất lượng, doanh nghiệp cần chú ý tới các yếu tố sau:
Tình hình trang bị, tình trạng kỹ thuật của máy móc thiết bị cũng như việc quản lý sử dụng chúng.
Nguyên vật liệu được cung cấp trong quá trình sản xuất nếu đảm bảo cung cấp vật tư đúng chủng loại, đảm bảo chất lượng sẽ là tiền đề đảm bảo chất lượng của sản phẩm và ngược lại.
Vấn đề quản lý doanh nghiệp nói chung, quản lý sản xuất nói riêng như việc bố trí sắp xếp dây chuyền sản xuất, việc thường xuyên rà soát các định mức, việc tổ chức lao động khoa học, việc áp dụng thưởng phạt có liên quan đến chất lượng sản phẩm
Lực lượng lao động trong đó phải tính đến tay nghề và thái độ, ý thức trách nhiệm của từng người trực tiếp sản xuất
Tăng cường quản lý và sử dụng vốn hợp lý.
Đối với vốn lưu động:
Vốn lưu động là số vốn doanh nghiệp ứng ra để hình thành nên tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên, liên tục. Vốn lưu động chuyển toàn bộ giá trị của chúng vào quá trình sản xuất, lưu thông và từ trong lưu thông toàn bộ giá trị của chúng được hoàn lại sau một chu kỳ kinh doanh. Tại một thời điểm nhất định, vốn lưu động tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau trong các giai đoạn mà vốn đi qua, điều này làm chúng ta khó kiểm soát chặt chẽ chúng. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vốn lưu động là:
Xác định chính xác nhu cầu vốn lưu động tối thiểu thường xuyên cần thiết, tránh hiện tượng thiếu vốn để làm mất cơ hội kinh doanh hoặc không biết sử dụng nguồn vốn gây ra lãng phí.
Tuyệt đối không để bị chiếm dụng vốn trong thời gian dài.
Xác định đúng tỷ lệ cho phép của tài sản thuộc các tài sản lưu động.
Liên tục đẩy nhanh vòng quay vốn lưu động.
Thận trọng khi chuyển một bộ phận vốn lưu động thành vốn cố định hay ngược lại.
Muốn thực hiện thành công các biện pháp nói trên, doanh nghiệp cần phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý, trình độ khoa học kỹ thuật, áp dụng công nghệ tiên tiến hiện đại và trình độ thành thạo tay nghề của người lao động. Bên cạnh đó, về phía Nhà nước cũng cần có chính sách kinh tế, pháp luật phù hợp, nhằm tạo ra môi trường pháp lý, môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng hấp dẫn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngày càng phát triển và thu được lợi nhuận ngày càng nhiều. Từ đó sẽ góp phần xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, dân giàu nước mạnh như đường lối lãnh đạo của Đảng.
Đối với vốn cố định:
Sử dụng vốn hợp lý, tiết kiệm có quan hệ mật thiết với việc hạ thấp chi phí và giá thành. Đặc biệt việc tổ chức tốt việc quản lý và sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp giúp doanh nghiệp với số vốn hiện có có thể tăng được khối lượng sản xuất sản phẩm, tiết kiệm được chi phí và hạ giá thành sản phẩm, góp phần quan trọng vào lợi nhuận của Công ty.
Quản lý chặt chẽ và sử dụng tốt vốn cố định giúp cho doanh nghiệp bảo toàn và phát triển được vốn kinh doanh. Vốn cố định của doanh nghiệp thường chi phối năng lực kinh doanh của doanh nghiệp. Nó tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh và sau một thời gian dài mới được thu hồi toàn bộ. Trong quá trình đó, có nhiều rủi ro có thể nẩy sinh dẫn đến tình trạng doanh nghiệp có thể mất vốn cố định như : Lạm phát ở mức cao, thiên tai hoả hoạn hoặc quản lý lỏng lẻo hoặc sử dụng không tốt tài sản cố định đặc biệt là sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Tiến bộ khoa học kỹ thuật một mặt tạo ra những máy móc hiện đại , có công suất cao, có quy trình công nghệ tiên tiến, mặt khác nó lại là nguyên nhân trực tiếp tạo ra rủi ro lớn đối với máy móc thiết bị và công nghệ đang dùng. Đó là hao mòn vô hình.
Phần II
tình hình thực hiện lợi nhuận tại công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vận tải (tracimexco - hà nội)
I. Quá trình hình thành & phát triển của Công ty từ khi thành lập đến nay.
1. Lịch sử hình thành và phát triển.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế của một quốc gia, vấn đề đầu tiên tạo cơ sở tiền đề cho quá trình phát triển đó là cơ sở hạ tầng, khi có cơ sở hạ tầng vững chắc các ngành nghề trong nền kinh tế sẽ được đầu tư và phát triển, chính cơ sở lý luận đó ngành giao thông vận tải có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Và Công ty XNK và hợp tác đầu tư giao thông vận tải ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội trong quá trình phát triển nền kinh tế đất nước. Trước hết, để tìm hiểu Công ty Tracimexco Hà nội, ta cần tìm hiểu khái quát về Công ty XNK và hợp tác đầu tư giao thông vận tải (Tracimexco).
Tiền thân của Công ty là Cục tư vấn đầu tư và dịch vụ hợp tác quốc tế giao thông vận tải thành lập tháng 8/1988, đến năm 1991 đổi tên thành Công ty (Tổng Công ty tư vấn đầu tư và dịch vụ hợp tác quốc tế). Sau một thời gian phát triển, năm 1992 Công ty Tracimexco ra đời dưới sự hợp nhất của hai Công ty Tracimex và Viettraximex. Và là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Bộ giao thông vận tải. Bước vào những năm của thời kỳ đổi mới (công nghiệp hoá, hiện đại hóa) Tracimexco đạt được kết quả to lớn, góp phần cho công cuộc xây dựng đất nước. Với chức năng nhiệm vụ chủ yếu là kinh doanh XNK vật tư, thiết bị phương tiện ngành giao thông vận tải, Công ty đã chiếm vị trí quan trọng trong ngành giao thông vận tải, do vậy Công ty đã có mặt ở nhiều nơi, có nhiều chi nhánh, xí nghiệp. Tracimexco Hà nội là một trong những chi nhánh của Tracimexco ở miền Bắc và được thành lập qua 3 lần đổi tên:
Theo quyết định số 814 QĐ/TCCB- LĐ ngày 2/6/1994 của Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải: “chuyển toàn bộ phần còn lại của Tổng Công ty tư vấn đầu tư và dịch vụ hợp tác quốc tế - Interco” thành “Xí nghiệp dịch vụ đầu tư thương mại - ITS” trực thuộc Công ty XNK và hợp tác quốc tế (Tracimex), tên giao dịch là Tracimex-ITS.
Ngày 26/1/1996, theo quyết định số 140 QĐ/ TCCLB- LĐ của Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải đổi tên “Xí nghiệp dịch vụ đầu tư và thương mại” thành “Xí nghiệp sản xuất kinh doanh vật tư thiết bị - Tramed Hà nội”, trực thuộc Công ty XNK và hợp tác đầu tư giao thông vận tải (Tracimexco).
Đến ngày 15/4/1997 theo quyết định số 908 QĐ/ TCCLB-LĐ của Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải đổi tên “Xí nghiệp sản xuất kinh doanh vật tư thiết bị” thành “Chi nhánh Tracimexco Hà nội” trực thuộc Công ty XNK và hợp tác đầu tư giao thông vận tải.
Công ty là một đơn vị hạch toán kinh doanh độc lập có tư cách pháp nhân có tài khoản riêng ở ngân hàng có con dấu riêng, hoạt động tuân thủ pháp luật Việt Nam, quản lý theo chế độ một thủ trưởng và theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, quản lý đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích tập thể và lợi ích người lao động trực tiếp. Với nguyên tắc hoạt động trên, ngày nay Tracimexco Hà nội đang vững bước trên con đường của mình.
Chức năng, nhiệm vụ của Công ty.
2.1. Chức năng.
Là một chi nhánh của Công ty XNK và hợp tác đầu tư giao thông vận tải (một Công ty lớn của Bộ giao thông vận tải) Tracimexco Hà nội có những chức năng sau:
Thông qua các hoạt động kinh doanh XNK, liên doanh, hợp tác với nước ngoài để thực hiện chức năng chính là nhập khẩu vật tư máy móc thiết bị phục vụ ngành giao thông vận tải, tổ chức quá trình lưu thông hàng hóa từ nước ngoài tới các tổ chức cá nhân tiêu dùng nội địa, đáp ứng yêu cầu của các ngành trong nền kinh tế quốc dân và góp phần tạo công ăn việc làm, cũng như tăng tích lũy cho ngân sách Nhà nước (thông qua nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước).
2.2. Nhiệm vụ.
Bao gồm những nhiệm vụ chủ yếu sau:
Xuất nhập khẩu và kinh doanh vật tư, thiết bị phương tiện giao thông vận tải và các sản phẩm nông lâm ngư nghiệp khác.
Lắp ráp, phục hồi, tân trang thiết bị, phương tiện giao thông vận tải.
Vận tải đường biển, đường bộ.
Dịch vụ đại lý vận chuyển hàng hóa quốc tế và đại lý hàng hải.
Dịch vụ tư vấn gọi vốn nước ngoài để phục vụ xây dựng cơ sở vật chất ngành giao thông vận tải.
Hợp tác xuất khẩu lao động.
Sản xuất kinh doanh XNK vật liệu xây dựng, trang trí nội thất và chuyển giao công nghệ mới xây dựng công trình giao thông vận tải bằng vật liệu xây dựng mới.
Dịch vụ du lịch- kinh doanh khách sạn.
Dịch vụ thông tin thương mại và hợp tác quốc tế giao thông vận tải.
Với các nhiệm vụ trên, Tracimexco Hà nội quản lý và sử dụng nguồn vốn kinh doanh nhà nước giao khai thác và tự tạo nguồn bằng mọi cách, hình thức hợp lý để sản xuất kinh doanh, đồng thời tự đảm bảo, trang trải về mặt tài chính, tự tạo điều kiện để thúc đẩy kinh doanh phát triển nhằm tạo hiệu quả cao.
Cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty.
3.1. Tổ chức bộ máy quản lý
Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý
Giám đốc
Phòng Kinh doanh XN khẩu
Phòng tài chính kế toán
Phòng tổ chức hành chính
Trung tâm dịch vụ thương mại và vận tải
Phòng vận tải và giao nhận hàng hoá
Qua sơ đồ trên ta thấy hiện nay Công ty đang hoạt động với cơ cấu tổ chức như sau:
Đứng đầu là giám đốc chi nhánh Tracimexco Hà nội, là người lãnh đạo cao nhất, chịu trách nhiệm điều hành chung về mọi hoạt động của Công ty. Là người đại diện cho mọi quyền lợi và nghĩa vụ của Công ty trước pháp luật và cơ quan chủ quản. Do vậy, Giám đốc phải xác định mục tiêu, nhiệm vụ và phải xác định được phương hướng, cách thực hiện thành công mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra tạo điều kiện để các phòng ban chức năng, các cửa hàng, trung tâm trực thuộc Công ty thực hiện tốt nhiệm vụ, chức năng của mình.
3.2. Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban.
* Phòng hành chính tổng hợp:
Giúp giám đốc Công ty quản lý các mặt công tác như chỉ huy điều hành quản lý các mặt thuộc tổ chức nhân sự, thực hiện các chế độ, chính sách của Nhà nước đối với người lao động, làm tốt công tác bảo vệ người lao động. Tham mưu quản lý chỉ đạo nghiệp vụ, các mặt công tác tổ chức cán bộ nhân sự lao động tiền lương, đào tạo thi đua khen thưởng, kỷ luật
* Phòng tài chính kế toán:
Giúp ban giám đốc thực hiện tốt chế độ hạch toán kinh tế, thống kê tài chính, thông tin kinh tế trong Công ty, lập và thực hiện các kế hoạch tài chính và các báo cáo tài chính.
Tham mưu quản lý, chỉ đạo nghiệp vụ về công tác tài chính kế toán, thống kê của Công ty, chức năng nhiệm vụ của phòng tài chính kế toán:
Phân phối và điều hoà vốn, phục vụ cho sản xuất và kinh doanh của Công ty. Bố trí vốn cho XNK, cung ứng vật tư, XDCB, sửa chữa công trình cho Công ty.
Tham mưu cho giám đốc ban hành, theo dõi và thực hiện các quy chế pháp lý về kinh tế tài chính, quyết toán và phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh, xử lý những tồn tại trong sản xuất kinh doanh về mặt tài chính.
Đề xuất, kiến nghị, bổ sung sửa chữa những bất hợp lý trong chi phí lưu thông, giá cả hàng hoá Công ty đang thực hiện.
Chịu trách nhiệm công tác thống kê của Công ty về doanh số mua vào, bán ra giá trị hàng tồn kho
Giải quyết công nợ mua bán hàng hoá và các khách hàng khác của Công ty, quản lý tài sản của Công ty
Tham gia dự án về ký kết hợp đồng kinh doanh
* Phòng kinh doanh:
Chức năng, nhiệm vụ của phòng kinh doanh bao gồm:
Tham mưu cho lãnh đạo về quản lý nghiệp vụ kinh doanh, XNK và thị trường, xây dựng kế hoạch XNK
Tổng hợp và lập các kế hoạch của Công ty trình lên cấp trên
Lo các thủ tục hạn ngạch xuất khẩu, giấy phép và các thủ tục xuất khẩu, tham mưu cho lãnh đạo Công ty ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu
Trực tiếp quản lý mặt hàng kinh doanh, tìm biện pháp giải quyết hàng tồn, hướng dẫn và kiểm tra việc quản lý kho cùng phòng tài chính đánh giá tài sản
Quan hệ với các Bộ, Nhà nước để Công ty tham gia các dự án
* Phòng vận tải và giao nhận hàng hóa:
Quản lý và thực hiện toàn bộ công tác vận tải hàng hóa, làm thủ tục xuất nhập khẩu nội địa của chi nhánh. Tiếp thị và mở rộng bạn hàng trong công tác vận tải và giao nhận hàng hóa nội địa và quốc tế. Quản lý hai đại lý vận tải quốc tế là SDV/TTA Pháp và LOHIG úc theo sự ủy quyền của giám đốc chi nhánh.
* Trung tâm dịch vụ thương mại và vận tải (Hải Phòng):
Là trung tâm kinh doanh của chi nhánh đại diện tại Hải Phòng, hoạt động sản xuất kinh doanh theo ủy quyền của giám đốc chi nhánh với mọi chức năng ngành nghề được giao.
Tổ chức bộ máy kế toán và công tác kế toán của Công ty.
4.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy kế toán.
Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán của Công ty
Kế toán trưởng
Kế toán
tổng hợp
Kế toán thanh toán ngân hàng
Kế toán quỹ
(thủ quỹ)
Kế toán thanh toán với khách hàng
- Kế toán trưởng: Điều hành và tổ chức công việc trong phòng, hướng dẫn hạch toán, quan hệ với các cơ quan tài chính, tổ chức, ngân hàng. Ngoài ra còn chịu trách nhiệm về các thuyết minh báo cáo tài chính, độ chính xác và trung thực của thông tin, tham mưu cho giám đốc
- Kế toán tổng hợp: Có nhiệm vụ thực hiện công tác kế toán cuối kỳ, giữ sổ cái tổng hợp cho tất cả các phần hành và phần ghi sổ cái tổng hợp, lập báo cáo nội bộ báo cáo lên Công ty theo định kỳ báo cáo
- Kế toán thanh toán ngân hàng: Lập các chứng từ thanh toán qua ngân hàng, theo dõi và định khoản hạch toán các khoản báo nợ, báo có qua ngân hàng để xác định số dư của tài khoản tiền gửi, tài khoản tiền vay qua ngân hàng
- Kế toán quỹ: Tập trung vào các nghiệp vụ thu chi tiền mặt trực tiếp phục vụ nhu cầu về tiền mặt, cuối tháng tập trung tổng kết tình hình thu chi tiền mặt trong phòng kế toán.
- Kế toán thanh toán với khách hàng: Theo dõi các chứng từ thu, chi liên quan đến các khoản vốn bằng tiền (tiền mặt, tiền vay...), theo dõi các khoản thanh toán với người mua, người bán.
4.2. Tổ chức sổ kế toán.
Hình thức tổ chức sổ kế toán tại Công ty: Chứng từ ghi sổ
Phương pháp hạch toán hàng tồn kho : Kê khai thường xuyên
Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng: Theo phương pháp khấu trừ
Sơ đồ trình tự ghi sổ kế toán
Bảng tổng hợp chứng từ gốc
Sổ, thẻ kế toán chi tiết
Chứng từ gốc
Sổ quỹ
Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ
Chứng từ ghi sổ
Bảng
tổng
hợp
chi
tiết
Sổ cái
Bảng cân đối số phát sinh
Báo cáo tài chính
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Đối chiếu kiểm tra
II. Tình hình thực hiện lợi nhuận tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vận tải hà nội
1.Kết quả hoạt động của Công ty trong năm 2002 - 2003
1.1. Những kết quả Công ty đã đạt được trong hai năm qua .
Mỗi một doanh nghiệp muốn hình thành, vận hành và phát triển thì điều kiện đầu tiên doanh nghiệp đó phải có một số vốn kinh doanh nhất định. Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vận tải Hà nội trong hai năm qua đã gặt hái được những thành tựu đáng kể. Do đó trước khi xem xét tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty chúng ta hãy xem xét về tài sản, vốn và nguồn vốn đảm bảo cho Công ty hoạt động trong hai năm 2002-2003 như thế nào. Qua bảng tài sản và nguồn vốn ta thấy:
Bảng 1. Khái quát tài sản và nguồn vốn của Công ty
Đơn vị: Triệu đồng
STT
Chỉ tiêu
Năm 2002
Năm 2003
So sánh 2003/2002
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tuyệt đối
Tỷ lệ (%)
I
Tài sản
27.328
100
34.537
100
7.209
26,4
1
TSLĐ
18.824
68,9
25.256
73,1
6.432
34,2
2
TSCĐ
8.504
31,1
9.281
26,9
0.777
9,1
II
Nguồn vồn
27.328
100
34.537
100
7.209
26,4
1
Nợ phải trả
25.218
92,3
30.752
89,0
5.534
22,0
2
Vốn CSH
2.110
7,7
3.785
11,0
1.675
79,4
(Số liệu từ báo cáo tài chính)
Qua bảng số liệu trên, ta thấy năm 2003, tài sản lưu động chiếm 73,1% trong tổng tài sản, tài sản cố định chiếm 26,9% trong tổng tài sản. Điều này cho thấy Công ty hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh là chính. Ta có thể thấy rằng so với năm 2002 thì năm 2003 có sự tăng lên cả về tài sản và nguồn vốn.
So sánh giữa 2 năm 2002 và 2003 thì thấy rằng: Tổng tài sản của Công ty năm 2003 so với năm 2002 tăng 7.209 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 26,4%. Tỷ lệ tăng như vậy cho thấy tình hình tài sản của Công ty đã có sự thay đổi và có những bước phát triển đi lên. Tài sản lưu động của Công ty năm 2003 tăng 6.432 triệu đồng so với năm 2002 tương ứng với 34,2%, nhưng tài sản cố định lại tăng rất ít, chỉ có 0.777 triệu đồng so với năm 2002, tương ứng với 9.1%
Cơ cấu nguồn vốn cũng có sự thay đổi. Nợ phải trả năm 2003 tăng 5.534 triệu đồng so với năm 2002 với tỷ lệ tăng là 22,0%. Nguồn vốn chủ sở hữu năm 2003 tăng 1.675 triệu đồng, tương ứng với 79,4%. Điều này chứng tỏ rằng Công ty đã có những khoản vay dài hạn và ngắn hạn tăng lên so với năm 2002, đặc biệt là Công ty đã có nhiều cố gắng tăng nguồn vốn chủ sở hữu. Trong nguồn vốn chủ sở hữu so với tổng nguồn vốn còn thấp (7,7% năm 2002 và 11% năm 2003). Nhưng vốn chủ sở hữu năm 2003 so với năm 2002 tăng đáng kể với tỷ lệ là 79,4%. Điều này có tác dụng tích cực đối với Công ty trong việc chủ động trong sử dụng vốn mặt khác giảm lãi suất vay vốn.
Từ bảng trên, ta nhận thấy tổng nguồn vốn của Công ty đang có xu hướng tăng lên. Như vậy Công ty đã tìm được hướng đi đúng và có một vị trí trên thị trường. Tuy nhiên để đánh giá hiệu quả đồng vốn kinh doanh của Công ty, chúng ta phải xem xét kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty.
1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và phát triển doanh nghiệp chỉ có sự lựa chọn duy nhất là sản xuất hoạt động kinh doanh phải có hiệu quả thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận đạt được. Không nằm ngoài quy luật đó, mọi cố gắng nỗ lực của Công ty trong những năm qua là vì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Muốn tối đa hoá lợi nhuận thì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải rất phong phú và đa dạng. Các doanh nghiệp không chỉ tiến hành sản xuất kinh doanh các loại hàng hoá theo đúng ngành nghề đã đăng ký mà còn có thể tiến hành các hoạt động khác(hoạt động tài chính, hoạt động bất thường). Để thấy được tình hình thực hiện lợi nhuận của Công ty ta xem xét bảng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
Qua bảng dưới đây ta có thể nhận xét như sau:
Doanh thu bán hàng của Công ty năm 2002 là 83.452,94 triệu đồng, năm 2003 là 95.620,36 triệu đồng, tăng 12.167,12 triệu đồng so với năm 2002, tương ứng với 14,58%. Đây là tỷ lệ tăng thể hiện sự nỗ lực trong sản xuất kinh doanh và khả năng tiêu thụ hàng hóa của Công ty.
Doanh thu thuần năm 2003 cũng tăng so với năm 2002 là 12.242,06 triệu đồng, tỷ lệ tăng là 14,7%. Đặc biệt, các khoản giảm trừ trong năm 2003 giảm so với năm 2002 là -34,8% chỉ còn 139,72 triệu đồng. Con số này cho thấy trong năm 2003 doanh nghiệp không ngừng cố gắng trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh do đó mà sang năm 2003 số lượng hàng bán bị trả lại giảm hẳn so với năm 2002 là -74,64 triệu đồng.
Do doanh thu của Công ty tăng nên lợi nhuận gộp của Công ty cũng tăng theo. Năm 2003 lợi nhuận gộp của Công ty đạt 3.765,37 triệu đồng, tăng so với năm 2002 là 698,95 triệu đồng, tương ứng với 22,8%. Công ty không những chú trọng đến việc tiết kiệm chi phí kinh doanh nhằm thu được lợi nhuận cao hơn. Trong 2 năm qua, Công ty đã thực hiện rất tốt việc quản lý và sử dụng chi phí kinh doanh của mình, điều đó được thể hiện ở bảng 2.
Bảng 2: Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty
Đơn vị: Triệu đồng
TT
Chỉ tiêu
Năm 2002
Năm 2003
So sánh 2003/2002
Số TĐ
%
A
B
1
2
3
4
1
Tổng doanh thu
83.452,94
95.620,36
12.167,42
14,58
2
Các khoản giảm trừ
214,36
139,72
-74,64
-34,8
3
Doanh thu thuần (3=1-2)
83.238,58
95.480,64
12.242,06
14,7
4
Giá vốn hàng bán
80.172,16
91.715,27
11.543,11
14,4
5
Lợi nhuận gộp (5=3-4)
3.066,42
3.765,37
698,95
22,8
6
Chi phí bán hàng
947,63
668,42
-279,21
-29,46
7
Chi phí QLDN
1.642,53
2.179,21
436,68
21,38
8
Lợi nhuận thuần từ HĐKD
476,26
917,74
441,48
92,70
9
Thu nhập HĐ tài chính
525,396
773,434
248,038
47,21
10
Chi phí hoạt động tài chính
907,980
1.263,738
355,758
36,98
11
Lợi nhuận HĐTC
-382,584
-490,304
-107,72
-28,16
12
Thu nhập bất thường
264,61
352,76
88,15
33,3
13
Chi phí bất thường
89,72
107,69
17,97
20,03
14
Lợi nhuận HĐ bất thường
174,89
245,07
70,18
40,13
15
Lợi nhuận trước thuế
268,566
672,506
403,94
150,40
16
Thuế thu nhập DN phải nộp
85,94
215,20
129,26
150,40
17
Lợi nhuận sau thuế
182,626
457,306
274,68
150,40
18
Thu nhập bình quân
1,023
1,135
0,112
10,9
Trong năm 2003, mặc dù doanh thu tăng 14,58% so với năm 2002 nhưng chi phí bán hàng lại giảm hẳn từ 947,63 triệu đồng trong năm 2002 xuống 668,42 triệu đồng trong năm 2003, tỷ lệ giảm là -29,46%. Điều đó chứng tỏ Công ty đã tiết kiệm được chi phí cho việc tiêu thụ hàng hóa của Công ty. Ngược lại, năm 2003 chi phí quản lý doanh nghiệp của Công ty tăng 436,68 triệu đồng, tăng 21,38% so với năm 2002. Điều nàyđòi hỏi Công ty phải có nhiều biện pháp khắc phục giảm tối đa những khoản chi tiêu để thực hiện tối đa hóa lợi nhuận cho Công ty của mình.
Như chúng ta đã biết: Lợi nhuận = Doanh thu thuần - Chi phí
Từ công thức trên ta thấy doanh thu thuần là một nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Doanh thu tăng kéo theo lợi nhuận tăng. So với năm 2002 thì năm 2003 lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty tăng 441,48 triệu đồng đạt 917,74 triệu đồng so với 476,26 triệu đồng của năm 2002, tỷ lệ tăng là 92,70%
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính năm 2003 giảm mạnh so với năm 2002 là: (107,72)triệu đồng, tỷ lệ giảm là 28,16% .
Trong năm 2003 lợi nhuận từ hoạt bất thường tăng so với năm 2002 là 70,18 triệu đồng, tỷ lệ tăng chiếm 40,13% .
Cũng từ bảng kết quả hoạt động kinh doanh cho thấy, Lợi nhuận sau thuế của Công ty năm 2003 tăng so với năm 2002 là 150,40% đạt 457,306 triệu đồng so với 182,626 triệu đồng(năm 2002). Điều đó chứng tỏ Công ty đã từng bước tổ chức tốt các hoạt động kinh doanh của mình. Thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên trong Công ty cũng tăng 10,9%, đạt được là 1.135.000 đồng.
Tuy nhiên, nhìn vào kết quả của hoạt động tài chính của Công ty năm 2003 so với năm 2002 còn có những yếu kém, gây ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh nói chung. Nguyên nhân do đâu chúng ta sẽ phân tích kỹ ở phần sau.
2. Tình hình thực hiện lợi nhuận của chi nhánh Tracimexco - Hà nội
Như chúng ta đã biết, lợi nhuận là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất của các doanh nghiệp, phản ánh hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh. Có lợi nhuận doanh nghiệp mới có thể tiếp tục tồn tại và phát triển, mới có điều kiện để mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư chiều sâu, cải thiện đời sống người lao động.
Tiến hành phân tích lợi nhuận sẽ giúp doanh nghiệp biết được hiệu quả và mức độ ảnh hưởng của những nhân tố tới lợi nhuận. Từ đó, có quyết định sản xuất kinh doanh tối ưu.
Bảng 3: Bảng phân tích lợi nhuận
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2002
Năm 2003
Chênh lệch
Tỷ lệ
LN từ hoạt động SXKD
476,26
917,74
441,48
92,70
LN từ hoạt động tài chính
-382,584
-490,304
-107,72
28,16
LN từ hoạt động bất thường
174,89
245,07
70,18
40,13
Tổng lợi nhuận trước thuế
268,566
672,506
403,94
150,40
Theo bảng số liệu trên cho thấy, tổng lợi nhuận trước thuế của Công ty năm 2003 tăng so với năm 2002 là 403,94 triệu đồng trong đó:
+ Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh tăng 441,48 triệu đồng
+ Lợi nhuận từ hoạt động tài chính giảm -107,72 triệu đồng
+ Lợi nhuận từ hoạt động bất thường tăng 70,18 triệu đồng
3. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh
3.1 Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh
Bảng 4: Bảng phân tích LN từ hoạt động sản xuất kinh doanh
Đơn vị: Triệu đồng
TT
Chỉ tiêu
Năm 2002
Năm 2003
So sánh 2003/2002
Số tiền
T.trọng
(%)
Số tiền
T.trọng
(%)
Số TĐ
Tỷ lệ
(%)
1
Doanh thu thuần
83.238,58
100
95.480,64
100
12.242,06
14,7
2
Giá vốn hàng bán
80.172,16
96,32
91.715,27
96,06
11.543,11
14,4
3
Chi phí bán hàng
947,63
1,14
668,42
0,7
-279,21
-29,46
4
Chi phí quản lý DN
1.642,53
1,97
2.179,21
2,28
436,68
21,38
5
LN từ hoạt động SXKD
476,26
0,57
917,74
0,96
441,48
92,70
a. Giá vốn hàng bán.
Giá vốn hàng bán là một trong những nhân tố quan trọng chủ yếu ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Nó có quan hệ ngược chiều với lợi nhuận trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, giá vốn hàng bán tăng sẽ làm cho lợi nhuận giảm và ngược lại.
Qua bảng số liệu trên ta thấy, giá vốn hàng bán có tăng lên. Năm 2002 giá vốn hàng bán là 80.172,16 triệu đồng chiếm tỷ trọng 96,32% trong tổng doanh thu thuần, và đến năm 2003 là 91.715,27 triệu đồng chiếm tỷ trọng là 96,06 % trong tổng doanh thu thuần. Năm 2003 doanh thu thuần là 95.480,64 triệu đồng, tăng 12.242,06 triệu đồng so với năm 2002 tương ứng với 14,7% . Trong khi đó giá vốn hàng bán năm 2003 là 91.715,27 triệu đồng, so với năm 2002 tăng 11.543,11 triệu đồng tương ứng với 14,4 %.
Để chứng minh rõ hơn ta có thể so sánh chỉ tiêu giá vốn hàng bán với doanh thu thuần như sau:
Nếu như năm 2002, cứ 100 đồng doanh thu thuần thu về thì Công ty phải bỏ ra 96,32 đồng vốn, sang đến năm 2003 phải bỏ ra 96,06 đồng vốn. Như vậy, so với năm 2002 thì năm 2003 giá vốn hàng bán giảm 0,26 đồng.
Giả sử tỷ lệ tăng giá vốn hàng bán bằng tỷ lệ tăng doanh thu (14,58%) thì giá vốn hàng bán sẽ lớn hơn giá vốn hàng bán thực tế của năm 2003. Nhưng tỷ lệ tăng giá vốn hàng bán nhỏ hơn tỷ lệ tăng doanh thu nên đã làm cho lợi nhuận tăng là: [80.172,16 tr x 114,7% - 91.715,27 tr] = 9.104,031 triệu đồng. Tuy nhiên ta thấy thực tế ở Công ty chỉ thực hiện một chức năng chủ yếu trên lĩnh vực thương mại nên tỷ lệ giá vốn trên doanh thu thuần như vậy là cao, Công ty cần phấn đấu giảm giá vốn hàng bán
Trong những năm tới để phù hợp với xu thế hội nhập, phải nâng cao tính tự chủ, không phụ thuộc quá nhiều vào nhà sản xuất, Công ty cần có sự chuyển hướng kinh doanh như: Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh, đầu tư vào một số lĩnh vực sản xuất. Điều này sẽ giúp cho Công ty kiểm soát được giá vốn hàng bán, từ đó có thể nâng cao lợi nhuận cho Công ty và hạn chế được những tác động xấu của thị trường.
Như chúng ta đã biết, lợi nhuận của Công ty không chỉ phụ thuộc vào doanh thu, doanh thu thuần mà nó còn phụ thuộc vào chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Hai nhân tố này tác động ngược chiều đối với lợi nhuận. Muốn lợi nhuận ngày càng cao thì nhiệm vụ của Công ty là phải không ngừng phấn đấu hạ thấp chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Vậy thực trạng của Công ty trong việc quản lý chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp trong 2 năm qua như thế nào ta phân tích kỹ dưới đây.
b. Chi phí bán hàng - chi phí quản lý doanh nghiệp.
Để thực hiện sản xuất kinh doanh đòi hỏi doanh nghiệp phải bỏ ra những khoản chi phí nhất định. Đây là một trong những nhân tố có ảnh hưởng đến lợi nhuận. Vì vậy, phấn đấu hạ thấp chi phí hoạt động kinh doanh sẽ làm tăng lợi nhuận và tạo được lợi thế cho doanh nghiệp trong cạnh tranh. Để làm được điều này, Công ty cần áp dụng rất nhiều biện pháp như quản lý chặt chẽ trong suốt quá trình mua hàng hoá, sử dụng hợp lý tiền vốn, sức lao động, giảm tối đa chi phí quản lý doanh nghiệp.
Qua bảng số liệu số 4 ta thấy:
Chi phí bán hàng : là toàn bộ các khoản chi liên quan đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm như: chi phí nhân viên bán hàng, chi phí vật liệu bao gói, chi phí dụng cụ bán hàng, chi phí vận chuyển ,bốc dỡ...những khoản chi này sẽ làm giảm lợi nhuận. Chi phí bán hàng của Công ty năm 2003 đã giảm so với năm 2002 chỉ còn 668,42 triệu đồng trong khi đó năm 2002, chi phí này là 947,63 triệu đồng
Chi phí quản lý doanh nghiệp năm 2003 là : 2.179,21 triệu đồng tăng 436,68 triệu đồng so với năm 2002, tương ướng với 21,38 %. Điều này chứng tỏ việc tổ chức bộ máy quản lý của Công ty chưa được tốt nên lợi nhuận của Công ty cũng bị giảm một lượng tương ứng.
Để thấy rõ hơn ta có thể thấy, trong năm 2002, cứ 100 đồng doanh thu thuần thu về thì Công ty phải bỏ ra 96,32 đồng vào giá thành sản xuất; 3,11 đồng chi phí và lợi nhuận thu về là 0,57 đồng. Sang đến năm 2003, công ty bỏ ra 96,06 đồng vào giá thành sản xuất và 2,98 đồng chi phí, lợi nhuận đạt được là 0,96 đồng. Như vậy chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp mà Công ty bỏ ra trong năm 2003 thấp hơn so với năm 2002 là 1,13 đồng. Điều này chứng tỏ Công ty đã có những biện pháp tích cực giảm chi phí của mình nên đã đạt được lợi nhuận cao hơn năm trước. Tuy nhiên, chi phí quản lý doanh nghiệp vẫn còn cao.
Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh năm 2003 tăng 441,48 triệu đồng so với năm 2002, tương ứng với 92,70%. Đây là một dấu hiệu đáng mừng với Công ty. Hầu hết với các doanh nghiệp nói chung và Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vận tải nói riêng thì lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh luôn chiếm tỷ trọng và có ý nghĩa quyết định trong tổng số lợi nhuận của Công ty.
Qua phân tích ở trên ta có thể thấy được tầm quan trọng của công tác quản lý chi phí hoạt động kinh doanh của Công ty, bởi vì chi phí có quan hệ rất chặt chẽ đối với doanh thu và lợi nhuận. Nếu chi phí tăng hoặc chi phí không đúng nội dung của nó, thì sẽ làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp bị giảm.
3.2 . Lợi nhuận từ hoạt động tài chính
Theo số liệu bảng 2, ta thấy năm 2002 và năm 2003 lợi nhuận thu được từ hoạt động tài chính vẫn là con số âm, nguyên nhân là do Công ty ít tham gia vào hoạt động tài chính. Tuy nhiên, sang năm 2003 thu nhập từ hoạt động tài chính đã tăng lên đáng kể. Công ty đã tham gia góp vốn liên doanh, mua bán chứng khoán nên năm 2003 đã tăng 248,038 triệu động, chứng tỏ Công ty đã bắt đầu để ý đến hoạt động tài chính.
Để có thể thu được lợi nhuận cao từ hoạt động tài chính, Công ty cần có chính sách đào tạo cán bộ trong trong công tác kinh doanh tài chính, song bên cạnh đó cũng cần có một thị trường tài chính ổn định.
Chi chí hoạt động tài chính là trả lãi vay ngắn hạn, chi phí cho đầu tư tài chính.
3.3. Lợi nhuận từ hoạt động bất thường
Lợi nhuận bất thường chủ yếu phụ thuộc vào công tác quản lý vốn của Công ty. Để thu được hiệu quả cao trong hoạt động này cần phải có sự giám sát chặt chẽ đồng vốn, có thông tin phản hồi kịp thời, chính xác từ các bạn hàng, từ thị trường.
Qua số liệu bảng 2 cho thấy, lợi nhuận bất thường năm 2003 tăng 70,18 triệu đồng. Tỷ lệ tăng là 40,13%. Đây cũng là một nguyên nhân góp phần làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Thu nhập từ hoạt động bất thường chủ yếu là do : Thanh lý, bán tài sản cố định, máy móc thiết bị khi hết thời hạn sử dụng, các khoản nợ khó đòi của các năm trước, khoản nợ được phát hiện từ các năm trước
- Chi phí từ hoạt động bất thường: Chi phí bán thanh lý tài sản, chi phí thu hồi nợ, tiền phạt vi phạm hợp đồng.
Một số yếu tố khác tác động đến lợi nhuận.
Một số chỉ tiêu tài chính năm 2002 và 2003.
Hoạt động tài chính là một bộ phận của hoạt động sản xuất kinh doanh đều ảnh hưởng tới tình hình tài chính của doanh nghiệp. Do đó để hiểu rõ hơn về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, chúng ta cần nghiên cứu một số chỉ tiêu tài chính để đánh giá khái quát tình hình hoạt động của Công ty.
Bảng 5. Một số chỉ tiêu tài chính năm 2002 và 2003
Đơn vị : Triệu đồng
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2002
Năm 2003
Chênh lệch 2003/2002
1
Bố trí cơ cấu
- TSCĐ/Tổng tài sản
- TSLĐ/Tổng tài sản
%
%
%
31,1
68,9
26,9
73,1
- 4,2
4,2
2
Tỷ suất LN trên doanh thu
%
0,002
0,005
0,003
3
Tỷ suất LN ròng VKD
%
0,09
0,12
0,03
4
Tình hình tài chính
Nợ phải trả/ Tổng VKD
%
92,3
89,0
- 3,3
Nhìn vào bảng trên ta thấy: Vốn lưu động của Công ty luôn chiếm tỷ trọng lớn hơn vốn cố định. Tỷ trọng vốn lưu động năm 2003 so với năm 2002 tăng lên 4,2%. Có thể nói, việc phân phối vốn của Công ty là tương đối hợp lý đối với một doanh nghiệp thương mại .
- Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy, cứ 100 đồng doanh thu năm 2003 mang lại 0,005 đồng lợi nhuận ròng, so với năm 2002 tuy có tăng lên 0,003 đồng nhưng vẫn không đáng kể. Công ty cần phải cố gắng hơn nữa để lợi nhuận trên doanh thu ngày một tăng.
- Đối với tỷ suất lợi nhuận ròng vốn kinh doanh năm 2003 tăng 0,03% so với năm 2002.
- Nợ phải trả trên tổng vốn kinh doanh là tương đối cao. Năm 2003, nếu bỏ ra 100 đồng vốn kinh doanh thì Công ty phải trả một khoản nợ là 89,0 đồng, giảm 3,3 đồng so với năm 2002. Đây là dấu hiệu đáng mừng cho Công ty
Tình hình sử dụng vốn và quản lý vốn lưu động của Công ty.
2.1 Kết cấu vốn lưu động.
Qua bảng số 6 ta thấy :
Vốn bằng tiền của Công ty năm 2003 tăng 539 triệu đồng so với năm 2002, tương ứng với 23,4%.
Các khoản phải thu của Công ty năm 2003 tăng hơn so với năm 2002 là : 2.471 triệu đồng, tương ứng với 30,3%. Điều này cho thấy Công ty có dấu hiệu bị các doanh nghiệp khác chiếm dụng vốn.
Hàng tồn kho năm 2003 tăng 2.240 triệu đồng so với năm 2002 với tỷ lệ là 29,5%. Công ty cần khắc phục hơn nữa trong việc giảm tỷ lệ hàng tồn kho, đẩy mạnh việc tiêu thụ hàng hoá và tăng cường lượng vốn bằng tiền trong Công ty.
Bảng 6. Kết cấu vốn lưu động năm 2002 - 2003
Đơn vị: Triệu đồng
STT
Chỉ tiêu
Năm 2002
Năm 2003
Chênh lệch 2003/2002
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Số TĐ
Tỷ lệ
(%)
1
Vốn bằng tiền
2.305
12,3
2.844
11,3
539
23,4
2
Các khoản phải thu
8.156
43,3
10.627
42,1
2.471
30,3
3
Hàng tồn kho
7.592
40,3
9.832
38,9
2.240
29,5
4
Tài sản lưu động khác
771
4,1
1.953
7,7
1.182
153,3
Tổng vốn lưu động
18.824
100
25.256
100
6.432
31,2
2.2. Tình hình sử dụng vốn lưu động.
Một trong những yếu tố cơ bản để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là tăng nhanh vòng quay vốn lưu động và huy động vốn cố định vào sản xuất. Nói cách khác, việc nâng cao lợi nhuận một phần là nhờ sự quản lý và sử dụng tốt các loại vốn kinh doanh, tăng doanh thu tiêu thụ góp phần tăng lợi nhuận.
Để đánh giá tình hình sử dụng vốn ta hãy xem xét một số chỉ tiêu của Công ty trong hai năm 2002-2003 qua bảng sau:
Bảng 7. Tình hình sử dụng vốn năm 2002 - 2003
Đơn vị: Triệu đồng
STT
Chỉ tiêu
Đơn Vị
Năm 2002
Năm2003
Chênh lệch 2003/2002
Số TĐ
Tỷ lệ%
1
Doanh thu thuần
Triệu
83.238,58
95.480,64
12.242,06
14,7
2
Lợi nhuận sau thuế
Triệu
182,626
457,306
274,68
150,40
3
Vốn lưu động BQ
Triệu
18.824
25.256
6.432
34,2
4=1/3
Số vòng quay VLĐ
Vòng
4,42
3,78
-0,64
-14,48
5=360/4
Số ngày luân chuyển VLĐ
Ngày
81,45
95,24
13,79
16,93
6=3/1
Hàm lượng VLĐ
%
0,23
0,26
0,03
13,04
7=2/3
Lợi nhuận/ VLĐ
%
0,01
0,02
0,01
100
(Số liệu từ báo cáo tài chính)
Qua bảng số liệu trên ta thấy: Vốn lưu động bình quân sử dụng năm 2003 của Công ty đã tăng lên so với năm 2002 là 6.432 triệu đồng, tỷ lệ tăng là 34,2%. Tuy nhiên, số vòng quay vốn lưu động năm 2003 lại nhỏ hơn năm 2002 là 0,64 vòng tương ứng 14,48%. Điều này cho thấy hiệu suất sử dụng vòng quay vốn năm 2003 của Công ty chưa đạt hiệu quả.
Do vòng quay vốn lưu động của Công ty giảm, điều đó chứng tỏ khả năng sử dụng vốn lưu động của Công ty kém hơn so với năm trước. Hệ quả tất yếu là số ngày luân chuyển vốn lưu động cũng sẽ tăng lên.
Năm 2003, số ngày luân chuyển vốn lưu động là 95,24 ngày, tăng 13,97 ngày tương ứng với 16,93%. Đây là một dấu hiệu không tốt đối với công tác hoạt động kinh doanh của Công ty.
- Hàm lượng vốn lưu động: Để có 1 đồng doanh thu năm 2002, Công ty cần 0,23 đồng vốn lưu động, nhưng sang đến năm 2003 Công ty lại phải cần 0,26 đồng vốn lưu động. Đây là một nguyên nhân làm cho lợi nhuận của Công ty giảm
- Qua bảng trên ta thấy, năm 2002 cứ 1 đồng vốn lưu động bình quân Công ty bỏ ra sẽ thu được 0,01 đồng lợi nhuận, và đến năm 2003 thì thu được 0,02 đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này cho thấy đây là một tỷ lệ thấp. Công ty cần phải có nhiều biện pháp tích cực hơn nữa để nâng cao hệ số này nhằm tăng lợi nhuận của Công ty
Phần III
Một số biện pháp chủ yếu nhằm tăng lợi nhuận tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vận tải hà nội
I. Đánh giá chung.
1. Những thuận lợi và kết quả đạt được.
- Nhìn chung hoạt động kinh doanh của Công ty trong 2 năm qua có nhiều hướng đi lên, đúng với mục tiêu, phương hướng mà ban lãnh đạo Công ty đã đề ra, biểu hiện là các chỉ tiêu như: doanh thu, doanh thu thuần, lãi gộp...đều tăng.
- Mặc dù trong những năm qua có rất nhiều biến động trong nước và trên thế giới.Những biến động đó tác động vào hoạt động kinh doanh của Công ty nhưng Công ty vẫn không ngừng phát triển. Đó là nhờ có sự nỗ lực lớn của Ban giám đốc cũng như toàn thể cán bộ công nhân viên trong Công ty.
- Hàng năm Công ty đều hoàn thành tốt nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước và được coi là một trong những Công ty phát triển.
- Với các mặt hàng của mình, Công ty có nhiều khách hàng và thị trường quen thuộc, bởi lẽ các mặt hàng này phục vụ nhiều cho các ngành kinh tế thuộc cơ sở hạ tầng, mà ở đây không phải chỉ phục vụ cho ngành giao thông vận tải, mà cả các ngành khác trong nền kinh tế. Do đó việc tiêu thụ không gặp nhiều khó khăn.
Những tồn tại.
Bên cạnh những kết quả mà Công ty đã đạt được trong những năm qua thì Công ty vẫn còn tồn tại một số mặt sau:
- Lãnh đạo chỉ mới tập trung vào chỉ đạo hoạt động kinh doanh là chính, chưa chú ý đến các hoạt động khác như hoạt động tài chính, hoạt động bất thường vì vậy đã ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận chung của Công ty.
- Chi phí quản lý Doanh nghiệp còn cao, chứng tỏ Công ty còn chưa chú ý đến biện pháp rút gọn biên chế, chưa xác định được định mức chi tiêu và quản lý các định mức đó.
- Về sử dụng vốn: Vốn kinh doanh(bình quân) của Công ty tăng trong đó chủ yếu là vốn lưu động (bình quân).
Nguyên nhân.
a. Nguyên nhân khách quan.
Cơ chế thị trường tạo ra nhiều thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của Công ty, đồng thời cũng gây khó khăn cho Công ty, đó là sự cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp khác thuộc các thành phần kinh tế khác. Chấp nhận cơ chế thị trường có nghĩa là phải chấp nhận cạnh tranh với các đơn vị khác, đây là vấn đề khó khăn nhất của Tracimexco Hà nội. Nhất là phải cạnh tranh với các đơn vị lớn, vốn nhiều, được Nhà nước quan tâm nhiều. Tuy nhiên sự cạnh tranh lại là động lực đẩy mạnh sự phát triển của xã hội và của nền kinh tế quốc dân.
b. Nguyên nhân chủ quan.
Với chức năng, nhiệm vụ XNK vật tư, máy móc, thiết bị, phương tiện ngành giao thông vận tải. Trong thời gian qua tuy gặp nhiều khó khăn song Tracimexco Hà nội vẫn đạt được những kết quả đáng mừng. Song cũng như các Công ty khác, Công ty Tracimexco Hà nội không tránh khỏi những thiếu sót trong quản lý kinh doanh vì do phải sát nhập nhiều lần, cơ cấu thay đổi, mới chuyển sang hạch toán độc lập nên hiệu quả làm ăn chưa cao, chỉ đạo còn chưa kịp thời nên đôi khi bỏ lỡ thời cơ.
Tình trạng duy trì kỷ luật lao động còn chưa tốt.Trong Công ty còn có một bộ phận người lao động có tư tưởng trông chờ, hy vọng ỷ lại hoặc chưa quen với sự vận động và cùng đồng lòng vươn lên trong kinh doanh.
II. Một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận.
Từ việc phân tích hình hoạt động của Công ty cho thấy, bên cạnh những thành quả mà Công ty đã nỗ lực đạt được trong quá trình hoạt động kinh doanh, vẫn còn tồn tại những khiếm khuyết ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Sau thời gian tìm hiểu và phân tích cụ thể tình hình tài chính của Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vận tải Hà nội, dựa vào những thực tế diễn biến của nền kinh tế nói chung, em xin nêu ra một số biện pháp nhằm tăng lợi nhuận của Công ty.
1. Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Là một doanh nghiệp thương mại nên hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào việc khai thác, chiếm lĩnh thi trường. Mọi biện pháp thực hiện nhằm mở rộng thị trường của Công ty đều hướng vào 2 mục tiêu chủ yếu
Nâng cao uy tín trên thị trường hiện tại nhằm nâng cao thị phần.
Mở rộng thị trường tương lai.
Muốn hoạt động có hiệu quả, Công ty cần phải chiếm lĩnh thị trường bằng uy tín, chất lượng hàng hóa, do đó Công ty phải quan tâm đúng mức tới chất lượng hàng hóa ở từng khâu
Công ty cần có đủ thông tin về thị trường để nhận định, đánh giá chính xác nhu cầu tiêu dùng. Muốn vậy Công ty cần phải yêu cầu các cửa hàng thông báo thường xuyên về các thông tin thị trường, cung cấp cho Công ty doanh số hàng tháng, lượng hàng bán ra, hàng tồn kho hàng tháng, từ đó có thông tin cụ thể để lập kế hoạch kinh doanh cụ thể.
Tổ chức đội ngũ tiếp thị , tuyển chọn những người năng động nhạy bén có kinh nghiệm, nhiệt tình với công việc nhằm nắm bắt nhanh nhất các thông tin, tận dụng mọi cơ hội đối với Công ty. Ngoài ra, Công ty nên giới thiệu, quảng cáo các mặt hàng kinh doanh, phương thức kinh doanh trên các phương tiện thông tin đại chúng để thu hút khách hàng đến với Công ty.
2. Đa dạng hóa các sản phẩm nhằm đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa.
Đa dạng hóa sản phẩm nhằm đáp ứng hơn nữa nhu cầu của người tiêu dùng làm tăng số lượng tiêu thụ sản phẩm từ đó tăng doanh thu, không những thế còn làm giảm bớt rủi ro của Công ty. Để làm điều này Công ty nên thăm dò thị hiếu, ý kiến của khách hàng để khắc phục điểm yếu của sản phẩm nhằm tạo ra những sản phẩm tốt hơn, đồng thời chú trọng đến mẫu mã bao bì sản phẩm.
Xúc tiến tiêu thụ là những hoạt động không thể thiếu đối với mỗi doanh nghiệp nhằm kích thích và phát triển nhu cầu của thị trường. Công ty cần vận dụng một cách sáng tạo lý thuyết Marketing và đặc điểm của Công ty để áp dụng các biện pháp: Tiến hành các hoạt động quảng cáo, tổ chức hội nghị khách hàng thường xuyên, tham gia các hội chợ triển lãm để giới thiệu sản phẩm tới khách hàng.
3. Phấn đấu giảm chi phí sản xuất nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, giảm giá thành. Từ đó, nâng cao chữ tín và nâng cao sức cạnh tranh
Hạ giá thành sản phẩm là biện pháp cơ bản nhằm tăng lợi nhuận của Công ty. Với giá bán và mức thuế không đổi thì lợi nhuận của đơn vị sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ tăng hay giảm là do giá thành hoặc chi phí quyết định.
Việc quản lý chi phí phải được kiểm tra, quản lý chặt chẽ. Các khoản chi phí phải có chứng từ gốc, hợp lý, đúng quy định mới được chấp nhận thanh toán. Công ty phải phấn đấu hết sức hạ thấp chi phí dịch vụ mua ngoài như điện, nước, điện thoại bằng cách xây dựng các định mức tiêu hao cho từng công việc, từng phòng ban.
Đầu tư máy móc trang thiết bị
Tổ chức mua vào, bán ra hợp lý và quản lý hàng hợp lý để giảm tối đa chi phí bảo dưỡng, bảo quản.
Thực hiện tốt các quy định của Nhà nước, thực hiện theo đúng hợp đồng ký kết để giảm các khoản chi phí không đáng có của Công ty góp phần tăng lợi nhuận.
Xác định kế hoạch sản xuất, kế hoạch nhập khẩu. Đảm bảo lượng dự trữ nguyên vật liệu, dự trữ hàng hóa hợp lý
Trước hết, căn cứ vào khả năng tình hình thực tế của những năm trước và phán đoán về khả năng của những năm tới, đánh giá khả năng của năm sau về sản xuất, kế hoạch nhập khẩu và kế hoạch tiêu thụ. Kế hoạch đó phải đảm bảo tính tiên tiến, tính khoa học, tính hiện thực, có độ tin cậy vững chắc.
Trên cơ sở kế hoạch sản xuất này thì Công ty mới có kế hoạch về thu mua nguyên vật liệu, kế hoạch nhập khẩu hàng hóa hợp lý
Khai thác, huy động, thu hút mọi nguồn vốn.
Nguồn vốn của doanh nghiệp có nhiều nguồn vốn nhưng tóm lại có 2 nguồn vốn:
*Nguồn vốn chủ sở hữu
- Khai thác nguồn vốn chủ sở hữu:
+ Phải trích một phần lợi nhuận hàng năm vào đầu tư thì nó tăng nguồn vốn tự có.
+ Phải tăng cường thu hồi nợ để tăng vốn kinh doanh và giải pháp hàng tồn kho để chống ứ đọng vốn.
- Xin hỗ trợ của Ngân sách Nhà nước.
* Nợ phải trả: Nguồn này phải tính toán sử dụng và quản lý hợp lý các khoản vay này (chỉ vay khi nhu cầu vốn cần thiết)
6. Nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, tổ chức sắp xếp lại lực lượng lao động
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì việc nâng cao được chất lượng phục vụ khách hàng sẽ là yếu tố tâm lý tạo nên sự thoải mái, niềm tin của khách hàng đối với Công ty. Mặt khác Công ty nên có kế hoạch bồi dưỡng trình độ đội ngũ nhân viên nhằm nâng cao chuyên môn nghiệp vụ. Thực hiện phân bổ các chỉ tiêu cụ thể trong kinh doanh cho các phòng ban để làm sao gắn bó trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn, lợi ích của cán bộ kinh doanh. Đó là mấu chốt để khơi dậy tinh thần sáng tạo, tích cực trong kinh doanh của mỗi cá nhân.
Kết luận
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, tối đa hóa lợi nhuận luôn là mục tiêu hàng đầu của bất kỳ doanh nghiệp nào khi thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh. Một doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển được hay không thì điều quan trọng là doanh nghiệp đó có tạo ra được lợi nhuận hay không. Do đó, lợi nhuận luôn là mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp. Với sự nỗ lực cố gắng phấn đấu, năng động nhạy bén và sự đồng tâm đồng sức của Ban lãnh đạo Công ty cũng như toàn thể cán bộ công nhân viên trong Công ty đã và đang được bù đắp xứng đáng. Phát triển trong lúc thị trường cạnh tranh gay gắt, cho đến nay Công ty đã chứng tỏ được khả năng của mình và từng bước đi lên.
Để phát huy hơn nữa năng lực của Công ty, tác dụng của các biện pháp nâng cao lợi nhuận, trên cơ sở lý luận khoa học cùng với tình hình thực tế của Công ty em đã mạnh dạn đề xuất một số ý kiến, giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa tình hình lợi nhuận của Công ty. Tuy nhiên, thời gian thực tập còn ngắn, khả năng và trình độ và hiểu biết còn hạn chế nên đề tài nghiên cứu không khỏi còn nhiều thiếu sót. Em rất mong được sự chỉ dẫn thêm của các anh chị trong phòng kế toán của Công ty XNK và hợp tác đầu tư giao thông vận tải Hà Nội.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Lê Văn Chắt và các cô chú tại Công ty XNK và hợp tác đầu tư giao thông vận tải Hà Nội đã giúp em hoàn thành bài luận văn này.
Hà Nội, tháng 04 năm 2004
Sinh viên
Vũ Thị Hương
Tài liệu tham khảo
1
Giáo trình"Tài chính doanh nghiệp" - Trường đại học quản lý kinh doanh Hà nội
2
Giáo trình" Quản trị tài chính doanh nghiệp" - Trường đại học tài chính
3
Phân tích báo cáo tài chính - NXB Thống kê 1995
4
Báo cáo tài chính và báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Tracimexco Hà nội
5
Thời báo kinh tế việt nam
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24405.DOC