Tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh hoạt động giao nhận hàng hoá bằng đường biển của Công ty trách nhiệm hữu hạn Nhật Minh Quốc/DANZAS: Lời nói đầu
Xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá hiện đang là xu hướng có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất trên thế giới. Theo xu hướng này, số lượng các Công ty tham gia vào thị trường thế giới ngày một nhiều hơn, dẫn đến sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt hơn, rủi ro cũng nhiều hơn. Điều này cho thấy, để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mình, các Công ty không chỉ luôn chú trọng đến việc nâng cao trình độ quản lý, khả năng huy động vốn hay đổi mới công nghệ… mà còn phải quan tâm đến hiệu quả của các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, làm thế nào để sử dụng tốt các nguồn lực sẵn có, phát huy tối đa các lợi thế về vốn, công nghệ hay nguồn nhân lực… luôn là một bài toán khó đối với lãnh đạo các Công ty.
Là một Công ty một trăm phân trăm vốn nước ngoài nên vấn đề làm gì để nâng cao hiệu quả kinh doanh luôn là một vấn đề được ban lãnh đạo quan tâm nhất. Trước sự tham gia ngày một nhiều các doanh nghiệp vào lĩnh vực kinh doanh dịch vụ giao nhận, thị trường thế giới và Việt Nam trong thời gian qua...
88 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 995 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh hoạt động giao nhận hàng hoá bằng đường biển của Công ty trách nhiệm hữu hạn Nhật Minh Quốc/DANZAS, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá hiện đang là xu hướng có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất trên thế giới. Theo xu hướng này, số lượng các Công ty tham gia vào thị trường thế giới ngày một nhiều hơn, dẫn đến sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt hơn, rủi ro cũng nhiều hơn. Điều này cho thấy, để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mình, các Công ty không chỉ luôn chú trọng đến việc nâng cao trình độ quản lý, khả năng huy động vốn hay đổi mới công nghệ… mà còn phải quan tâm đến hiệu quả của các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, làm thế nào để sử dụng tốt các nguồn lực sẵn có, phát huy tối đa các lợi thế về vốn, công nghệ hay nguồn nhân lực… luôn là một bài toán khó đối với lãnh đạo các Công ty.
Là một Công ty một trăm phân trăm vốn nước ngoài nên vấn đề làm gì để nâng cao hiệu quả kinh doanh luôn là một vấn đề được ban lãnh đạo quan tâm nhất. Trước sự tham gia ngày một nhiều các doanh nghiệp vào lĩnh vực kinh doanh dịch vụ giao nhận, thị trường thế giới và Việt Nam trong thời gian qua có nhiều bất ổn khiến cho việc kinh doanh lĩnh vực giao nhận còn gặp nhiều khó khăn. Do vậy, việc Công ty cần tìm ra những biện pháp hữu hiệu hơn một mặt nâng cao hiệu quả kinh doanh, một mặt nhằm giải quyết một số vướng mắc trong quá trình kinh doanh là điều hết sức cấp thiết. Xuất phát việc nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này đối với thực tế Công ty, cộng với sự khích lệ của cô giáo và bạn bè nên em mạnh dạn chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hoá bằng đường biển ở Công ty TNHH Nhật Minh Quốc/DANZAS” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Mục đích của đề tài: Tiến hành phân tích, đánh giá các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty TNHH Nhật Minh Quốc/ DANZAS trong thời gian qua. Đồng thời chỉ ra những ưu điểm, nhược điểm và các nguyên nhân của những tồn tại đó. Cuối cùng, vận dụng tư duy kinh tế và cơ chế kinh doanh hiện hành, em xin mạnh dạn đề xuất "Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh hoạt động giao nhận hàng hoá bằng đường biển của Công ty TNHH Nhật Minh Quốc/DANZAS."
Phương pháp nghiên cứu: vận dụng phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với tư duy đổi mới nền kinh tế của Đảng và Nhà nước, và lấy đó làm đề để nhận xét và đánh giá về hoạt động xúc tiến thương mại hiện tại của Công ty.
Kết cấu đề tài gồm 3 phần
Lời nói đầu
Chương I: Một số vấn đề lý luận về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng hiệu quả kinh doanh dịch vụ giao nhận vận tải của Công ty TNHH Nhật Minh Quốc.
Chương III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Công ty TNHH Nhật Minh Quốc
Chương1: Một số vấn đề lý luận về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
1.1. Khái niệm, bản chất và sự cần thiết nâng cao hiệu quả kinh doanh
1.1.1.Khái niệm hiệu quả kinh doanh
Ta biết rằng, hiệu quả kinh doanh (KD) là phạm trù kinh tế có quan hệ với tất cả các yếu tố trong quá trình kd. Để đạt được hiệu quả cao, các doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả các yếu tố cơ bản của quá trình kd. Từ trước đến nay, các nhà kinh tế đã đưa ra rất nhiều khái niệm khác nhau về hiệu quả sxkd của doanh nghiệp. Một cách nhìn cách nhìn nhận đó đượcdiễnđạtnhưsau:- Hiệu quả KD là mức độ hữu ích của sản phẩm sản xuất ra, tức là giá trị sử dụng của nó (hoặc là doanh thu và nhất là lợi nhuận thu được sau quá trình kinh doanh.
-Hiệu quả KD là sự tăng trưởng kinh tế phản ánh qua nhịp độ tăng của các chỉ tiêu kinh tế. Cách hiểu này là phiến diện, chỉ đứng trên góc độ biến động theo thời gian.
Hiệu quả KD là mức độ tiết kiệm chi phí và mức tăng kết quả. Định nghĩa này mới biểu hiện về bản chất chứ không nêu ra được khái niệm về hiệu quả KD.
Hiệu quả KD là chỉ tiêu được xác định bằng tỷ lệ so sánh giữa kết quả với chi phí. Định nghĩa theo cách này mới chỉ muốn nói về cách xác lập các chỉ tiêu, chứ không toát nên được ý niệm của vấn đề.
Hiệu quả KD là mức tăng của kết quả KD trên mỗi lao động hay mức danh lợi của vốn KD. Quan điểm này quy hiệu quả về một chỉ tiểu tổng hợp một cách nào đó ...
Bởi vậy, chúng ta cần có một khái niệm thống nhất mang tính bao quát hơn :
Hiệu quả KD là phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực đó trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. Nó là thước đo ngày càng trở nên quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh giá việc thực hiện các mục tiêu kinh tế của doanh ngiệp trong từng thời kỳ.
Qua khái niệm trên đây cho ta thấy, cần hiểu phạm trù kinh tế hiệu quả sản xuất kinh doanh một cách đầy đủ cả hai mặt định lượng và định tính.
+ Đối với mặt định lượng : Hiệu quả KD của việc thực hiện mỗi nhiệm vụ kinh tế, xã hội biểu hiện ở mối tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Nếu xét về tổng lượng người ta chỉ thu được hiệu quả kinh tế khi nào kết quả lớn hơn chi phí, chênh lệch này càng lớn thì hiệu quả càng cao.
+ Đối với định tính : Mức độ hiệu quả KD phụ thuộc vào sự cố gắng nỗ lực trình độ tổ chức quản lý của mỗi khâu, bộ phận trong doanh nghiêp cùng với sự gắn bó trong việc giải quyết các mục tiêu kinh tế với những yêu cầu mục tiêu kinh tế xã hội.
*Các quan điểm cơ bản về hiệu quả KD.
Trong thực tế không phải ai cũng hiểu biết và quan niệm giống nhau về hiệu quả kinh tế và chính đIều nay đã làm thủ tiêu những cố gắng, lỗ lực mặc dù ai cũng muốn làm tăng hiệu quả kinh tế. Như vậy khi đề cập đến vấn đề hiệu quả kinh tế chúng ta phải xem xét một cách toàn diện về mặt không gian và thời gian trong mối quan hệ giữa hiệu quả chung của toàn xã hội.
Khi đề cập đến vấn đề hiệu quả sản xuất kinh doanh có thể đứng trên các góc độ khác nhau để xem xét. Nếu theo mục đính cuối cùng thì hiệu quả KD là hiệu số giữa kết quả thu về và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Trên góc độ này mà xem xét thì phạm trù hiệu quả KD có thể đồng nhất vói lợi nhuận. Hiệu quả KD cao hay thấp là tuỳ thuộc vào trình độ tổ chức sản xuất và tổ chức quản lí trong các doanh nghiêp. nếu đứng trên góc độ từng yếu tố riêng lẻ để xem xét thì hiệu quả là thể hiện trình độ và khả năng sử dụng các yếu tố trong quá trình KD.
Cũng giống như một số chỉ tiêu khác, hiệu quả KD là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố trong quá trình, đồng thời là một phạm trù kinh tế gắn với nền kinh tế hàng hoá, sản xuất hàng hoá có phát triển hay không là nhờ vào hiệu quả đạt được cao hay thấp. Biểu hiện của hiệu quả KD là lợi ích mà thước đo cơ bản của lợi ích là “ tiền”. Vấn đề cơ bản trong lĩnh vực quản lí là phải biết kết hợp hài hoà giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích trung ương và lợi ích điạ phương, giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích nhà nước.
Hiệu quả KD vùa là phạm trù cụ thể, vừa là phạm trù trừu tượng, nếu là phạm trù cụ thể thì trong công tác quản lí phải định lượng thành các chỉ tiêu, con số để tính toán, so sánh, nếu là phạm trù trừu tượng phải được định tính bằng mức độ quan trọng hoặc vai trò của nó trong lĩnh vực KD. Có thể nói rằng, phạm trù hiệu quả là kiến thức thường trực của mọi cán bộ quản lí, được ứng dụng rộng rãi vào mọi khâu, mọi bộ phận trong quá trình KD.
Trên các nội dung vừa phân tích ta có thể thấy, hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiêp đạt được trong các trường hợp sau:
-Kết quả tăng, chi phí giảm.
-Kết quả tăng, chi phí tăng, nhưng tốc độ tăng của chi phí chậm hơn tốc độ tăng của kết quả KD. Trường hợp thứ hai diễn ra chậm hơn và trong KD có những lúc chúng ta phải chấp nhận: Thời gian đầu tốc độ tăng của chi phí lớn hơn tốc độ tăng của KD, nếu không thì doanh nghiêp không thể tồn tại và phát triển.
Trường hợp này diễn ra vào các thời điểm khi chúng ta đổi mới công nghệ, đổi mới mặt hàng hoặc phát triển thị trường mới ...Đây chính là một bài toán cân nhắc giữa việc kết hợp lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài.
Thông thường thì mục tiêu tồn tại của doanh nghiêp trong điều kiện tối thiểu nhất là các hoạt động KD của các doanh nghiêp phải tạo ra thu nhập về tiêu thụ hàng hoá đủ bù đắp bỏ ra để bỏ ra để sản xuất hàng hoá ấy. Còn mục tiêu phát triển của doanh nghiêp đòi hỏi quá trình KD vừa bảo đảm bù đắp chi phí đã bỏ ra, vừa có tích luỹ để tiếp tục quá trình tái sản xuất mở rộng. Sự phát triển tất yếu đó đòi hỏi các doanh nghiêp phải phấn đấu nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đây là mục tiêu cơ bản của doanh nghiêp.
1.2. Bản chất của hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiêp.
Hiệu quả KD là phạm trù phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động KD phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất (Lao động, máy móc, vốn, nguyên vật liệu) trong quá trình tiến hành các hoạt động KD của doanh nghiệp.
ở đây chúng ta cần phân biệt sự khác nhau và mối quan hệ giữa hiệu quả KD và kết quả KD kết quả là phạm trù phản ánh cái thu được trong quá trình kinh doanh hay một khoảng thời gian kinh doanh nào đó. Kết quả bao giờ cũng là mục tiêu của doanh nghiêp, có thể biểu hiện bằng đơn vị hiện vật hay giá trị. Cả kết quả định tính và kết quả định lượng đều khó tính cho một thời kì kinh doanh vì nhiều lí do như kết quả không chỉ là sản phẩm hoàn chỉnh mà còn là sản phẩm dở dang, bán thành phẩm. Hơn nữa, hầu như quá trình sản xuất là tách rời qúa trình tiêu thụ nên ngay cả một sản phẩm sản xuất xong ở một thời kì nào đó cũng không thể khẳng định được liệu sản phẩm đó có tiêu thụ đượchay không và bao giờ thi thu tiền về. Trong khi đó hiệu quả là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất. Trình độ lợi dụng các nguồn lực không thể đo bằng các đơn vị hiện vật hay giá trị mà một phạm trù tương đối. Cần chú ý rằng trình độ lợi dụng các nguồn lực chỉ có thể tính bằng và phản ánh bằng số tương đôí còn chênh lệch giữa kết qủa và chi phí luôn là số tuyệt đối. Qua đó ta thấy rằng, nếu kết quả là mục tiêu của quá trình KD thì hiệu quả là phương tiện để đạt được mục tiêu đó.
Như vậy, bản chất của hiệu quả KD là nâng cao năng suất lao động xã hội tiết kiệm lao động xã hội, đây là hai mặt có mối quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả kinh tế. Chính việc khan hiếm nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính cạnh tranh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, đặt ra yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để và tiết kiệm các nguồn lực. Để đạt được mục tiêu kinh doanh, các doanh nghiêp buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực hiệu năng của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm chi phí.Vì thế, yêu cầu của việc nâng cao hiệu qu là đạt được kết quả tối đa với chi phí tối thiểu. Chi phí ở đây được hiểu theo nghĩa rộng là chi phí tạo ra nguồn lực và chi phí sử dụng nguồn lực, đồng thời phải bao gồm cả chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội là giá trị của việc lựa chọn tốt nhất đã bỏ qua, hay là giá trị của việc hi sinh công việc kinh doanh khác để thực hiện hoạt động kinh doanh này.
Chi phí cơ hội phải được bổ sung vào chi phí kế toán và loại ra khỏi lợi nhuận kế toán để thấy rõ lợi ích kinh tế thực sự .Cách tính như vậy sẽ khuyến khích các nhà kinh doanh lựa chọn phương hướng kinh doanh tốt nhất, các mặt hàng sản xuất có hiệu quả hơn.
1.3 Mục đích và ý nghĩa của việc đảm bảo và nâng cao hiệu quả KD trong doanh nghiệp.
1.3.1 Mục đích của việc đảm bảo nâng cao hiệu qủa của KD trong doanh nghiêp.
Bất kì một doanh nghiệp nào khi tiến hành KD cũng đều theo đuổi mục tiêu bao trùm và lâu dài đó là lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này doanh nghiệp phải sử dụng rất nhiều phương pháp khác nhau. Hiệu quả KD cho biết trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào và phản ánh trình độ công nghệ, quản lí...của doanh nghiệp. Dựa vào phân tích hiệu quả kinh doanh, dựa vào phân tích hiệu quả của mình. Doanh nghiệp có cách nhìn sâu sắc về điểm mạnh, điểm yếu trong KD, để từ đó phân tích các nhân tố, đưa ra các phương pháp thích hợp trên cả hai phương diện: tăng kết quả, giảm chi phí kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả.
Bản chất của phạm trù hiệu quả chỉ rõ trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất. Trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất càng cao thì doanh nghiệp càng có khả năng tạo ra kết quả nhiều hơn với cùng một quy mô đầu vào. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp đạt được mục tiêu lợi nhuận tối đa. Mà trong điều kiện hiện nay muốn tồn tại phát triển không còn con đường nào khác là phải đạt được lợi nhuận ngày càng cao, vì chỉ có vậy doanh nghiệp mới có điều kiện mở rộng sản xuất theo chiều rộng cũng như theo chiều sâu, trên thực tế sự sụp đổ của lí thuyết Keynes, sự giảm phát ở những doanh nghiệp do không quan tâm tới hiệu quả là một minh chứng rõ ràng.
Trong thời kì sản xuất bao cấp, các doanh nghiệp hoạt động theo chỉ tiêu, mệnh lệnh do nhà nước đề ra và chỉ quan tâm đến sản lượng chứ không quan tâm đến hiệu quả hay chất lượng. Việc sử dụng và quản lí thiếu khoa học các yếu tố đầu vào đã gây nên tình trạng thiếu hiệu quả trầm trọng. Đây là nguyên nhân chính gây ra tình trạng lạc hậu, thụt lùi của nước ta so với khu vực và thế giới.
Do đó xét trên cả lí luận và thực tiễn, phạm trù hiệu qủa KD đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá, so sánh, phân tích kinh tế nhằm tìm ra giải pháp tối ưu nhất, đưa ra phương pháp đúng đắn nhất nhằm đạt được mục tiêu lợi nhuận tối đa. Với tư cách là công cụ đánh giá, so sánh phân tích kinh tế phạm trù hiệu quả KD không chỉ được sử dụng ở giác độ tổng hợp, đánh giá chung tình hình sử dụng các nguồn lực đầu vào trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn sử dụng để đánh giá trình độ các yếu tố đầu vào cũng như từng bộ phận cấu thành trong doanh nghiệp. Do tầm quan trọng của phạm trù hiệu quả như phương mà là còn một mục tiêu cần đạt được.
1.3.2. ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả KD.
Việc nâng cao hiệu quả KD có ý nghĩa ngày càng lớn trong đièu kiện hiện nay. Đây không là công cụ, mục tiêu của riêng doanh nghiệp mà còn mang ý nghĩa lớn đối với toàn xã hội.
*Đối với nền kinh tế quốc dân.
Hiệu quả KD đem lại cho nền kinh tế một sức mạnh vững chắc trong cơ chế thị trường. Chúng ta biết rằng một nền kinh tế chỉ dược coi là mạnh khi mỗi tế bào doanh nghiệp trong nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Thật vậy nguồn lực khan hiếm trở thành mối quan tâm hàng đầu của toàn nhân loại trong vài thập kỉ gần đây, bản thân doanh nghiệp cũng thấy rằng họ phải chi trả nhiều hơn cho cùng một yếu tố đầu vào của sản xuất. Tóm lại hiệu quả KD càng được nâng cao thì càng tạo điều kiện cho quốc gia sự phân bố và sử dụng một cách hợp lí các nguồn lực của mình tạo đà đua nền kinh tế lên tầng cao mới.
*Đối với doanh nghiệp.
Hiệu quả KD hay nói trực tiếp là lợi nhuận thu đuợc xét về mặt kinh tế mà nói Đây chính là các nguồn lực chính nhằm tái sản xuất mở rộng, nâng cao đời sống cán bộ nhân viên trong doanh nghiệp. Cho nên doanh nghiệp lấy hiệu quả KD làm cơ sở đánh giá việc sử dụng các yếu tố đầu vào có hợp lí hay không để từ đó có phuơng pháp phối hợp các yếu tố nhằm đạt được kết quả cao nhất. Chính điều này quyết định sự thành công hay thất bại trong cạnh tranh của doanh nghiệp. Hơn nữa mục tiêu bao trùm và lâu dài của mọi hoạt động KD là tối đa hoá lợi nhuận. Để thực hiện mục tiêu này, doanh nghiệp phải tiến hành KD tạo ra sản phẩm sao cho phù hợp với thị hiếu và đáp ứng đủ nhu cầu. Việc sử dụng tiết kiệm và vận hành có hiệu quả quá trình sản xuất sẽ làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Như vậy nâng cao hiệu quả KD chính là đòi hỏi khách quan để chính doanh nghiệp thực hiện các mục tiêu bao trùm, lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận, đồng thời là căn cứ quan trọng và chính xác nhất để doanh nghiệp đánh giá được thực lực của mình và giúp cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn đặc biệt trong cơ chế thị trường.
* Đối với người lao động.
Hiệu quả KD là động lực thúc đẩy người lao động hăng say sản xuất, luôn quan tâm đến hiệu quả lao động của mình và như vậy sẽ đạt được hiệu quả cao. Nâng cao hiệu quả KD đồng nghĩa với nâng cao đời sống của người lao động trong doanh nghiệp do đó tạo động lực trong sản xuất làm tăng năng suất góp phần nâng cao hiệu quả KD.
1.4.Các loại hiệu quả.
Hiệu quả có thể được đánh giá ở các góc độ khác nhau, phạm vi khác nhau và ở các thời kì khác nhau. Để hiểu rõ hơn bản chất của phạm trù hiệu quả KD, chúng ta cần đứng trên nhiều góc độ cụ thể mà phân biệt các loại hiệu quả: Hiệu quả xã hội. Hiệu quả kinh tế, hiệu quả kinh tế xã hội, và hiệu quả KD.
Hiệu quả xã hội:
Hiệu quả xã hội là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực có sản xuất xã hội nhằm đạt được các mục tiêu xã hội nhất định các mục tiêu đó là: Giải quyết công ăn việc làm, nâng cao phúc lợi xã hội, nâng cao mức sống cho người lao động, cải thiện điều kiện cho người lao động ...Hiệu quả xã hội thường gắn với các mô hình kinh tế hỗn hợp và trước hết cần được đánh giá và giải quyết ở góc độ vĩ mô.
Hiệu quả kinh tế:
Hiệu quả kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được các mục tiêu kinh tế của một thời kì nào đó. Hiệu quả kinh tế thường được nghiên cứu ở góc độ quản lí vĩ mô và phải chú ý rằng không phải bao giờ hiệu quả kinh tế và hiệu quả KD là vận động cùng chiều. Mỗi khi doanh nghiệp đạt được hiệu quả KD cao không có nghĩa là nền kinh tế đã đạt được hiệu quả kinh tế cao bởi vì kết quả của mỗi nền kinh tế đạt được trong mỗi thời kì không phải lúc nào cũng là tổng đơn thuần của các kết quả của từng doanh nghiệp.
Hiệu quả kinh tế xã hội:
Hiệu quả kinh tế xã hội phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất xã hội để đạt được các mục tiêu kinh tế nhất định. Hiệu quả kinh tế xã hội gắn liền vớinền kinh tế hỗn hợp và được xem xét ở góc độ vĩ mô.
Hiệu quả KD:
Hiệu quả KD và hiệu quả kinh tế xã hội là hai phạm trù khác nhau, giải quyết ở hai góc độ khác nhau. Song lại có quan hệ biện chứng với nhau. Hiệu quả kinh tế xã hội đạt được ở mức độ tối đa là mức hiệu quả thoả mãn tiêu chuẩn Pareto. Trong thực tế do các doanh nghiêp giảm chi phí kinh doanh biên thấp hơn chi phí kinh doanh biên xã hội nên có sự tách biệt giữa hiệu quả KD và hiệu quả xã hội. Do đó cần có sự đúng đắn trong can thiệp của nhà nước. Tuy nhiên mỗi doanh nghiêp là tế bào của nền kinh tế xã hội nên đều phải có nghĩa vụ góp phần thực hiện các mục tiêu xã hội tuỳ theo quy định của nhà nước cho từng loại hình doanh nghiêp (kinh doanh hay công ích) cũng như từng hình thức pháp lí của doanh nghiêp.
Ngày nay, các doanh nghiêp không chỉ quan tâm đến hiệu quả KD mà còn quan tâm mà còn quan tâm tới hiệu quả kinh tế xã hội vì doanh nghiêp nhận thức được rằng việc thực hiện các mục tiêu xã hội làm tăng uy tín, danh tiếng cho doanh nghiêp và tác động tích cực lâu dài đến hoạt động KD của doanh nghiêp.
Hiệu quả kinh doanh tổng hợp và hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất :
Hiệu quả KD tổng hợp: Hiệu quả KD tổng hợp phản ánh trái phép và cho phép kết luận về hiệu quả trong quá trinh KD của doanh nghiêp (hay một đơn vị bộ phận của doanh nghiêp) trong một thời kì xác định.
Hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất: Hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất là hiệu quả chỉ xét ở từng lĩnh vực hoạt động ( Lao động, vốn, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu ...) cụ thể của doanh nghiêp. Hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất chỉ phản ánh hiệu quả ở từng lĩnh vực hoạt động của doanh nghiêp chứ không phản ánh hiệu quả của doanh nghiêp.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh
1.2.1.Các nhân tố làm tăng kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
+Tốc độ tăng trưởng kinh tế : Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao làm cho thu nhập của dân cư tăng khi đó khả năng thanh toán của người tiêu dùng cũng tăng điều này có nghĩa sức mua các loại hàng và dịch vụ của người dân tăng lên, đây chính là cơ hội cho các nhà doanh nghiệp, nếu như doanh nghiệp nào nắm bắt được cơ hội thì hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đó sẽ được nâng lên. Do vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ yếu tố này để có kế hoạch kinh doanh hợp lý, từ đó đạt doanh thu nhiều nhất và do vậy sẽ đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất.
+Khách hàng.
Khách hàng là yếu tố quan trong đối với sự tồn tại của doanh nghiệp. Nếu như sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra mà không được người tiêu dùng chấp nhận thì hoạt động sản xuất kinh doanh không thể tiếp tục. Muốn khách hàng chấp nhận, hàng hoá lại phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác như thu nhập, tâm lý, sở thích người tiêu dùng, chất lượng sản phẩm
1.2.2 Các nhân tố làm giảm chi phí kinh doanh
+Yếu tố về lãi suất vay: Lãi suất cho vay của ngân hàng cũng ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nếu như lãi suất cho vay của ngân hàng mà thấp thì chi phí trả lãi vay sẽ thấp, kinh doanh sẽ hiệu quả hơn còn lãi suất cho vay của ngân hàng mà cao thì chi phí trả lãi vay sẽ cao, tích luỹ vốn sẽ chậm ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh.
+Môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý bao gồm các luật, các văn bản dưới luật ...Mọi quy định của pháp luật về kinh doanh đều ảnh hưởng tới kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiêp. Vì môi trường pháp luật tạo ra sân chơi để các doanh nghiêp cùng tham ra hoạt động kinh doanh, vừa cạnh tranh lại vừa hợp tác với nhau nên việc tạo ra môi trường pháp luật lành mạnh là rất quan trọng. Một môi trường pháp luật lành mạnh vừa tạo ra điều kiện cho các doanh nghiêp tiến hành thuận lợi các hoạt động KD của mình, lại vừa điều chỉnh các hoạt động kinh tế vi mô theo hướng không chỉ chú ý đến lợi ích và kết quả của mình mà còn phải chú ý đến các thành viên khác trong xã hội. Môi trường pháp lý đảm bảo tính bình đẳng của mọi loại hình doanh nghiêp sẽ điều chỉnh, các doanh nghiêp hoạt đông kinh doanh, cạnh tranh nhau một cách lành mạnh; mỗi doanh nghiêp buộc phải chú ý đến nhân tố nội lực, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật và khoa học quản trị tiên tiến để tận dụng cơ hội bên ngoại nhằm phát triển kinh doanh của mình.
Tiến hành các hoạt đọng kinh doanh mỗi doanh nghiêp có nghĩa vụ tiến hành điều chỉnh mọi quy định của pháp luật, kinh doanh trên thị trường quốc tế mỗi doanh nghiêp phải nắm chắc luật pháp, quy định của nước sở tại và tiến hành các hoạt động KD trên cơ sở tôn trọng pháp luật của nước đó.
Tính nghiêm minh của pháp luật thể hiện trong môi trường kinh doanh thực tế ở mức độ nào đó cũng tác động mạnh mẽ đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiêp. Sẽ có kết quả và hiệu qủa tích cực nếu môi trường kinh doanh mà mọi thành viên đều tuân thủ pháp luật, ngược lại thì sẽ lao vào con đường làm ăn bất chính, làm môi trương kinh doanh không còn lành mạnh. Trong môi trường này nhiều khi kết quả và hiệu quả kd không do các yếu tố nội lực tức doanh nghiêp quyết định dẫn đến những thiệt hại rất lớn cho nền kinh tế và làm sói mòn đạo đức xã hội.
+Môi trường kinh tế: Môi trường kinh tế trước hết phải kể đến các chính sách đầu tư, chính sách phát triển kinh tế, chính sách cơ cấu ... Các chính sách kinh tế vĩ mô này tạo ra sự ưu tiên hay kìm hãm sự phát triển của từng ngành, của từng vùng kinh tế cụ thể, do đó tác động đến hiệu quả và kết quả kinh doanh của các doanh nghiêp thuộc các ngành vùng kinh tế nhất định.
Việc tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, các cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế làm tốt công tác dự báo để điều tiết đúng đắn các hoạt động đầu tư, không để ngành, vung kinh tế nào phát triển theo xu hướng cung vượt cầu; việc thực hiện tốt sự hạn chế phát triển độc quyền, kiểm soát độc quyền tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng; việc quản lý tốt các doanh nghiêp nhà nước không tạo ra sự khác biệt đối xử giữa các loại hình doanh nghiêp nhà nước với các loại hình doanh nghiêp khác.
Việc xử lý tốt các quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ tỷ giá hối đoái, việc đưa ra các chính sách thếu phù hợp với trình độ kinh tế và đảm bảo tính công bằng ... Đều là những vấn đề hết sức quan trọng, tác động mạnh mẽ đến hiệu quả KD của các doanh nghiêp có liên quan.
Trong nền kinh tế hàng hoá, thị trường là một yếu tố cơ bản quyết định quá trình KD. Thị trường đầu vào có ảnh hưởng đến tính liên tục và tính hiệu qủa của sản xuất, còn thị trường đầu ra quyết định quá trình tái sản xuất và tính hiệu quả trong kinh doanh. Đây là một nhân tố không có gì có thể kiểm soát nổi đối với các doanh nghiêp KD .
+ Cơ sở hạ tầng: Các yếu tố này bao gồm: Đường giao thông, hệ thống giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, điện nước ...Cũng như sự phát triển của hệ thống giáo dục đều là những nhân tố trực tiếp tác động đến hiệu quả KD của các doanh nghiêp. Những doanh nghiêp kinh doanh ở những khu vực có hệ thống giao thông thuận lợi, điện nước đầy đủ, điều kiện học vấn của dân cư ở đó cao thì doanh nghiêp đó sẽ thuận lợi để phát triển sản xuất và tăng tốc đọ tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, giảm chi phí KD ... Và do đó, nâng cao hiệu quả sản xuất của minh. Ngược lại, ở nhiều vùng nông thôn miền núi, biên giới; hải đảo có cơ sở hạ tầng yếu kém, không thuận lợi cho mọi hoạt động như : Vận chuyển, mua bán hàng hoá ...Thì doanh nghiêp đó sẽ không thu được hiệu quả cao, thậm chí sản phẩm làm ra có giá trị nhưng cũng không thể tiêu thụ được dẫn đến hiệu quả KD thấp.
Trình độ dân trí cũng tác động rất lớn đến chất lượng của lực lượng lao động xã hội nên tác động trực tiếp đến nguồn nhân lực của mỗi doanh nghiêp. Chất lượng của nhân tố lao động lại là những nhân tố bên trong ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả KD.
+Phong tục tập quán và môi trường văn hoá - xã hội.
Có thể đây là nhân tố thay đổi lớn nhất. Những lối sống thay đổi theo hướng du nhập những lối sống mới luôn là cơ hội cho doanh nghiêp. Do vậy, khi hoạch định chiến lược để đảm bảo kinh doanh - sản xuất có hiệu quả cao thì doanh nghiêp cũng phải tính đến thái độ tiêu dùng, sự thay đổi của tháp tuổi, tỷ lệ kết hôn và sinh đẻ, vị trí vai trò của người phụ nữ tại nơi làm việc và gia đình. Sự xuất hiện của các hiệp hội tiêu dùng, trình độ dân trí ngày càng cao đã đang là thách thức đối với các doanh nghiêp.
+Cơ sở hạ tầng, kỹ thuật công nghệ của doanh nghiêp:
Nhân tố này cho phép các doanh nghiêp nâng cao sản xuất chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Nhờ đó mà tăng khả năng cạnh tranh, tăng vòng quay của vốn lưu động, tăng lợi nhuận, bảo đảm thực hiện hiện yêu cầu quy luật sản xuất mở rộng.
Cơ sở vật chất đóng vai trò quan trọng trong quá trìng KD, nó là yếu tố hữu hình phục vụ cho quá trình KD của doanh nghiêp, nó làm nền tảng quan trọng để doanh nghiêp nghiệp tiến hành các hoạt động KD. Cơ sở vật chất đem lạI sức mạnh kinh doanh cho các doanh nghiệp trên cơ sở sinh lời của tài sản. Cơ sở vật chất dù chiếm tỷ lệ lớn hay nhỏ trong tổng tài sản của doanh nghiêp thì nó vẫn thể hiện bộ mặt của hệ thống KD của doanh nghiêp như: Hệ thống nhà xưởng, kho tàng, bến bãi ... Cơ sở kỹ thuật của doanh nghiêp nếu được bố trí hợp lý thì hiệu quả KD sẽ càng cao và là một lợi thế trong kinh doanh của doanh nghiệp.
Trình độ kỹ thuật và trình độ công nghệ sản xuất của doanh nghiêp ảnh hưởng trực tiếp tới năng xuất, chất lượng sản phẩm, ảnh hưởng tới mức độ tiết kiệm hay lãng phí của nguyên vật liệu. Do đó, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả KD của doanh nghiêp: Nếu doanh nghiệp có trình độ kỹ thuật sản xuất cao, có công nghệ sản xuất tiên tiến hiện đại sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu, nâng cao năng xuất và chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, còn công nghệ sản xuất lạc hậu, kỹ thuật kém sẽ làm cho doanh nghiệp giảm năng xuất, sản phẩm kém chất lượng làm cho khả năng cạnh tranh bị giảm sút. Thực tế cho thấy, trình đọ công nghệ tỷ lệ thuận với hiệu quả KD trong doanh nghiệp .
+Lực lượng lao động:
Con người chính là nền tảng cho mội sự phát triển và tiến bộ xã hội và là yếu tố đầu vào quan trọng của sản xuất. Bởi vậy, người lao động luôn là quan tâm hàng đầu của mọi doanh nghiệp. Trong thời đại ngày nay khoa học công nghệ phát triển như vũ bão và đôi khi có quan điểm cho rằng đó mới thực sự là lực lượng sản xuất trực tiếp. Nhưng tạo ra khoa học - công nghệ - kỹ thuật lại là con người, máy móc dù tối tân đến đâu cũng do con người tạo ra. Trongmột doanh nghiệp, máy móc dù hiện đại đến đâu cũng phải phù hợp với trình độ tổ chức, trình độ kỹ thuật và sử dụng của người lao động thì mới phát huy được tác dụng, thực tế cho thấy do trình độ kém hiểu biết về công nghệ - kỹ thuật đã nhập phải công nghệ lạc hâụ, ngay cả khi có được công nghệ hiện đại của nước ngoài nhưng không có khả năng vận hành dẫn đến lãng phí năng lực sản xuất. Đến đây ta có thể khẳng định rằng, lao động đã tham gia vào mọi khâu, mọi giai đoạncủa quá trình sản xuất và tác động trực tiếp tới năng xuất và chất lượng sản phẩm. Đồng thời, công tác tổ chức, đào tạo và phân công, bố trí lao động hợp lýgiữa các bộ phận sản xuất sao cho đúng người, đúng việc mới phát huy và khai thác được tính năng độc lập và sáng tạo của người lao động, đây là yếu tố không thể thiéu trong việc nâng cao hiệu quả KD . Như vậy nếu ta coi chất lương lao động là điều kiện cần thiết để tiến hành hoạt động KD thì công tác tổ chức lao động một cách hợp lý là điều kiện đủ để doanh nghiệp tổ chức KD có hiệu quả.
Có thể nói, lực lượng lao động là nhân tố tác động trực tiếp và tác động mạnh mẽ đến hiệu quả KD vì hai lý do sau:
+ Lao động bằng sáng tạo của mình, tạo ra công nghệ mới, thiết bị máy móc mới, nguyên vật liệu mới...Có hiệu quả và năng xuất lớn hơn trước.
+ Lao động trực tiếp điều khiển thiết bị, máy móc tạo ra kết quả cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, cần phải nói đến yếu tố kích thích lao động có hiệu quả đó là tiền lương, thưởng và các khoản phụ cấp khác. Yếu tố này cho phép doanh nghiệp khai thác tối đa tiềm năng về lao động, tạo điều kiện cho mọi người phát huy đầy đủ cho mọi người chủ động và sáng tạo trong KD. Tiền lương là thu nhập chính của người lao động, là yếu tố trực tiếp ảnh hưởng đén hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, khi sử dụng chính sách tiền lương cần phải đảm bảo khuyến khích người lao động tăng năng xuất vưà phải làm tăng hiệu quả KD của doanh nghiệp.
+Tổ chức quá trình KD:
Thứ nhất, tổ chức bộ máy quản lý:
Đây là nhân tố cho phép doanh nghiệp sử dụng tiết kiệm và hợp lý các yếu tố vật chất trong quá trình KD, giúp lãnh đạo doanh nghiệp đề ra các quyết định đúng đắn về KD, tạo ra những động lực to lớn để kích thích sản xuất phát triển.
Các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường thì bộ máy quản trị doanh nghiệp có vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Bộ máy quản trị doanh nghiệp phải thực hiện đồng thời nhiều nhiệm vụ khách quan :
+ Nhiệm vụ đầu tiên là xây dựng cho doanh nghiệp một chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp đúng đắn. Bởi vì chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp là cơ sở đầu tiên mang lại hiệu quả hay phi hiệu quả, thành công hay thất bại trong nền kinh tế thị trường.
+ Xây dựng kế hoạch KD, các phương án KD và kế hoạch hoá các hoạt động của doanh nghiệp trên cơ sở những chiến lược KD và phát triển mà doanh nghiệp đã xây dựng.
+ Tổ chức thực hiện các kế hoạch, các phương án và các hoạt động sản xuất kinh doanh đã đề ra.
+ Tổ chức đánh giá, kiểm tra và điều chỉnh quá trình trên.
Qua các chức năng trên, ta có thể khẳng định được rằng bộ máy quản trị doanh nghiệp có vai trò hết sức quan trọng và có quyết định rất lớn đến hiệu quả KD của doanh nghiệp. Nếu bộ máy quản trị được tổ chức với cơ cấu phù hợp, gọn nhẹ linh hoạt, có sự phân chia nhiệm vụ, chức năng rõ ràng với đội ngũ quản trị viên có năng lực và tinh thần trách nhiệm cao, phong cách lãnh đạo khoa học sẽ đảm bảo cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
+Vốn là một trong ba yếu tố cơ bản của quá trình hoạt động KD nhưng nó là yếu tố quyết định để duy trì sản xuất, đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng việc làm và thu nhập cho người lao động...Từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường, mở rộng xuất khẩu và nâng cao hiểu quả hoạt động KD. Do vậy, công tác huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, đúng mục đích sẽ mang lại hiệu quả cao.
+Hệ thống trao đổi và xử lí thông tin:
Ngày nay thông tin đóng vai trò quan trọng đối với các doanh nghiệp. Nó được coi là hàng hoá, là đối tượng lao động trong kinh doanh. Các thông tin về doanh nghiệp, đối, thủ, về công nghệ, nhu cầu thị truờng...luôn là nhu cầu lớn của mọi doanh nghiệp. Những thông tin đầy đủ kịp thời và chính xác đôi khi mang lại hiệu quả không thể xác định được bằng giá trị. Nó là cơ sở để doanh nghiệp xác định phương hướng kimh doanh, chiến lược kinh doanh dài hạn. Hiệu quả được nâng cao nhờ khai thác tốt hệ thống thông tin. Tuy vậy không phải mọi thông tin đều có giá trị khi thu nhập được, do đó doanh nghiệp cầnphải có hệ thống xử lí thông tin để chắt nọc những thông tin quan trọng từ núi thông tin thu nhập đuợc trước khi ra quyết định kinh doanh cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã thúc đẩy và đòi hỏi mỗi nước bắt tay vào xây dựng nền kinh tế tri thức. Nhu cầu về thông tin của các doanh nghiệp ngày càng lớn đòi hỏi phải phát triển hệ thống thông tin dưới nhiều hình thức khác nhau, và phải cập nhập hàng ngày.
Mặt khác, thông tin còn làm phương tiện truyền tải, khuếch trương về sản phâm và danh tiếng cho công ty ra bên ngoài thị trường, trong nội bộ thông tin giúp phá vỡ rào cản, cho phép thông tin được chia sẻ giữa các phòng ban, các công nhân sản xuất, làm giảm thời gian của chu kì và thời gian lãng phí, thông suất các đơn đặt hàng, giúp doanh nghiệp có thể dễ dàng trong giao tiếp với khách hàng và các nhà cung ứng nhanh chóng giải quyết những vấn đề vướng mắc.
Như vậy nhà nước cần co những chính sách giúp phát triển công nghệ thông tin. Đồng thời, cấc doanh nghiệp cần chú ý tới việc tổ chức khoa học mạng lưới thông tin nội bộ để vừa đáp ứng kịp thời nhu cầu thông tin, vừa đảm bảo giảm thiểu chi phí, đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả SXKD nhằm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
+Trang thiết bị kỹ thuật
Ngày nay có lẽ công nghệ là nguồn thay đổi năng động nhất, sự thay đổi này mang lại những thách thức những đe doạ đối với các nhà doanh nghiệp, nó tạo ra những sản phẩm mới thay thế những sản phẩm cũ thường xuyên. Bên cạnh đó nó còn mang lại những thuận lợi nhờ có khoa học công nghệ mà con người được giải phóng sức lao động năng xuất tăng lên dẫn đến hiệu quả nâng cao. Mặt khác trang thiết bị kỹ thuật không những đáp ứng cho khách hàng sản phẩm tốt, hình thức đẹp, không có hại cho sức khoẻ con người mà còn đáp ứng được nhu cầu đặc biệt của nhóm khách hàng đặc biệt.
+ Các đối thủ cạnh tranh: Cạnh tranh giữa các đối thủ hiện có trong ngành. Mối quan hệ giữa các doanh nghiệp cùng ngành và cùng sản xuất một mặt hàng hoặc một số mặt hàng thì có thể trở thành bạn hàng của nhau trong kinh doanh như giúp đỡ nhau về vốn, kỹ thuật, tiêu thụ sản phẩm song các doanh nghiệp này cũng có thể trở thành đối thủ cạnh tranh của nhau trên thị trường đầu vào và thị trường đầu ra. Sự có mặt của các đối thủ này là động lực tác động trực tiếp tới hoạt động của doanh nghiệp, buộc doanh nghiệp nào muốn tồn tại phát triển thì phải tìm kiếm thông tin, phân tích, đánh giá chính xác khả năng của các đối thủ cạnh tranh để từ đó đưa ra được những chiến lược sản xuất kinh doanh hợp lý, đem lại hiệu quả cao. Đối với thị trường đầu vào doanh nghiệp muốn tăng hiệu quả buộc doanh nghiệp phải tìm kiếm biện pháp để giảm chi phí nhất là chi phí vật tư, nguyên vật liệu có thể mua trực tiếp, không qua nhiều khâu trung gian... Còn đối với thị trường đầu ra các doanh nghiệp phải xây dựng được những chính sách giá cả hợp lý, linh hoạt thúc đẩy doanh số bán hàng, chiếm lĩnh thị trường và tăng hiệu quả kinh doanh, nếu doanh nghiệp mà định giá cao hơn giá thị trường thì sức mua hàng hoá đó sẽ giảm vì có rất nhiều đối thủ cạnh tranh cùng ngành đang tồn tại. Ngược lại, nếu doanh nghiệp định giá quá thấp thì hiệu quả kinh doanh cũng sẽ thấp.
+ Sức ép của nhà cung ứng: Có rất nhiều hình thức khác nhau mà nhà cung ứng có thể tác động tới việc thu lợi nhuận của công ty. Các nhà cung ứng có thể gây khó khăn làm giảm hiệu quả kinh doanh nếu như họ là nhà cung ứng độc quyền. Để tránh sức ép cuả nhà cung ứng thì doanh nghiệp phải tìm được những nhà cung ứng có uy tín, hơn nữa doanh nghiệp phải đa dạng hoá nhà cung ứng.
c.Các nhân tố làm kết quả kinh doanh tăng nhanh hơn chi phí
III.Các quan diểm cơ bản trong việc đánh giá hiệu quả KD.
Trong thực tiễn không phải ai cũng hiểu biết và quan niệm giống nhau về hiệu quả kinh tế và chính điều này đã làm triệt tiêu những cố gắng, nỗ lực của họ mặc dù ai cũng muốn làm tăng hiệu quả kinh tế. Như vậy khi đề cập đến hiệu quả kinh tế chúng ta phải xem xết một cách toàn diện, từ đây bắt đầu nảy sinh vấn đề là làm sao chọn, tìm ra những phương án sản xuất để đạt được kết quả lớn nhất và người ta đánh giá nó qua phạm trù hiệu quả của yêu càu tiết kiệm. Đứng trên góc độ của nền kinh tế quốc dân việc nâng cao hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp phải luôn gắn chặt với hiêụ quả xã hội, mang lại hiệu quả kinh tế cho đơn vị phải đảm bảo hiệu quả kinh tế của ngành, của địa phương cụ thể là khi đánhgiá cần quán triệt một số quan điểm sau.
* Quan điểm 1: về mặt thời gian
Đảm bảo sự kết hợp hài hoà lợi ích xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích người lao động
Quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả KD phải xuất phát và thoả mãn những mối quan hệ và lợi ích trên là lợi ích cá nhân, tập thể và lợi ích của xã hội trông đó lợi ích người lao động là yếu tố trực tiếp vì họ là yếu tố quyết định trong việc nâng cao hiệu quả.
Quan điểm này đỏi hỏi việc nâng cao hiệu quả KD phải xuất phát và thoả mãn những mối quan hệ và lơị ích trên là lợi ích cá nhân, tập thể và lợi ích xã hội, trong đó lợi ích của người lao động được xem là trực tiếp vì họ là yếu tố quyết định trong việc nâng cao hiệu quả.
*Quan điểm 2: Đảm bảo sự thống nhất giữa nhiệm vụ chính trị và KD trong việc nâng cao hiệu quả.
Trong quan điểm này đòi hỏi các doanh nghiệp khi thực hiện biện pháp nâng cao hiệu quả KD phải dựa trên đươngf lối phát triển kinh tế- xã hội của Đảng và nhà nước ta, mà trước tiên là tuân thủ đúng pháp luật trong kinh doanh , ký kết hợp đồng kinh doanh hoặc hợp đồng lao động.
Quan điểm 3: Đảm bảo tính toàn diện và hệ thống trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Tính toàn diện thể hiện cả ở mặt không gian và thời gian nghĩa là việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh phải góp phần nâng cao hiệu quả của các cơ sở, các địa phương và của nền kinh tế quốc dân. Hiệu quả đạt được trong từng giai đoạn không làm giảm hiệu quả xét trong từng thời ký dài. Cần phải nhìn nhận những đơn vị cơ sở, mỗi doanh nghiệp là một tế bào, một mắt xích trong nền kinh tế.
* Quan điểm 4: Phải căn cứ vào kết quả cuối cùng cả về hiện vật và giá trị để đánh giá hiệu quả kinh doanh.
Quan điểm này, đồi hỏi khi tính toán đánh giá hiệu quả kinh doanh của một đơn vị phải căn cứ vào số lượng sản phẩm tiêu thụ và giá trị thu nhập của những hàng hoá đó theo gía thị trường, một mặt phải tính được chi phí sản xuất và tiêu thụ hàng hoá đó, căn cứ vào kết quả cuối cùng cả về hiện vật và giá trị là đòi hỏi tất yếu của kinh tế hàng hoá. Ngoài ra, các nhà kinh doanh phải tính đến cả sản phẩm dở dang, bán thành phẩm cần thiết cho quá trình KD.
*Quan điểm 5: Đảm bảo tính thực tiễn cho việc nâng cao hiệu quả KD.
Quan điểm này đòi hỏi khi đánh giá và xác định biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát từ đạc điểm, điều kiện kinh tế xã hội của ngành, của địa phương và của doanh nghiệp trong từng thời kì. Chỉ như vậy biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất mới có đủ cơ sở khoa học và thực tiễn, đảm bảo lòng tin hạn chế những rủi ro, tổ thất và có tính khả thi.
2. Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả KD.
Hiệu qủa KD là một phạm trù kinh tế, nó phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực trong doanh nghiệp để đạt được hiệu quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Tuy nhiên, cách hiểu này mới chỉ dừng lại ở góc độ kinh tế. Để có thể đánh gía, phân tích hiệu quả KD một cách chính xác và toàn diện doanh nghiệp phải dựa vào một hệ thống tiêu chuẩn và coi các tiêu chuẩn này như một mục tiêu phấn đấu.Và ngược lại chỉ khi doanh nghiệp đạt được tiêu chuẩn này nói lên mong muốn phát triển hài hoà, bền vững và là yêu cầu khách quan.
- Tiêu chuẩn hiệu quả KD phải thể hiện được mối quan hệ tổng quan giữa thu và chi theo cực đại cái thu được và cực tiểu cái bỏ ra.
- Doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường nhưng phải tuân thủ sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo hệ thống pháp luật hiện hành, góp phần vào việc chuyển dịch nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá.
- Phải kết hợp hài hoà giữa ba lợi ích: Cá nhân, tập thể và Nhà nước tuyệt đối không vì lợi ích cá nhân mà làm thiệt hại đến lợi ích tập thể và xã hội.
Lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được phải dựa trên cơ sở vận dụng linh hoạt, sáng tạo các quy luật của nền sản xuất hàng hoá.
IV.Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là một ván đề phức tạp, có quan hệ với tất cả các yếu tố trong quá trình kinh doanh. Do đó để đánh giá chính xác, có cơ sở khoa học hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, cần phải xây dựng hệ thống các chỉ tiêu phù hợp bao gồm các chỉ tiêu tổng hợp và các chỉ tiêu bộ phận.
1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh tổng hợp
Nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả kinh doanh của toàn bộ hoạt động, toàn bộ các khâu của quá trình kinh doanh trong doanh nghiệp.
Không phải bất kỳ chỉ tiêu kết quả nào so với chỉ tiêu chi phí cũng có được chỉ tiêu hiệu quả, có ba chỉ tiêu hiệu quả quan trọng nhất mà các chủ doanh nghiệp và các kế toán trưởng phải biết vì nó mang tính phổ biến ngành nào cũng phải có, cũng phải tính đến.
+ Chỉ tiêu thứ nhất : Lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận/ Doanh thu = x 100
Doanh thu
Chỉ tiêu này phản ánh trong một đồng doanh thu thì có bao nhiêu đồng lợi nhuận, hay trong tổng doanh thu thu được thì có bao nhiêu % lợi nhuận.
+ Chỉ tiêu thứ hai:
Lợi nhuận
Tỷsuấtlợinhuận/Vốn= x100
Vốn bình quân
Mà Vốn bình quân = Tổng tài sản bình quân.
Chỉ tiêu này phản ánh bình quân trong kỳ kinh doanh cứ một đồng vốn mà doanh nghiệp sử dụng vào sản xuất kinh doanh đã tạo ra bao nhiêu đồng lãi .
+Chỉ tiêu thứ ba: Doanh thu
Số lần chu chuyển của tổng tài sản =
(khả năng tạo doanh thu của vốn ) Vốn bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh bình quân trong kỳ kinh doanh cứ một đồng vốn mà doanh nghiệp sử dụng đã tạo ra bao nhiêu đồng daonh thu (hay bình quân trong kỳ kinh doanh tài sản chu chuyển được mấy vòng ).
Trong ba chỉ tiêu nêu trên thì chỉ tiêu thứ hai là chỉ tiêu tổng hợp nhất vì:
Chỉ tiêu thứ hai = chỉ tiêu thứ nhất x chỉ tiêu thứ ba .
2. Nhóm chỉ tiêu hiệu qủa kinh doanh bộ phận
Bên cạnh các chỉ tiêu kinh doanh tổng hợp phân tích khái quát và cho phép kết luận về hiệu quả kinh tế của toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh, phản ánh trình độ sử dụng tất cả các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất trong một thời kỳ nhất định , thì người ta còn sử dụng các chỉ tiêu bộ phận để phân tích hiệu quả kinh doanh của từng mặt hoạt động, từng yếu tố cụ thể.
Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh bộ phận đảm nhiệm hai chức năng sau :
- Phân tích có tính chất bổ xung cho chỉ tiêu tổng hợp để trong một số trường hợp kiểm tra và khẳng định rõ kết luận được rút ra từ các chỉ tiêu tổng hợp.
- Phân tích hiệu quả từng mặt hoạt động, hiệu quả sử dụng của tường yếu tố sản xuất kinh doanh nhằm tìm biện pháp tối đa hoá chỉ tiêu hiệu quả kinh tế tổng hợp. Đây là chức năng yếu tố của hệ thống chỉ tiêu này.
Mối quan hệ giữa chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tổng hợp và chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh bộ phận không phải là mối quan hệ cùng chiều, trong lúc chỉ tiêu tổng hợp tăng lên thì có thể những chỉ tiêu bộ phận tăng, giảm hoặc không đổi.
a/Hiệu quả sử dụng vốn
Để có yếu tố đầu vào doanh nghiệp cần có một lượng vốn kinh doanh nhất định, nếu thiếu vốn hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ bị ngừng trễ hoặc kém hiệu quả. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh sẽ thấy được chất lượng quản lý , vạch ra khả năng tiềm tàng để nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu này được xác định thông qua công thức doanh lợi so với toàn bộ vối sản xuất kinh doanh . Nhưng để thấy rõ hơn hiệu quả sử dụng vốn ta phải đi sâu vào đánh giá từng bộ phậ cấu thành vốn đó là hiệu quả sử dụng vốn cố định và hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Số vòng quay toàn bộ vốn (SV v)
TR
Ta có : SVv =
VKD
Trong đó : SVv là số vòng quay của vốn.
TR: Là doanh thu.
VKD: Là vốn kinh doanh bình quân trong kỳ.
Chỉ tiêu này phẩn ánh sức sản xuất kinh doanh của toàn bộ số vòng, số vòng quay của vòng càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao.
* Hiệu quả sử dụng vốn cố định
Vốn cố định là toàn bộ số tiền đầu tư vào tài sản cố định.Tài sản cố định là những tư liệu lao động chử yếu có đặc điểm nổi bật là tham gia được vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh giữ nguyên được hình thái ban đầu đến khi phải huỷ bỏ do không còn giá trị sử dụng. Trong các doanh nghiệp thì tài sản cố định là cơ sở vật chất quan trọng để thực hiện kế hoạch cũng như là để sản xuất kinh doanh. Vốn nằm trong tài sản cố định chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn của doanh nghiệp.
Do đó sử dụng hiệu quả tài sản cố định (TSCĐ) sẽ góp phần không nhỏ vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tài sản cố định có các chi tiêu sau :
Giá trị tổng sản lượng (Doanh thu )
1/ Sức sản xuất của = x 100
TSCĐ Nguyên giá bình quân tài sản cố định
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng nguyên giá bình quân tài sản cố định thì sản xuất ra được bao nhiêu đồng doanh thu hoặc giá trị tổng sản lượng.
Lãi
2/ Sức sinh lời của = x 100
tài sản cố định Nguyên giá bình quân tài sản cố định
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng nguyên giá tài sản cố định thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận .
Nguyên giá bình quân tài sản cố định
3/ Suất hao phí của = x 100
tài sản cố định Giá trị tổng sản lượng (Doanh thu, lãi)
Chỉ tiêu này cho biết để sản xuất 1 đồng giá trị tổng sản lượng (doanh thu, lãi ) thì phải sử dụng bao nhiêu đồng nguyên giá bình quân tài sản cố định.
* Hiệu quả sử dụng vốn lưu động ( VLĐ )
Vốn lưu động là vốn đầu tư vào tài sản lưu động của doanh nghiệp. Nó là tiền ứng trước về tài sản lưu động để đảm bảo cho quá trình sản xuất được liên tục. Đặc điểm của tài sản lưu động là luân chuyển không ngừng, luôn thay đổi hình thái biểu hiện, luân chuyển giá trị hình thái toàn bộ, một lần và hoàn thành một vòng tuần hoàn trong một chu kỳ sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động được đánh giá bằng các chỉ tiêu sau:
Giá trị tổng sản lượng (Doanh thu )
1/ Sức sản xuất của VLĐ = x 100
Vốn lưu động bình quân
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn lưu động thì tạo ra bao nhiêu đồng giá trị tổng sản lượng hay bao nhiêu đồng doanh thu . Nó có thể được dùng để so sánh giữa các thời kỳ của một đơn vị hoặc giữa các đơn vị cùng quy mô trong một thời kỳ.
Lãi
2/Sức sinh lời của vốn lưu động = x 100
Vốn lưu động bình quân
Nó phản ánh chất lượng hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động bỏ ra sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận trong kỳ. Chỉ tiêu này càng lới hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao.
Vốn lưu động
3/ Suất hao phí của vốn lưu động = x 100
Giá trị tổng sản lượng
Chỉ tiêu này cho biết để sản xuất 1 đồng giá trị tổng sản lượng (doanh thu, lãi ) thì phải sử dụng bao nhiêu đồng vốn lưu động .Chỉ têu này còn gọi là chỉ số đảm nhiệm của vốn lưu động .
Doanh thu
4/ Số vòng quay của vốn lưu động =
Vốn lưu động bình quân
Chỉ tiêu này cho thấy số vòng quay của vốn lưu động càng nhanh thì hiệu quả sử vốn lưu động càng hiệu quả .
b/Hiệu quả sử dụng lao động
Trong ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, lao động của con người có tính quyết định nhất. Việc sử dụng lao động có hiệu quả sẽ làm tăng khối lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, điều này làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Thông qua các chỉ tiêu sau để đánh giá xem doanh nghiệp đã sử dụng lao động có hiệu quả hay không
+Năng xuất lao động bình quân trong kỳ : W = Q/L
Trong đó : W là năng xuất lao động bình quân trong kỳ .
Q là giá trị (số lượng ) sản lượng tạo ra trong kỳ .
L là tổng lao động sử dụng bình quân trong kỳ .
+ Mức thu phập hoặc lợi nhuận đạt được trên một lao động
P
Hlđ =
L
Trong đó : Hlđ là mức thu nhập bình quân trên một lao động .
P là lợi nhuận đạt được trong kỳ .
Hai chỉ tiêu phản ánh đầy đủ về hiệu quả sử dụng lao động trong kỳ của doanh nghiệp cả về mắt số lượng và chất lượng .Tuy nhiên để đánh giá toàn diện hơn về hiệu quả sử dụng lao động, người ta còn sử dụng một số chỉ tiêu như hiệu suất sử dụng lao động hay hiệu suất sử dụng thời gian lao động. Các chỉ tiêu này cho phép ta đánh giá hiệu quả sử dụng lao động và sử dụng số lượng thơì gian lao động hiện có, giảm số lượng lao động dư thừa, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Chương II
Thực trạng hiệu quả kinh doanh dịch vụ giao nhận vận tải của Công ty nhật minh quốc/DANZASHN
Vận tải, đặc biệt là vận tải quốc tế và ngoại thương có mối quan hệ chặt chẽ, khăng khít với nhau, có tác dụng thúc đẩy cùng nhau phát triển. Vận tải quốc tế là tiền đề, là điều kiện tiên quyết để thương mại quốc tế ra đời và phát triển.
Trong những năm gần đây với chính sách mở cửa và đổi mới kinh tế, cùng với các ngành kinh tế khác, ngành vận tải nói chung đã có những bước tiến nhảy vọt. Mạng lưới vận tải được phủ kín cấp. Nhờ đó khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu đã tăng lên đáng kể, kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và các nước ngày càng tăng.
Ra đời cách đây khoảng 500 năm ở Thụy Sỹ, có thể nói nghề giao nhận nói chung hay giao nhận hàng hóa bằng đường hàng không và đường biển nói riêng đã có một bề dày lịch sử và khẳng định sự tồn tại của mình trong sự phát triển kinh tế thế giới. Là một trong những công ty có uy tín trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa Nhật Minh Quốc/DANZAS đã và đang từng bước khẳng định sự tồn tại của mình bằng sự bỏ phiếu tín nhiệm của khách hàng trong môi trường cạnh tranh gay gắt này.
Qua một thời gian ngắn thực tập tại công ty, với hiểu biết và nắm bắt hạn chế về tình hình hoạt động kinh doanh của công ty, cùng với những số liệu thu thập được, em xin giới thiệu vài nét về công ty như sau:
I. Giới thiệu chung về công ty
1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty Nhật Minh Quốc/DANZAS(DANZASHN)
CÔNG TY TNHH Nhật Minh Quốc – DANZASHN
Địa chỉ : số 5 Láng Hạ-Đống Đa-Hà Nội
Điện Thoại : 84 4 5144098
Fax: 84 4 5144099
Địa chỉ trang web công ty mẹ : http//www.danzas.com
Tài Khoản : 4311.30.00.1273 Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Quốc Tế Việt Nam
Mã Số Thuế : 0100958011
Công ty TNHH Nhật Minh Quốc/DANZAS có trụ sở chính tại số 5 Láng Hạ - Hà Nội được thành lập chính thức ngày 29 /12/1994 theo giấy phép thành lập Công ty số 4765 GP/TLDN của uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội. Ngày 7/1/1995 sở kế hoạch và đầu tư Hà Nội đã cấp giấy phép kinh doanh cho công ty, số đăng ký kinh doanh 073210.
Theo giấy phép thành lập thì tên công ty là công ty TNHH Nhật Minh Quốc. Tên giao dịch đối ngoại Nhật Minh Quốc Company Limite. công ty Nhật Minh Quốc/ DANZAS là một đại lý của tập đoàn DANZAS AEI được thành lập năm 1815 có trụ sở Basel - Thuỵ Sỹ, là một trong những tập đoàn hàng đầu thế giới hoạt động trong lĩnh vực thương mại quốc tế về dịch vu giao nhận vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu. Năm 1994 công ty DANZAS AEI vào Việt Nam và đặt trụ sở chính tại Hồ Chí Minh. Đến cuối năm 1994 công ty mới chính thức chọn Nhật Minh Quốc tại Hà Nội làm đại lý chính thức của mình.
Qua thời gian 8 năm hoạt động công ty Nhật Minh quốc đã không ngừng lớn mạnh cả về quy mô vốn và kinh nghiệm kinh doanh. Hiện nay công ty TNHH Nhật Minh Quốc đã khẳng định được mình và có chỗ đứng vững chắc trên thị trường Việt Nam.
2. Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của công ty TNHH Nhật Minh Quốc
Là đơn vị có chức năng hoạt động trên lĩnh vực dịch vụ giao nhận vận tải hàng hoá và xuất nhập khẩu hàng hoá trực tiếp và được cấp giấy phép kinh doanh số 4765/GP/TLDN ngày 17/11/1994. Với tư cách là một công ty TNHH và là đại lý của DANZAS AEI, Công ty Nhật Minh Quốc/DANZAS đều có những mục đích rõ ràng, đưa ra chiến lược kinh doanh cụ thể để phù hợp với từng điều kiện từng thời kỳ.
Hiện nay mục đích chính của công ty là thông qua kinh doanh quốc tế và nội địa cùng hoạt động kinh doanh giao nhận vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu để góp phần thúc đẩy sản xuất trong nước, tạo thu nhập cho công ty, tăng thu nhập ngoại tệ cho nhà nước, góp phần CNH - HĐH đất nước.
2.1. Chức năng
Theo điều lệ của công ty DANZASHN có các chức năng sau:
+ Phối hợp với các công ty, tổ chức giao nhận vận tải khác ở trong và ngoài nước để tổ chức chuyên chở, giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu, hàng ngoại giao, hàng quá cảnh, hàng hội chợ triển lãm, hàng tư nhân, tài liệu, chứng từ liên quan, chứng từ phát chuyển nhanh.
+ Nhận ủy thác dịch vụ về giao nhận, kho vận, thuê và cho thuê kho bãi, lưu cước các phương tiện vận tải (ô tô, tàu biển, máy bay, xà lan, container...) bằng các hợp đồng trọn gói "từ cửa tới cửa" (door to door) và thực hiện các dịch vụ khác liên quan đến hàng hóa nói trên, như việc gom hàng, chia hàng lẻ, làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu, thủ tục hải quan, mua bảo hiểm hàng hóa và giao hàng hóa đó cho người chuyên chở để chuyển tiếp đến nơi quy định.
+ Thực hiện các dịch vụ tư vấn về vấn đề giao nhận, vận tải kho hàng và các vấn đề khác có liên quan theo yêu cầu của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước
+ Nhận ủy thác xuất nhập khẩu hoặc kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp hàng hóa trên cơ sở giấy phép xuất nhập khẩu của bộ thương mại cấp cho công ty
+ Tiến hành làm các dịch vụ giao nhận, vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu, hàng hóa quá cảnh qua lãnh thổ Việt Nam và ngược lại bằng các phương tiện chuyên chở của mình hoặc thông qua phương tiện của người khác.
+ Thực hiện kinh doanh vận tải phù hợp với các quy định hiện hành của nhà nước
+ Làm đại lý cho các hãng tàu nước ngoài và làm công tác phục vụ cho tàu biển của nước ngoài vào cảng Việt Nam
+ Liên doanh liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước trong lĩnh vực vận chuyển, giao nhận, kho bãi, thuê tàu...
2.2. Nhiệm vụ
Với các chức năng trên, DANZASHN phải thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau:
+ Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện các kế hoạch kinh doanh của công ty theo quy chế hiện hành nhằm thực hiện mục đích và chức năng đã nêu của công ty.
+ Bảo đảm việc bảo toàn và bổ sung vốn trên cơ sở tự tạo nguồn vốn, bảo đảm trang trải về tài chính, sử dụng hợp lý theo đúng chế độ, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, làm tròn nghĩa vụ nộp ngân sách đối với nhà nước.
+ Mua sắm, xây dựng, bổ sung và thường xuyên cải tiến, hoàn thiện, nâng cấp các phương tiện vật chất của công ty.
+ Thông qua việc liên doanh, liên kết trong và ngoài nước để thực hiện việc giao nhận, chuyên chở hàng hóa bằng các phương thức tiên tiến, hợp lý, an toàn trên các luồng, các tuyến vận tải, cải tiến việc chuyên chở, chuyển tải, lưu kho, lưu bãi giao nhận hàng hóa và đảm bảo, bảo quản hàng hóa an toàn trong phạm vi trách nhiệm của công ty.
+ Nghiên cứu tình hình thị trường kinh doanh dịch vụ giao nhận, kho vận, kiến nghị cải tiến biểu cước, giá cước của các tổ chức vận tải có liên quan theo quy chế hiện hành, đề ra các biện pháp thích hợp để đảm bảo quyền lợi của các bên khi ký hợp đồng nhằm thu hút khách hàng, củng cố và nâng cao uy tín của công ty trên thị trường trong nước và quốc tế.
+ Thực hiện nghiêm chỉnh chế độ quản lý tài chính, tài sản các chế độ chính sách cán bộ và quyền lợi của người lao động theo cơ chế tự chủ, gắn việc trả lương với hiệu quả lao động bằng các hình thức lương khoán, chăm lo đời sống, đào tạo và bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ quản lý, nghiệm vụ chuyên môn, ngoại ngữ cho cán bộ công nhân của công ty để đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ kinh doanh ngày càng cao.
+ Tổ chức quản lý, chỉ đạo hoạt động kinh doanh của các đơn vị trực thuộc công ty theo cơ chế hiện hành.
2.3 Tổ chức hoạt động của DANZASHN
Giám đốc đại lý DANZASHN
Kế toán
tài chính
Hoạt động
điều hành
Phòng chăm sóc khách hàng, marketing
Nội địa
Xuất nhập khẩu
Vận tải hàng không
Vận tải biển
+ Giám đốc đại lý :
Điều hành hoạt động của chi nhánh, chịu trách nhiệm với giám đốc quốc gia về tình hình hiệu quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh mình. Định hướng hoạt động của công ty, tạo mối quan hệ với các cơ quan hữu quan của nhà nước và lãnh đạo của các công ty bạn hàng.
+ Phòng kế toán tài chính:
Khai thác, quản lý sử dụng vốn có hiệu quả. Lập kế hoạch tài chính, quản lý hoạt động tài chính của công ty theo đúng chế độ. Lập báo cáo quyết toán, theo dõi thu chi và kết quả kinh doanh của công ty. (Kế toán Trưởng do hội đồng quản trị của công ty DANZAS AEI bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm).
+ Phòng dịch vụ chăm sóc khách hàng và marketing:
Nghiên cứu thị trường tìm kiếm khách hàng, tư vấn và chăm sóc nuôi dưỡng khách hàng. Tiếp xúc với khách hàng qua gặp gỡ trực tiếp hoặc qua thư tín điện thoại và internet. Chào giá cước dịch vụ giao nhận hàng hoá, xác định khả năng cung ứng dịch vụ cho khách hàng.
+ Phòng điều hành hoạt động:
Gồm có vận tải biển (nhập và xuất hàng hoá); vận tải hàng không (nhập và xuất); nội địa (giao nhận hàng hoá trong nước cho khách hàng); xuất nhập khẩu(thực hiện các hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá trực tiếp). Là đội ngũ cán bộ nhân viên trực tiếp thực hiện nghiệp vụ hoạt động giao nhận vận tải hàng hoá và xuất nhập khẩu hàng hoá quốc tế, tiếp nhận hàng hoá, làm thủ tục hải quan và các nghĩa vụ cơ bản khác đối với hàng hoá theo đúng các qui định của quốc gia và quốc tế về vận chuyển giao nhận hàng hoá ngoại thương.
Bảng1: cơ cấu tổ chức lao động của công ty
Chức danh
Số lượng
Nam
Nữ
Trình độ
Tuổi BQ
1
Giám đốc
1
1
Đại học
29
3
Phòng Kế toán
3
3
Đại học
28
4
Phòng hoạt động điều hành
- Vận tải hàng
không
- Vận tải biển
- Nội địa
- Xuất nhập khẩu
20
6
4
5
5
12
3
2
5
2
8
3
2
3
Đại học
Đại học
Đại học
Đại học
29
29
24
25
5
Phòng sales-marketing
- Sales
- Marketing
7
4
3
3
1
2
4
3
1
Đại học
Đại học
26
25
Tổng
31
16
15
26,8
Nguồn: phòng kế toán - tài chính –công ty DANZASHN.
Qua các số liệu phân tích chúng ta thấy quy mô về lao động của công ty tăng nhanh qua các năm. Cơ cấu lao động về độ tuổi, trình độ và độ tuổi cũng biến động liên tục, trình độ ngày càng cao (đặc biệt là tất cả cán bộ và công nhân viên của công ty đều có trình độ đại học trở lên). Độ tuổi ngày càng trẻ. Đây là tiềm năng thế mạnh của công ty về nguồn nhân lực, và một trong những yếu tố làm nên sự thành công của công ty trong các năm gần đây.
Bảng2 : lương trung bình cán bộ công nhân viên công ty giai đoạn 1997-2002
Đơn vị:triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Mức lương trung bình của nhân viên/tháng
2,00
2,5
2,8
3,00
3,2
3,5
Nguồn: phòng kế toán- tài chính công ty DANZASHN.
Một câu hỏi được đặt ra là tại sao lực lượng lao động có trình độ cao nghiệp vụ chuyên môn giỏi lại vào công ty với số lượng khá lớn. Như vậy, qua bảng lương trên ta thấy chế độ đãi ngộ của công ty đối với nhân viên là rất lớn, đây là sự trả công thích đáng cho những gì mà nhân viên của công ty đã đóng góp vào sự phát triển của công ty. Tuy mức lương trên chưa phải là cao trong xã hội hôm nay, song nó cũng khuyến khích sự làm việc hăng say và cống hiến hết mình cho sự phát triển cho công ty. Theo bảng số liệu trên ta thấy thu nhập trung bình của công nhân viên tăng đều qua các năm, năm 1994 mức lương trung bình của công nhân viên là 1,5 triệu đồng thì đến năm 2002 mức lương đã đặt là 3,5 triệu đồng/1tháng, tăng 2 triệu đồng, tốc độ tăng 2,6 lần. Chính những đãi ngộ hợp lý thông qua mức lương đã trả lời phần nào câu hỏi tại sao lượng lao động giỏi lại tập trung vào công ty nhiều như vậy qua các năm.
3. Quy mô của công ty
Là một doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn và là đại lý chính thức cho tập đoàn DANZAS AEI được thành lập theo giấy phép số 4765/GP/TLDN cấp ngày 17/11/1994 của UBND thành phố Hà Nội do vậy hầu hết nguồn vốn của công ty đều do công ty mẹ là công ty DANZAS AEI cấp ban đầu khi mới thành lập doanh nghiệp, cùng với các phần vốn góp của các thành viên của công ty.
Ngồn vốn kinh doanh : 15500 triệu đồng
Vốn cố định: 5500 triệu đồng
Vốn lưu động: 10000triệu đồng
Công ty phải tự tạo nguồn vốn cho các hoạt động, quản lý khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn kinh doanh. Chủ yếu vốn kinh doanh của đơn vị là tự bổ sung từ hai nguồn: nội bộ của công ty và vay ngân hàng.
Hiện nay, tổng diện tích trụ sở làm việc, chi nhánh của công ty là 500m2. Điều kiện cơ sở vật chất và điều kiện làm việc tương đối hiện đại.
II. Thực trạng hoạt động kinh doanh dịch vụ ở DANZASHN
1. Tình hình kết quả kinh doanh tổng hợp của công ty giai đoạn 1997-2002.
Theo điều lệ, chức năng nhiệm vụ của công ty. Hiện nay công ty hoạt động trên các lĩnh vực như : dịch vụ giao nhận vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường không và đường biển, cùng với hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp hàng hoá. Đây là những hình thức kinh doanh ra đời từ rất lâu trên thế giới, nhưng còn rất mới tại Việt Nam. Nhưng nhờ uy tín quy mô rộng lớn của công ty mẹ và với chiến lược kinh doanh khéo léo có cở khoa học cùng sự nhạy bén thị trường dịch vụ đã tạo nên hiệu quả rất đáng khích lệ của công ty trong những năm gần đây, được biểu hiện qua các số liệu cụ thể sau:
Bảng 3: Bảng kết quả kinh doanh của công ty
(Đơn vị: triệu đồng)
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Doanh thu
31.584
48.777
59.624
65.887
65.886
65.987
Nộp ngân sách
2.143
2.460
1.876
2.157
2.528
2.728
Lợi nhuận
2.225
2.995
3.925
3.999
2.880
2.997
Ln/dt(%)
7,04
6,14
6,6
4,55
4,4
4.54
Nguồn: phòng kế toán- tài chính- Công ty DANZAS
Nhìn qua bảng số liệu kết quả hoạt động kinh doanh của công ty những năm qua ta thấy tổng doanh thu của công ty tăng nhanh qua các năm điều này càng chứng tỏ rằng chiến lược kinh doanh của công ty từng thời kỳ từng năm là rất phù hợp với thị trường và nó cũng là kết quả của sự nỗ lực hết mình của Ban giám đốc và nhân viên công ty trong việc nghiên cứu nắm bắt tình hình thị trường mở rộng quy mô kinh doanh và đang dạng hoá sản phẩm. Và mặc dù năm 1997, 1998 bùng nổ khủng hoảng kinh tế - tài chính tiền tệ thế giới và những nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là các nước ở khu vực Châu á đặc biệt là các nước khu vực ASEAN. Song với sự nhạy bén và kinh nghiệm kinh doanh, công ty đã có chiến lược kinh doanh khéo léo, phù hợp với thị trường không những đã chèo chống công ty khỏi sự tác động của cuộc khủng hoảng mà còn làm cho doanh thu tăng lên, đó chính là công ty đã biết khai thác một cách có hiệu quả thị trường nội địa, một thị trường rộng lớn và tương đối dễ tính, và chính điều đó đã làm cho doanh thu của công ty vẫn tăng trong 2 năm 1997, 1998.
Vượt qua thời kỳ khủng hoảng 1997, 1998, doanh thu của công ty đã tăng rất nhanh qua các năm, có được điều này là do nền kinh tế của các nước khu vực Châu á đặc biệt là các nước ASEAN đã được khôi phục và thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng. Do vậy mà thị trường nước ngoài được khai thông dẫn đến kim ngạch xuất khẩu của công ty đã tăng trở lại, điều đó đã giúp cho doanh thu của công ty tăng trong các năm tiếp theo.
Doanh thu: Tổng doanh thu không ngừng tăng lên qua các năm. Đây là kết quả của việc nghiên cứu năm bắt tình hình thị trường, mở rộng quy mô kinh doanh và đa dạng hoá sản phẩm. Mặc dù năm 1998 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ nhưng doanh thu vẫn tăng
Với các số liệu ở bảng 1, ta có biểu đồ sau:
Biểu đồ 1: tỉ lệ % lợi nhuận đạt được trên tổng doanh thu của công ty
Từ kết quả ở bảng 1 và biểu đồ trên, ta có thể thấy rằng từ năm 1997 - 2002, tổng doanh thu bình quân tăng 20%/năm. Đạt được điều đó công ty đã phải liên tục kiện toàn bộ máy quản lý, đồng thời quan tâm đến chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh, thêm vào đó công ty luôn thực hiện đúng kế hoạch về sửa chữa, xây mới kho xưởng, xí nghiệp bằng nguồn vốn tự có của công ty theo định kỳ.
Bảng 4: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước
Đơn vị: Triệu đồng
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
NộP NS
2.143
2460
1876
2157
2528
2728
THUế GTGT
314
381
473
587
896
954
THUế NK
1411
1416
700
802
800
850
THUế TNDN
84
264
318
383
448
498
THUế kinh doanh
74
74
74
74
74
74
NộP KHáC
260
325
312
311
310
352
Nguồn : Phòng kế toán tài vụ - Công ty DANZASHN
Cùng với việc tăng doanh thu thì hàng năm công ty cũng hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách cho Nhà nước .công ty luôn luôn chấp hành các khoản nộp thuế theo quy định và quyết định của Nhà nước.Qua bảng trên ta thấy số thuế mà công ty nộp đã tăng lên qua các năm ,đây là một điều rất hợp lý bởi cùng với sự phát triển của công ty ,cho nên doanh thu, mặt hàngkinh doanh đa dạng ,dịch vụ ngày càng mở rộng, vì thế số thuế nộp sẽ phải nhiều lên, và một lần nữa khẳng định sự lớn mạnh của công ty của công ty qua các năm.Và nó chứng minh một điều rằng các chiến lược kinh doanh của công ty trong từng thời kỳ ở từng giai đoạn khác nhau là rất đúng hướng.
2.Tình hình kết quả hoạt động giao nhận vận tải hàng hoá bằng đường không của công ty giai đoạn 1997-2002.
Bảng5: kết quả kinh doanh từ dịch vụ giao nhận hàng hoá vận tải hàng không
Đơn vị:triệu đồng
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Tổng doanh thu dv giao nhận hàng không (DT1)
21000
31250
39749
42510
42343
42132
Chi phí
18100
28881
35882
37854
38762
38654
Lợi nhuận trước thuế
2900
3630
3867
4656
3581
3478
Nộp ngân sách
1428
1640
1250
1321
1423
1465
Lơi nhuận sau thuế (LN1)
1472
1990
2626
3335
2158
2013
DT1/Tổng DT
0,66
0,64
0,67
0,64
0,64
0,63
LN1/Tổng LN
0,66
0,66
0,67
0,83
0,75
0,67
Nguồn : Phòng kế toán tài vụ - Công ty DANZASHN.
Trong cơ cấu ngành nghề kinh doanh của công ty bao gồm các hoạt động dịch vụ và xuất nhập khẩu trực tiếp .Trong đó, các hoạt động dịch vụ bao gồm hoạt động dịch vụ giao nhận hàng hoá từ hàng không và dịch vụ giao nhận hàng hoá bằng đường biển .Trước hết, chung ta xem xét kết quả kinh doanh từ dịch vụ giao nhận hàng hoá bằng đường hàng không. Từ bảng 4 ta thấy kêt quả kinh doanh từ hoạt động giao nhận hàng không là rất tốt, tổng doanh thu tăng nhanh qua các năm. Đặc biệt qua khủng hoảng tài chính tiền tệ thế giới nhưng doanh thu vẫn thể hiện hiệu quả kinh doanh một cách rõ nét và đáng kinh ngạc của công ty trong hai năm 1997,1998. Điều tuyệt vời nhất là công ty không bị ảnh huởng bởi cuộc khủng bố ngày 11-9-2001 ở Mỹ, uy tín của tập đoàn mẹ đã tạo đà phát triển vững vàng cho công ty con.Tạo nên sự khác biệt so với các hãng vận tải giao nhận hàng không khác trên thế giới,khi mà những công ty này lao đao vất vả trước biến động mang màu săc kinh tế –chính trị rất lớn, thậm chí có những công ty phải đóng cửa, phá sản. Công ty đảm bảo niềm tin cho khách hàng, uy tín được quảng bá rộng rãi. Tuy doanh thu năm 2001 có giảm chút ít so với năm 2000(0,004%). Nhưng nhìn chung đây là mức doanh thu khá trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động. Đây là lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của công ty nên lợi nhuận của nó là khá lớn, chiếm trung bình 65% trong tổng số lợi nhuận lẫn doanh thu của công ty. Tỷ lệ này luôn ổn định trong những năm gần đây có thể coi là bất hợp lý, song xét ở điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật của hàng không Việt Nam thì ta nên tạm chấp nhận, bởi mặc dù đã đầu tư nhiều máy bay, mở rộng đường băng song số lượng chuyến bay còn hạn chế, loại máy bay nhỏ, các điều kiện bốc dỡ, lưu kho của sân bay của chúng ta còn rất nhiều hạn chế ,cho nên mặc dù đã có nhiều cố gắng hết sức song công ty chỉ có được kết quả như vậy, đây là một nỗ lực hết sức đáng khen ngợi của công ty. Ta có biểu đồ sau :
Đơn vị: triệu đồng
Biểu đồ 2: lợi nhuận sau thuế về giao nhận hàng hoá bằng đường không của công ty DANZASHN.
Từ biểu đồ trên ta thấy lợi nhuận sau thuế của công ty tăng dần từ năm 1997 cho đến năm 2000. Đặc biệt năm 2000 lợi nhuận đạt cao nhất là 3335 triệu đồng. Sau đó lợi nhuận giảm dần từ hai năm 2001, 2002 do ảnh hưởng của cuộc khủng bố toàn nước Mỹ ngày 11-9-2001, cho nên lợi nhuận giao nhận hàng không có phần giảm sút, nhưng không đáng kể. Một phần do uy tín, sự lớn mạnh của tập đoàn mẹ và cũng do chi phí, thuế khai báo hải quan ngày càng tăng cùng với đáp ứng nhu cầu dịch vụ của khách hàng là : giá cả rẻ, tiện lợi nhanh chóng, chính vì thế công ty phải hy sinh một phần lợi nhuận để nuôi dưỡng, duy trì mối quan hệ làm ăn với khách hàng.
3.Tình hình kết quả hoạt động giao nhận vận tải hàng hoá bằng đường biển của công tygiai đoạn 1997-2002.
Bảng 6: kết quả kinh doanh từ dịch vụ giao nhận hàng hoá vận tải biển.
Đơnvị:triệuđồng
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Tổng dt dich vụ gn đường biển(dt2)
6584
9526
14352
17565
15446
16887
Chi phí
6121
7986
13345
16975
14492
15663
Lợi nhuận trước thuế
463
1010
1007
590
954
1224
Nộp ngân sách
120
420
329
185
641
645
Lợi nhuận sau thuế(ln2)
343
590
678
405
313
579
Dt2/dt
0,21
0,20
0,24
0,27
0,23
0,25
Ln2/ln
0,15
0,20
0,17
0,10
0,11
0,19
Nguồn : Phòng kế toán tài vụ - công ty DANZASHN.
Bây giờ chúng ta sẽ nghiên cứu kết quả kinh doanh từ hoạt động dịch vụ giao nhận hàng hoá bằng đường biển .Qua các số liệu ban đầu (bảng 6) đã cho chúng ta một cái nhìn khái quát về tình hình hoạt động của công ty trong lĩnh vực này. Kể từ khi mở cửa nền kinh tế hội nhập với thế giới (từ 1986) cho đến nay, nền kinh tế nước ta đã được khai thông và có quan hệ kinh tế với hơn 100 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, các nhà đầu tư đang đổ dồn vào để đầu tư tại Việt Nam . Hoà mình với sự phát triển đó, công ty đã khai thác rất tốt loại hình dịch vụ giao nhận hàng hoá bằng đường biển, và cho đến nay kết quả từ hoạt động này đã càng chiếm một vị trí khá quan trọng trong tổng doanh thu của công ty. Nhìn vào bảng số liệu ta thấy ,doanh thu từ dịch vụ giao nhận bằng đường biển tăng nhanh qua các năm , như đã nói ở trên, do có cuộc khủng bố ngày 11-9-2001 ở Mỹ , cho nên hầu hết các khách hàng trên thế giới đều giảm lòng tin bằng các vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không, do vậy mà năm 2000 gọi là năm “được mùa của vận tải đường biển quốc tế, hầu hết các hàng hoá đều được vận chuyển bằng đường biển . Chính vì thế mà năm 2000 doanh thu từ dịch vụ giao nhận hàng bằng đường biển đã tăng đột biến, đạt mức kỷ lục(tính từ năm 1999 trở về trước), đạt 17565 triệu đồng. Đây quả là một thành tích đáng nể, nhưng một câu hỏi được đặt ra là mặc dù doanh thu tăng đột biến mà tại sao lợi nhuận lại giảm .Theo em thì có các nguyên nhân sau, thứ nhất, mặc dù đây là năm được mùa của ngành hàng hải quốc tế, song đây là thời kỳ suy thoái của nền kinh tế thế giới, các chỉ số lạm phát cao, các chi phí vào việc giao nhận hàng hoá tăng cao, do vậy mặc dù tăng doanh thu nhưng lợi nhuận vẫn thấp ; thứ hai là, vào thời điểm năm 2000 thì đã có rất nhiều hãng kinh doanh tham gia vào lĩnh vực giao nhận hàng hoá bằng đường biển, do vậy muốn tồn tại để cạnh tranh các doanh nghiệp buộc phải hạ giá ; thứ ba là, mặc dù năm 2000 Việt Nam có xuất khẩu nhiều nhưng đó hầu hết là hàng nông lâm hải sản và hầu hết đều do các tổng công ty Nhà nước xuất khẩu trực tiếp cho nên rất khó cạnh tranh .Song kết quả trên cũng là một kết quả khá ấn tượng và rất đáng khích lệ đối với công ty .Và vào năm 2002, cùng với sự hồi phục của nền kinh tế thế giới và đặc biệt là nền kinh tế Châu á, cho nên doanh thu đã tăng trở lại và cùng với nó là lợi nhuận tăng cao .Hoà mình với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, trong tương lai lợi nhuận từ dịch vụ giao nhận hàng bằng đường biển sẽ ngày càng chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng lợi nhuận của công ty, chứ không phải dừng lạỉ ở mức khiêm tốn như hiện nay là 20%. Từ các số liệu ở bẩng trên ta có biểu đồ lợi nhuận về giao nhận hàng hoá bằng đường biển của công ty như sau :
Đơn vị: triệu đồng
Biểu đồ 3: lợi nhuận sau thuế từ giao nhân hàng hoá bằng đường biển của công ty DANZASHN.
Từ biểu đồ trên ta thấy rằng lợi nhuận sau thuế qua giao nhận vận tải hàng hóa bằng đường biển tăng theo hai giai đoạn : 1997-1999; 2000-2002. Năm 1999 có lợi nhuận đạt cao nhất là 678 triệu đồng, thấp nhất là năm 2001 lợi nhuận chỉ đạt 313 triệu đồng.
4. Tình hình kết quả hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp hàng hoá của công ty giai đoạn 1997-2002.
Bảng7: kết quả kinh doanh từ hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp hàng hoá.
Đơn vị:triệu đồng
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Dt xnk hàng hoá trực tiếp(dt3)
4000
8001
5523
5812
8097
6968
Chi phí
2995
6455
4596
4902
7224
5945
Lợi nhuận trước thuế
1005
815
927
910
873
1023
Nộp ngân sách
595
400
297
740
566
618
Lợi nhuận sau thuế(ln3)
410
415
630
570
407
805
Dt3/dt
0,13
0,14
0,09
0,09
0,13
0,12
Ln3/ln
0,19
0,2
0,16
0,07
0,14
0,14
Nguồn : Phòng kế toán - tài chính - công ty DANZASHN.
Nhìn chung, kim ngạch nhập khẩu của công ty vẫn chiếm tỷ trọng lớn hơn. Nhưng trong những năm gần đây, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu đã tăng lên đáng kể trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu (bảng 7).
Trong những năm vừa qua, nhờ có chính sách mở cửa của nhà nước cùng với sự cố gắng nỗ lực của cán bộ công nhân viên, công ty đã thực hiện chiến lược kinh tế xuất nhập khẩu theo hướng đa dạng hoá mặt hàng, đa dạng hoá thị trường. Vì vậy, kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty đã có những bước phát triển vượt bậc.
Năm 1998 cũng như tình trạng chung của tất cả các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, do phải chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ cộng với thiên tai ở trong nước keó dài đã làm cho tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng lên không đáng kể. Song đến năm 1999, 2000 và 2001 kim ngạch xuất nhập khẩu tăng lên nhiều không những về mặt lượng mà còn thay đổi cả về cơ cấu của mặt hàng. Từ các số liệu của bảng trên ta có biểu đồ sau:
Đơn vị: triệu đồng
Biểu đồ 4: Lợi nhuận sau thuế từ hoạt động xúât nhập khẩu trực tiếp hàng hoá của công ty DANZASHN.
Qua biểu đồ 4, lợi nhuận sau thuế từ hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá trực tiếp của công ty tăng dần từ năm 1997 cho đến 2002, tuy năm 2001 có phần giảm sút nhưng bù lại năm 2002 tiến lên vượt bậc đạt 805 triệu đồng, thể hiện hiệu quả hinh doanh tốt đẹp và khả quan trong lĩnh vực này.
Bảng 8: Tình hình thực hiện kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp và chủng loại hàng hoá của công ty giai đoạn 1997- 2002.
Đơn vị:triệu dồng
Các mặt hàng
1997
1998
1999
2000
2001
2002
I. Giá trị NK
2086
3223
3021
3540
4154
3756
Nguyên nhiên vật liệu
1072
1471
1220
1483
1637
1471
Máy móc thiết bị
732
1314
1265
1432
1851
1453
Thiết bị y tế
100
112
86
287
292
365
Hàng tiêu dùng
101.74
138.6
95
81
90
150
Hàng khác
80.26
187.4
255
257
284
317
II. Giá trị XK
1707
4760
2449
2180
3162
3078
Nông sản
1173
1971
1390
1045
1156
1128
Thuỷ sản
225
1410
338.5
346
352
859
Thủ công mỹ nghệ
185
1201.2
436.5
607.5
609
512
Dệt may
23
50
75
76.2
79
97
Hàng khác
101
127.8
209
105.3
966
482
III. Tổng kim ngạch XNK
3793
7983
5470
5720
7316
6834
Nguồn : Phòng kế toán tài vụ - công ty DANZASHN.
Về nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu tăng lên qua các năm một phần do giá hàng hoá của các nước trong khu vực khá rẻ vì đồng tiền của họ bị mất giá. Do vậy, công ty tiến hành nhập khẩu hàng hoá để tiêu thụ trong nước để thu lợi nhuận.
Tuy nhiên, do có một số điều chỉnh trong chính sách nhập khẩu của nhà nước như hạn chế nhập khẩu một số mặt hàng trong nước đã sản xuất được nhằm bảo hộ sản xuất trong nước như : thiết bị y tế, hàng tiêu dùng.... vì thế cơ cấu hàng nhập khẩu có nhiều thay đổi. Nhóm mặt hàng tiêu dùng ngày càng có xu hướng giảm đi trong cơ cấu hàng nhập khẩu.
Có hai nhóm kháchhàng chiếm tỷ trọng lớn là nguyên nhiên vật liệu và máy móc thiết bị (chiếm 50 - 55% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu). Hai nhóm hàng này có xu hướng tăng nhẹ, nhưng biến động không lớn.
Cơ cấu các nhóm hàng nhập khẩu của công ty tương đối hợp lý, phù hợp với xu thuế phát triển kinh tế của đất nước. Chính vì vậy mà hàng hoá nhập về đến đâu là tiêu dùng hết đến đó, không có hiện tượng tồn kho hay giảm giá.
Về xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu ngày càng có xu hướng tăng lên và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Điều này rất phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của đất nước đồng thời phản ánh những nỗ lực, cố gắng của công ty trong việc phát triển thị trường, tìm kiếm bạn hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, cơ cấu hàng xuất khẩu có sự thay đổi qua các năm. Các nhóm hàng nông sản, thuỷ sản, thủ công mỹ nghệ chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu (đều là các nhóm hàng mũi nhọn của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay).
Có được kết quả như vậy là do công ty đã có sự năng động, linh hoạt trong kinh doanh, biết tận dụng những cơ hội do chính sách mở cửa mang lại bằng việc đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu và phát triển mối quan hệ bạn hàng với nhiều tổ chức, công ty ở nhiều nước trên thế giới. Đồng thời, công ty cũng phát triển được một mạng lưới thu mua rộng khắp, tìm kiếm được nguồn hàng cho xuất khẩu.
III. Phân tích hiệu quả kinh doanh ở Công ty TNHH NHậT MINH QUốC/DANZASHN
Qua kết quả phân tích tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty NHậT MINH QUốC/DANZAS HN trong mấy năm gần đây cho thấy quy mô hoạt động kinh doanh của Công ty ngày càng được mở rộng. Cùng với sự đầu tư trang thiết bị kỹ thuật có chiều sâu và sự chuyển dịch cơ cấu mặt hàng, đa dạng hoá sản phẩm đã góp phần thúc đẩy tăng doanh thu, tăng lợi nhuận tuy nhiên năm 2002 thì lợi nhụân giảm so với năm 2000, từ đó ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của Công ty. Để đánh giá một cách chính xác, toàn diện về tình hình sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả kinh doanh nói riêng, ta phải đi sâu vào phân tích một số chỉ tiêu sau.
Chỉ tiêu phân tích hiệu quả kinh doanh tổng hợp
Chỉ tiêu này cho ta nhận định khái quát về hiệu quả sản xuất kinh doanh thông qua một số chỉ tiêu như: Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, Tỷ suất lợi nhuận trên vốn bình quân,...Hiệu quả tổng hợp của Công ty TNHH NHậT MINH QUốC được phản ánh qua các chỉ tiêu ở bảng dưới đây :
Bảng 6: Hiệu quả tổng hợp của Công ty (1997-2002)
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Doanh thu thuần
6584
9526
14352
17565
15446
16887
Tông chi phí
6121
7986
13345
16975
14492
15663
Lợi nhuận ròng
343
590
678
405
313
579
Vốn bình quân
11200
12000
12500
13700
14200
15000
Tỷ suât lợi nhuận/doanh thu
0,052
0,062
0,047
0,023
0,02
0,034
Tỷ suất lợi nhuận/vốn bình quân
3,06
4,91
5,424
2,95
2,2
3,86
Sô lần chu chuyển của tổng tài sản
0,588
0,8
1,148
1,28
1,088
1,12,
Qua bảng trên cho ta thấy, nhìn chung doanh thu thuần của Công ty tăng qua các năm cụ thể ở đây là doanh thu thuần năm 1998 tăng 2942 triệu đồng tương ứng là tăng 44,68% so với năm 1997, còn năm 1999 tăng là 4826 triệu đồng tưng ứmg là tăng 50,66% so với năm1998 , còn năm 2000 tăng là 3240 triệu đồng tưng ứmg là tăng 22,62% so với năm1999 , còn năm 2001 thì lại giảm là 2119 triệu đồng tưng ứng với mức giảm là 12,06% so với năm 2000, còn năm 2002 tăng là 1441 triệu đồng tưng ứmg là tăng 9,32% so với năm 2001 Mặc dù doanh thu thuần tăng như vậy nhưng lợi nhuận ròng lại tăng giảm không đều cụ thể năm 1997 lợi nhuận đạt 343 triệu đồng, đến năm 1998 lợi nhuận là 590 triệu đồng tức tăng 274 triệu đồng tương ứng với mức tăng là 72% so với năm 1997,đến năm 1999 lợi nhuận là 678 triệu đồng tức tăng 88 triệu đồng tương ứng với mức tăng là 14,92% so với năm 1998,đến năm 2000 lợi nhuận lại giảm xuống còn 405 triệu đồng tức giảm 273 triệu đồng tương ứng với mức giảm là 40,26% so với năm 1999. Nhưng đến năm 2001 lợi nhuận đạt được chỉ là 313 triệu đồng tức giảm 92 triệu đồng tương ứng với mức giảm là 22,7% so với năm 2000,nhưng đến năm 2002 thì lợi nhuận đã tăng trở lại đạt 579 triệu đồng và tăng 266 triệu đồng tương ứng tăng 85% so với năm 2001.Nguyên nhân chính ở đây là do tổng chi phí của các năm tăng giảm không đồng đều, cụ thể như sau: Năm 1997 tổng chi phí là 6121 triệu đồng, năm 1998 tổng chi phí là 7986 triệu đồng tăng 1856 triệu đồng tương ứng là 30,46% so với năm 1997, năm 1999 tổng chi phí là 13345 triệu đồng tăng 5359 triệu đồng tương ứng là 67,1% so với năm 1998, năm 2000 tổng chi phí là 16975 triệu đồng tăng 3630 triệu đồng tương ứng là 27,2% so với năm 1999, năm 2001 tổng chi phí là 14492 triệu đồng giảm 2483 triệu đồng tương ứng là 14,6% so với năm 2000 ,năm 2002 tổng chi phí là 15663 triệu đồng tăng 1171 triệu đồng tương ứng là 8,1% so với năm 2001...
Qua bảng trên ta thấy:
+Chỉ tiêu Tỷ suất lợi nhuận/ doanh thu như sau:
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu = lợi nhuận/ doanh thu.
Chỉ tiêu này phản ánh 100 đồng doanh thu mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận, năm 1997 tỷ suất lợi nhuận / doanh thu như sau: cứ 100 đồng doanh thu thì đem lại được 5,2 đồng lợi nhuận, năm 1998 tăng lên 6,2 đồng tốc độ tăng trưởng tương ứng là 19,2% so với năm 1997, và năm 1999 chỉ đạt 4,7 đồng tỷ lệ tương ứng giảm 24,2% so với năm 1998 ,năm 2000 chỉ đạt 2,3 đồng tỷ lệ tương ứng giảm 51% so với năm 1999, năm 2001 chỉ đạt 2 đồng tỷ lệ tương ứng giảm 13% so với năm 2002 và đến năm 2002 thì tỷ lệ này đẫ tăng trở lại đạt 3,4 đồng tương ứng với 70% so với năm 2001
Năm 2002 là năm có tốc độ tăng nhanh nhất, điều này chủ yếu là do tốc độ tăng lợi nhuận năm 2002 khá cao 36,4% so với năm 2001
+Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn sản xuất bình quân.
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn sản xuất bình quân = lợi nhuận/ vốn sản xuất bình quân.
Chỉ tiêu này cho biết cứ 100 đồng vốn kinh doanh bình quân sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận, cũng qua chỉ tiêu này cho Công ty biết được việc sử dụng vốn của Công ty mình có hiệu quả hay không để từ đó các cán bộ phòng ban có biện pháp sử lý và đề ra phương hướng phát triển chung cho toàn Công ty, cụ thể năm 1997 chỉ tiêu này của Công ty là 3,06 tức là cứ 100 đồng vốn sản xuất bình quân thì thu được 3,06 đồng lợi nhuận, đến năm 1998 chỉ tiêu này của Công ty đạt 4,91 tức là cứ 100 đồng vốn sản xuất bình quân thì thu được 4,91 đồng tăng 1,85 đồng tỷ lệ tương ứng là 60,45% so với năm 1997,đến năm 1999 chỉ tiêu này của Công ty đạt 5,424 tức là cứ 100 đồng vốn sản xuất bình quân thì thu được 5,424 đồng tăng 0,514 đồng tỷ lệ tương ứng là 10,47% so với năm 1998, thế nhưng đến năm 2000 thì con số này lại giảm chỉ còn 2,95 đồng giảm so với năm 1999 là 2,474 đồng tỷ lệ giảm tương ứng là 45,6% ,và đến năm 2001thì con số này lại giảm chỉ còn 2,2 đồng giảm so với năm 2000 là 0,75 đồng tỷ lệ giảm tương ứng là 25,4% song đến năm 2002 thì tỷ lệ này đã tăng trở lại đạt 3,76 đồng tăng 1,56 đồng tương ứng tăng 71% so với năm 2001 Như vậy trong các năm từ 1997- 2002 tỷ suất lợi nhuận so với vốn sản xuất bình quân là tăng giảm không đồng đều, đây là một vấn đề cần các nhà quản lý, lãnh đạo quan tâm xem xét. + Chỉ tiêu Số lần chu chuyển của tổng tài sản:
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này =
Vốn sản xuất bình quân
Chỉ tiêu này cho biết số lần chu chuyển của tổng vốn sản xuất kinh doanh cụ thể năm 1997 là 0,588 lần, năm 1998 là 0,8 lần tăng so với năm 1999 là 0,212 lần điều này cho thấy việc sử dụng vốn sản xuất bình quân có hiệu quả hơn song không đáng kể, Công ty cần phải tận dụng nguồn vốn hơn nữa. Năm 1999 con số này là 1,148 lần tăng0,384 lần so với năm 1998 Năm 2000 con số này là 1,281 lần tăng0,133 lần so với năm 1999cho thấy việc sử dụng vốn kinh doanh bình quân hiệu quả hơn năm trước, do số vốn đầu tư tăng nhanh, nhưng tốc độ tăng của doanh thu không nhanh bằng.Nhưng đến năm 2001 thì tỷ lệ này xuống khá thấp chỉ còn 1,088 lần giảm 0,193 lần đây là một điều không bình thường đòi hỏi ban lãnh đạo công ty cần phải xem xét lại,và một điều đáng mừng là đến năm 2002 thì chỉ tiêu này đã tăng trở lại đạt ở mức 1,12 tuy tỷ lệ này tăng không đáng kể là bao song đó lại là điều rất đáng khích lệ đối với công ty
Nói chung để đạt được kết quả kinh doanh như vậy là nhờ vào sự nỗ lực của các cán bộ công nhân viên chức và toàn thể lao động trong Công ty, hơn nữa còn phải nhờ vào mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của Công ty ngày một mở rộng.
2. Nhóm chỉ tiêu phân tích hiệu quả kinh doanh bộ phận
Do việc đánh giá hiệu quả kinh doanh không chỉ dừng lại ở các chỉ tiêu tổng hợp về doanh lợi, doanh thu mà đòi hỏi phải đánh giá chính xác chi tiết từng mặt hiệu quả kinh doanh của Công ty thông qua các chỉ tiêu bộ phận như hiệu quả sử dụng lao động, hiệu quả sử dụng vốn lưu động, vốn cố định. Từ đó mới có thể rút ra nhận xét chính xác nhất về hiệu quả kinh doanh của Công ty.
a/ Hiệu quả sử dụng lao động của TNHH NHậT MINH QUốC/DANZASHN
Công ty đã vận dụng chế độ lao động 40h/ tuần ( được nghỉ thứ bảy và chủ nhật ) tức là người lao động làm việc theo chế độ hiệh hành, bình quân ngày công lao động từ 21 đến 23 ngày/ 1 tháng.
Thực trạng hiệu quả sử dụng lao động ở Công ty NHậT MINH QUốC được thể hiện qua các chỉ tiêu về năng suất lao động, mức sinh lời bình quân một lao động, qua bảng sau đây:
Bảng 7: Hiệu quả sử dụng lao động của Công ty TNHH NHậT MINH QUốC/DANZASHN
Chỉ tiêu
Đơn vị
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Doanh thu
Triệu
6584
9526
14325
17565
15446
16887
Số lượng lao động
Người
2
2
3
3
3
4
Tiềnlươngbinh quân1người/1năm
Triệu đồng
2,00
2,5
2,8
3,00
3,2
3,5
Lợi nhuận
Triệu đồng
343
590
678
405
313
579
Năng suất lao động1người/1năm theo(doanhthu)
Triệu đồng
3292
4763
4775
5855
5148,7
4221
Năng suất lao độngbìnhquân 1người/1năm theo(lợinhuận)
171,5
295
339
202,5
156,5
289,5
Qua bảng số liệu trên cho thấy cùng với sự tăng trưởng của sản xuất kinh doanh trong Công ty tiền lương bình quân của người lao động trong Công ty cũng ngày một tăng lên, do đó các chỉ tiêu trong bảng cũng tăng giảm khác nhau theo chiều hướng tích cực, cụ thể là.
+ Năng suất lao động bình quân (NSLĐ bq) trên một người trên một năm theo doanh thu từ năm 1997 đến năm 2002 như sau:
Doanh thu thuần
Tacó: NSLĐbq/1người/1năm =
(Theo doanh thu) Số lao động
Năm 1997 năng suất lao động đạt 3292 triệu đồng/ người. Năm 1998 năng suất lao động đạt 4763 triệu đồng, tăng 1471 triệu đồng so với năm 1997, do doanh thu thuần tăng với tỷ lệ cao hơn so với mức tăng lao động. Năm 1999 năng suất lao động đạt 4775 triệu đồng, tăng 12 triệu đồng so với năm1998. Năm 2000 năng suất lao động đạt mức cao nhất 5855 triệu đồng, tăng 1080 triệu đồng so với năm 1999, Năm 2001 năng suất lao động đạt 5148,7 triệu đồng, giảm 706,3 triệu đồng so với năm 2000, , Năm 2002 năng suất lao động đạt 4221 triệu đồng, giảm 927,7 triệu đồng so với năm 2001, đây là năm Công ty có năng suất lao động giảm , do doanh thu tăng chậm hơn so với mức tăng lao động .Cụ thể là mức tăng doanh thu chỉ 8,56% trong khi đó mức tăng lao động lại cao hơn ở mức 16,29 %.
Tuy nhiên, mức sinh lời bình quân một lao động vẫn còn thấp, lại tăng giảm không đồng đều từ năm 1999-2001. Điều này phản ánh hiệu quả sử dụng lao động của Công ty TNHH NHậT MINH QUốC
Mức sinh lời bình quân do một lao động tạo ra từng năm như sau:
- Năm 1997 là 171,5 triệu đồng/ người.
- Năm 1998 là 295 triệu đồng/ người, tăng 31 triệu tỷ lệ tăng tương ứng là 18% so với năm 1997. Tỷ lệ này tăng do lợi nhuận ròng tăng ở mức cao 36,4% so với năm 1998. Điều này có nghĩa việc kinh doanh của Công ty có hiệu quả cao. Hay nói cách khác là việc sử dụng lao động của Công ty rất có hiệu quả.
- Năm 1999 là 339 triệu đồng/ người, tăng 44 triệu đồng tức tăng 14,5% so với năm 1999. Sở dĩ như vậy là vì mức tăng lợi nhuận vẫn như năm trước, trong khi đó mức tăng lao động lại tăng cao 16,29% so với năm 1998. Điều này cho thấy việc sử dụng lao động của Công ty chưa được hiệu quả.
Nguyên nhân của sự tăng, giảm này chủ yếu là do tốc độ tăng lợi nhuận không đồng đều giữa các năm.
Mặc dù, mức sinh lời bình quân một lao động còn chưa cao nhưng NHậT MINH QUốC luôn cố gắng phấn đấu tăng tiền lương cho người lao động. Thu nhập bình quân của người lao động tăng 10ế 11%/tháng thể hiện đời sống của cán bộ công nhân viên ngày càng được nâng cao.
Các chỉ tiêu trên cho thấy, doanh thu trong 6 năm từ 1997-2002 rất lớn, trung bình đạt khoảng 140 tỷ đồng/ năm nhưng mức sinh lời bình quân một lao động vẫn còn thấp, điều này làm ảnh hưởng tới việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty trong những năm vừa qua. Việc doanh thu tăng nhưng mức sinh lợi bình quân một lao động thấp do Công ty có bộ máy lao động còn cồng kềnh, chưa xác định được cơ cấu lao động tối ưu: Một số bộ phận thì thừa lao động, một số khác lại thiếu lao động, việc tuyển người vẫn chưa đáp ứng tốt các yêu cầu đòi hỏi của công việc. Chính việc sử dụng hiệu quả lao động thấp đã dẫn đến hiệu quả kinh doanh của Công ty còn chưa cao trong một số năm gần đây.
b/ Hiệu quả sử dụng tài sản cố định của Công ty
Có vốn mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ để đạt được mục đích kinh doanh. Vấn đề đặt ra có ý nghĩa tiếp theo là phải sử dụng có hiệu quả nguồn vốn huy động. Sử dụng vốn có hiệu quả trước hết là điều kiện để doanh nghiệp đảm bảo đạt lợi ích cho các nhà đầu tư , của người lao động, của Nhà Nước về mặt thu nhập và đảm bảo sự tồn tại phát triển của bản thân. Mặt khác, nó cũng chính là cơ sở để doanh nghiệp có thể huy động vốn được dễ dàng trên thị trường tài chính để mở rộng sản xuất, phát triển kinh doanh. Sau đây là đánh giá thực trạng sử dụng tài sản cố định của
Chỉ tiêu
Đơn vị
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Doanh thu
Triệu
6584
9526
14325
17565
14556
16887
Lợi nhuận
Triệu
343
590
678
405
313
579
Nguyên giá bình quân tài sản cố định
Triệu
5500
5800
6600
7000
7500
7700
Sức sản xuất của TSCĐ theo doanh thu thuần
Đồng
119,7
164,24
217
250,93
194,08
219,3
Sức sản xuất của TSCĐ theo doanh lợi nhuận
Đồng
6,23
10,17
10,27
5,78
4,2
7,52
Suất hao phí của TSCD theo doanh thu
Đồng
83,5
60,88
46,07
39,85
51,52
45,6
Suất hao phí củaTSCĐtheo lợi nhuận
Đồng
1603,5
983
972
1728,4
2396,1
1329,8
Doanh thu
+ Sức sản xuất của tài sản = x 100
cố định theo doanh thu Nguyên giá bq của TSCĐ
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng nguyên giá bình quân tài sản cố định thì tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Năm 1997 là 119,7 tức là cứ một đồng nguyên giá bình quân tài sản cố định thì tạo ra được 119,7 đồng doanh thu thuần, đến năm 1998 thì con số này là 164,24 đồng tăng so với năm 1997 là 45,44 đồng tương ứng với 11,4%, điều này đồng nghĩa với việc Công ty đã tận dụng được công suất thiết kế một cách có hiệu quả hơn so với năm 1997, mặc dù Công ty vẫn tiến hành đầu tư trang thiết bị mới.Và đến năm 2000 thì tỷ lệ này đã đạt được tỷ lệ khá cao ước đạt 217 đồng có nghĩa là nếu công ty đầu tư 1 đồng tài sản cố định thì thu được 217 đồng doanh thu . Năm 2001 do Công ty đầu tư vào tài sản cố định nhiều mà lại không sử dụng hết công suất nên chỉ tiêu này giảm, mặc dù doanh thu thuần của Công ty vẫn tăng nhưng ở mức thấp 8,56% trong khi đó tài sản cố định tăng với mức là 15,95% so với năm 2000.Nhưng đến năm 2002 thì cùng với sự phát triển của nền kinh tế VIệt Nam nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung cũng đã tạo ra rất nhiều cơ hội làm ăn chính vì thế mà tình hình của công ty cũng sáng sủa hơn và diều đó được khẳng định qua tỷ lệ trên ; năm 2002 thì sức sinh lời của tài sản cố định đã tăng trở lại đạt mức 219 đồng tăng 22,25 đồng tương ứng 13%
+ Suất hao phí tài sản cố định theo Doanh thu thuần:
Nguyên giá bq của tài sản cố định
Chỉ tiêu này = x 100
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết cứ 100 đồng doanh thu thì cần phải chi phí bao nhiêu đồng tài sản cố định cụ thể năm 1997 Công ty muốn thu được 100 đồng doanh thu thì phải hao phí mất 83,5 đồng tài sản cố định,sang năm 1998 tỷ lệ này giảm xuông chỉ còn 60,88 đồng ,giảm 22,62 đồng so với năm 1997,tương ứng 27,1% ,có nghĩa là công ty đã sử dụng tiết kiệm hơn tài sản cố định .Trong các năm tiếp theo (1999,2000) thì tỷ lệ này càng ngày càng giảm chứng tỏ rằng cách thức sử dụng tài sản cố định ngày càng hiệu quả và tiết kiệm hơn và một trong những nguyên nhân là do tốc độ tăng của tài sản cố định cao hơn tốc độ tăng của doanh thu do đó cần phảimở rộng hoạt động tiêu thụ sản phẩm hơn nữa để sử dụng tối đa công suất của tài sản cố định.
+ Suất hao phí tài sản cố định theo lãi ròng:
Nguyên giá bình quân của tài sản cố định
Chỉ tiêu này = x 100
Lãi ròng
Chỉ tiêu này cho ta biết để có 100 đồng lợi nhuận thì cần phải chi phí bao nhiêu đồng tài sản cố định, cụ thể năm 1997 Công ty muốn thu được 100 đồng lợi nhuận thì phải hao phí 1603,5 đồng tài sản cố định, đến năm 1998 tỷ lệ này là 983 đồng, giảm so với năm 1997 là 620,5 đồng tương ứngvới mức giảm là 38,7% điều này cho thấy không phải Công ty không đầu tư tài sản cố định mà Công ty có đầu tư nhưng mức tăng không bằng mức tăng lơị nhuận cụ thể mức tăng lợi nhuận là 36,4% trong khi đó mức tăng tài sản cố định chỉ đạt 3,4% chứng tỏ Công ty đã sử dụng tối đa công suất của tài sản cố định. Đến năm 1999 thì con số này là 972 đồng giảm 1,19% so với năm 1998 điều này cho thấy Công ty đã đầu tư trang thiết bị nhiều và đã dần biết cách khai thác tốt công suất ,tuy nhiên Công ty vẫn cần nỗ lực hơn nữa để nâng cao lợi nhuận, tránh lãng phí, việc sử dụng lãng phí tài sản cố định ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của Công ty, mặc dù việc đầu tư cơ sở vật chất là rất hợp lý.
Tóm lại qua phân tích hiệu quả sử dụng tài sản cố định của Công ty ta thấy việc sử dụng tài sản cố định chưa được cao cần phải nỗ lực hơn nữa Song việc đầu tư tài sản cố định như vậy là hợp với quy luật chuyên môn hoá
c/ Hiệu quả sử dụng vốn lưu động (VLĐ) của Công ty
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty có thể phản ánh bằng nhiều loại chỉ tiêu nhưng chủ yếu và trước hết là các chỉ tiêu sau:
Giá trị sản xuất (doanh thu )
* Sức sản xuất của VLĐ = x 100
VLĐ bình quân
Lợi nhuận
* Sức sinh lời của VLĐ = x 100
VLĐ bình quân
VLĐ bình quân
* Suất hao phí của VLĐ = x 100
Giá trị sản xuất ( doanh thu, lãi)
Doanh thu
* Số vòng quay của VLĐ =
VLĐ bình quân
* Số VLĐ tiết kiệm hoặc vượt mức so với kỳ gốc = (TSN1- TSN0 ) x C/T
TSN=T x D/C
Trong đó : TNS là Tỷ suất hàng ngày.
D là vốn lưu động bình quân trong kỳ.
C là Doanh thu trong kỳ.
T là số ngày trong kỳ .
(1) là kỳ phân tích còn (0) là kỳ gốc.
Dưới đây là hiệu quả sử dụng Vốn Lưu Động của Công ty:
Chỉ tiêu
Đơn vị
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Doanh thu
Triệu
6584
9526
14325
17565
14556
16887
Vốn lưu động
Triệu
11200
12000
12500
13700
14200
15000
Lợi nhuận
Triệu
343
590
678
405
313
579
Sức sản xuất của VLĐ theo doanh thu
Đồng
58,8
79,4
114,6
112,58
102,5
112,58
Sức sản xuất của VLĐtheo lợi nhận
Đồng
3,06
4,92
4,27
2,96
2,2
3,86
Suất hao phí của VLĐ theo doanh thu
Đồng
170,2
125,97
87,26
78
97,55
88,8
Suất hao phí của VLĐ theo lợi nhuận
Đồng
3265,3
2033,9
1842,5
3382,7
4536,7
2590,6
Số vòng quay của VLĐ
lần
5,88
7,94
1,146
1,128
1,025
1,1258
Qua bảng số liệu trên cho ta thấy tình hình sử dụng vốn lưu động như sau :
+ Sức sản xuất của vốn lưu động tính theo doanh thu thuần: Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn lưu động thì tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu, cụ thể năm 1997 chỉ tiêu này đạt 58,8 tức là cứ một đồng vốn lưu động thì tạo ra 58,8 đồng doanh thu . Năm 1998 chỉ tiêu này tăng , đạt 79,4 đồng tăng so với năm 1997 là 20,6 đồng tương ứng với 35% nguyên nhân do tỷ lệ tăng vốn lưu động cao hơn tỷ lệ tăng doanh thu, đồng nghĩa với việc Công ty có khả năng thanh toán cao hơn, song việc sử dụng vốn lưu động vẫn chưa có hiệu quả . Đến năm 1999 chỉ tiêu này đạt 114,6 đồng tăng 35,5 đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 44,3% so với năm 1998, đến năm 2000 chỉ tiêu này đạt 128,2 đồng tăng 13,6 đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 11,8% so với năm 1999 , mặc dù doanh thu năm 2001 vẫn tăng so với năm 2000 nhưng mức tăng doanh thu thấp hơn mức tăng vốn lưu động do vậy hiệu quả kinh doanh phần nào còn hạn chế ,tỷ lệ nay chỉ đạt 102,5 đồng giảm 25,7 đồng tương ứng với 20%
+ Sức sinh lời của vốn lưu động: Chỉ tiêu này cho biết cứ 100 đồng vốn lưu động thì tạo được bao nhiêu đồng lợi nhuận, năm 1997 là 3,06 đồng lợi nhuận, năm 1998 là 4,92 đồng tăng 1,68 đồng tỷ lệ tương ứng là 60,8% do tỷ lệ tăng lợi nhuận cao hơn so với tỷ lệ tăng vốn lưu động, mặt khác do Công ty đã mở rộng thị trường tiêu thụ và sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn.Đến năm 1999 do Công ty đã đầu tư nhiều vào tài sản lưu động mà vốn chủ yếu là vốn vay nên chi phí làm cho lợi nhuận giảm nên chỉ tiêu này giảm nhiều, giảm 4% so với năm 1998, điều này không có nghĩa là Công ty làm ăn thua lỗ, mà vấn đề là Công ty vẫn chưa phát huy được điểm mạnh của mình.Trong các năm tiếp theo thì tỷ lệ này giảm xuống rất thấp chỉ còn 2,96(2000); và 2,2 đồng (năm 2001),tuy vậy vào nă m 2002 thì tỷ lệ này đã tăng trở lại và đạt mức khá cao khoảng 3,38 đồng,tăng 75,4%
+ Suất hao phí vốn lưu động tính theo doanh thu thuần: chỉ tiêu này cho thấy trong 100 đồng doanh thu thì chi phí bao nhiêu đồng vốn lưu động, năm 1997 là 170,2 đồng, năm 1998 là 125,97 đồng giảm 44,23%, đến năm 1999 con số này là 87,26 đồng giảm 30,7% so với năm 1998. Qua đây ta thấy để tạo ra doanh thu thì ngày càng cần đến vốn lưu động nhất là trong thời buổi nền kinh tế thị trường cạnh tranh , nếu doanh nghiệp nào cố nhiều vốn thì sẽ chiếm lĩnh được thị trường.
+Suất hao phí vốn lưu động tính theo lợi nhuận ròng: Chỉ tiêu này cho biết để có được một đồng lợi nhuận thì cần bao nhiêu đồng vốn lưu động. Năm 1997 để có 1 đồng lợi nhuận thì cần 3265,3 đồng vốn lưu động, năm 1998 thì cần 2033,9 giảm so với năm 1997 là 1231,4 % chứng tỏ Công ty làm ăn có hiệu quả hơn. Đến năm 1999 con số này là 1842,5 đồng vốn lưu động giảm191,4 đồng tức giảm 10,5 % điều này chứng tỏ Công ty bị chiếm dụng vốn hơn nữa cũng do sự cạnh tranh của các đối thủ cùng ngành, do vậy đòi hỏi Công ty phải có lượng vốn lớn, ảnh hưởng lớn tới hiệu quả kinh doanh.Trong các năm tiếp theo thì tỷ lệ này tăng rất cao ,nhất là vào năm 2001 đạt 4536,74 đồng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty không cao. Mặc dù năm 2002 tỷ lệ này có giảm song vẫn mức ở cao đạt 2590,6 đồng.
+Số vòng quay của vốn lưu động: Chỉ tiêu này cho biết số vốn lưu động 1 năm quay được mấy vòng, năm 1997 số vòng quay của vốn lưu động là 0,588 vòng, năm 1998 số vòng quay của vốn lưu động là 0,794 vòng tăng so với năm 1997 là 0,26 vòng tăng 35% nguyên nhân là do yếu tố khách quan, yếu tố cạnh tranh , năm 1999 số vòng quay của vốn lưu động là 1,14 vòng tăng so với năm 1999 là 0,352 vòng tăng 35% nguyên nhân là do yếu tố khách quan, yếu tố cạnh tranh .Đến năm tiếp theo do vốn lưu động của Công ty nhiều do vậy vòng quay của vốn chậm hẳn chỉ đạt 1,282 vòng /1 năm giảm 27,97% đòi hỏi các nhà kinh doanh phải nỗ lực hơn nữa để phát huy được nguồn vốn của mình.
3. Đánh giá tổng quát về hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty
Trên cơ sở phân tích thực trạng hiệu quả kinh doanh của Công ty trong những năm qua, kết hợp với việc xem xét kỹ các đặc điểm về kinh tế kỹ thuật cho thấy Công ty đã đạt được những thành tựu và tồn tại một số hạn chế.
3.1. Những thành tựu đạt được
3.1.1 Những thành tựu đạt được
a.Những thành tựu chung
+Từ kết quả ở bảng 1 và biểu đồ trên, ta có thể thấy rằng từ năm 1997 - 2002, tổng doanh thu bình quân tăng 20%/năm. Đạt được điều đó công ty đã phải liên tục kiện toàn bộ máy quản lý, đồng thời quan tâm đến chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh, thêm vào đó công ty luôn thực hiện đúng kế hoạch về sửa chữa, xây mới kho xưởng, xí nghiệp bằng nguồn vốn tự có của công ty theo định kỳ.
+Cùng với việc tăng doanh thu thì hàng năm công ty cũng hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách cho Nhà nước .công ty luôn luôn chấp hành các khoản nộp thuế theo quy định và quyết định của Nhà nước.Qua bảng trên ta thấy số thuế mà công ty nộp đã tăng lên qua các năm ,đây là một điều rất hợp lý bởi cùng với sự phát triển của công ty ,cho nên doanh thu, mặt hàngkinh doanh đa dạng ,dịch vụ ngày càng mở rộng, vì thế số thuế nộp sẽ phải nhiều lên, và một lần nữa khẳng định sự lớn mạnh của công ty của công ty qua các năm.Và nó chứng minh một điều rằng các chiến lược kinh doanh của công ty trong từng thời kỳ ở từng giai đoạn khác nhau là rất đúng hướng.
+ Nhìn vào bảng 5 ta thấy ,doanh thu từ dịch vụ giao nhận bằng đường biển tăng nhanh qua các năm , như đã nói ở trên, do có cuộc khủng bố ngày 11-9-2001 ở Mỹ , cho nên hầu hết các khách hàng trên thế giới đều giảm lòng tin bằng các vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không, do vậy mà năm 2000 gọi là năm “được mùa của vận tải đường biển quốc tế, hầu hết các hàng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24435.DOC