Tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh tại Công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà: Lời mở đầu
Sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN thay thế cho nền kinh tế kế hoạch hoá trước đây đã khẳng định một bước tiến vững chắc trong lịch sử nền kinh tế nước ra ,một nền kinh tế mà những tư tưởng chủ quan duy ý chí đã được dẹp bỏ , thay vào đó là sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trên một thị trường cạnh tranh lành mạnh – một sân chơi bình đẳng mà nhà nước tham gia với vai trò của người quản lí vĩ mô. Để đưa nền kinh tế đó được phát triển vững vàng ,từng bước xây dựng xây dựng CNXH ,Đảng ta đã khẳng định : “ Tài chính doanh nghiệp phải làm tốt vai trò giám sát ,kiểm tra có hiệu quả mọi hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm sản xuất được nhiều nhất với chi phí thấp nhất ,tăng năng suất lao động ,nâng cao hiệu quả vốn đầu tư .” Như vậy trong sản xuất kinh doanh vốn là một điều hết sức quan trọng, nó là tiền đề là nền tảng cho hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng để có thể quản lý và sử dụng nó một cách hiệu quả thì không phải bất cứ một doan...
67 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1052 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh tại Công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN thay thế cho nền kinh tế kế hoạch hoá trước đây đã khẳng định một bước tiến vững chắc trong lịch sử nền kinh tế nước ra ,một nền kinh tế mà những tư tưởng chủ quan duy ý chí đã được dẹp bỏ , thay vào đó là sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trên một thị trường cạnh tranh lành mạnh – một sân chơi bình đẳng mà nhà nước tham gia với vai trò của người quản lí vĩ mô. Để đưa nền kinh tế đó được phát triển vững vàng ,từng bước xây dựng xây dựng CNXH ,Đảng ta đã khẳng định : “ Tài chính doanh nghiệp phải làm tốt vai trò giám sát ,kiểm tra có hiệu quả mọi hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm sản xuất được nhiều nhất với chi phí thấp nhất ,tăng năng suất lao động ,nâng cao hiệu quả vốn đầu tư .” Như vậy trong sản xuất kinh doanh vốn là một điều hết sức quan trọng, nó là tiền đề là nền tảng cho hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng để có thể quản lý và sử dụng nó một cách hiệu quả thì không phải bất cứ một doanh nghiệp nào cũng làm được. Xuất phát từ mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước, từ khó khăn trong quản lý và sử dụng vốn của các doanh nghiệp hiện nay mà trong quá trình thực tập tại Công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh tại Công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà ” nhằm đóng góp một số ý kiến giúp cho công ty nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của mình.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Bùi Văn Vần và sự giúp đỡ nhiệt tình của các anh chị phòng kế toán Công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà đã giúp đỡ em trong thời gian thực tập tại công ty.
Nội dung của đề tài bao gồm 3 chương.
Chương I:
Vốn kinh doanh và các phương hướng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của các doanh nghiệp.
Chương II:
Thực trạng về tổ chức nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh ở Công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà
Chương III:
Một số phương hướng, biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh ở Công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà
Chương I
Vốn kinh doanh và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của các doanh nghiệp trong điều kiện nền kinh tế thị trường
1.1 Vốn kinh doanh, nguồn hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp
1.1.1 Vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Đất nước ta đang ngày càng thay da đổi thịt, từ một nền kinh tế tự cung tự cấp, nay đang phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Cùng với những thuận lợi sẵn có về mặt địa lý, tiềm năng , chúng ta còn phải đương đầu vơi những thách thức mới, khó khăn mới. Trong điều kiện đó các mối quan hệ hàng hoá, tiền tệ ngày càng được mở rộng và phát triển, xuất hiện các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau cùng song song tồn tại cạnh tranh lẫn nhau và bình đẳng trước pháp luật. Mục đích mà các doanh nghiệp hướng tới là lợi nhuận thu được tối đa và hiệu quả kinh tế đạt được phải cao nhất. Tuy nhiên để tiến hành bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào thì các doanh nghiệp cần phải có tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình kết hợp các yếu tố đó để tạo ra các sản phẩm lao vụ, dịch vụ. Để có được những yếu tố doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định ban đầu để tiến hành mua sắm tài sản vật tư phục vụ cho quá trình sản xuất. Điều đó cho ta thấy vốn kinh doanh của DN là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản được doanh nghiệp sử dụng hợp lý và có kế hoạch vào hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. Trong thời kỳ bao cấp phần lớn vốn kinh doanh của các doanh nghiệp đều do nhà nước cấp phát hoặc thông qua ngân hàng cho vay với lãi suất rất thấp nên người ta không quan tâm đến tính hàng hoá cũng như những đặc trưng của vốn .Trong nền kinh tế thị trường vốn là yếu tố số một của mọi quá trình sản xuất kinh doanh ,số vốn đó không thể tự nhiên mà có mà doanh nghiệp phải huy động từ nhiều nguồn khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu kinh doanh hiện tại của doanh nghiệp và mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh về sau.
Trong nền KTTT thì VKD có các nét đặc trưng cơ bản sau:
+ Vốn được biểu hiện bằng một lượng giá trị thực của những tài sản được sử dụng để sản xuất ra một lượng giá trị sản phẩm khác ( chỉ những tài sản có giá trị được sử dụng vào sản xuất kinh doanh mới được coi là vốn kinh doanh).
+ Vốn phải được vận động để sinh lời, đạt mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp khi quyết địng đầu tư sử dụng vốn.
sơ đồ sự vận động của vốn sản xuất kinh doanh .
TLSX(TLLĐ+ĐTLĐ)
T-H ......SX---------- H/- --------T/
SLĐ
Trong đó : T/ >T
Quá trình vận động của vốn sản xuất kinh doanh được bắt đầu từ những đồng vốn mà nhà sản xuất bỏ ra để mua các yếu tố đầu vào SX, sau nhiều chu kỳ sản xuất đồng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được biểu hiện dưới nhiều hình thái khác nhau sau cuối cùng của quá trình sản xuất nó lại trở về hình thái tiền tệ ban đầu với giá trị lớn hơn (T/ >T) vì vậy khi một đồng vốn bị ứ đọng (TSCĐ không cần dùng , tiền vàng cất trữ...) thì chỉ là những đồng vốn chết .Mặt khác tiền có vận động nhưng bị thất tán (T/<T) thì đồng vốn cũng không được đảm bảo chu kỳ vận động tiếp theo sẽ bị ảnh hưởng .
+ Vốn phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định mới có thể phát huy tác dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh .Trong quá trình sản xuất kinh doanh với mỗi quy mô khác nhau thì đòi hỏi phải có một lượng vốn tương ứng để nhằm đảm bảo đầu tư mua sắm theo đúng kế hoạch đã đề ra. Nếu ứng với một quy mô nhất định mà doanh nghiệp chỉ có một lượng vốn nhỏ hơn so với quy mô đó thì việc đảm bảo cho đầu tư khó có thể đem lại mục tiêu mong muốn của nhà đầu tư vì với số vốn hạn chế thì nhà đâù tư không thể mua sắm đầy đủ, đồng bộ công nghệ ,tài sản ...để sản xuất làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, đảo lộn từ đó sẽ khó đạt được mục tiêu mong muốn .
+ Vốn có giá trị về mặt thời gian điều này có nghĩa là phải xem xét yếu tố thời gian của đồng vốn . Trong nền KTTT đều phải xem xét giá trị thời gian của đồng vốn do ảnh hưởng sự biến động của giá cả, lạm phát nên sức mua của đồng tiền ở các thời điểm khác nhau cũng khác nhau.
+ Vốn phải gắn với chủ sở hữu và phải được quản lý chặt chẽ . Trong nền KTTT không thể có những đồng vốn vô chủ, ở đâu có những đồng vốn vô chủ thì ở đó sẽ chi tiêu lãng phí ,kém hiệu quả ,chỉ khi nào xác định rõ CSH thì đồng vốn mới được chi tiêu tiết kiệm ,có hiệu quả. Cũng cần phân biệt quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn, tuỳ theo hình thức đầu tư mà người sở hữu vốn có thể đồng nhất với người sử dụng vốn hoặc người sở hữu tách khỏi người sử dụng vốn, song dù trong trường hợp nào người sở hữu vốn vẫn phải được ưu tiên đảm bảo quyền lợi và được tôn trọng quyền sở hữu đồng vốn của mình .Đây là một nguyên tắc huy động và quản lý đồng vốn có hiệu quả .
+ Trong nền KTTT vốn phải được quan niệm là hàng hoá, hàng hoá đặc biệt . những người sẵn vốn có thể đưa đồng vốn đó vào thị trường (cho vay ,gửi ngân hàng...)và thu được một khoản lãi với lãi suất nào đó còn người cần vốn thì đến thị trường để vay và phải trả lãi. Như vậy khác với hàng hoá thông thường ,hàng hoá vốn khi được bán đi sẽ không mất quyền sở hữu mà chỉ mất quyền sử dụng ,người mua được quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định và phải trả cho người sở hữu vốn một khoản tiền đó là lãi suất, việc mua bán vốn được diễn ra trên thị trường tài chính giá mua bán vốn (lãi suất) được tuân theo cung cầu trên thị trường .
1.1.2 Phân loại vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Căn cứ vào vai trò, đặc trưng và đặc điểm chu chuyển giá trị của vốn kinh doanh khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh vốn được chia thành hai bộ phận là VCĐ và VLĐ. Mỗi bộ phận vốn mang các đặc điểm chu chuyển khác nhau và đều có vai trò, vị trí quan trọng đối với quá trình sản xuất kinh doanh của DN.
1.1.2.1 Vốn cố định của doanh nghiệp .
Để hình thành TSCĐ của DN thì DN phải bỏ ra một số vốn nhất định để đầu tư mua sắm, xây dựng và lắp đặt các TSCĐ đó, số vốn tiền tệ ứng trước để đầu tư mua sắm, xây dựng và lắp đặt các TSCĐ của DN được gọi là VCĐ. Vậy VCĐ là khoản vốn đầu tư ứng trước về TSCĐ song đặc điểm vận động của TSCĐ lại quyết định đến đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của VCĐ. Từ ý nghĩa của mối liên hệ đó có thể rút ra những nét đặc thù về sự vận động của VCĐ trong sản xuất kinh doanh một cách khái quát như sau:
+ VCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất . Có đặc điểm này là do TSCĐ tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp và phát huy tác dụng trong nhiều chu kỳ sản xuất .Vì vậy VCĐ là hình thái biểu hiện bằng tiền của TSCĐ cũng tham gia vào các chu kỳ sản xuất tương ứng.
+ Trong mỗi chu kỳ sản xuất giá trị của VCĐ được chuyển dịch dần từng phần khi tham gia vào quá trình sản xuất theo mức độ hao mòn của TSCĐ, giá trị hao mòn của TSCĐ được tính chuyển vào giá trị của sản phẩm theo một chu kỳ sản xuất và hình thành nên quỹ khấu hao TSCĐ của DN.
Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh VCĐ bị tách thành hai phần.
Một phần của VCĐ là giá trị hao mòn đã được chuyển vào giá trị của sản phẩm sản xuất ra dưới hình thái chi phí khấu hao và được tích lại sau khi sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ, phần tích lại đó được dùng vào tái SX giản đơn và mở rộng toàn bộ TSCĐ nhằm duy trì năng lực sản xuất bình thường của doanh nghiệp.
Phần thứ 2 của VCĐ chính là giá trị còn lại của TSCĐ lại giảm dần đi tương ứng với mức suy giảm dần giá trị sử dụng của TSCĐ. Khi quá trình vận động ngược chiều đó kết thúc thì cũng là lúc hết thời gian sử dụng của TSCĐ còn VCĐ thì hoàn thành một vòng luân chuyển, như vậy sau nhiều chu kỳ sản xuất thì VCĐ mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
Trong các doanh nghiệp nói chung VCĐ là một bộ phận quan trọng của vốn sản xuất kinh doanh, nhất là đối với các DN sản xuất VCĐ chiếm một tỷ trọng lớn, đặc điểm vận động của nó lại tuân theo tính quy luật riêng nên quy mô VCĐ, trình độ tổ chức quản lý sử dụng VCĐ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng VKD của DN. Do đó các nhà quả lý cần chủ trọng, quan tâm đến bộ phận VKD này.
1.1.2.2 Vốn lưu động của doanh nghiệp.
VLĐ của doanh nghiệp là số vốn bằng tiền được ứng ra để mua sắm TSLĐ sản xuất, tài sản lưu động lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của DN thực hiện được một cách thường xuyên liên tục.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh ngoài tư liệu lao động doanh nghiệp cần phải có đối tượng lao động ĐTLĐ được biểu hiện thành hai bộ phận, một bộ phận là những tài sản vật tư dự trữ để chuẩn bị cho khâu sản xuất được liên tục như NVL,CCDC...một bộ phận khác là vật tư trong quá trình sản xuất chế biến như nửa thành phẩm... Hai bộ phận này phục vụ cho quá trình dự trữ và quá trình sản xuất sẩn phẩm nên được gọi là TSLĐ sản xuất.
Mặt khác trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp luôn gắn với quá trình lưu thông, trong khâu lưu thông luôn hình thành một số khoản hàng hoá,tiền tệ vốn trong thanh toán còn gọi là TSLĐ lưu thông.
Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của TSLĐ do đó đặc điểm của VLĐ luôn chịu sự chi phối bởi đặc điểm của TSLĐ.
+ Vốn lưu động luân chuyển nhanh.
+ Vốn lưu động luôn được chuyển hoá qua nhiều hình thái khác nhau. Khởi đầu vòng tuần hoàn VLĐ từ hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái vật tư dự trữ, khi vật tư được đưa vào sản xuất thì tạo thành các bán thành phẩm và thành phẩm, sau khi sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ thì VLĐ quay về hình thái tiền tệ ban đầu và vòng tuần hoàn cũng kết thúc.
+ Trong quá trình sản xuất khác với TSCĐ, TSLĐ luôn thay đổi hình thái biểu hiện vì vậy giá trị của nó được dịch chuyển toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm.
Căn cứ vào đặc điểm chu chuyển của VLĐ nêu trên các nhà quản lý và sử dụng VLĐ cần phải chú ý.
Một là phải xác định chính xác nhu cầu VLĐ cần thiết tối thiểu cho SXKD của doanh nghiệp tránh tình trạng thiếu hoặc ứ đọng vốn.
Hai là tổ chức khai thác các nguồn tài trợ VLĐ nhằm đảm bảo kịp thời cho sản xuất kinh doanh .
Ba là đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của vốn tức là nâng cao hiệu suất sử dụngVLĐ. Trên thực tế tuỳ thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp mà cơ cấu vốn được bố trí cho phù hợp thường đối với doanh nghiệp sản xuất thì VCĐ chiếm tỷ trọng cao còn doanh nghiệp thương mại thì VCĐ chiếm tỷ trọng lớn ... Tuy nhiên để đạt được hiệu quả cao nhất thì doanh nghiệp cần phải quản lý và sử dụng tốt cả hai bộ phận VCĐ và VLĐ.
1.1.3 Nguồn hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Cùng với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế thị trường thì thị trường vốn cũng hình thành mộpt cách rất phong phú trên thị trường. Vì vậy vốn kinh doanh của doanh nghiệp có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, mỗi nguồn vốn có ưu nhược điểm khác nhau. Do đó để giúp cho doanh nghiệp lựa chọn dễ dàng và hiệu quả các nguồn vốn, người ta phân loại nguồn vốn dựa vào các tiên thức khác nhau, ta đi nghiên cứu một số phân loại chủ yếu:
- Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn:
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp được chia làm hai loại là nguồn vốn dài hạn, nguồn vốn ngắn hạn ( hay nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời )
+ Nguồn vốn dài hạn ( nguồn vốn thường xuyên ) bao gồm: vốn CSH và nguồn vay dài hạn, đây là nguồn vốn có tính chất ổn định, dài hạn mà doanh nghiệp có thể sử dụng lâu dài, nguồn vốn này được sử dụng cho việc đầu tư mua sắm TSCĐ và một bộ phận TSLĐ tối thiểu cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Nguồn vốn ngắn hạn (nguồn vốn tạm thời ) doanh nghiệp sử dụng để đáp ứng các nhu cầu về vốn có thời hạn ngắn và có tính chất bất thường phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nguồn vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn và các khoản vốn chiếm dụng của khách hàng và của nhà nước.
Cách phân loại này giúp các nhà quản lý doanh nghiệp tạo lập và huy động các nguồn vốn phù hợp với thời gian sử dụng, đáp ứng đầy đủ kịp thời vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho doanh nghiệp.
- Căn cứ vào đặc điểm sở hữu:
VKD được chia thành vốn chủ sở hữu và các khoản nợ phải trả .
+ Vốn chủ sở hữu là phần vốn thuộc quền sở hữu của doanh nghiệp bao gồm vốn điều lệ do chủ sở hữu đầu tư, vốn tự bổ xung từ lợi nhuận để lại và từ các quỹ vốn do nhà nước cấp (nếu có). Vốn CSH là phần vốn còn lại trong tổng tài sản của doanh nghiệp sau khi đã trừ đi toàn bộ khoản nợ phải trả.
+ Nợ phải trả là khoản nợ mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải thanh toán cho các tác nhân kinh tế như nợ vay ngân hàng, các khoản nợ phải trả cho người bán...
Giá trị tổng tài sản = vốn chủ sở hữu + nợ phải trả
cách phân loại này tạo khản năng cho các nhà quản lý doanh nghiệp xem xét và quyết định huy động tối ưu các nguồn vốn đảm bảo nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp.
- Căn cứ vào phạm vi nguồn hình thành:
Vốn SXKD của các DN chia thành hai loại nguồn vốn sau:
+ Nguồn vốn bên trong bao gồm : Bao gồm nguồn vốn pháp định và nguồn vốn tự bổ xung. Đây là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động được từ bản thân doanh nghiệp như tiền KHTSCĐ, lợi nhuận để lại, các khoản dự phòng, thu từ thanh lý TSCĐ. Nó có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp, nó có ưu điểm là doanh nghiệp nắm được quyền tự chủ trong việc sử dụng vốn, cho sự phát triển kinh doanh của mình, mặt khác không phải trả chi phí cho việc sử dụng vốn .Tuy nhiên với ưu điểm đó mà doanh nghiệp không sử dụng một cách tốt nhất thì dễ gây ra lãng phí, tuỳ tiên và sử dụng kém hiệu quả.
+ Nguồn vốn bên ngoài :là nguồn vốn hình thành từ bên ngoài DN bao gồm các nguồn sau:
Nguồn vốn tín dụng :là các khoản vay có kỳ hạn mà các ngân hàng và các tổ chức tín dụng cho doanh nghiệp vay và doanh nghiệp phải có nghĩa vụ hoàn trả tiền vay và lãi theo đúng trời hạn quy định .
Nguồn vốn liên doanh liên kết .là nguồn vốn DN có được do liên doanh liên kết, hợp tác với các DN khác .
Nguồn vốn huy động từ thị trường vốn. Thông qua việc phát hành cổ phiếu , trái phiếu, cho phép doanh nghiệp thu hút rộng rãi số tiền nhàn rỗi trong xã hội nhằm phục vụ mục đích huy động vốn dài hạn cho doanh nghiệp.
Huy động vốn bằng các hình thức huy động bên ngoài là biện pháp cần thiết hiện nay mỗi hình thức có ưu nhược điểm riêng, do đó khi tiên hành huy động vốn từ bên ngoài doanh nghiệp phải tính toán làm sao cho việc sử dụng đồng vốn đi vay đạt hiệu quả cao nhất, nhưng chi phí sử dụng đồng vốn đi vay phải thấp nhất. Với việc huy động vốn từ bên ngoài sẽ tạo cho doanh nghiệp có cơ cấu tài chính linh hoạt hơn nhưng nó cũng có những nhược điểm.
Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy rõ được lợi thế đó của mình từ đó chủ động trong công tác huy động vốn vào sản xuất kinh doanh. Trong quá trình sản xuất kinh doanh nhiều khi nhu cầu về vốn của doanh nghiệp rất lớn mà nguồn vốn tự có không đáp ứng được. Vì vậy doanh nghiệp phải năng động trong việc huy động vốn từ bên ngoài. Dù doanh nghiệp khai thác sử dụng nguồn vốn bên trong hay bên ngoài thì cũng cần phải hiểu rõ và phát huy ưu điểm, hạn chế nhược điểm của mỗi loại nguồn vốn để đáp ứng nghiên cứu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một cách tốt nhất đạt hiệu quả sử dụng cao nhất.
1.2 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của các doanh nghiệp trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
1.2.1 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp.
Vốn kinh doanh là điều kiện cơ bản và quan trọng để một doanh nghiệp có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường một doanh nghiệp thiếu vốn thì không thể mở rộng sản xuất kinh doanh, không thể cạnh tranh được do đó sự tồn tại một lượng vốn tiền tệ là một điều không thể thiếu trong kinh doanh, không có vốn sẽ không có bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào.
Trước đây khi đất nước ta còn trong thời kỳ bao cấp, các doanh nghiệp không phải lo lắng gì về vốn kinh doanh, vì mọi thứ đã được nhà nước tính toán lập kế hoạch hộ, thiếu vốn đã có nhà nước lo, nêu kinh doanh thua lỗ đã có nhà nước bù lỗ. Cơ chế đó đã dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp không quan tâm đến hiệu quả của việc khai thác và sử dụng vốn mà tìm mọi cách xin được càng nhiều vốn càng tốt, trong quá trình sử dụng gây thất thoát vốn(tham ô tham nhũng) không bảo toàn vốn, việc thu hút vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh bị xem nhẹ và trở nên thụ động vì khi thiếu vốn lại xin nhà nước cho nên không quan tâm đến các nguồn vốn hay hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh.
Như vậy cơ chế bao cấp đã thủ tiêu tính chủ động của các doanh nghiệp nhà nước trong việc tổ chức bảo đảm vốn cho sản xuất kinh doanh, mặt khác tạo ra sự cân đối giả tạo về nhu cầu vốn trong nền kinh tế. Điều đó giải thích tại sao trong thời kỳ bao cấp lại không cần thiết phải có thị trường vốn. Nhưng khi chuyển sang nên kinh tế thị trường để có thể tồn tại và phát triển buộc các doanh nghiệp phải nắm bắt được nhu cầu thị trường, đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, cải tiến quy trình công nghệ đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm hạ giá thành đạt lợi nhuận tối đa. Để đạt kđược điều đó trước tiên doanh nghiệp phải có vốn, vốn trở thành nhu cầu cấp thiết với tất cả các doanh nghiệp để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh và phát triển nghành nghề mới, khi đã có vốn doanh nghiệp phải quản lý một cách chặt chẽ bảo toàn đồng vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Như vậy việc đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là rrất cần thiết bởi vì.
- Một là: Tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với bất kỳ một quy mô nào cũng cần phải có một lượng vốn nhất định tương ứng với quy mô đó.
- Hai là: Việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong điều kiện tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ phát triển với tốc độ cao, nhu cầu vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng tăng do vậy việc tổ chức huy động vốn cũng trở nên quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp.
- Ba là: Việc huy động vốn đầy đủ kịp thời sẽ chớp được thời cơ trong kinh doanh, tạo lơi thế trong cạnh tranh.
1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá tình hình tổ chức và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp.
Để đánh giá hiệu qủa sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ta cần phải tính toán phân tích các chỉ tiêu tài chính. Việc phân tích đánh giá các chỉ tiêu này giúp cho các nhà quản lý DN thấy được tình hình tài chính và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DN mình, từ đó nhận biết những thành tựu đạt được và những vấn đề còn tồn tại giúp cho nhà quản lý có quyết định đúng đắn trong tương lai.
Vốn sản xuất kinh doanh được phân chia ra làm hai bộ phận đó là VCĐ và VLĐ, mỗi loại vốn có đặc điểm chu chuyển khác nhau và có yêu cầu quản lý khác nhau. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp thông thường người ta sử dụng các chỉ tiêu sau.
1.2.2.1 Chỉ tiêu đặc trưng về kết cấu tài chính cuả doanh nghiệp:
- Hệ số nợ :là chỉ tiêu tài chính phản ánh trong một đồng vốn hiện nay doanh nghiệp đang sử dụng thì có bao nhiêu đồng vay nợ .
Nợ phải trả
Hệ số nợ =
Tổng nguồn vốn
- Tỷ suất tự tài trợ :là một chỉ tiêu tài chính đo lường sự góp vốn của chủ sở hữu trong tổng số vốn hiện có của doanh nghiệp .
Nguồn vốn CSH
Tỷ suất tự tài trợ = = 1 - Hệ số nợ
Tổng nguồn vốn
Tỷ suất tự tài trợ càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp có vốn tự có ngày càng nhiều, có tính độc lập sao với các chủ nợ, do đó không bị ràng buộc hoặc bị sức ép của các khoản nợ vay. Khi hệ số nợ càng cao thì doanh nghiệp lại có lợi vì được sử dụng một lượng tài sản lớn mà chỉ đaàu tư một lượng vốn nhỏ, nhưng khả năng kiểm soát của chủ sở hữu hạn chế.
- Tỷ suất đầu tư vào TSCĐ và đầu tư dài hạn là tỷ lệ giữa TSCĐ ( giá trị còn lại ) với tổng tài sanr của doanh nghiệp.
Giá trị còn lại TSCĐ và đầu tư dài hạn
Tỷ suất đầu tư vào TSCĐ =
Tổng tài sản
Tỷ suất này càng lớn thể hiện mức độ quan trọng của TSCĐ trong tổng số tài sản doanh nghiệp, phản ánh tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, năng lực sản xuất và xu hướng phát triển lâu dài cũng như khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.2.2.2 Hệ số hoạt động kinh doanh.
Số vòng quay hàng tồn kho
Giá vốn hàng bán
Số vòng quay hàng tồn kho =
Hàng tồn kho bình quân
Hệ số này càng cao thì việc kinh doanh được đánh giá càng tốt vì doanh nghiệp chỉ đầu tư với lượng hàng tồn kho thấp nhưng vẫn đạt kđược doanh số cao. Tuy nhiên, trong một số trường hợp vòng quay hàng tồn kho quá cao hoặc quá lthấp đều không tốt cho việc sản xuất kinh kdoanh kcủa doanh nghiệp.
Kỳ thu tiền trung bình
Số dư bình quân các khoản phải thu
Kỳ thu tiền trung bình = x 360
Doanh thu thuần
Phản ánh số ngày cần thiết để thu các khoản phải đồng thời phản ánh hiệu quả của việc quản lý các khoản thu và chính sách tự dụng của doanh nghiệp.
Vòng quay vốn lưu động : Phản ánh trong kỳ VLĐ quay được bao nhiêu vòng.
Doanh thu thuần
Vòng quay vốn lưu động =
VLĐ bình quân trong kỳ
Vòng quay vốn lưu động bình quân = ( Vq1 + Vq2 + Vq3 + Vq4 ) / 4
Vđq1/2 + Vcq1 + Vcq2 + Vcq3 + Vcq4/2
Hoặc VLĐ bình quân =
4
Trong đó: Vq1, Vq2, Vq3, Vq4 là vốn lưu động bình quân các quý 1, 2,3,4
Vđq1: là số dư vốn lưu động đầu quý 1
Vcq1, Vcq2, Vcq3, Vcq4: là số dư vốn lưu động cuối các quý 1,2,3
Vốn lưu động càng lớn kthì số vốn lưu động cần thiết trong quá trình kinh doanh càng ít và doanh nghiệp có thể sử dụng để mở rộng quy mô kinh doanh.
+ Hiệu quả sử dụng vốn cố định: chỉ tiêu này phản ánh một đồng VCĐ có thể tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần.
Doanh thu (DTT)
Hiệu suất sử dụng VCĐ =
VCĐ bình quân trong kỳ
VCĐđk +VCĐck
Trong đó : VCĐ bình quân trong kỳ =
2
+ Vòng quay toàn bộ vốn: Phản ánh trong kỳ vốn sản xuất kinh doanh của DN quay được bao nhiêu vòng.
Doanh thu thuần
Vòng quay toàn bộ vốn =
Vốn kinh doanh bình quân
Vốn kinh doanh bình quân = VLĐ bình quân + VCĐ bình quân
Thể hiện hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, vòng quay càng nhiều thì hiệu quả vốn càng cao.
Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ( đặc biệt là vốn lưu động )tốt hay xấu sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
1.2.2.3 Hế số khả năng thanh toán.
* Hệ số khả năng thanh toán nhanh
TSLĐ - Vốn vật tư hàng hoá
Hệ số khả năng
thanh toán nhanh =
Tổng số nợ ngắn hạn
Hệ số này quá nhỏ thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán công nợ ngắn hạn, vì lúc cần doanh nghiệp có thể phải sử dụng kbiện pháp bất lợi như bán tài sản đang dùng kể cả với giá thấp để trả nợ.
TSLĐ và ĐTNH
Hệ số khả năng
thanh toán hiện thời =
Tổng số nợ ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán tạm thời thể hiện mức độ đảm bảo của TSLĐ với nợ ngắn hạn.
* Hệ số khả năng thanh toán tổng quát
Tổng tài sản
Hệ số khả năng =
thanh toán tổng quát.
Tổng số nợ phải trả
Hệ số khả năng thanh toán tổng quát: là mối quan hệ giữa tổng tài sản mà hiện nay doanh nghiẹp đang quản lý sử dụng với tổng số nợ phải trả.
+ Nếu hệ số nợ này < 1 thì vốn chủ sở hữu bị mất và mất khả năng thanh toán vì tổng tài sản hiện có không đủ để trang trải các khoản nợ phải trả.
1.2.2.4 Chỉ số sinh lời
+ Tỷ suất doanh lợi doanh thu. Phản ánh một đồng doanh thu mà doanh nghiệp thực hiện trong kỳ thì có bao nhiêu đồng lợi nhuận thuần .
Lợi nhuận thuần
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu doanh thu = Doanh thu( thuần )
+ Tỷ suất doanh lợi tổng vốn : Phản ánh một đồng vốn sản xuất bình quân trong kỳ thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận .
Lợi nhuận thuần
Tỷ suất doanh lợi tổng vốn =
Vốn kinh doanh bình quân
+ Tỷ suất lợi nhuận VCĐ. Phản ánh một đồng VCĐ trong kỳ có thể tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế thu nhập
Lợi nhuận trước thuế (hoặc sau thuế thu nhập )
Tỷ suất lợi nhuận VCĐ =
VCĐ bình quân trong kỳ
+ Tỷ suất lợi nhuận VLĐ: Phản ánh một đồng VLĐ trong kỳ có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế (hoặc lợi nhuận sau thuế thu nhập).
Lợi nhuận trước thuế (hoặc sau thuế thu nhập)
Tỷ suất lợi nhuận VLĐ =
Số VLĐ bình quân trong kỳ
1.3 Các biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp .
3.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng VKD của doanh nghiệp
Trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vốn luân chuyển liên tục, không ngừng từ hình thái này sang hình thái khác, tại mỗi thời điểm vốn tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau. Trong quá trình vận động đó vốn chịu tác động của nhiều nhân tố làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp .
3.1.1 Nhân tố khách quan .
+ Cơ chế quản lý và các chính sách của nhà nước. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường mọi doanh nghiệp đều được lựa chọn ngành nghề kinh doanh theo quy định của pháp luật, nhà nước tạo môi trường và hành lang pháp lý cho doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh cho nên chỉ một sự thay đổi nhỏ trong cơ chế quản lý và chính sách của nhà nước cũng ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .
+ Do tác động của nền kinh tế có lạm phát sức mua của đồng tiền bị giảm sút dẫn đến các loại vật tư hàng hoá tăng giá, vì vây nếu doanh nghiệp không điều chỉnh kịp thời giá trị của các loại tài sản đó thì sẽ làm cho vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bị mất dần theo tốc độ trượt giá của đồng tiền .
+ Ngoài ra doanh nghiệp còn gặp phải những rủi ro bất khả kháng từ thiên tai địch hoạ, chiến tranh ... mà doanh nghiệp khó lường trước được.
3.1.2 Nhân tố chủ quan.
+ Do xác định không chính xác nhu cầu vốn dẫn đến tình trạng thừa hoặc thiếu vốn cho SXKD làm ảnh hưởng không tốt đến quá trình hoạt động kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp .
+ Việc lựa chọn phương án đầu tư cũng là mọt nhân tố cơ bản ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng vốn SXKD của DN . Nếu như doanh nghiệp sản xuất ra các sản phẩm lao vụ dịch vụ chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, giá thành hạ được thị trrường chấp nhận thì hiệu quả thu được sẽ rất lớn. Còn nếu sản phẩm hàng hoá doanh nghiệp sản xuất ra kém chất lượng, không phù hợp với nhu cầu của thị hiếu của người tiêu dùng thì dẫn đến sản phẩm sẽ không tiêu thụ được gây ứ đọng vốn, hiệu quả sử dụng vốn thấp.
+ Cơ cấu vốn . Cơ cấu vốn càng hợp lý bao nhiêu thì hiệu quả sử dụng vốn càng tối đa hoá bấy nhiêu . Nếu cơ cấu vốn bị chênh lệch sẽ làm mất cân đối giưa TSLĐ và TSCĐ dẫn đến tình trạng thừa hoặc thiếu một loại tài sản nào đó làm hiệu quả sử dụng vốn giảm.
+ Chi phí sử dụng vốn là nhân tố ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sử dụng vốn của DN.
Vốn của DN được hình thành từ hai nguồn là nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngoài, khi doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn bên trong (tiền khấu hao, lợi nhuận để lại, các quỹ...) doanh nghiệp phải chịu một khoản chi phí đó là chi phí cơ hội. Nguồn vốn bên ngoài là vốn vay ,vốn chiếm dụng ... lựa chọn và tìm được nguồn tài trợ thích hợp là nhân tố trực tiếp quyết định đến hiệu quả sử dụng vốn .
+ Do việc sử dụng lãng phí vốn nhất là VLĐ trong quá trình mua sắm, dự trữ, mua các loại vật tư không phù hợp với quy trình sản xuất, không đúng tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng theo quy định, không tận dụng tốt các loại phế liệu phế phẩm làm tác động không nhỏ đến hiệu quả sử dụng VKD của doanh nghiệp .
+ Do trình độ quản lý của doanh nghiệp còn yếu kém, hoạt động sản xuất kinh doanh thua lỗ kéo dài làm cho vốn bị thâm hụt dần sau mỗi chu kỳ sản xuất làm hiệu quả sử dụng vốn giảm.
Trên đây là các nhân tố chủ yếu có ảnh hưởng ttrực tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp . Các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu cẩn thận, kỹ lưỡng từng nguyên nhân để tìm ra các biện pháp khắc phục(giải pháp) nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
3.2 Các phương hướng,biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng sử dụng VKD của các doanh nghiệp .
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh để tìm được nguồn vốn là rất khó khăn song việc sử dụng nguồn vốn đó như thế nào để có hiệu quả (nghệ thuật sử dụng vốn) lại là một điều khó khăn hơn rất nhiều do đó để tổ chức việc sử dụng VKD một cách tiết kiệm và có hiệu quả thì doanh nghiệp cần:
Doanh nghiệp phải lựa chọn phương án kinh doanh phù hợp, hạ giá thành ,đảm bảo sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ được trên thi trường, không bị lạc hậu “bán cái thị trường cần” chứ không “bán cái mình có” để thu được nhiều lợi nhuận nhất và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Xác định một cách chính xác nhu cầu vốn tối thiểu cho hoạt động sản xuất kinh doanh từ đó lập kế hoạch huy động, sử dụng và bố trí cơ cấu vốn phù hợp để tiết kiệm chi phí nâng cao hiệu quả sử dụng vốn .
Lựa chọn các hình thức thu hút vốn tích cực, tổ chức khai thác triệt để nguồn vốn bên trong doanh nghiệp vừa đáp ứng kịp thời cho nhu cầu sản xuất kinh doanh một cách chủ động vưà giảm được một lượng chi phí sử dụng vốn cho doanh nghiệp, tránh tình trạng vốn tồn tại dưới dạng tài sản không cần dùng ,vật tư hàng hoá kém phẩm chất chiếm tỷ trọng lớn mà doanh nghiệp vẫn phải đi vay với lãi suất cao và phải chịu sự giám sát của chủ nợ làm giảm hiệu quả SXKD.
Trong nền kinh tế có sức cạnh tranh cao, các doanh nghiệp phải tiến hành đánh gía lại tài sản để xác định giá trị của nó cho phù hợp với giá cả thị trường, từ đó tăng giá trị của đồng vốn tương đương với giá trị của hàng hoá đánh giá lại tại thời điểm hiện tại. Nếu doanh nghiệp không đánh giá lại tài sản, vật tư hàng hoá mà bán giá cao hơn so với giá trị sổ sách thì lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ tăng nhưng vốn của doanh nghiệp không tăng tương ứng với giá trị của tài sản tại thời điểm hiện tại. Do đó doanh nghiệp phải ưu tiên giành phần nhiều lợi nhuận sau thuế để bổ sung vào VKD để bảo toàn năng lực vốn.
Đối với VCĐ thì lựa chọn hình thức khâú hao cho phù hợp có nghĩa là mức trích khấu hao trong giá thành sản phẩm phải tương đương với mức độ hao mòn thực tế của tài sản thì mới thu hồi và bảo toàn được vốn đầu tư tài sản. Nếu mức trích khấu hao thấp hơn hao mòn thực tế của tài sản thì doanh nghiệp sẽ “ăn dần vào vốn”. Trong điều kiện khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển doanh nghiệp trích khấu hao nhanh sẽ tránh được hao mòn vô hình của tài sản và thu hồi vốn nhanh ,tuy việc trích khấu hao nhanh cần phải tính đến giá thành sản phẩm, nếu trích khấu hao quá cao sẽ làm cho giá thành sản phẩm lớn hơn giá bán thì doanh nghiệp sẽ lỗ ảnh hưởng đến bảo toàn vốn của doanh nghiệp .
Đối với những tài sản không cần dùng hoặc hư hỏng doanh nghiệp cần phải nhượng bán hoặc thanh lý để thu hồi vốn, chú trọng đổi mới trang thiết bị, công nghệ sản xuất đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản hiện có cả về thời gian và công suất.
Làm tốt công tác quản lý nâng cao trình độ, ý thức của người sử dụng tài sản, thường xuyên đại tu bảo dưỡng sửa chữa để tài sản không bị hư hỏng làm ngưng trệ sản xuất gây thiệt hại cho doanh nghiệp.
Đối với TSLĐ cần phải tính toán nhu cầu vốn trong các khâu dự trữ sản xuất, lưu thông cho phù hợp, tạo một cơ cấu vốn cân đối tránh tình trạng vốn trong
khâu này ứ đọng trong khi các khâu khác lại quá nhỏ, không đủ bảo đảm được tính liên tục của sản xuất.
Đối với các khoản vốn trong thanh toán phải thường xuyên đối chiếu tổng hợp ,phân tích tình hình nợ phải thu, đặc biệt là các khoản nợ quá hạn và khó đòi. Có các biện pháp đôn đốc thu hồi nhanh để có vốn dùng vào sản xuất kinh doanh, tăng nhanh vòng quay của vốn , rút bớt vốn của doanh nghiệp bị doanh nghiệp khác chiếm dụng sẽ giảm bớt số vốn bị ứ đọng , đây là khoản vốn không những không làm tăng hiệu quả sử dụng vốn mà thậm chí còn tăng chi phí lãi vay hoặc đem lại rủi ro mất vốn nếu không thu hồi được . Để có nguồn bù đắp rủi ro mất vốn doanh nghiệp cần phải trích lập dự phòng để phân bổ dần vào chi phí sản xuất nhưng gía trị tài sản có thể bị tổn thất trong các kỳ kinh doanh tiếp theo tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có nguồn vốn để bảo toàn VKD như mua bảo hiểm tài sản, lập dự phòng.
Song song với các biện pháp trên cần tăng cường phát huy vai trò của tài chính trong quản lý sử dụng vốn, phải tăng cường công tác kiểm tra giám sát đối với việc sử dụng vốn trong tất cả các khâu từ mua sắm tài sản vật tư dự trữ ,sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm.
Trên đây là một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng VKD của doanh nghiệp nói chung còn thực tế tuỳ theo đặc điểm của từng ngành nghề mà doanh nghiệp hoạt động , tuỳ theo hình thức cụ thể của doanh nghiệp mà doanh nghiệp áp dụng các biện pháp thích hợp mang lại hiệu quả cao dựa trên các biện pháp đã nêu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng VKD của doanh nghiệp.
Chương II
Thực trạng về tổ chức sử dụngvốn sản xuất kinh doanh ở công ty cổ phầnxây lắp điện nước Hải Hà năm 2002
I. Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà
1.1 Quá trình hình thành và phát triển
Tiền thân của công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà là công ty TNHH xây lắp điện nước Hải Hà thành lập ngày 19 tháng 7 năm 1995 theo quyết định số 1272/ QĐ - UB của UBND tỉnh Vĩnh Phú. đặt trụ sở tại 219 đường Hùng Vương, phường Gia Cẩm - TP Việt Trì với ngành nghề kinh doanh chính là:
+ Xây dựng dân dụng nhà cấp 3 và cấp 4 từ 1 đến 2 tầng
+ Trang trí nội thất công trình
+ Lắp đặt điện nước trong nhà
- Vốn điều lệ: 312.000.000đ
- Thời gian hoạt động 20 năm
Ngày 21 tháng 3 năm 1997 theo quyết định số 341/QĐ - UB của UBND tỉnh Phú Thọ cho phép công ty TNHH xây lắp điện nước Hải Hà - Vĩnh Phú được đổi tên thành công ty TNHH xây lắp điện nước Hải Hà - Phú Thọ và bổ xung ngành nghề kinh doanh:
+ Xây dựng các công trình công nghiệp
+ Dịch vụ vật liệu xây dựng
Trong quá trình phát triển của mình nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và tạo chỗ đứng trên thị trường. Ngày 7 tháng 5 năm 1999 công ty TNHH xây lắp điện nước Hải Hà đã ra nhập là thành viên của liên minh HTX tỉnh Phú Thọ theo quyết định số06/QĐ/HĐ của HĐTƯ liên minh các hợp tác xã Việt Nam.
Ngày 7 tháng 1 năm 2002 Công Ty Cổ Phần Xây Lắp Điện Nước Hải Hà đã được sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Phú Thọ cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh công ty cổ phần, số 1803000023 với tên giao dịch là Công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà . Trụ sở chính số 84 - Đường Hai Bà Trưng - Phường thọ sơn Thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ. Ngoài ra công ty còn có các chi nhánh ở Hà nội ( 119 TháI thịnh - Đống đa - Hà nội), Vĩnh phúc ( số 9 đường Trần Phú - thị xã Vĩnh yên - tỉnh Vĩnh phúc )
1.2 Đặc điểm kinh doanh của công ty
Ngành nghề kinh doanh :
- Xây dựng các công trình dân dụng, giao thông thuỷ lợi, công nghiệp; đường điện trung, hạ thế và lắp đặt biến áp đến 1800 KVA. Chuẩn bị mặt bằng công trình. Trang trí nội, ngoại thất công trình.
- Xây dựng, lắp đặt hệ thống cấp, thoát nước công cộng, đô thị, hệ thống lọc nước tinh khiết, hồ, bể bơi và các công trình sử lý nước thải công nghiệp và dân dụng. Dịch vụ khoan giếng ngầm và làm sạch môi trường. Khoan, thăm dò ,khai thác nước ngầm. Xây dựng và kinh doanh nhà ở chung cư. Dịch vụ vệ sinh môi trường đô thị. Xây dựng các công trình công cộng ( sân vườn, vườn hoa, công viên,…). Lắp đặt hệ thống thu lôi, chống sét. Phòng trừ mối mọt, sâu mọt cho hàng hoá và các công trình xây dựng.
- Xây dựng, lắp đặt, hiệu chỉnh hệ thống đèn chiếu sáng đô thị, đèn tín hiệu giao thông đường bộ, đường thuỷ, đèn báo cháy, hệ thống cứu hoả và thiết bị điện.
- Kinh doanh các loại vật tư, thiết bị hàng thanh lý, tái chế phục vụ sản xuất, sinh hoạt. Kinh doanh vận tải hàng hoá đường bộ, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng. Gia công, sửa chữa, lắp ráp xe cơ giới, xe mô tô các loại, sản xuất, kinh doanh nước khoáng, nước lọc tinh khiết, dịch vụ giáo dục mầm non, kinh doanh dịch vụ bể bơi, vui chơi, giải trí.
- Kinh doanh hoa, cây cảnh các loại, dịch vụ lắp đặt, sửa chữa các thiết bị thông tin liên lạc, bưu chính viễn thông.
- Kinh doanh dịch vụ ăn uống, giải khát;
- Mua bán gỗ, kim khí; sản xuất đồ mộc dân dụng, xây dựng , gia công cơ khí
Trải qua trình xây dựng phấn đấu và trưởng thành công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà đã không ngừng lớn mạnh về mọi mặt, doanh thu và lợi nhuận ngày càng tăng, số nộp ngân sách ngày càng lớn, thu nhập của cán bộ công nhân viên ngày càng được nâng cao. Điều này được thể hiện qua sự đóng góp vào ngân sách Nhà Nước:
- Năm 2000 nộp 67.157.100 đ
- Năm 2001 nộp 51.896.581 đ
Vốn điều lệ của công ty: 11.775.125.000 đồng
1.3 Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà
1.3.1 Về cơ cấu tổ chức
Khi nền kinh tế chuyển từ cơ chế tập chung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, buộc các doanh nghiệp phải nhanh chóng chuyển đổi theo nhằm bắt kịp xu hướng phát triển mới của nền kinh tế để có thể đứng vững và phát triển.
Công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà đã từng bước cải tiến, sắp xếp lại bộ máy quản lý gọn nhẹ, bố trí lại lao động cho phù hợp sao cho đạt được hiệu quả cao nhất trong công việc, công ty đã luôn mở rộng phát triển ngành nghề kinh doanh nhằm tận dụng tối đa khả năng sẵn có của doanh nghiệp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong kinh doanh. Công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà là công ty có trụ sở, con dấu riêng và có tài khoản tại Ngân Hàng Công Thương Phú Thọ .
Công ty có 8 đơn vị và 4 phòng ban tất cả đều chịu sự quản lý điều hành của giám đốc.Giám đốc là người đIều hành hoạt động hàng ngày của công ty và chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị và trước pháp luật.
Giúp việc cho giám đốc là một phó giám đốc phụ trách xây lắp công trình do hội đồng quản trị bầu ra, có chức năng giúp giám đốc về công tác kế hoạch, tiến độ thi công, kế hoạch cung ứng vật tư, tài chính điều hành công ty, thay mặt giám đốc quản lý điều hành khi được giám đốc uỷ quyền..
Các phòng ban chức năng:
- Phòng Tài chính - Kế toán : có trách nhiệm giúp giám đốc chỉ đạo thực hiện toàn bộ công tác hạch toán kế toán và quản lý tình hình tài chính thông qua tình hình hoạt động của công ty theo chế độ kế toán tài chính hiện hành.
- Phòng tổ chức hành chính: giúp việc cho giám đốc trong việc tổ chức lao động, tiền lương, tổ bộ máy quản lý của công ty.
- Phòng kỹ thuật: có nhiệm vụ giúp giám đốc về công tác kỹ thuật thi công của công trình.
- Phòng kinh doanh: tham mưu cho ban giám đốc Công ty về xác định phương hướng sản xuất kinh doanh trong từng thời kỳ và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh toàn Công ty.
Sơ đồ tổ chức của công ty ( Trang bên )
1.3.2 Về lao động
Công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà hiện có 260 CBCNV trong đó số cán bộ quản lý hành chính là 17 người chiếm 6.53%, cán bộ kỹ thuật có 43 người chiếm 16.53%, công nhân kỹ thuật có 200 người chiếm 76.92%. Số lao động có trình độ bằng cấp trong công ty chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số lao động toàn công ty:
+ Trình độ đại học chiếm 14.61% ( 38 người )
+ Trình độ cao học ( Thạc sỹ ) 1 người
+ Công nhân kỹ thuật chiếm 85,38% ( 222 người )
Hiện công ty đang áp dụng luật lao động do nhà nước ban hành. Giám đốc giao cho trưởng các phòng ban đơn vị trực thuộc quản lý số nhân viên đi làm hàng ngày và chấm công lao động, cuối tháng gửi báo cáo về phòng kế toán để có cơ sở xác định ngày công lao động. Trên cơ sở thực tế của từng đơn vị, chi nhánh, thủ trưởng các đơn vị chi nhánh sẽ sắp xếp lao động một cách hợp lý, đúng chuyên môn của từng người nhằm sử dụng hợp lý lao động, tránh tình trạng lãng phí nhân lực. Từ sự phân công cụ thể đó mà người lao động luôn nắm vững được nhiệm vụ và trách nhiệm của mình và hoàn thành tốt công việc được giao. Do có sự phân công và quản lý rõ ràng như vậy nên lãnh đạo của công ty dựa trên cơ sở kết quả công việc hàng ngày để đánh giá kết quả lao động một cách công bằng và chính xác.
Hiện nay thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên trong công ty khoảng 810.000đ/người/tháng. Ta có thể thấy đó chưa phải mức lương thực sự cao so với nhu cầu vật chất hiện nay, nhưng nó đã cho thấy sự nỗ lực cố gắng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo và của cán bộ công nhân viên toàn công ty. Nhưng đó cũng là nguồn thu nhập tương đối ổn định giúp cho người lao động yên tâm công tác và hoàn thành nhiệm vụ được giao.
1.4 Hình thức kế toán áp dụng
Công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà áp dụng hình thức tổ chức kế toán theo kiểu nửa tập trung nửa phân tán và đã trang bị máy vi tính để phục vụ công tác kế toán, giúp giảm bớt rất nhiều lao động tính toán bằng tay trên các sổ kế toán chi tiết, tổng hợp và các báo cáo có liên quan . Cuối kỳ kế toán in ra các loại sổ, báo cáo để đối chiếu với các hoá đơn, chứng từ ban đầu với các phần hành kế toán có liên quan cho khớp đúng và chính xác, đồng thời in báo cáo nộp cấp trên. Công ty áp dụng hình thức sổ nhật ký chung theo phương pháp kê khai thường xuyên.
Trình tự ghi sổ kế toán theo hình thức nhật ký chung tại công ty
1.5 Những thận lợi và khó khăn của công ty
* Thuận lợi
- Công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà là công ty mà ngành nghề kinh doanh chủ yếu là xây dựng cơ bản ( chiếm 90 % ) có lĩnh vực hoạt động kinh doanh rộng, điều đó tạo lợi thế cho công ty trong quá trình kinh doanh. Hơn nữa nền kinh tế nước ta đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ, do đó nhu cầu xây dựng cơ bản phát sinh rất lớn. Ngoài ra công ty có trụ sở tại một thành phố công nghiệp lớn ở Miền Bắc, đang từng bước phát triển, nhiều công trình xây dựng cơ bản như bệnh viện, đường xá, trường học đang được đầu tư phát triển, đó là điều kiện khách quan thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
- Công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà đã có thời gian hoạt động trong nền kinh tế mới: nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước nhờ đó mà công ty đã tích luỹ được những kinh nghiệm thực tế, và nhậy bén trong việc nắm bắt nhu cầu của thị trường từ đó kịp thời có những phương hướng mới để đáp ứng nhu cầu đó.
- Công ty có đội ngũ cán bộ quản lý trẻ, có trình độ và đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề. Cùng với bộ máy lãnh đạo hết sức năng động, sáng tạo trong quản lý kinh doanh tạo nên những động lực thúc đẩy công ty ngày càng phát triển.
* Khó khăn.
- Trong nền kinh tế thị trường luôn tồn tại sự cạnh tranh gay gắt, thì việc đứng vững và mở rộng thị trường là một việc không phải đễ dàng gì. Đối ngành ngề kinh doanh truyền thống là xây dựng cơ bản, công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà phải cạnh tranh với những công ty lớn có tiềm lực lớn về tài chính, uy tín và kinh nghiệm lâu năm trên thị trường như: Tổng công ty xây dựng Sông Hồng,Tổng công ty xây dựng cầu Thăng Long…Đối với mặt hàng mới như nước lọc, nước tinh khiết Hải Hà của công ty phải cạnh tranh với những mặt hàng cùng loại mà khách hàng đã quen dùng như Aquafina, Thạch bích,Lavie…
- Vốn hoạt động kinh doanh của công ty còn hạn hẹp: Vốn chủ sở hữu của công ty chỉ chiếm có 14,3% trong tổng nguồn vốn kinh doanh ( còn 85,7% là nợ ngắn hạn ) việc thiếu vốn đã kéo theo những khó khăn khác : với đặc điểm của ngành xây lắp, sản phẩm có giá trị lớn, thời gian thi công dài, do đó công ty phải tự bỏ tiền ra trang trải các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất, công ty chỉ thu hồi được vốn khi công trình hoàn thành, trong thời gian đó một lượng vốn lớn của công ty bị tồn đọng dẫn đến tình trạng thiếu vốn. Do đó, công ty phải tìm nguồn tài trợ để đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn, điều đó giải thích vì sao nợ phải trả của công ty chiếm 85,7% trong tổng nguồn vốn tại thời điểm cuối năm 2002.
- Tình hình thu hồi công nợ gặp nhiều khó khăn, khoản phải thu của khách hàng luôn lớn cũng do đặc điểm của ngành sản xuất kinh doanh như đã trình bày. Như vốn kinh doanh bị chiếm dụng, thất thoát ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty.
- Do công ty tham gia xây dựng các công trình trải rộng từ Bắc vào Nam cho nên rất khó khăn trong việc quản lý, việc kiểm tra tiến độ xây lắp, kiểm tra chỉ đạo. Đôi khi việc xây lắp gặp khó khăn, phải chờ quyết định của ban lãnh đạo về việc cấp thêm vốn, mua nguyên vật liệu…và những chi phí khác phát sinh do quá trình lthẩm định, kiểm tra của công ty về những đề nghị đó với những công trình ở xa rất mất thời gian, chi phí đi lại tốn kém…
1.6 Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà trong một số năm gần đây
Biểu 01: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh 2 năm 2001, 2001 của công ty
Qua biểu 01 ta thấy doanh thu thời điểm cuối năm 2002 là 10.666.364.135 đồng tăng 1,46% so với năm 2001 cùng thời điểm, lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh năm2002 so với năm 2001 tăng 50.948.786 đồng tương ứng với mức tăng là 25,6%. Trong năm 2002 chi phí quản lý doanh nghiệp của năm 2002 giảm được 178.134.659 đồng so với năm 2001 tương ứng với mức giảm 26,6% đây là một biểu hiện tốt giúp công ty tăng lợi nhuận. Như vậy trong năm 2002 công ty đã có sự cố gắng nỗ lực rất nhiều trong quá trình hoạt động kinh doanh của công ty. Mặc dù trong năm 2002 lợi nhuận sau thuế của công ty đã giảm so với năm 2001 là 87.358.081 đồng tương ứng với tỷ lệ giảm là58,52% nhưng trong năm 2002 hoạt động kinh doanh của công ty vẫn ổn định và làm ăn có lãi, công ty vẫn bảo toàn được vốn. Qua bảng hoạt động kinh doanh của công ty những năm gần đây và trong năm 2002 đều kinh doanh có lãi, đem lại nguồn thu cho ngân sách nhà nước, cải thiện được đời sống cho CBCNV trong công ty.
Có thể nói trong năm 2002 công ty đã có được một số thành tựu đáng lưu ý:
- Trong quá trình sản xuất kinh doanh công ty đã vượt qua khó khăn, phát triển sản xuất và bảo toàn được vốn kinh doanh.
- Công ty thực hiện trích khấu hao theo đúng quy định của nhà nước, công ty luôn tìm cách thu hồi vốn đầu tư và trả nợ đúng hạn cho người cho vay, nhằm làm tăng uy tín đối với người cho vay.
Tuy nhiên trong quá trình quản lý, sử dụng và bảo toàn vốn của công ty còn có những tồn tại cần phải khắc phục:
+ Về tổ chức vốn: trong năm 2002 ngoài việc tận dụng vốn tự có của mình, công ty luôn tìm cách huy động nguồn vốn từ bên ngoài ( khoản này chiếm 85,3% trong tổng nguồn vốn ) để đáp ứng nhu cầu kinh doanh. Tuy nhiên để có thể sử dụng nguồn vốn này hiệu quả đòi hỏi công ty phải có sự quản lý và tổ chức sử dụng một cách hợp lý thì mới có thể đem lại lợi nhận cho công ty Trong đó nguồn vốn tín dụng của nhà cung cấp được công ty sử dụng nhiều nhất ( cuối năm 2002 số vốn mà công ty chiếm dụng của nhà cung cấp lên đến 8.077.718.546 đồng chiếm tỷ trọng 51% trong tổng các khoản phải trả , tiếp đến là khoản nợ ngắn hạn lên đến 3.600.497.000 đồng chiếm 33,3% trong tổng các khoản phải trả. Trong thời gian tới công ty nên giảm khoản nợ ngắn hạn và vay dài hạn một cách hợp lý. Công ty nợ ngắn hạn quá nhiều sẽ làm cho tình hình tài chính của công ty luôn trong trạng thái căng thẳng, công ty phải luôn lo chuyện thanh toán các khoản nợ ngắn hạn khi đến hạn trả nợ, vì các khoản này chỉ vay trong thời gian ngắn mà trong kinh doanh rất nhiều biến động không phải lúc nào công ty cũng có sẵn tiền để thanh toán. Khi thực hiện vay dài hạn, áp lực đó sẽ giảm bớt, giúp công ty có thời gian tìm nguồn trang trải nợ vay.
+ Công tác đầu tư của công ty chiếm đa số là các dự án nhỏ, chưa có nhiều dự án lớn, đặc biệt là những dự án sản xuất công nghiệp nhằm tăng sản lượng, tỷ trọng trong giá trị sxkd đảm bảo để công ty tăng trưởng bền vững.
+ Đối với công tác quản lý và sử dụng VLĐ ta thấy: do đặc điểm kinh doanh của công ty là thi công xây dựng các công trình, với thời gian thi công kéo dài, nên việc hàng tồn kho của công ty nhiều là điều đễ hiểu, nhưng công ty không nên để một lượng hàng tồn kho quá lớn ( chiếm 51,6% tại thời điểm 31/ 12 02 trong tổng vốn lưu động ) như vậy sẽ làm cho vốn bị ứ đọng, chậm luân chuyển. Ngoài ra sẽ phát sinh về chi phí lưu kho, bốc xếp… từ đó làm chi phí tăng lên, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh giảm sút. Qua xem xét ta cũng thấy lượng vốn tiền tệ của công ty chiếm rất thấp, chỉ có 0,92% trong tổng vốn lưu động. Nguyên nhân do phần lớn khoản vốn tập chung vào hàng tồn kho và khoản vốn bị chiếm dụng nhiều làm cho vốn tiền tệ ở cuối năm 2002 thấp. Điều này dẫn đến tình trạng là công ty không có khả năng thanh toán hiện thời và thanh toán nhanh các khoản nợ đến hạn. Từ vấn đề này đặt ra, đòi hỏi công ty phải có sự nhạy bén, nắm bắt kịp thời nhu cầu và tiến độ thi công các công trình, từ đó có chính sách cung cấp và dự trữ một cách hợp lý, kịp thời, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả đồng vốn đầu tư của công ty.
+ Đối với cơ cấu TSCĐ: công ty đã có sự đầu tư, đổi mới trang thiết bị, xây thêm nhà xưởng phát triển quy mô sản xuất, và xây dựng nhà ở cho công nhân tạo điều kiện cho họ làm việc, đảm bảo đời sống cho CBCNV. Tuy nhiên trong những năm tới công ty cần phải có sự tính toán khấu hao hợp lý nhằm phát huy tối đa công suất máy móc thiết bị, thu hồi vốn, đổi mới trang thiết bị SX kịp thời, phục vụ tốt công việc kinh doanh của công ty.
II. Tình hình tổ chức vốn và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của
Công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà
2.1 Tình hình tổ chức vốn kinh doanh của công ty năm 2002.
Công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà là một doanh nghiệp mà số vốn ban đầu do các cổ đông đóng góp. Cùng với sự phát triển của công ty và nhu cầu về vốn kinh doanh ngày càng tăng đòi hỏi quy mô vốn của công ty cũng ngày càng lớn và huy động từ nhiều nguồn khác nhau như vay vốn tín dụng, vay của công nhân viên chức, tận dụng các khoản phải trả cho người bán…
Tuy nhiên để có được cái nhìn cụ thể về cơ cấu vốn và nguồn hình thành vốn kinh doanh của công ty ta đi xem xét cơ cấu và nguồn hình thành qua
Biểu 02. Cơ cấu vốn và nguồn hình thành vốn kinh doanh của Công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà
Nhìn vào Biểu 02 ta thấy như sau:
- Tổng TSCĐ của năm 2002 tăng hơn so với năm 2001 cụ thể như sau: năm 2001 tổng tài sản của công ty là 12.972.977.882 đ còn năm 2002 tổng tài sản là15.378.807.926đ như vậy tổng TSCĐ của năm 2002 đã tăng lên 2.405.830.044đ tương ứng với mức tăng là 18,5% so với năm 2001. Ta có thể thấy trong phần tổng tài sản của công ty tăng lên phần lớn là do TSLĐ tăng, nhưng phần tài sản này tăng về mặt số lượng nhưng giảm dần về mặt tỷ trọng, năm 2002 TSLĐ và ĐTNH của công ty là 11.037.207.923 đ ( tăng 5,07% so với năm 2001 ) chiếm 71,8% trong tổng tài sản,về tỷ trọng giảm 9,2% so với năm 2001. Trong khi đó phần TSCĐ và ĐTDH tăng về mặt lượng và tăng cả về tỷ trọng. Năm 2002 tăng là 1.872.841.103 đ tương ứng với mức tăng là 75,9% so với năm 2001 chiếm 28,2% trong tổng tài sản và tăng 9,2 % về mặt tỷ trọng so với năm 2001.
Ta thấy rằng tỷ trọng của TSCĐ và ĐTDH so với TSLĐ và ĐTNH có sự chênh lệch, trong đó TSCĐ và ĐTDH chiếm tỷ trọng lớn hơn điều đó cho thấy công ty đã tích cực đầu tư vào thiết bị máy móc hiện đại, tuy nhiên tỷ trọng này chưa thật hợp lý vì TSLĐ và ĐTNHchiếm tỷ trọng tương đối thấp cho thấy công ty còn thiếu vốn cho hoạt động kinh doanh.
- Về nguồn vốn: Nợ phải trả chiếm phần lớn cụ thể tại thời điểm 31/12/2001 nợ phải trả của công ty mới chỉ có 10.978.598.433 đ chiếm 84,62% trong tổng nguồn vốn đến 31/12/2002 số tiền này đã lên đến 13.177.524.102 đ chiếm 85,7% trong tổng nguồn vốn, như vậy đến 31/12/2002 đã tăng lên 2.198.925.669 đ tương ứng với mức tăng là 20%. Trong khi đó vốn chủ sở hữu của công ty chiếm rất ít chỉ có 15,38% ( 1.994.379.449 đ ) trong năm 2001, sang năm 2002 vốn chủ sở hữu là 2.201.283.824 đ chiếm 14,3% trong tổng nguồn vốn. Qua đây cho thấy tình hình tài chính của công ty không đảm bảo, mức độ phụ thuộc của công ty vào các đơn vị bên ngoài là tương đối lớn, điều này sẽ ảnh hưởng tới kết quả sản xuất kinh doanh của công ty. Để đánh giá được mức độ phụ thuộc của công ty vào các đơn vị khác như thế nào ta đi phân tích hệ số nợ của công ty.
Biểu 03 Kết cấu nguồn vốn của Công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà
Qua Biểu 03 ta thấy:
- Hệ số nợ của công ty tương đối cao và có xu hướng tăng dần lên. tại thời điểm 31/12/2001 hệ số nợ của công ty là 0,85 nhưng đến 31/12/2002 thì đã tăng lên 0,86 tức là đã tăng hơn năm 2001 là 0,01.Điều này đã cho thấy khả năng thanh toán của công ty đang giảm dần điều này có thể đe doạ đến hoạt động kinh doanh của công ty, nếu công ty sử dụng không hiệu quả nguồn vốn vay. Nguyên nhân ở đây là do doanh nghiệp kinh doanh xây dựng cơ bản quá nhiều, mà vốn tự có lại hạn hẹp do đó doanh nghiệp thiếu vốn nên phải đi huy động từ các nguồn khác như vay nhắn hạn, sử dụng các khoản người mua trả trước, các khoản phải trả phải nộp khác,làm khoản nợ phải thu của công ty tăng lên làm cho khả năng tự chủ về tài chính của công ty giảm đi nhiều.
- Hệ số vốn chủ sở hữuđầu năm 2002 là 0,153 nhưng đến cuối năm 2002 giảm xuống còn 0,143 do nguồn vốn kinh doanh giảm, với hệ số vốn như thế này công ty sẽ chịu nhiều rủi ro và phụ thuộc tài chính vào các đơn vị khác, điều này sẽ tác động xấu đến tình hình sản xuất kinh doanh của công ty.
Tuy nhiên để có thể đánh giá chính xác công ty kinh doanh có hiệu quả hay không, và trình độ tổ chức công tác tài chính của công ty có tốt hay không, ta đi xem xét khả năng thanh toán nợ của công ty.
Biểu 04: Khả năng thanh toán của Công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà
Qua Biểu 04 ta thấy hệ số khả năng thanh toán tổng quát của công ty cuối năm 2002 đã giảm hơn đầu năm là 0,01 lần ( đầu năm là1,18 lần đến cuối năm còn là 1,17 lần ) tuy nhiên vẫn có thể coi là tốt vì nó cho thấy tất cả các khoản huy động bên ngoài đều có tài sản đảm bảo ( đầu năm doanh nghiệp cứ vay 1 đồng thì có 1,18 đồng tài sản đảm bảo, còn cuối năm cứ đi vay 1đồng thì chỉ có 1,17 đồng tài sản đảm bảo ). Hệ số này ở thời điểm cuối năm thấp hơn đầu năm là do trong năm ccông ty đã huy động thêm vốn từ bên ngoài là 13.177.524.102 - 10.978.598.433 = 2.198.925.669 đồng trong khi tài sản chỉ tăng 15.373.807.926 - 12.972.977.882 = 2.400.830.044 đồng.
- Hệ số khả năng thanh toán hiện thời ở thời điểm cuối năm là 0,84 giảm hơn đầu năm là 0,12 ( đầu năm là 0,96 ),công ty vẫn duy trì được khả năng thanh toán mặc dù ở cả 2 năm 2001 và 2002 hệ số này còn thấp. Điều này thể hiện: các khoản nợ lương công nhân, nợ người cung cấp trong năm 2002 đều được công ty thanh toán đúng kỳ hạn và đén cuối năm không còn nợ các khoản trên. các khoản nợ từ vay ngắn hạn, dài hạn ngân hàng đều không có khoản nào quá hạn.
- Hệ số khả năng thanh toán nhanh: qua bảng đánh giá ta thấy hệ số này đầu năm ( 0,16 ) và cuối năm ( 0,4 ) đều nhỏ hơn 1vào thời điểm cuối năm hệ số nay có tăng lên 0,24 lần so với đầu năm, mặc dù khả năng thanh toán của công ty không được khả quan, nhưng công ty vẫn trả các khoản nợ đúng hạn, không có khoản nợ nào quá hạn, điều đó cho thấy nỗ lực cố gắng của công ty trong việc giữ uy tín đối với nhà cung cấp và chủ nợ. Tuy nhiên khả năng thanh toán nhanh của công ty như vậy là thấp và không đảm bảo điều này cho thấy công ty chưa làm tốt công tác chuyển đổi tài sản lưu động thành tiền để đáp ứng nhu cầu thanh toán khi cần thiết. Trong thời gian tới công ty cần phải tiếp tục tăng hệ số khả năng thanh toán này, không thể để giảm đi nếu không công ty sẽ gặp phải những rủi ro tài chính quyết định tới sự tồn tại của công ty.
Qua xem xét và đánh giá ta thấy hệ số khả năng thanh toán tổng quát của công ty là có chút khả quan, còn khả năng thanh toán tức thời và thanh toán nhanh của công ty thấp không đảm bảo khả năng thanh toán. Do đó công ty cần phải xem xét lại cơ cấu tài sản cho phù hợp để nâng cao khả năng thanh toán của công ty.
Biểu 05: Tình hình thanh toán khoản phải thu, phải trả của Công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà
Qua xem xét Biểu 05 ta nhận thấy các khoản phải trả của công ty luôn lớn hơn các khoản phải thu. Tại thời điểm cuối năm 2002 các khoản phải thu của công ty là 12.287.602.889 đồng trong khi đó cùng thời điểm này các khoản phải trả của công ty lên đến 15.840.855.783 đồng. Phần chênh lệch giữa khoản phải thu và phải trả là 3.563.253.894 đồng điều này đã cho thấy phần vốn mà công ty chiếm dụng lớn hơn phần vốn mà công ty bị chiếm dụng.
Trong các khoản thu tại thời điểm cuối năm 2002 thì khoản phải thu từ khách hàng chiếm cao nhất, cụ thể là 6.085.483.988 đồng tương ứng với tỷ lệ 49,5 %, tăng hơn so với đầu năm 2002, tiếp đến là các khoản phải thu khác chiếm tỷ trọng 39,8% tương ứng với số tiền 4.892.392.717 đồng ( cuối năm 2002 ) giảm so với đầu năm là 3.059.303.400 đồng tương ứng với tỷ trọng giảm 38,5 %. Còn lại các khoản phải thu tạm ứng, ký cược ký quỹ ngắn hạn nhìn chung đều tăng so với đầu năm 2002. Trong đó một số khoản thu lớn của công ty tại thời điểm 31 / 12 / 2002 do khối lượng hoàn thành công việc tháng 12 năm 2002 sang năm 2003 bên A mới thanh toán:
+ Xây dựng khách sạn PANSEA SIEMREAP ( lào ) : 2.959.982.000 đ
+ Xây lắp điện xã Phương Viên: 495.119.800 đ
+ Xây dựng hệ thống kênh mương xã Vực Trường: 493.551.500 đ
+ Xây dựng bưu điện Hạ Hoà: 163.488.200 đ
Các khoản phải trả của công ty cuối năm 2002 tăng lên so với đầu năm là 4.862.287.350 đồng với mức rtăng tương ứng là 44,3 %. Cụ thể đầu năm 2002 các khoẩn phải trả là 10.978.598.433 đồng đến cuối năm các khoản phải trả đã tăng lên 15.840.855.783 đồng. Trong đó khoản phải trả người bán, vay ngắn hạn , là chiếm phần lớn trong tổng các khoản phải trả. Khoản phải trả cho người bán đầu năm là 4.702.156.710 đồng chiếm 42,83 % đến cuối năm tăng lên 8.077.178.546 đồng chiếm 51 %, như vậy đến cuối năm khoản phải trả cho người bán đã tăng lên 3.375.021.836 đồng tương ứng với mức tăng 71,8%. Vay ngắn hạn đầu năm là 3.654.497.000 đồng chiếm 33,3% trong tổng số nợ ngắn hạn mà công ty phải trả, đến cuối năm khoản này là 3.708.497.000 tăng lên 54.000.000 chiếm 23,41% tổng số nợ ngắn hạn tương ứng với mức tăng 1,47% vay ngắn hạn.Do trong năm công ty có nhu cầu về vốn kinh doanh nhưng phần vốn tự có của doanh nghiệp không đáp ứng đủ nhu cầu do vậy phải vay ngắn hạn các tổ chức đơn vị khác làm ảnh hưởng đến an toàn trong kinh doanh của công ty, do đó công ty phải có kế hoạch quản lý ,tổ chức sử dụng khoản vốn này chặt chẽ có hiệu quả cao, tránh lãng phí và cố gắng thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi đúng hạn. Nhìn chung , ngoài các khoản trên, các khoản phải trả công nhân viên, phải trả thuế và phải thu khác đều tăng. Như vậy qua ta có thể thấy công ty phải thanh toán, chi trả một khối lượng tương đối lớn, trong khi các khoản phải thu của công ty chưa thu được và có xu hướng tăng về cuối năm, chỉ duy nhất có khoản phải thu khác là giảm tức là công ty đã thu được số tiền3.059.303.400 đồng tương ứng với 44,3%, trong tổng số các khoản phải thu, tuy nhiên việc việc thu hồi các khoản phải thu còn lại phụ thuộc vào khả năng, sự năng động và mối quan hệ của công ty đối với đối tác làm ăn.
Với kết cấu tài chính tuy có lợi là công ty đã chiếm dụng vốn của các đơn vị , tổ chức khác và chỉ phải bỏ ra một lượng vốn chủ sở hữu rất nhỏ vào hoạt động sanr xuất kinh doanh. Nếu công ty quản lý và sử dụng tốt nó sẽ nâng cao được hiệu quả đồng vốn, tuy nhiên điểm bất lợi là công ty có thể gặp những rủi ro nếu khoản chiếm dụng này không được sử dụng có hiệu quả, đồng thời chi phí sử dụng nguồn tài trợ này không phải là thấp. do vậy đây không phải là biện pháp lâu dài trong việc huy ođộng vốn cho hoạt động kinh doanh được vì nếu trường hợp công ty kinh doanh không đạt hiệu quả, công ty sẽ không đảm bảo được khả năng thanh toán như hiện nay, gây căng thẳng về mặt tài chính.Vì vậy công ty cần phải có một định hướng xây dựng cơ cấu vốn và nguồn vốn mang tính chiến lược lâu dài để đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững của công ty.Từ những phân tích ở trên có thể đi đến một số nhận xét đánh giá khái quát tình hình tổ chức vốn sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà :
- Công ty đã mở rộng sản xuất từ chỗ chỉ thi công xây lắp các công trình xây dựng, lắp đặt hệ thống cấp , thoát nước, đường điện, trạm điện… nay công ty đã mở rộng sản xuất thêm những mặt hàng như : nước tinh lọc, nước tinh khiết, tấm tường cánh cửa và công ty đang thực hiện xây dựng nhà máy sản xuất tôn mạ màu. tuy nhiên ta thấy kết cấu vốn của công ty chưa hợp lý, vốn tự có của công ty chỉ chiếm 14,3% trong khi đó nợ phải của công ty trả là 85,7%. Điều đó cho thấy công ty không thể tự chủ được về mặt tài chính mà phụ thuộc vào các đơn vị khác.
- Vốn kinh doanh của công ty chủ yếu tập chung vào tài sản lưu động chiếm71,8% trong tổng tài sản. Với số vốn lưu động lớn như vậy sẽ giúp công ty có thể đảm bảo cho hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty. Tuy nhiên ta nhận thấy vốn bằng tiền của công ty chỉ chiếm có 0,92% trong tổng vốn lưu động, còn các khoản phải thu và hàng tồn kho thì quá lớn, điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình tài chính của công ty.
- Vốn kinh doanh của công ty chủ yếu hình thành từ nguồn đi vay ngắn hạn, do đó tạo ra sức ép cho công ty phải trả khoản vay này, không những thế nó làm cho công ty phải phụ thuộc vào đơn vị khác không tự chủ được về mặt tài chính. Để có thể đánh gía chính xác được xem công ty đã quản lý và sử dụng vốn kinh doanh như thế nào. Ta đi đánh giá tình hình quản lý, bảo tòan và nâng cao hiệu quả sử dụng từng loại vốn của công ty. Sau đây ta đi phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn của công ty trong năm2002.
Bảng kê này được lập dựa vào sự thay đổi các khoản mục trong bảng cân đối kế toán giữa hai thời điểm là đầu kỳ và cuối kỳ theo nguyên tắc:
+ Tăng nguồn vốn, giảm tài sản phản ánh ở cột diễn biến nguồn vốn.
+ Tăng tài sản, giảm nguồn vốn được xếp vào cột sử dụng vốn.
Biểu 5a: Bảng kê diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn của Công Ty Cổ Phần Xây Lắp Điện Nước Hải Hà năm 2002
Qua những số liệu tính toán được ở bảng trên ta thấy quy mô nguồn vốn hay sử dụng vốn của công ty trong năm 2002 đã tăng 8.856.759.467 đồng so với năm 2001
- Quy mô nguồn vốn tăng lên chủ yếu là do công ty chiếm dụng khoản phải trả nhà cung cấp 3.375.021 đồng chiếm tỷ trọng là 38,1%. Đây là khoản vốn mà công ty tận dụng mà không phải trả bất cứ chi phí sử dụng vốn nào. Đây là một điều kiện thuận lợi cho công ty trong việc huy động vốn cho quá trình kinh doanh mà không phải chịu sức ép lớn trong việc trả lãi như khi huy động vốn từ ngân hàng, từ các tổ chức tín dụng khác, tuy nhiên khoản này công ty chỉ chiếm dụng được trong một thời gian nhất định, không thể lâu dài do đó công ty phải sử dụng và quản lý tốt khoản nay trong kinh doanh. Ngoài nguồn vốn chủ yếu này thì công ty còn huy động vốn từ số tiền trích khấu hao trong năm 1,02% ( 90.638.000 đồng ), từ quỹ đầu tư phát triển với số tiền là 61.913.046 đồng chiếm tỷ trọng 0,76% từ khoản phải trả phải nộp ngân sách nhà nước:534.945.931 đồng chiếm tỷ trọng 6,03%. Từ đó cho thấy công ty đã cố gắng sử dụng nguồn vốn nội bộ bên trong và chiếm dụng một khoản lớn của nhà cung cấp để đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh, đã giúp công ty trong khi nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của công ty còn eo hẹp, khả năng tự chủ tài chính không cao.
- Về sử dụng vốn: trong tổng số vốn 8.856.759.476 đồng có 2.327.023.003 đồng chiếm tỷ trọng 26,3% bổ xung cho hoạt động sản xuất kinh doanh ( mua sắm TSCĐ ).trong năm qua công ty đã bổ xung thêm vốn kinh doanh là 15.535.898 đồng chiếm tỷ trọng 0,18%, ngoài ra kỳ kinh doanh vừa qua công ty tăng thêm lượng dự trữ nguyên vật liệu, đây là việc sử dụng vốn không cần thiết nhiều lắm ( 39.864.203 đồng ) trong điều kiện nguồn cung cấp nguyên vật liệu là khá ổn định trên thị trường hiện nay, và có thể dựa vào các mối quan hệ bạn hàng với nhà cung cấp, như vậy trong năm tới công ty nên giảm bớt khoản vốn này để tăng thêm nguồn huy động cho vốn kinh doanh của công ty. Như vậy ta thấy công ty thiếu vốn lưu động trong hoạt động kinh doanh nên phải lấy từ các khoản khách hàng trả trước, cầm cố ,ký cược ký quỹ để bù vào khoản vốn đo. Việc dự trữ NVL làm tồn đọng vốn kinh doanh, công ty phải đi vay ngắn hạn ngân hàng như vậy sẽ làm tăng chi phí sử dụng vốn trong điều kiện vốn kinh doanh đang còn thiếu.
2.2 Tình hình quản lý và hiệu quả sử dụng VCĐ của công ty năm 2002.
Biểu 06: Tình hình tài sản cố định của Công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà năm 2002
Qua bảng Biểu 06 ta thấy:
Tại thời điểm 31/12/02 NGTSCĐ là 5.002.737.000 đồng tăng so với cuối năm 2001 là 2.327.023.000 tương ứng với mức tăng là 87%. Trong đó TSCĐ dùng cho sản xuất kinh doanh ở cuối năm 2002 đã tăng lên so với cuối năm 2001 là 2.327.023.000 tương ứng với tỷ lệ tăng là 87%. Nhìn vào bảng ta thấy phần tài sản cố định dùng cho SXKD của công ty tăng lên do công ty mua sắm thêm một số thiết bị phục vụ công tác quản lý ( Máy vi tính, máy in HP 1125, máy điều hoà, bộ đo lường thiết bị điện…), đặc biệt trong đó phần nhà cửa vật kiến trúc tăng lớn nhất, cụ thể cuối năm 2001 là 1.393.400.000 đồng chiếm 52,1% trong tổng TSCĐ thì đến cuối năm 2002 đã tăng lên 3.715.018.000 đồng chiếm 74,3 % trong tổng số TSCĐ tương ứng với mức tăng là 2.321.618.000 đồng với tỷ lệ tăng là 116,6% nguyên nhân là do công ty xây dựng thêm nhà ở cho công nhân và xưởng gia công của công ty. Tính đến ngày 31/12/2002 TSCĐ của công ty đều là TSCĐ hữu hình đang sử dụng, không có TSCĐ chưa cần dùng và TSCĐ chờ thanh lý. Điều này chứng tỏ hầu hết TSCĐ của công ty được sử dụng ngay vào sản xuất, giúp cho công ty tránh được hiện tương ứ đọng vốn. Cụ thể ta thấy, ở cả năm 2001 và 2002 nhà cửa vật kiến trúc và thiết bị dụng cụ quản lý tăng lên ( cuối năm 2002 NGTSCĐ cuả thiết bị dụng cụ quản lý là 217.715.000 đồng tăng hơn so với thời điểm cuối năm 2001 là 5.405.0000 đồng với tỷ lệ tăng là 2,5% ), còn máy móc thiết bị và phương tiên vận tải phục vụ cho quá trình sản xuất và thi công vẫn đang trong thời gian sử dụng và còn tương đối tốt, như vậy ta có thể thấy với cơ cấu TSCĐ như vậy là phù hợp với yêu cầu hoạt động sản xuất và thi công của công ty. Để hiểu thêm về tình trạng kỹ thuật và tình hình sử dụng TSCĐ của công ty như thế nào ta đi xem xét tình trạng kỹ thuật TSCĐ của công ty qua.
Biểu 07. Tình trạng kỹ thuật TSCĐ của Công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà
Qua Biểu 07 ta thấy: giá trị còn lại của TSCĐ trong sản xuất kinh doanh của công ty ở thời diểm đầu năm 2002 là 2.105.214 đồng chiếm 78,7% trong tổng nguyên giá TSCĐ đang sử dụng và ở thời điểm 31 /12 /02 là 4.077.533.000 đồng chiếm 81,5% tổng nguyên giá TSCĐ đang sử dụng trong sản xuất kinh doanh. Cụ thể:
- Giá trị còn lại của nhà cửa vật kiến trúc tại thời điểm 31 / 12/02 là 3.510.194 đồng chiếm 94,5% trong tổng nguyên giá TSCĐ đầu tư vào nhà cửa vật kiến trúc ta nhận thấy cuối năm 2002 giá trị của nhà cửa vật kiến trúc tăng lên so với đầu năm 2002 làm tỷ trọng của phần này tăng lên từ 92,6% lên 94,5%. Nguyên nhân do trong năm 2002 công ty xây dựng thêm nhà ở cho công nhân và xưởng gia công. Đây cũng là lý do TSCĐ đầu tư vào nhà cửa kiến trúc cuối năm tăng lên.
- Máy móc thiết bị tại thời điểm cuối năm có xu hướng giảm về tỷ trọng và giá trị còn lại. Tại thời điểm 01/ 01/ 02 giá trị còn lại của máy móc thiết bị là 72.560.000 đồng chiếm 5,3% trong tổng nguyên giá TSCĐ đầu tư vào máy móc thiết bị. Đến cuối năm 2002 giá trị còn lại chỉ còn 45.908.000 đồng chiếm 32,3% trong tổng nguyên giá TSCĐ đầu tư vào máy móc thiết bị.
- Phương tiện vận tải: Tại thời điểm cuối năm 2002 giá trị còn lại và tỷ trọng của phần này cũng giảm xuống, nguyên nhân do công ty sử dụng cho mục đích kinh doanh như đã nêu ở trên.
- Thiết bị dụng cụ quản lý: Nguyên giá của thiết bị dụng cụ quản lý ở thời điểm cuối năm là 217.715.000 đồng tăng hơn so với đầu năm là 69.628.000 đồng ( đầu năm nguyên giá TBDCQL là 212.310.000 đồng ) chiếm 4,4 % trong tổng nguyên giá TSCĐ đầu tư vào thiết bị dụng cụ quản lý. Nguyên nhân tăng do trong năm công ty mua thêm một số trang thiết bị mới phục vụ cho nhu cầu quản lý của công ty. Qua Biểu 07 ta thấy: công ty chỉ có TSCĐ đang dùng vào sản xuất kinh doanh chứ không có tài sản cố định chưa cần dùng, TSCĐ hư hỏng chờ thanh lý, hay TSCĐ phúc lợi. Như vậy chứng tỏ công ty đã huy động và khai thác triệt để TSCĐ sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là một biện pháp công ty sử dụng để giảm bớt chi phí về bảo quản TSCĐ và hao mòn vô hình của loại tài sản này.
Như vậy ta có thể nhận thấy trong năm 2002 tổng giá trị còn lại của TSCĐ là 4.077.533.000 chiếm 81,5% trong tổng nguyên giá TSCĐ . Điều đó cho thấy đa số TSCĐ công ty đang sử dụng còn mới, số năm còn trích khấu hao còn dài. Do đó giải thích vì sao công ty có đầu tư thêm tài sản cố định nhưng chủ yếu là nhà cửa, còn các trang thiết bị máy móc phục vụ trực tiếp cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của công ty thì không được đầu tư thêm. Tuy nhiên trong những năm tới công ty cần tích cực đầu tư trang thiết bị máy móc hiện đại hơn nhằm phục vụ tốt hơn cho quá trình sản xuất kinh doanh của công ty và phục vụ cho quy mô sản xuất kinh doanh của công ty đang ngày càng mở rộng, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ hơn.
Việc công ty có bảo toàn được vốn hay không, nó thể hiện ở hiệu quả sử dụng vốn của công ty. Công ty nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn cố định sẽ tạo ra được lợi nhuận nhiều hơn trên một đồng vốn cố định bình quân tham gia vào qúa trình sản xuất. Để xem xét việc công ty có khả năng bảo toàn và nâng cao việc sử dụng vốn hay không ? Ta đi xem xét đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty.
Doanh thu thuần
1. Hiệu suất sử dụng VCĐ =
Vốn cố định bình quân
- Năm 2001 :
10.512.443.509
Hiệu suất sử dụng VCĐ = = 7,8
1.349.029.900
- Năm 2002 :
10.666.364.135
Hiệu suất sử dụng VCĐ = = 3,13
3.405.179.450
Hiệu suất sử dụng VCĐ phản ánh cứ một đồng VCĐ tham gia vào sản xuất kinh doanh tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần trong kỳ. Như vậy năm 2002 hiệu suất sử dụng VCĐ nhỏ hơn năm 2001, điều đó cho thấy trong năm 2001 công ty cứ sử dụng bình quân 1 đồng TSCĐ vào sản xuất kinh doanh thì tạo ra được 7,8 đồng doanh thu thuần còn năm 2002 cứ sử dụng 1 đồng TSCĐ công ty chỉ tạo ra được 3,13 đồng doanh thu thuần. Như vậy thực tế sản xuất năm 2002 để tạo ra được một đồng doanh thu thì công ty cần nhiều hơn 4,7 đồng VCĐ so với năm 2001.
Doanh thu thuần
2. Hiệu suất sử dụng TSCĐ =
Nguyên giá TSCĐ bình quân
- Năm 2001 :
10.512.443.509
Hiệu suất sử dụng TSCĐ = = 4,0
2.638.989.000
- Năm 2002 :
10.666.364.135
Hiệu suất sử dụng TSCĐ = = 2,8
3.839.225.500
Hiệu suất sử dụng TSCĐ phản ánh một đồng TSCĐ trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần. Hiệu suất càng lớn chứng tỏ hiệu suất sử dụng tài sản cố định càng cao.
Hiệu suất TSCĐ năm 2002 cho ta thấy, cứ một đồng nguyên giá TSCĐ tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh tạo ra 2,8 đồng doanh thu thuần, như vậy là giảm so với năm 2001 là 1,2 đồng doanh thu thuần. Điều này đặt ra cho công ty cần phải sử dụng TSCĐ cũng như vốn cố định chặt chẽ và linh hoạt hơn.
VCĐ bình quân
3. Hàm lượng VCĐ =
Doanh thu thuần
- Năm 2001 :
1.349.029.900
Hàm lượng VCĐ = = 0,13
10.512.443.509
- Năm 2002 :
3.405.179.450
Hàm lượng VCĐ = = 0,32
10.666.364.135
Ta thấy hàm lượng VCĐ của năm 2002 tăng lên so với năm 2001, cụ thể là: năm 2001 hàm lượng VCĐ là 0,13 đồng còn năm 2002 là 0,32 đồng tăng so với năm 2001 là 0,19 đồng. Như vậy năm 2001 công ty chỉ cần 0,13 đồng vốn cố định thì tạo ra được một đồng doanh thu thì năm 2002 để có một đồng doanh thu công ty phải mất 0,32 đồng tức là tăng so với năm 2001 tăng lên 0,19 đồng.
Lợi nhuận trước thuế ( hoặc sau thuế thu nhập )
4. Tỷ suất lợi nhuận VCĐ =
VCĐ bình quân
- Năm 2001 :
199.028.169
Tỷ suất lợi nhuận VCĐ = = 0,15
1.349.029.900
- Năm 2002:
250.012.955
Tỷ suất lợi nhuận VCĐ = = 0,07
3.405.179.450
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn cố định bình quân trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước hoặc sau thuế thu nhập. Năm 2002 tỷ suất lợi nhuận VCĐ là 7% đã giảm 8% so với năm 2001. Điều đó cho thấy một dấu hiệu không tốt về khả năng sinh lời của đồng vốn của công ty trong năm 2002.
Từ những phân tích và đánh giá trên cho ta thấy, hiệu suất sử dụng VCĐ,hiệu suất sử dụng tài sản cố định có xu hướng giảm xuống so với năm 2001 trong khi hàm lượng VCĐ lại tăng lên mà chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận VCĐ một chỉ tiêu phản ánh chất lượng công tác sử dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ của năm 2002 lại giảm xuống tương đối nhiều. Điều đó cho thấy trong năm 2002 công ty đã sử dụng vốn kém hiệu quả hơn năm 2001 mặc dù công ty vẫn bảo toàn được vốn.
2.3 Tình hình quản lý và hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà.
Do đặc điểm của ngành nghề kinh doanh là doanh nghiệp xây lắp nên Công Ty Cổ Phần Xây Lắp Điện Nước Hải Hà có đặc trưng riêng của ngành là sản phẩm có giá trị lớn, thời gian thi công dài nên nhu cầu vốn lưu động rất lớn.
Tại thời điểm 31/ 12 / 2002 vốn lưu động của Công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà là 11.037.207.925 đồng chiếm 71,8% trong tổng số VKD, tại thời điểm 31 / 12 / 2001 VLĐ của công ty là 10.504.218.982 đồng chiếm 81% trong tổng vốn kinh doanh. Như vậy VLĐ của công ty năm 2002 tăng so với năm 2001 là532.988.941 đồng tương ứng với mức tăng là 5,07%. Qua so sánh 2 năm ta nhận thấy cùng với sự tăng lên của VKD thì vốn lưu động của công ty cũng tăng lên, đó là điều kiện để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh của công ty.Tuy nhiên đồng vốn mà công ty đang quản lý và sử dụng có mang lại hiệu quả trong kinh doanh, có mang về cho công ty lợi nhuận hay không điều đó còn phụ thuộc vào việc quản lý, phân bổ vốn giữa các quá trình sản xuất như thế nào cho hợp lý, đảm bảo cho đồng vốn luôn được luân chuyển, không bị ứ đọng, nhằm nâng cao hiệu quả của đồng vốn.
Cơ cấu VLĐ của công ty thể hiện qua.
Biểu 08 - Cơ cấu vốn lưu động của Công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà năm 2002. ( Trang bên )
- Vốn bằng tiền : Trong quá trình sản xuất kinh doanh doanh nghiệp phải luôn có một lượng vốn tiền tệ dự trữ nhất định để đáp ứng nhu cầu giao dich hàng ngày như mua sắm nguyên vật lệu, thanh toán các khoản chi phí cần thiết khác, mặt khác nó còn là khoản dự phòng nhằm ứng phó với các sự kiện bất thường đồng thời làm tăng khả năng thanh toán nhanh của công ty.
Theo biểu 08 thì vốn bằng tiền của công ty cuối năm ( 101.988.249 đồng ) tăng so với đầu năm ( 80.653.747 đồng ) là 21.334.502 đồng với mức tăng là 26,5%. Về tỷ trọng không có sự thay đổi nhiều chỉ tăng 0,12% so với đầu năm. Vốn bằng tiền tăng chủ yếu do tiền gửi ngân hàng tăng 51.953.266 đồng đây là phần tỷ trọng lớn nhất trong vốn bằng tiền là 89,4%. Còn lại là lượng mặt tại quỹ chiếm 10.6%. Đây là biểu hiện tốt cho thấy công ty vẫn có thể thanh toán các khoản nợ đến hạn. Tuy nhiên trong năm tới công ty cần phải tiếp tục tăng khoản dự trữ vốn tiền để đảm bảo tốt hơn, vững chắc hơn về mặt tài chính trong điều kiện vốn hoạt động chính của công ty vẫn cònm đang phụ thuộc nhiều vào các khoản huy động từ bên ngoài. Ta còn thấy có sự thay đổi về cơ cấu vốn bằng tiền: tiền gửi ngân hàng về tỷ trọng tăng lên vào cuối năm trong tổng vốn bằng tiền là 40,8%, nó đúng bằng phần giảm tỷ trọng của tiền mặt tại quỹ. Đây là vấn đề công ty cần phải xem xét để trong những năm tới công ty cần phải tăng tỷ trọng tiền mặt tại quỹ nhằm đáp ứng nhu cầu vốn và tăng khả năng thanh toán nhanh của công ty.
- Khoản phải thu: tỷ trọng các khoản phải thu và hàng tồn kho chiếm một lượng lớn trong tổng vốn lưu động: các khoản phải thu chiếm 32%, còn hàng tồn kho chiếm nhiều hơn 51,6%. Trong đó khoản vốn bằng tiền của công ty chỉ chiếm có 0,92% trong tổng VLĐ. Cụ thể ta thấy:
Tại thời điểm 31 / 12 / 02 khoản phải thu của công ty là 3.531.773.865 đồng, toàn bộ là khoản phải thu của khách hàng. Đầu năm khoản này công ty đã thu về hết nhưng đến cuối năm khoản này đã tăng lên, điều này cho thấy,thời điểm cuối năm 2002 vốn của công ty đã bị chiếm dụng tương đối lớn, điều này sẽ có tác động làm giảm vòng quay VLĐ của công ty. Đây là những khoản công ty bị khách hàng chiếm dụng, trong năm tới công ty cần tích cực tìm những biện pháp hữu hiệu để thu hồi hết khoản knày để tăng vốn hoạt động cho công ty mà không cần phải đi vay như hiện nay.
Trong kết cấu các khoản phải thu của khách hàng thì không có các khoản phải thu đến hạn, hay quá hạn mà chỉ có các khoản phải thu khó đòi bvà chưa đến hạn, đó là do khối lượng hoàn thành công việc tháng 12 sang năm 2003 bên A mới quyết toán cho công ty. Đây thực chất cũng là do đặc điểm của công ty là xây lắp với thời gian thi công lâu, giá trị sản phẩm rất lớn, nên các khoản phải thu thường là rất lớn trong kỳ kinh doanh. Với kết cấu như vậy ta cũng thấy là một dấu hiệu tốt là công ty đang thực hiện rất nhiều công trình, dự án báo hiệu trong năm tới doanh thu, giá trị sản lượng, lợi nhuận của công ty có khả năng tăng lên nếu công ty quản lý, đôn đốc tốt quá trình thi công để sản phẩm tạo ra có chất lượng cao, đúng kỹ thuật và thời hạn như đã thoả thuận trong hợp đồng đối với bên A. Nếu thực hiện được như vậy thì công ty sẽ thu hồi được các khoản phải thu của khách hàng trong những năm tới đúng hạn, tăng thêm được vốn kinh doanh trong kỳ sản xuất tiếp theo.
- Hàng tồn kho: là loại vốn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng VLĐ của công ty. Tại thời điểm 01 / 01 / 02 hàng tồn kho của công ty là 8.718.053.117 đồng chiếm 83% trong tổng vốn lưu động, đến thời điểm 31 / 12 / 02 hàng tồn kho là 5.698.613.924 đồng chiếm 51,6% giảm so với đầu năm là 34,6% tương ứng với số tiền giảm là 3.019.439.253 đồng. Qua biểu 08 ta thấy khoản tăng lên của hàng tồn kho chủ yếu là do nguyên vật liệu tồn kho. Nguyên vật liệu tồn kho cuối năm tăng 5,2% và chiếm tới 14,1% trong tổng hàng tồn kho. Việc tăng NVL trong kho như vậy là không tốt lắm vì như ta biết về đặc điểm sản xuất của công ty là xây dựng , thi công, xây lắp các công trình có giá trị lớn, thời gian thực hiện lâu dài nên khi kcó công trình, công ty mới tiến hành dự trữ NVL trong kho ở mức độ nhất định theo tiến độ thi công công trình mà chủ yếu là các loại dàn giáo, cốppha, còn các loại nguyên vật liệu khác thì không cần thiết vì trên thị trường hiện nay có rất nhiều đại lý bán các loại vật liệu đó, lại gần nơi thi công công trình nên rất tiện lợi với giá cả tương đối ổn định. Như vậy số NVL tăng trong kho tại thời điểm cuối năm là do một số công trình có thời gian thực hiện lâu dài nên lượng giàn giáo, côppha trong kho lớn, tiến độ thi công một công trình chậm, nên cuối năm công ty phải đưa vào kho dự trữ lượng NVL của những công trình mà theo tiến độ thi công kế hoạch thì lẽ ra đến thời điểm này đã phải hoàn thành.
Trong tổng hàng tồn kho thì chi phí sản xuất kinh doanh dở dang chiếm phần lớn, đầu năm khoản này chiếm 91,12% trong tổng hàng tồn kho tương ứng với số tiền là 7.951.696.117 đồng, đến cuối năm giảm xuống còn 4.982.392.717 đồng chiếm 85,9% trong tổng hàng tồn kho tương ứng với số tiền giảm xuống là 3.059.366.400 đồng tương ứng với tỷ lệ giảm xuống 38,5%. Mặc dù đã có sự giảm xuống của hàng tồn kho vào cuối năm, nhưng vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng vốn lưu động của công ty, điều này là do trong năm đang thực hiện một số dự án lớn chưa hoàn thành đang trong giai đoạn hoàn thiện như dự án : Đường dây và trạm biến áp gia đình quân khu II, hầm hút bụi nhà máy dệt, đường diện hạ thế xã Hồng đà + Hương nha… công ty có những công trình thi công kéo dài, chỉ khi đã thi công xong mới được nghiệm thu và bàn giao công trình, điều đó giải thích vì sao chi phí sản xuất kinh doanh dở dang còn tồn nhiều trong kho. Điều này đòi hỏi ban lãnh đạo của công ty phải quan tâm tìm ra những biện pháp giảm thiểu khoản tồn kho tránh bị ứ đọng vốn bằng cách khuyến khích, có chế độ khen thưởng kịp thời cho những tập thể , cá nhân có sáng kiến giúp công ty đẩy nhanh tiến độ thi công tiết kiệm được thời gian, chi phí xây dựng công trình nhưng vẫn đảm bảo được chất lượng công trình, nhanh chóng bàn giao công trình thu hồi vốn kinh doanh, đẩy nhanh vòng quay vốn lưu động một cách tiết kiệm và hiệu quả.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động cũng như những tồn tại trong việc quản lý sử dụng VLĐ của công ty, chúng ta đi xem xét đánh giá một số chỉ tiêu qua
Doanh thu thuần
5. Vòng quay VLĐ =
VLĐ bình quân
- Năm 2001 :
10.512.443.509
Vòng quay VLĐ = = 1,5 vòng
6.974.476.916,5
- Năm 2002:
10.666.364.135
Vòng quay VLĐ = = 1 vòng
10.770.713.452,5
Vòng quay VLĐ phản ánh trong kỳ VLĐ quay được mấy vòng, và phản ánh 1 đồng vốn lưu động trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Qua tính toán ta thấy: Năm 2002 vốn lưu động bình quân là 10.770.713.452,5 đồng, doanh thu thuần đạt được là 10.666.364.135 đồng số vòng quay VLĐ là 1 vòng giảm hơn so với năm 2001 là 0,5 vòng, điều này cho thấy năm 2002 số vòng quay VLĐ đã giảm tức là VLĐ năm 2002 đã quay vòng chậm hơn so với năm 2001, đây là biểu hiện không tốt. Nguyên nhân do mức tăng của doanh thu thuần giảm hơn mức tăng của vốn lưu động bình quân.
360 ( ngày )
6. Số ngày một vòng quay VLĐ =
Số vòng quay VLĐ
- Năm 2001 :
360 ( ngày )
Số ngày một vòng quay VLĐ = = 240 ngày/ vòng
1,5
- Năm 2002 :
360 ( ngày )
Số ngày một vòng quay VLĐ = = 360 ngày/ vòng
1
Chỉ tiêu này phản ánh trung bình một vòng quay hết bao nhiêu ngày. Năm 2002 số vòng quay VLĐ đã tăng lên 120 ngày / vòng so với năm 2001. điều này cho thấy VLĐ của năm 2002 luân chuyển chậm hơn năm 2001 là 120 ngày dẫn đến làm giảm hiệu quả sử dụng VLĐ của công ty, vốn sẽ bị ứ đọng ảnh hưởng đến việc SXKD của công ty.
VLĐ bình quân
7. Hàm lượng VCĐ =
Doanh thu thuần
- Năm 2001 :
6.974.476.916,5
Hàm lượng VCĐ = = 0,66
10.512.443.509
- Năm 2002 :
10.770.713.452,5
Hàm lượng VCĐ = = 1,009
10.666.364.135
Chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần cần bao nhiêu đồng VLĐ. Hàm lượng vốn lưu động năm 2002 là 1,009 tăng 0,349 đồng so với năm 2001 ( năm 2001 hàm lượng VLĐ là 0,66 đồng ). Có nghĩa là công ty muốn tạo ra được 1 đồng doanh thu thuần năm 2001 cần 0,66 đồng VLĐ nhưng đến năm 2002 thì phải cần tới 1,009 đồng VLĐ mới có được 1đồng doanh thu. Điều đó cho thấy hiệu quả sử dụng TSLĐ của công ty năm 2002 là kém hiệu quả hơn năm 2001.
Lợi nhuận trước thuế ( Sau thuế )
8. Doanh lợi VLĐ =
VLĐ bình quân
- Năm 2001 :
199.028.169
Doanh lợi VLĐ = = 0,03
6.974.476.916,5
- Năm 2002 :
250.012.995
Doanh lợi VLĐ = = 0,023
10.770.713.452,5
Chỉ tiêu này phản ánh số lợi nhuận được tạo ra trên một đồng vốn lưu động bình quân được sử dụng trong kỳ SXKD. Năm 2002 mức doanh lợi là 0,023 đồng giảm 0,007 đồng so với năm 2001 ( năm 2001 mức doanh lợi VLĐ là 0,03 đồng ), do trong năm 2002 mức tăng của VLĐ tăng cao hơn so với mức tăng của tổng lợi tức nên đã làm cho mức sinh lời giảm. Đây là biểu hiện không tốt trong quá trình quản lý và sử dụng VLĐ của công ty.
Giá vốn hàng bán
9. Số vòng quay hàng tồn kho =
Hàng tồn kho bình quân
- Năm 2001 :
9.643.797.183
Số vòng quay hàng tồn kho = = 1,5
6.595.138.258,5
- Năm 2002 :
9.924.867.682
Số vòng quay hàng tồn kho = = 1,37
7.208.333.20,5
Chỉ tiêu này phản ánh số lần mà hàng hoá tồn kho bình quân luân chuyển. Năm 2002 vòng quay hàng tồn kho là 1,37 vòng giảm hơn so với năm 2001 là 0,13 vòng ( năm 2001 số vòng quay hàng tồn kho là 1,5 vòng ). Có nghĩa là vòng tồn kho năm 2002 luân chuyển chậm hơn năm 2001, điều này đãn đến hàng tồn kho cao, tiền vốn bị ứ đọng.
Số dư bình quân các khoản phải thu
10. Kỳ thu tiền trung bình =
Doanh thu ( thuần )
- Năm 2001 :
11.147.107
Kỳ thu tiền trung bình = = 0,38
10.512.443.509
- Năm 2002 :
1.765.886.932,5
Kỳ thu tiền trung bình = = 60 ( ngày )
10.666.364.135
Chỉ tiêu này phản ánh số ngày cần thiết để thu được các khoản phải thu ( số ngày của 1 vòng quay các khoản phải thu ). Vòng quay các khoản phải thu càng lớn thì kỳ thu tiền trung bình càng nhỏ và ngược lại. Năm 2002 kỳ thu tiền trung bình của công ty là 60 ngày tăng so với năm 2001 là 59,62 ngày. như vậy năm 2002 công ty phải đợi đến 60 ngày sau mới nhận được tiền của khách hàng trả nợ, điều này kcho thấy việc quản lý các khoản phải thu của công ty năm 2002 kém hiệu quả, nó cũng cho thấy chính sách tín dụng lcủa công ty đối với khách hàng cũng không được tốt.
Qua xem xét ta thấy công ty sử dụng VLĐ năm 2002 kém hiệu quả hơn so với năm 2001. Tuy nhiên để có những đánh gía chính xác ta đi xem xét 1 số chỉ tiêu sau :
Doanh thu thuần
11. Vòng quay toàn bộ vốn =
Vốn kinh doanh bình quân
- Năm 2001 :
10.512.443.509
Vòng quay toàn bộ vốn = = 1,12
9.355.360.866,5
- Năm 2002 :
10.666.364.135
Vòng quay toàn bộ vốn = = 0,75
14.175.892.904
Đây là chỉ tiêu phản ánh chung nhất khả năng sử dụng vốn hay tài sản của doanh nghiệp. Năm 2002 VKD của công ty luân chuyển được 0,75 vòng chậm hơn so với năm 2001 là 0,37 vòng ( năm 2001 là 1,12 vòng ), theo lý thuyết ta có thể nói hiệu quả sử dụng vốn của công ty năm 2002 giảm xuống so với năm 2001. nhưng để có một kết luận chính xác và thoả đáng ta cần đi xem xét một số chỉ tiêu tiếp theo:
Lợi nhuận sau thuế
12. Doanh lợi tổng vốn =
VKD bình quân
- Năm 2001 :
149.271.127
Doanh lợi tổng vốn = = 1,6
9.355.360.866,5
- Năm 2002 :
61.913.046
Doanh lợi tổng vốn = = 0,004
14.175.892.904
Chỉ tiêu này đo lường mức sinh lời của đồng vốn. Năm 2002 doanh lợi tổng vốn kinh doanh là 0,4% giảm 159,6% so với năm 2001 ( năm 2001 doanh lợi tổng vốn là 160% ). Như vậy năm 2002 công ty cứ bỏ ra 1 đồng vốn kinh doanh thì tạo được 0,04 đồng lợi nhuận, giảm 1,6 đồng so với năm 2001.
Lợi nhuận sau thuế
13. Tỷ suất VCSH =
VCSH bình quân
- Năm 2001 :
149.271.127
Tỷ suất VCSH = = 0,07
1.869.986.843.5
- Năm 2002 :
61.913.046
Tỷ suất VCSH = = 0,03
2.097.831.636.5
Chỉ tiêu này phản ánh lợi nhuận đạt được trên một đồng vốn chủ sở hữu bỏ ra.Năm 2001 công ty bỏ ra 1 đồng vốn chủ sở hữu thì thu về được 0,07 đồng lợi nhuận, nhưng năm 2002 công ty bỏ ra 1 đồng vốn chủ sở hữu chỉ thu về có 0,03 đồng lợi nhuận như vậy một đồng vốn chủ sở hữu được sử dụng năm 2002 giảm đi 0,04 đồng lợi nhuận. Ta thấy hai chỉ tiêu: doanh lợi tổng vốn và tỷ suất vốn chủ sở hữu đều giảm so với năm 2001. nguyên nhân chủ yếu là do vốn kinh doanh bình quân tăng thêm 9.641.064.075 đồng ( tăng 51,52% ), vốn chủ sở hữu bình quân tăng 227.844.793 đồng ( tăng 12,18% ) trong khi lợi nhuận của công ty lại giảm đi 87.358.081 đồng ( giảm 58,52% ).
Qua xem xét , đánh giá như vậy có câu hỏi được đặt ra là: tại sao số lợi nhuận được tạo ra trên một đồng vốn của công ty năm 2002 lại giảm so với năm 2001 ?
Nguyên nhân là do công tác quản lý và sử dụng vốn kinh doanh của công ty còn nhiều khó khăn và hạn chế. Nguồn vốn kinh doanh của công ty chủ yếu là đi vay mà phần nhiều là đi vay ngắn hạn, và chiếm dụng vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Do đó công ty phải trả chi phí lãi vay nhiều, hoạt động kinh doanh gặp nhiều khó khăn, môi trường cạnh tranh gay gắt, giá nhận thầu xây dựng thấp do phải hạ thấp giá để thắng thầu, một số công trình thi công kéo dài làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh, một số do thiếu vốn nhưng chủ yếu do có sự thay đổi thiết kế dẫn đến những chi phí phát sinh. Một số công trình nước ngoài, các chi phí quản lý quá lớn, bình quân cho 1 công nhân viên chiếm 200% tiền xuất nhập cảnh , đi lại…tuy nhiên nếu so sánh với một số doanh nghiệp cùng ngành thì ta thấy kết quả kinh doanh của công ty đạt được vẫn khả quan hơn nhiều. Đó là do có sự nỗ lực rất lớn của ban lãnh đạo công ty và toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty.
Chương III
Một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà.
Qua những phân tích đã nêu trên, ta thấy trong những năm qua Công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà đã vượt qua những khó khăn, thực hiện kinh doanh một cách có hiệu quả, cụ thể: trong 2 năm 2001 - 2002 công ty đều làm ăn có lãi, đóng góp vào ngân sách nhà nước một số lượng không nhỏ, ngoài ra công ty đã bảo toàn được vốn. Tuy nhiên để có thể đứng vững, phát triển và hoàn thành được kế hoạch đề ra đòi hỏi ban lãnh đạo công ty cùng CBCNV trong công ty cần cố gắng và nỗ lực hơn nữa trong sản xuất kinh doanh và trong quản lý sử dụng vốn kinh doanh của công ty.
Trên cơ sở phân tích tình hình sử dụng vốn kinh doanh ở trên, em xin mạnh dạn dưa ra một số đánh giá và đề xuất một số ý kiến mang tính giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn kinh doanh của Công ty cổ phần xây lắp điện nước Hải Hà.
I. Những định hướng phát triển công ty trong những năm tới.
Công Ty Cổ Phần Xây Lắp Điện Nước Hải Hà đã thành lặp trong một thời gian tương đối lâu (1995 ) do đó công ty cũng đã đạt được những thành công nhất định trong bước đường phát triển của mình. Những thành công mà công ty gặt hái được là do sự cố gắng nỗ lực của ban giám đốc, cán bộ công nhân viên trong công ty cùng sự quan tâm của các cơ quan quản lý nhà nước. Công ty đã đề ra những biện pháp, chính sách phát triển hợp lý, từng bước tự khẳng định mình.
Trong hội nghị tổng kết cuối năm 2002 công ty đã đề ra những định hướng sau phát triển trong những năm tới là:
- Mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, chuyển dần từ xây dựng cơ bản sang sản xuất kinh doanh, với những mặt hàng mới như: tấm tường cánh cửa bằng tôn, tôn mạ mầu nhằm nâng cao năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường.
-Từng bước nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên trong công ty cả về vật chất lẫn tinh thần. Để họ phát huy được tinh thần trách nhiệm, năng lực công việc.
- Luôn tìm cách nâng cao việc quản lý và sử dụng hiệu quả vốn kinh doanh nói chung và vốn lưu động nói riêng nhằm mang lại hiệu quả cao nhất trong kinh doanh.
II. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại công ty.
1. Chủ động lập kế hoạch tạo lập nguồn vốn đáp ứng nhu cầu kinh doanh.
Vốn là yếu tố quyết định đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty ở bất cứ thời kỳ nào, nó là điều kiện cần để một doanh nghiệp có thể đứng vững và phát triển. Do đó việc chủ động xây dựng kế hoạch sử dụng và huy động vốn là một trong những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả tài chính của doanh nghiệp.
- Để có thể giảm bớt chi phí sử dụng vốn, công ty khi xây dựng kế hoạch tạo lập vốn cần triệt để khai thác nguồn vốn bên trong doanh nghiệp, đó là lợi nhuận để lại , các loại quỹ, tiền khấu hao TSCĐ…
Qua thực tế tại Công Ty Cổ Phần Xây Lắp Điện Nước Hải Hà năm 2002 ta thấy vốn chủ sở hữu của công ty chỉ chiếm có 14,3% trong tổng nguồn vốn, còn lại là các khoản nợ ngắn hạn chiếm tới 85,7%, công ty chỉ phải bỏ ra lượng vốn nhỏ vào SXKD nhưng được sở hữu một lượng vốn lớn nếu công ty biết quản lý và sử dụng nguồn vốn này một cách hiệu quả thì nó sẽ giúp công ty tăng được hiệu quả đồng vốn, nhưng nếu khoản vốn này doanh nghiệp sử dụng không hiệu quả,doanh thu không bù đắp được chi phí vay vốn thì nó sẽ có tác động ngược lại. Do đó công ty phải tận dụng được tối đa nguồn vốn bên trong doanh nghiệp, tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp, sử dụng hiệu quả nguồn vốn vay nhằm làm vững mạnh tình hình tài chính của công ty tránh phụ thuộc tài chính vào đơn vị khác. Công ty có thể khai thác thêm nguồn vốn bên trong của mình qua việc xác định đúng mức NVL tồn kho, xác định đắn nhu cầu VLĐ cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ thi công xây lắp trong kỳ. Tại biểu 08 ta thấy lượng vốn tồn kho của công ty có sự tăng lên ,mà chủ yếu là nguyên vật liệu ( cuối năm 2002 giá trị NVL tồn kho tăng 39.864.207 đồng chiếm 5,2 % trong hàng tồn kho) dùng cho xây dựng như: xi măng, sắt , thép…chúng ta không phủ nhận là dư trữ là cần thiết nhưng những NVL đó rất sẵn trên thị trường mà giá cả tương đối ổn định, do đó công ty chỉ cần dự trữ những NVL như dàn giáo, côpha còn những nguyên liệu khác là không cần thiết. Ngoài ra khi dự trữ những NVL đó sẽ phải mất thêm chi phí lưu giữ, bảo quản, nếu để lâu trong kho sẽ dẫn đến tình trạng kém phẩm chất từ đó ảnh hưởng đến giá trị công trình thi công. Trong thời gian tới công ty nên giảm bớt dự trữ nguyên vật liệu, từ đó giảm chi phí lưu giữ , bảo quản, bốc xếp. Ngoài
- Xây dựng hợp đồng trách nhiệm của các bên trong việc hoàn thành, bàn giao, thanh toán khối lượng thi công xây lắp trong kỳ. Hai bên có thể thoả thuận về phương thức thanh toán đối với hạng mục, khối lượng thi công xây lắp, tỷ lệ tạm ứng, thanh toán. Để giảm bớt nhu cầu vốn phải huy động từ bên ngoài. Như ở Chương II ta đã phân tích cho thấy, khả năng thanh toán nhanh của công ty năm 2002 là thấp ( cuối năm 2002 là 0,4 < 1 ), như vậy sẽ làm cho tình hình tài chính của công ty không được lành mạnh, phụ thuộc tài chính vào đơn vị khác . Do đó để có thể nâng cao và đảm bảo uy tín của mình trong việc trả lãi và vốn gốc đúng hạn để tạo điều kiện cho công ty vay thêm vốn thì trước mắt công ty cần giảm thiểu hàng hoá tồn kho chuyển nhanh tốc độ chu chuyển vốn vật tư hàng hoá sang vốn bằng tiền tăng khả năng thanh toán nhanh cho công ty. Do đặc điểm ngành nghề kinh doanh nên chi phí sản xuất kinh doanh dở dang tồn cao, nhưng không phải là không có cách khắc phục:
+ Trước khi ký kết hợp đồng công ty cần xem xét khả năng tài chính của công ty đối tác có khả năng thanh toán không.
+ Tham gia đấu thầu xây, lắp các công trình dân dụng vì với những công trình này chủ đàu tư có khả năng thanh toán ngay sau khi công trình hoàn thành.
+ Thiết lập quan hệ chặt chẽ với nhà cung cấp, từ đó có thể thoả thuận với nhà cung cấp về thanh toán khoản phải trả. Công ty có thể thoả thuận sau khi quyết toán công trình, bên A thanh toán thì sẽ trả cho nhà cung cấp các khoản phải trả. Tuy nhiên phương pháp này phải dựa vào uy tín của công ty, cũng như quan hệ đối với nhà cung cấp.
+ Công ty cần hoàn thành nhanh chóng khối lượng công việc, bàn giao sản phẩm cho khách hàng từ đó thu tiền bán hàng tạo điều kiện nâng cao hiệu quả sử dụng VKD.
- Đối với nguồn vốn tạm thời chiếm dụng: Đến thời điểm 31/12/02 công ty đã chiếm dụng 51% trong tổng các khoản phải trả, công ty đã chiếm dụng vốn để sản xuất kinh doanh là điều cần thiết, nhưng bên cạnh việc tận dụng nguồn vốn này trong thời gian được phép thì công ty cần phải đảm bảo trả được nợ để tạo lòng tin với bạn hàng; và không để tình trạng nợ quá hạn hay công ty không có khả năng thanh toán.
2. Tăng cường quản lý VLĐ, phấn đấu tăng tốc độ chu chuyển VLĐ, cải thiện tình hình tổ chức của công ty.
Vốn lưu động của công ty chiếm một tỷ trọng tương đối lớn so với tổng VKD (71.2%) trong đó vốn trong thanh toán chiếm tỷ trọng không nhỏ so với tổng VLĐ , đây là khoản vốn của công ty mà người khác đang sử dụng trong khi công ty đang thiếu vốn do vậy mà công ty cần phải đẩy mạnh công tác thu hồi công nợ góp phần tăng nhanh vòng quay của VLĐ nói riêng và vốn SXKD nói chung.
Trong công tác quản lý các khoản phải thu , để quản lý tốt thì trong thời gian tới công ty có thể áp dụng các biện pháp sau:
- Sắp xếp các khoản phải thu.Theo phương pháp này các nhà quản lý sắp xếp các khoản phải thu theo thứ tự thời gian đã bị chiếm dụng, đặc biệt là các khoản phải thu của khách hàng để tiện theo dõi và có biện pháp đôn đốc khách hàng trả tiền, đồng thời lập quỹ dự phòng phải thu khó đòi nhằm xử lý các khoản phải thu đã qua hạn lâu mà đối tượng nợ không còn hoặc không có khả năng thanh toán.
- Thu hồi nợ bằng cách bán nợ.
- Thực hiện tính lãi cho những khoản nợ đã đến hạn trả nhưng khách hàng vẫn đang chiếm dụng. Như vậy khoản vốn bị chiếm dụng có khả năng sinh lời, đồng thời do mức chi phí chiếm dụng vốn sẽ hạn chế khách hàng kéo dài thời hạn nợ.
Cùng với việc đôn đốc thu hồi các khoản phải thu công ty phải có các phương án thích hợp để trả các khoản vay hay chiếm dụng của khách hàng. Để chấp hành tốt kỷ luật thanh toán công ty phải có phương án trả nợ đủ và đúng theo thời hạn nếu có những khoản nợ đến hạn trả phát sinh vào thời điểm công ty đang thiếu vốn chưa có đủ điều kiện thanh toán thì công ty phải xin gia hạn nợ và phải có ngay biện pháp tìm nguồn trang trải, có như vậy khách hàng, bạn hàng mới tin tưởng và duy trì mối quan hệ lâu dài với công ty, tôn trọng và hợp tác cùng công ty.
Trong 2 năm 2001 - 2002 công tác thu hồi nợ của công ty chưa đạt hiệu quả, lượng vốn của công ty bị chiếm dụng chủ yếu nằm ở khoản phải thu của khách hàng. Cuối năm 2001 khoản phải thu của khách hàng là 8.976.458.117 đồng, cuối năm 2002 tăng lên thành 12.287.602.889 đồng. Đối với hàng tồn kho ta có thể thấy trong năm 2002 lượng hàng tồn kho nhìn chung đã giảm so với năm 2001 nhưng vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng vốn lưu động của công ty. Năm 2001 hàng tồn kho là 8.718.053.117 đồng đến năm 2002 giảm xuống còn 5.698.613.924 đồng có thể xem xét một số nguyên nhân sau:
- Do chính sách tín dụng của công ty đối với khách hàng chưa được tốt, công tác thu hồi nợ còn kém hiệu quả.
- Việc thẩm định tín dụng chưa đạt được hiệu quả dẫn đến các khoản nợ dây dưa khó đòi.
- Thời hạn thanh toán quy định trong một số hợp đồng chưa rõ ràng làm cho việc quyết toán công trình gặp nhiều khó khăn.
- Do công ty có các công trình thi công kéo dài dẫn đến chi phí SXKD tồn nhiều trong kho.
Do đó, để đảm sự ổn định, lành mạnh, tự chủ về mặt tài chính, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển của vốn từ đó góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh công ty cần có các biện pháp hữu hiệu hơn nữa:
+ Quản lý chặt chẽ các khoản nợ phải thu. Trước khi ký kết các hợp đồng và chấp nhận tín dụng công ty cần thẩm định và xem xét khả năng thanh toán của khách hàng cũng như uy tín của khách hàng trên thương trường. Trong hợp đồng ký kết công ty cần quy định rõ ràng, chặt chẽ về thời gian và phương thức thanh toán đối với hạng mục, khối lượng thi công xây lắp, tỷ lệ tạm ứng…yêu cầu các bên phải chịu trách nhiệm đầy đủ nghiêm túc các quy định trong hợp đồng, đề ra các hình thức phạt do vi phạm hợp đồng, phạt nợ quá hạn và phải chịu lãi suất theo lãi suất nợ quá hạn của ngân hàng. Mặt khác công ty phải có phương pháp quản lý các khoản phải thu như quản lý các khoản phải thu theo thời gian, đây là phương pháp mà các nhà quản lý sắp xếp các khoản phải thu của khách hàng để tiện theo dõi và có biện pháp đôn đốc, xử lý. Công ty cần sắp xếp thành các khoản phải thu chưa đến hạn, đã đến hạn và quá hạn. Trong số nợ quá hạn cần theo dõi thành các khoản nợ trên một năm; nợ quá hạn trên hai năm; nợ quá hạn từ ba năm trở lên và nợ khó đòi. Đồng thời tiến hành lập quỹ dự phòng phải thu khó đòi nhằm xử lý các khoản nợ quá hạn quá lâu và các khoản nợ khó đòi. Quỹ dự phòng phải thu khó đòi được dùng để bù đắp cho các khoản phải thu khó đòi mà khả năng không jthu hồi được nợ là 100% nhằm hạn chế những biến động có ảnh hưởng xấu đến tình hình tài chính của công ty. Việc dùng quỹ này để bù đắp các khoản phải thu khó đòi không có nghĩa là xoá nợ, chấm dứt nghĩa vụ trả nợ cho doanh nghiệp mắc nợ mà công ty cần tiếp tục theo dõi và có biện pháp tích cực để thu hồi nợ.
+ Biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý hàng tồn kho. Trong năm 2002 lương hàng tồn kho nhìn chung giảm xuống so với năm 2001 nhưng vẫn ở mức cao. Trong dó chi phí sản xuất kinh doanh dở dang chiếm đa số, điều đó dẫn đến lượng vốn bằng tiền của công ty chiếm một tỷ lệ rất nhỏ chỉ có 0,92%( tính đến thời điểm 31/12/02 ). Do đó trong thời gian tới công ty cần có biện pháp khắc phục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24422.DOC