Tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác kinh doanh bán điện ở công ty điện lực thành phố Hà Nội: Lời mở đầu
Đường lối đổi mới do đảng ta khởi xướng bắt đầu từ đại hội đảng lần thứ VI, tiếp tục phát triển qua đại hội lần thứ VII , thứ VIII đã đi vài cuộc sống và đã tạo ra những biến đổi to lớn trong đời sống kinh tế - xã hội. Văn kiện Hội nghị Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của đảng khẳng định thành tựu có ý nghĩa hàng đầu của công cuộc đổi mới “nền kinh tế ra khỏi khủng hoảng triền miên và bước vào thời kì tăng trưởng ổn định”.
Thành tựu đạt được này có sự đóng góp không nhỏ của nghành điện, bởi vì sản phẩm điện năngmang tính chất xã hội hoá cao đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sản xuất và đời sống đặc biệt là đối với sự nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của nước ta , như Lê Ninđã nói “chủ nghĩa xã hội bằng chính quyền Xô Viết cộng với điện khí hoá toàn quốc”. Nhận thức được tầm quan trọng của ngành điện Nghị quyết Đại hội đảng lần thứ VIII đã xác định nhiệm vụ chủ yếu của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, trong đó “nhiệm vụ phát triển nguồn điện, cải tạo và mở rộng lưới điện ...
43 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1195 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác kinh doanh bán điện ở công ty điện lực thành phố Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Đường lối đổi mới do đảng ta khởi xướng bắt đầu từ đại hội đảng lần thứ VI, tiếp tục phát triển qua đại hội lần thứ VII , thứ VIII đã đi vài cuộc sống và đã tạo ra những biến đổi to lớn trong đời sống kinh tế - xã hội. Văn kiện Hội nghị Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của đảng khẳng định thành tựu có ý nghĩa hàng đầu của công cuộc đổi mới “nền kinh tế ra khỏi khủng hoảng triền miên và bước vào thời kì tăng trưởng ổn định”.
Thành tựu đạt được này có sự đóng góp không nhỏ của nghành điện, bởi vì sản phẩm điện năngmang tính chất xã hội hoá cao đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sản xuất và đời sống đặc biệt là đối với sự nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của nước ta , như Lê Ninđã nói “chủ nghĩa xã hội bằng chính quyền Xô Viết cộng với điện khí hoá toàn quốc”. Nhận thức được tầm quan trọng của ngành điện Nghị quyết Đại hội đảng lần thứ VIII đã xác định nhiệm vụ chủ yếu của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, trong đó “nhiệm vụ phát triển nguồn điện, cải tạo và mở rộng lưới điện đáp ứng nhu cầu cung cấp điện ổn định”.
Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Tổng công ty Điện lực Việt Nam kinh doanh một loại hàng hoá chiến lược là điện năng. Trong cơ chế tập chung quan liêu bao cấp, điện năng chỉ được xem là một loại hàng hoá cung cấp theo các mức độ khác nhau, phục vụ cho nhu cầu toàn thể xã hội, vấn đề lỗ lãi không quan tâm chú trọng, chỉ tiêu chủ yếu của thời kỳ này là vận hành lưới điện an toàn.
Khi có chủ trương đổi mới của Nhà nước, nhất là sau QĐ91/TTg của Thủ tướng chính phủ thì Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội đã bước sang một giai đoạn phát triển mới giai đoạn hạch toán kinh doanh độc lập thì công cuộc đổi mới thực sự diễn ra trong nghành điện nói chung và Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội nói riêng, các chỉ tiêu kinh doanh bán điện được đặt vào vị trí trọng tâm và được coi là nhiệm vụ sống còn của nghành điện trong giai đoạn mới.
Cần khẳng định rằng việc đổi mới cơ chế quản lý trong 3 năm qua đã đưa lại nhiều chuyển biến quan trọng cho Công ty song vì tổn thời gian đổi mới chưa lâu nên trong hoạt động kinh doanh của Công ty còn có nhiều mặt yếu kém cần khắc phục. Trong đó vấn đề kinh doanh bán điện trong cơ chế thị trường chưa được hoàn thiện về mặt lý luận và thực tiễn đã trở thành một điều bức súc cần phải nghiên cứu đổi mới cho phù hợp với giai đoạn phát triển mới của nước ta.
Nghiên cứu việc đổi mới công tác kinh doanh bán điện góp phần củng cố nâng cao vị trí vai trò của nghành điện nói chung và Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội nói riêng trong cơ chế thị trường hiện nay. Mặt khác, nó tạo ra thế và lực đưa đất nước chuyển sang “thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.
Trong thời gian thực tập tại phòng kinh doanh bán điện của Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội, ý thức được những đặc thù của Công ty, nhận thức được những đòi hỏi bức thiết của cơ chế thị trường, của xã hội đối với nghành điện kết hợp với những kiến thức tiếp thu được trong quá trình học tập ở trường em xin chọn đề tài:
Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác kinh doanh bán điện ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội
Trong phạm vi chuyên đề của mình em xin được trình bày những nội dung cơ bản sau:
Phần I: Vai trò, tầm quan trọng của hoạt động kinh doanh bán điện trong nền kinh tế quốc dân
I./ Đặc điểm mặt hàng điện và hoạt động kinh doanh bán điện.
II./ Vai trò của điện năng trong nền kinh tế quốc dân.
III./ Tầm quan trọng của kinh doanh bán điện đối với hoạt động sản xuất – kinh doanh của Công ty.
Phần II:Phân tích thực trạng của hoạt động kinh doanh bán điện ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội.
I./ Khái quát về Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội.
II./ Tổ chức công tác kinh doanh bán điện ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội.
III./ Tình hình kinh doanh bán điện ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội trong những năm gần đây.
IV./ Những thuận lợi và khó khăn trong việc hoàn thành các nhiệm vụ kinh doanh bán điện ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội.
Phần III: Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác kinh doanh bán điện ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội.
I./ Phương hướng phát triển hoạt động kinh doanh bán điện ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội.
II./ Những biện pháp chủ yếu nhằm đổi mới công tác kinh doanh bán điện ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội.
Do thời gian và trình độ có hạn, nên mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng chuyên đề không tránh khỏi nhwng thiếu sót nhất định, em rất mong được sự đóng góp chỉ bảo của các thầy, cô để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
Phần I
Vai trò, tầm quan trọng của hoạt động kinh doanh bán điện trong nền kinh tế quốc dân
I./ Đặc điểm mặt hàng điện và hoạt động kinh doanh bán điện.
1./ Đặc điểm của mặt hàng điện năng
Điện năng là một sản phẩm công nghiệp, nó là kết quả trực tiếp hữu ích của hoạt động sản xuất công nghiệp được biểu hiện dưới dạng vật chất là một năng lượng chính vì vậy điện năng có một số đặc trưng sau:
ã Sản phẩm điện không được chia theo mức độ hoàn thành, không có sản phẩm dở dang mà chỉ được biểu hiện dưới một dạng duy nhất đó là thành phẩm. Sản phẩm điện chỉ coi là hoàn thành khi đã trải qua đủ các quy trình sản xuất.
ã Quá trình sản xuất và tiêu thụ điện năng diễn ra đồng thời, nó đòi hỏi có sự cân bằng giữa sản xuất và tiêu dùng để tỷ lệ tổn thất là nhỏ nhất. Do đó, điện không được lưu trữ ở bất kỳ khâu nào, không thể cất vào kho đệm như các hàng hoá thông thường khác, không thể sử dụng các biện pháp đầu cơ tích trữ để thay đổi giá cả trên thị trường mà phải căn cứ vào chi phí sản xuất, nhu cầu sử dụng điện để điều chỉnh giá bán điện cho phù hợp, đảm bảo hết công suất và cân bằng thu, phát.
ã Điện năng được phân phối từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ thông qua hệ thống dây tải điện, hệ thống các trạm biến áp cao thế, trung thế vầ hạ thế. Vì vậy, trong quá trình truyền tải điện luôn luôn có lượng điện năng bị hao hụt tự nhiên gọi là tổn thất điện năng. Tổn thất điện năng phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng có thể phân làm hai loại là: tổn thất do các yếu tố kỹ thuật và tổn thất do các nguyên nhân quản lý:
Tổn thất kỹ thuật là do các yếu tố kỹ thuật gây ra như chất lượng dây dẫn, chất lượng máy biến áp, cường độ dòng điện, cấp độ điện áp.
Tổn thất thương mại là do các nguyên nhân quản lý gây ra như việc quản lý không chặt chẽ dẫn tời tình trạng ăn cắp điện.
Nói tóm lại, điện năng là một loại sản phẩm, một loại hàng hoá đặc biệt và thiết yếu của nền kinh tế quốc dân, phục vụ cho quảng đại quần chúng nhân dân nên hiện nay nó là sản phẩm độc quyền của nhà nước, do nhà nước trực tiếp quản lý và phân phối.
2./ Đặc điểm của hoạt động kinh doanh bán điện
Như đã trình bày, điện năng là một dạng hàng hoá đặc biệt nên quy trình sản xuất kinh doanh cũng có những đặc điểm riêng khác biệt. Tính chất kinh doanh riêng biệt của nghành điện thể hiện trong dây truyền sản xuất: phát, truyền dẫn và sử dụng xảy ra đồng thời liên tục. Với một lưới điện rộng khắp, ngành điện thực hiện việc bán điện trực tiếp tới từng khách hàng sử dụng điện năng. Ngành điện phải hàng ngày, hàng giờ vừa đảm bảo cung ứng điện năng, vừa theo dõi quản lý, thu tiền từ sản phẩm của mình bán ra. Để phục vụ cho việc theo dõi và hạch toán, ngành điện tiến hành lắp đặt hệ thống công tơ đo đếm theo các ranh giới được phân cấp từ nhà máy tới các điện lực đặt tại các quận, huyện và sau đó đến từng khách hàng sử dụng điện. Cùng với quá trình trên, mỗi cấp quản lý còn phải tự hạch toán đầu vào và đầu ra giữa điện nhận đầu nguồn và điện năng phân phối hay điện năng thương phẩm. Hiện nay, chu kỳ kinh doanh điện năng diễn ra đều đặn hàng tháng theo thuộc tính khách hàng tiêu dùng trước, trả tiền sau.
Tính chất liên tục của hoạt động kkinh doanh bán điện còn thể hiện ở chỗ các chu kỳ kinh doanh bán điện phân biệt với nhau một cách tương đối vì việc cung ứng và sử dụng điện năng không thể gián đoạn được, trong khi việc ghi chỉ số của chu kỳ sau đã bắt đầu thì việc thu tiền điện của chu kỳ trước vẫn đang tiếp tục, thêm vào đó chu kỳ của khu vực này có thể tính từ đầu tháng này đến đầu tháng sau thì ở khu vực khác lại có thể bắt đầu từ giữa hoặc cuối tháng và tương đương kết thúc vào giữa hay cuối thang sau. Từ đó ta thấy chu kỳ kinh doanh điện năng có tính liên tục và tính phân đoạn tương đối làm cho quá trình kinh doanh của ngành có những điểm khác biệt với các ngành khác.
Bên cạnh đó là việc khách hàng sử dụng trước trả tiền sau cũng là đặc tính riêng của hoạt động kinh doanh bán điện. ở đây cần phân biệt việc kinh doanh bán điện của ngành điện với việc bán hàng trả chậm ở một số ngành kinh doanh khác, bởi dù có bán hàng trước trả tiền sau thì doanh nghiệp ở một số ngành kinh doanh nào đó vẫn xác định được doanh thu của mình từ khi xuất bán. Còn ở ngành điện thì phải sau khi khách hàng tiêu thụ một lượng điện năng nhất định thể hiện trên công tơ đo đếm điện năng thì ngành điện mới xác định được doanh thu của mình và từ đó mới tiến hành công tác thu tiền bán điện.
II./ Vai trò của điện năng trong nền kinh tế quốc dân
1./ Điện năng đối với quá trình phát triển các ngành sản xuất vật chất.
1.1./ Vai trò của năng lượng trong nền kinh tế quốc dân.
Trong nền kinh tế quốc dân năng lượng là một trong những yếu tố tối quan trọng để thúc đẩy sự tăng trư
ởng của qáu trình kinh tế xã hội . Xết về mọi mặt, cả về tiêu dùng cũng như trong sản xuất , năng lượng là một yếu tố khong thể thiếu trong quá trình sản xuất cũng như các lĩnh vực xã hội khác. Mặt khác hầu hết các khả năng không thể tái sinh nên nó chịu tác động rất mạnh xủa quy luật khan hiếm các nguồn lực . Ngày nay , khi sự khan hiếm các nguồn lực trở thành một vấn đề mang tính toàn cầu thì việc sử dụng và khai thác có hiệu quả các nguồn năng lượng đã trở thành một yếu tố hàng đầu của sự phát triển.
Nước ta là một trong số các nước trên thế giới cố những tiềm năng dồi rào về năng lượng. Ta có thể kể đến như: than đá , than bùn , thuỷ năng, dầu khí năng lượng thuỷ triều , gió ... Sử dụng và khai thác có hiệu quả nguồn năng lượng đó không những có tác dụng phục vụ sản xuất và tiêu dùng trong nước mà còn là nguồn lực qưuan trọng để xuất khẩu năng lượng sau này. Trong giai đoạn hiện nay , để đáp ứng nhu cầu công nhiệp hoá, hiện dại hoá dất nước, hơn bao giờ hết ngành năng lượng nói chung và ngành điện nói riêng phải có những bước phát triển vượt bậc trong cung ứng, phục vụ cũng như trong hoạt động kinh doanh , gópphần đưa nền kinh tế nước nhà phát triển kịp thời đại .
2.2/ Vai trò của điện năng trong hệ thống các ngành năng lượng , đặc biệt là tiềm năng điện lực Việt Nam .
Trong các nguồn năng lượng thì điện năng đóng một vai trò quan trọng, nó ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhất là đối với các nước đang tiến hành công nhiệp hoá. Bởi vì , công nhiệp hoá chỉ có thể thực hiện được dựa trên điện khí hoá. Loại “ nhiên liệu” này cung cấp cho đa số nhu cầu sản xuất cũng như trong tiêu dùng, ở nước ta điện năng lại có vai trò vô cùng quan trọng vì những lí do sau đây:
Thứ nhất , do trìng độ phát triển kinh tế của ta còn thấp nên khả năngkhai thác các nguồn năng lượng khác như: năng lượng mặt trời , năng lưọng gió , năng lượng hạt nhân là một điều mà còn rất xa ta mới có thể đạt tới được , trong khi nền kinh tế đang phát triển ở nước ta lại có những đòi hỏi rất lớn về năng lượng.
Thứ hai, trong các nguồn năng lượng được khai thác như dầu khí , than đá đang cạn dần và chất lượng có phần hạn chế thì điện năng với hai nguồn cung cấp chủ yếu là nhiệt điện và thuỷ điện , đặc biệt là thuỷ điện lại là một nguồn lực rất phong phú , mới được khai thác, sử dụng rất ít so với tiềm năng thực có. trong khi đó, nhờ sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật hiện nay năng lượng diện qua các giải pháp kĩ thuật đã có thể tích luỹ được năng lượng đư thừa bằng cách tích điện vào ắc quy, hay chuyển từ điện năng thành thế năng thông qua việc sử dụng năng lượng dư thừa giờ thấp điểm , bơm nước vào các hồ chứa nước trên cao đẻ xả lại các tuốc bin giờ cao điểm .
Thứ ba, và cũng là điều mà các nhà kinh tế thường quan tâm, đó là giá thành. Điện năng và đặc biệt là thuỷ điện có giá thành mà ít loại năng lượng phổ biến hiện nay có thể cạnh tranh được. Kể cả trong đầu tư ban đầu cũng như đầu tư trong khai thác đều tiết kiệm hơn các loại năng lượng khác. Bên cạnh đó , khai thác nguồn năng lượng thuỷ điện lại có tác dụng điều tiết và cải tạo khí hậu môi trường.
Vì những căn cứ trên, ta có thể nói rằng điện năng là nguồn năng lượng chủ yếu, tối quan trọng đói với quá trình phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Có lẽ mà theo em hiện nay và mai sau ngành điện sẽ là một trong ssó gành mà Nhà nước đọc quyền quản lý và khai thác.
2.3./ Sự ảnh hưởng của điện năng tới quá trình phát triển các ngành sản xuất vật chất:
Sự ảnh hưởng của điện năngtới quá trình phát tiển các ngành sản xuất vật chất là voo cùng to lớn, đối với nhiều ngànhn nó có ý nghĩa sống còn trong sản xuất và kinh doanh bởi lẽ sau.
Thứ nhất, như trên đã nêu điện năng là một dạng năng lượng phổ biến và rẻ tiền hiện nay. Chính vì vậy, trong sản xuất cũng như trong tiêu dùng tỉ trọng sử dụng năng lượng điện thường chiếm đa số.
Thứ hai, ở nước ta hiện nay cũng như nhiều nước trên thế giới việc sử dụng năng lượng điện đă ăn ssâu vào tiềm bao thế hệ, đến mức ta có thể dễ dàng nhận thấy hầu hết các thiết bị sản xuất, các thiết bị truyền tải đều trực tiếp hay gián tiếp sử dụng năng lượng điện trong hệ thống động lực hay truyền tải.
Thứ ba, điện năng là một nguồn năng lượng được sử dụng như một nhân tố sản xuất không thể thiếu được của rất nhiều ngành sản xuất vật chất.
Cùng với nguyên liệu, điện năng với tư cách là nguyên liệu chính là một trong những yếu tố để sản xuất ra sản phẩm, ngoài ra ở một số ngành công nghiệp điện năng còn là chất xúc tác, là điều kiện để cho các công nghệ được thực hiện.
Đặc biệt là đối với nước ta hiện nay, giá điện lại có ảnh hưởng rất lớn đến giá thành của các ngành sản xuất – dịch vụ. Gía điện tăng sẽ đẩy chi phí của các ngành này lên và sản phẩm công nghiệp Việt Nam khó cạch tranh với hàng nhập khẩu. Nguyên nhân chính là do thiết bị của các ngành công nghiệ Việt Nam đều đã cũ, tiêu nhao nhiều năng lượng, khiến chi phí điện năn tính vào giá thành sản phẩm của Việt Nam tăng cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh mặc dù giá điện Việt Nam rẻ hơn. Vì vậy, đối với nhiều ngành sản xuất như công nghiệp nặng, coong nghiệp nhẹ thì chỉ cần một thay đổi nhỏ trong cung ứng điện hay giá bán điện cũng ảnh hươngr rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của họ như dệt may, luyện kim, thông tin liên lạc... Dđó mọi chủ trương về phát triển cơ câúa hạ tầng ngành điện cũng như thay đổi về giá bán điện trên tầm vĩ mô của Nhà nước cần phải được cân nhắc cẩn thận để tránh dẫn tình trạng mất ổn định trong phát triển kinh tế. Xác định được vai trò quan trọng của điện năng nên trong văn kiện đại hội đảng lần thứ VIII đã nêu: “Phát triển nguòon điện, cải tạo và mở rộng lưới điện đáp ứng nhu caauf cung cấp điện ổn định” ( Văn kiện đại hội đại biểu toàn quóoc lần thứ VIII- NXB chính trị quốc gia, trang 98).
2./ Điện lực đối với quá trình phát triển văn hoá giáo dụctrong phạm vi toàn quốc.
1.1/ Nhu cầu điện năng trong đời sống sinh hoạt xã hội ngày càng gia tăng.
Trong đời sống sinh hoạt xã hội hiện nay, không chỉ riêng nước ta mà trên toàn thế giới điện năng cũng là loại năng lượng phổ biến nhất được sử dụng trong đời sống sinh hoạt. Ngày nay, việc điện khí hoá toàn quốc cũng là moọt vấn đè mà hầu hết các quốc gia quan tâm, và trên một khía cạnh nào đó nó còn là thước đo trrình độ phát triển kinh tế, trình độ văn minh mà quốc gia đó đạt được.
ở nước ta nhu cầu về điện năng đang phát triển với một tốc độ nhanh chóng. Trong sinh hoạt, cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật. việc mức sống dân cư ngày càng được nâng cao, quá trình đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ dẫn đến nhu cầu điện năng có sự thay đổi về chất. Nếu trước đây điện năng chủ yếu dùng cho nhu cầu chiếu sáng sinh hoạt và một số nhu cầu thiết yếu của đời sống, thì ngày nay điện năng đã trở thành nguồn năng lượng không thể thiếu trong việc phục vụ mức sống tinh thần của người dân.
Ngày nay nhiều vùng nông thôn và vùng núi đã có điện sử dụng và nhu cầu điện năng ngày càng trở nên không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt và trong đời sống xã hội của các vùng dân cư đó.
2.2./ Sử dụng điện năng trong các hoạt động dịch vụ công cộng làm tăng thêm nét đẹp cho đời sống của toàn xã hội.
Điện năng không những chỉ phục vụ cho mục đích cá nhân mà còn là một nhu cầu thiết yếu trong lĩnh vực phát triển các dịch vụ công cộng nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần cho toàn xã hội. Trong đời sống xã hội hiện đại thì mức độ phân phối các dịch vụ công cộng tới từng thành viên trong xã hội cũng là một thước đo để đánh giá sự phát triển.
Ngày nay đi trên đường phố chúng ta có thể nhận thấy vai trò quan trọng của việc sử dụng điện năngcho các hoạt động công cộng: Những hàng đèn cao áp, những đài phun nước ( Đặc biệt trong các ngày lễ hội ) được trang hoàng đủ mầu sắc làm sinhđộng tem các nơi vui chơi giải trí,là một nét đẹp tinh thần và là một nguồn động viên giúp mọi nhười tin tưởng về một cuộc sống tươi đẹp ở phía truớc.
Ngoài việc sử dụng điện năng vào các công việc giải trí, làm đẹp thêm thành phố thì rất nhiều hoạt động dịch vụ công cộng khác cần sử dụng điện năng đặc biệt là trong giao thông hiện đại, các phương tiện vận chuyển hành khách dùng năng lượng điện là rất phổ biến. Tuy nhiên ở Việt Nam bộ phận này còn nhiều hạn chế.
Tóm lại, việc sử dụng năng lượng điện trong các hoạt động công cộng vừa rẻ tiền lại vừa đảm bảo yêu cầu mĩ quan và giữ cho môi trường luôn luôn trong sạch.
2.3/ Nhu cầu điện năng trong các hoạt động văn hoá văn nghệ là không thể thay thế.
Cuối cùng ta không thể không nói đến nhu cầu điện năng sử dụng trong các hoạt động vui chơi giải trí, các hoạt động văn hoá nghệ thuật là không gì có thể thay thế được. Không thể hình dung được một xã hội hiện đại mà không có các rạp chiếu phim, nhà hát, sân khấu... và các hoạt dộng trên lại không thể thiếu nhu càu về diịen năng. Với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, công nghệ và trang thiết bị cho việc sáng tạo racác sản phẩm trí tuệ cho các ngành văn hoá nghệ thuật, ngày nay việc dùng năng lượng điện để phục vụ cho các hoạt động này là một nhu cầu quen thuộc và tất yếu. Ngay kể cả khi cuộc biểu diễn, san khấu ngoài trời cũng phải có điiện để phục vụ sinh. Khi đời sống ngày một nâng cao, khi nhu cầu thiết yếu dần đến giới hạn thì nhu cầu văn hoá tinh thần trở nên vô cùng quan trọng trong đời sống và do đó nhu cầu điện năng cho hoạt động này cũng trở nên mạnh mẽ.
III./ tầm quan trọng của kinh doanh bán điện đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Kinh doanh bán điện là hoạt động cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh đện năng, là yếu tố quyết định. Kinh doanh bán điện thực hiện mục đích của sản xuất là tiêu dùng, đưa điện đến nơi tiêu dùng cuối cùng, nó là cầu nối trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng.
Thực tiễn cho thấy, ứng với mỗi cơ chế quản lý kinh tế, công tác kinh doanh bán điện được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, Nhà nước quản lí chủ yếu bằng mệnh lệnh. Các cơ quan hành chính Nhà nước can thiệp rất sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty,nhưng lại không chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Quan hệ giữa các ngành là quan hệ dọc được kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát, giao nộp sản phẩm hiện vật. Tóm lại trong nền kinh tế tập trung khi mà ba vấn đề trung tâm là: cái gì , bao nhiêu , cho ai? đều do Nhà nước quyết định thì hoạt động kinh doanh bán diện chủ yếu là bán điện sản xuất theo kée hoạch và giá cả đã được ấn định từ trước, ngành đieenj mới chỉ chú trọng tới công tác giảm tỉ lệ tổn thất điện năng và quan tâm nhiều tới khía cạnh kĩ thuật của quá trình bán điện do đó hiệu quả kinh tế không cao.
Trong nền kinh tế thị trường, nhất là đến năm 1995 khi ngành điện chuyển đổi cơ cấu từ đơn vị có chức năng quản lý Nhà nước sng hạch toán độc lập tự trang trải thì kinh doanh bán điện được coi là chỉ tiêu chủ chốt trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh , đóng vai trò quyết định sự sống còn của doanh nghiệp, cụ thể là:
Kinh doanh bán điện gắn người sản xuất và người tiêu dùng, nó giúp các Công ty hiểu biết thêm về kết quả sản xuất của mình thông qua nhu cầu sử dụng điện của khách hàng. Khi điện năng được tiêu thụ tức là nó đã được người tiêu dùng chấp nhận để thoả mãn một nhu cầu nào đó. Sức tiêu thụ ssản phẩm thể hiện uy tín của Công ty, chất lượng của sản phảm điện và sự hoàn thiện của các hoạt động dịch vụ. Nói cách khác nó phản ánh điểm mạnh và điểm yếu của Công ty, giúp Công ty hiểu thêm về quá trình sản xuất của mình và rút ra được các bài học kinh nghiệm cho giai đoạn tiếp theo. Mặt khác thông qua cách thức kinh doanh bán điện khách hàng hiểu rõ về năng lực sản xuất của Công ty.
Kinh doanh bán điện giúp Công ty xác định được phương hướng và bước đi của kế hoạch sản xuất – kinh doanh cho giai đoạn tiếp theo. Thông qua công tác bán điện Công ty dự đoán được các yếu tố sau:
Dự báo được nhu cầu xã hội của từng thành phần sử dụng điện nói riêng, sự thay đổi của thái độ tiêu dùng và đông cơ của khách hàng hàng, sự tiến triển của bộ máy phân phối...
Hoạt động kinh doanh bán điện giúp Công ty dự báo diễn biến của thị trường trong giai đoạn tiếp theo. Từ đó nắm bắt được cơ hội trường và nguy cơ liên quan đến điều kiện môi trường kinh doanh, đánh giá những lợi ích và thiệt hại khi xâm nhập thị trường từ đó tìm ra thị trường trọng điểm của mình.
Qua quá trình kinh doanh bán điện ở giai đoạn trước giúp Công ty phát hiện được thế mạnh của mình và những điều còn tồn tại trong công việc cần được khắc phục.
Phân tích việc duy trì hay thay đổi các chính sách đã có, đánh giá mức độ và hiệu quả của những thay đổi cần thiết... trên cơ sở so sánh triển vọng bán điện của Công ty tương ứng với những thay đổi trong chính sách của mình.
Trên cơ sở đó Công ty sẽ xây kế hoạch sản xuất –kinh doanh phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Tóm lại, để hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty được tiến hành thường xuyên, liên tục và hiệu quả thì công tác kinh doanh bán điện phải được tổ chức khoa học linh hoạt phù hợp với từng giai đoạn phát triển.
IV./ nội dung của kinh doanh bán điện ở nước ta
1./ Điều tra, nghiên cứu nhu cầu của thị trường:
Nghiên cứu thị trường thực chất là phương pháp đã được tiêu chuẩn hoá, có hệ thống và tỉ mỉ để xử lý vấn đề Marketing với mục đích tìm ra những điều kiện cần thiết, thích hợp để tìm thị trường cho các loại hàng hoá, dịch vụ nào đó trong khoảng thời gian cụ thể và trong phạm vi nguồn lực hạn chế.
Nghiên cứu thị trường là một loạt các thủ tục và kỹ thuật được đưa ra để giúp các nhà kinh doanh có đầy đủ thông tin cần thiết nhằm đưa ra các quyết định kinh doanh chính xác. nghiên cứu thị trường là một quá trình tìm kiếm khách hàng cùng với sự phân tích những thông tin cần thiết để giải quyết các vấn đề marketing hỗn hợp đó là: sản phẩm, giá cả, phân phối và xúc tiến (4ps: produt, price, placeand promotion).
Ngiên cứu thị trường hàng hoá giúp các nhà kih doanh nhận biết được quy luật vận động của thị trường hàng hoá. Mỗi thị trường hàng hoá cụ thể có quy luật vận động riêng, thể hiện qua sự biến đổi nhu cầu, cung cấp và giá cả hàng hoá trên thị trường nắm vữg các quy luật thị trường hàng hoá để vận dụng giải quyết các vấn đề của thực tiễn kinh doanh như nhu cầu của thị trường đối với hàng hoá mà doanh nghiệp đang kinh doanh, khả năng tiêu thụ, khà năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường quốc tế, các hình thức và các biện pháp xâm nhập thị trường.
Nội dung của nghiên cứu nhu cầu thị trường nhằm trả lời ba câu hỏi: cái gì? bao nhiêu? cho ai? Tức là thị trường đâng cần những loại sản phẩm gì? Đặc điểm kinh tế kĩ thuật của loại sản phẩm đó ra sao? Dung lượng thị trường của loại sản phẩm đó như thế nào? Ai là người tiêu thụ loại sản phẩm đó? Như đã điện năng là một loại hàng hoá đặc biệt và là loại hàng hoá độc quyền của nhà nướ, tất cả mọi người đều có nhu cầu tiêu dùng nó. Mặt khác điện năng có tổn thất kĩ thuật và tổn thất thương mại, nên để kinh doanh có hiệu quả cao thì phải xác định được số lượng cần cung ứng. Vì vậy nghiên nhu cầu của thị sản phẩm điện nhằm trả lời câu hỏi “Bao nhiêu?”.
2./ Định giá bán và thông báo giá:
Điện năng là loại sản phẩm độc quyền giá mua và giá bán là do Nhà nước quy định cho từng đối tượng sử dụng điện, nên công việc của công ty là:
Phải xác định được giá bán điện sao cho bảo đảm phù hợp với mặt bằng chung trong khu vực và thế giới lại vừa phù hợp với mức sống của dân cư trong nước, đảm bảo kinh doanh có lãi. Từ đó lập và trình lên chính phủ. Gía thành kế hoạch là căn cứ để xác định giá bán điện nó dựa vào những yếu tố sau
Chế độ tài chính: Khấu haô tài sản cố định, vốn và sử dụng vốn, hạch toán các cchi phí do bộ tài chính quy định.
Lãi vay ngân hành quy định.
Tiền lương và cấp bậc công việc do Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội xác định.
Giá cả và những vật tư chủ yếu cho sản xuất như: xăng, dầu, than, khí....do ban vật giá chính phủ đề xuất trong khung giá hàng năm đã báo cáo Thủ tướng chính phủ. Ban vật giá chính phủ là cơ quan Nhà nước được giao nhiệm vụ thẩm định phương án giá điện do ngành điện đưa lên và trình thủ tướng chính phủ. Trong quá trình thẩm định ban Vật Gía Chính phủđã phối hợp chặt chẽ với các bộ ngành liên quan như Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, Bộ Tài Chính, Bộ Công Nghiệp... Tổng công ty Điện lực cùngg thẩm định về mức giá thành kế hoạch để làm căn cứ xác định giá bán bình quân. Đồng thời phối hợp với các bộ ngành để cân nhắc về một mức giá cụ thể tác động đến đời sống, sản xuất.
áp giá cho từng loại khách hàng một cách chính xác và thông báo rõ ràng cho từng khách hàng. Từ việc xác định giá công ty phải ghi giá vào hợp đồng để luật pháp hoá tránh gây trânh chấp sau này.
3./ Lên phưong án phân phối điện:
Đó là vấn đề xây dựng và thực hiện quy trình bán điện từ công tơ đến các hộ tiêu dùng. Tuỳ theo đối tượng phân phối khác nhau, có thể phân phối tới hộ tiêu dùng cuối cùng ( Đối với các hộ ở hệ thốngành phố hay thị xã) hay phân phối gián tiếp qua các đơn vị trung gian của các tỉnh, huyện, xã như là hợp tác xã điện năng hoặc ban điện xã kinh doanh bán điện trên từng địa bàn (đối với những hộ ở vùng nông thôn mà Công ty chưa có khả năng cung cáp đến từng hộ).
Phân phối trực tiếp:
Công ty sản xuất kinh doanh điện năng
Hộ tiêu dùng cuối cùng
Theo thông tư 18/TT-LB Công ty sản xuất kinh doanh điện có nhiệm vụ ký hợp đồng bán điện sinh hoạt và phân phối đén tậnn công tơ cuả từng hộ tiêu dùng cuối cùng theomức giá quy định .
Hình thức này có ưu điểm là giúp Công ty thường xuyên tiếp xúc với khách hàng và thị trường, biết rõ thị trường từ đó tạo điều kiện thuận lợi để gây thanh thế vsà uy tín cho Công ty, bảo đảm ti nhs chủ đạo của Công ty trong kênh phân phối sản phẩm điện vì đây là sản phẩm công nghiệp đòi hỏi dịch vụ kỹ thuật kèm theo.
Hình thức này có hsạn chế là trình độ chuyên môn hoá, tổ chức và quản lý kênh phân phối phức tạp, vốn và nhân lực bị phân tán do có quá nhiều đầu mối tiêu dùng.
Phân phối gián tiếp:
Công ty sản xuất kinh doanh điện năng
Hộ tiêu dùng cuối cùng
Đơn vị kinh doanh bán điện của khu vực
Theo thông tư 18/TT-LB Công ty sản xuất kinh doanh điện có nhiệm vụ ký hợp đồng bán điện sinh hoạt cho nông thôn tại công tơ tổng đặt tại các máy biến áp phần hạ thế với mức giá quy định là 450đ/Kwh. Lượng điện tính giá này áp dụng cho lượng ghi trên công tơ tổng không tính lượng điện tổn thất ở máy biến áp.
Tỉnh, huyện, xã chịu trách nhiệm tổ chức quản lý lưới điện sinh hoạt ở địa bàn mình và tính toán giá bán điện tới tận tay người tiêu dùng cuối cùng. Chính quyền xã là người đại diện ký hợp đồng trực tiếp mua điện của Công ty, đồng thời là cấp trực tiếp quản lý lưới điện và giá bán lẻ điện của Công ty thông qua đơn vị kinh doanh là ban điện xã.
Hình thức này giúp Công ty có thể bán điện với số lượng lớn bà giảm bớt công tác quản lý khách hàng. Nhưng hạn chế của nó là ở chỗ Công ty không kiểm soát được khâu trung gian và giá bán điện tới hộ tiêu dùng cuối cùng.
Trong những năm gần đây xu hướng sử dụng hình thức phân phối trực tiếp ngày càng được quan tâm phát triển.
4./ Công tác thu tiền điện.
Nghiệp vụ thu tiền điện là rất quan trọng nhất là khi khách hàng tiêu dùng điện trước trả tiền sau. Chẳng hạn điện năng đã được phân phối hết vào các kênh tiêu thụ song vẫn chưa thu được tiền điện về thì hoạt động kinh doanh bán điện vẫn chưa kết thúc. Chỉ khi nào tiền bán điện được thu từ tay người tiêu dùng cuối cùng thì hoạt động kinh doanh bán điện mới thực sự kết thúc. Việc thu tiền bán điện là hoạt động biến kết quả của quá trình kinh doanh thành hiệu quả vật chất thực sự. Nghiệp vụ này đảm bảo cho việc bảo toàn và phát triển vốn phục vụ sản xuất kinh doanh của Công ty do đó nó phải được thực hiện chính xác kịp thời và có nghệ thuật. Chính vì vậy, Công ty phải tổ chức được một đội ngũ nhân viên thu tiền điện có trình độ và lòng nhiệt tình. Yêu cầu cơ bản đối với họ là:
Phải có thái độ và cách cư sử lịch thiệp khi giao tiếp với khách hàng.
Phải có tính trung thực kiên trì khi thu tiền điện.
Phần II
Phân tích thực trạng kinh doanh điện ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội
I./ Khái quát về Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội
1./ Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội.
1.1. Sự ra đời của công ty
Tháng 10 năm 1954 công ty điện lực Hà Nội được thành lập với tên gọi ban đầu là Nhà máy điện Hà Nội mà dân quen gọi là “Nhà đèn Bờ Hồ” bao gồm cả chức năng quản lý, sản xuất và kinh doanh điện. Việc thành lập một nhà máy điện tại Hà Nội lúc bấy giờ là phù hợp và cần thiết với yêu cầu của nền kinh tế quốc dân. Năm 1961 nhà máy điện lực Hà Nội đổi tên thành cơ sở điện lực Hà Nội trên cơ sở tách chức năng quản lý và phân phối điện ra khỏi nhà máy điện Hà Nội.
Ngày 1/4/1995 theo QĐ 91/CP của chính phủ sở điện lực Hà Nội được đổi tên thành Công ty điện lực Hà Nội.
1.2 Các giai đoạn phát triển của công ty
1.2.1. Giai đoạn 1961-1994
Năm 1961, như đã trình bày nhà máy điện Hà Nội được đổi tên thành sở điện lực Hà Nội trên cơ sở tách chức năng quản lý và phân phối điện ra khỏi nhà máy điện Hà Nội. Sở điện lực Hà Nội là một bộ phận của Công ty điện lực I và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của công ty này. Trong giai đoạn này sở điện lực Hà Nội đã đạt nhiều thàn tích phục vụ cho nhu cầu ngày càng đa dạng của nền kinh tế quốc dân.
Năm 1961-1974 Sở điện lực Hà Nội đã cung cấ điện cho toàn thầnh phố Hà Nội và một số khu vực ngoại thành. Sản lượng điện ra tăng 2,7 lần, cuối 1965 sản lượng điện tăng 3,7 lần, điện phục vụ cho công nghiệp tăng 4,3 lần, cho noong nghiệp tăng 8,7 lần và cho phục vụ sinh hoạt xã hội tăng 1,6 lần.
Trong giai đoạn chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ được sự chỉ đạo kịp thời, chặt chẽ của UBND Thành phố Hà Nội cán bộ công nhân viên sở điện lực Hà Nội đã có nhiều phương án và cố gắng đảm bảo cung cấp điện cho các trọng điểm, phục vụ kịp thời cho công tác bảo vệ đất nước, cấp điện ổn định cho cấc cơ quan quan trọng của Đảng và chính phủ.
Sau khi hiệp định Pari được ký kết, cán bộ công nhân viên của sở điện lực Hà Nội đã nhanh chóng khẩn trương khôi phục cơ sở vật chất bị hư hỏng trong chiến tranh, kịp phục vụ sản xuất sinh hoạt của nhân dân.
1.2.2. Giai đoạn 1975-1994
Trong giai đoạn nay Miền nam đã hoàn toàn giải phóng, cả nước chuyển sang giai đoạn phát triển mới, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Thực hiện kế hoạch 5 năm lần 2 gặp rất nhiều khó khăn: Mất cân đối giữa nguồn điện và lưới điện, máy móc bị cũ nát, thiếu phụ tùng thay thế, thiếu phương tiện thông tin liên lạc …. Khắc phục những khó khăn trên cán bộ công nhân viên sở điện lực Hà Nội đã từng bước khôi phục, đại tu, đưa thêm các trạm 110KV Chèm, Thượng Đình vào vận hành, xây dựng thêm đường dây 10-35 KV, khắc phục những khuyết tật của các trạm biến áp 110KV, cấp thêm các lưới điện mới. Các lưới điện Thành phố Hà Nội và những vùng nông thôn có trọng điểm, trong đó có việc chỉ đạo làm điện khí hoá một số vùng nông nghiệp quan trọng được xú tiến mạnh mẽ. Tổn thất điện năng giảm đáng kể sau khi cải tạo tương đối đồng bộ lưới điện hạ thế và củng cố các mặt quản lý, tổn thất điện năng từ 30%-50% đã giảm xuống 26%.
Năm 1981 sở điện lực Hà Nội được củng cố một bước về tổ chức sản xuất, các trạm và đường dây 110KV tách khỏi sở để thành lập sở truyền tải, phân xưởng Diezel tách ra thành lập nhà máy Diezel, bộ phận quản lý đèn đường trở thành xí nghiệp trực thuộc thành phố. Nhiệm vụ chính của cơ sở lúc này là: Quản lý và vận hành lưới điện 35KV trở xuống, kinh doanh, phân phối điện và làm chủ đầu tư các công trình phát triển lưới điện. Cuối năm 1984 điện năng thương phẩm đạt 273,4 triệu KWh, tăng 26,8 lần so với cuối 1954 và lưới điện đã phát triển tới 3646,58 Km đường dây cao hạ thế.
Từ năm 1984 lưới điện Hà Nội bắt đầu cải tạo với quy mô lớn nhờ có sự giúp đỡ của Liên Xô cũ. Tuy vậy, do nguồn điện còn nhiều khó khăn nên việc cấp điện cho Hà Nội vẫn chưa ổn định và thoả mãn nhu cầu. Năm 1987, khu vực Hà Nội chỉ đạt bình quân 330 KWh/người/năm, ở ngoại thành một số phụ tải quan trọng mới có điện.
Năm 1989 đánh dấu một bước quan trọng trong sự phát triển của nghành điện cả nước nói chung và điện lực Hà Nội nói riêng: Các tổ máy của nhà máy điện Hoà Bình lần lượt đưa vào sử dụng , nguồn điện cho thủ đô dần dần được đảm bảo. Cũng trong năm này được sự đồng ý của bộ năng lượng, công ty điện lực I, sở điện lực Hà Nội tiến hành cải tạo lưới điện hạ thế để đảm bảo cho việc cấp điện ổn định và giảm tỷ lệ tổn thất điện năng.
Năm 1991 được sự giúp đỡ của chính phủ Thụy Điển thông qua tổ chức SIDA sở điện lực Hà Nội đã tiến hành triển khai tốt 5 dự án theo chương trình sử dụng hiệu quả nguồn vốn tài trợ.
Đến năm 1994 sở điện lực Hà Nội khắc phục phần lớn khó khăn và đạt được một số thành tích đáng kể trong hoạt động cung ứng và bán điện như sau:
Về cung ứng và phát triển lưới điện: đã tiến hành đại tu 180 hạng mục công trình với giá trị lên tới 27 tỷ đồng, trong đó có việc xây dựng trạm 110KV Giám với 2 máy biến áp 40MVA-110/20-6KV, khu thí nghiệm Giảng Võ lắp thêm máy biến áp thứ 2 cho trạm 110KV, Văn Điển và Nghĩa Đô, xây dựng đường dây 110KVYên Phụ – Trần Hưng Đạo, triển khai xây dựng bốn đường cáp ngầm từ Giám và Yên Phụ về trung tâm Bờ Hồ, hoàn thiện 80 khu hạ thế. Tổng vốn sử dụng lên tới 70 tỷ đồng.
Về bán điện: đã hoàn tất chỉ tiêu tổn thất điện năng và thu nộp tiền điện. Cung ứng ổn định cho thủ đô 1 095 triệu KWh với tỷ lệ tổn thất điện năng là 21,90%, với doanh thu là 530 tỷ đồng. Bên cạnh đó điều kiện làm việc và đời sống của cán bộ công nhân viên sở điện lực Hà Nội cũng dần được cải thiện, thu nhập bình quân 547 000 đ/tháng.
1.2.3. Giai đoạn 1995 đến nay
Theo quyết định 91/CP của chính phủ, ngày 1/4/1995 sở điện lực Hà Nội đổi tên thành công ty điện lực Hà Nội là một trong 5 công ty tực thuộc tổng công ty điện lực Việt Nam. Theo quyết định trên thì công ty điện lực Hà Nội trở thành công ty phân phối và bán điện hoạt động theo nguyên tắc hoạc toán độc lập lấy thu bù chi.
Như vậy, kể từ ngày 1/4/1995, công ty điện lực Hà Nội chuyển sang một giai đoạn mới: kinh doanh điện năng theo cơ chế thị trường. Do vậy,công ty điện lực Hà Nội đã có những bước phát triển để hoà nhập với cơ chế mới.
1.3. Chức năng và nhiệm vụ chính hiện nay của công ty
Khi chuyển sang chế độ hoạch toán kinh doanh, công ty điện lực Hà Nội có tất cả 2876 lao động, trong đó có 1 phó tiến sĩ, 396 kỹ sư, 363 trung cấp và 2116 công nhân. Chức năng, nhiệm vụ của công ty điện lực Hà Nội lúc này là:
Về đầu tư phát triển: Thực hiện các dự án đầu tư phát triển lưới điện theo kế hoạch của tổng công ty. Được quyền đầu tư các công trình, dự án phát triển không thuộc sự quản lý của tổng công ty, có quyền tự huy động các nguồn lực thực hiện và chịu trách nhiệm đối với công trình và dự án đó. Lập và chỉ đạo phát triển lưới điện nông thôn ở khu vực ngoại thành.
Về tài chính hoạch toán tài chính kế toán: công ty được Tổng công ty giao vốn và các nguồn lực. Công ty có trách nhiệm thực hiện bảo toà, phát triển vốn và nguồn lực được giao. Được phép huy động vốn kể cả vốn vay để thực hiện các nhiệm vụ của mình. Công ty có trách nhiệm nộp ngân sách nhà nước các loại thuế doanh thu, thuế lợi tức,thuế đất nộp lợi nhuận cho tổng công ty theo quy định của nhà nước và của Tổng công ty.
Về kinh doanh bán điện: công ty điện lực thanh phố Hà Nội mua điện lực của tổng công ty điện lực Việt Nam với giá nội bộ, tổ chức linh doanh bán điện cho khách hàng thông qua hợp đồng bán điện với giá căn cứ vào mục đích sư dụng điện. Tổ chức hợp đồng mua bán điện với khách hàng, gải quyết trannh chấp hợp đông mua bán điện. Quản lý chặt chẽ khách hàng mua bán điện, điện năng thương phẩm mua và bán, cố gắng thu hết tiền điện phát sinh giảm sự nợ, thực hiện đúng gía bán do nhà nước quy định. Lập chương trình biện pháp và tổ chức thực hiện công việc giảm tổn thất điện năng kĩ thuật và thương mại.
Về quản lý kỹ thuật và an toàn: thực hiện công tác vận hành an toàn liên tục đảm bảo chất lượng điện của hệ thống, của lưới điện. Nghiên cứu áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh, xây dựng kế hoạch, biện pháp đảm bảo an toàn cho người, thiết bị vận hành trên lưới và các thiết bị sản xuất khác.
Về mặt thiết bị vật tư: công ty được phép mua và bán các loại vật tư, thiết bị với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước phục vụ cho nhiệm vụ của mình, được nhận uỷ thác xuất nhập khẩu vật tư thiết bị cho các đơn vị khác theo đúng tiêu chuẩn phù hợp với pháp luật và quy định phân cấp của công ty.
1.4/ Mô hình tổ chức của Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội.
Để hoàn thành các nhiệm vụ và đảm bảo kinh doanh mang lại hiệu quả kinh tế, bộ máy ban quản lý của công ty điện lực Hà Nội được tổ chức theo cơ cấu chức năng.
Ban lãnh đạo công ty gồm:
1 Giám đốc: Nguyễn Việt Quang.
3 Phó giám đốc:
Phó giám đốc kỹ thuật: Trần Đức Hùng
Phó giám đốc kinh doanh: Vũ Quang Hùng
Phó giám đốc đầu tư xây dựng: Nguyễn Văn Trọng
Giám đốc công ty: chịu trách nhiệm lãnh đạo công việc chung của công ty và trực tiếp chỉ đạo các phòng: Phòng kế hoạch, phòng tổ chức lao động, phòng tài chính kế toán, phòng thanh tra, phòng bảo vệ quân sự, phòng kinh tế đối ngoại, phòng xuất nhập khẩu và phòng kiểm toán nội bộ.
Phó giám đốc là người giúp việc cho giám đốc và chịu trách nhiệm về vấn đề mình phụ trách:
Phó giám đốc kỹ thuật: Chịu trách nhiệm chỉ đạo giải quyết các vấn đề về kỹ thuật lưới điện, an toàn trong vận hành và các mặt sản xuất khác. Phó giám đốc kỹ thuật trực tiếp chỉ đạo phòng kỹ thuật, trung tâm điều độ thông tin, xưởng công tơ , xưởng vật tư, xưởng 110KV, xưởng thiết kế, xí nghiệp xây lắp.
Phó giám đốc kinh doanh chỉ đạo mọi công việc về công tác kinh doanh bán điện. Phó giám đốc kinh doanh chỉ đạo trực tiếp các phòng sau: Phòng kinh doanh bán điện, phòng quản lý điện nông thôn và trung tâm máy tính.
Phó giám đốc đầu tư xây dựng cơ bản: là người chỉ đạo, điều hành các công tác quản lý đầu tư và xây dựng công trình điện, Phó giám đốc đầu tư xây dựng cơ bản chỉ đạo trực tiếp các phòng ban sau: phòng quản lý dự án, phòng quản lý đầu tư, trung tâm thiết kế điện, xí nghiệp xây lắp điện. Ngoài ra Giám đốc và các Phó giám đốc còn chỉ đạo 11 điện lực các Quận, huyện.
Chức năng nhiệm vụ của một số phòng ban và mối quan hệ giữa các phòng ban:
Văn phòng: Là đơn vị hành chính quản trị giúp Giám đốc công ty chỉ đạo, quản lý công tác văn thư,lưu trữ, tuyên truyền của công ty.
Phòng kế hoạch: Là phòng nghiệp vụ giúp Giám đốc quản lý công tác kế hoạch hoá về hoạt động sản xuất kinh doanh và xây dựng trong công ty, hướng dẫn các đơn vị lập kế hoạch sản xuất ngắn và dài hạn. Tổng hợp, cân đối xây dựng kế hoạch tổng thể cho toàn công ty. Sau khi có kế hoạch sản xuất kinh doanh phòng kế hoạch có nhiệm vụ cân đối các nguồn vốn của công ty tham mưu cho Giám đốc để sử dụng có hiệu quả vốn và các nguồn lực. Phòng kế hoạch còn có nhiệm vụ giao kế hoạch cho các phòng ban và các đơn vị trực thuộc, đôn đốc kiểm tra việc thực hiện kế hoạch và cùng với các đơn vị này tìm ra các giải pháp để thực hiện tốt kế hoạch được giao.
Phòng tổ chức lao động: Có chức năng giúp Giám đốc quản lý về lĩnh vực tổ chức sản xuất, quản lý cán bộ và nhân lực, tổ chức thực hiện lao động và tiền
Xí nghiệp các Quận,huyện
Giám đốc
Phó giám đốc đầu tư xây dựng
Phó giám đốc kinh doanh
Phó giám đốc kỹ thuật
Xưởng 110KV
Trung tâm điều độ thông tin
Xưởng công tơ
Đội thí nghiệm
Văn
phòng
P.
Tổ
Chức
Lao
động
P.
Kế
Hoạch
P.
Kỹ thuật
P.
Vật tư
P.
Bảo hộ lao động
P.
KTĐN
Và
XNK
P.
Thanh
tra
P.
Tài
Chính
Kế
Toán
P. Quản lý đầu tư
P. Quản lý dự án
Trung tâm thiết kế điện
Xí nghiệp xây lắp điện
P. Quản lý điện nông thôn
P. Kinh doanh BĐ
Trung tâm Máy tính
P. Kiẻm toán nội bộ
P.
Bảo
Vệ
Qsự
Sơ đồ tổ chức của công ty điện lực Hà Nội
lương, đào tạo bồi dưỡng cán bộ trong toàn công ty. Dựa vào kế hoạch sản xuất kinh doanh của phòng kế hoạch để xây dựng kế hoạch về nhân lực đảm bảo đủ lao động cần thiết cho việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của toàn công ty.
Phòng kỹ thuật: Là đơn vị quản lý về kỹ thuật trong khâu quy hoạch, xây dựng, vận hành, sửa chữa và cải tạo lưới điện của công ty. Phòng kỹ thuật có nhiệm vụ giám sát kỹ thuật, đôn đốc các đơn sản xuất vận hành trong công ty thực hiện các quy trình, quy tắc, các tiêu chuẩn kỹ thuật trong vận hành nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh, tham gia bồi dưỡng, đào tạo cán bộ công nhân kỹ thuật.
Phòng kinh tế đối ngoại và xuất nhập khẩu: Giúp Giám đốc công ty quản lý điều hành hoạt động kinh tế đối ngoại, hợp tác với nước ngoài về hoạt động xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị công nghệ cao phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Phòng kế toán tài chính: Tham mưu cho Giám đốc về công tác quản lý tài chính, thu thập số liệu và phản ánh toàn bộ hoạt động tài chính của công ty. Tổ chức bộ máy kế toán và thực hiện chế độ hạch toán, quyết toán cho phù hợp với tình hình sản xuất, kinh doanh, cũng như quy định của nhà nước về chế độ kế toán.
Phòng quản lý dự án và phòng quản lý đầu tư: giúp Giám đốc điều hành các dự án, thực hiện chức năng đầu mối trong công việc tổ chức, lập duyệt các dự án đầu tư, thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán, quản lý quá trình thực hiện các dự án cho tới lúc nghiệm thu. Bàn giao công trình qua việc ký kết hợp đồng với các tổ chức tư vấn, cung ứng thiết bị vật tư và thi công xây lắp nhằm hoàn thành công trình bảo đảm chất lượng và hiệu quả của quá trình đầu tư.
Mười một điện lực các Quận, huyện là:
Điện lực Hoàn Kiếm
Điện lực Đống Đa
Điện lực Hai Bà Trưng
Điện lực Ba Đình
Điện lực Thanh Xuân
Điện lực Tây Hồ
Điện lực Từ Liêm
Điện lực Thanh Trì
Điện lực Sóc Sơn
Điện lực Đông Anh
Điện lực Gia Lâm
II./ tổ chức kinh doanh bán điện ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội
1./ Phương thức kinh doanh bán điện ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội
Trong nền kinh tế thị trường, giá cả hàng hoá và dịch vụ là do sự vận động của quy luật cung cầu quyết định. Nhưng điện năng là mặt hàng do Nhà nước độc quyền quản lý do đó phương thức kinh doanh bán điện ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội có nhiều điểm đặc biệt: Công ty mua điện đầu nguồn của Tổng Công ty Điện lực Việt Nam sau đó tổ chức kinh doanh bán điện cho khách hàng. Giá mua điện do Tổng Công ty định được tính toán dựa trên việc đảm bảo bù đắp các chi phí sản xuất, truyền tải, khấu hao thiết bị máy móc… có tham khảo ý kiến của các đơn vị thành viên. Tuy là hạch toán độc lập, nhưng Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội không chủ động trong việc chọn nhà cung cấp và không thể tác động vào giá mua sản phẩm đầu vào. Việc cung ứng các yếu tố đầu vào hoàn toàn phụ thuộc vào Tổng Công ty, mọi quyết định của Tổng Công ty về giá bán điện đều có ảnh hưởng toàn diện, sâu sắc tới hoạt động kinh doanh của Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội.
Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội bán điện cho khách hàng thông qua hệ thống phân phối của mình gồm 11 Điện lực quận huyện để các Điện lực trực tiếp bán điện tới tay hộ tiêu dùng. Giá bán điện năng cho các khách hàng, Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội không được quyền quyết định mà do ủy ban vật giá Nhà nước quy định tùy theo mục đích sử dụng điện của khách hàng.
2./ Quy trình kinh doanh bán điện tại Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội.
Nói về quy trình kinh doanh bán điện ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội ta có thể chia thành các giai đoạn sau:
Giai đoạn phát sinh khách hàng tiêu thụ điện lưới.
Giai đoạn quản lý, theo dõi việc tiêu thụ điện.
Giai đoạn tính toán và thu tiền điện.
Các giai đoạn nối tiếp nhau hình thành nên một quy trình bán điện khép kín ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội. Dưới đây là chi tiết nội dung của từng giai đoạn:
Giai đoạn phát sinh khách hàng tiêu thụ điện lưới:
ở giai đoạn này sau khi nhận được hồ sơ đầy đủ của khách hàng
Trưởng Điện lực Quận
Phó trưởng Điện lực phụ trách kinh doanh bán điện
Tổ treo tháo công tơ
Ban kinh doanh
Bộ phận cắt điện đòi nợ
Các tổ quản lý tổng hợp trên địa bàn phường
Sơ đồ tổ chức kinh doanh bán điện ở Điện lực quận
Trưởng Điện lực Huyện
Phó trưởng Điện lực phụ trách chung
Tổ treo tháo công tơ
Ban kinh doanh
Bộ phận cắt điện đòi nợ
Các tổ quản lý khu vực
Sơ đồ tổ chức kinh doanh bán điện ở Điện huyện
Tổng công ty cho phép Công ty Điện lực Thành Phố Hà Nội giữ lại một phần tiền khấu hao tài sản cố định phục vụ cho công tác xây dựng cơ bản. Tất cả những yếu tố trên đã khiến cho tình hình tài chính của Công ty Điện lực Thành Phố Hà Nội thêm khó khăn. Đứng trước thực tế như vậy, để có đủ lượng vật tư tài chính cho các công trình đại tu xây dựng lưới, Công ty đã mạnh dạn điều hoà các nguồn vốn có trong tay, tận dụng tối đa nguồn vốn do khách hàng ứng trước để dự trữ vật tư đủ cung cấp cho nhu cầu xây dựng hoàn thiện lưới.
Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội xét trên khía cạnh kinh tế có thể coi như là một doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng điện năng. Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội mua điện của Tổng công ty Điện lực Việt Nam, sau đó thông qua hệ thống lưới phân bố, các trạm biến áp đưa điện năng tới tận người tiêu dùng. Lượng điện năng tiêu thụ hàng tháng của khách hàng được tính bằng chỉ số đồng hồ đo đếm điện năng. Từ đầu năm 1994 trở lại đây, tât cả khách hàng mua điện của Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội đều được lắp đặt công tơ đo đếm và ký hợp đồng mua bán điện cho dù khách hàng mua điện lâu dài hay tạm thời, chấm dứt tình trạng dùng điện khoán, nhờ đó tình trạng tổn thất điện năng của toàn Công ty đã giảm xuống. Công tác quản lý điện năng thương phẩm được chính xác hơn, chặt chẽ hơn, phản ánh đúng thực trạng sản xuất kinh doanh của toàn Công ty cũng như các đơn vị thành viên.
Trong các năm 1997, 1998, 1999 Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội đã tiến hành hoạt động kinh doanh mua bán điện và đạt được một số kết quả sau đây:
Điện năng thương phẩm mà Công ty phân phối trong năm 1997 là 1.269.961.000 Kwh tăng 15,97% so với năm 1996dkjhed
, năm 1998 là 1.535.258.004 Kwh tăng 20,89 % so với năm 1997,năm 1999 là 1.689.048.768 Kwh tăng 10,02% so với năm 1998 với tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1997- 1999 là 15,33 %.
Tuy chỉ kinh doanh một loại hàng hóa, nhưng mục đích sử dụng điện của khách hàng khác nhau nên giá bán cũng khác nhau. Để thuận tiện cho công tác quản lý, phân tích, đánh giá tình hình và xây dựng sát với thực tế, tổng điện năng thương phẩm của toàn Công ty cùng điện năng thương phẩm của các Điện lực thành viên được chia làm 5 thành phần phụ tải chính: công nghiệp, động lực phi công nghiệp, giao thông vận tải, nông nghiệp, ánh sáng.
Bảng 1: kết cấu điện năng thương phẩm giai đoạn 1997 – 1999
Đơn vị: đồng
Thành phần
Sản lượng điện năng thương phẩm
Tỉ lệ 99 so với 97 (%)
Tốc độ tăng BQ(%)
1997
1998
1999
I./ Điện đầu nguồn
1.550.455.041
1.834.444.776
1.993.937.772
128,59
113,40
- Điện tổn thất
280.494.041
299.786.772
309.728.408
- Tỷ lệ tổn thất
18,09
16,31
15,25
II./ Điện năng thương phẩm
1.269.961.000
1.535.258.004
1.689.048.768
133,00
15,33
1. Công nghiệp
288.093.000
324.589.353
359.500.703
124,79
11,77
2. Động lực phi công nghiệp
109.164.000
107.969.257
112.281.771
102,86
1,43
3. Giao thông vận tải
15.397.000
17.797.729
19.407.702
126,46
12,45
4. Nông nghiệp
126.019.000
158.050.602
171.434.961
136,04
16,64
5. ánh sáng
731.288.000
926.849.063
1.026.360.631
140,35
18,47
Qua phân tích số liệu ở bảng 1 ta nhận thấy:
ã Điện năng thương phẩm của thành phần công nghiệp năm 1998 tăng 12,67% so với năm 1997, năm 1999 tăng 10,76% so với năm 1998 với tốc độ tăng bình quân là 11,71%.
ã Điện năng thương phẩm của thành phần động lực phi công nghiệp năm 1998 so với năm 1997 giảm 1,1%, năm 1999 so với năm 1998 tăng 3,99%, tốc độ tăng bình quân là 1,43%
ã Điện năng thương phẩm của thành phần giao thông vận tải năm 1998 so với năm 1997 tăng 15,61%, năm 1999 so với năm 1998 tăng 9,39%, tốc độ tăng bình quân là 12,45%.
ã Điện năng thương phẩm của thành phần nông nghiệp năm 1998 so với năm 1997 tăng 25,42%, nâưm 1999 so với năm 1998 tăng 10,74%, tốc độ tăng bình quân là 16,64%.
ã Điện năng thương phẩm của thành phần ánh sáng năm 1998 so với năm 1997 tăng 26,74%, năm 1999 so với năm 1998 tăng 10,74%, tốc độ tăng bình quân là 18,47%.
Nhìn chung trong giai đoạn 1997-1999 tốc độ tăng điện năng thương phẩm toàn bộ hay từng thành phần đều có xu hướng tăng chậm dần, trong đó thành phần ánh sáng có tốc độ tăng cao nhất. Có được kết quả này một phần là do điện đầu nguồn tăng lên, một phần là do tổn thất điện giảm xuống. Cụ thể là:
ã Nhìn vào bảng 1 ta thấy, điện đầu nguồn của Công ty năm 1998 so với năm 1997 tăng 18,32%, năm 1999 so với năm 1998 tăng 8,96%, tốc độ tăn g bình quân là 13,40%. Có thể nói nhu cầu dùng điện tăng lên nên sản lượng điện đầu nguồn tăng lên. Nó được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2: nhu cầu dùng điện ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội giai đoạn 1997-1999
Đơn vị: Người
Thành phần
1997
1998
1999
3 pha
1 pha
3 pha
1 pha
3 pha
1 pha
1.Công nghiệp
3000
0
3151
0
4466
0
2.Động lực phi CN
370
0
402
0
422
0
3.Giao thông vận tải
28
0
29
0
29
0
4.Nông nghiệp
388
0
429
0
474
0
5.ánh sáng
5.924
254.734
6.563
271.238
6.785
295.523
Tổng cộng
9.710
254.374
10.574
271.238
12.176
259.523
Qua số liệu trên, ta thấy những thành phần có nhu cầu lớn thì sản lượng điện năng thương phẩm lớn hay nói một cách khác tốc độ tăng của điện năng thương phẩm tỷ lệ thuận với nhu cầu tiêu dùng điện. Thực vậy, ta thấy rằng số lượng khách hàng dùng điện có xu hướng tăng chậm dần. Đây là nguyên nhân khách quan tác động tới tốc độ tăng điện năng thương phẩm bởi vì nó do thị trường quyết định Công ty chỉ có thể xác định được chứ không thể thay đổi được.
ã Về tổn thất điện năng: Do đặc điểm kinh doanh của Công ty là giá mua và giá bán điện Công ty đều không thể quyết định được nên muốn kinh doanh có lãi thì phải tăng được sản lượng điện năng thương phẩm hay nói cách khác là phải tăng nhu cầu dùng điện và tìm cách fiảm tổn thất điện năng. Có thể nói: tổn thất điện năng là nhân tố chủ quan tác động đến Công ty vì nếu thực hiện tốt các biện pháp giảm tỷ lệ tổn thất thì sản lượng điện năng thương phẩm sẽ tăng. Do đó, khi tăng tốc độ cơ học của nhu cầu điện chậm dần và đi dần vào bão hoà thì vấn đề cốt lõi để sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao là giảm tổn thất điện năng nhất là điện năng thương mại. Qua bảng 1 ta thấy Công ty đã thực hiện tốt chương trình giảm tổn thất điện năng, năm 1997 tỷ lệ là 18,9%, năm 1998 là 16,31% năm 1999 còn 15,25. Có được thành tích này là do Công ty đã thực hiện tốt các công việc sau:
- Trong năm toàn Công ty đã tiến hành thực hiện 154 công trình cải tạo lưới hạ thế ở những trạm có tỷ lệ tổn thất cao, lưới cung cấp cũ nát không đảm bảo cho việc kinh doanh bán điện cũng như an toàn cho quá trình cung ứng và sử dụng điện. Sau khi cải tạo, tỷ lệ tổn thất ở các trạm này đã giảm xuống một cách rõ rệt.
Tổn thất các trạm công cộng sau khi hoàn thiện
Điện lực Đống Đa
Tên trạm
Dung lượng (KVA)
Tổn thất trước hoàn thiện (%)
Tổn thất sau hoàn thiện (%)
1. Long Biên 2
400
55,52
11,76
2. Xóm dân chủ
320
72,79
14,49
3. Luyện kim màu
630
71,20
9,23
4. Trần Quý Cáp 3
400
87,08
16,81
5. Giảng Võ 1
320
79,45
16,81
6. Khâm Thiên 4
320
51,54
12,90
7. Cột ngõ 8 T.Phụng
630
63,45
22,26
8. Làng Kim Liên 1
400
39,50
11,69
9. Kim Liên D
400
43,95
11,33
10. Khâm Thiên
750
46,26
12,35
Ngoài việc tiến hành cải tạo lưới điện hạ thế, trong năm 1999 Công ty đã tiến hành củng cố 482 hòm công tơ cũ, phúc tra 18.265 công tơ, đã phát hiện thay thế 1.809 công tơ sai sót không đủ điều kiện kinh doanh (chiếm tỷ lệ 10%).
-Trước đây, trong nền kinh tế tập chung quan liêu bao cấp, điện năng được coi như là một sản phẩm dùng chung của toàn xã hội, thêm vào đó hệ thống lưới điện phân phối không được đổi mới và công tác quản lý lỏng lẻo đã tạo điều kiện cho hành vi ăn cắp điện gây tổn thất điện thương mại. Thực hiện chỉ thị 89/HĐBT nay là Thủ tướng Chính phủ, với mong muốn giải quyết dứt điểm tình trạng ăn cắp điện, công tác kiểm tra sử dụng điện đã được tăng cường hơn các năm trước. Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội đã phối hợp với Công an Thành phố lập nhiều đoàn kiểm tra liên nghành Điện lực – công an thường xuyên kiểm tra chế độ sử dụng điện của khách hàng, nhờ đó kịp thời phát hiện ra các hành vi ăn cắp điện, xử lý nghiêm một số trường hợp để làm gương và kết quả là đã thu được 6.040.134.795 đồng ( tiền điện truy thu và tiền phạt vi phạm ).
Trong quá trình cung ứng và sử dụng điện, hiện tượng đồng hồ đo đếm điện năng bị hỏng, mất mát là điều không thể tránh khỏi vì hiện nay các đồng hồ đo điện chủ yếu để thành cụm, trong hòm chống tổn thất và đặt ngoài trời. Để đảm bảo quá trình cung ứng điện được liên tục, tránh hiện tượng mất mát điện năng do dùng thẳng của khách hàng, Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội có dự trù một quỹ công tơ để thay thế kịp thời các đồng hồ bị trục trặc. Năm 1999 toàn Công ty đã phát sinh 11.007 công tơ mất chết cháy. Nhờ có chuẩn bị trước nên số công tơ trên đã được thay thế kịp thời.
Trong số khách hàng mua điện của Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội có rất nhiều khách hàng có nhu cầu tiêu thụ điện năng với công suất lớn, sản lượng nhiều, chất lượng điện áp ổn định như các nhà máy, khách sạn, các trung tâm thông tin, thương mại... Đối với những khách hàng này Công ty cho phép họ bỏ vốn ra đầu tư xây dựng trạm biến áp riêng. Việc mua bán điện sẽ thông qua đồng hồ đo đếm đặt ở phiá hạ thế hay cao thế tuy theo hợp đồng mua bán điện mà hai bên thỏa thuận. Những trạm biến áp kiểu này gọi là những trạm biến áp chuyên dùng. Với các khách hàng này, Công ty có thể tận dụng nguồn vốn của khách hàng, đồng thời vẫn bán được điện năng. Tỷ lệ tổn thất của các trạm chuyên dùng là rất nhỏ (chủ yếu tổn hao don biến áp) và chi phí quản lý rất ít ( vì khách hàng phải tự quản lý nghành điện chỉ vận hành sửa chữa theo hợp đồng đã ký kết). Tuy nhiên do đây là khách hàng có sản lượng tiêu thụ lớn nên hệ thống đo đếm điện năng không chính xác hoặc việc áp giá bán điện không đúng sẽ gây thiệt hại cho Công ty. Chính vì thế,bên cạnh công tác kiểm tra việc sử dụng điện của khách hàng thông thường, Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội đã tiến hành kiểm tra việc sử dụng điện của một số trạm chuyên dùng do khách hàng quản lý. Qua kiểm tra 316 công tơ, phát hiện ra 78 trường hợp chưa áp giá kinh doanh, 59 trường hợp chưa áp đúng giá và một số sai sót về kỹ thuật khá, kịp thời khắc phục, hoàn thiện; phạt và truy thu 120 triệu đồng.
Tóm lại, nhờ áp dụng một loạt các biện pháp đồng bộ, kịp thời mà trong năm 1999 tỷ lệ tổn thất của toàn Công ty đã giảm đi đáng kể dẫn đến sản lượng điện thương phẩm tăng, đây là thành tích của Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội trong công tác kinh doanh.
Như chúng ta đã biết, đặc thù của quá trình kinh doanh bán điện là khách hàng sử dụng điện trước trả tiền điện sau. Do đó có một khoảng cách thời gian giữa việc dùng điện và thanh toán tiền điện cho nên việc thu hết tiền điện phát sinh là một vấn đề quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội. Các biện pháp kỹ thuật và kinh tế nhằm giảm tổn thất điện năng mới chỉ tác động tới doanh thu bán điện, còn việc thu hết tiền điện phát sinh mới đánh giá đúng hiệu quả kinh doanh bán điện. Nhờ nhận thức đúng được tầm quan trọng của công tác thu tiền điện nên ngay từ khi mới thành lập Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội đã chỉ đạo thực hiện các Điện lực giải quyết triệt để việc thu tiền điện phát sinh. Kết quả là:
Bảng 3: tình hình thu nộp tiền điện của toàn Công ty
Đơn vị: triệu đồng
Năm
Số thu
Tỉ lệ (%)
Kh/th
Dư nợ
Kế hoạch
Thực hiện
1997
670.750
734.215
109,46
37.507
1998
907.572
1.015.629
119,91
37.887
1999
1.106.820
1.233.615
111,46
56.507
Qua bảng số liệu trên ta thấy trong 3 năm qua Công ty đều hoàn thành vượt mức kế hoạch về thu nộp tiền điện nhưng so với thực tế phát sinh thì số dư nợ tiền điện vẫn chưa được thực hiện tốt vì số dư nợ vẫn còn cao.
Việc đòi nợ cũ năm 1999 tuy có nhiều tiến bộ song vẫn chưa đạt yêu cầu, tính đến 30/12/1999 dư nợ toàn công ty là 56.570 triệu đồng, đặc biệt là việc đòi nợ của thành phần ánh sáng gặp nhiều khó khăn, nợ của thành phần này là 47.334 triệu đồng. Tình hình dư nợ của năm 1999 thực hiện qua bảng dưới đây:
Tiền điện dư nợ toàn Công ty năm 1999
Đơn vị: Triệu đồng
Thành phần
Dư đầu kỳ
Phát sinh trong kỳ
Số thu được trong kỳ
Dư nợ cuối kỳ
Tỷ lệ (%)
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(4/3)
1. Công nghiệp
9.647
271.291
279.517
1.367
103,05
2. Động lực phi công nghiệp
2.272
88.603
87.503
3.372
98,76
3. Giao thông vận tải
317
14.540
15.356
-499
105,61
4. Nông nghiệp
5.959
67.641
68.667
4.933
101,52
5. ánh sáng
19.690
793.400
765.756
47.334
96,52
Tổng cộng
37.885
1.237.475
1.237.475
56.507
99,65
Khắc phục nhược điểm của năm 1997, 1998 năm 1999 Công ty đã tập trung giải quyết dứt điểm nợ đọng của khách hàng nông lâm thủy sản, HTX nông nghiệp và giao thông vận tải nên số dư nợ tiền điện tồn đọng so với số phát sinh chỉ còn chiếm tỷ trọng nhỏ. Số dư nợ tiền điện phát sinh chủ yếu là do của năm trước đọng và Công ty cũng đang tìm cách để giảm số dư nợ này xuống. Đội ngũ thu ngân viên qua quá trình tổ chức lại kết hợp với tác động của biện pháp kinh tế đã trưởng thành, luôn bám sát khách hàng để hoàn thành tốt chỉ tiêu thu nộp tiền điện.
Trong kinh doanh vấn đề quan trọng là vốn, nhưng không phải vốn lớn là kinh doanh có hiệu quả, mà vấn đề là hiệu quả sử dụng vốn và khả năng quay vòng vốn nhanh. Thế vốn lại là vấn đề hết sức khó khăn đối với Công ty. Nhưng Công ty đã tìm mọi biện pháp khắc phục sự thiếu vốn này, cũng như các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Công ty đã không ngừng tăng doanh số bán qua các năm, đồng thời giảm tới mức thấp nhất các khoản chi phí, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh. Điều đó được thể hiện qua bảng sau:
Báo cáo kết quả kinh doanh bán điện
Đơn vị : Triệu đồng
Chỉ tiêu Năm
Kí hiệu
1997
1999
- Doanh thu bán điện
(1)
734.215
1.233.615
- Thuế doanh thu
(2)
58.738
98.689
1. Doanh thu thuần (1-2)
(3)
675.477
1.137.926
2. Giá vốn hàng bán
(4)
571.848
994.144
3. Lãi gộp (3-4)
(5)
103.630
140.812
4. Chi phí hàng và quản lý
(6)
36.595
45.064
5. Lãi thuần (5-6)
(7)
67.035
95.748
6. Thuế lợi tức
(8)
16.759
23.937
7. Các loại thuế khác
(9)
4.638
5.203
8. Lãi dòng (7-8-9)
(10)
45.638
66.608
Từ bảng trên ta tính được các chỉ tiêu sau:
Tỷ suất doanh lợi: - Năm 1997 là 0,0622
- Năm 1999 là 0,057
Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí kinh doanh là:
- Năm 1997 là 0,663
- Năm 1999 là 0,054
Xét hai chỉ tiêu trên ta thấy năm 1999 lợi nhuận sinh ra trên 1 đồng doanh số giảm 0,0052 đồng, lợi nhuận có được trên 1 đồng chi phí giảm 0,123 đồng. Điều này chứng tỏ chi phí sản xuất kinh doanh của Công ty đã tăng được lượng bán điện, giảm tỷ lệ tổn thất điện năng hơn các năm trước mà chi phí vẫn tăng do đó nguyên nhân gây ra tình trạng này là nguyên nhân khách quan. thật vậy, xem xét năm 1997 nguồn nước thuỷ điện về nhiều hơn so với kế hoạch đề ra tức là giá bán điện đầu nguồn giảm mà gia bán điện không thay đổi cho nên giá thành thực tế của Công ty giảm hơn so với mức giá quy định. Còn năm 1999 nguồn nước khan hiếm hơn nên mặc dù Công ty trong khả năng của mình đã triệt để tiết kiệm các chi phí nhưng giá thành vẫn cao hơn so với năm 1997. Tuy vậy xét về mặt lợi nhuận của Công ty trong năm 1999 tăng 20.970 triệu đồng tương đương với 1,46 là so với năm 1997 đây là thành tích của Công ty trong kinh doanh bán điện.
Nói tóm lại, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn khi chuyển sang kinh doanh theo cơ chế thị trường nhưng Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội đã hoàn thành được một khối lượng công việc lớn, nộp ngân sách nhà nước 504.104 triệu đồng, giảm tỷ lệ tổn thất điện năng so với kế hoạch, giải quyết dứt điểm một phần nợ đọng, từng bước nâng cao chất lượng cung ứng điện và cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên toàn Công ty.
VI./ những thuận lợi và khó khăn trong việc hoàn thành các nhiệm vụ kinh doanh bán điện ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội.
1./ Những thuận lợi:
-Về nhu cầu dùng điện:
Hà Nội là thủ đô của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của cả nước với tổng diện tích 922,8Km, chia ra thành 7 quận nội thành và 5 quận ngoại thành với tổng số dân 2.187.000 người trong đó riêng khu vực nội thành là 987.000 người. Sau hơn 15 năm đổi mới Hà Nội đã vượt qua thời kỳ suy thoái, kinh tế tăng trưởng nhanh gdp bình quân của thời kỳ 1991-1995 là 11,9% gdp bình quân đầu người là 9,5%/năm. Năm 1996 đạt750 USD/ người. Hiện tại tỷ trọng các nghành trong cơ cấu kinh tế Hà Nội như sau:
- Công nghiệp:33,2%
- Thương mại, dịch vụ, du lịch:61,6%
- Nông nghiệp:5,3%
Đặc điểm nổi bật của thủ đô năm 1998 là khu vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài, với một số vốn đầu tư 2.622 tỷ USA Hà Nội đã dẫn đầu cả nước trong lĩnh vực này. Đời sống văn hoá xã hội thủ đô đã có nhiều tiến bộ, mạng lưới thông tin liên lạc được mở rộng và trang bị khá hiện đại, 100% số xã ngoại thành đã có điện thoại cứ 100 người dân Thành phố có 10 máy điện thoại. Sự nghiệp giáo dục đào tạo, y tế, khoa học công nghệ, dân số kế hoạch hoá gia đình và các hoạt động xã hội khác có nhiều chuyển biến mạnh mẽ.
Nhu cầu điện lực được dự báo theo tương quan giữa tăng trưởng điện năng với mức tăng trưởng của từng nghành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Cụ thể là:
điện năng thương phẩm khu vực Hà Nội năm 1999-2001
Đơn vị: Triệu Kwh
Thành phần
1999
2000
2001
1.Công nghiệp
490
580
750
2.Động lực phi CN
140
161
186
3.Giao thông vận tải
26
30
34
4.Nông nghiệp
262
288
318
5.ánh sáng
832
915
1.002
Tổng cộng
1.750
1.974
2.245
- Về đầu tư cải tạo lưới điện:
Được sự quan tâm đầu tư của cấp trên trong những năm qua Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội đã được cấp một số vốn đáng kể để đầu tư cải tạo lưới điện nhằm thực hiện tốt hơn công tác cung ứng và giảm tổn thất. Trong năm 1999 Tổng công ty Điện lực Việt Nam tạm giao kế hoạch đại tu sửa chữa lớn cho Công ty là 52 tỷ đồng. Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội đã có công văn đề nghị xin điều chỉnh kế hoạch đại tu là 46,2 tỷ đồng, chín tháng đầu năm 1999 giá trị khối lượng các công trình đại tu sửa chữa lớn của Công ty triển khai là 27 tỷ đồng đạt 58,4%.
-Bên cạnh đó việc áp dụng khoa học kỹ thuật cao vào trong lĩnh vực quản lý, việc trang bị dần hệ thống máy vi tính đã giúp cho quá trình lưu thông thông tin linh hoạt nhanh chóng hơn tạo điều kiện để ra các quyết định quản lý được kịp thời chính xác.
-Cùng với sự giúp đỡ của các cấp chính quyền Thành phố và địa phương, Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội đang tiến hành tổ chức lại công tác quản lý khách hàng, lập lại kỷ cương trong cung ứng và tiêu thụ điện. Công ty có những mối quan hệ chặt chẽ với các cấp chính quyền cơ sở, tranh thủ tối đa sự ủng hộ của các cấp chính quyền cũng là một thuận lợi cơ bản của Công ty.
-Đội ngũ cán bộ công nhân viên chức của Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng, thật sự trở thành một nhân tố quyết định sự trưởng thành vươn lên trong đổi mới của Công ty. Với một đội ngũ cán bộ công nhân viên đồng đều, đoàn kết đã giúp Công ty thực hiện tốt các chỉ tiêu kinh doanh bán điện, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Có được như vậy là do Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội đã có những chủ trương, chính sách đào tạo con người tốt nên luôn tận dụng được các nhân tố tích cực trong cán bộ công nhân viên, có biện pháp khuyến khích nâng cao tinh thần trách nhiệm, hoàn thành tốt nhiệm vụ của mọi thành viên trong đơn vị. Trình độ quản lý cũng như nhận thức của cán bộ công nhân viên chức ngày càng được nâng cao.
- Cuối cùng là việc được phân cấp rõ ràng, được nhiều quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh hơn những năm trước cũng là một thuận lợi cơ bản trong thời gian tới của Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội.
2./ Những tồn tại, hạn chế:
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản nêu trên, thực tiễn công tác kinh doanh bán điện tai Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội cũng còn có nhiều tồn tại bức xúc cần giải quyết. Cụ thể là:
a./ Những tồn tại khách quan:
-Về nguồn điện cung ứng cho Công ty:
Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội mua điện đầu nguồn Tổng công ty Điện lực Việt Nam, do đó có thể nói đây là nhân tố đầu vào cơ bản phục vụ cho công tác kinh doanh bán điện của Công ty. Nguồn điện là yếu tố phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên, khi mùa mưa đến lượng nước nhiều khiến giá thành sản phẩm điện thấp. Ngược lại, vào mùa khô lượng nước ít dẫn tới tình trạng không đủ điện để cung ứng cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân buộc Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội phải cắt điện ở một số khu vực vào giờ cao điểm tuy thời gian mất điện không lâu. Đây là nguyên nhân khách quan ảnh hưởng tới chất lượng phục vụ của Công ty.
-Về tâm lý tiêu dùng của dân cư:
Có thể nói trên địa bàn Hà Nội trình độ dân cư rất đa dạng nhưng nhìn chung đều chưa có ý thức sử dụng tiết kiệm điện, các hiện tượng tiêu cực trong mua bán điện vẫn còn xảy ra khá lớn nhất là khu vực tập chung chủ yếu là dân cư lao động. Mặt khác, do chưa có hiểu biết nhiều về các thiết bị điện nên khi lựa chọn mua sắm họ không quan tâm đến khả nâưng tiết kiệm điện của nó mà chỉ chú ý đến giá của nó. Trong trường hợp những người mua thiết bị lại không phải là những người trả chi phí vận hành, ví dụ như xây dựng một toà nhà, chủ thầu là người mua thiết bị điện trong khi đó người thuê nhà sẽ là người trả chi phí vận hành. Vì vậy, việc tuyên truyền sử dụng tiết kiệm điện vào giờ cao điểm của Công ty chưa mang lại hiệu quả cao.
-Về các chủ trương, chính sách quy định của Nhà nước:
Trong những năm vừa qua, chủ trương, chính sách của Nhà nước và của nghành về công tác kinh doanh bán điện có rất nhiều xáo trộn. Cho dù đó là hiện tượng không thể tránh khỏi trong quá trình cải cách đổi mới trong cơ chế quản lý nhưng nó không khỏi gây ra những khó khăn nhất định trong hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành điện nói chung và của Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội nói riêng.
Đặc biệt là việc thay đổi giá bán điện nhiều lần trong các khoảng thời gian rất ngắn đã để lại những hậu quả không nhỏ trong công tác kinh doanh bán điện như thu tiền điện, giảm tổn thất điện năng, tuyên truyền phổ biến mức giá mới... Mặt khác nó chưa có tác dụng khuyến khích việc sử dụng điện hợp lý, tiết kiệm điện năng cũng như góp phần cải thiện biểu đồ phụ tải.
b./ Những tồn tại chủ quan:
-Về lưới điện phân phối:
Một số vùng lưới điện đã quá cũ nát, đã lâu không được hoàn thiện nên rất khó khăn trong công tác quản lý và kinh doanh bán điện. Trong khi đó nguồn vốn đầu tư còn hạn hẹp nên không thể tiến hành đầu tư lớn cho công tác cải tạo được.
Quá trình đô thị hoá và xây dựng ở Thành phố Hà Nội không có kế hoạch nên việc cấp điện cho những khu mới xây dựng thương bị động chắp vá gây khó khăn cho công tác quy hoạch và phát triển lưới điện cũng như công tác quản lý vận hành, sửa chữa lưới điện.
-Trong quản lý tại địa bàn:
Việc quản lý tại địa bàn cơ sở còn nhiều yếu kém, đặc biệt trong khâu kinh doanh bán điện. Trước đây chỉ tiêu chủ yếu của Công ty là quản lý vận hành an toàn, nên khi các chỉ tiêu kinh doanh phải được coi trọng do yêu cầu hạch toán trong cơ chế thị trường thì trình độ quản lý kinh doanh cấp cơ sở chưa theo kịp. Việc quản lý chặt chẽ việc mua bán điện cho tới từng khách hàng do nhiều nguyên nhân khác nhau ở từng khu vực vẫn chưa được làm tốt.
-Công tác giảm tổn thất điện năng còn chậm nhất là tổn thất thương mại do chưa thực hiện tốt các công tác sau:
Công tác quản lý lưới điện còn chưa chặt chẽ dẫn đến tình trạng lấy cắp điện vẫn còn mặc dù Công ty đã tiến hành kiểm tra xử lý nghiêm nhưng mức độ vi phạm vẫn không giảm.
Việc thực hiện quy trình kinh doanh bán điện như lập hoá đơn, truy thu, thoái hoàn, quản lý hóa đơn ...còn chưa đúng. Nghiệp vụ kinh doanh và tinh thần trách nhiệm của các nhân viên làm việc trực tiếp chưa cao nên việc áp giá điện còn thiếu chính xác, gây thất thoát cho Công ty. Việc thực hiện các chế độ báo cáo hàng kỳ chưa nghiêm túc, phản ánh một thực trạng quản lý lỏng lẻo ở Điện lực quận, huyện.
Chất lượng và độ bền của công tơ đo đếm điện chưa đảm bảo nhiều đồng hồ đã được kiểm định kẹp chì liêm phong nhưng khi vận hành trên mạng lưới lại hoạt động thiếu chính xác gây tổn thất điện năng.
Theo quy định của Công ty, mỗi khách hàng chỉ được lắp đặt một đồng hồ đo đếm điện năng. Đối với khách hàng sử dụng điện với nhiều mục đích khác nhau thì áp giá bán điện theo tỷ lệ % giá và tỷ lệ này thường không chính xác làm giảm doanh thu của Công ty.
Thủ tục ký kết hợp đồng còn gây nhiều phiền hà cho khách hàng, công tác quản lý khách hàng chưa chặt chẽ gây ra tình trạng nhầm lẫn khách hàng giữa các trạm biến áp khiến công việc tính toán không chính xác.
-Về công tác thu nộp tiền điện:
Việc đối chiếu nợ hàng năm các Điện lực không thực hiện đúng theo quy định của Công ty. Việc cắt điện đòi nợ thiếu kiên quyết triệt để. Trong nhiều năm qua không thực hiện được việc thanh lý công nợ tiền điện hàng năm, việc quản lý yếu kém công nợ tiền điện của nhiều năm trước đây đã để lại số tiền nợ đọng kéo dài không giải quyết được.
-Về trình độ cán bộ công nhân viên :
Lực lượng nghiệp vụ tác nghiệp các khâu kinh doanh bán điện còn mỏng, trình độ còn nhiều điểm bất cập. Việc trang bị các thiết bị hiện đại để thực hiện cho công tác kinh doanh bán điện mới chỉ đang diễn ra ở bước đầu tiên nên có nhiều điểm chưa đồng bộ. Năng lực tiếp thu các kỹ thuật cao của cán bộ công nhân viên tại Điện lực còn yếu cũng là một trong những tồn tại cần quan tâm khắc phục.
-Về mô hình tổ quản lý tổng hợp phường:
Mô hình quản lý điện phường được triển khai từ tháng 1-1993 đến năm 1996 toàn Công ty đã có thêm 67 tổ quản lý. Sau 4 năm hoạt động mô hình quản lý điện phường đã bộc lộ nhiều ưu điểm cũng như các tồn tại cần khắc phục.
Ưu điểm: Do nắm vững địa bàn, gần dân và chịu trách nhiệm trong khu vực quản lý nên tổ có thể nắm vững mọi hoạt động của khách hàng, qua đó kịp thời xử lý nâng cao doanh thu bán điện. Việc thu tiền điện nhìn chung mang lại kết quả tốt. Đa số các tổ quản lý điện phường thu hết tiền điện phát sinh của khách hàng tư gia trong khu vực mình quản lý.
Nhược điểm: Đối với các Điện lực, do số đầu mối quản lý điện tăng lên nên việc chỉ đạo gặp nhiều khó khăn, việc kiểm tra phát hiện và uốn nắn các sai phạm còn chậm. Do quản lý một khu vực riêng nên rất dễ dẫn đến tình trạng cửa quyền trong cung ứng điện gây phiền hà cho dân. Bên cạnh đó nếu công tác kiểm tra không thực hiện thường xuyên chặt chẽ thì hoạt động của tổ điện phường thường rất khó kiểm soát.
-Về công tác quản lý và phát triển điện nông thôn:
Lưới điện nông thôn ngoại thành hiện nayb vẫn mang tính chất tự tạo, bắt nguồn từ các trạm bơm tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp được xây dựng từ những năm 1963-1970. Chất lượng đường dây xuống cấp không đảm bảo điều kiện kỹ thuật an toàn.
Công tơ đếm điện ở các hộ rất đa dạng: Của Việt Nam, của Trung Quốc, Đài Loan, Bungari... với dòng diện lớn và phần lớn đều không qua kiểm định, kẹp chì niêm phong của cơ quan kiểm định, đo lường nhà nước. Vì vậy, công tơ đếm điện năng không phản ánh đúng lượng điện năng mà hộ tiêu thụ.
Về lâu dài, Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội sẽ tiến hành bán điện trực tiếp tới từng hộtiêu dùng ngoại thành. Tuy nhiên, trong giai đoạn trước mắt có mô hình “Ban điện của xã” hiện đang được áp dụng rộng rãi ở các huyện ngoại thành Hà Nội. Mô hình này có một số yếu kém cần khắc phục như:
+ ở một số nơi hình thức giao thầu về quản lý điện vẫn còn tồn tại công khai hoặc núp bóng Ban điện xã. Cai thầu đứng ra nhận thầu điện của toàn xã và bán lại cho hộ tiêu dùng điện. Để có lợi nhuận tối đa, cai thầu thường tìm cách ăn cắp điện của nghành đồng thời nâng giá bán điện tại hộ tiêu dùng. Nếu cai thầu móc ngoặc được với người có trách nhiệm trong chính quyền xã thì càng gây tác hại nghiêm trọng, càng có chỗ để lộng hành.
+ Tại một số nơi cấp chính quyền địa phương còn chưa đề cao trách nhiệm với dân, còn để xảy ra nhiều hiện tượng tiêu cực, tham ô, móc ngoặc ăn cắp điện, đưa vào giá điện nhiều chi phí không dính dáng tới điện như hội họp tiếp khách... Sổ sách tài chính không công khai.
Phần iii
Một số biện pháp hoàn thiện công tác kinh doanh bán điện ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội
I./ Phương hướng phát triển hoạt động kinh doanh của Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội
Bước vào năm 1995 thực hiện kế hoạch năm năm 1995-2000, năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII. Tổng công ty Điện lực Việt Nam xác định phương hướng chung cho giai đoạn này là đầu tư phát triển đồng bộ lưới phân phối nhằm nâng cao độ tin cậy, tăng chất lượng điện năng cung cấp, giảm tỷ lệ hao hụt trong phân phối xuống từ 1-1,5% một năm. Để làm nền tảng cho việc thực hiện kế hoạch 5 năm của nhà nước cũng như của Công ty, Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội có kế hoạch 1998 như sau:
Năm 1998 Công ty đặt kế hoạch điện mua vào là 2192Kwh tăng 9,98% so với năm 1997 và sản lượng điện thương phẩm là 1863Kwh tăng 10,3%. Để thực hiện mục tiêu này cần tiến hành đầu tư phát triển lưới điện cụ thể là:
Đầu tư xây dựng thêm 233 trạm biến áp phân phối tăng 6,8% so với năm 1997.
Tiến hành xây dựng 42,283Km đường dây nổi 6-10-22KV tăng 4,4% so với năm 1997.
Tiến hành xây dựng 388,3Km đường dây 0,4KV tăng 21% so với năm 1997.
Đảm bảo thiết bị nguồn và lưới vận hành an toàn, không có sự cố chủ quan, xử lý nhanh các hư hỏng trong sản xuất vận hành lưới điện.
Về thực hành tiết kiệm:
Giảm chi phí hội họp, học tập hành chính, công vụ phí. Triệt đêt chống lại hiện tượng sác h nhiễu gây phiền hà, tiêu cực tham nhũng lãng phí.
Tiết kiệm trong giá thành sản phẩm, sửa chữa lớn.
Thực hiện công trình DSM (Demand – Side – Management ). Nội dung chính của chương trình này là nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng điện của các hộ tiêu dùng; điều khiển nhu cầu dùng điện cho phù hợp với khả năng cung cấp một cách kinh tế nhất; đổi mới giá (Tính giá theo thời điểm sử dụng điện, giá cho phép cắt điện khi cần thiết, giá thành cho các mục tiêu đặc biệt ).
Tiến tới điều hành, quản lý lưới điện nông thôn, lắp đặt công tơ cho từng hộ tiêu dùng điện.
II./ những biện pháp chủ yếu hoàn thiện công tác kinh doanh bán điện của Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội
Sau 2 năm chuyển đổi cơ chế làm việc tình hình kinh doanh bán điện của Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội đã đạt nhiều thành tựu đáng kể nhưng vẫn còn nhiều vấn đề bức xúc cần đổi mới hoàn thiện. Để phát triển và đứng vững Công ty phải tự tìm cho mình một hướng đi phù hợp, một chiến lược kinh doanh phù hợp trên cơ sở tình hình thực tế của đơn vị mình, của môi trường kinh doanh. Với điều kiện thực tế hiện nay, em xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị với Nhà nước và Công ty nhằm góp phần hoàn thiện công tác kinh doanh bán điện như sau:
1./ Quản lý khách hàng:
Quản lý khách hàng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của hoạt động kinh doanh bán điện ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội. Chính vì vậy, để kinh doanh bán điện có lãi công tác quản lý khách hàng cần phải coi trọng và có sự quan tâm đầu tư hơn nữa của các cấp lãnh đạo. Để nâng cao hiệu quả của công tác này ngoài những việc đã làm được trong năm 1997 Công ty cần thực hiện một số việc sau:
1.1./ Tăng cường công tác kiểm tra khách hàng sử dụng điện.
Điện năng là một loại hàng hoá đặc biệt, quá trình sản xuất tiêu dùng hàng hoá này diễn ra ssđồng thời. Muốn bán được điện năng, nghành phải xây dựng một hệ thống lưói điện đến tận nơi tiêu dùng. Điệnnăng còn là một loại hàng hóa thiết yếu phục vụ cho nhu cầu toàn dân nên hệ thống lưới phân phối sẽ trải rộng trên toàn Thành phố, vượt qua mọi địa hình len lỏi vào tận ngõ xóm, khu dân cư đến từng nhà dân. Hơn thế, cùng một nguồn cung cấp nhưng nếu mục đích sử dụng khác nhau thì giá cũng khác nhau. Do đó nghànhđiện phải thường xuyên kiểm tra việc sử dụng điện của khách hàng. Vấn đề đặt ra ở đây là ai sẽ thực hiện công việc này ?
Với một khối lượng khách hàng lớn, phạm vi kinh doanh rộng như ở Hà Nội nếu chỉ lập ra một ban kiểm tra sử dụng điện thì chưa mang lại hiệu quả cao. Do đó bên cạnh ban kiểm tra điện, Công ty nên giao việc kiểm tra điện của các khách hàng cho sinh hoạt cho các tổ tổng hợp phường. Thông qua cônhg tác kiểm tra, tổ có thể kịp thời phát hiện khách hàng thay đổi mục đích sử dụng điện để áp giá bán điện chính xác, nâng cao doanh thu góp phần nâng cao trật tự kỷ cương trong cung ứng sử dụng điện, chống lại hiện tượng lấy cắp điện của khách hàng cũng như việc thông đồng móc ngoặc giữa công nhân, nhân viên nghành điện và khách hàng. Công tác kiêm tra sử dụng điện của khách hàng là một công việc hết sức khó khăn , phức tạp, mặt khác nó lại đòi hỏi phải tién hành thường xuyên, liên tục mới đạt hiệu quả mong muốn. Đổi với côngviệc này thì biện pháp kinh tế tỏ ra hiệu quả nhất. Muốn các tổ tự giác thực hiện việc kiểm tra Công ty cần phải có một chế độ thưởng hợp lý có thể là trích một tỷ lệ nhất định trong số tiền phạt để thưởng cho họ, bên cạnh đó phải xây dựng một chế độ phạt nếu tổ không thực hiện tốt công tác này.
Ngoài việc sử dụng tiềm lực từ nội bộ, Công ty nên đặt mối quan hệ hợp tác chặt chẽ, thường xuyên giữa điện lực và các cấp chính quyền địa phương mà quan trọng nhất là công an và uỷ ban nhân dân các cấp. Việc phối hợp với công an phường, ủy ban nhân dân phường trong công tác chống câu móc, lấy cắp điện, xử lý các trường hợp nợ tiền điện chống người thi hành công vụ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty hoàn thành các chỉ tiêu kinh doanh bán điện, thiết lập kỷ cương cung ứng và sử dụng điện.
1.2./ Nâng cao chất lượng đồng hồ đo đếm điện năng:
Thực hiện đúng chế độ thay đổi định kỳ các công tơ thương phẩm, nghiêm túc thực hiện công tác kiểm định công tơ, đảm bảo công tơ sau khi kiểm định đều đạt tiêu chuẩn và độ chính xác cao. Có thực hiện tốt việc mày mới đảm bảo giữ chữ tín của Công ty đối với khách hàng sử dụng điện.
Công ty cần tạo ra một quỹ công tơ đủ lớn để đảm bảo cung cấp cho nhu cầu lắp đặt, thay công tơ mất, chết, cháy. Quy định rõ thời gian thay thế: với công tơ một pha chậm nhất là sau 24 giờ, công tơ 3 pha chậm nhất là sau 48 giờ. Đồng rhời Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội tăng cường kiểm tra việc thực hiện này của các tổ quản lý tổng hợp, hạn chế tối thiểu hiện tượng dùng thẳng không qua đo đếm nhất là khách hàng công suất lớn, khách hàng mua điện công tơ 3 pha.
1.3./ Công ty cần đề ra các thủ tục cần thiết, nhất quán cho việc khách hàng có nhu cầu lắp đặt công tơ mới quy định những mốc thời gian cho công việc, công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng và liêm yết tại trụ sở của Công ty. Làm tốt việc này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, hạn chế hiện tượng bắt chẹt khách hàng của những người làm việc trực tiếp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ công nhân viên, tạo cơ sở cho công tác kiểm tra xử lý nếu có đơn khiếu lại của khách hàng.
1.4./ Thực hiện nghiêm túc việc ghi chữ theo đúng quy trình kinh doanh bán điện. Tăng cường quản lý khách hàng bằng nhiều hình thức, trong đó có việc tăng cường ghi chỉ số công tơ và đọc ghi chữ, đối chiếu sản lượng điện hàng tháng, sản lượng ghi chữ và theo biểu đồ công suất thực tế.
1.5./ Nâng cấp trung tâm máy vi tính của Công ty, tiếp tục hoàn thiện công tác kinh doanh bán điện trên máy vi tính từ Điện lực đến Công ty, từ khâu quản lý hợp đồng đến khâu thu tiền, theo dõi nợ. Quản lý trên máy vi tính có nhiều ưu điểm ;
Công tác thống kê, phân tích số lượng khách hàng ở các trạm biến áp, các tổ hợp, các Điện lực sẽ thực hiện nhanh gọn, chính xác hơn nhờ sự trợ giúp của máy tính, tạo điều kiện cho công tác quy hoạch phát triển lưới điện. Nhờ vi tính hoá, số người làm công tác này sẽ giảm xuống nhưng chất lượng công việc vẫn đảm bảo, góp phần giảm chi phí quản lý.
Mã hoá khách hàng sẽ giúp cho công tác theo dõi nợ, chấm xoá nợ chính xác, kịp thời phát hiện ra các trường hợp khách hàng chây không thanh toán tiền mua điện để có biện pháp giải quyết triệt để, không để tình trạng nợ đọng kéo dài, gây khó khăn cho công tác thu tiền điện.
2./ Công tác thu tiền điện:
Kinh doanh bán điện có đặc điểm là khách hàng tiêu dùng trước, trả tiền sau do đó công tác thu tiền là khâu quan trọng quyết định kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Tính đến ngày 31/12/1999 số tiền khách hàng còn nợ Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội lên tới con số trên 56 tỷ đồng. Đây là một con số khá lớn đã phần nào nói lên tình trạng thu tiền điện ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội. Đối với Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội khi chuyển sang phương thức kinh doanh mới thì thước đo hiệu quả kinh doanh chính là lượng tiền thu được. Để nâng cao công tác thu tiền điện phát sinh phải tiến hành thực hiện các công việc sau:
Trước tiên, phải quản lý chặt chẽ số tiền điện phát sinh bằng cách thực hiện ghi chỉ số công tơ chính xác, đúng ngày ghi chữ, quản lý chặt chẽ sổ ghi chữ.
Theo dõi, chấm xoá nợ cho khách hàng bằng máy tính để đảm bảo độ chính xác.
Xây dựng hệ thống các biện pháp kinh tế như chế độ thưởng phạt theo số tiền điện thu được để khuyến khích công tác thu tiền điện phát sinh và đòi nợ cũ.
Nghiêm túc thực hiện các biện pháp hỗ trợ công tác thu tiền điện như cắt điện đòi nợ, phạt trả chậm thậm chí huỷ hợp đồng mua bán điện đối với những khách hàng không thực hiện chế độ nộp tiền điện.
Tăng cường kiểm tra theo dõi công tác thu tiền điện của các thu ngân viên để có biện pháp tác động xử lý, hỗ trợ kịp thời các vướng mắc phát sinh trong công tác thu tiền điện.
Tổ chức thực hiện tốt công tác phối hợp thu nợ đọng tiến tới giảm số dư nợ đọng tiền điện đến mức tối thiểu.
Đối với nợ khó đòi Công ty cần nhanh chóng làm thủ tục xin thanh lý.
3./ Phát triển mở rộng thị trường:
Xã hội càng phát triển nhu cầu dùng điện càng tăng càng đa dạng và phong phú. Doanh nghiệp muốn kinh doanh có hiệu quả cần phải tìm cách thoả mãn tối đa nhu cầu của thị trườn. Doanh nghiệp chỉ nắm bắt được nhu cầu của thị trường thông qua hoạt động nghiên cứu thị trường. Như vậy, có thể nói, hoạt động nghiên cứu thị trường có vai trò định hướng toàn bộ hoạt động kinh doanh bán điện của doanh nghiệp. Từ khi chuyển sang hạch toán kinh doanh độc lập đến nay, hoạt động nghiên cứu thị trường ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội chưa được quan tâm đúng mức dẫn tới tình trạng Công ty còn bỏ lỡ một số cơ hội kinh doanh có hiệu quả kinh tế cao. Để khắc phục thiếu sót này, theo em Công ty nên tổ chức một phòng ban chuyên phụ trách về việc nghiên cứu thị trường để thu thập thông tin về tình hình phát triển của các phụ tải, đặc biệt là các thành phần phụ tải có giá bán điện cao. Qua đó Công ty có thể chủ động lập phương án cấp điện, chuẩn bị nguồn và hệ thống phân phối để khi khách hàng có nhu cầu là Công ty xó thể kịp thời đáp ứng. Mặt khác, ở Hà Nội nhu cầu sử dụng điện năng vào mục đích kinh doanh (giá bán điện cao ) là rất lớn nhưng cũng không phải bất kỳ khách hàng nào cũng tự nguyện đăng ký đúng với nghành điện, công tác nghiên cứu thị trường sẽ giúp ta áp giá chính xác ngay từ khi mới phát sinh khách hàng trên lưới điện.
Sau hơn 15 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã phát triển với tốc độ nhanh, sự gia tăng của các thành phần phụ tải tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh là lớn do đó nhu cầu sử dụng điện ngày càng tăng. Nếu Công ty tổ chức tốt công tác nghiên cứu thị trường thì hiệu quả kinh doanh bán điện sẽ cang cao và lợi nhuận ngày càng lớn.
4./ Tăng cường nghiệp vụ kinh doanh bán điện:
Khi còn là Sở Điện lực Hà Nội, toàn bộ hoạt động kinh doanh bán điện của Sở đều tuân theo quy trình bán điện của Công ty Điện lực I. Quy trình này được áp dụng cho tất cả các Sở Điện lực toàn miền Bắc nên có nhiều điểm chưa phù hợp với thực tế kinh doanh điện năng của khu vực Hà Nội, gây khó khăn cho công tác kinh doanh của Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội. Hiện nay, Công ty đã chuyển sang phương thức hoạt động mới, yêu cầu về một quy trình sản xuất kinh doanh bán điện phù hợp với tình hình thực tế kinh doanh ngày càng trở lên cấp thiết. Thiết lập mô hình kinh doanh hợp lý sẽ giúp cho Công ty có được hướng đi thống nhất, tạo điều kiện cho công tác quản lý được dễ dàng và giúp cho công tác tác nghiệp cảu các nhân viên trong ccong việc kinh doanh. Đồng thời nó cũng là tài kiệu hướng dẫn nghiệp vụ co nhân viên mới, là cơ sở để kiểm tra hoạt động của Điện lực. Đẻ xây dựng được một quy trình kinh doanh bán điện Công ty cần làm tốt hai công việc sau:
Thứ nhất, phải dựa vào các cán bộ làm việc lâu năm trong công tác kinh doanh bán điện có nghiệp vụ cao đặc biệt là những người làm việc trực tiếp.
Thứ hai, phải tham khảo các quy trình kinh doanh bán điện của các nước trong khu vực và thế giới để lựa chọn những điểm thích hợp với điều kiện vật chất và kỹ thuật của Công ty mình.
5./ Tăng cường công tác giám sát và kiểm tra nội bộ:
Nâng cao năng lực quản lý là một công tác quan trọng và thường xuyên của Công ty trong thời kỳ đổi mới. Muốn vậy phải tăng cường công tác kiểm tả giám sát nội bộ, một mặt nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ công nhân trong công việc mặt khác nhằm hạn chế tối đa những tiêu cực có thể phát sinh trong lĩnh vực quản lý.
Điện lực là những đơn vị hoạt động theo phương thức hạch toán phụ thuộc vsò Công ty. Điện lực quản lý một số lượng khách hàng, thực hiện hoạt động kinh doanh bán điện, cụ thể các kế hoạch chương trình của Công ty đề ra. Chính vì vậy, để hoạt động của các Điện lực thực sự mang lại hiệu quả kinh tế thì vấn đề tăng cường quản lý hoạt động của Điện lực là một vấn đề bức xúc cần được hoàn thiện. Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để vừa đạt được hiệu quả vừa không gây khó khăn cho các điện lực trong việc thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình. Trong thời gian qua bằng nhiều biện pháp như quy định cụ thể các loại báo cáo định kỳ về mọi mặt kinh doanh bán điện như: báo cáo tổng hợp, báo cáo thu nộp tiền điện, báo cáo quản lý dư nợ, báo cáo thay công tơ chết cháy... Đây là cơ sở chính để đánh giá hoạt động của Điện lực. Ngoài ra Công ty đã tổ chức các hoạt động kiểm tra đột xuất các hoạt động kinh doanh của các Điện lực dưới sự lãnh đạo của của các tổ chức.
Tài liệu tham khảo 2003!
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24663.DOC