Đề tài Một số biện pháp nhằm tăng cường quản lý hoạt động thu chi ở huyện Triệu Phong

Tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm tăng cường quản lý hoạt động thu chi ở huyện Triệu Phong: Họ và tên : Lê Thị Hồng Bốn BẢN THẢO Lớp : 30k11 Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG THU CHI Ở HUYỆN TRIỆU PHONG- QT LỜI MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Ngân sách là phương tiện không thể thiếu được của mọi chính quyền nhà nước. Ở Việt Nam, luật NSNN từ khi được ban hành và qua các lần sửa đổi, bổ sung thừa nhận rằng ngân sách huyện là ngân sách của chính quyền nhà nước cấp huyện và là một bộ phận cấu thành NSNN. Tuy nhiên, thực trạng về tổ chức quản lý và sử dụng ngân sách huyện Triệu Phong còn nhiều hạn chế và kém hiệu quả, gây thất thoát kinh phí của nhà nước.Đề tài :” Một số biện pháp nhằm tăng cường quản lý hoạt động thu chi ở huyện Triệu Phong - Quảng Trị” là công trình nghiên cứu nhằm giúp cho việc quản lý thu, chi ngân sách nhà nước ở huyện Triệu Phong hiệu quả hơn. 2. Mục tiêu nghiên cứu Trên cơ sở hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản quản lý NSNN cấp huyện và phân tích thực trạng công tác quản lý thu, chi ở huyện Triệu Phong từ đó đưa ra phư...

doc52 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1110 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm tăng cường quản lý hoạt động thu chi ở huyện Triệu Phong, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Họ và tên : Lê Thị Hồng Bốn BẢN THẢO Lớp : 30k11 Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG THU CHI Ở HUYỆN TRIỆU PHONG- QT LỜI MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Ngân sách là phương tiện không thể thiếu được của mọi chính quyền nhà nước. Ở Việt Nam, luật NSNN từ khi được ban hành và qua các lần sửa đổi, bổ sung thừa nhận rằng ngân sách huyện là ngân sách của chính quyền nhà nước cấp huyện và là một bộ phận cấu thành NSNN. Tuy nhiên, thực trạng về tổ chức quản lý và sử dụng ngân sách huyện Triệu Phong còn nhiều hạn chế và kém hiệu quả, gây thất thoát kinh phí của nhà nước.Đề tài :” Một số biện pháp nhằm tăng cường quản lý hoạt động thu chi ở huyện Triệu Phong - Quảng Trị” là công trình nghiên cứu nhằm giúp cho việc quản lý thu, chi ngân sách nhà nước ở huyện Triệu Phong hiệu quả hơn. 2. Mục tiêu nghiên cứu Trên cơ sở hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản quản lý NSNN cấp huyện và phân tích thực trạng công tác quản lý thu, chi ở huyện Triệu Phong từ đó đưa ra phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý thu, chi ở huyện Triệu Phong 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu các vấn đề về công tác quản lý thu, chi ở huyện Triệu Phong. Để đạt được mục tiêu đề ra,luận văn tập trung phân tích thực trạng công tác quản lý thu, chi ở huyện Triệu Phong - Quảng Trị từ năm 2005 đến 2007 và định hướng đến năm 2010. 4. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, chuyên đề sử dụng tổng hợp các phương pháp phân tích với khái quát hoá, kết hợp lý luận với khảo sát thực tế đạt được trong công tác quản lý thu, chi của huyện trong thời gian qua. 5. Hướng đóng góp chính của chuyên đề Thứ nhất: Hệ thống những vấn đề chung về NSNN trong quản lý Thứ hai: Phân tích công tác quản lý thu, chi NSNN ở huyện Triệu Phong Thứ ba: Xác định phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý thu, chi ở huyện Triệu Phong. 6.Kết cấu của chuyên đề Gồm có phần Mở đầu, nội dung và Kết luận Phần nội dung chuyên đề gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về NSNN- Quản lý NSNN cấp huyện Chương 2:Thực trạng công tác tổ chức công tác quản lý thu, chi ở huyện Triệu Phong Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý thu, chi ở huyện Triệu Phong. NỘI DUNG Chương 1: Ngân sách nhà nước - Quản lý ngân sách nhà nước cấp huyện Cơ sở lý luận Khái quát về ngân sách nhà nước và hệ thống ngân sách nhà nước 1.1.1. Khái niệm Có nhiều dịnh nghĩa khác nhau về NSNN trên các góc cạnh tiếp cận khác nhau: Theo luật ngân sách nhà nước : Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu,chi của nhà nước trong dự toán đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Thuật ngữ ”Ngân sách” có nguồn gốc từ tiếng la tinh”Budget” có nghĩa là cái túi hay rộng hơn là nơi tập trung nguồn thu và xuất phát điểm của các khoản chi. Qua quá trình phát triển, thuật ngữ này được sử dụng phổ biến hơn và dần dần tách khỏi ý nghĩa ban đầu của nó. Về hình thức thể hiện: ngân sách được hiểu là các bản dự toán và quyết toán thu, chi của một đơn vị trong một thời gian xác định. Về hành vi: NSNN được hiểu là việc thực hiện các khoản thu chi bằng tiền của nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định( thường là một năm). Theo đó, Luật NSNN (sửa đổi năm 2002) của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác định” NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước”. Như vậy, về bản chất NSNN là hệ thống các quan hệ kinh tế giữa nhà nước với các chủ thể trong xã hội, phát sinh trong quá trình phân phối và phân phối lại của cải xã hội, nhằm tập trung một phần nguồn lực tài chính vào trong tay nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi gắn liền với việc thực hiện các chức năng quản lý của nhà nước. Về hình thức biểu hiện, đó là các dự toán và quyết toán các khoản thu, chi quá trình trực hiện chức năng của nhà nước trong một thời gian xác định ( một năm). 1.1.2 Hệ thống phân cấp quản lý NNSN Tuỳ theo hệ thống tổ chức hành chính của nhà nước và phân cấp quản lý ngân sách, hệ thống NSNN tại mỗi quốc gia được hình thành khác nhau. Ở nước ta, hệ thống NSNN cũng được tổ chức thành bốn cấp: Ngân sách trung ương, ngân sách tỉnh( thành phố trực thuộc trung ương), ngân sách huyện,( quận, thị xã), ngân sách xã( phường, thị trấn). Ngân sách nhà nước Ngân sách trung ương Ngân sách địa phương Ngân sách tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương Ngân sách huyện, quận thuộc tỉnh Ngân sách xã, phường, thị trấn Sơ đồ1.1: hệ thống NSNN Việt Nam Trong hệ thống này, ngân sách trung ương chịu trách nhiệm quản lý thu, chi theo ngành kinh tế. Nó luôn giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống NSNN. Ngân sách trung ương cấp phát kinh phí cho yêu cầu thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trung ương( sự nghiệp văn – xã, sự nghiệp kinh tế; an ninh – quốc phòng; trật tự an toàn xã hội; đầu tư xây dựng các công trình kế cấu hạ tầng….). Trên thực tế ngân sách trung ương là ngân sách của cả nước, tập trung đại bộ phận nguồn thu và đảm vảo các nhu cầu chi mang tính quốc gia. Ngân sách trung ương bao gồm các đơn vị dự toán của cấp này. Mỗi bộ, cơ quan trung ương là một đơn vị dự toán ngân sách trung ương. Ngân sách địa phương chịu trách nhiệm quản lý thu NSNN trên địa bàn và chi NSNN địa phương. HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương( gọi chung là cấp tỉnh) quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp chính quyền địa phương phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và trình độ quản lý của nỗi cấp trên địa bàn. Chính quyền cấp tỉnh cần chủ động, sáng tạo trong việc động viên khai thác thế mạnh trên địa bàn địa phương để tăng nguồn thu, đảm bảo chi và thực hiện cân đối ngân sách của cấp mình. Ngân sách cấp huyện, do chính quyền cấp huyện tổ chức thực hiện quản lý thu, chi theo quy định phân cấp của tỉnh nhằm khai thác tốt nguồn thu để đảm bảo nhiệm vụ chi ngân sách cấp mình. Ngân sách cấp xã, phường do chính quyền cấp xã phường tổ chức thực hiện theo quy định của cấp huyện nhằm đảm bảo các nhiệm vụ phát sinh trên địa bàn địa phương mình quản lý. Quan hệ giữa các cấp ngân sách trong hệ thống NSNN được thực hiện theo các nguyên tắc sau: Ngân sách trung ương và ngân sách mỗi cấp chính quyền địa phương được phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể; Thực hiện việc bổ sung từ ngân sách của chính quyền nhà nước cấp trên cho ngân sách của chính quyền ngân sách cấp dưới nhằm đảm bảo sự công bằng, phát triển cân đối giữa các vùng lãnh thổ, các địa phương. Số bổ sung này là khoản thu của ngân sách cấp dưới. Trường hợp cơ quan quản lý nhà nước cấp trên uỷ quyền cho cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chi đó( gọi là kinh phí uỷ quyền). Không được dùng ngân sách của cấp này chi cho nhiệm vụ của ngân sách cấp khác, trừ trường hợp đặc biệt theo quy định của Chính phủ. Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước thế nội dung trên khôgn phải là nội dung của phân cấp quản lý NSNN à? Phân cấp quản lý NSNN là xác định phạm vi, trách nhiệm và quyền hạn của chính quyền nhà nước các cấp trong việc quản lý, điều hành thực hiện nhiệm vụ thu, chi của NSNN. Phân cấp quản lý NSNN giữa chính quyền trung ương và các cấp chính quyền địa phương là một tất yếu khách quan do mỗi cấp chính quyền đều cần đảm bảo nhu cầu chi bằng những nguồn tài chính nhất định. Nếu các nhiệm vụ đó do mỗi cấp trực tiếp đề xuất và bố trí thì sẽ hiệu quả hơn là sự áp đặt từ trên xuống. Đồng thời, những khoản thu nhỏ lẻ hoặc khó quản lý nếu phân giao cho chính quyền địa phương quản lý sẽ phát huy tính độc lập, năng động, sáng tạo trong quá trình tổ chức triển khai các nhiệm vụ về xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương. Phân cấp quản lý ngân sách cũng là phương pháp tốt nhất để gắn các hoạt động của NSNN với các hoạt động kinh tế xã hội một cách cụ thể. Sự gắn kết này nhằm tạo lập và tập trung đầy đủ, kịp thời, đúng chính sách, chế độ nguồn tài chính quốc gia, đồng thời phân phối, sử dụng các nguồn tài chính đó một cách công bằng, hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả cao phục vụ mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Phân cấp quản lý NSNN đúng đắn và hợp lý không chỉ bảo đảm phương tiện vật chất cho việc duy trì, phát triển hoạt động của các cấp chính quyền nhà nước từ trung ương đến địa phương mà còn tạo điều kiện phát huy được lợi thế nhiều mặt của từng vùng, từng địa phương trong cả nước: Nó cho phép quản lý và kế hoạch hoá NSNN và điều chỉnh mối quan hệ giữa các cấp chính quyền cũng như mối quan hệ giữa các cấp ngân sách được tốt hơn. Phân cấp NSNN còn có tác động thúc đẩy phân cấp quản lý kinh tế xã hội ngày càng hoàn thiện hơn. Khi tiến hành phân cấp quản lý NSNN cần phải tôn trọng các nguyên tắc cơ bản sau: Một là, Phân cấp ngân sách cần phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế xã hội của nhà nước: Phân cấp quản lý kinh tế xã hội là tiền đề, là điều kiện để thực hiện phân cấp quản lý NSNN. Thực chất của nguyên tắc này là việc giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ và quyền lợi của mỗi cấp chính quyền. Mặt khác, nguyên tắc này còn là điều kiện đảm bảo tính độc lập tương đối trong quản lý NSNN. Quán triệt nguyên tắc này tạo cơ sở cho việc giải quyết mối quan hệ vật chất giữa các cấp chính quyền bằng việc xác định rõ nguồn thu và nhiệm vụ chi của các cấp; Hai là, ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đao tập trung các nguồn lực cơ bản thực hiện các mục tiêu trọng yếu trên phạm vi cả nước; Nguyên tắc này xuất phát từ vị trí quan trọng của nhà nước trung ương trong quản lý kinh tế xã hội của cả nước và từ tính chất xã hội hoá của các nguồn tài chính quốc gia. Ba là, phân định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách và ổn định tỷ lệ phần trăm phân chia các khoản thu, số bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới từ 3 đến 5 năm. Hàng năm chỉ xem xét điều chỉnh số bổ sung một phần do có trượt giá hoặc do tốc độ tăng trưởng kinh tế; Bốn là, đảm bảo công bằng trong phân cấp quản lý NSNN. Theo nguyên tắc này, khi tiến hành phân cấp quản lý NSNN phải căn cứ vào các yêu cầu chung của cả nước, đồng thời phải cố gắng hạn chế thấp nhất sự chênh lệch về kinh tế, văn hoá, xã hội giữa các vùng, lãnh thổ. Các quan hệ trong phân cấp quản lý NSNN cần được xem xét nhằm quản lý NSNN hiệu quả hơn. Ngân sách cấp huyện trong hệ thống ngân sách nhà nước NSNN là một tổng thể thống nhất bao gồm nhiều cấp ngân sách cấu thành. Là cấp chính quyền nối tỉnh (thành phố) với xã ( phường), chính quyền cấp huyện không chỉ đơn thuần thực hiện sự chỉ đạo của tỉnh, thành phố mà còn có những hướng riêng phù hợp với tình hình thực tế của huyện trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Ngân sách huyện là công cụ quan trọng của chính quyền cấp huyện trong việc ổn định và phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn. Khi xem xét ngân sách huyện không tách rời khỏi NSNN cấp trên nhưng cũng không được coi ngân sách huyện là yếu tố thụ động trong hệ thống ngân sách. Theo đó, ngân sách huyện là toàn bộ các khoản thu – chi được quy định đưa vào dự toán trong một năm do HĐND huyện quyết định và giao cho UBND huyện tổ chức chấp hành nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ cuả chính quyền cấp huyện. Quan niệm trên có thể giúp chúng ta hình dung được ngân sách huyện và cơ quan quyết định cũng như cơ quan chấp hành ngân sách huyện. Tuy nhiên, quan điểm trên chưa phản ánh được các mối quan hệ tiền tệ mà thực chất là quan hệ lợi ích kinh tế chứa đựng trong ngân sách huyện. Thực tiễn chỉ ra rằng khi các khoản thu, chi ngân sách huyện diễn ra tất yếu sẽ nảy sinh sự vận động của nguồn tài chính từ chủ thể( người) nộp đến ngân sách huyện, từ ngân sách huyện đến những mục đích sử dụng nào đó. Toàn bộ quá trình thu tác động đến lợi ích, nghĩa vụ của người nộp và toàn bộ các khoản chi sẽ mang lại lợi ích cho dân cư, hộ gia đình. Sự vận động của các nguồn tài chính vào ngân sách huyện và từ ngân sách huyện đến các mục đích sử dụng khác nhau chứa đựng các mối quan hệ cụ thể: Thứ nhất, quan hệ giữa chính quyền cấp huyện với các cấp chính quyền cấp trên thể hiện trong việc xác định cho các huyện nguồn thu được phân chia giữa các cấp ngân sách và thể hiện trong sự hỗ trợ bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp huyện. Thứ hai, quan hệ giữa chính quyền cấp huyện với các tổ chức kinh tế huyện được thể hiện trong việc các tổ chức này nộp thuế, phí - lệ phí cho ngân sách huyện và ngược lại ngân sách huyện cũng phải chi trực tiếp, gián tiếp cho tổ chức này. Thứ ba, quan hệ giữa chính quyền nhà nước với nhân dân trong huyện được thể hiện khi ngân sách cấp trên cấp kinh phí uỷ quyền, chuyển giao cho ngân sách huyện thực hiện. Đó là chương trình quốc gia như chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình, Chương trình phổ cập giáo dục……. Thứ tư, quan hệ giữa cấp chính quyền huyện với các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước. Đó là mối quan hệ thông qua việc biếu tặng giúp đỡ tài trợ của các tổ chức cá nhân đó đối với huyện và là một khoản thu của ngân sách huyện. Thứ năm, quan hệ giữa cấp chính quyền huyện với tổ chức Đảng và các tổ chức chính trị xã hội khác trong việc hình thành và sử dụng quỹ ngân sách. Quan hệ này được thể hiện ngân sách cấp kinh phí cho các hoạt động của Đảng và các tổ chức chính trị xã hội trong huyện. Tất cả các mối quan hệ được trình bày ở trên phản ánh các nội dung thu và chi của ngân sách cấp huyện. Tóm lại, Ngân sách huyện là quỹ tiền tệ tập trung của huyện được hình thành bằng các nguồn thu và đảm bảo các khoản chi trong phạm vi huyện. Nó phản ảnh những mối quan hệ một bên là chính quyền cấp huyện với một bên là các chủ thể khác thông qua sự vận động của các nguồn tài chính, nhằm đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ của chính quyền huyện. Quản lý ngân sách cấp huyện Ngân sách huyện là công cụ quan trọng của chính quyền cấp huyện trong việc ổn định và phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn. Ngân sách huyện là quỹ tiền tệ tập trung của huyện được hình thành bằng các nguồn thu và đảm bảo các khoản chi của huyện. Vì vậy, ngân sách huyện nhất thiết phải được phân cấp quản lý và sử dụng một cách tiết kiệm, hiệu quả và đúng chế độ quy định của nhà nước. Để thực hiện tốt vấn đề này, cần thiết phải có sự quản lý chặt chẽ của các cấp chính quyền trong việc thực hiện thu, chi ngân sách cấp huyện. Khái quát nội dung quản lý ngân sách huyện Quản lý ngân sách cấp huyện là gì??? Nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân sách cấp huyện Việc phân cấp quản lý ngân sách cấp huyện do chính quyền cấp tỉnh quy định theo luật NSNN. Về nguồn thu, ngân sách huyện bao gồm các loại chính sau: Thứ nhất, các khoản thu phân chia giữa ngân sách tỉnh, ngân sách huyện với ngân sách xã, phường, thị trấn. Theo quy định, các khoản thu này bao gồm: thuế tiêu đặc biệt hàng sản xuất trong nước thu vào các mặt hàng: bài lá, vàng mã, hàng mã, và các dịch vụ kinh doanh vũ trường, massage, karaoke, kinh doanh gôn, kinh doanh casino, kinh doanh vé đặt cược đua ngựa, đua xe; thuế nhà đất, thuế tài nguyên, thu tiền sử dụng đất, lệ phí trước bạ nhà, đất. Thuế sử dụng đất nông nghiệp… Thứ hai, các khoản thu được bổ sung từ ngân sách tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Thứ ba, các khoản thu ngân sách huyện được hưởng 100% là thuế môn bài từ các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ sản xuất kinh doanh ngoài quốc doanh, các khoản thu phí, lệ phí từ hoạt động do các cơ quan thuộc huyện quản lý; Thu sự nghiệp của các đơn vị sự nghiệp do cấp huyện quản lý; Các khoản viện trợ, đóng góp của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước trực tiếp cho ngân sách huyện, cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng theo quy định; Thu phạt xử lý vi phạm hành chính, thu từ hoạt động chống buôn lậu, kinh doanh trái pháp luật theo phân cấp của tỉnh; Thu bổ sung từ ngân sách tỉnh; Thu kết dư ngân sách huyện; các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. Tuỳ theo trình độ phát triển của từng địa phương mà nguồn thu từ nội lực kinh tế chiếm tỷ trọng khác nhau trong tổng thu NSNN trên địa bàn huyện. Về khoản chi ngân sách cấp huyện bao gồm các khoản chi chủ yếu sau: Một là, chi đầu tư phát triển: chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế -xã hội theo phân cấp quản lý của tỉnh. Hai là, chi thường xuyên trong các lĩnh vực chủ yếu sau: Sự nghiệp giáo dục đào tạo, y tế theo sự phân cấp của tỉnh; Sự nghiệp kinh tế, văn hoá thông tin, thể dục thể thao, xã hội và sự nghiệp khác do cấp huyện quản lý; Chi quản lý nhà nước đảng, đoàn thể cấp huyện; Chi quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, xã hội- nghề nghiệp cấp huyện; Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật; Chi bổ sung ngân sách xã, phường, thị trấn. Chu trình quản lý ngân sách cấp huyện Công tác quản lý ngân sách huyện được thể hiện bằng chu trình quản lý thông qua ba khâu: Lập dự toán ngân sách, chấp hành ngân sách và quyết toán ngân sách. Nội dung từng khâu thể hiện như sau: Khâu I: Lập dự toán ngân sách nhà nước cấp huỵên Một chu trình NSNN được bắt đầu khâu lập dự toán NSNN. Đây là quá trình phân tích, đánh giá quan hệ giữa khả năng và nhu cầu các nguồn tài chính của cấp huyện để từ đó xác lập các chỉ tiêu thu, chi dự toán ngân sách hàng năm một cách phù hợp. Lập dự toán ngân sách thực hiện tốt sẽ tạo điều kiện tốt cho việc chấp hành và quyết toán ngân sách huyện. Vấn đề quan trọng hàng đầu của khâu lập dự toán ngân sách là phải tính toán đầy đủ, đúng đắn, có căn cứ các chỉ tiêu thu chi của ngân sách huyện trong kỳ kế hoạch. Trong quá trình lập ngân sách phải quán triệt các nguyên tắc cơ bản trong từng yếu tố như sau: + Với kế hoạch ngân sách phải bám sát kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và có tác động tích cực đối với việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của huyện. + Dự toán ngân sách của huyện phải phản ánh đầy đủ các khoản thu chi theo đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan có thẩm quyền ban hành, kể cả các khoản thu, chi từ nguồn viện trợ và các khoản vay; + Với dự toán ngân sách của huyện phải đảm bảo tính cân đối theo nguyên tắc: Dự toán ngân sách của các năm trong thời kỳ ổn định phải cân bằng giữa thu, chi trên cơ sở các khoản thu, chi đã được quy định; + Với báo cáo dự toán ngân sách phải kèm theo bảng thuyết minh chi tiết các cơ sở, căn cứ tính toán. Để dự toán ngân sách của huyện mang tính hiện thực, khi lập dự toán phải dựa vào những căn cứ sau đây: Thứ nhất, các chỉ tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của nhà nước trong năm kế hoạch; Thứ hai, nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng của huyện trong năm và những năm tiếp theo; Thứ ba, các luật, pháp lệnh, chế độ thu, tiêu chuẩn định mức chi ngân sách do cấp có thẩm quyền quy định; chính sách, chế độ hiện hành làm cơ sở để lập dự toán thu, chi ngân sách năm. Thứ tư, những quy định về phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, phân cấp quản lý ngân sách cho huyện; Thứ năm, tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu và mức bổ sung từ ngân sách tỉnh, thành phố; Thứ sáu, lập dự toán ngân sách phải căn cứ vào kết quả phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch ngân sách của năm trước, đặc biệt là năm báo cáo; Quá trình lập dự toán ngân sách huyện đựơc tuân thủ theo các bước chuẩn bị và lập dự toán. Về chuẩn bị: Công tác chuẩn bị dự toán ngân sách hàng năm được tiến hành vào cuối quý II và đầu quý III năm báo cáo. Về quá trình lập dự toán ngân sách: phòng tài chính xem xét dự toán ngân sách của các đơn vị thuộc huyện gồm: Dự toán thu do chi cục thuế lập; Dự toán thu, chi ngân sách của các phường, xã; Dự toán thu NSNN trên địa bàn huyện. Dự toán thu, chi ngân sách huyện bao gồm dự toán thu, chi của tất cả các phường, xã và dự toán ngân sách cấp huyện. Dự toán các khoản kinh phí uỷ quyền ( nếu có) trình UBND huyện để báo cáo thường trực HĐND huyện xem xét, báo cáo UBND tỉnh, đồng thời gửi sở tài chính, sở kế hoạch - đầu tư, cơ quan quản lý chương trình quốc gia của thành phố ( phần dự toán chương trình mục tiêu quốc gia) Sau khi các huyện nhận được quyết định giao dự toán thu, chi ngân sách trên địa bàn từ UBND tỉnh, phòng tài chính có trách nhiệm tham mưu và giúp UBND huyện, trình HĐND nghị quyết dự toán thu, chi ngân sách, phương án phân bổ ngân sách cho các đơn vị dự toán và các cấp xã phường. Đây là dự toán chính thức để phân bổ cho các đơn vị thụ hưởng ngân sách trên địa bàn huyện. UBND huyện có trách nhiệm báo cáo UBND tỉnh, sở tài chính dự toán thu, chi ngân sách huyện và kết quả phân bổ dự toán ngân sách huyện đã được HĐND huyện quyết nghị. Khâu II Chấp hành ngân sách huyện Chấp hành ngân sách là một trong ba khâu của chu trình ngân sách: đó là quá trình sử dụng tổng hợp các biện pháp kinh tế - tài chính và hành chính nhằm biến các chỉ tiêu thu, chi ghi trong kế hoạch ngân sách năm của huyện trở thành hiện thực. Sau khi ngân sách được phê chuẩn, năm ngân sách bắt đầu thì việc thực hiện ngân sách huyện cũng được triển khai. + Đối với vấn đề thu: mục đích chấp hành dự toán thu là không ngừng bồi dưỡng phát triển nguồn thu, tìm mọi bịên pháp động viên, khai thác nguồn thu sao cho đạt và vượt tỷ lệ đã được HĐND huyện phê chuẩn. Trên cơ sở nhiệm vụ thu cả năm được giao và nguồn thu dự kiến phát sinh trong quý, cơ quan thu lập dự toán thu ngân sách quý có chia ra từng khu vực kinh tế, địa bàn và đối tượng thu chủ yếu và hình thức thu( Thu trực tiếp tại kho bạc nhà nước, thu qua chi cục thuế) gửi phòng tài chính. Chi cục thuế lập dự toán thu thuế, phí- lệ phí và các khoản thu thuộc phạm vi quản lý. Phòng tài chính và các cơ quan khác được uỷ quyền lập dự toán thu các khoản thu còn lại. + Đối với vấn đề chi: Mục đích chấp hành dự toán chi là đảm bảo đầy đủ, kịp thời nguồn kinh phí của ngân sách cho hoạt động của bộ máy nhà nước và thực hiện các chương trình kinh tế, xã hội đã được hoạch định trong năm kế hoạch. Trên cơ sở dự toán chi cả năm được duyệt và nhiệm vụ phải chi trong quý, các đơn vị sử dụng ngân sách lập dự toán chi quý( có chia ra tháng),chi tiết theo các mục chi của mục lục NSNN gửi phòng tài chính trước ngày 10 của tháng cuối quý trước. Phòng tài chính căn cứ vào nguồn thu và nhiệm vụ chi trong quý lập dự toán điều hành ngân sách quý, báo cáo UBND huyện.Căn cứ vào dự toán chi NSNN năm được giao và dự toán ngân sách, căn cứ vào yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chi, phòng tài chính tiến hành phân bổ dự toán theo nguyên tắc phân bổ trực tiếp đến các đơn vị sử dụng ngân sách và thanh toán trực tiếp từ kho bạc nhà nước cho người hưởng lương, người cung cấp hàng hoá, dịch vụ và người nhận thầu. Để đạt được các mục tiêu trên, việc chấp hành dự toán chi ngân sách huyện thực hiện theo nguyên tắc sau: Thứ nhất: Thực hiện phân bổ dự toán trên cơ sở các định mức tiêu chuẩn; Thứ hai: Đảm bảo phân bổ dự toán theo đúng kế hoạch được duyệt. Cần quy định rõ chế độ lập, duyệt kế hoạch cấp phát sao cho đơn giản, khoa học, dễ thực hiện, dễ kiểm tra nhưng đúng chính sách, chế độ; Thứ ba: Triệt để thực hiện nguyên tắc thanh toán chi trả trực tiếp qua kho bạc nhà nứơc nhằm nâng cao hiệu quả của các khoản chi; Thứ tư: Thường xuyên đổi mới phương thức cấp phát vốn của NSNN theo hướng nhanh gọn, ít đầu mối, dễ kiểm tra. Trong quá trình chấp hành ngân sách, cần thường xuyên kiểm soát thu, chi NSNN: Công tác kiểm soát thu, chi NSNN là một trong những nội dung quan trọng trong việc chấp hành ngân sách. Đây là trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành, các đơn vị, trong đó đặc biệt là cơ quan thanh tra tài chính, cơ quan thu ngân sách, kho bạc nhà nước. Chỉ có phòng tài chính, chi cục thuế và các cơ quan khác được uỷ quyền giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách( gọi là cơ quan thu) được tổ chức thu NSNN trên điạ bàn huyện mình quản lý. Việc phân bổ dự toán NSNN được thực hiện theo các bước sau: + Bước 1: Căn cứ dự toán NSNN được giao đơn vị sử dụng lập kế hoạch chi gửi phòng tài chính. + Bước 2: Phòng tài chính xem xét kế hoạch chi của đơn vị và căn cứ vào khả năng ngân sách để bố trí mức chi tài chính hàng tháng, quý, thông báo cho các đơn vị thực hiện. + Bước 3: Căn cứ vào mức chi do phòng tài chính thông báo, thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách ra lệnh chuẩn chi, kho bạc nhà nước kiểm tra tính hợp pháp của các tài liệu theo quy định của pháp luật và thực hiện cấp phát, thanh toán. Khâu III quyết toán ngân sách huyện Quyết toán ngân sách huyện là khâu cuối cùng của một chu trình ngân sách. Đó là việc tổng hợp lại quá trình thực hiện dự toán ngân sách khi năm ngân sách kết thúc nhằm đánh giá toàn bộ kết quả hoạt động của một năm ngân sách từ đó rút ra ưu, nhược điểm và bài học kinh nghiệm cần thiết trong việc điều hành NSNN trong những chu trình ngân sách tiếp theo. Ngoài kết quả quyết toán NSNN, công tác quyết toán còn giúp UBND huyện đánh giá tình hình phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn và có những điều chỉnh phù hợp, kịp thời. Lập báo cáo quyết toán năm cần tôn trọng các nguyên tắc, quy định sau: Một là: Số liệu trong báo cáo quyết toán phải chính xác, trung thực. Nội dung báo cáo quyết toán ngân sách phải theo đúng nội dung ghi trong dự toán được duyệt và phải báo cáo quyết toán chi tiết theo mục lục NSNN( Chương- loại- khoản-nhóm- mục - tiểu mục) Hai là: Báo cáo quyết toán năm của đơn vị dự toán gửi phòng tài chính huyện phải gửi kèm theo đầy đủ các báo cáo theo quy định. Ba là: Trình lập, gửi, xét duyệt báo cáo thu, chi NSNN năm đối với đơn vị dự toán phải đảm bảo đúng tiến độ và nội dung. Theo quy định hiện hành, sau khi thực hiện xong công tác khoá sổ cuối ngày 31tháng 12, số liệu trên sổ kế toán của đơn vị phải đảm bảo cân đối và khớp đúng với số liệu trên cơ quan tài chính và kho bạc nhà nước cả về tổng số và chi tiết, khi đó đơn vị mới tiến hành lập báo cáo quyết toán năm. Lập quyết toán ngân sách thường được thực hiện theo phương pháp lập từ cơ sở, tổng hợp từ dưới lên, phương pháp này cho phép công tác lập quyết toán ngân sách được thực hiện toàn diện, đầy đủ, chính xác, khách quan và phản ánh trung thực tình hình hoạt động thu chi ngân sách cấp huyện. Về xét duyệt quyết toán ngân sách huyện: phòng tài chính có trách nhiệm xét duyệt báo cáo quyết toán năm của các đơn vị trực thuộc ngân sách huyện. Sau đó tổng hợp thành báo cáo thu, chi ngân sách trên địa bàn để gửi HĐND và UBND huyện đồng thời gửi sở tài chính. Trong quá trình lập, phê duyệt, thẩm định quyết toán thu, chi ngân sách phải đảm bảo các yêu cầu sau: - Những khoản thu không đúng quy định của pháp luật phải được hoàn trả tổ chức, cá nhân đã nộp; những khoản phải thu nhưng chưa thu được phải có biện pháp truy thu đầy đủ cho ngân sách. - Những khoản chi không đúng với quy định của pháp luật phải được thu hồi về cho ngân sách. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở HUYỆN TRIỆU PHONG - QUẢNG TRỊ TRONG THỜI GIAN QUA 2.1 Giới thiệu sơ lược về tình hình kinh tế - xã hội huyện Triệu phong 2.1.1 Tình hình kinh tế Tổng giá trị các ngành sản xuất 549.156 triệu đồng tăng 7.8% so với năm 2006. Nông- lâm nghiệp, thuỷ sản tăng 2,2%, công nghiệp- TTCN tăng 21,4%, xây dựng tăng 10,7 %, thương mại-dịch vụ tăng 15%. Tổng giá trị các ngành sản xuất 329.627 triệu đồng, tăng 4.5%, chưa đạt kế hoạch đề ra. + Giá trị sản lượng ngành Nông - lâm nghiệp và thủy sản 280.160 triệu đồng, tăng 2.2% kế hoạch( KH:7-8%) trong đó : Giá trị sản lượng ngành nông nghiệp: 202.673 triệu đồng tăng 0.6% so với năm 2006, đạt 96.2% kế hoạch. Trồng trọt: 124.591 triệu đồng, đạt 97.3% so với năm 2006, đạt 94.4% so với kế hoạch. Chăn nuôi: 70.781 triệu đồng, tăng 7% so với năm 2006, đạt 99,1% so với kế hoạch, chiếm tỷ trọng 34,92% giá trị sản xuất nông nghiệp( năm 2006 chiếm 32,8%) Giá trị sản lượng ngành lâm nghiệp 16.682 triệu đồng, tăng 15, 8% so với năm 2006, đạt 101,6% KH Giá trị sản lượng ngành thủy sản: 60.805 triệu đồng, tăng 4.4% so với năm 2006, đạt 90,8% KH +Giá trị công nghiệp - TTCN: 31.917 triệu đồng, tăng 21,4% đạt 98,7%KH +Giá trị ngành xây dựng: 88.045 triệu đồng, tăng 10,7 % so với năm 2006 +Giá trị ngành thương mại-dịch vụ: 149.034 triệu đồng, tăng 155 so với năm 2006. Trong đó giá trị thương mại - dịch vụ trực tiếp 17.550 triệu đồng, tăng 17% so với năm 2006, đạt 100% kế hoạch Nhìn chung nền kinh tế của huyện có chuyển biến tích cực, ổn định, cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, thương mại - dịch vụ. Lĩnh vực văn hoá, xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện, quốc phòng an ninh được giữ vững. Tuy vậy, một số chỉ tiêu chưa đạt được so với chỉ tiêu Nghị quyết của huyện uỷ, HĐND đề ra. 2.1.1.1 Công nghiệp - TTCN: Giá trị công nghiệp - TTCN năm đạt 2007 đạt 31.917 triệu đồng tăng 21.4% so với năm trước, đạt 98.7%KH. Các sản phẩm chủ yếu như gạch nung tăng 11,6% gỗ xẻ tăng 35% so với năm 2006. Công nghiệp - TTCN, ngành nghề trên địa bàn tiếp tục được duy trì, phát triển. Các ngành sản xuất vật liệu xây dựng, cưa xẻ gỗ phát triển khá nhờ đầu tư mở rộng quy mô, trang thiết bị kỷ thuật thu hút thêm lao động, thu nhập khá. Công tác khuyến công, phát triển ngành nghề truyền thống, du nhập nghề mới được quan tâm. Cơ sở hạ tầng khu công nghiệp làng nghề Thị Trấn Ái Tử đang được triển khai xây dựng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh. Một số dự án tích cực triển khai ở Nam Cửa Việt, Hồ Ái Tử, bãi tắm Triệu Lăng đang thu hút nhiều nhà đầu tư khảo sát và tìm hiểu đầu tư trên địa bàn huyện. Tập đoàn công nghiệp tàu thuỷ Vịêt Nam( Vinashin) đã khảo sát và tiến hành lập dự án xây dựng Nhà máy đóng tàu Cửa Việt tại xã Triệu An, với diện tích khoảng 200 ha. UBND huyện đang kêu gọi, vận động tập đoàn dệt may Hoà Thọ vào đầu tư xây dựng nhà máy tại Thị Trấn Ái Tử. 2.1.1.2 Thương mại - dịch vụ Hoạt động thương mại - dịch vụ có nhiều chuyển biến tích cực, giá trị thương mại - dịch vụ năm 2007 đạt 149.034 triệu đồng tăng 17% so với năm 2006. Cơ sở vật chất, hệ thống chợ nông thôn bước đầu được quan tâm sửa chữa, nâng cấp tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu, trao đổi hàng hoá, góp phần phục vụ tốt hơn về nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân. 2.1.1.3 Giao thông vận tải Dịch vụ vận tải phát triển khá, đáp ứng nhu cầu vận tải trên địa bàn, doanh thu ngành vận tải 4.734 triệu đồng, tăng 3.1% so với năm 2006. Một số tuyến vận tải mới đưa vào khai thác như: Triệu An-Lao Bảo, Triệu Lăng-Lao Bảo đã phục vụ tích cực cho phát triển kinh tế và đi lại của nhân dân vùng sâu vùng xa. Phương tiện vận tải được nâng cấp và trang bị mới đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Hệ thống giao thông được chú trọng đầu tư nâng cấp. Một số công trình hoàn thành đã được đưa vào sử dụng trong năm như: Đường nối từ tỉnh lộ 64 vào thôn Bích La( Triệu Đông); Cầu Triệu Đông, đường vào khu tưởng niệm Tổng Bí Thư Lê Duẫn. Việc đầu tư, sửa chữa, nâng cấp đường liên thôn, liên xã được tập trung thực hiện. Chương trình bê tông hoá giao thông nông thôn đang được tổ chức thực hiện có hiệu quả, góp phần cải thiện bộ mặt nông thôn trên địa bàn huyện. 2.1.1.4 Xây dựng cơ bản: Tổng mức đầu tư xây dựng cơ bản do địa phương quản lý, trong năm 2007, đạt 133.074 triệu đồng, tăng so với năm trước 17%. Nhân dịp chào mừng kỷ niệm 100 năm ngày sinh Tổng bí thư Lê Duẫn đã khánh thành đưa vào sử dụng các công trình Trạm y tế, Trường THCS Triệu Thành, Trường THCS Triệu Long, Đường QL1A vào khu lưu niệm TBT Lê Duẫn, đường 64 vào thôn Bích La, cầu Triệu Đông, cầu Sãi, cầu Rì Rì, điện chiếu sáng quốc lộ 1A đoạn qua thị trấn Ái Tử, góp phần đáp ứng tốt hơn nhu cầu học hành, chăm sóc sức khoẻ và đi lại cho nhân dân trên địa bàn; các chương trình, dự án mục tiêu, chương trình bê tông hoá GTNT, kiên cố hoá: trường lớp học, kênh mương được tiếp tục triển khai thực hiện đảm bảo kế hoạch đề ra. Hiện nay, huyện đang tích cực triển khai công tác GPMB để thi công các công trình: Cầu cửa Việt , cầu Bắc Phước, đường Đại -Độ -Thuận- Phước; phối hợp với các ngành cấp tỉnh khảo sát quy hoạch đường Hùng Vương nối dài; Khu đô thị Nam cầu Vĩnh Phước, cầu Đại Áng- Đại Lộc, đây là những công trình có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của huyện trong những năm đến. Nhìn chung các công trình dự án đầu tư phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Tiến độ xây dựng các công trình tương đối đảm bảo, công tác giải ngân vốn được quan tâm. Thủ tục về xây dựng cơ bản được tiến hành theo đúng quy định về quản lý xây dựng. Công tác thanh tra kiểm tra giám sát cộng đồng và quản lý chất lượng công trình được tăng cường hơn trước. 2.1.1.5 Công tác tài chính- Ngân hàng: Tổng thu ngân sách năm 2007 là 97.625 triệu đồng, vượt 20,4% so với năm 2006, thu trợ cấp cân đối 72.164 triệu đồng; thu kết dư và chuyển nguồn 15.012 triệu đồng. Tổng chi ngân sách 97.625 triệu đồng trong đó chi đầu tư phát triển 15.821 triệu đồng, tăng 41,4% so với năm trước; chi thường xuyên 80.804 triệu đồng, tăng 39,2% so với năm trước; chi dự phòng 1000 triệu đồng. Công tác quản lý tài chính nói chung và công tác thu, chi ngân sách nói riêng có nhiều cố gắng, góp phần chủ động điều hành, quản lý ngân sách. Công tác chi được thực hiện theo hướng tiết kiệm, hiệu quả, chú trọng cho các lĩnh vực phát triển nông nghiệp nông thôn, xoá đói giảm nghèo. 2.1.1.6 Công tác đối ngoại Quản lý nhà nước về hoạt động đối ngoại tiếp tục được chú trọng, mở rộng và đạt được những kết quả thiết thực. Các chương trình dự án, chính phủ, phi chính phủ nước ngoài được thực hiện cơ bản đúng cam kết, góp nguồn lực quan trọng xây dựng cơ sở hạ tầng, góp phần phát triển kinh tế- xã hội huyện, xoá đói giảm nghèo, trong năm 2007 tổ chức tầm nhìn Thế Giới đầu tư trên địa bàn huyên 7.6 tỷ đồng. Năm 2007 Dự án Na uy đã kết thúc đầu tư trên địa bàn, tổng kinh phí dự án đầu tư thực hiện từ trước đến nay là 90 tỷ đồng. Thực hiện sự chỉ đạo của UBND tỉnh, UBND huyện đã tập trung chỉ đạo các ngành chức năng tiến hành thủ tục giao nhận, thanh lý tài sản của dự án, mời kiểm toán đánh giá hiệu quả dự án phát triển nông thôn vùng ven biển của huyện để rút kinh nghiệm tăng cường quản lý khai thác có hiệu quả các công trình sau dự án kết thúc. 2.1.2 Xã hội Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ngày càng được giữ vững. Các thiết chế văn hoá thể thao từ huyện đến cơ sở từng bước được đầu tư, xây dựng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay. Công tác chi trả chế độ chính sách, trợ cấp xã hội cho các đối tượng được thực hiện kịp thời đầy đủ. Phong trào đền ơn đáp nghĩa được đẩy mạnh, trong năm quỹ tình nghĩa đã huy động được 497,3 triệu đồng. Quỹ vì người nghèo 658 triệu đồng. Đã xây dựng và sửa chữa, bàn giao 334 nhà tình nghĩa, tình thương. Tiếp nhận 735 triệu đồng do tổ chức SoDi( Đức) hỗ trợ để xây dựng nhà cho các nạn nhân chất độc màu da cam….. Công tác đảm bảo, tạo điều kiện thuận lợi, an toàn cho các tổ chức phi chính phủ đến thăm, tìm hiểu, đầu tư trên địa bàn được thực hiện tốt. Tóm lại trong những năm gần đây nền kinh tế huyện Triệu Phong tương đối phát triển hơn so với những năm trước đây. Kinh tế phát triển theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ và tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm dần. Cơ sở hạ tầng được tăng cường; thu ngân sách đạt loại khá; bộ mặt nông thôn, thị trấn có nhiều khởi sắc, đời sống nhân dân được nâng lên, nhất là được những kết quả quan trọng trên lĩnh vực xoá đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, tạo nguồn nhân lực, quốc phòng an ninh được giữ vững. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, tình hình kinh tế- xã hội huyện Triệu Phong còn một số tồn tại, hạn chế như: Nền kinh tế huyện vẫn còn chậm phát triển, chưa bền vững, năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, từng ngành, từng sản phẩm còn nhiều hạn chế. Kết cấu hạ tầng còn yếu kém, chất lượng nguồn lực thấp, chuyển dịch lao động còn chậm. Nguyên nhân một phần là do việc tập trung vốn đầu tư cho xây dựng đầu tư cơ bản chưa được quan tâm đúng mức. Hoạt động thương mại dịch vụ phát triển chưa mạnh sức mua còn hạn chế, mạng lưới chợ nông thôn xuống cấp chưa được đầu tư, xây dựng. Một số chủ đầu tư thiếu tích cực trong lập thủ tục đầu tư XDCB, công tác phê duyệt, thẩm định dự án của các ngành chuyên môn còn chậm. Một số dự án triển khai chậm không đảm bảo tiến độ như: nhà thi đấu TDTT, đường nối từ tỉnh lộ 68 đi Triệu Đông. Cơ sở vật chất, trang thiết bị chăm sóc sức khoẻ nhân dân ở cơ sở đầu tư chưa đúng mức. Công tác chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh nhân dân ở tuyến cơ sở còn hạn chế. Cơ sở vật chất trường lớp mặc dù có những tiến bộ nhưng so với yêu cầu nhiệm vụ vẫn chưa đáp ứng cho việc dạy và học theo phương pháp đổi mới. Hệ thống giáo dục mầm non phân tán, cơ sở các khu vực xuống cấp chậm được khắc phục. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và tình hình tội phạm còn tiềm ẩn nhiểu phức tạp, nhất là khiếu nại tố cáo trên lĩnh vực đất đai….. Kết quả như vậy một phần là do công tác quản lý ngân sách nhà nước của huyện Triệu Phong chưa thực sự hiệu quả. 2.2 Thực trạng công tác thu chi ngân sách nhà nước ở huyện Triệu phong trong thời gian qua 2.2.1 Tình hình thu chi ngân sách trong những năm qua: Năm 2007 là năm đầu thực hiện thời kỳ ổn định ngân sách giai đoạn 2007 – 2010 và năm thứ hai thực hiện Nghị quyết Đại hội huyện Đảng bộ lần thứ 17 về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2006 – 2010. Trên cơ sở Quyết định số 85/2006/QĐ – UBND ngày 22/12/2006 của UBND tỉnh Quảng trị và Nghị quyết số 7b/2006/NQ – HĐ ngày 22/12/2006 của Hội đồng nhân dân huyện về dự toán thu chi và phân bổ ngân sách năm 2007. UBND huyện đã tuyệt đối tuân thủ sự chỉ đạo của UBND tỉnh, các ban ngành cấp tỉnh, mặt khác tích cực chỉ đạo các cơ quan, ban ngành của huyện, các xã, thị trấn, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch thu chi ngân sách đã đề ra. 2.2.1.1Về thu ngân sách: Tổng thu ngân sách năm 2007 là 97.625 triệu đồng đạt 146,8% KH, trong đó thu trên địa bàn 10.449 triệu đồng đạt 114,5% KH, thu trợ cấp 72.164 triệu đồng đạt 125,8% KH. STT NỘI DUNG Dự toán HĐND giao NSNN năm 2007 T. Số Huyện Xã T. Số Huyện Xã TỔNG THU NSNN 66,482 63,954 2,528 97,625 94,825 2,800 A TỔNG THU NS ĐỊA BÀN 9,125 6,597 2,528 10,449 7,921 2,528 1 Thu từ khu vực ngoài QD 2,700 2,327 373 3,785 3,413 372 Thuế VAT và TNDN 2,460 2,232 228 3,535 3,309 226 Thuế môn bài 240 95 145 247 101 146 Thuế tiêu thụ đặc biệt 0 2 2 Thu khác ngoài quốc doanh 0 1 1 2 Lệ phí trước bạ 700 676 24 871 784 87 3 Thuế sử dụng dất NN 120 120 122 122 4 Thuế nhà đất 290 87 203 260 78 182 5 Phí và lệ phí 1,030 57 973 861 22 39 6 Thuế chuyển quyền SDĐ 50 15 35 58 17 41 7 Thu tiền sử dụng đất 3,300 3,300 3,450 3,450 8 Tiền thuê đất 85 85 117 117 9 Thu từ quỹ đất 5% và HLCS 800 800 800 800 10 Thu khác 50 50 125 40 5 B THU KẾT DƯ 5,015 4,743 272 C THU CHUYỂN NGUỒN 9,997 9,997 D THU TRỢ CẤP 57,357 57,357 0 72,164 72,164 1 Thu trợ cấp cân đối 57,357 57,357 7,357 7,357 2 Thu trợ cấp mục tiêu 14,807 4,807 Nhìn chung thu ngân sách năm 2007 đã hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra. Một số nguồn thu đạt tỷ lệ khá cao như thu từ đấu giá quyền sử dụng đất (138%), lệ phí trước bạ (124,4%), thuế VAT và TNDN (143,7%). Nguyên nhân tăng giảm của một số nội dung thu: - Về đấu giá QSDĐ: Năm 2007, UBND tỉnh giao KH thu tiền đấu giá QSDĐ 2.500 triệu đồng, Nghị quyết HĐND huyện đề ra mức phấn đấu 3.300 triệu đồng. Nguồn thu này chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng thu ngân sách trên địa bàn. UBND huyện đã chỉ đạo Hội đồng đấu giá quyền sử dụng đất của huyện tiến hành đấu giá các lô đất tại Thị Trấn Ái tử, xã Triệu đại, đến nay nguồn thu này đạt 3.450 triệu đồng, so với KH UBND tỉnh giao đạt 138%, so với Nghị quyết HĐND huyện đạt 104,5%. Đây là một cố gắng rất lớn của các ngành, các xã, thị trấn, đặc biệt có sự đóng góp tích cực của Hội đồng đấu giá quyền sử dụng đất huyện. - Thu khu vực ngoài quốc doanh thực hiện 3.785 triệu đồng, đạt 140,2% KH (Thuế GTGT và TNDN 143,7%, thuế môn bài thực hiện 102,9% KH). Nguyên nhân nguồn thu này tăng là có nhiều cố gắng của ngành thuế, tăng cường công tác quản lý, hướng dẫn các DN thực hiện tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước và có biện pháp xử lý nghiêm đối với các trường hợp dây dưa, vi phạm việc nộp thuế theo Luật quản lý thuế quy định. Mặt khác là các DN đã biết chủ động khai thác nguồn hàng, mở rộng sản xuất kinh doanh nên số thu năm 2007 tăng đáng kể so với năm 2006. - Tiền thuê đất thực hiện 117 triệu đồng, đạt 137,6% KH. Nguồn thu này tăng cao là nhờ điều chỉnh hệ số lần tính và nhờ có sự rà soát kỹ lưỡng của cơ quan Thuế đối với các hộ thuê đất phát sinh trong năm đưa vào quản lý. - Lệ phí trước bạ thực hiện 871 triệu đồng, đạt 124,4% KH, đây là nguồn thu không cố định và phụ thuộc vào tình hình phát triển kinh tế của huyện, trong năm việc đấu giá QSDĐ tương đối thuận lợi, điều kiện đời sống nhân dân huyện nhà tăng lên đáng kể do đó nguồn thu này cũng tăng theo tỷ lệ. - Thu trợ cấp 72.164 triệu đồng đạt 125,8% KH (trong đó thu trợ cấp cân đối đạt 100%, thu trợ cấp mục tiêu 14.807 triệu đồng). Thu trợ cấp đạt cao là nhờ vào nguồn thu trợ cấp mục tiêu bổ sung trong năm, trong đó bao gồm: +Thu bổ sung kinh phí bầu cử Quốc hội: 279 triệu đồng +Thu bổ sung kinh phí kỷ niệm 100 năm ngày sinh Tổng Bí Thư Lê Duẩn và 35 năm giải phóng quê hương Triệu phong: 250 triệu đồng +Thu bổ sung khắc phục thiên tai: 1.150 triệu đồng +Thu bổ sung tiêu huỷ dịch LMLM: 31 triệu đồng +Thu bổ sung diễn tập khu vực phòng thủ: 80 triệu đồng +Thu bổ sung tiền lương mới 9.224 triệu đồng +Thu bổ sung BTHGTNT: 1.600 triệu đồng +Thu bổ sung KCHKM: 800 triệu đồng +Thu bổ sung các khoản phụ cấp cán bộ xã: 847 triệu đồng +Thu bổ sung kinh phí cải cách hành chính và Ban chỉ đạo 120: 22 triệu đồng +Thu bổ sung kinh phí giám sát đầu tư cộng đồng: 24 triệu đồng +Thu bổ sung kinh phí xây dựng trụ sở UBND xã Triệu Lăng: 500 triệu đồng. -Thu chuyển nguồn và thu kết dư từ năm 2006 chuyển qua năm 2007 thực hiện: 15.012 triệu đồng. Bên cạnh các khoản thu đạt và vượt kế hoạch, vẫn còn một số khoản thu như Thuế nhà đất thực hiện 260 /290 triệu đồng, đạt 89,7% KH; phí lệ phí thực hiện 861/1030 triệu đồng, đạt 83,6% KH, So với cùng kỳ năm trước giảm 21%; đây là hai nguồn thu chủ yếu phân cấp, cân đối cho các xã, thị trấn nhưng các địa phương chưa thực sự quan tâm đúng mức nên tỷ lệ đạt thấp. 2.2.1.2 Chi ngân sách: 2/Chi ngân sách Nội dung Dự toán năm 2007 TH năm 2007 Tổng chi NS huyện 66.482 97.625 A/ Chi cân đối NSĐP 65.482 96.625 I/ Chi đầu tư phát triển 7.430 15.821 II/ Chi thường xuyên 58.052 80.804 1/ Sự nghiệp kinh tế 2.192 6.106 -SN nông nghiệp, thuỷ lợi, TS 587 1.417 - SN giao thông 145 145 -Kiến thiết thị chính 130 130 - Phòng chống bảo lụt 100 100 - Khắc phục thiên tai 2.984 - SN khoa học công nghệ và MT 255 255 - Sự nghiệp khác 975 1.075 2/ Sự nghiệp giáo dục và đào tạo 35.300 45.247 - Sự nghiệp giáo dục 34.900 44.847 - Sự nghiệp đào tạo, dạy nghề 400 400 3/ Sự nghiệp y tế 1.564 2.092 4/ Sự nghiệp VHTT 150 150 5/ Sự nghiệp phát thanh 50 50 6/ Sự nghiệp TDTT 100 103 7/ Chi đảm bảo xã hội 989 989 8/ Chi quản lý hành chính 5.592 6.979 -QLNN 3.440 4.482 - Đảng 1.070 1.271 - Đoàn thể 1.053 1.197 - Hỗ trợ các hội 29 29 9/ An ninh - Quốc phòng 410 490 - An ninh 130 130 - Quốc phòng 280 360 10/ Chi ngân sách xã 11.241 14.097 Trong đó: chi chuyển giao 8.713 11.297 11/ Chi khác, các ngày lễ lớn 464 714 12/ Chi bầu cử quốc hội 279 13/ Chi cải cách tiền lương 2.913 14/ Chi từ nguồn vượt thu năm 2007 587 15/ Hỗ trợ các đơn vị 8 B/ Dự phòng 1.000 1.000 Bảng 2 Tổng chi ngân sách năm 2007 đạt 97.625 triệu đồng, xấp xĩ 146,8% KH. Trong đó chi đầu tư phát triển 15.821 triệu đồng, đạt 212,9% KH; chi thường xuyên 80.804 triệu đồng, đạt 139,2% KH; chi dự phòng đạt 100% KH. Nhìn chung tình hình chi ngân sách đảm bảo theo kế hoạch đề ra. Nhiều nhu cầu phát sinh ngoài kế hoạch đã được giải quyết, tích cực góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế xã hội trong năm. Hầu hết các khoản chi đều tăng so với dự toán mà Nghị quyết HĐND huyện giao. Chi ngân sách tăng cao một mặt để tương ứng với trợ cấp có mục tiêu tỉnh bổ sung trong năm, mặt khác để thực hiện thu chuyển nguồn và kết dư năm 2006 chuyển qua. Tổng số tiền được tỉnh trợ cấp có mục tiêu và từ thu chuyển nguồn, thu kết dư trong năm 2007 là 29.514 triệu đồng. Một số nội dung chi tăng cơ bản: -Chi đầu tư phát triển: 15.821 triệu đồng, đạt 212,9 % KH. Việc chi đầu tư phát triển tăng cao là nhờ ngân sách tỉnh bổ sung 2.100 triệu đồng (gồm vốn BTHGTNT: 1.600 triệu đồng, vốn xây dựng trụ sở xã T. Lăng: 500 triệu đồng), thu kết dư và thu chuyển nguồn năm 2006 chuyển sang 6.141 triệu đồng chủ yếu vốn hỗ trợ của thành phố HCM, tiền sử dụng đất, các công trình tạm ứng nhưng chưa có khối lượng thanh toán. -Chi sự nghiệp kinh tế: 6.106 triệu đồng, đạt 278,6 % KH. Chi sự nghiệp kinh tế cao chủ yếu tăng nguồn chi khắc phục thiên tai do ngân sách tỉnh bổ sung với số tiền 1.150 triệu đồng, trong năm 2006 chi khắc phục thiên tai tỉnh bổ sung sử dụng không hết chuyển năm 2007 thực hiện 1.834 triệu đồng, vốn trả nợ KCHKM và xây dựng mới 800 triệu đồng. -Chi sự nghiệp giáo dục và SN y tế năm nay thực hiện cao chủ yếu là tăng lương, phụ cấp và các khoản đóng góp theo Nghị định 93, 94 của Chính phủ. -Chi quản lý hành chính 6.979 triệu đồng, đạt 124,8 % KH tăng chủ yếu là chi tiền lương 1.077 triệu đồng, số còn lại là các nhiệm vụ phát sinh ngoài kế hoạch được chi từ nguồn kết dư ngân sách. -Chi an ninh quốc phòng thực hiện 490 triệu đồng, đạt 119,5 % KH tăng so với dự toán giao 80 triệu đồng là do ngân sách tỉnh bổ sung kinh phí diễn tập khu vực phòng thủ -Chi ngân sách xã: 14.907 triệu đồng, đạt 125,4 % KH tăng chủ yếu là bổ sung tiền lương, các khoản phụ cấp theo chế độ quy định. Ngoài các nhiệm vụ chi đã nói ở trên, do năm 2007 huyện tiến hành tổ chức nhiều ngày lễ kỷ niệm lớn như kỷ niệm 100 năm ngày sinh Tổng Bí Thư Lê Duẩn, kỷ niệm 35 năm giải phóng quê hương, 60 năm ngày Thương binh Liệt sỹ và diển tập khu vực phòng thủ đã làm tăng dự toán ghi đầu năm KH: +Dịp Lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh Tổng Bí Thư Lê Duẩn, kỷ niệm 35 năm giải phóng quê hương, ngân sách tỉnh bố trí kế hoạch từ đầu năm 130 triệu đồng và trong năm bổ sung cho huyện 250 triệu đồng; UBND huyện đã chỉ đạo điều chỉnh nguồn vốn sự nghiệp NN, trích chi khác ngân sách, dự phòng với số tiền 482 triệu đồng để bổ sung chi cho lễ. Như vậy tổng số kinh phí thực hiện chi cho các ngày lễ lớn là 862 triệu đồng, trong đó chi mang tính chất đầu tư, sửa chữa các công trình 217 triệu đồng. +Lễ kỷ niệm 60 năm ngày Thương binh Liệt sỹ và diển tập khu vực phòng thủ ngân sách huyện đã trích dự phòng thực hiện 471 triệu đồng. Số chi ngân sách dự phòng ngoài việc trích để bổ sung cho các nhiệm vụ nói trên, số còn lại đã được chi bổ sung các hoạt động phát sinh ngoài kế hoạch không ghi đầu năm cho các đơn vị, các xã thị trấn. Thực trạng và đánh giá công tác quản lý thu chi ở huyện triệu phong trong thời gian qua Trong những năm gần đy công tác quản lý thu chi ở huyện Triệu Phong được tổ chức như sau: HĐND huyện Triệu Phong đã thực hiện vịêc quyết định giao dự toán NSNN, kiểm tra, giám sát quá trình chấp hành NSNN và phê chuẩn quyết toán NSNN. Y UBND huyện Triệu Phong thực hiện tương đối đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình: UBND đã thực hiện lập dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách của mình theo các chỉ tiêu quy định tại khoản 1 và khoản 2 điều 25 của luật NSNN; dự toán điều chỉnh ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết, trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định và báo cáo cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tài chính cấp trên. Lập quyết toán ngân sách địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp phê chuẩn và báo cáo cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tài chính trực tiếp. Kiểm tra nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới về tài chính – ngân sách. Căn cứ vào nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp, quyết định giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho từng cơ quan, đơn vị trực thuộc; nhiệm vụ thu, chi mức bổ sung cho ngân sách cấp dưới và tỷ lệ phần trăm phân chia giữa các cấp ngân sách ở địa phương đối với các khoản thu phân chia; quy định nguyên tắc bố trí và chỉ đạo thực hiện dự toán ngân sách đối với một số lĩnh vực chi được Hội đồng nhân dân quyết định theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 25 luật NSNN. Y Phòng tài chính huyện Triệu Phong : Thực hiện đầy đủ chức năng là cơ quan tham mưu cho UBND huyện về chuyên môn. Y Kho bạc nhà nước: Trong thời gian qua kho bạc nhà nước huyện Triệu Phong đã thực hiện tốt nhiệm vụ thanh toán , quản lý NSNN và các quỹ tài chính khác. Y Chi cục Thuế huyện đã thực hiện quản lý các khoản thu nội địa , bao gồm phí, lệ phí, thuế, và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. Chi cục thuế đã làm tốt các công việc của mình như: Lập dự toán thu thuế năm 2007, hướng dẫn nghiệp vụ về kê khai, tính thuế, phát hành thông báo thuế cho các đơn vị. Tuyên truyền giáo dục, vận động thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ nộp thuế theo quy định. Đề nghị, quyết định theo thẩm quyền việc miễn,giảm, hoàn thuế, trưng thu thuế, quyết toán thuế và chấp hành luật thuế đối với các tổ chức, cá nhân nộp thuế, tổ chức cá nhân quản lý thu thuế, giải quyết khiếu nại tố cáo về thuế. Quản lý hồ sơ, tài liệu, ấn chỉ thuế, lưu giữ các tài liệu liên quan đến công tác thu thuế của các đối tượng nộp thuế. Về phân cấp quản lý ngân sách: Việc phân cấp quản lý ngân sách huyện do tỉnh Quảng trị quy định theo Luật NSNN đã tạo điều kiện thuận lợi cho ngân sách huyện có những biện pháp tăng trưởng và tập trung nguồn thu cho ngân sách huyện. Về điều hành ngân sách: Huyện đã triển khai chỉ đạo chấp hành tốt luật NSNN từ khâu lập; giao dự toán; chấp hành dự toán; kế toán và quyết toán ngân sách. Việc chấp hành luật NSNN và các chế độ tài chính hiện hành đã từng bước đi vào nề nếp, chất lượng ngày càng tăng, cụ thể: Lập và giao dự toán ngân sách huyện: Trên cơ sở dự toán thu, chi được UBND tỉnh quyết định giao, phòng tài chính huyện Triệu Phong căn cứ và tham mưu cho UBND huyện Triệu Phong lập phương án xây dựng dự toán trình HĐND huyện quyết nghị với phương hướng phấn đấu tăng thu và tiết kiệm chi. Dự toán HĐND huyện quyết nghị có thêm một số chỉ tiêu phấn đấu tăng thu. Tỷ lệ này tăng ở các xã khác nhau, chủ yếu tăng nguồn thu phát sinh từ : thu tiền sử dụng đất, các khoản phí, lệ phí… Chẳng hạn như ở Thị Trấn Ái tử, xã Triệu đại, nguồn thu này đạt 3.450 triệu đồng, so với KH UBND tỉnh giao đạt 138%, so với Nghị quyết HĐND huyện đạt 104,5%. Đối với việc lập và giao dự toán chi thường xuyên: Căn cứ vào dự toán của UBND tỉnh giao, phòng tài chính rà soát và cân đối lại các lĩnh vực chi cho các đơn vị dự toán thuộc ngân sách huyện như :Y tế, giáo dục, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng…. từ đó tham mưu cho UBND huyện tổng hợp trình HĐND huyện xem xét và nghị quyết giao dự toán trên địa bàn hoàn thành được nhiệm vụ chính trị được giao. Chấp hành dự toán thu ngân sách: Triệu phong là một huỵện có tỷ trọng thu trên địa bàn chiếm dưới 50%NSNN Qua thực tiễn hoạt động cho thấy: địa phương quan tâm chỉ đạo thu đạt và vượt dự toán thu được giao. Nguồn thu hầu hết tập trung đầy đủ và kịp thời vào ngân sách theo quy định. Chẳng hạn như: Năm 2007 tại huyện đã thu 97,625 triệu đồng vượt so với dự toán HĐND huyện giao 66,482 triệu đồng. Chấp hành dự toán chi ngân sách: có thể cụ thể chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên như sau: + Chi đầu tư phát triển: Hầu hết các công trình, dự án xây dựng do ngân sách huyện quản lý có giá trị và quy mô nhỏ vì vậy công tác chấp hành dự toán chi ngân sách đối với lĩnh vực này tại các ban quản lý dự án huyện thực hiện cơ bản đúng quy trình quản lý đầu tư xây dựng cơ bản từ công tác quy hoạch chuẩn bị đầu tư, công tác xây dựng và phân bổ kế hoạch vốn…đến công tác nghiệm thu khối lượng và thanh toán vốn đầu tư. Kho bạc nhà nước huyện Triệu Phong cũng đã kiểm soát và thanh toán vốn đầu tư đối với lĩnh vực này nhanh chóng, kịp thời, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn huyện. + Chi thường xuyên: Về cơ bản huyện đều chấp hành chi ngân sách theo dự toán của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao, việc quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách cấp được thực hiện một cách chặt chẽ, bám sát dự toán và chế độ, định mức chi ngân sách. Huyện ưu tiên chi về sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá xã hội, văn hoá và ổn định chính trị trên địa bàn,….. Tuy đạt được những kết quả như trên , song qua thực tiễn hoạt động cho thấy địa phương vẫn còn những hạn chế, sai phạm sau: Về phân cấp quản lý ngân sách: Trong phân cấp nguồn thu, hiện nay cấp tỉnh chưa mạnh dạn phân chia tối đa nguồn thu cho ngân sách huyện. Một số nguồn thu lớn, chủ lực trên địa bàn huyện tập trung vào ngân sách tỉnh Quảng Trị thí dụ : Công ty cổ phần Minh Trí thuộc huyện Triệu Phong hàng năm phải nộp thuế vào ngân sách tỉnh Quảng Trị. Huyện chủ yếu thu từ khu vực ngoài quốc doanh; phí- lệ phí;thu thuế của các doanh nghiệp tư nhân, thu cấp quyền sử dụng đất nhưng nguồn thu này không mang tính ổn định; một số khoản thu khác và các nguồn thu nhỏ lẻ, phân tán thuộc kinh tế ngoài quốc doanh. Thông qua cơ chế bổ sung từ ngân sách tỉnh để cân đối nhiệm vụ chi của huyện, gần như tái hiện cơ chế “xin- cho” trong quản lý, cấp phát ngân sách, hạn chế tính chủ động trong khai thác nguồn thu và điều hành ngân sách huyện. Một số vấn đề chi cho các vấn đề xã hội như: xoá đói giảm nghèo, phát triển văn hoá, phòng chống tệ nạn xã hội do huyện chủ động còn quá hẹp. Về chế độ quản lý ngân sách, tài chính: + Lập và giao dự toán ngân sách: công tác lập và giao dự toán ở một số xã chưa được quan tâm đúng mức. + Chấp hành dự toán ngân sách Chấp hành dự toán thu ngân sách: Hầu hết các đơn vị quan tâm chỉ đạo thu vượt, đạt dự toán được giao. Nguồn thu cơ bản được huy động vào ngân sách. Tuy nhiên vẫn còn một vài đơn vị còn xảy ra hiện tượng giữ lại nguồn thu nhằm đảm bảo nguồn thu cho ngân sách năm sau. Một số khoản thu phí, lệ phí và thu khác được để lại chi tại các đơn vị dự toán chưa được lập, giao dự toán; việc quản lý sử dụng còn lãng phí, sai mục đích ví dụ: nhiều công trình vừa mới được tu sửa chưa đến một năm lại được cấp kinh phí để xây thêm, tu sửa lại trong năm nay như: Trụ sở UBND huyện Triệu phong, chi cục thuế…còn xảy ra tình trạng thất thu thuế tài nguyên, thuế môn bài. Các đơn vị thuộc huyện còn có tâm lý ỷ lại, trông chờ vào bổ sung của ngân sách cấp trên. Chấp hành dự toán chi ngân sách: Việc cấp phát chi ngân sách được thực hiện theo 2 hình thức là dự toán kinh phí và lệnh chi tiền. Trên thực tế, cấp phát bằng lệnh chi tiền còn chiếm tỷ trọng lớn. Dự toán được giao không sát nên cấp phát còn tình trạng cấp thừa nhóm mục này nhưng lại cấp thiếu nhóm mục khác. Đến cuối năm, có trường hợp phòng tài chính tham mưu cho UBND huyện điều chỉnh nhóm mục này sang nhóm mục khác là không đúng với quy định của luật NSNN. Thí dụ Phòng Tài chính huyện Triệu Phong tham mưu cho UBND huyện Triệu Phong điều chỉnh nhóm mục chi dự phòng cho nhóm mục các ngày lễ lớn. Trong cấp phát ít chú ý đến việc giảm trừ các khoản thu hồi hoặc các khoản còn lại năm trước chuyển sang. Trong tổng chi ngân sách huyện, việc bố trí kinh phí ngân sách cho chi đầu tư phát triển chiếm tỷ trọng nhỏ. Chi đầu tư phát triển ở huyện có nhu cầu lớn nhưng chưa được đáp ứng. Chi ngân sách huyện mới chỉ đáp ứng được chi thường xuyên. Thực tiễn cho thấy hầu hết các khoản chi cơ bản bám sát dự toán được duyệt. Chi quản lý nhà nước, Đảng, Đoàn thể còn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi thường xuyên của ngân sách huyện. Tại các đơn vị sử dụng ngân sách thì tìm mọi cách để chi hết kinh phí được cấp, chạy chi vào cuối niên độ tài chính. Quyết toán ngân sách: Báo cáo quyết toán thu- chi ngân sách được thực hiện thống nhất theo biểu mẫu và các chỉ tiêu quy định. Tuy nhiên thời gian quyết toán ngân sách huyện thường kéo dài do quyết toán ngân sách xã, thị trấn và các đơn vị dự toán nộp chậm, khâu thẩm định quyết toán gặp khó khăn. Chương 3 MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU- CHI Ở HUYỆN TRIỆU PHONG TRONG THỜI GIAN ĐẾN 3.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thu chi NSNN ở huyện triệu phong trong thời gian đến Chịu ảnh hưởng của luật nhân sách nhà nước năm 2002, thông tư của bộ tài chính số 107/2006/TT-BTC ngày 20/11/2006 Quyết toán thực hiện theo thông tư số 59/2003/ TT-BTC ngày 23/6/2003 của bộ tài chính Nghị định số 60/2003/NĐ- CP ngày 06/06/2003 của Chính phủ Quyết định số 139/2003/QĐ- TTg ngày 11/7/2003 của thủ tướng chính phủ Nghị định số 73/2003/NĐ- CP ngày 23/6/2003 của chính phủ ban hành quy chế xem xét quyết định dự toán và phân bổ ngân sách địa phương. Quyết định số 387/2003/NQ – UBTVQH ngày 17/3/2003 của UBTVQH đối với NSTW và NSNN Nghị quyết số 68/2006/QH11 ngày 31/10/2006 của Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ mười về dự toán ngân sách nhà nước năm 2007; Nghị quyết số 69/2006/QH11 ngày 3/11/2006 của Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ mười về phân bổ dự toán ngân sách trung ương năm 2007; Nghị quyết số 1051/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 7/11/2006 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tỷ lệ phân chia các khoản thu phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách từng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Quyết định số 1506/2006/QĐ-TTg ngày 14/11/2006 của Thủ tướng Chính phủ về giao dự toán ngân sách nhà nước năm 2007; Quyết định số 85/2006/QĐ – UBND ngày 22/12/2006 của UBND tỉnh Quảng trị Nghị quyết số 7b/2006/NQ – HĐ ngày 22/12/2006 của Hội đồng nhân dân huyện Triệu Phong về dự toán thu chi và phân bổ ngân sách Công tác quản lý ngân sách có hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như: Đội ngũ cán bộ tham gia quản lý ngân sách nhà nước, cách thức tổ chức quản lý của chính quyền địa phương, ý thức của các tổ chức, cá nhân trên địa bàn…. 3.2 Mục tiêu và phương hướng tăng cường công tác quản lý thu chi NSNN ở huyện TP Mục tiêu năm 2008 đến năm 2010 là huy động các nguồn lực, bảo đảm, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ kinh tế xã hội; quốc phòng an ninh; góp phần thực hiện thắng lợi các Nghị quyết của Huyện uỷ, HĐND huyện đã đề ra. Dự toán thu chi ngân sách nhà nước được xây dựng dựa vào hệ thống tiêu chí và định mức phân bổ ngân sách nhà nước năm 2008. Quán triệt Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật chống tham nhũng; đảm bảo việc xây dựng dự toán ngân sách, bố trí và sử dụng ngân sách thực sự tập trung, chặt chẽ, chống lãng phí nhằm nâng cao chất lượng dự toán và hiệu quả ngân sách. Trên cơ sở những nguyên tắc trên và số liệu giao kế hoạch thu chi của UBND tỉnh Quảng trị, UBND huyện lập dự toán thu, chi ngân sách năm 2008 với những nội dung như sau: 1/Thu ngân sách: STT NỘI DUNG SS % Dự toán năm 2008 T. Số Huyện Xã TỔNG THU NSNN 146,8 82.595 79.897 2.698 A TỔNG THU NS ĐỊA BÀN 114,5 14.473 11.775 2.698 1 Thu từ khu vực ngoài QD 140,2 4.670 4.234 436 Thuế VAT và TNDN 143,7 4.426 4.132 294 Thuế môn bài 102,9 244 102 142 Thuế tiêu thụ đặc biệt Thu khác ngoài quốc doanh - 2 Lệ phí trước bạ 124,4 1.100 1.051 49 3 Thuế sử dụng dất NN 101,7 131 131 4 Thuế nhà đất 89,7 332 99 233 5 Phí và lệ phí 83,6 1.040 40 1.000 6 Thuế chuyển quyền SDĐ 116,0 70 21 49 7 Thu tiền sử dụng đất 104,5 6.200 6.200 8 Tiền thuê đất 137,6 80 80 9 Thu từ quỹ đất 5% và HLCS 100,0 750 750 10 Thu khác 250,0 100 50 50 B THU KẾT DƯ - C THU CHUYỂN NGUỒN D THU TRỢ CẤP 125,8 68.052 68.052 1 Thu trợ cấp cân đối 100,0 68.052 68.052 Bảng 1.1 Tổng thu ngân sách Nhà nước: 82.595 triệu đồng Trong đó thu trên địa bàn: 14.473 triệu đồng (tăng so với dự toán năm 2007: 5.348 triệu đồng). Bao gồm các khoản thu sau: -Ngành thuế thực hiện: 7.423 triệu đồng -Thu từ đấu giá QSD đất: 6.200 đồng -Thu tại xã: 800 triệu đồng -Thu khác ngân sách: 50 triệu đồng -Thu bổ sung ngân sách cấp trên: 68.052 triệu đồng -Thu chuyển nguồn từ năm trước chuyển sang để thực hiện cải cách tiền lương: 70 triệu đồng. Kế hoạch tỉnh giao thu ngân sách năm nay tăng so với năm 2007 trên tất cả các nguồn thu: thu từ khu vực ngoài quốc doanh 4.670 triệu đồng tăng so với dự toán năm 2007: 1.970 triệu đồng; lệ phí trước bạ tăng 400 triệu đồng. Thu từ đấu giá QSD đất kế hoạch tỉnh giao 6.200 triệu đồng tăng so kế hoạch tỉnh giao năm 2007 là 3.700 triệu đồng, so với KH huyện năm 2007 là 2.900 triệu đồng, so với thực hiện năm 2007 là 2.750 triệu đồng. Nguồn thu này không cân đối vào việc chi ngân sách huyện mà thu đạt bao nhiêu thì được chi cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tương ứng, đây là nhiệm vụ quan trọng; các ngành, các xã thị trấn cần rà soát lại quỷ đất, điều chỉnh quy hoạch để thực hiện tốt kế hoạch đề ra. Thu tại xã năm nay được duy trì mức củ như năm 2007 là 800 triệu đồng, trong đó thu từ quỹ đất 5% và HLCS : 750 triệu đồng giảm so với năm 2007 là 50 triệu đồng là do quỹ đất 5 % của các xã giảm để bố trí xây dựng các công trình trên địa bàn, thu khác ngân sách 50 triệu đồng, chỉ tiêu này năm 2007 không ghi thu, do có sự phân cấp quản lý thu tiền phạt vi phạm hành chính do đó bố trí thêm khoản thu vào dự toán năm 2008. 2/Chi ngân sách: Nội dung Dự toán năm 2008 Tổng chi NS huyện 82.595 A/ Chi cân đối NSĐP 80.910 I/ Chi đầu tư phát triển 10.510 II/ Chi thường xuyên 70.400 1/ Sự nghiệp kinh tế 2.126 - Sự nghiệp nông nghiệp, thuỷ lợi, TS 528 - Sự nghiệp giao thông 270 - Kiến thiết thị chính 354 - Phòng chống bảo lụt 100 - Khắc phục thiên tai - SN khoa học công nghệ và MT 365 - Sự nghiệp khác 509 2/ Sự nghiệp giáo dục và đào tạo 43.649 - Sự nghiệp giáo dục 43.161 - Sự nghiệp đào tạo, dạy nghề 488 3/ Sự nghiệp y tế 2.384 4/ Sự nghiệp VHTT 200 5/ Sự nghiệp phát thanh 50 6/ Sự nghiệp TDTT 100 7/ Chi đảm bảo xã hội 1.245 8/ Chi quản lý hành chính 6.364 - Quản lý nhà nước 4.148 - Đảng 1.047 - Đoàn thể 1.124 - Hỗ trợ các hội 45 9/ An ninh - Quốc phòng 410 - An ninh 130 - Quốc phòng 280 10/ Chi ngân sách xã 13.872 Trong đó: chi chuyển giao 11.174 13/ Chi cải cách tiền lương 70 B/ Dự phòng 1.685 Tổng chi ngân sách: 82.595 triệu đồng giảm so với năm 2007: 15.030 triệu đồng chủ yếu là giảm nguồn thu trợ cấp có mục tiêu. Chi đầu tư phát triển dự kiến giao 10.510 triệu đồng trong đó tỉnh phân cấp 4.100 triệu đồng, chi từ nguồn thu đấu giá QSD đất 6.200 triệu đồng, điều SN kinh tế xã: 210 triệu đồng Chi thường xuyên: 71.400 triệu đồng. Trong đó: - Chi sự nghiệp kinh tế: 2.126 triệu đồng (bảng phân tích số liệu kèm theo) - Chi sự nghiệp giáo dục đã bao gồm các khoản chi cho giáo viên mầm non ngoài biên chế theo NQ số 3.5/2004/NQ-HĐ của HĐND tỉnh ( Bao gồm phần tỉnh, huyện, xã). - Chi sự nghiệp đào tạo tăng so với năm 2007 là 88 triệu đồng đây là khoản tiền lương, các khoản đóng góp và hoạt động thường xuyên của trung tâm dạy nghề tổng hợp huyện mới thành lập. - Chi sự nghiệp y tế chỉ tính phần lương, phụ cấp, các khoản đóng góp cho cán bộ trạm y tế xã. - Chi sự nghiệp VHTT, ngoài định mức chi thường xuyên còn có định mức chi hoạt động sự nghiệp 150 triệu đồng và bố trí 50 triệu đồng thực hiện công tác công nhận làng, đơn vị văn hoá, Đài phát thanh truyền hình 50 triệu đồng, TDTT 100 triệu đồng. - Chi đảm bảo xã hội kế hoạch giao: 1.245 triệu đồng bao gồm phân bổ theo đối tượng chính sách; trợ cấp người cao tuổi; trẻ em mồ côi, trẻ bị bỏ rơi, các đối tượng chính sách xã hội theo quy định Nghị định 07/NĐ-CP, kinh phí hoạt động cứu trợ xã hội 150 triệu đồng. Định mức trên đã bao gồm duy tu, sửa chữa nghĩa trang Liệt sĩ, các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, hỗ trợ cộng đồng dân cư khắc phục lũ lụt, thiên tai, phòng cháy, chữa cháy, cứu trợ xã hội với tổng số kinh phí 1.110 triệu số kinh phí này chưa tính việc truy lĩnh theo chế độ của Nghị định số 67/2007/NĐ – CP vì đây là nguồn kinh phí mà ngân sách TW bổ sung như vậy kinh phí còn thiếu chưa bố trí xấp xĩ 3.400 triệu đồng, chi thực hiện đề án làng không sinh con thứ 3: 25 triệu đồng, kinh phí xoá nhà tạm hộ nghèo: 50 triệu đồng, kinh phí xuất khẩu lao động và giải quyết việc làm: 60 triệu đồng. - Chi quản lý hành chính 6.364 triệu đồng thực hiện tiền lương theo NĐ 93,94/NĐ-CP. - Chi an ninh quốc phòng phân bổ theo kế hoạch của tỉnh và huyện có tăng thêm 10 triệu để thực hiện nhiệm vụ của Ban chỉ đạo an toàn làm chủ và xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện. - Chi ngân sách xã sẽ chi theo kế hoạch của tỉnh giao và trong chi hành chính vẫn tiếp tục trích 10% tiết kiệm chi thường xuyên để bổ sung chi cải cách tiền lương. - Chi ngân sách xã 13.872 triệu đồng, được giao như KH tỉnh giao. Mặt khác năm nay chi quản lý hành chính vẫn giữ nguyên định mức như năm 2007. Chi hoạt động cho cấp uỷ, HĐND, UBND,UMMT xã 10 triệu đồng/xã; chi mua sắm trang thiết bị 5 triệu đồng/xã; chi đào tạo lại cán bộ xã 5 triệu đồng/xã; chi họp 2 kỳ họp HĐND 5 triệu đồng/xã; kinh phí của Ban thanh tra nhân dân: 2 triệu đồng/xã; hoạt động ban giám sát đầu tư cộng đồng theo Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT KH&ĐT-UBMTTQVN-TC ngày 04/12/2006 2 triệu đồng/xã, ngoài ra hoạt động của Đảng theo QĐ số 84/QĐ – TW và Thông tư số 225/2005/TTLT BTCQTTW – BTC đều đã được cân đối chi NS xã. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu chi NSNN ở huyện Triệu Phong Để nâng cao chất lượng lập, thẩm định, quyết định và quyết định dự toán, quyết toán ngân sách địa phương, cần tập trung giải quyết tất cả các vướng mắc ở tất cả các khâu trong quy trình lập, thẩm tra, quyết định dự toán, phê chuẩn quyết toán. Bản thân em có những đề xuất sau: Hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý NSNN, xác định rõ mối quan hệ giữa quốc hội và HĐND; giữa HĐND các cấp ở địa phương trong quy trình quản lý NSNN theo nguyên tắc phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm thông qua việc xoá bỏ cơ chế lồng ghép ngân sách. Tỉnh Quảng Trị nên phân cấp mạnh hơn cho chính quyền địa phương huyện trong hoạt động quản lý chi tiêu công cộng. Huyện Triệu Phong là tổ chức đặc biệt thực hiện cung cấp các dịch vụ công phục vụ mọi cơ quan, tổ chức và công dân trong địa phương. Chất lượng dịch vụ công phải do huyện Triệu Phong chịu trách nhiệm. Trong quản lý tài chính ngân sách cần phải tách bạch cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cấp ngân sách, theo hướng quốc hội quyết định dự toán ngân sách phân bổ ngân sách và phê chuẩn quyết toán NSTW. HĐND các cấp quyết định dự toán ngân sách, phân bổ ngân sách và phê chuẩn NSĐP cấp mình. Hiện tại, Quốc hội quyết định dự toán NSNN (bao gồm cả NSĐP) theo lĩnh vực chính phủ giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho địa phương đảm bảo đúng theo các chỉ tiêu do quốc hội quyết định. HĐND cấp tỉnh xem xét quyết định lại các chỉ tiêu đã được quốc hội quyết định. HĐND cấp dưới lại quyết định lại dự toán, phân bổ dự toán cấp trên đã giao. Trong quy trình quyết định quyết toán, HĐND cấp dưới quyết định phê chuẩn quyết toán ngân sách cấp mình lại được tổng hợp trình HĐND cấp trên phê chuẩn lại. HĐND tỉnh, thành phố phê chuẩn quyết toán NSĐP lại được Trung ương tổng hợp Trình Quốc hội phê chuẩn lại lần nữa. Việc phê chuẩn qua nhiều khâu sẽ không chỉ rõ được trách nhiệm thuộc về cấp nào trước tình trạng chi tiêu ngân sách kém hiệu quả. Xây dựng thời gian biểu về xây dựng, thẩm định dự toán và phân bổ ngân sách hợp lý hơn. Với cơ chế lồng ghép ngân sách như hiện nay thời gian biểu xây dựng dự toán cần được bắt đầu từ tháng 4 năm trước, việc quyết định dự toán NSNN của Quốc hội phải được thực hiện trước 1/10 hàng năm mới đảm bảo về thời gian cho việc quyết định ngân sách và phân bổ ngân sách giao cho các đơn vị sử dụng ngân sách trước 31/12 năm trước. Trường hợp bỏ cơ chế lồng ghép, thì thời gian biểu xây dựng dự toán bắt đầu từ tháng 6 như hiện nay là đảm bảo cho các cấp ngân sách thực hiện việc xem xét, thẩm tra và quyết định dự toán, phân bổ dự toán cho đơn vị sử dụng vào trước ngày 31/12 năm trước. Trước mắt, cần tổ chức lại và kéo dài tổng thời gian làm dự toán NSNN; đẩy sớm thời hạn chuẩn bị dự toán lên một vài tháng; bố trí thời gian hợp lý cho các bước, các khâu của quy trình dự toán NSNN. Sở dĩ phải kéo dài thời gian làm dự toán theo hướng đẩy sớm lên mà không kéo dài sang năm sau là vì nhiều lý do, trong đó: + Đảm bảo quỹ thời gian vật chất cần thiết để các Uỷ ban của Quốc hội, Quốc hội và HĐND các cấp có thể nghiên cứu, thẩm định, thảo luận kỹ về dự toán ngân sách. Điều này càng đúng với hệ thống ngân sách lồng ghép nhiều cấp ở Việt Nam. + Không kéo dài sang năm sau là để đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc chấp hành: Dự toán NSNN phải được cơ quan lập pháp phê chuẩn và ban hành trước khi năm ngân sách được bắt đầu. Điều này cũng phù hợp với thông lệ quốc tế. Trong mô hình ngân sách lồng ghép ở nước ta, sau khi dự toán NSNN đã được Quốc hội quyết định, Chính phủ và HĐND cấp tỉnh còn phải giao dự toán cho cán bộ, ngành trung ương và các địa phương cấp dưới. Việc giao dự toán phải kết thúc trước 31/12 hàng năm. Với hệ thống ngân sách nhiều cấp(Trung ương, tỉnh , Huyện, xã) mỗi cấp đều có trách nhiệm và thẩm quyền về ngân sách thuộc phạm vi được quản lý, thì cần thiết phải có khoảng thời gian cần thiết để các cấp HĐND thảo luận, đi đến quyết định các vấn đề của địa phương. Các cấp chính quyền địa phương, cả UBND và HĐND(tỉnh, huyện ,xã) hiện chỉ có 40 ngày (20/11 đến 31/12) để xem xét và cho ý kiến về định mức phân bổ ngân sách và các căn cứ xây dựng dự toán thì quãng thời gian đó là khá ngắn. Trong khi khối lượng công việc thẩm định hệ thống các định mức phân bổ ngân sách và những căn cứ xây dựng dự toán ngân sách cho niên độ mới không phải là ít và có ảnh hưởng rất lớn đến việc xác định tổng mức thu, chi, bội chi ngân sách, cũng như định hướng sử dụng và phân bổ ngân sách. Tíêp theo đó, kể từ khi nhận được dự toán do chính phủ lập, Quốc hội nước ta cũng chỉ có gần 1 tháng(20/10 đến 15/11) để thảo luận, quyết định dự toán NSNN và phương án phân bổ NSTW. Như vậy, cho dù UBTVQH và các cơ quan của Quốc hội có tham gia từ trước vào quy trình dự toán NSNN, thì khoảng thời gian đó cũng là khá ngắn để Quốc hội thảo luận kỹ hoặc điều chỉnh định hướng các vấn đề về dự toán ngân sách. Nếu giữ nguyên mô hình hệ thống NSNN lồng ghép như hiện nay thì nên tổ chức quy trình NSNN theo 2 bước: Bước 1 Quốc hội quyết định các chỉ tiêu tổng hợp về NSNN như: (i) Tổng thu, tổng chi, tổng mức bội chi NSNN,(ii) Giới hạn trần chi tiêu của NSTW;(iii) Tổng giới hạn trần của NSĐP;(iv) Tổng số bổ sung từ NSTW cho NSĐP;(v) Định hướng các quyết sách lớn mà trung ương và địa phương phải triển khai; các ưu tiên chủ yếu phải được tổ chức thực hiện… Bước một được hoàn tất tại kỳ họp đầu năm và được thể hiện bằng một Nghị quyết của Quốc hội. Những chỉ tiêu được quyết định trong bước một là những “số lớn”, mang tính “giới hạn trần”, tạo cơ sở cho các cấp, các ngành bên hành pháp xây dựng dự toán. Đồng thời, góp phần củng cố vị thế giám sát của Quốc hội, bảo đảm sự ổn định của tình hình tài chính của nhà nước. Đồng thời với việc đẩy sớm thời gian bắt đầu làm dự toán, cần thiết phải củng cố tổ chức bộ máy phân tích dự báo, nâng cao trình độ và chất lượng dự báo kinh tế - tài chính nhằm tránh tình trạng phải thay đổi số liệu, hạn chế sự phụ thuộc quá nhiều vào số ước thực hiện năm trước. Bước 2, Quốc hội tập trung thảo luận về các quyết sách, các ưu tiên, các biện pháp lớn, cụ thể, có liên quan đến cả nước; thảo luận chi tiết và quyết định phương án phân bổ NSTW cho các Bộ, ngành. Bước 2 có thể hoàn tất trong kỳ họp cuối năm của Quốc hội; kết quả được thể hiện bằng Nghị Quyết/Luật về dự toán ngân sách hàng năm. Quốc hội cũng có thể quyết định điều chỉnh một số chỉ tiêu đã xác định trong bước 1 nhưng phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và không nên hình thành như một cơ chế định sẵn. Việc xem xét, quyết định ngân sách theo hai bước sẽ tạo ra một khoảng thời gian hợp lý cho cả Quốc hội và các HĐND địa phương chuẩn bị, thảo luận, quyết định và phân bổ dự toán ngân sách của thuộc thẩm quyền, sau khi những chỉ tiêu lớn, những định hướng lớn liên quan đến ngân sách đã được quyết định ở bước thứ nhất. Đồng thời, cũng tạo điều kiện cho việc chuẩn bị tốt hơn các phương án phân bổ NSTW. Việc đề xuất quy trình 2 bước quyết định dự toán và kéo dài thời gian xây dựng dự toán ngân sách nằm trong phạm vi cho phép của pháp luật NSNN hiện hành nên nếu áp dụng thì cũng phải sửa đổi luật, chỉ cần điều chỉnh, hoặc ban hành các văn bản từ cấp nghị quyết của UBTVQH, Nghị định của Chính phủ trở xuống là đủ cơ sở pháp lý. Về lâu dài, cần nghiên cứu thay đổi hoặc giảm nhẹ tính lồng ghép của hệ thống NSNN. Lý do cơ bản là khi tính lồng ghép giữa các cấp ngân sách càng giảm thì một mặt sẽ giảm bớt các nấc thang trung gian, tăng quyền chủ động thực sự của các cấp ngân sách thống nhất trong hệ thống NSNN. Việc chi phối cấp thấp hơn nhằm kiểm soát tình hình, đảm bảo công bằng giữa các vùng lãnh thổ hoặc để thực hiện các mục tiêu chính trị khác, nên được thực hiện qua cơ chế giám sát, cơ chế điều hoà thu, chi hoặc cấp bổ sung ngân sách; không nên kiểm soát qua quy trình ngân sách lồng ghép. Đồng thời, làm như vậy cũng là để tạo ra một khoảng thời gian cần thiết, hợp lý, giảm tính tuần tự, chồng chéo về công việc cho các cấp chính quyền địa phương, mỗi cấp có đủ và đủ chủ động hơn về thời gian để bàn sâu về dự toán và phân bổ NSĐP Dù thiết kế hoàn thiện theo hướng nào thì điều quan trọng là cần tiến tới một quy trình ngân sách được công bố công khai và Dự toán NSNN, sau khi được cơ quan lập pháp phê duyệt, gồm dự toán NSNN, phương án phân bổ NSTW, dự toán NSĐP và phương án phân bổ NSĐP các cấp, cũng được công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đây là một hình thức dân chủ hoá trong quy trình NSNN nói chung và NSĐP nói riêng. Điều đó, vừa đảm bảo được phát huy tinh dân chủ ở cơ sở, vừa góp phần nâng cao trách nhiệm của các bên liên quan đến quyết định phân bổ ngân sách, vừa nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN. Đồng thời, cũng tạo điều kiện cho công chúng có thể hiểu biết và góp ý về ngân sách với cơ quan đại diện cho Nhà nước và nhân dân. 1.3.3 Cải tiến chế độ cung cấp thông tin, các mẫu biểu báo cáo gửi HĐND, qua đó giảm số lượng biểu mẫu không cần thiết, đồng thời bổ sung các căn cứ, cơ sở của các cấp báo cáo ngân sách trình trước HĐND; sớm tiến hành nghiên cứu đưa ra các chỉ tiêu ngân sách thích ứng với cơ chế thị trường, đảm bảo xây dựng dự toán, phân bổ ngân sách và quyết toán ngân sách theo cơ chế”ngân sách theo kết quả đầu ra” từ đó xây dựng biểu mẫu phục vụ cho HĐND, các cơ quan chuyên môn của HĐND thực hiện việc xem xét, thẩm tra các báo cáo ngân sách theo cơ chế này. 1.3.4 Một số biện pháp chủ yếu để thực hiện tốt dự toán thu chi ngân sách năm 2008: 1.3.4.1 Thu ngân sách: - Tiếp tục phân cấp nhiệm vụ thu cho các xã, thị trấn để nâng cao trách nhiệm của các cấp chính quyền trong quản lý nguồn thu phát sinh trên địa bàn. . - Tăng cường các biện pháp tăng thu, chống thất thu ngân sách nhà nước, nâng cao ý thức trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành Luật thuế, tạo sự bình đẳng gia các thành phần kinh tế trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. -Đối với khu vực ngoài quốc doanh; phân loại để có biện pháp quản lý thích hợp. Tăng cường triển khai uỷ nhiệm thu thuế cho xã, thị trấn; thường xuyên tổ chức kiểm tra, chấn chỉnh công tác uỷ nhiệm thu nhằm tháo gở khó khăn, vướng mắc, gắn trách nhiệm của chính quyền xã, thị trấn trong việc chăm lo khai thác và quản lý nguồn thu ngân sách, chống thất thu để đáp ứng nhiệm vụ chi cho cấp xã, thị trấn. -Đối với thu tiền thuê đất, thuê cơ sở hạ tầng: Tiến hành rà soát lại diện tích đã lập bộ quản lý thu, đánh giá tình hình triển khai quản lý tiền cho thuê đất và diện tích thuộc diện nộp tiền thuê đất. 1.3.4.2 Chi ngân sách: Để hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao trong điều kiện khả năng ngân sách có hạn, các ngành, các cấp, đơn vị cần tập trung một số biện pháp trong điều hành chi ngân sách như sau: -Trước hết các ngành, các xã, thị trấn cần quán triệt đầy đủ Luật NSNN, các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước. -Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính nâng cao năng lực quản lý nhà nước; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tiêu cực, tham nhũng trong chi tiêu ngân sách, thường xuyên kiểm tra hướng dẫn đôn đốc, thực hiện chế độ trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan đơn vị không để xảy ra những vi phạm, thất thoát, lãng phí ngân sách. -Các đơn vị dự toán căn cứ vào kế hoạch huyện giao, tự chủ động cân đối trong nguồn được phân bổ và chi tiêu trong định mức chế độ, thực hiện triệt để tinh thần Nghị định 130 và ND 43 của Chính phủ về tự chủ tài chính và biên chế. -Các xã, thị trấn cần rà soát lại các nguồn thu trên địa bàn đồng thời chủ động cân đối ngân sách địa phương mình. Tuyệt đối không để mất cân đối, trong trường hợp có vướng mắc phải làm việc với các ngành liên quan để tháo gở. -Để tập trung thực hiện cải cách tiền lương, các đơn vị, xã, thị trấn chủ động huy động và quản lý các nguồn thu sau: +10% tiết kiệm chi thường xuyên của các đơn vị, xã, thị trấn +40% nguồn thu của các đơn vị sự nghiệp có thu +50% tăng thu ngân sách của các xã, thị trấn. 1.3.5 Tổ chức thời gian kiểm toán ngân sách huyện phù hợp với quy định của luật NSNN. Thời gian kiểm toán chưa phù hợp làm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác kiểm toán cũng như việc cung cấp thông tin kịp thời để hỗ trợ cho HĐND huyện phê chuẩn quyết toán ngân sách. Cụ thể là KTNN phải kịp thời điều chỉnh, bố trí thời gian kiểm toán trước khi HĐND phê chuẩn quyết toán, vì rõ ràng cách thức tổ chức kiểm toán ngân sách như hiện nay hoàn toàn không phù hợp với tiến trình quyết toán ngân sách địa phương mà nếu tiếp tục thực hiện sẽ gặp nhiều vướng mắc về mặt pháp lý. Giải pháp để khắc phục khó khăn nêu trên đó là việc tổ chức kiểm toán ngân sách huyện nên cải tiến theo hướng triển khai song song, đồng loạt tất cả các cuộc kiểm toán và tại mỗi địa phương sẽ tiến hành kiểm toán thành nhiều đợt phù hợp với thời gian quyết toán của từng cấp ngân sách cụ thể: - Đợt 1( từ tháng 4 đến tháng 6): tập trung kiểm toán ngân sách cấp huyện, xã. - Đợt 2( từ tháng 7 đến tháng 9) tập trung kiểm toán các đơn vị dự toán, các ban quản lý dự án và các doanh nghiệp nhà nước trực thuộc tỉnh được chọn mẫu kiểm toán - Đợt 3( từ tháng 10 đến tháng 11) tập trung kiểm toán tại các cơ quan quản lý tổng hợp như: sở tài chính, kho bạc nhà nước, cục thuế,cục hải quan, sở kế hoạch đầu tư; hoàn thành việc lập, xét duyệt báo cáo kiểm toán và thông báo kết quả kiểm toán cho các địa phương được kiểm toán trước 31 tháng 12. Để thực hiện kiểm toán ngân sách địa phương theo hướng này cần thông báo từ đầu năm cho các đơn vị được kiểm toán. Tăng cường tổ chức công tác kiểm soát chất lượng của lãnh đạo đoàn kiểm toán trong kiểm toán ngân sách huyện. Kiểm toán chất lượng kiểm toán được xem là khâu quan trọng không thể thiếu trong quy chế tổ chức và hoạt động của đoàn kiểm toán ngân sách huyện. Trong thực tế công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán của trưởng đoàn kiểm toán đã đem lại một số kết quả góp phần nâng cao chất lượng kiểm toán ngân sách huyện. Tuy nhiên việc kiểm soát chất lượng kiểm toán vẫn chưa được tổ chức thực hiện một cách thường xuyên liên tục để có thể nâng cao hơn nữa chất lượng kiểm toán của các cuộc kiểm toán. Chính vì vậy, việc tăng cường tổ chức công tác kiểm soát chất lượng của trưởng đoàn kiểm toán là một trong những yêu cầu bức bách nhằm góp phần giúp cho trưởng đoàn kiểm toán hoàn thành nhiệm vụ của mình và quan trọng góp phần nâng cao chất lượng kiểm toán. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa Hội đồng nhân dân và kiểm toán nhà nước trong việc thẩm tra, quyết định và giám sát ngân sách huyện. Theo quy định hiện hành, KTNN và HĐND là hai cơ quan nhà nước có chức năng và nhiệm vụ, thẩm quyền riêng nhưng có điểm chung trong việc xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của báo cáo quyết toán ngân sách huyện; xem xét tính tuân thủ pháp luật; tính hiệu quả trong việc sử dụng ngân sách huyện. KTNN là cơ quan chuyên môn có vai trò quan trọng trong việc cung cấp giúp HĐND huyện trong quá trình xem xét, quyết định dự toán, phân bổ và giám sát ngân sách địa phương; phê chuẩn quyết toán ngân sách cấp mình chính xác và trung thực; quyết định sử dụng kinh phí NSNN đúng quy định và phù hợp với yêu cầu phát triển của địa phương. Do vậy cần tăng cường phối hợp giữa Hội đồng nhân dân huyện Triệu Phong và kiểm toán nhà nước Ngoài ra, theo em nên nâng cao chất lượng đội ngũ kiểm toán viên,các cán bộ liên quan trong việc quản lý thu- chi ngân sách. Để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội và dự toán NSNN năm 2008, các cấp chính quyền, các ban ngành, đoàn thể, cơ quan đơn vị trong huyện phải nổ lực phấn đấu với quyết tâm cao. KẾT LUẬN Ngân sách huyện là cấp ngân sách trong hệ thống ngân sách nói chung. Việc tổ chức quản lý, sử dụng lành mạnh và có hiệu quả ngân sách huyện Triệu Phong sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, an ninh chính trị của huyện Triệu Phong. Thực tiễn qua việc khảo sát việc quản lý ngân sách huyện Triệu Phong cho thấy việc quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách của cấp huyện còn nhiều hạn chế cần được khắc phục và chấn chỉnh. Điều đó đòi hỏi công tác quản lý NSNN huyện Triệu Phong cần được quan tâm và tăng cường. Kết quả nghiên cứu của đề tài với những giải pháp đề cập trong luận văn nếu được áp dụng trong thực tiễn trong công tác quản lý thu, chi hy vọng sẽ góp phần cho công tác quản lý thu chi ở huyện Triệu Phong ngày càng được hiệu quả hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbanthaosua.doc
Tài liệu liên quan