Đề tài Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại quỹ tín dụng Mỹ Hoà

Tài liệu Đề tài Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại quỹ tín dụng Mỹ Hoà: PHẦN MỞ ĐẦU –¯— Lý do chọn đề tài: Luật Ngân Hàng Nhà Nước đã định nghĩa: “hoạt động Ngân Hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân Hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán”. Như chúng ta đã biết, hiện nay tình hình thị trường tài chính và hoạt động của các Ngân Hàng Thương Mại (NHTM) Việt Nam đã có một bước phát triển vượt bậc, nhất là kể từ khi Việt Nam gia nhập tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO) và ký nhiều hiệp định thương mại với Hoa Kỳ. Tất cả mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề nói chung và ngành ngân hàng nói riêng đều vận động, phát triển theo xu hướng chung và có nhiều đổi mới đáng kể. Một trong những nhu cầu cấp thiết đó chính là nguồn vốn. Nguồn vốn là yếu tố vô cùng quan trọng, nó mang tính chất quyết định đến tất cả các hoạt động kinh doanh của các thành phần kinh tế khác nhau. Do đó trong thời gian gần đây đã có rất nhiều ngân hàng ra đời để đáp ứng những nhu cầu và đòi hỏi của xã hội. Ngân ...

doc68 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1290 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại quỹ tín dụng Mỹ Hoà, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU –¯— Lý do chọn đề tài: Luật Ngân Hàng Nhà Nước đã định nghĩa: “hoạt động Ngân Hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân Hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán”. Như chúng ta đã biết, hiện nay tình hình thị trường tài chính và hoạt động của các Ngân Hàng Thương Mại (NHTM) Việt Nam đã có một bước phát triển vượt bậc, nhất là kể từ khi Việt Nam gia nhập tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO) và ký nhiều hiệp định thương mại với Hoa Kỳ. Tất cả mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề nói chung và ngành ngân hàng nói riêng đều vận động, phát triển theo xu hướng chung và có nhiều đổi mới đáng kể. Một trong những nhu cầu cấp thiết đó chính là nguồn vốn. Nguồn vốn là yếu tố vô cùng quan trọng, nó mang tính chất quyết định đến tất cả các hoạt động kinh doanh của các thành phần kinh tế khác nhau. Do đó trong thời gian gần đây đã có rất nhiều ngân hàng ra đời để đáp ứng những nhu cầu và đòi hỏi của xã hội. Ngân hàng và Quỹ Tín Dụng là cầu nối giữa người thừa vốn và người thiếu vốn, là trung gian giữa các tổ chức tài chính và doanh nghiệp An Giang là tỷnh có nền kinh tế phát triễn. Năm 2009 tình hình tăng trưởng kinh tế GDP đạt mức 8,67%. Ngày 16 tháng 4 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 942/QĐ-ttg đưa An Giang vào Vùng Kinh tế trọng điểm Đồng bằng sông Cửu Long nhằm khai thác những lợi thế toàn diện của tỷnh kết hợp với lợi thế của Cần Thơ, Cà Mau và Kiên Giang nhanh chóng tạo ra các cực tăng trưởng có quy mô kinh tế lớn làm động lực lôi kéo các tỷnh khác trong Vùng ĐBSCL cùng phát triển. Đứng trước nhiệm vụ là đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế năng động, đòi hỏi các Ngân Hàng và các Tổ Chức Tín Dụng phải mở rộng và nâng cao hiệu quả huy động vốn của mình. Chính vì tầm quan trọng của hoạt động huy động vốn của các Ngân hàng và tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, nên trong quá trình thực tập tại đơn vị, để hoàn thành tốt báo cáo thực tập của mình, em đã quyết định thực hiện đề tài: “ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại QUỸ TÍN DỤNG MỸ HOÀ “ Mục tiêu nghiên cứu đề tài: Từ những vấn đề nghiên cứu lý thuyết, phân tích thực trạng huy động vốn tại Quỹ Tín Dụng MỸ HOÀ. Tìm ra các ưu điểm, nhược điểm bên trong cũng như những cơ hội thữ thách bên ngoài của Quỹ Tín Dụng. Qua đó đề ra các giải pháp nhằm nâng cao các hoạt động huy động vốn tại Quỹ Tín Dụng MỸ HOÀ Phạm vi và đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề cơ bản về huy động vốn tại Quỹ Tín Dụng Đánh giá thực trạng huy động vốn tại Quỹ Tín Dụng MỸ HOÀ trong 3 năm : 2007-2008-2009 qua các khía cạnh qui mô, cơ cấu huy động vốn, và phân tích nguồn vốn huy động. Từ đó tìm ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân tồn tại trong việc huy động vốn tại Quỹ Tín Dụng MỸ HOÀ Nội dung nghiên cứu: Hệ thống hoá các biện pháp huy động vốn tại Quỹ tín Dụng. Phân tích thực trạng huy động vốn tại Quỹ Tín Dụng MỸ HOÀ, tìm ra nhược điểm cần khắc phục. Đề xuất các giải pháp nâng cao hoạt động huy động vốn một cách hiệu quả với chi phí thấp nhất. ¯ Phần nội dung trong chuyên đề báo cáo thực tập tốt nghiệp của em gồm các phần như sau: Chương I: Giới thiệu tổng về QUỸ TÍN DỤNG MỸ HOÀ Chương II: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Quỹ Tín Dụng MỸ HOÀ. Chương III: Một số giải pháp nhằ nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại Quỹ Tín Dụng MỸ HOÀ. PHẦN NỘI DUNG: –¯— CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT VỀ QUỸ TÍN DỤNG MỸ HOÀ —¶– 1.1/ Quá trình thành lập và phát triển của Quỹ Tín Dụng. 1.1.1/ Giới thiệu Quỹ Tín Dụng Quỹ tín dụng nhân dân Mỹ Hòa được chính thức và đi vào hoạt động từ ngày 25/04/1998 với số vốn điều lệ ban đầu là 500 triệu đồng. Quỹ tín dụng nhân dân Mỹ Hòa lúc đó chỉ có 30 thành viên góp vốn, trải qua quá trình hoạt động gần 10 năm, đến nay vốn điều lệ của đơn vị tăng lên gần 10 tỷ đồng, mức dư nợ trung bình trên 130 tỷ đồng và trở thành 1 trong 6 quỹ tín dụng lớn và có quy mô nhất trong hệ thống quỹ tín dụng nhân dân trong cả nước. Quỹ Tín dụng Mỹ Hòa đã có các hoạt động là huy động vốn nhàn rỗi trong dân; cho vay trong các lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp, phục vụ đời sống, sản xuất nông nghiệp, chuyển tiền điện tử, đại lý Western Union cho ACB. Số dư huy động tiền gởi đến cuối năm 2009 trên 220 tỷ đồng, tăng 60 tỷ đồng so năm 2008, so kế hoạch tăng hơn 45 tỷ đồng; dư nợ cho vay gần 227 tỷ đồng; tổng thu nhập trên 32 tỷ đồng… Năm 2010, Quỹ Tín dụng Mỹ Hòa phấn đấu duy trì "Quỹ tín dụng loại I"; khuyến khích và hỗ trợ kinh phí để tiêu chuẩn hóa trình độ nhân viên, đáp ứng kịp thời xu hướng phát triển của đơn vị; lợi nhuận gần 4 tỷ đồng, nộp thuế thu nhập doanh nghiệp 20%... Từ khi thành lập (năm 1998) đến nay, Quỹ tín dụng nhân dân Mỹ Hòa luôn tích cực tham gia công tác xã hội từ thiện, đặc biệt là hoạt động tặng học bổng cho học sinh nghèo và cất nhà tình thương cho người nghèo. Mỗi năm cất từ 10-12 căn nhà tình thương (mỗi căn trị giá từ 12-15 triệu đồng), tặng 12-40 suất học bổng/năm (mỗi suất trị giá từ 1-5 triệu đồng) cho học sinh nghèo và đóng góp cho các nguồn quỹ xã hội từ thiện tại địa phương… 1.1.2/ Quá trình thành lập và phát triễn Quá trình thành lập và tổ chức hoạt động cũng như duy trì được hoạt động của một quỹ tín dụng nhân dân trong thời điểm vừa qua cũng như hiện tại là rất khó khăn vì phải chịu áp lực cạnh tranh mạnh của các ngân hàng trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Tuy nhiên với việc xác định cho mình một hướng đi riêng, một chiến lược phù hợp trong quá trình đầu vốn, đồng thời luôn quản lý tốt và luôn cử cán bộ tín dụng bám sát các địa bàn và hỗ trợ vốn kịp thời cho bà con nông dân trong quá trình sản xuất kinh doanh, giảm thiểu tình trạng bà con phải vay nặng lãi, ngoài ra với phương châm hai cùng “cùng đến cùng phát triển”. Quỹ tín dụng Mỹ Hòa còn trực tiếp tham vấn cho bà con những mô hình và giải pháp sử dụng và cũng như đầu tư đồng vốn sau cho có hiệu quả. Bên cạnh đó Quỹ tín dụng Mỹ Hòa luôn được sự ủng hộ của chính quyền các cấp đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình và tạo mọi điều kiện thuận lợi của Ngân hàng nhà nước chi nhánh tỷnh An Giang. Phòng quản lí tổ chức tín dụng hợp tác chi nhánh An Giang và Quỹ tín dụng trung ương chi nhánh An Giang. Đồng thời với sự đoàn kết và quyết tâm cao của tập thể cán bộ công nhân viên trong đơn vị mà ở đó nỗi bật nhất là vai trò lãnh đạo, tính tiên phong, quyết đoán và gương mẫu của Ban lãnh đạo, và đặc biệt là nữ giám đốc Nguyễn Thị Thanh Hằng là những cơ sở quan trọng góp phần cho sự thành công và phát triển ổn định của đơn vị trong thời gian qua. Sau hơn 10 năm hoạt động, quỹ tín dụng Mỹ Hòa luôn phát triển số lượng các thành viên, ổn định đội ngủ cán bộ làm việc. Tính đến ngày 31/12/2007 tổng số thành viên của quỹ tín dụng Mỹ Hòa 15,354 thành viên, tổng cán bộ làm việc tại quỹ là 43 người, trong đó Hội đồng quản trị là 7 người, phòng kế toán 6 người, phòng tín dụng 28 người, bộ phận kho quỹ, kiểm ngân có 2 người. Về trình độ cán bộ, các cán bộ làm việc tại quỹ tín dụng Mỹ Hòa đều hội đủ các qui định của thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam, trong đó đại học 36 người ( tỷ lệ 83,7 %), trung cấp 7 người ( tỷ lệ 16,3%). Hầu hết các cán bộ tại quỹ tín dụng Mỹ Hòa đều được tập huấn tại chi nhánh Ngân hàng nhà nước tỷnh và tập huấn nâng cao do đại học Thành Phố Hồ Chí Minh tổ chức. Đại Hội Thành Viên Hội Đồng Quản Trị Ban Giám Đốc Ban Kiểm Soát Thủ Quỹ Phòng Hành Chánh Trưởng Phòng Tín Dụng Kế Tóan Trưởng Phòng Thu Ngân Phòng Tín Dụng Phòng Kế Tóan Chi Nhánh Mỹ Xuyên Chi Nhánh Bình Hòa 1.2/ Mô hình hệ thống tổ chức của Quỹ Tín Dụng Sơ đồ 1.2: Bộ máy tổ chức tại QTD Mỹ Hòa. 1.2.1/ Khái niêm mô hình hệ thống Quỹ Tín Dụng Mỹ Hoà Để hoạt động kinh doanh của một công ty nào đó được phát triễn, thực hiện liên tục và ổn định lâu dài thì cần phải có một bộ máy tổ chức phù hợp. Đối với lĩnh vực kinh doanh tiền tệ thì tổ chức tín dụng nói chung, Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hoà nói riêng cần có bộ máy tổ chức đơn giản như sau: 1.2.2/ Thành viên Quỹ Tín Dụng Mỹ Hoà Với thành tích khả quan đó là do sự nhạy bén, nắm bắt kịp thời những thông tin cần thiết, do sự điều hành tài tình của ban lãnh đạo trong 10 năm qua, Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hoà có những phương hướng bước đi đúng đắn nên số lượng các thành viên luôn tăng, bên cạnh đó luôn ổn định và tăng cường đội ngũ bán bộ tín dụng làm việc tại Quỹ Tín Dụng. Tổng số cán bộ làm việc tại Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hoà, kể cả các điểm giao dịch là 37 người ( trong đó Hội Đồng Quản Trị có 3 người; Ban Điều Hành và hoạt động có 34 người gồm: Ban Giám Đốc có 2 người: 1 Giám Đốc và 1 Phó Giám Đốc, Ban Kiểm Soát có 3 người, phòng kế toán có 6 người, phòng tín dụng có 16 người, bộ phận kho quỹ và kiểm ngân 7 người ). Về trình độ và chuyên môn của các cán bộ làm việc tại Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hoà đều hhội đủ các quy định của Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước Viêt Nam, với 12 người bậc đại học, 8 người là cao đẳng và trung cấp là 17 người. 1.2.3/ Tổ chức Quỹ Tín Dụng Mỹ Hoà ¯ Chức năng và nhiệm vụ của các phòng ban: Ø Hội Đồng Quản Trị ( HĐQT) Hội Đồng Quản Trị là do các cổ đông cùng góp nguồn vốn thành lập Quỹ Tín Dụng. Trong đó có Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị là người có số vốn lớn nhất trong tổng số các thành viên, có chưc năng điều hành và quản lý Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hoà theo quy định của pháp luật và theo điều lệ và nghị quyết của hội đồng thành viên, là người đại diện cho v trong các cuộc toạ đàm phỏng vấn... Đồng thời để giải quyết các vấn đề về tổ chức và hoạt động của Quỹ Tín Dụng. Bên cạnh đó Hội Đồng Quản Trị có nhiệm vụ phải trình đại hội thành viên trong các quyết đinh của mình về: - Cơ cấu tổ chức Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hoà và quy chế trong vấn đề quản lý nhân sự. - Mở rộng quan hệ giao tiếp và các nghiệp vụ về đối ngoại. - Để xuất phương án xây dựng và cơ sở vật chất, kỹ thuật hạ tầng. - Thay đổi vốn điều lệ và chuyển nhượng vốn cổ phần. - Đề ra phương thức hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ và hình thức huy động vốn. - Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hoà hàng năm cho đại hội thành viên, đồng thời báo cáo phương án phân phối lợi nhuận, chia lợi tức cổ phần cho thành viên. - Quyết định các mức lãi suất trong lĩnh vực huy động vốn và lãi suất cho vay nhưng phải năm trong khoảng lãi suất mà Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam đã ban hành, các tỷ lệ hoa hồng, mức lệ phí và mức lãi suất quá hạn áp dụng cho tất cả các nghiệp vụ. - Đại diện Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hoà tham dự các cuộc họp mà chính phủ hay Ngân Hàng Nhà Nước tổ chức, thu nhập đầy đủ các văn bản mới của Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước, các cơ quan pháp luật trong cuộc họp để phổ biến cho những thành viên trong Hội Đồng Quản Trị và Ban Kiểm Soát. Kịp thời cập nhật thông tin và tiến hành kiểm tra, chỉ đạo cho các cán bộ thực hiện hoạt động theo đúng các chủ trương chính sách mới của Đảng và Nhà Nước ban hành. - Chịu trách nhiệm trước pháp luật về lĩnh vực hoạt động của Quỹ Tín Dụng và trước các đại hội thành viên về nghị quyết của mình. - Quyết định trong việc xử lý các khoản nợ quá hạn của khách hàng mà không có khả năng thu hồi được và những rủi ro khác do hoạt động của Quỹ Tín Dụng mang lại. Xem xét đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của Quỹ Tín Dụng, từ đó đưa ra phương hướng, kế hoạch hoạt động trong từng giai đoạn thực hiện. Ø Ban Giám Đốc ( BGĐ ) Để các nghị quyết, phương hướng của Hộ Đồng Quản Trị được thực hiện đầy đủ và hiệu quả thì cần phải có Ban Gíam Đốc, Ban Giám Đốc có trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo và điều hành mọi hoạt động kinh doanh của Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hoà theo đúng pháp luật và chủ trương nghị quyết của Hội Đồng Quản Trị, đúng với điều lệ Quỹ Tín Dụng trực tiếp ký hợp đồng chứng từ cho vay... Đồng thời ký các báo cáo về kết quả hoạt động kinh doanh của Quỹ Tín Dụng để trình lên đại Hội Đồng Quản Trị. Ngoài ra Ban Giám Đốc còn đưa ra phương án xử lý rủi ro trong quá trình hoạt động và phương hướng xây dựngkế hoạch cho năm tiếp theo để trình lên Hội Đồng Quản Trị tổng hợp và đưa ra quyết định cuối cùng. Ban Giám Đốc tiếp nhận và phổ biến các chủ trương chính sách của Nhà Nước, văn bản của các ban, nganh liên quan, nghị quyết của Hội Đồng Quản Trị đến tất cả các cán bộ, nhân viên trong Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hoà. Ban Giám Đốc được phép phê duyệt số tiền cho vay mà Hội Đồng Quản Trị giao cho, được phép đậi diện Quỹ Tín Dụng tham dự các cuộc họp mà pháp luật quy định, phải tổng kết báo cáo cho Hội Đồng Quản Trị trong các phiên họp nội bộ. Ø Ban Kiểm Soát ( BKS ): Bộ phận này có trách nhiệm kiểm tra, giám sat các hoạt động của QTD theo đúng pháp luật và các quy định của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam, đúng điều lệ và quy đinh của QTD. Kiểm tra các thủ tục cho vay vốn của khách hàng do cán bộ tín dụng lập, các nghiệp vụ của kế toán trong việc xuất nhập, lưu trữ chứng từ để kịp thời phát hiện những sai sót, kịp thời có biện pháp sữa đổi nhầm tránh tình trạng nhập sai, viết sai của cac cán bộ tín dụng, bộ phận kế toán xử lý các khoản lỗ, các khoản thiếu sót do khách hàng quên hay không có điều kiện để bổ sung nhưng không có ảnh hưởng nhiều đến quy chế cho vay. Kiểm tra việc sử dụng của Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hoà, sử dụng tài sản và các khoản hỗ trợ của chính phủ, đồng thời Ban Kiểm Soát còn đưa ra kiến nghị để khắc phục các sai phạm (nếu có). Ban kiểm Soát thường xuyên kiểm tra, giám sát các hoạt động, thái độ của cán bộ tín dụng đối với khách hàng trong quá trình thẩm định và cho vay có thực hiện nghiêm túc hay không, để kịp thời phản ánh và kiến nghị những vấn đề cần thiết cho cán bộ tín dụng sữa chữa khắc phục. Ngoài ra Ban Kiểm Soát sẽ tiếp nhận giải quyết các khiếu nại trong phạm vi thẩm quyền của mình. Ø Kế Toán: Đây là bộ phận quan trọng trong QTD nó giúp cho ban Điều Hành theo dõi và thống kê được hiệu quả của hoạt động của QTD. Bộ phận này có nhiệm vụ lưu trữ chứng từ theo quy định của cấp trên, có trách nhiệm là hạch toán các khoản chi phí phát sinh trong quá trình hoạt động. Nhân viên kế toán phải thu chi đúng nguyên tắc và quy chế của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam của Bộ Tài Chính. Phải kiểm tra, tập hợp, tính toán kịp thời và chính xác để đối chiếu, khóa sổ hợp lý và kiểm quỹ tiền mặt thực tế trong ngày. Ø Bộ Phận Tín Dụng: Bộ phận kế toán phải thực hiện hoạch toán đúng theo hệ thống tài khoản trong Quỹ Tín Dụng. Thực hiện chế độ chứng từ về kế toán, thống kê theo đúng quy định của pháp luật và hướng dẫn của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam. Ngoài ra kế toán còn phải tổng kết tài sản bên có, bên nợ cho hợp lý và kết chuyển (nếu có) sau đó lập báo cáo tài chính, báo cáo nghiệp vụ phát sinh trong quá trình hoạt động định kỳ ( quí, tháng hoặc năm), báo cáo theo đề nghị của Ban Giám Đốc theo đúng quy định của pháp luật và kế toán, thống kê của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam (nếu có) để trình ban lãnh đạo. Đây là bộ phận rất quan trọng trong hoạt động của Quỹ Tín Dụng, nó quyết định lợi nhuận và doanh số cho vay của Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa. Bộ phận tín dụng có nhiệm vụ giao tiếp và tìm kiếm khách hàng, Cán Bộ Tín Dụng phải chịu trách nhiệm về những thủ tục và hợp đồng cho vay đối với khách hàng. Vì vậy Cán Bộ Tín Dụng phải tiến hành thẩm định đối với các khách hàng có nhu cầu vay vốn tại Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa, phải tiến hành một cách trung thực, khách quan và chính xác. Tạo điều kiện cho khách hàng đến vay vốn được dễ dàng và nhanh chóng, nhưng khách hàng phải hội đủ các điều kiện theo quy chế cho vay tại Quỹ Tín Dụng mới xét duyệt cho vay. Cán Bộ Tín Dụng phải hướng dẫn tận tình cho khách hàng biết điều kiện để vay, làm vui lòng khách, đồng thời phải tạo cho họ có ý thức sử dụng vốn vay đúng mục đích và chịu trách nhiệm trên khoản nợ mà mình đã vay mà mình đã vay. Khi đến hạn khách hàng không cần trả bất cứ khoản thù lao nào cho Cán Bộ Tín Dụng, Cán Bộ Tín Dụng cũng không được nhận các khoản thù lao của khách hàng trong quá trình vay vốn. Ngoài ra Cán Bộ Tín Dụng phải thường xuyên theo dõi các khoản vay của khách hàng về mục đích sử dụng đã ghi trong hợp đồng tín dụng trên địa bàn mình phụ trách, nếu kiểm tra phát hiện khách hàng vi phạm các điều khoản đã ghi trong hợp đồng thì phải tín hành xữ lý ( thu hồi vốn trước hạn của khách hàng để hạn chế rủi ro cho Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa) Ø Thủ Quỹ: Thủ quỹ có trách nhiệm thu chi tiền mặt trong các nghiệp vụ phát sinh. Khi thu, chi phải cẩn thận, chính xác và tuân thủ các nguyên tắc về quỹ tiền mặt, phải sắp xếp tiền theo thứ tự, theo đúng chuẩn loại của nó, phải lưu trữ, băng bó, đóng cây đúng theo quy định và cuối ngày phải tổng kết để khóa sổ, bắt buộc phải cất giữ tiền mặt vào két sắt ngay sau khi khóa sổ. Thủ quỹ chỉ nhập kho, xuất kho khi hội đủ các chữ ký của Ban Giám Đốc trên chứng từ hợp lệ, nếu thực hiện sai dẫn đến thất thoát tiền mặt tại quỹ thì phải chịu trách nhiệm bồi thường. Thủ quỹ là một trong ba người được giữ chìa khóa để mở kho quỹ, dù vậy khi xuất nhập quỹ tiền mặt thì phải có mặt hai người còn lại có trách nhiệm giữ chìa khóa để cùng mở kho quỹ ( Giám Đốc, Kế Toán Và Thủ Quỹ). Ngoài ra thủ quỹ còn làm ở bộ phận thu ngân có nhiệm vụ giải ngân cho khách hàng khi đã thực hiện đầy đủ các thủ tục vay vốn và trã lương cho các nhân viên, đồng thời cũng thu các khoản tiền gửi, tiền lãi mà khách hàng đến gửi hay đóng lãi. Bộ phận này cần phải kiểm tra xem xét một cách nhanh chống và chính xác, tránh tình trạng để khách hàng đợi quá lâu, làm hài lòng khách hàng khi đến giao dịch, không để xảy ra một tình trạng thất thoát tài sản của Quỹ Tín Dụng, cũng như của khách hàng khi đến giao dịch. Ø Phòng Hành Chánh: Trong quá trình hoạt động của Quỹ Tín Dụng có nhiều phát sinh như: thuế, thư giao dịch từ các đối tác, những thông tư nghị định, thư mời của Ủy Ban các cấp… đều thông qua phòng hành chánh ký xác nhận. Bộ phận này có nhiệm vụ tiếp nhận thư, chuyển fax, soạn thảo văn bản, thư mời và các kiến nghị… đồng thời bộ phận này cũng có trách nhiệm lưu trữ các hồ sơ, chứng từ và nghị quyết ban hành của chính phủ hay của Ngân Hàng Nhà Nước cho Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa. Ø Phòng Giao Dịch Quỹ Tín Dụng MỸ Hòa Chi Nhánh Long Xuyên: Chi nhánh này có nhiệm vụ riêng lẽ là huy động tiên gửi cho Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa, không có dịch vụ cho vay nên không có Cán Bộ Tín Dụng. Chỉ những khách hàng có nhu cầu gửi tiền tại Quỹ Tín Dụng thì trực tiếp đến điểm giao dịch này. Cuối ngày kết toán có nhiệm vụ tổng kết, sắp xếp tiền theo thứ tự đóng thành cây, chuyển về trụ sở chính để kế toán ở đây làm thủ tục nhập kho. Ø Phòng Giao Dịch Quỹ Tín Dụng MỸ Hòa Chi Nhánh Bình Hòa: Đây là phòng giao dịch có chức năng như một trụ sở chính, đảm bảo việc cho vay đối với khách hàng ở địa bàn lân cận. Do nhu cầu khách hàng vay càng nhiều nhưng không có điều kiện đến trụ sở chính do ở quá xa. Để thuận tiện cho việc đi lại của khách hàng đồng thời giảm được chi phí.Chính vì vậy mà chi nhánh Bình Hòa được thành lập nhằm tạo điều kiện mở rộng địa bàn hoạt động của Quỹ Tín Dụng góp phần nâng cao doanh số cho vay để trở thành một trong những Quỹ Tín Dụng có quy mô hoạt động lớn trong địa bàn tỷnh An Giang được Ủy Ban Nhân Dân tirnh công nhận và cấp phép hoạt động. Giám Đốc Phó Giám Đốc Trưởng Cụm Phát Vay Số 1 Trưởng Phòng Tín Dụng Hoạt Động: 8 Địa Bàn Trưởng Phòng Kế Tóan Trưởng Phòng Kho Quỹ Trưởng Phòng Hành Chánh Trưởng Phòng Giao Dịch Số 1 Trưởng Phòng Giao Dịch Số 2 Tổ Trưởng Tổ Chuyển Tiền Điện Tử Trưởng Cụm Phát Vay Số 1 Hoạt Động: 8 Địa Bàn Hình 1.2.3: Sơ Đồ Tổ Chức Của Ban Điều Hành Quỹ Tín Dụng Mỹ Hòa 1.3/ Vai trò của Quỹ Tín Dụng Mỹ Hoà Trong nền kinh tế hàng hóa các loại hình kinh tế không thể tiến hành sản xuất kinh doanh nếu không có vốn. Nước ta hiện nay thiếu vốn là hiện tượng thường xuyên xảy ra đối với các đơn vị kinh tế, không chỉ riêng đối với hộ sản xuất. Vì vậy, vốn tín dụng đóng vai trò hết sức quan trọng, nó trở thành bước đệm trong quá trinh phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Nhờ có vốn tín dụng các đơn vị kinh tế không những đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh bình thường mà còn mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật mới đảm bảo thắng lợi trong cạnh tranh. Riêng đối với hộ sản xuất, Quỹ Tín Dụng có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế cá nhân, gia đình và hộ sản xuất. - Quỹ Tín Dụng đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất để duy trì quá trình sản xuất liên tục, góp phần đầu tư phát triển kinh tế. Với đặc trưng sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất cùng với sự chuyên môn hóa sản xuất trong xã hội ngày càng cao, đã dẫn đến tình trạng các hộ sản xuất khi chưa thu hoạch sản phẩm, chưa có hàng hóa để bán thì chưa có thu nhập, nhưng trong khi đó họ vẫn cần tiền để trang trãi cho các khoản chi phí sản xuất, mua sắm đổi mới trang thiết bị và rất nhiều khoản chi phí khác. Những lúc đó các hộ sản xuất cần sự trợ giúp của Quỹ Tín Dụng để có đủ vốn để duy trì sản xuất liên tục. Nhờ có sự hỗ trợ về vốn, các hộ sản xuất có thể sử dụng có hiệu quả các nguồn lực sẵn có khác như lao động, tài nguyên để tạo ra sản phẩm cho xã hội, thúc đẩy việc sắp xếp, tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Từ đó nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần cho con người. Như vậy, có thể khẳng định rằng Quỹ Tín Dụng có vai trò rất quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất ở An Giang trong giai đoạn hiện nay. - Quỹ Tín Dụng góp phần thúc đẩy quá trình tập trung nguồn vốn và tập trung sản xuất. Trong cơ chế thị trường, vai trò tập trung vốn, tập trung sản xuất Quỹ Tín Dụng đã thực hiện ở mức độ cao hơn hẳn với cơ chế bao cấp cũ. Bằng cách tập trung vốn vào kinh doanh giúp cho các hộ có điều kiện để mở rộng sản xuất, làm cho sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn, thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế tỷnh và đồng thời Quỹ Tín Dụng cũng đảm bảo hạn chế được rủi ro tín dụng. Thực hiện tốt chức năng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, Quỹ Tín Dụng quan tâm đến nguồn vốn đã huy động được để cho hộ sản xuất vay. Vì vậy, Quỹ Tín Dụng sẽ thúc đẩy các hộ sử dụng vốn tín dụng có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay vốn, tiết kiệm vốn cho sản xuất và lưu thông. Trên cơ sở đó hộ sản xuất biết phải tập trung vốn như thế nào để sản xuất góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn. - Quỹ Tín Dụng tạo điiều kiện phát huy các ngành nghề mới và giải quyết việc làm cho người lao động. Việt Nam là một nước nhiều làng nghề truyền thống, nhưng chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức. Trong điều kiện hiện nay, bên cạnh sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa chúng ta cũng phải quan tâm đến ngành nghề truyền thống có khả năng đạt hiệu quả kinh tế, đặc biệt trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Phát huy được làng nghề truyền thống cũng chính là phát huy được nội lực của kinh tế hộ và Quỹ Tín Dụng sẽ là công cụ tài trợ cho các ngành nghề mới thu hút, giải quyết việc làm cho người lao động. Từ đó góp phần làm phát triển toàn diện nông nghiệp và ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông và thủy sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ ở cả thành thị và nông thôn, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại. Do đó, Quỹ tín Dụng là đòn bẩy kinh tế kích thích các ngành nghề kinh tế trong hộ sản xuất phát triển, tạo tiền đề để lôi cuốn các ngành nghhef này phát triển một cách nhịp nhàng và đồng bộ. - Quỹ Tín Dụng không những có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn có vai trò to lớn về mặt xã hội. Thông qua việc cho vay mở rộng sản xuất đối với các hộ sản xuất đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Đó là một trong những vấn đề cấp bách hiện nay ở tỷnh và nước ta. Có việc làm, người lao động có thu nhập sẽ hạn chế được những tiêu cực xã hội. Quỹ Tín Dụng thúc đẩy các ngành nghề phát triển, giải quyết việc làm cho lao động thừa ở nông thôn, hạn chế những luốn di dân vào thành phố. Thực hiện được vấn đề nay là do các ngành nghề phát triển sẽ làm tăng thu nhập cho nông dân, đời sống văn hóa, kinh tế, xã hội tăng lên, khoản cách giữa nông thôn và thành thị càng xích lại gần nhau hơn, hạn chế bớt sự phân hóa bất hợp lý trong xã hội, giữ vững an ninh chính trị xã hội. Ngoài ra Quỹ Tín Dụng góp phần thực hiện tốt các chính sách đổi mới của Đảng và Nhà Nước, điển hình là chính sách xóa đói giảm nghèo. Quỹ Tín Dụng thúc đẩy các hộ sản xuất phát triển nhanh làm thay đổi bộ mặt nông thôn, các hộ nghèo trở nên khá hơn, các hộ khá trở nên giàu hơn. Chính vì lẽ đó các tệ nạn xã hội dần dần được xóa bỏ như: Rượu chè, cờ bạc, mê tín dị đoan… nâng cao trình độ dân trí, trình độ chuyên môn của lực lượng lao động. Qua đó, chúng ta thấy được vai trò của Quỹ Tín Dụng trong việc cũng cố lòng tin của nông dân nói chung và của hộ sản xuất nói riêng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước. Tóm lại: Quỹ tín Dụng đã đáp ứng nhu cầu vốn cho kinh tế hộ mở rộng sản xuất, kinh doanh, mở rộng thêm ngành nghề. Khai thác các tiềm năng về lao động, đất đai, mặt nước và các nguồn lực vào sản xuất. Tăng sản phẩm cho xã hội, tăng thu nhập cho hộ sản xuất. Tạo điều kiện cho kinh tế hộ sản xuất tiếp cận và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh, tiếp cận với cơ chế thị trường và từng bước điều tiết sản xuất phù hợp vói tín hiệu thị trường. Thúc đẩy kinh tế hộ sản xuất chuyển từ sản xuất tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hóa, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Thúc đẩy các hộ gia đình tính toán, hạch toán trong sản xuất kinh doanh, tính toán lựa chọn đối tượng đầu tư để đạt được hiệu quả cao nhất. Tạo nhiều việc làm cho người lao động. Hạn chế tình trạng cho vay nặng lãi trong nông thôn, hạn chế tình trạng bán lúa non… Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tăng tính hàng hóa của sản phẩm nông nghiệp trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Quỹ Tín Dụng thực hiện mở rộng đầu tư kinh tế hộ gia đình, thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà Nước về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước. Tuy nhiên, trong hoạt động thực tiễn cho vay cho thấy cơ chế hiện nay vẫn còn nhiều bất cập như quy định về thế chấp, cầm cố, bảo lãnh vay vốn, cách xử lý tài sản thế chấp giải quyết như thế nào ? Đầu mối với các ngành ra sao ? Sự không đồng bộ ở các văn bản dưới luật đã làm cho các hoạt động Quỹ Tín Dụng vẫn còn khó khăn, chưa mở ra được, việc cho vay tín chấp người vay không trả được thì các tổ chức đoàn thể chịu đén đâu ? Thực tế họ chỉ chịu trách nhiệm còn rủi ro, tổn thất vẫn là Quỹ Tín Dụng phải chịu. Nếu không có những biện pháp để tháo gỡ thì Quỹ Tín Dụng không thể mở rộng đầu tư vốn và nâng cao hiệu quả việc cho vay phát triễn kinh tế hộ. 1.4/ Tình hình hoạt động của QTD Mỹ Hoà và những thuận lợi khó khăn trong quá trình hoạt động 1.4.1/ Tình hình hoạt động giai đoạn 2007-2009 Trong 3 năm qua, hoạt động kinh doanh của Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa đã liên tục phát triển về quy mô, vốn điều lệ, mạng lưới, tổ chức hoạt động đảm bảo an toàn, kết quả kinh doanh luôn có lãi ngay cả khi nền kinh tế trong tình trạng lạm phát cao và khủng hoản kinh tế toàn cầu nên đã tạo được lòng tín cho người dân vay vốn trên địa bàn. Kết quả hoạt động kinh doanh của Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa được thể hiện tóm tắt trên bảng số liệu sau:năm qua, hoạt động kinh doanh của Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa đãc đơn vị kinh tế, không chỉ riêng đối với hộ sản xuất. Bảng1.4.1: Bảng kết quả hoạt động kinh doanh tại QTD ĐVT: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Chênh lệch 2008/2007 2009/2008 Tuyệt đối Tương đối (%) Tuyệt đối Tương đối (%) Tổng thu nhập 17.064 29.548 33.680 12.484 73,16 4.132 13,98 Tổng chi phí 14.246 28.045 32.108 13.799 96,86 4.063 14,49 Lợi nhuận trước thuế 2.818 1.503 1.572 -1.315 -46,66 69 6,55 Thuế 789 421 393 - - - - Lợi nhuận sau thuế 2.029 1.082 1.179 -947 -46,67 97 8,96 ( Nguồn: Phòng kế toán QTD Mỹ Hòa ) Biểu đồ 1.4.1: Kết quả hoạt động kinh doanh Tổng thu nhập: Tổng thu nhập Quỹ Tín Dụng qua 3 năm từ 2007 đến 2009 tăng từ 17.064 lên 33.680 triệu đồng. Trong đó tăng mạnh nhất là vào giai đoạn 2007 – 2008 số tiền tăng lên là 12.484 triệu đồng, tương đương với tỷ lệ 73,16%. Nguyên nhân làm cho giai đoạn này tăng mạnh là do vào năm 2008 giá lúa gạo tăng mạnh nên người nông dân trả tiền trước hạn các khoản vay từ năm 2007 từ những người buôn lúa cũng hưởng lợi từ nông dân nên tất cả những khoản vay vào năm 2008 đều được trả từ sớm đến đúng hạn. Đến năm 2009 thì tổng thu nhập tăng nhéo cới 2008 số tiền la 4.132 triệu đồng, tương đương với tỷ lệ 13,98%. Nguyên nhân do vào khoản giữa năm 2008 nền kinh tế nước ta bị lạm phát cao. Về phía chính phủ thì đưa ra chính sách thắt chặt tiền tệ nên làm lãi suất cho vay và huy động đều tăng cao. Về người dân thì tâm lý khi thấy giá cả hàng hóa và lãi suất đều tăng nên họ rất e dè trong việc vay vốn. Chính điều này đã làm cho tổng thu nhập của giai đoạn năm 2008 – 2009 giảm đáng kể so với giai đoạn 2007 – 2008. Tổng chi phí: Cùng với sự tăng lên của thu nhập thì chi phí cũng tăng đáng kể, tăng hơn 2 lần từ năm 2007 – 2009. Bên cạnh sự tăng mạnh của thu nhập vào giai đoạn 2007 – 2008 thì chi phí vào giai đoạn này cũng tăng mạnh số tiền 13.799 triệu đồng tăng 96,86%. Do năm 2008 lạm phát tăng mạnh nên làm cho tất cả các chi phí tăng theo, đặc biệt là chi phí huy động vốn. Vì không muốn đồng tiền mất giá nên người thì giữ giá trị tiền tệ bằng cách mua vàng, người thì gởi tiền vào các tổ chức tín dụng và một phần do sự cạnh tranh lãi suất để giữ chân khách hàng cũ và thu hút khách hàng mới nên làm cho chi phí huy động vốn tăng mạnh. Đến năm 2009 lạm phát đã được chính phủ đưa ra nhiều biện pháp kềm chế nên đa phần các chi phí đã được giảm đáng kể nhưng chi phí vẫn tăng nhẹ so với năm 2008 số tiền 4.063 triệu đồng tăng khoản 14,49%. Vì ngoài sự tăng trưởng của huy động vốn làm chi phí tăng thì vào năm 2009 giá xăng dầu tăng mạnh đáng kể từ trước tới nay làm chi phí đi lại trong Quỹ Tín Dụng tăng. Dù chi phí tăng nhưng Quỹ Tín Dụng văn đảm bảo được lợi nhuận qua các năm. Chứng tỏ sự hoạt động của Quỹ Tín Dụng có hiệu quả và Quỹ Tín Dụng vẫn không ngừng nổ lực phát huy nguồn vốn huy động và mở rộng quy mô hoạt động của mình nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu khách hàng. Lợi nhuận Nhìn chung lợi nhuận trước thuế và sau thuế của Quỹ Tín Dụng giảm trong giai đoạn 2007 – 2009. Năm 2008, lợi Nhuận trước thuế giảm 1.315 triệu đồng, tỷ lệ là 46,66% so với năm 2007 nên kéo theo lợi nhuận sau thuế cũng giảm với tỷ lệ tương ứng khoản 46,47% và số tiền giảm của lợi nhuận sau thuế là 947 triệu đồng. Sự giảm mạnh của lợi nhuận là do tình hình chung của nền kinh tế chịu ảnh hưởng của lạm phát và khủng hoảng kinh tế toàn cầu làm cho các khoản chi phí tăng mạnh. Mặt khác, tỷ lệ tăng trưởng của thu nhập chỉ đạt 73,16% trong khi tỷ lệ tăn g của chi phí là 96,86%, sự chênh lệch giữa 2 tỷ lệ này quá lớn làm cho lợi nhuận trước thuế và lợi nhuận sau thuế của năm 2008 giảm. Nhưng sang năm 2009 tình hình đã được cải thiện, lợi nhuận trước thuế và lợi nhuận sau thuế đều tăng năm 2008 vì lạm phát giảm và hầu như đa phần các thành phần kinh tế đều bắt đầu thích ứng sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nên đã bắt đầu vực dậy sau những ngày thảm hại của nền kinh tế và Quỹ Tín Dụng cũng không ngoại lệ. Cụ thể, lợi nhuận trước thuế tăng 69 triệu đồng tương ứng với 6,55%, lợi nhuận sau thuế tăng 176 triệu đồng vơi tỷ lệ tăng 16,23% so với năm 2008. Sự không đồng đều giữa hai chỉ tiêu này là do vào đầu năm 2009 chính phủ đã thay đổi mức thuế thu nhập đối với Quỹ Tín Dụng Mỹ Hòa là 25% thay vì 28% vì vậy chi phí thuế 2009 giảm làm cho tỷ lệ tăng của lợi nhuận sau thuế cao hơn lợi nhuận trước thuế. Qua việc phân tích bảng kết quả kinh doanh của Quỹ Tín Dụng cho thấy hoạt động của Quỹ Tín Dụng đã đạt hiệu quả ngay trong giai đoạn nền kinh tế gặp nhiều biến cố vì trong giai đoạn này đã có không ít doanh nghiệp phá sản và giải thể vì không thể vượt qua sự biến động khốc liệt của nền kinh tế. Sự thành công này là do nỗ lực của tập thể Cán bộ công nhân viên của Quỹ Tín Dụng và do Quỹ Tín Dụng Mỹ Hòa đã có một chiến lược kinh doanh đúng đắn. Vì vậy, mặc dù tác động của môi trường kinh doanh không được thuận lợi do tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn chưa thực sự ổn định, do sự cạnh tranh gay gắt của nhiều Ngân Hàng và Quỹ Tín Dụng trên địa bàn nhưng nó là đòn bẩy kích thích cán bộ công nhân viên trong quá trình làm việc bởi làm việc trong môi trường có cạnh tranh thì mới có thể phát huy được những mặt mạnh cũng như là khắc phục được những mặt yếu. Hoạt động kinh doanh có lãi thì đời sống cán bộ công nhân viên mới được cải thiện, có điều kiện trang bị cơ sở vật chất, mở rộng quy mô hoạt động của Quỹ Tín Dụng và đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. 1.4.2/ Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động ¯ Thuận lợi - Luôn được sự giúp đỡ thường xuyên của về nghiệp vụ của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam chi nhánh Ang Giang. Sự hỗ trợ nhiệt tình của liên minh hợp tác xã An Giang, sự quan tâm của Đảng ủy và Ủy ban nhân dân phường Mỹ Hòa. - Vào năm 2007, nghiệp vụ đầu tư cho phát triển nông nghiệp chiếm tỷ lệ trên 85% trong năm 2007 và đến hiện nay tỷ lệ này vẫn trên 80%, vật nuôi, cây trồng trong những năm gần đây được mùa được giá nhất là đối với lúa nên thu nợ rất thuận lợi. - Nền kinh tế cả nước và địa phương tiếp tục tăng trưởng trên cơ sở mối quan hệ kinh tế quốc tế được củng cố và phát triển. Tại địa phương, tốc độ tăng trưởng GDP từ 9,0% đến 13,8%. - Ngoài ra Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa còn là một Quỹ Tín Dụng lớn trên địa bàn Thành Phố Long Xuyên nhằm hỗ trợ vào chính sách kinh tế - xã hội nên Quỹ Tín Dụng có nhiều khách hàng có uy tín. Như vậy uy tín và nguồn lực của Quỹ Tín Dụng Mỹ Hòa lớn mạnh là yếu tố quyết định sự ổn định và ngày càng tăng trưởng trong nguồn vốn huy động của Quỹ Tín Dụng. - Cùng với sựu nhạy bén của lãnh đạo Quỹ Tín Dụng, nên trải qua nhiều năm hoạt động Quỹ Tín Dụng đã trở thành một trong những Quỹ Tín Dụng có quy mô lớn nhất nước và luôn hoàn thành tốt những nhiệm vụ của Ngân Hàng Nhà Nước. - Với mặt bằng trụ sở hiện tại, rất thuận lợi cho khách hàng đến giao dịch. Trụ sở của Quỹ Tín Dụng đặt gần Thành Phố Long Xuyên và là nơi tiếp giáp với nông thôn nên tiện giao dịch với bà con nông dân. - Môi trường kinh tế, chính trị, xã hội ổn định và phát triển, nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao, cân đối trong tăng trưởng và hài hòa các mối quan hệ xã hội làm cho thu nhập của người dân ngày càng cao, có nhiều tiềm năng để huy động vốn và doanh số cho vay tăng. Do đó khách hàng gửi tiền và thành viên vay vốn khá ổn định và phát triển hàng năm. - Quỹ Tín Dụng có một đội ngũ cán bộ công nhân viên nhiệt tình, phục vụ vui vẻ với khách hàng, có sự kết hợp chặt chẽ với các phòng ban và đoàn kết trong nội bộ cơ quan. Những thuận lợi trên đã góp phần không nhỏ trong hoạt động của Quỹ Tín Dụng, giúp Quỹ Tín Dụng hoạt động có hiệu quả và đứng vững trên thị trường trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi đó thì còn có những khó khăn ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của Quỹ Tín Dụng. ¯ Khó khăn - Với xu thế mở cửa trong hoạt động Ngân Hàng, hiện nay Quỹ Tín Dụng Mỹ Hòa đang nằm trong thế cạnh tranh gay gắt với nhiều Ngân Hàng và Quỹ Tín Dụng đóng trên địa bàn tỉnh như: Ngân Hàng Nhà nước và Phát Triển Nông Thôn tỉnh An Giang, Ngân Hàng Sài Gòn thương tín, và một số Quỹ Tín Dụng như: Mỹ Bình, Mỹ Phước… đặt trên địa bàn dày đặc, do đó xuất hiện nhiều Ngân Hàng và Quỹ Tín Dụng nên đã đặt Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa vào thế cạnh tranh gay gắt. - Nhu cầu vay vốn của khách hàng rất cao nhưng khách hàng không đủ tài sản thế chấp, không có tài sản thế chấp hoặc tài sản thế chấp không hợp pháp, hợp lệ do đó đã hạn chế việc cho vay của Quỹ Tín Dụng Mỹ Hòa. - Chính sách và thuế áp dụng cho loại hình kinh tế hợp tác của hệ thống Quỹ Tín Dụng Nhân Dân còn cao ( 20% ), chưa thực sự khuyến khích. - Về chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ nhân viên còn nhiều hạn chế, một số cán bộ Quỹ Tín Dụng chưa đáp ứng kịp yêu cầu đổi mới cần phải phấn đấu rèn luyện nhiều hơn thì mới đáp ứng được yêu cầu công việc trong thời gian tới. - Tình trạng quá tải công việc đối với cán bộ tín dụng nói riêng và cán bộ công nhân viên Quỹ Tín Dụng nói chung. - Thị trường thủy sản và nông sản còn nhiều bấp bênh, không ổn định và không kích thích đầu tư sản xuất, kinh doanh không phát triển kéo theo mở rộng đầu tư tín dụng của Quỹ Tín Dụng còn gặp nhiều khó khăn. - Trình độ dân trí không cao nên gây nhiều trở ngại trong quan hệ tín dụng, ý thức chấp hành pháp luật của người dân chưa cao dẫn đến việc xữ lý các món nợ quá hạn của Quỹ Tín Dụng bị hạn chế, kém hiệu quả. - Địa bàn hoạt động của Quỹ Tín Dụng tương đối rộng nhưng bình quân số tiền trên món vay nhỏ làm phát sinh nhiều món vay. Quản lý hết cán món vay đã là khó khăn, chi phí kiểm tra, thẩm định lại cao làm cho lợi nhuận bị giảm. - Lũ lụt, dịch bệnh… thường xuyên xảy ra làm ảnh hưởng đến mùa màng. Bên cạnh đó, một số hộ nghèo còn hạn chế trong tính toán làm ăn, giá cả thủy sản và nông sản thay đổi thất thường gây bất lợi cho người sản xuất, ảnh hưởng đến công tác thu nợ vay. Mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng với sự nổ lực của Quỹ Tín Dụng cùng với kinh nghiệm tích lũy qua nhiều năm hoạt động, Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa luôn tìm được chổ đứng cho mình trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng. 1.5/ Định hướng hoạt động trong năm 2010 Căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn Tỉnh, đời sống của người dân và nhu cầu sử dụng vốn của người dân tăng. Cùng với những kết quả đã đạt được trong năm 2009 và nhận thấy được những cơ hội để mở rộng quy mô hoạt động nên bước sang năm 2010, Ban lãnh đạo Qũy tín dụng đã đề ra mục tiêu phấn đấu chủ yếu về hoạt động kinh doanh và tài chính như sau: ¯Mục tiêu đề ra: - Vốn huy động đến 31/12/2010 là 200 tỷ đồng với tốc độ tăng 13% so với năm 2009. - Tổng dư nợ đến 31/12/2010 là 225 tỷ tăng 14% so với đầu năm. + Tỷ lệ nợ cho vay ngắn hạn đạt 95% tổng dư nợ. + Tỷ lệ nợ quá hạn dưới 1% (trong đó nợ xấu là 0%). - Thực hiện đầy đủ các chính sách đối với người lao động theo quy định của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam. ¯ Biện pháp thực hiện: - Vốn huy động: Mục tiêu của QTD là đi vay để cho vay, do đó Ban Giám Đốc chú trọng đến huy động vốn trong dân cư bởi vì cùng với sự phát triển của kinh tế đất nước, đời sống của người dân trên địa bàn tỉnh dần dần được nâng cao hơn, thu nhập cũng được cải thiện đáng kể và người dân có xu hướng gửi tiền vào Quỹ tín dụng nhiều hơn (Lãi suất huy động của QTD luôn cao hơn lãi suất huy động của ngân hàng khoảng 0.35%)(1). Vì vậy mà Quỹ tín dụng đã đề ra các biện pháp để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư: + Chú trọng đúng mức đến công tác quảng cáo, quảng bá thương hiệu Quỹ tín dụng Mỹ Hòa: cho tuyên truyền quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng về chính sách ưu đãi lãi suất và khuyến mãi của QTD. + Từng cán bộ công nhân viên qua mối quan hệ thân nhân, bạn bè, gia đình của mình có nguồn vốn nhàn rỗi để tạo cơ hội tiếp cận huy động vốn + Hàng tháng, hàng quý, QTD có chỉ tiêu khoán số tiền huy động vốn cụ thể từ Ban lãnh đạo và đến từng Cán bộ công nhân viên để thực hiện trong tháng, trong quý đó. + Phấn đấu trong năm 2010, tiền gửi không kỳ hạn phải tăng lên 20% - 25% so với năm 2009. ( 1) Theo Văn kiện ĐHTV năm 2009 tại QTD Mỹ Hòa - Đầu tư tín dụng: Tiếp tục giữ vững và phát triển vững chắc thị trường, thị phần đầu tư tín dụng. Trong đó đặc biệt cần chú trọng đến việc phân tích thị trường nhằm khai thác có hiệu quả thị trường lành mạnh, giảm dần thị trường kém hiệu quả. Nâng cao chất lượng tín dụng thông qua việc thực hiện một số biện pháp như: + Thực hiện nghiêm túc các văn bản của Chính phủ, ngành, bộ ngành có liên quan, của Quỹ Tín Dụng Trung Ương Việt Nam và các văn bản chỉ đạo của Ngân Hàng Nhà Nước về công tác đầu tư tín dụng. Đặc biệt là thực hiện nghiêm ngặt quy trình tín dụng, công tác thẩm định trước khi cho vay, áp dụng chặt chẽ cơ chế đảm bảo tiền vay. + Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nghiêm ngặt đối với các món vay, theo dõi sát sao tình hình sử dụng vốn vay, trả nợ. Đồng thời tất cả các món vay đều nằm trong tầm kiểm soát của Quỹ tín dụng và của từng Cán bộ tín dụng. + Thu hồi tốt nợ đến hạn, quá hạn, kiên quyết không để phát sinh nợ khó đòi, rủi ro tái diễn nhất là nguyên nhân chủ quan của Quỹ tín dụng và khách hàng vay vốn. + Phải chủ động trong việc phấn tích nợ nhất là nợ có gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, nợ đã quá hạn để có biện pháp xử lý thu hồi thích hợp đồng thời cũng chú trọng đến công tác thu hồi nợ đã xử lý rủi ro, bởi vì khi thu nợ rủi ro thì toàn bộ được hạch toán vào thu nhập của Qũy Tín Dụng. + Theo dõi, nắm vững tình hình quy hoạch kinh tế xã hội từng vùng, từng khu vực của tỉnh mà có hướng đầu tư phù hợp, vừa mở rộng tín dụng vừa tạo điều kiện phát triển kinh tế đời sống cho người dân, an toàn vốn. - Về phong cách làm việc: + Từng bước cải cách nề nếp, phong cách phục vụ đối với cán bộ làm kế toán, kho quỹ tại chỗ và công tác kiểm ngân cho phù hợp với nhu cầu cần thiết của khách hàng, tạo ra bộ mặt tiếp xúc khách hàng ngày càng hoàn thiện hơn. + Xây dựng phong cách giao dịch văn minh lịch sự, hòa nhã với khách hàng và trong nội bộ cơ quan. + Thực hiện tốt nếp sống văn minh nơi cơ quan và ở địa phương. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI QUỸ TÍN DỤNG MỸ HOÀ –¶— 2.1/ Cơ sở lý luận về huy động vốn 2.1.1/ Khái niêm vốn huy động Vốn huy động là tài sản bằng tiền của các tổ chức và cá nhân mà ngân hàng đang tạm thời quản lý và sử dụng với trách nhiệm hoàn trả. Vốn huy động còn được gọi là tài sản nợ ngân hàng. Bộ phận nguồn vốn này chiếm tỷ trọng lớn và chủ yếu nhất trong cơ cấu nguồn vốn của bất kỳ một Ngân Hàng Thương Mại và Quỹ Tín Dụng nào. Vốn huy động của Qũy Tín Dụng là những giá trị tiền tệ do Quỹ Tín Dụng huy động được từ các thành viên, các tổ chức và cá nhân trong và ngoài địa bàn hoạt động thông qua hình thức nhận tiền gửi. Xét về cơ cấu, vốn huy động Quỹ Tín Dụng là loại vốn chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng số vốn của Quỹ Tín Dụng, nó đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh doanh của Quỹ Tín Dụng đặt biệt là hoạt động tín dụng. Đồng thời nó cũng là yếu tố tài chính quyết định quy mô hoạt động, kinh doanh cũng như quyết định thành quả hoạt động của Quỹ Tín Dụng. 2.1.2/ Đặc điểm của vốn huy động Đây là vốn không ổn định vì khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào, do đó các Qũy Tín Dụng cần phải duy trì một khoản dự trữ thanh khoản để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng, để đảm bảo an toàn cho hoạt động của Quỹ Tín Dụng, tránh sự sụt giảm đột ngột về nguồn vốn của Quỹ Tín Dụng. Đây là nguồn vốn có tính cạnh tranh mạnh. Các ngân hàng để thu hút khách hàng đến với mình không ngừng “ hoàn thiện “ khung lãi suất thật hấp dẫn nên nguồn vốn này có chi phí sử dụng vốn khá cao. Vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau trong xã hội ký gởi vào Quỹ Tín Dụng. Do vậy, nó thuộc quyền sở hữu của Quỹ Tín Dụng mà Quỹ Tín Dụng chỉ được sử dụng trong khoản thời gian nhất định. Đồng thời có trách nhiệm phải hoàn trả đầy đủ cả lãi và gốc đối với tiền gởi không kỳ hạn hoặc phải hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đối với tiền gửi có kỳ hạn khi đáo hạn. Vốn huy động mang tính chất biến động, không ổn định. Sự biến động này hoàn toàn phụ thuộc vào việc gửi tiền và rút tiền của khách hàng. Cho nên trong thực tế, trong công tác quản trị và điều hành Quỹ Tín Dụng không được phép sử dụng hết số vốn đã huy động vào kinh doanh mà phải dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo sẵn sàng khả năng thanh toán và chi trả tiền gửi cho khách hàng. Vì những đặt điểm trên mà Quỹ Tín Dụng ít khi sử dụng nguồn vốn này để đầu tư, chỉ được sử dụng trong các hoạt động tín dụng và bảo lãnh. 2.1.3/ Tầm quan trọng của nghiệp vụ huy động vốn 2.1.3.1/ Đối với Quỹ Tín Dụng Nghiệp vụ huy động vốn là một nghiệp vụ rất quan trọng, góp phần mang lại nguồn vốn cho Quỹ Tín Dụng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh. Không có nghiệm vụ huy động vốn xem như không có hoạt động của Quỹ Tín Dụng, Quỹ Tín Dụng sẽ không đủ nguồn vốn tài trợ cho mọi hoạt động của mình. Hay nói cách khác, thông qua hoạt động huy động vốn Quỹ Tín Dụng có thể đo lường được uy tín và sự tín nhiệm của khách hàng đối với Quỹ Tín Dụng. Từ đó, Quỹ Tín Dụng có những biện pháp không ngừng hoàn thiện mọi hoạt động của mình để giữ vững và mở rộng quan hệ với khách hàng. Có thể nói, nghiệp vụ huy động vốn góp phần giải quyết “ đầu vào “ của Quỹ Tín Dụng. 2.1.3.2/ Đối với khách hàng Nghiệp vụ huy động vốn cung cấp cho khách hàng một kênh tiết kiệm và đầu tư nhằm làm cho tiền của họ sinh lời, tạo cơ hội cho họ có thể gia tăng tiêu dùng trong tương lai. Nghiệp vụ huy động vốn còn cung cấp cho khách hàng một nơi an toàn để cất trữ và tích lũy nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi. Mặt khác, nghiệp vụ huy động vốn giúp cho khách hàng có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ khác của Quỹ Tín Dụng như dịch vụ tín dụng khi khách hàng cần vốn cho sản xuất, kinh doanh hoặc cần tiền cho tiêu dùng. Vì vậy nghiệp vụ huy động vốn có ý nghĩa rất lớn không chỉ với Quỹ Tín Dụng mà còn rất quan trọng với khách hàng. 2.2/ Thực trạng hoạt động huy động vốn tại QTDND Mỹ Hòa 2.2.1/ Các nguồn vốn của Quỹ Tín Dụng 2.2.1.1/ Vốn chủ sở hữu Về mặt kinh tế, vốn chủ sở hữu là vố riêng của Quỹ Tín Dụng do các chủ sở hữu đóng góp và nó còn được tạo ra trong quá trình kinh doanh dưới dạng lợi nhuận giữ lại. Vốn chủ sở hữu còn gọi là “vốn riêng”. Theo quy định của luật các tổ chức tín dụng 1998, vốn chủ sở hữu bao gồm phần giá trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và một số tài sản nợ khác của tổ chức tín dụng theo quy định của Ngân Hàng Nhà Nước. Theo quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/04/2005, và quyết định 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/01/2007 thì vốn chủ sở hữu bao gồm: - Vốn chủ sở hữu ( vốn cấp 1): Vốn điều lệ thực có (vốn đã được cấp, vốn đã góp), quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, lợi nhuận không chia. Đây là nguồn vốn tương đối ổn định. - Vốn chủ sở hữu bổ sung ( vốn cấp 2): Đây là nguồn vốn có tính ổn định thấp và phụ thuộc vào quy mô của nguồn vốn chủ sở hữu cơ bản, bao gồm phần giá trị tăng thêm của tài sản cố định và của các loại chứng khoán đầu tư được giá trị lại, trái phiếu chuyển đổi hoặc cổ phiếu ưu đãi do tổ chức tín dụng phát hành có thời hạn dài. 2.2.1.2/ Vốn huy động Vốn huy động của Qũy Tín Dụng là những giá trị tiền tệ do Qũy Tín Dụng huy động được từ các thành viên các tổ chức và cá nhân trong và ngoài địa bàn hoạt động thông qua hình thức nhận tiền gửi. 2.2.1.3/ Huy động vốn từ các tổ chức và từ NHTW Trong quá trình hoạt động kinh doanh của các ngân hàng, luôn tồn tại tình trạng tạm thời thừa hoặc thiếu vốn. Nếu trong tình trạng thừa vốn, các Quỹ Tín Dụng có thể gửi vào hoặc cho các Tổ Chức Tín Dụng khác vay để hưởng lãi. Ngược lại, nếu sau khi đã sử dụng hết nguồn vốn chủ sở hữu và vốn đi vay mà vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn của khách hàng hoặc nhu cầu thanh toán, chi, rút tiền của khách hàng, các Qũy Tín Dụng có thể đi vay ở Quỹ Tín Dụng Trung Ương, các Ngân Hàng Thương Mại, các Quỹ Tín dụng và các tổ chức tín dụng khác. Vốn đi vay chỉ nên chiếm một tỷ trọng có thể chấp nhận được trong kết cấu nguồn vốn, nhưng nó rất cần thiết và có vị trí rất quan trọng để đảm bảo cho ngân hàng hoạt động một cách bình thường. ¯ Vốn vay của các tổ chức tín dụng khác: Các Quỹ Tín Dụng và Ngân Hàng Thương Mại có thể vay và cho vay lẫn nhau thông qua thị trường liên ngân hàng (Interbank Market): đây là trường hợp các tổ chức tín dụng có lượng tiền gửi tại Ngân Hàng Nhà Nước thấp không đủ đáp ứng cho nhu cầu chi trả, khi đó dưới sự tổ chức của Ngân Hàng Nhà Nước, ngân hàng này sẽ được vay của một ngân hàng khác có lượng tiền gửi dư thừa tại Ngân Hàng Nhà Nước, vì khoản cho vay là một bộ phận của tiền gửi thanh toán nên thời gian vay thường chỉ là một ngày (vay qua đêm). Ngoài ra các ngân hàng có thể cho vay trực tiếp lẫn nhau không thông qua thị trường liên ngân hàng. Phương thức này rất linh hoạt giúp các Quỹ Tín Dụng, Ngân Hàng Thương Mại cân đối vốn một cách kịp thời. Nguyên tắc vay vốn từ các Tổ Chức Tín Dụng khác: - Các ngân hàng, tổ chức tín dụng phải hoạt động hợp pháp. - Thực hiện việc cho vay và đi vay theo hợp đồng tín dụng. - Vốn vay phải được đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của Ngân Hàng Trung Ương. ¯ Vốn vay của Ngân Hàng Trung Ương: Dù các Ngân Hàng Thương Mại và Quỹ Tín Dụng có thận trọng đến mấy trong việc cho vay thì cũng không thể tránh khỏi có lúc thiếu khả năng chi trả hoặc kẹt tiền mặt tạm thời, lúc đó Ngân Hàng Thương Mại và Quỹ Tín Dụng chính là cứu tinh của Ngân Hàng Thương Mại và Quỹ Tín Dụng, là nguồn vay sau cùng. Ngoài ra, Ngân Hàng Trung Ương còn cho Qũy Tín Dụng vay bổ sung vốn thanh toán bù trừ. Nhờ loại cho vay này mà hệ thống thanh toán bù trừ được thực hiện một cách thuận lợi và trôi chảy. Trong trường hợp đặt biệt, khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, Ngân Hàng Trung Ương còn cho vay đối với các Quỹ Tín Dụng tạm thời mất khả năng chi trả có nguy cơ gây mất an toàn cho toàn hệ thống. 2.2.1.4/ Các nguồn vốn khác Bên cạnh các nguồn vốn nêu trên, trong quá trình hoạt động của các Quỹ Tín Dụng còn có thể ạo lập vốn cho mình từ nhiều nguồn vốn khác: - Vốn chiếm dụng: ngân hàng sử dụng các loại tiền gửi nghĩa vụ của khách hàng trong quá trình tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt (như các khoản tiền khách hàng ký quỹ để bảo chi séc, mở thư tín dụng, bảo lãnh ngân hàng…) - Tiền đang chuyển: số vốn đã trích khỏi tài khoản của người trả nhưng chưa chuyển vào tài khoản của người thụ hưởng do phải xử lý chứng từ thanh toán. - Vốn ủy thác đầu tư, tài trợ của Chính phủ, của các tổ chức tài chính tiền tệ, các tổ chức đoàn thể - xã hội trong và ngoài nước tài trợ cho các chương trình dự án về phát triển kinh tế, xã hội, cải tạo môi trường… và được chuyển qua Quỹ Tín Dụng làm đại lý ủy thác thực hiện. - Các khoản phải trả mà chưa đến hạn trả, các khoản tiền tạm gửi theo quyết định của tòa án… những nghiệp vụ này cũng tạo thêm nguồn vốn của Quỹ Tín Dụng. Các nguồn vốn khác này của ngân hàng tuy không nhiều, thời gian sử dụng lại ngắn, nhưng điều đặt biệt là đối với nguồn vốn này, ngân hàng không những không phải tốn kém chi phí sử dụng vốn mà đôi khi còn nhận được phí từ việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng, đồng thời có điều kiện mở rộng nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng, làm cho hoạt động của Quỹ Tín Dụng càng đa dạng hơn. 2.2.1.5/ Tỷ lệ dư nợ trên vốn huy động Đây là chỉ tiêu phản ánh khả năng sử dụng vốn huy động của Quỹ Tín Dụng trong công tác cấp tín dụng, chỉ tiêu này thể hiện khả năng sử dụng vốn của Quỹ Tín Dụng có thực sự hiệu quả hay không, ta thấy tỷ lệ dư nợ trên vốn huy động của Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa biến động qua các năm. Bảng 2.2.1.5: Tỷ lệ dư nợ trên vốn huy động của QTD qua 3 năm ĐVT: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Chênh lệch 2008/2007 2009/2008 Dư nợ 138.147 162.618 196.750 24.471 34.132 Vốn huy động 100.941 160.254 176.279 59.313 16.025 DN/VHĐ (%) 136,86 101,48 111,61 -35,38 10,14 ( Nguồn: Báo cáo tổng kết tình hình hoạt động kinh doanh của QTD Mỹ Hòa ) Biểu đồ 2.2.1.6: Tỷ lệ dư nợ trên vốn huy động của QTD qua 3 năm Năm 2007 tỷ lệ dư nợ trên vốn huy động là 136,86%, tức là khoản 1,3 đồng dư nợ thì có 1 đồng vốn huy động đóng góp vào. Năm 2008 khả năng huy động vốn của Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa Cao hơn năm 2007, tỷ lệ này trong năm 2008 là 101,48% tức là cứ 1,01 đồng dư nợ thì có 1 đồng huy động vốn góp vào. Đến năm 2009 thì tỷ lệ này tăng lên 111,61%, tức là cứ 1,11 đồng dư nợ thì có 1 đồng huy động vốn góp vào. Mặc dù tốc độ tăng trưởng của dư nợ tăng khá nhanh qua các năm nhưng vẫn chậm hơn so với tốc độ tăng trưởng của vốn huy động, vì Quỹ Tín Dụng áp dụng một số hình thức huy động vốn như: tăng lãi suất, khuyến mãi, gửi tiền vào dịp lễ, tết sẽ có thưởng tạo điều kiện thuận lợi để thu hút khách hàng mới và giữ chân khách hàng cũ. Qua 3 năm 2007, 2008 và 2009 chỉ tiêu dư nợ trên vốn huy động không nhiều nhưng nhìn chung tỷ lệ này luôn lớn hơn 1 nên vốn huy động không đủ đá ứng nhu cầu cho vay nên Quỹ Tín Dụng phải sử dụng vốn tự có của mình. Việc sử dụng vốn tự có thể hiện khả năng tự chủ về tài chính nhưng sẽ không kích thích được khả năng thu hút nguồn vốn từ bên ngoài và sử dụng vốn sẽ không đa dạng. Vì vậy, để ổn định hoạt động, tạo hiệu quả cao trong công tác tín dụng, Quỹ Tín Dụng cần tập trung thu hút nguồn vốn huy động bằng nhiều hình thức đa dạng hơn. 2.2.2/ Các nghiệp vụ huy động vốn 2.2.2.1/ Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi ¯ Tiền gửi không kỳ hạn (còn gọi là tiền gửi thanh toán ) Với loại tiền này, khách hàng có thể gửi tiền vào và rút ra bất cứ lúc nào có nhu cầu. Mục đích chính của người gửi tiền nhằm đảm bảo an toàn về tài sản và thực hiện các khoản thanh toán qua ngân hàng nên còn được gọi là tiền gửi thanh toán. Tài khoản này mở cho các đối tượng khách hàng là cá nhân hoặc tổ chức có nhu cầu thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Để mở tài khoản tiền gửi thanh toán khách hàng cần làm các thủ tục sau: - Đối với khách hàng cá nhân chỉ cần điền vào mẫu giấy đề nghị mở tài khoản tiền gửi cá nhân, đăng ký chữ ký mẫu, xuất trình và nộp bản sao giấy chứng minh nhân dân. - Đối với khách hàng là tổ chức, chỉ cần điền vào mẫu giấy đề nghị mở tài khoản tiền gửi thanh toán, đăng ký mẫu chữ ký và con dấu của người đại diện, xuất trình và nộp bản sao các giấy tờ chứng minh tư cách pháp nhân của tổ chức, và các giấy tờ chứng minh tư cách đại diện hợp pháp của chủ tài khoản. - Đối với khách hàng là đồng chủ tài khoản cần điền và nộp giấy đề nghị mở tài khoản đồng sở hữu, các giấy tờ chứng minh tư cách đại diện hợp pháp của người đại diện cho tổ chức tham gia tài khoản đồng sở hữu, văn bản thỏa thuận quản lý và sử dụng tài khoản chung của các đồng chủ tài khoản. Theo thông lệ ở các nước phát triển, Qũy Tín Dụng không trả lãi cho khách hàng mở tài khoản tiền gửi không kỳ hạn vì mục đích của khách hàng khi sử dụng tài khoản này là để thực hiện thanh toán qua Quỹ Tín Dụng chứ không phải vì mục đích hưởng lãi. Hơn nữa Quỹ Tín Dụng còn yêu cầu khách hàng phải duy trì một số dư tối thiểu để được hưởng các dịch vụ của Quỹ Tín Dụng, nếu không có đủ số dư này thì khách hàng phải trả phí cho ngân hàng khi sử dụng các dịch vụ của Quỹ Tín Dụng. Ở Việt Nam, do thói quen thanh toán bằng tiền mặt và dân chúng chưa quen với việc sử dụng tài khoản để thanh toán nên để thu hút khách hàng, ngân hàng vẫn trả lãi đối với loại tiền gửi này, tuy nhiên mức lãi suất rất thấp (khoản 0,25% / tháng). Lãi tiền gửi thanh toán được tính định kỳ hàng tháng theo phương pháp tích số và lãi được nhập vào số dư có tài khoản tiền gửi của khách hàng. Để tăng nguồn tiền không kỳ hạn ngân hàng phải đa dạng hóa và thực hiện tốt các dịch vụ trung gian, thu hút nhiều khách hàng lớn. Với quy mô lớn, cơ cấu đa dạng, cơ chế hoán đổi thời gian đáo hạn của các khoản tiền gửi được thực hiện tốt sẽ làm cho mức dư tiền gửi bình quân tại ngân hàng luôn cao và ổn định, tạo điều kiện cho ngân hàng có thể sử dụng lượng tiền này để cho vay mà không ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của Quỹ Tín Dụng. ¯ Tiền gửi có kỳ hạn Các khoản tiền gửi có kỳ hạn được đặc trưng bằng chứng chỉ tiền gửi ghi rõ thời gian đáo hạn và số lượng. Khách hàng chỉ được rút ra sau một thời gian nhất định theo kỳ hạn đã được thỏa thuận khi gửi tiền. Tuy nhiên Quỹ Tín Dụng có thể giải quyết cho khách hàng rút trước thời hạn khi có yêu cầu, nhưng phải chuyển từ mức lãi suất tiền gửi có kỳ hạn sang áp dụng mức lãi suất không kỳ hạn. Đối với loại tiền gửi có kỳ hạn, mục đích của việc gửi tiền là lợi tức, không quan tâm tới việc tận dụng những tiện ích thanh toán do Qũy Tín Dụng cung cấp. Vì vậy để tăng tỷ lệ huy động vốn có kỳ hạn ngân hàng có thể sử dụng các công cụ lãi suất và các chính sách khuyến khích lợi ích vật chất khác như xổ số hoặc bốc thăm trúng thưởng… để tạo ra sự quan tâm thu hút khách hàng, đặc biệt với nhóm khách hàng là cá nhân. Với đặc tính ổn định của tiền gửi có kỳ hạn, Quỹ Tín Dụng có thể chủ động kế hoạch hóa việc sử dụng nguồn vốn, tìm kiếm những khoản đầu tư có thời gian hợp lý và thu lợi nhuận cao. ¯ Tiền gửi tiết kiệm ¶ Tiết kiệm không kỳ hạn : Sản phẩm tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn được thiết kế dành cho đối tượng khách hàng là cá nhân hoặc tổ chức, có tiền tạm thời nhàn rỗi muốn gửi vào các tổ chức tín dụng vì mục tiêu an toàn và sinh lợi, nhưng không thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền gửi trong tương lai. Đối với khách hàng khi lựa chọn hình thức tiền gửi này, thì mục tiêu an toàn và tiện lợi quan trọng hơn là mục tiêu sinh lợi. Đối với ngân hàng và Quỹ Tín Dụng, vì loại tiền gửi này khách hàng muốn rút bất cứ lúc nào cũng được nên phải đảm bảo tồn quỹ để chi trả và không chủ động được khi lên kế hoạch sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng. Do vậy, Quỹ Tín Dụng thường trả lãi suất rất thấp cho loại tiền gửi này. Đối với loại tiền gửi này, khách hàng có thể gửi tiền và rút tiền bất cứ lúc nào trong giờ giao dịch, mỗi lần giao dịch khách hàng phải xuất trình sổ tiền gửi và chỉ có thể thực hiện được các giao dịch ngân quỹ như gửi tiền hoặc rút tiền, không thể thực hiện được các giao dịch thanh toán như trong trường hợp tiền gửi thanh toán.Thủ tục mở sổ tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn rất đơn giản, khách hàng đến bất kỳ chi nhánh nào của Quỹ Tín Dụng điền vào mẫu giấy đề nghị gửi tiết kiệm không kỳ hạn có kèm theo giấy chứng minh nhân dân và chữ ký mẫu. Nhân viên sẽ hoàn tất thủ tục nhận tiền và cấp số tiền gửi ngay cho khách hàng. ¶ Tiết kiệm định kỳ : Tiền gửi tiết kiệm định kỳ được thiết kế dành cho khách hàng cá nhân và tổ chức có nhu cầu gửi tiền vì mục tiêu an toàn, sinh lợi và thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền trong tương lai. Đối tượng khách hàng chủ yếu của loại tiền gửi này lá các cá nhân muốn có thu nhập ổn định và thường xuyên, đáp ứng cho việc chi tiêu hàng tháng hoặc hàng quý. Đa số khách hàng thích lựa chọn hình thức gửi tiền này là công nhân, nhân viên hưu trí. Mục tiêu quan trọng của họ khi chọn lựa hình thức tiền gửi này là lợi tức có được theo định kỳ. Do vậy, lãi suất đóng vai trò quan trọng để thu hút được đối tượng khách hàng này. Dĩ nhiên, lãi suất trả cho loại tiền gửi tiết kiệm định kỳ cao hơn lãi suất trả cho loại tiền gửi không kỳ hạn. Ngoài ra, mức lãi suất còn thay đổi tùy theo loại kỳ hạn gửi (1, 2, 3, 6, 9 hay 12 tháng) và tùy theo loại đồng tiền gửi tiết kiệm (VNĐ, USD, EUR hay vàng) và còn tùy theo uy tín, rủi ro của Quỹ tín Dụng nhận tiền gửi. Về thủ tục mở sổ, theo dõi hoạt động và tính lãi cũng tiến hành tương tự như tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, chỉ khác ở chỗ khách hàng được rút tiền theo đúng kỳ hạn đã cam kết, không được phép rút tiền trước hạn. Tuy nhiên, để khuyến khích và thu hút khách hàng gửi tiền đôi khi Quỹ Tín Dụng cho phép được rút tiền gửi trước hạn nếu có nhu cầu, nhưng khi đó Quỹ Tín Dụng sẽ trả lãi cho khách hàng theo lãi suất tiền gửi không kỳ hạn. 2.2.2.2/ Huy động vốn qua phát hành giấy tờ có giá Giấy tờ có giá là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết giữa các tổ chức tín dụng và người mua. Một giấy tờ có giá thường kem theo các thuộc tính sau đây: - Mệnh giá: Là số tiền gốc được in sẵn hoặc ghi trên giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ hoặc ghi trên giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với các giấy tờ có giá phát hành theo hình thức ghi sổ. - Thời hạn giấy tờ có giá: Là khoảng thời gian từ ngày tổ chức tín dụng phát hành đến hết ngày thanh toán có ghi trong giấy tờ có giá. - Lãi suất được hưởng: Là suất áp dụng để tính lãi cho người mua giấy tờ có giá được hưởng. Giấy tờ có giá có thể phân thành nhiều loại khác nhau. Căn cứ vào quyền sở hữu có thể chia giấy tờ có giá thành giấy tờ có giá ghi danh và giấy tờ có giá vô danh. Giấy tờ có giá ghi danh là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ hoặc ghi sổ có tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh là giấy tờ phát hành theo hình thức chứng chỉ không ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh thuộc quyền sở hữu của người nắm giữ nó. Căn cứ vào thời hạn, giấy tờ có giá có thể chia thành hai loại, tương ứng với thời gian huy động vốn: giấy tờ có giá ngắn hạn và giấy tờ có giá dài hạn. ¯ Huy động vốn ngắn hạn: Để huy động vốn ngắn hạn, các tổ chức tín dụng có thể phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn. Giấy tờ có giá ngắn hạn là giấy tờ có giá có thời hạn dưới 12 tháng, bao gồm kỳ phiếu, chứng chỉ, tiền gửi ngắn hạn, tín phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Muốn phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn, tổ chức tín dụng phải lập hồ sơ đề nghị phát hành. Sau khi được cấp trên xem xét và phê duyệt đề nghị phát hành, tổ chức tín dụng sẽ ra thông báo phát hành. + Nội dung thông báo phát hành gồm có: Tên tổ chức phát hành. Tên gọi giấy tờ có giá (tín phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi,…) Tổng mệnh giá của đợt phát hành. Thời hạn của giấy tờ có giá. Ngày phát hành. Ngày đến hạn thanh toán. Lãi suất, phương thức trả lãi, thời điểm và địa điểm trả lãi. Phương thức hoàn trả và địa điểm trả tiền gốc của giấy tờ có giá. 2.3/ Tình hình nguồn vốn tại Quỹ Tín Dụng Mỹ Hòa 2.3.1/ Tinh hình nguồn vốn Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa là một tổ chức tín dụng cho vay chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, nên nguồn vốn được xem là một yếu tố quan trọng hàng đầu trong hoạt động kinh doanh của Quỹ Tín Dụng. Bảng 2.3.1: Tình hình nguồn vốn tại Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa giai đoạn 2007 – 2009 ĐVT: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 2008/2007 2009/2008 Số tiền % Số tiền % Vốn huy động 100.941 160.254 176.279 59.313 58,76 16.025 10,00 Vốn điều lệ 6.776 6.823 6.870 47 0,69 47 0,69 Nguồn vốn 107.717 167.077 183.149 59.360 55,11 16.072 9,62 ( Nguồn: Báo cáo tổng kết tình hình hoạt động kinh doanh của Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa giai đoạn 2007 – 2009 ) Biểu đồ 2.3.1: Tình hình nguồn vốn tại Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa giai đoạn 2007 – 2009 Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa đã rất nỗ lực sử dụng nhiều biện pháp khai thác các nguồn vốn nhàn rỗi từ các tổ chức và dân cư với nhiều hình thức huy động, mở rộng địa bàn để thu hút khách hàng mới và giữ chân khách hàng cũ, nhằm tạo được một nguồn vốn dồi dào đảm bảo cho quá trình hoạt động kinh doanh. Nhờ vào sự chỉ đạo và đưa ra các chính sách đúng đắn của Ban Giám Đốc nên tình hình nguồn vốn của Quỹ Tín Dụng qua các năm tăng. Năm 2007 nguồn vốn là 107.717 triệu đồng, đến năm 2008 thì nguồn vốn lên đến 167.077 triệu đồng, tăng 59.360 triệu đồng tương đương 55,11% so với năm 2007, với việc mở rộng địa bàn hoạt động, hình thức huy động ngày càng đa dạng nên năm 2009 nguồn vốn là 183.149 triệu đồng, tăng 16.072 triệu đồng tỷ lệ tương ứng là 9,62% so với năm 2008. 2.3.2/ Tình hình huy động vốn giai đoạn 2007 – 2009 Đối với Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa, vốn huy động là một trong những nguồn vốn chủ yếu phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Do đó Quỹ Tín Dụng cần nỗ lực đề ra những chiến lược hấp dẫn nhằm thu hút khách hàng trong công tác huy động vốn. Trong đó, lãi suất là một trong các công cụ quan trọng để các tổ chức tín dụng sử dụng cạnh tranh với nhau. Quỹ Tín Dụng Mỹ Hòa dùng nguồn vốn huy động từ khách hàng để cho vay lại, đầu tư kinh doanh nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Vì vậy, nguồn vốn này đóng vai trò quan trọng trong hoạt động cũng như để đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh của Quỹ Tín Dụng. Đồng thời, nguồn vốn là một trong những yếu tố quan trọng quyết định quy mô hoạt động của Quỹ Tín Dụng, bên cạnh việc đẩy mạnh và mở rộng các hoạt động tín dụng thì Quỹ Tín Dụng cần phải quan tâm đến tình hình tăng trưởng của nguồn vốn, một nguồn vốn đủ lớn và ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng diễn ra một cách an toàn và hiệu quả hơn. Trong thời gian qua, Quỹ Tín Dụng Mỹ Hòa đã chú trọng cố gắng huy động vốn bằng nhiều hình thức khác nhau như huy động nhu cầu tiết kiệm ngắn hạn, tiết kiệm có kỳ hạn và tiết kiệm không kỳ hạn. Bên cạnh việc quan tâm tới khách hàng cũ, Quỹ Tín Dụng luôn tìm kiếm khách hàng mới bằng cách mở thêm phòng giao dịch, tăng cường công tác tiếp thị, áp dụng các chính sách khách hàng, chính sách thích hợp, bằng cách phục vụ khách nhanh gọn, văn minh, lịch sự. Do vậy Quỹ Tín Dụng ngày càng thu hút được nhiều khách hàng đến gửi tiền làm cho nguồn vốn huy động ngày một tăng. Tuy nhiên do quy mô nhỏ và vị thế của Quỹ Tín Dụng Mỹ Hòa trong lĩnh vực tài chính chưa lớn, vì thế mặc dù đã đưa ra những chính sách thu hút tiền gửi nhưng việc huy động vốn trong thời gian qua vẫn chưa phát huy tối đa do phải cạnh tranh gay gắt với các tổ chức tín dụng khác trên địa bàn. Do vậy khách hàng đến gửi tiền chưa đa dạng, chủ yếu là tiền gửi huy động từ các tầng lớp dân cư, còn các doanh nghiệp, công ty cổ phần, Quỹ Tín Dụng Mỹ Hòa vẫn chưa thu hút, chưa hấp dẫn đối tượng này nên chưa đặt quan hệ giao dịch. Mặc dù luôn phải đối mặt với những thách thức, những hạ chế như trên nhưng chính nhờ vào sự nỗ lực hết sức của mình mà nguồn vốn huy động của Quỹ Tín Dụng Mỹ Hòa đều tăng qua các năm. Có được kết quả đó là nhờ Quỹ Tín Dụng đã áp dụng nhiều giải pháp có hiệu quả trong đó lãi suất là công cụ mang lại hiệu quả thiết thực nhất. Bảng 2.3.2a: Nguồn vốn huy động qua 3 năm tại Quỹ Tín Dụng Mỹ Hòa ĐVT: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm thực hiện Chênh lệch 2008/2007 2009/2008 2007 2008 2009 Tuyệt đối Tương đối(%) Tuyệt đối Tương đối(%) TGTKKKH 2.596 4.969 3.913 2.373 91,41 -1.056 -21,25 TGTKCKH 98.345 155.285 172.366 56.940 57,87 17.081 11 -TGTKCKH Ngắn Hạn 97.833 154.813 171.844 56.980 58,24 17.031 11 -TGTKCKH Dài Hạn 512 472 522 -40 -7,81 50 10,59 Tổng 100.941 160.254 176.279 59.313 58,76 16.025 10,00 ( Nguồn: Văn kiện đại hội thành viên của Quỹ Tín Dụng Mỹ Hòa năm 2007 – 2009) Biểu đồ 2.3.2a: Nguồn vốn huy động qua 3 năm tại Quỹ Tín Dụng Mỹ Hòa Qua bảng số liệu cho ta thấy, nguồn vốn huy động luôn tăng qua 3 năm. Tăng mạnh nhất năm 2008, trong đó TGTKCKH ( tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn) tăng nhiều nhất, tăng 56.940 triệu đồng, tỷ lệ tăng 57,87%, dù TGTKCKH DH ( tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn dài hạn ) giảm so với năm 2007 số tiên 40 triệu đồng, tỷ lệ giảm 7,81% nhưng do chiếm tỷ trọng quá nhỏ trong TGTKCKH nên không ảnh hưởng đến sự tăng trưởng mạnh mẽ của TGTKCKH. TGTKCKH NH ( tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn ngắn hạn ) đã tăng lên đáng kể 56.980 triệu đồng, tỷ lệ tăng 58,24%, nguyên nhân do năm 2008 có thời điểm lãi suất tăng rất mạnh làm lãi suất TGTKCKH NH cao hơn cả lãi suất TGTKCKH DH nên đã thu hút được lượng lớn khách hàng đến gửi tiền. Đến năm 2009, do tình hình kinh tế đã ổn định dần dần, vấn đề lãi suất tiền gửi không còn sốt như năm 2008 nên sự tăng trưởng về nguồn vốn huy động của năm 2009 cũng không mạnh như năm 2008. Nhưng vốn huy động vẫn tăng trưởng ở mức 10% so với năm 2008 số tiền tăng 16.025 triệu đồng và tăng mạnh nhất vẫn là TGTKCKH NH, số tiền tăng 17.081 triệu đồng, tỷ lệ tăng 11% so với năm 2008. Đây là một dấu hiệu đáng mừng vì vốn huy động tăng qua các năm tạo nên một nguồn vốn dồi dào, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho Quỹ Tín Dụng có mối quan hệ tốt với khách hàng trong giao dịch, đáp ứng được nguyện vọng của khách hàng ( nông dân ) trong việc mở rộng quy mô sản xuất do điều kiện canh tác và nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi ngày càng phát triển nên lượng vốn bà con nông dân cần ngày càng nhiều hơn. Và đây cũng là điều kiện thuận lợi để Quỹ Tín Dụng cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác trên địa bàn, với nguồn vốn tăng mạnh nên Quỹ Tín Dụng có thể yên tâm đẩy mạnh công tác cho vay của mình. Bên cạnh sự gia tăng mạnh mẽ của TGTKCKGH thì tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn cũng tăng nhẹ qua các năm nhưng do chiếm tỷ trọng quá nhỏ trong tổng vốn huy động nên sự tăng giảm nhẹ này không tác động nhiều đến sự tăng trưởng của vốn huy động. Mặc dù loại TGTKKKH không mang lại tính ổn định nhưng nó có thể giải quyết được tình trạng thiếu vốn trong hoạt động tín dụng, đồng thời cũng đem lại lợi nhuận cao trong hoạt động tín dụng. Nguyên nhân loại tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn qua các năm đều chiếm tỷ trọng thấp hơn rất nhiều so với loại tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là do tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn không phải là khoản tiền để dành mà là loại tiền gửi chủ yếu phục vụ nhu cầu trong giao dịch thanh toán của khách hàng. Trong khi đó, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn được hưởng lãi suất cố định, giữa các loại tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn khác nhau lãi suất sẽ được trả khác nhau. Tiền gửi có kỳ hạn càng lâu thì lãi suất sẽ càng lớn bởi Quỹ Tín Dụng hoàn toàn yên tâm sử dụng tiền gửi này của khách hàng cho vay với thời hạn ổn định để kiếm được lợi nhuận từ việc thu lãi vì lãi suất cho vay bao giờ cũng cao hơn lãi suất huy động vốn. Và khác với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là tiền tạm thời chưa sử dụng hoặc là tiền để dành của cá nhân mục đích gửi vào Quỹ Tín Dụng để kiếm lợi tức. Nhìn chung 3 năm qua Quỹ Tín Dụng đã thực hiện rất tốt công tác huy động vốn, số vốn huy động năm sau luôn cao hơn năm trước cũng như với nhiều hình thức huy động hấp dẫn hơn nên đã đem lại cho Quỹ Tín Dụng một nguồn vốn khá ổn định và có hiệu quả rất cao làm cho Quỹ Tín Dụng luôn chủ động trong công tác tín dụng của mình. Quỹ Tín Dụng Mỹ Hòa đạt được những kết quả trên là do: - Mức lãi suất mà Quỹ tín Dụng huy động là phù hợp với khách hàng. - Quỹ Tín Dụng thực hiện chính sách huy động vốn phù hợp với tình hình kinh tế của địa phương. - Quỹ Tín Dụng Mỹ Hòa đã tạo được lòng tin đối với khách hàng và một phần nhờ vào phong cách phục vụ chuyên nghiệp của nhân viên, vui vẻ, phục vụ nhanh gọn, chính xác, trụ sở Quỹ Tín Dụng đặt ở Thành Phố Long Xuyên thuận lợi cho khách hàng khi tham gia giao dịch. Lãi suất huy động vốn của Quỹ Tín Dụng Mỹ Hòa luôn áp dụng theo mức lãi suất ban hành của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam tại từng thời điểm nhưng luôn kèm theo yếu tố cạnh tranh và ở mức phù hợp để có thể thu hút vốn nhàn rỗi của khách hàng trên địa bàn. Quỹ Tín Dụng đã có những thay đổi linh hoạt với những biến động về lãi suất trên thị trường nhằm cạnh tranh với các Quỹ Tín Dụng và ngân hàng khác trên địa bàn. Nếu so với các đối thủ cạnh tranh trên địa bàn thì mức lãi suất của Quỹ Tín Dụng Mỹ Hòa đưa ra luôn hấp dẫn hơn các ngân hàng theo một tỷ lệ nhất định theo từng thời điểm. ¯ Huy động vốn: Vốn là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại, quyết định quy mô, tốc độ tăng trưởng của các tổ chức nói chung và trong hoạt động kinh doanh của Quỹ Tín Dụng nói riêng. Vì vậy, nghiệp vụ huy động vốn là vấn đề quan trọng trong việc tạo vốn đầu tư và phát triển kinh tế, là một trong những nghiệp vụ không thể thiếu đối với các tổ chức tín dụng. Do đó trong thời gian qua, Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa đã từng bước tăng cường công tác huy động vốn để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế tại địa phương, đồng thời khai thác triệt để các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và các thành phần kinh tế. Vì vậy, vốn huy động tại Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa luôn giữ được mức ổn định và cũng đạt ở mức tương đối, được thể hiện như sau: Bảng 2.3.2b: Tình hình huy động vốn tại Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa giai đoạn 2007 – 2009 ĐVT: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 2008/2007 2009/2008 Số tiền % Số tiền % Thời gian dưới 12 tháng 44.868 73.364 88.756 28.496 63,51 15.392 20,98 Thời gian trên 12 tháng 56.073 86.890 87.523 30.817 54,96 633 0,73 Vốn huy động 100.941 160.254 176.279 59.313 58,76 16.025 10 ( Nguồn:Báo cáo tổng kết tình hình hoạt động kinh doanh của Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa giai đoạn 2007 – 2009) Biểu đồ 2.3.2b: Tình hình huy động vốn tại Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa giai đoạn 2007 – 2009 Vốn huy động của Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa qua các năm có sự thay đổi đáng kể. Năm 2007 vốn huy động đạt 100.941 triệu đồng, năm 2008 đạt 160.254 triệu đồng tăng 59.313 triệu đồng tương đương 58,76% so với năm 2007. Điều này thể hiện Quỹ Tín Dụng đã có những chính sách đúng đắn như: Khách hàng gửi tiền vào sẽ hưởng mức lãi suất hấp dẫn… Vốn huy động này tiếp tục tăng lên vào năm 2009 đạt 176.279 triệu đồng tăng 16.025 triệu đồng, tương đương tốc độ 10% so với năm 2008. Vốn huy động đối với loại hình tiền gửi dưới 12 tháng tăng đều qua các năm. Năm 2007 tiền gửi dưới 12 tháng huy động được 44.868 triệu đồng, năm 2008 là 73.364 triệu đồng, tăng 28.496 triệu đồng, tỷ lệ tăng tương đương 63,51% so với năm 2007. Đến năm 2009 số này là 88.756 triệu đồng, tỷ lệ tăng là 20,98% tương ứng 15.392 triệu đồng so với năm 2008 Đối với tiền gửi trên 12 tháng ta thấy vốn huy động của loại hình này cũng tăng đều qua các năm, nhưng tỷ lệ tăng không cao bằng vốn huy động tiền gửi dưới 12 tháng. Năm 2007 vốn huy động tiền gửi trên 12 tháng là 56.073 triệu đồng, năm 2008 tăng lên 86.890 triệu đồng, tốc độ tăng 54,96% so với năm 2007 tương đương 30.817 triệu đồng. Đến năm 2009 con số này là 87.523 triệu đồng, tăng 633 triệu đồng, tức 0,73% so với năm 2008. Ta thấy vốn huy động năm 2009 tăng không đáng kể so với năm 2008. Nguyên nhân là do tình trạng lạm phát cao làm cho lãi suất tiền gửi dưới 12 tháng cao hơn lãi suất tiền gửi trên 12 tháng nên người gửi tiền chuyển sang gửi tiền với kỳ hạn dưới 12 tháng. Nhìn chung vốn huy động của Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa qua 3 năm ngày càng tăng, kết quả trên có được là do; - Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa đã tổ chức thực hiện tốt chiến lược linh hoạt lãi suất, duy trì quan hệ tốt những khách hàng truyền thống, liên hệ nhiều tổ chức và cá nhân để duy trì ổn định lượng tiền gửi nên số dư tiền gửi ngày càng tăng qua các năm. - Điều chỉnh lãi suất huy động một cách linh hoạt phù hợp với tình hình thực tế trên địa bàn để thu hút nguồn vốn. 2.3.3/ Kết cấu vốn huy động tại Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa giai đoạn 2007 – 2009 Bảng 2.3.3: Kết cấu vốn huy động tại QTDN Mỹ Hòa giai đoạn 2007 – 2009 ĐVT: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Thời gian dưới 12 tháng 44.868 44,45 73.364 45,78 88.756 50,35 Thời gian dưới 12 tháng 56.073 55,55 86.890 54,22 87.523 49,65 Vốn huy động 100.941 100 160.254 100 176.279 100 ( Nguồn: Báo cáo tổng kết tình hình hoạt động kinh doanh của Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa giai đoạn 2007 – 2009) Biểu đồ 2.3.3: Kết cấu vốn huy động tại Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa giai đoạn 2007 – 2009 Từ bản số liệu và biểu đồ ta thấy tỷ trọng của loại hình tiền gửi dưới 12 tháng trong tổng vốn huy động tăng dần qua các năm. Năm 2007 là 44,45%, đến năm 2008 tăng lên 45,78% và tăng lên 50,35% năm 2009. Nhưng đối với loại hình tiền gửi trên 12 tháng trong tổng vốn huy động lại giảm dần qua các năm, năm 2007 tỷ trọng này là 55,55% đến năm 2008 giảm còn 54,22% và đến năm 2009 con số này chỉ còn 49,65%. Nguyên nhân là độ tăng trưởng của loại hình tiền gửi dưới 12 tháng tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của loại hình tiền gửi trên 12 tháng. Trong đó năm 2008, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới và tình hình lạm phát tăng cao nên lãi suất của ngân hàng tăng cao và thường xuyên thay đổi, hơn nữa lãi suất tiền gửi kỳ hạn dưới 12 tháng cao hơn lãi suất tiền gửi kỳ hạn trên 12 tháng nên nhiều người đã chọn loại hình có mức lãi suất cao là tiền gửi kỳ hạn dưới 12 tháng. Trong những năm gần đây Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa đã ra sức tăng cường công tác huy động vốn bằng nhiều hình thức, tăng cường tiền gửi có kỳ hạn từ các tổ chức kinh tế, cá nhân, thành viên cũ và tìm thêm khách hàng mới. 2.3.4/ Cơ cấu nguồn vốn tại Quỹ Tín Dụng Mỹ Hòa Nguồn vốn thể hiện quy mô hoạt động của một tổ chức tín dụng. Nhìn chung trong giai đoạn 2007 – 2009, nguồn vốn của Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa không ngừng tăng qua các năm, điều này được thể hiện qua bảng sau: Bảng 2.3.4: Cơ cấu nguồn vốn của Quỹ Tín Dụng Mỹ Hòa. ĐVT: Triệu đồng Chỉ Tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Chênh Lệch 2008/2007 Chênh Lệch 2009/2008 Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Tuyệt đối Tỷ trọng (%) Tuyệt đối Tỷ trọng (%) Vốn huy động 100.941 66,49 160.254 79,15 176.279 79,15 59.313 58,76 16.025 10,00 Vốn Vay 23.250 15,31 - - - - - - - - Vốn & các Quỹ 9.212 6,07 10.414 5,14 12.163 5,46 1.202 13,05 1.722 16,54 - Vốn Điều Lệ 6.776 6.823 6.870 47 0,69 47 0,69 - Các Quỹ 2.436 3.591 5.293 1.155 47,40 1.702 47,40 Vốn khác 18.422 12,13 31.799 15,71 34.272 15,39 13.377 72,61 2.473 7,78 Tổng 151.825 100 202.467 100 222.714 100 50.642 33,34 20.247 10,00 ( Nguồn: Văn kiện đại hội thành viên của Quỹ Tín Dụng Mỹ Hòa năm 2007 – 2009) Biểu đồ 2.3.4: Sự tăng giảm của các nguồn vốn Qua bảng tỷ trọng 3 năm, vốn huy động của Quỹ Tín Dụng luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn, luôn chiếm trên 65%. Trong đó nguồn vốn huy động tăng mạnh kể từ năm 2008 số tiền 59.3133 triệu đồng, tỷ lệ tăng là 58,7% so với năm 2007 và chiếm tỷ trọng 79,15% trên tổng nguồn vốn năm 2008. Vốn huy động tăng mạnh là do tình hình lạm phát cao vào năm 2008 làm lãi suất tiền gửi tăng cao và do chính sách lãi suất cạnh tranh của Quỹ Tín Dụng nên đã thu hút được nguồn vốn lớn từ người dân làm cho nguồn vốn huy động của Quỹ Tín Dụng tăng trong năm này nhưng sang năm 2009 thì vốn huy động chỉ tăng nhẹ 16.025 triệu đồng tỷ lệ tăng 10 % so với năm 2008 chiếm tỷ trọng 79,15% trên tổng nguồn vốn năm 2009. Vốn huy động năm 2009 không thể tăng mạnh là do tình hình lạm phát ở năm 2009 đã được Chính phủ thắt chặt làm lãi suất dần trở về vị trí ban đầu nên không thu hút được nguồn vốn tiền gửi. Nhưng với tỷ trọng vốn huy động luôn chiếm trên 65% trong tổng nguồn vốn qua các năm góp phần mang lại nguồn vốn luôn tăng trưởng và ổn định qua 3 năm, do đó Quỹ Tín Dụng có đủ vốn tài trợ cho hoạt động tín dụng của mình, giảm được chi phí trong kinh doanh so với chi phí vay vốn của các tổ chức tín dụng khác và đạt được lợi nhuận cao. Quỹ Tín Dụng thực hiện tốt công việc của một tổ chức kinh doanh tiền tệ đó là thu hút nguồn vốn tại chỗ đáp ứng nhu cầu vay vốn của người dân. Mặt khác, thông qua nghiệp vụ huy động vốn, Quỹ Tín Dụng đã tạo được uy tín cũng như sự tín nhiệm của khách hàng góp phần nguồn vốn huy động luôn tăng cao trong 3 năm qua. Bên cạnh vốn huy động thì nguồn vốn vay cũng đóng va trò rất quan trọng vì nó như một chiếu cầu nối giúp cho quá trình cấp tín dụng diễn ra liên tục, nhưng nếu nguồn vốn vay quá lớn có thể ảnh hương đến lợi nhuận của Quỹ Tín Dụng vì nó làm tăng chi phí lãi vay của Quỹ Tín Dụng làm cho quá trình sử dụng vốn kém hiệu quả. Qua bảng số liệu trên ta thấy vốn vay của Quỹ Tín Dụng đã không còn kể từ năm 2008, chứng tỏ Quỹ Tín Dụng đã có chính sách sử dụng nguồn vốn chủ động hơn và đạt hiệu quả vì lợi nhuận vẫn đạt cao vào năm 2008 và 2009. Về vốn điều lệ và các quỹ của Quỹ Tín Dụng vẫn tăng đều qua 3 năm nhưng về tỷ trọng trong tổng nguồn vốn thì giảm nhẹ kể từ năm 2008, tỷ trọng năm 2008 là 5,14% và năm 2009 là 5,46%, vấn đề giảm nhẹ này không ảnh hưởng lớn tới hoạt động của Quỹ Tín Dụng. Về sự tăng trưởng của vốn điều lệ và các quỹ, năm 2008 tăng 1.202 triệu đồng tỷ lệ tăng 13,05% so với năm 2007. Năm 2009 tăng 1.722 triệu đồng, tỷ lệ tăng 16,54% so với năm 2008. Trong đó vốn điều lệ tăng đều và chậm vì trong giai đoạn năm 2008 – 2009 tình hình kinh tế chưa thật sự ổn định, lợi nhuận của 2 năm này giảm so với năm 2007 nên quyết định tăng nhẹ vốn điều lệ của Quỹ Tín Dụng là quyết định đúng trong tình thế như lúc này, đồng thời đáp ứng nhu cầu phát triển của Quỹ Tín Dụng. Ngoài ra, còn có các nguồn vốn khác, nguồn vốn này cũng tăng qua các năm và tăng cao nhất vào năm 2008 tăng 13.377 triệu đồng, tỷ lệ tăng 72,61%. Nguồn vốn này cũng góp phần đảm bảo cho hoạt động tín dụng được thực hiện an toàn và liên tục. Nhìn chung, cơ cấu vốn hoạt động tại Quỹ Tín Dụng tương đố hợp lý trong 3 năm qua, nguồn vốn huy động luôn chiếm tỷ trọng cao trên 65%. Đó là nhờ Quỹ Tín Dụng có chính sách huy động vốn hợp lý và điều này được thực hiện rõ hơn ở nguồn vốn vay, vốn vay đã không còn kể từ năm 2008, bên cạnh nguồn vốn huy động và vốn vay thì vốn điều lệ của Quỹ Tín Dụng qua 3 năm cũng tăng và nằm ở mức an toàn, vốn khác của Quỹ Tín Dụng cũng tăng góp phần làm cho nguồn vốn của Quỹ Tín Dụng ngày càng tăng lên đủ sức tài trợ cho hoạt động tín dụng của mình. 2.3.5/ Đánh giá tình hình huy động vốn qua các tỷ số Bảng 2.3.5: Đánh giá tình hình huy động vốn qua các tỷ số Chỉ tiêu ĐVT Năm thực hiện 2007 2008 2009 Tổng nguồn vốn Tr.đ 151.825 202.467 222.714 Vốn huy động Tr.đ 100.941 160.254 176.279 Vốn huy động có kỳ hạn Tr.đ 98.345 155.285 172.366 Vốn huy động không kỳ hạn Tr.đ 2.596 4.969 3.913 Tổng dư nợ Tr.đ 131.589 196.750 196.750 VHĐ/TNV % 66,49 79,15 79,15 VHĐCKH/VHĐ % 97,43 96,90 97,78 VHĐKKH/VHĐ % 2,57 3,10 2,22 DN/VHĐ % 130,36 101,48 111,61 ( Nguồn: Văn kiện đại hội thành viên của Quỹ Tín Dụng Mỹ Hòa năm 2007 – 2009) Tỷ lệ vốn huy động trên tổng nguồn vốn Vốn huy động luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn nên sự tăng giảm của vốn huy động ảnh hưởng rất lớn đến tổng nguồn vốn. Qua bảng số liệu thì tỷ lệ vốn huy động trên tổng nguồn vốn tăng mạnh vào năm 2008 và ổn định vào năm 2009là do năm 2008 lãi suất tăng cao nên thu hút được lượng tiền gửi rất lớn, làm cho tốc độ tăng trưởng của vốn huy động nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của tổng nguồn vốn. Đến năm 2009 lãi suất được bình ổn trở lại nên kéo theo, các hoạt động gần như trở lại bình thường nên tỷ lệ này không tăng vào năm 2009. Nhìn chung tỷ số này luôn đạt ở mức cao trên 65% cho thấy uy tín của Quỹ Tín Dụng ngày càng được nâng cao, với nguồn vốn huy động lớn Quỹ Tín Dụng luôn chủ động trong hoạt động kinh doanh của mình. Sở dĩ tỷ số này luôn ở mức cao là do trong những năm qua Quỹ Tín Dụng đưa ra những giải pháp hợp lý trong huy động vốn bằng các lãi suất linh hoạt và Quỹ Tín Dụng luôn tăng cường công tác quảng cáo, phong cách giao dịch lịch sự, nhanh gọn, kịp thời và hiệu quả giúp thu hút được nhiều khách hàng làm cho nguồn vốn ngày càng gia tăng. Vốn huy dộng có kỳ hạn trên vốn huy động Tỷ lệ này thể hiện tính ổn định của nguồn vốn tại Quỹ Tín Dụng Mỹ Hòa, vì với vốn huy động có kỳ hạn chiếm tỷ lệ cao trong tổng nguồn vốn huy động thì Quỹ Tín Dụng có thể an tâm, chủ động hơn trong cho vay. Trong thực tế, khi khách hàng gửi tiền có kỳ hạn, khách hàng thường không rút tiền trước hạn. Trong những năm qua tỷ lệ vốn huy động có kỳ hạn trên vốn huy động tương đối ổn định. Trong năm 2008 giảm nhẹ xuống còn 96,9% nhưng sang năm 2009 thì tỷ lệ này đã tăng lên nhẹ trở lại và nằm ở mức 97,78%. Trong năm 2008, tỷ lệ vốn huy động có kỳ hạn trên vốn huy động giảm là do trong những năm 2008 tốc độ tăng vốn huy động có kỳ hạn nhỏ hơn tốc độ tăng của tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, từ đó tỷ lệ vốn huy động có kỳ hạn trên vốn huy động giảm hơn so với tỷ lệ năm 2007. Mặt khác, nguyên nhân của sự suy giảm này do trong năm 2008 Quỹ Tín Dụng đã đa dạng hóa các loại hình tiền gửi đực biệt là đa dạng hóa loại hình tiền gửi không kỳ hạn. Năm 2009, vốn huy động có kỳ hạn trên vốn huy động tăng trở lại do tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn đã giảm mang đến cho Quỹ Tín Dụng nhiều thuận lợi bởi vì tính kỳ hạn của loại tiền gửi này giúp cho Quỹ Tín Dụng dễ dàng xây dựng kế hoạch và chủ động hơn trong việc sử dụng vốn. Tuy nhiên tỷ lệ này ở mức quá cao cúng gây cho Quỹ Tín dụng nhưng khó khăn nhất định bởi lẽ lãi suất phải trả cho loại hình tiền gửi có kỳ hạn luôn cao. Thực tế các năm trong giai đoạn 2007 – 2009 tỷ lệ vốn huy động có kỳ hạn trên vốn huy động đều lớn hơn 95%. Do vậy trong các năm sắp đến Quỹ Tín Dụng cần đa dạng hơn nữa các sản phẩm huy động vốn sao cho tổng nguồn vốn luôn tăng và cơ cấu vốn huy động luôn hợp lý. Mặc dù tỷ lệ này giảm trong năm 2008 nhưng tỷ lệ này vẫn ở 96,9%, nên Quỹ Tín Dụng vẫn chủ động trong công tác nguồn vốn, đảm bảo cho tín dụng an toàn và liên tục. Vốn huy động không kỳ hạn trên vốn huy động Với lãi suất vốn huy động không kỳ hạn thấp hơn lãi suất huy động vốn có kỳ hạn, Quỹ Tín Dụng sẽ có lợi vì tiết kiệm chi phí huy động vốn. Tuy nhiên nguồn vốn nyaf không ổn định đối với Quỹ Tín Dụng vì khách hàng có thể rút vốn ra bất cứ lúc nào khi cần thiết. Vì thế Quỹ Tín dụng chỉ có thể sử dụng một tỷ lệ nhất định nào đó để thực hiện công việc kinh doanh tiền tệ, tín dụng. Tỷ số này vào năm 2007 là 2,57% sang năm 2008 tăng lên 3,1% và năm 2009 giảm lại còn 2,22%. Số tiền huy động được từ loại hình tiền gửi không kỳ hạn còn thấp so với loại hình tiền gửi có kỳ hạn. Đạt cao nhất 4,969 triệu đồng vào năm 2008 trong khi đó vốn huy động có kỳ hạn đạt đến 155.285 triệu đồng. Nguyên nhân là do Quỹ Tín Dụng không tập trung khai thác loại hình hoạt động này bởi tính không ổn định của nó. Nếu tỷ lệ vốn huy động không kỳ hạn trên vốn huy động lớn hơn tỷ lệ vốn huy động có kỳ hạn trên vốn huy động sẽ làm cho Quỹ Tín Dụng không chủ động trong việc sử dụng vốn và rũi ro về tín dụng nhiều hơn, từ đó ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng. Trong giai đoạn 2007 – 2009 tỷ lệ vốn huy động không kỳ hạn trên vốn huy động chiếm tỷ trọng rất nhỏ làm cho cơ cấu vốn huy động của Quỹ Tín Dụng mất cân đối. Vốn huy động không kỳ hạn là loại vốn có tính biến động cao nhưng nếu khai thác đúng cách thì nó sẽ góp phần tạo nên lợi nhuận đáng kể do sử dụng nó ít chi phí hơn các nguồn vốn khác nhưng lợi nhuận từ nó thì không thua gì các nguồn vốn khác. Do vậy trong thời gian tới cần xem lại tầm quan trọng của nguồn vốn này và phải có những giải pháp cụ thể nhằm thu hút được nhiều thêm vốn huy động không kỳ hạn. Dư nợ trên vốn huy động Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sử dụng vốn huy động của Quỹ Tín Dụng vào công tác cấp tín dụng. Nếu tỷ lệ này cao nghĩa là hiệu quả hoạt động kinh doanh của Quỹ Tín Dụng rất tốt do bởi tất cả đồng vốn huy động đều tham gia vào hoạt động kinh doanh, phần chi phí lãi huy động vốn được bù đắp bằng mức lãi suất cao hơn khi cho vay. Qua 3 năm tỷ số này có xu hướng giảm nhưng vẫn nằm ở mức trên 100%. Cụ thể, năm 2007 tỷ số này là 130,36% sang năm 2008 giảm cò 101,48%, nguyên nhân là do năm 2008 vốn huy động tăng nhanh do lượng tiền gửi vào từ bên ngoài nhưng tỷ số này đã tăng lên 111,61% vào năm 2009 do sự ổn định của lãi suất tiền gửi. Điều này chứng tỏ nguồn vốn huy động mặc dù đã đạt ở mức cao trong tổng nguồn vốn, nhưng vẫn không đáp ứng cho nhu cầu tài trợ vốn của Quỹ Tín Dụng. Do vậy trong thời gian sắp tới Quỹ Tín Dụng cần phải đẩy mạnh hoạt động huy động vốn để chủ động hơn trong nguồn vốn hoạt động để đáp ứng nhu cầu vay vố của khách hàng ngày càng nhiều. Có thể đây cũng là thử thách và là cơ hội để Quỹ Tín Dụng mở rộng nguồn vốn và tăng lượng khách hàng của mình nếu có những chính sách hợp lý trong thời gian tới. Tóm lại, qua việc phân tích các chỉ tiêu về huy động vốn cho thấy Quỹ Tín Dụng Mỹ Hòa đang tập trung rất nhiều vào việc huy động nguồn vốn có kỳ hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng. Nguồn vốn huy động có kỳ hạn mà Quỹ Tín Dụng huy động được chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn là dấu hiệu tốt trong giải pháp về nguồn vốn hoạt động, nhưng điều này sẽ làm giảm lợi nhuận cho Quỹ Tín Dụng do Quỹ Tín Dụng phải chi trả một mức lãi suất cao hơn so với các loại tiền gửi khác, đặc biệt là loại tiền gửi không kỳ hạn. 2.4/ Nhận xét về hoạt động huy động vốn của Quỹ Tín Dụng Mỹ Hòa Thời gian qua Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa đã đón góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế, thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa - hiện đại hóa tại An Giang. Quỹ Tín Dụng Nhân Dân MỸ Hòa đã thục hiện đúng chức năng kinh doanh tiền tệ của mình, phục vụ tận tình cho một số đối tượng khách hàng nhưng chủ yếu là nông dân sản xuất nông nghiệp, cải thiện cuộc sống , nâng cao mức sống, giúp cho nề kinh tế tỉnh nhà ngày càng phát triển. Vơi nỗ lực không ngừng toàn thể cán bộ nhân viên Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa, trong 3 năm qua Quỹ Tín Dụng đã đạt được nhũng thành tựu như sau: Năm 2007 vốn huy động của Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa là 100.941 triệu đồng, năm 2008 tăng 58,76%, và năm 2009 tiếp tục tăng 10%. Bên cạnh vốn huy động được thì nhu cầu vay vốn của khách hàng cũng tăng, năm 2007 doanh số cho vay của Quỹ Tín Dụng là 240.282 triệu đồng, năm 2008 tăng 24,33% so với năm 2007 và năm 2009 tăng 13,40% so với năm 2008. Sự tăng lên của doanh số cho vay thể hiện quy mô hoạt động của Quỹ Tín Dụng ngày càng được mở rộng, giúp cho khách hàng có đủ vốn để sản xuất. Bên cạnh những thành tựu đạt được thì Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa cũng còn những tồn tại như sau: + Vốn huy động tuy ngày một tăng nhưng vẫn chưa cao do địa bàn tỉnh An Giang có rất nhiều tổ chức tín dụng chuyên nghiệp và quy mô hoạt động lớn như Ngân hàng và các Quỹ Tín Dụng khác nên khách hàng có nhiều sự lựa chọn để gửi tiền, các hình thức huy động của Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa chưa thật sự mạnh. + Tình hình lãi suất thị trường biến động phức tạp làm ảnh hưởng đến công tác huy động vốn + Tổng thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm quá lớn, chứa đựng nhiều rủi ro, vì đối tượng cho vay chủ yếu của Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa là nông nghiệp, chưa đa dạng hóa được các sản phẩm dịch vụ và chưa đủ mạnh. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI QUỸ TÍN DỤNG MỸ HOÀ –¶— 3.1/ Định hướng phát triễn, mục tiêu của Quỹ Tín Dụng MỸ HOÀ trong thời gian tới. - Mở rộng các hình thức huy động vốn ; Mở rộng nguồn tiền gửi của dân cư, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tín dụng và ngân hàng trong và ngoài nước. - Tăng thêm chất lượng của nguồn vốn huy động bằng việc tăng cường thu hút các nguồn vốn trung và dài hạn, đặc biệt là các nguồn vốn của dân, các khoản đầu tư của các tổ chức kinh tế nước ngoài. - Ngoài việc mở rộng quan hệ với nhiều tổ chức kinh tế, Quỹ Tín Dụng cần chú trọng tăng cường được các mối quan hệ với dân cư để thu hút thêm được nguồn vốn nhàn rỗi của dân chúng. - Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, đặc biệt là các hình thức huy động vốn kì hạn trên 12 tháng để nâng cao khả năng cạnh tranh với các ngân hàng trên cùng địa bàn, đồng thời đảm bảo cân đối giữa cơ cấu huy động và cho vay. Tiếp tục tìm kiếm nguồn vốn hoạt động có chi phí thấp, ổn định. - Tiếp tục đẩy mạnh huy động vốn từ dân cư để cân đối cơ cấu vốn huy động và đảm bảo duy trì nguồn vốn ổn định. Xây dựng cụ thể chiến lược khách hàng cá nhân để phục vụ tốt cho công tác huy động vốn. Mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong thời gian những năm đầu của thế kỷ 21 mà Đảng và Chính phủ ta đã đề ra là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, sớm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Đến năm 2010, Việt Nam là một nước Công nghiệp, có cơ cấu kinh tế Nông nghiệp – công nghiệp và dịch vụ hợp lý, đảm bảo cho mọi người dân có cuộc sống sung túc, không còn đói nghèo, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Đối với nông nghiệp thôn, Đảng ta chủ trương xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá phát triển, đa dạng và bền vững, từng bước hiện đại hoá trên cơ sở áp dụng công nghệ mới, có khả năng cạnh tranh cao. Bên cạnh đó, mở rộng các hình thức tổ chức tín dụng Nhà nước và của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi để nâng tỷ lệ hộ nông dân nghèo được vay vốn để phát triển sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi và cơ sở pháp lý cho hình thức tín dụng hợp tác tự nguyện được phát triển, ngăn chặn nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn. Sau hơn 10 năm thực hiện quyết định số 390/TTG ngày 27/07/1993 của Thủ tướng chính phủ về triển khai đề án thí điểm thành lập QTDND, có thể khẳng định chủ trương của Đảng và Chính phủ về phát triển mô hình này là hết sức đúng đắn, phù hợp với yêu cầu về phát triển kinh tế khu vực nông nghiệp nông thôn và nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân. Thông qua việc huy động vốn và cho vay tại chỗ đối với thành viên trong tinh thần tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, hệ thống QTDND đã góp phần phát triển sản xuất kinh doanh, xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân, góp phần hạn chế nạn cho vay nặng lãi. 3.2/ Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động HĐV cho QTD MỸ HOÀ 3.2.1/ Mở rộng quan hệ với khách hàng Quỹ Tín Dụng Nhân Dân cần phải tìm mọi biện pháp để chủ động quan hệ với khách hàng. Chính chiến lược này giữ vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Quỹ Tín Dụng Nhân Mỹ Hòa. Việc tạo lập và duy trì quan hệ với khách hàng được tốt đẹp sẽ mang lại thành công lâu dài cho Quỹ Tín Dụng. Trong tình hình hiện nay, trên một địa bàn có nhiều tổ chức tín dụng cùng hoạt động, mức độ cạnh tranh ngày càng cao. Ngoài chất lượng sản phẩm phục vụ một yếu tố thu hút khách hàng thì việc tiếp cận, tìm hiểu nhu cầu nguyện vọng của khách hàng… cũng là phương pháp tiếp thị có khả năng thu hút nhiều khách hàng. Ngoài ra qua tiếp cận chúng ta sẽ biết được chất lượng sản phẩm dịch vụ của mình để từ đó đề xuất biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ nhằm phục vụ tốt nhất cho khách hàng. Khách hàng là người gửi tiền cho Quỹ Tín Dụng Nhân Dân và cũng chính khách hàng là người sử dụng nguồn vốn huy động được giúp Quỹ Tín Dụng có tích lũy để phát triển. Nếu Quỹ Tín Dụng nắm bắt, tìm hiểu, biết được khả năng và ưu thế của khách hàng, chúng ta sẽ có thể huy động tối đa tiền gửi từ dân cư, đồng thời những khoản cho vay sẽ có độ an toàn cao. Quỹ Tín Dụng Nhân Dân có ưu thế gần gũi, hiểu biết rõ về khách hàng nên có thể tìm ra giải pháp khai thác lợi thế này trong cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác. Chúng ta cố thể thuyết phục khách hàng gửi tiền vào Quỹ Tín Dụng vừa có lãi suất cao hơn vừa nhanh gọn ít tốn công sức đi lại, đồng thời giúp khách hàng hiểu rõ vay tiền tại Quỹ Tín Dụng tuy lãi suất có cao hơn các tổ chức tín dụng khác nhưng thủ tục sẽ đơn giản hơn, chi phí lại ít hơn, tiết kiệm hơn được nhiều thời gian. 3.2.2/ Xây dựng chính sách tiếp cận và chăm sóc khách hàng hiệu quả. Khi tiến hành đa dạng hoá các sản phẩm huy động vốn, Quỹ Tín Dụng cần phải đồng thời xây dựng chính sách tiếp cận và chăm sóc khách hàng hiệu quả. Đây là công việc có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của các chiến lược huy động vốn, có tác dụng lầu dài đối với hoạt động huy động vốn của chi nhánh. Dựa trên việc phân nhóm khách hàng, phân tích nhu cầu, đặc điểm khách hàng chi nhánh có thể xây dựng 1 chiến lược tiếp cận khách hàng hợp lý. Khi tung ra một sản phẩm huy động vốn nào điều quan trọng nhất là phải có 1 chương trình tuyên truyền, quảng cáo ấn tượng để khách hàng có thể biết và tham gia. Không những chỉ quảng cáo sản phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng mà cần phải gửi tờ rơi đến tận tay khách hàng, để họ có thể tìm hiểu kĩ hơn về sản phẩm mới của Quỹ Tín Dụng. Bên cạnh đó, Quỹ Tín Dụng luôn phải có một bộ phận hỗ trợ nhằm giải đáp những thắc mắc của khách hàng về sản phẩm, truyền đạt sâu hơn những thông tin về sản phẩm để kích thích nhu cầu của khách hàng. Việc chăm sóc khách hàng sau khi cung cấp sản phẩm cũng rất quan trọng. Nó sẽ làm cho khách hàng có ấn tượng tốt về sự chu đáo và chuyên nghiệp của Qũy Tín Dụng, góp phần tạo ra một lượng khách hàng truyền thống đông đảo cho Qũy Tín Dụng trong tương lai. Tuy nhiên công việc này chưa được chú ý đúng mức không chỉ ở Quỹ Tín Dụng mà còn ở rất nhiều ngân hàng tại Việt Nam. Nguyên nhân có thể do họ chưa ý thức được tầm quan trọng của việc làm này trong hoạt động Marketing ngân hàng và một phần do lượng khách hang của ngân hàng quá đông. Em xin được nêu vài gợi ý nhỏ cho việc chăm sóc khách hàng cho Quỹ Tín Dụng : - Cuối mỗi đợt trả lãi và gốc cho mỗi khách hàng, chúng ta nên có thư cảm ơn tới khách hàng. Vào dịp lễ Tết, ta nên gửi thiệp chúc mừng tới những khách hàng truyền thống, những khách hàng có lượng tiền gửi lớn…Những việc làm này tuy nhỏ nhưng lại có tác dụng rất lớn trong việc giữ chân khách hàng. - Mỗi khi triển khai đợt huy động vốn mới, sản phẩm mới…Quỹ Tín Dụng nên có sự tuyên truyền rộng rãi không chỉ ở trụ sở, phòng giao dịch mà còn nên đăng báo, hoặc phát tờ rơi tới tay khách hàng. Bên cạnh đó việc điều tra thăm dò ý kiến của khách hang về sản phẩm, dịch vụ mới cũng là điều rất nên làm (có thể phát bảng câu hỏi đến tận tay khách hàng tại quầy giao dịch để khách hàng điền vào). - Ngoài những đợt triển khai huy động vốn bằng “ Tiết kiệm dự thưởng” chi nhánh vẫn có thể tặng quà khách hàng cá nhân, tổ chức tuỳ theo lượng tiền gửi. Những việc làm này tuy nhỏ nhưng lại có tác dụng rất lớn trong việc giữ chân khách hàng vì nó thể hiện sự quan tâm của chi nhánh đối với khách hàng của mình. Để làm được những việc này chi nhánh nên đẩy mạnh hoạt động của bộ phận marketing hơn nữa. 3.2.3/ Thực hiện một số biện pháp tiếp thị Mục tiêu của biện pháp này nhằm giới thiệu hình ảnh và các lợi ích có được khi khách hàng quan hệ giao dịch với Quỹ Tín Dụng. Chúng ta có thể tận dụng cơ hội trong việc tổ chức đại hội thành viên hàng năm, tham gia những cuộc họp, những lần sinh hoạt cộng đồng ở địa phương, những lần tiếp xúc đông người để thực hiện công tác truyền thông quảng bá giúp cho khách hàng hiểu rõ hơn về hoạt động của Quỹ Tín Dụng. Qua đó, có thể vận động thuyết phục khách hàng giao dịch với Quỹ Tín Dụng. Đồng thời chúng ta cũng thu nhập được những góp ý của khách hàng về tinh thần thái độ phục vụ của nhân viên, những ý kiến xây dựng Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Mỹ Hòa. Các biện pháp tiếp thị còn vận dụng thông qua các hoạt động như sau: Áp dụng lãi suất ưu đãi cho khách hàng vay tiền có thế chấp sổ tiền gửi cho Quỹ Tín Dụng của mình phát hành. Tổ chức tặng quà cho khách hàng có tiền gửi tại Quỹ Tín Dụng trong các dịp lễ tết, mức độ giá trị món quà phụ thuộc vào sổ tiền gửi của khách hàng. Khen thưởng những nhân viên đã chấp hành tốt các quy định về vay vốn, sử dụng vốn và thanh toán nợ vay trong các đại hộ thành viên hàng năm. Tham gia đóng góp vào các Quỹ xã hội , Quỹ từ thiện của địa phương như Quỹ khuyến học, Quỹ xây dựng nhà tình thương, thể thao, thể dục… Qua đó nâng cao vị thế và uy tín của minh trên địa bàn hoạt động. 3.2.4/ Về chính sách con người Đội ngũ nhân sự của Qũy Tín Dụng bao gồm Ban điều hành, cán bộ nghiệp vụ kế toán, thủ quỹ là những người trực tiếp giao dịch với khách hàng. Sự thành công trong hoạt động của Qũy Tín Dụng phần lớn phụ thuộc vào ý thức trách nhiệm và thái độ phục vụ của lực lượng cán bộ nhân viên này. Cán bộ nhân viên Qũy Tín Dụng phải chứng tỏ là người đáng tin cậy của khách hàng, có thể giải đáp mọi thắc mắc và đáp ứng mọi yêu cầu của khách hàng. Bởi vậy, ngoài yêu cầu về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, cán bộ nhân viên Qũy Tín Dụng cần phải học tập để nắm vững kỷ năng giao tiếp với khách hàng, phải tiếp đón ân cần, nhiệt tình hướng dẫn tạo tâm lý thoải mái cho khách hàng khi tiếp xúc với Qũy Tín Dụng. Đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ tín dụng, ngoài việc thẩm định cho vay còn phải làm vai trò người tư vấn cho khách hàng trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. Bởi sự thành công của khách hàng trong sản xuất kinh doanh không những đem lại lợi nhuận cho khách hàng mà Qũy Tín Dụng còn thu hồi vốn vay của mình đầy đủ, đúng hạn. Muốn đạt được các yêu cầu trên, cần thực hiện một số biện pháp sau đây: ¯ Về phía cán bộ nhân viên Quỹ Tín Dụng. + Phải thành thạo nghiệp vụ, am hiểu mọi thể lệ, quy định của Qũy Tín Dụng sẵn sàng giải đáp mọi thắc mắc khi khách hàng có yêu cầu. + Phải xác định được vị thế, trách nhiệm của mình, nâng cao tinh thần tự chủ, tính tự quyết và óc sáng tạo nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ. ¯Về phía lãnh đạo Quỹ Tín Dụng. + Cần quan tâm đến lợi ích vật chất và tinh thần của nhân viên. Thường xuyên phát động thi đua phát huy sáng kiến cải tiến lề lối làm việc và có hình thức khen thưởng xứng đáng kịp thời. + Cần tạo môi trường làm việc tốt để phát huy tinh thần tự chủ, tự quyết của đội ngũ nhân viên. 3.2.5/ Có chính sách sản phẩm phục vụ phù hợp. Đa dạng hoá các phương thức giao dịch với khách hàng, bên cạnh công tác huy động và cho vay vốn cần nghiên cứu triển khai thêm mộ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docmot_so_bien_phap_nang_cao_hieu_qua_hoat_dong_huy_dong_von_tai_qtd_my_hoa_025.doc
Tài liệu liên quan