Đề tài Một số biện pháp cơ bản nhằm quản lý và sử dụng hiệu quả máy móc thiết bị tại nhà máy in Diên Hồng - Nhà xuất bản Giáo Dục

Tài liệu Đề tài Một số biện pháp cơ bản nhằm quản lý và sử dụng hiệu quả máy móc thiết bị tại nhà máy in Diên Hồng - Nhà xuất bản Giáo Dục: Lời mở đầu Máy móc thiết bị đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, đó là sự thắng thế trong cạnh tranh để tồn tại và phát triển và đứng vững bằng những sản phẩm chất lượng cao, giá thành hạ. Máy móc thiết bị là bộ phận lớn nhất, chủ yếu nhất trong tư liệu lao động và có ý nghĩa quyết định năng lực sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Chính vì vậy công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị đang là vấn đề thu hút được nhiều sự quan tâm nghiên cứu bởi thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh tồn tại những lãng phí lớn trong sử dụng máy móc thiết bị . Trải qua nhiều năm nghiên cứu và phát triển, Nhà máy in Diên Hồng - NXBGD, hiện nay là một doanh nghiệp lớn mạnh, lực lượng lao động có tay nghề cao, trình độ kỹ thuật sản xuất tiên tiến. Đây là một thành tích to lớn, thành quả của quá trình gắn bó lao động bền bỉ của cán bộ công nhân viên nhà máy. Đồng thời sự lớn mạnh về cơ sở vật, chất kỹ thuật, trình độ quản lý kinh tế của nhà máy cũng được ...

doc64 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1209 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số biện pháp cơ bản nhằm quản lý và sử dụng hiệu quả máy móc thiết bị tại nhà máy in Diên Hồng - Nhà xuất bản Giáo Dục, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Máy móc thiết bị đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, đó là sự thắng thế trong cạnh tranh để tồn tại và phát triển và đứng vững bằng những sản phẩm chất lượng cao, giá thành hạ. Máy móc thiết bị là bộ phận lớn nhất, chủ yếu nhất trong tư liệu lao động và có ý nghĩa quyết định năng lực sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Chính vì vậy công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị đang là vấn đề thu hút được nhiều sự quan tâm nghiên cứu bởi thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh tồn tại những lãng phí lớn trong sử dụng máy móc thiết bị . Trải qua nhiều năm nghiên cứu và phát triển, Nhà máy in Diên Hồng - NXBGD, hiện nay là một doanh nghiệp lớn mạnh, lực lượng lao động có tay nghề cao, trình độ kỹ thuật sản xuất tiên tiến. Đây là một thành tích to lớn, thành quả của quá trình gắn bó lao động bền bỉ của cán bộ công nhân viên nhà máy. Đồng thời sự lớn mạnh về cơ sở vật, chất kỹ thuật, trình độ quản lý kinh tế của nhà máy cũng được nâng cao. Bên cạnh đó, Nhà máy cũng còn tồn tại những hoạt động có hiệu quả chưa cao. Qua thời gian thực tập tổng hợp và thực tập tốt nghiệp tôi đã có điều kiện tìm hiểu về những vấn đề chung về nhà máy, trong đó tôi nhận thấy vấn đề quản lý và sử dụng máy móc thiết bị của nhà máy tuy đạt được thành tích cao song vẫn còn những lãng phí trong sử dụng máy móc thiết bị vì vậy tôi đã làm chuyên đề này có đề tài là “Một số biện pháp cơ bản nhằm quản lý và sử dụng hiệu quả máy móc thiết bị tại nhà máy in Diên Hồng - NXBGD”. Tôi hy vọng với chuyên đề này, tôi có thể góp phần cùng ban lãnh đạo Nhà máy tìm cách quản lý và sử dụng hiệu quả hơn máy móc thiết bị hiện có, góp phần nâng cao hiệu quả hơn nguồn vốn của nhà máy, tạo điều kiện tích luỹ, bảo toàn và phát triển nguồn vốn của Nhà máy Nội dung chuyên đề gồm ba phần: Phần I : Một số đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của nhà máy có ảnh hưởng tới công tác quản lý và hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị. Phần II : Phân tích thực trạng công tác quản lý và hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị tại nhà máy. Phần III: Một số biện pháp cơ bản nhằm tăng cường công tác quản lý và sử dụng có hiệu quả các máy móc thiết bị tại Nhà máy. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy Đỗ Văn Lư đã tận tình chỉ bảo em trong suốt quá trình hoàn thành chuyên đề này. Cháu cũng xin cám ơn cô chú phòng kế toán tài vụ, phòng kế hoạch vật tư đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho cháu trong suốt thời gian thực tập. Phần I: Một số đặc điểm kinh tế - Kỹ thuật của nhà máy có ảnh hưởng đến công tác quản lý và sử dụng có hiệu quả máy móc thiết bị. Quá trình hình thành và phát triển của Nhà máy. Quá trình hình thành và phát triển Nhà máy Nhà máy Diên Hồng là đơn vị thành viên của NXBGD được giao nhiệm vụ in sách giáo khoa và các tài liệu giáo dục khác phục vụ cho công tác giáo dục và chính trị của NXBGD. Nhà máy có lịch sử ra đời từ rất lâu, trải qua nhiều gia đoạn phát triển sau. 1.1. Thời kỳ 1954 -1968: Đây là thời kỳ dồn nhập các nhà in nhỏ - đấu tranh cải tạo công thương nghiệp, tư bản kinh doanh, sơ tán chốn chiến tranh. Từ năm 1953 trở về trước Nhà máy là nhà in tư nhân của pháp chuyên in báo, trụ sở chính đóng tại 15 Hai Bà Trưng - Hà Nội . Từ 1.10.1954, đổi tên thành Nhà máy in Kiến Thiết do nhà tư sản Việt Nam quản lý, chuyên in giấy tờ các việc vặt bằng phương pháp Typô - Trực thuộc sở Văn hoá thông tin Hà Nội. Năm 1958 đổi tên thành Liên xưởng in 9, gồm nhiều nhà in nhỏ gộp lại. Năm 1963 sát nhập với nhà máy in á Châu và đổi tên thành nhà in Diên Hồng. Nhà in được bàn giao sang cục xuất bản Bộ Văn hoá quản lý . Đến ngày 15.7.1967 Nhà in được Bộ văn hoá giao sang Bộ Giáo Dục theo quyết định của số 132 Ttg/vg của Thủ tướng. 1.2. Thời kỳ 1969 -1991: Quyết định của Bộ Giáo Dục về việc thành lập Nhà máy in Diên Hồng Ngày14.1.1969 Bộ Giáo Dục ra quyết định số 39/QĐ thành lập chính thức nhà máy in Diên Hồng, chia thành 2 cơ sở sản xuất. Trong thời gian này được sự giúp đỡ của Bộ văn hoá, Nhà máy được trang bị mới một số máy móc thiết bị in, đóng sách, ảnh, ảnh kẽm của cộng hoà liên bang Đức để thay thế các máy móc cũ của các nhà tư bản trước đây.Từ đó sản lượng được nâng dần lên từ 700 triệu trang in năm 1968 lên 981 triệu trang năm 1973. Khoảng thời gian từ năm 1069 - 1972, Nhà máy thực hiện đợt sơ tán đợt 2 thực hiện vừa sản xuất vừa chiến đấu. Ngày 9.5.1974 Bộ Giáo Dục ra quyết định số326/QD phân hạng Nhà máy vào loại xí nghiệp hạng 4. Từ thế sản xuất ổn định nên kế hoạch sản xuất ngày một phát triển.Với quy trình Typo tiên tiến chất lượng sản phẩm cao, lúc bấy giờ Diên Hồng đã được xếp vào loại nhà in thứ hai trong số các nhà in có sách in đẹp Sau năm 1975, Bộ Giáo Dục có chủ trương thu hẹp quy mô sản xuất của Diên Hồng. Hàng năm chỉ thực hiện in 1 sản lượng nhỏ sách giáo khoa, còn chủ yếu là in sổ sách, giấy tờ phục vụ trong ngành. Sản lượng hàng năm chỉ còn khoảng 350 - 400 triệu trang Ngày 20-4-1991 Bộ Giáo Dục có quyết định số 1015/QĐ đưa Nhà máy về trực thuộc NXBGD. Ngày 4-6-1991, Giám đốc NXBGD ký quyết định số 55/QĐ chuyển tên Nhà máy thành Xưởng chế bản - in NXBGD 1.3. Thời kỳ 1991-1996: Thời kỳ củng cổ - xây dựng - phát triển Xưởng chế bản- in. Những vấn đề cơ bản trong thời kỳ này là: Đã thay đổi toàn bộ quy trình công nghệ sản xuất từ phương pháp in Typo sang phương pháp in Offet với các thiết bị, chế bản in và hoàn thiện sách không ngừng được đổi mới theo hướng đồng bộ và hiện đại. Số lượng CBCNV tăng dần theo tốc độ phát triển của sản xuất, từ trên 80 năm 1991đến 250 người năm 1996 Việc đầu tư thiết bị trong thời kỳ này cũng được chú trọng, các thiết bị mới của CHLB Đức, Việt Nam, Nhật, Thụy Sỹ, Trung quốc … Đều là những máy móc thiết bị hiện đại, đầu tư đồng bộ cho tất cả các phân xưởng, các bộ phận. Do vậy sản lượng của Nhà máy đã tăng lên một cách đáng kể qua các năm từ 250 triệu trang in năm 1991 lên 1143 triệu trang năm 1992 và lên 1626 triệu trang năm 1996 1.4. Thời kỳ 1996- nay: Phát huy kết quả đầu tư - tin tưởng - đoàn kết thống nhất - trách nhiệm cao - đưa Nhà máy vào thời kỳ phát triển mới. Bộ Giáo dục và đào tạo quyết định giữ nguyên tên Nhà máy in Diên Hồng theo quyết định số 4943/GDĐT ngày 2-11-1996 Tiếp theo giám đốc NXBGD đã ký quyết định số 259/QĐ ngày 6-11-96 về quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy Nhà in Diên Hồng. Theo đó nhiệm vụ của Nhà máy là tổ chức in sách giáo khoa, các tài liệu dạy và học khác, các tạp chí phục vụ cho ngành Giáo khoa, các tài liệu dạy và học khác, các tài liệu dạy và học khác, các tạp chí phục vụ cho ngành Giáo dục và Đào tạo theo kế hoạch hàng năm của NXBGD. Ngoài ra, Nhà máy còn làm gia công in sách cho 1 số đơn vị khác ngoài NXBGD. Từ năm 2000, Nhà máy có đưa vào sản xuất, tạo thêm thu nhập cho cán bộ công nhân viên. Như vậy Nhà máy thực hiện sản xuất theo đơn đặt hàng là chủ yếu, còn sản xuất theo cataloge chỉ chiếm một phần nhỏ. Hiện nay Nhà máy vẫn trực thuộc NXBGD, có tư cách pháp nhân không đầy đủ, thực hiện hạch toán kinh tế. Có con dấu riêng được mở tài khoản tại Ngân Hàng, được quyền vay vốn và ký hợp đồng kinh tế… Đặc điểm của cơ cấu sản xuất và cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Nhà máy Cơ cấu sản xuất phản ánh bố cục về chất và tính cân đối về lượng của các quá trình sản xuất. Việc xác định 1 cơ cấu sản xuất phù hợp rất quan trọng đối với hoạt động phát triển kinh doanh của doanh nghiệp, quyết định bộ máy quản lý của doanh nghiệp. Với quy mô sản xuất vừa, Nhà máy in Diên Hồng có hai phân xưởng sản xuất chính, 3 tổ sản xuất phù trợ và 3 tổ phục vụ sản xuất. Cơ cấu sản xuất của Nhà máy được bố trí theo kiểu Doanh nghiệp - phân xưởng - nơi làm việc. Ta có thể xem sơ đồ sau: Sơ đồ 1:Cơ cấu sản xuất của nhà máy. Nhà máy Bộ phận sản xuất chính Bộ phận sản xuất phù trợ Bộ phận phục vụ sản xuất Phân xưởng in ofset Phân xưởng hoàn thiện tổ cơ điện Tổ cắt rọc Tổ chế bản Tổ bảo vệ Tổ bôc xếp Hệ thống kho Phân xưởng in offset: phân xưởng này có nhiệm vụ chỉ thục hiện 1 giai đọan công nghệ là từ các maket bình bản và đưa vào in. Vì vậy mà trong phân xưởng chủ yếu được bố trí các loại máy in, đây là các máy sản xuất bản tự động, điều này tạo điều kiện đơn giản hoá công tác quản lý máy móc. Thành quả của công đoạn này chính là các bản in theo mẫu và được chuyển sang phân xưởng hoàn thiện. Phân xưởng hoàn thiện: phân xưởng có nhiệm vụ là đóng quyển các sản phẩm in từ phân xưởng ofset. Tuy nhiên việc hoàn thiện cũng có nhiều quy trình: gấp máy hay gấp tay, khâu chỉ máy vào bìa, máy đóng ghim, khâu thép … Vì vậy mà thiết bị ở đây được bố trí tương đối đa dạng. Gồm máy gấp, máy khâu chỉ, máy vào bìa, máy đóng ghim, máy ép sách .. . Do vậy mà ở đây việc theo dõi quản lý các máy có phức tạp hơn, việc huy động công suất của các máy không được đồng bộ. Tổ cắt rọc: Bộ phận sản xuất phù trợ được hoạch toán độc lập chuyên cắt rọc giấy từ cuộn ra khổ giấy theo yêu cầu. Do vậy ở đây được bố trí 2 máy cắt, và 2 xe nâng hàng. Tổ chế bản: có nhiệm vụ sửa chữa làm maket bình bản để làm mẫu cho việc in. Trong tổ được bố trí 1 máy công tắc phin, 1 máy chụp 3 máy phơi bản, 2 máy sấy, máy sửa bản, máy vi tính. Các bộ phận phục vụ sản xuất có nhiệm vụ vận chuyển vật liệu tới các phân xưởng Mỗi đơn vị dù ở bộ phận sản xuất chính, hay sản xuất phụ trợ, phục vụ sản xuất đều có trách nhiệm quản lý máy móc thiết bị thuộc đơn vị mình, bảo quản sửa chữa máy thông thường. Như vậy mỗi bộ phận sản xuất đều quyết định tới vấn đề sử dụng có hiệu quả máy móc thiết bị. Bộ máy quản lý của Nhà máy được tổ chức theo kiểu trực tuyến chức năng. Theo mô hình này mỗi bộ phận chỉ nhận pháp lệnh từ một cấp trên trực tiếp, các phòng ban chức năng tham mưu cho Giám đốc về nghiệp vụ chức năng của mình. Với mô hình này cơ cấu đơn giản, dễ vận hành dễ theo dõi kiểm tra. Bộ máy được phân thành 4 phòng chức năng, 2 phân xưởng sản xuất chịu sự quản lý trực tiếp của Giám đốc và 2 Phó Giám đốc: Dưới đây ta có thể xem sơ đồ: Sơ đồ 2: Cơ cấu tổ chức quản lý của Nhà máy. Giám đốc PGĐ sản xuất kỹ thuật PGĐ Tài chính Hậu cần P. Kế toán - tài vụ Phân xưởng hoàn thiện P. HC - LĐ - TL Phân xưởng in Offset P. Kế hoạch - vật tư Tổ Cơ điện Tổ cắt rọc Tổ chế bản Tổ bảo vệ P. Kinh doanh tiếp thị : Quan hệ chỉ đạo điều hành. : Quan hệ phối hợp. Ban Giám đốc: - Giám đốc: Là người đứng đầu Nhà máy, có quyền cao nhất quyết định, chỉ đạo mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy và chịu trách nhiệm trước Nhà máy, NXBGD và trước pháp luật. - Phó Giám đốc sản xuất kỹ thuật: Điều hành về kỹ thuật sản xuất, là người chịu trách nhiệm về sản xuất kinh doanh và các lĩnh vực liên quan. - Phó Giám đốc Tài chính hậu cần: Điều hành về sản xuất và đời sống, là người chịu trách nhiệm về công tác cán bộ, tổ chức, tổ chức lao động. Các phòng ban gồm có: - Phòng kế toán tài vụ: Làm nhiệm vụ tổ chức ghi chép, tính toán, phản ánh chính xác, trung thực, kịp thời, đầy đủ sự thành vận động của toàn bộ tài sản. Trực tiếp giúp giám đốc trong việc thẩm định các loại vật tư, hàng hoá trước khi mua. Phối hợp với các phòng ban chức năng khác lập báo cáo tài chính và chịu trách nhiệm trực tiếp trước giám đốc. - Phòng hành chính lao động tiền lương: xây dựng kế hoạch và biên chế lao động hàng năm và từng thời kì. tổ chức về lao động, tiền lương, và tiền thưởng. Tham mưu cho ban lãnh đạo trong việc thành lập, giải thể các phòng ban, phân xưởng, tổ sản xuất. Bổ nhiệm vầ miễn nhiệm các chức vụ quản lý ... - Phòng kế hoạch vật tư: xây dựng kế hoạch sản xuất, kỹ thuật, tài chính hàng năm trên cơ sở các nguồn lực hiện có. Tổ chức mua sắm quản lý sử dụng các loại vật tư, thiết bị, phụ tùng đảm bảo cho sản xuất, chủ động liên hệ với NXBGD và các đơn vị khác trong việc nhận in tài liệu và giao sản phẩm. Phối hợp với các phòng, ban, phân xưởng, và chịu trách nhiệm trước ban lãnh đạo. - Phòng kinh doanh tiếp thị : làm nhiệm vụ tìm kiếm thị trường, tiêu thụ sản phẩm mà chủ yếu là vở viết học sinh chất lượng cao. Thông qua nghiên cứu thị trường tìm kiếm nhu cầu mà tham mưu cho ban lãnh đạo trong việc xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh. - Tổ bảo vệ: chịu sự quản lý trực tiếp của phòn HC - LĐ - TL, có nhiệm vụ trông coi tài sản của Nhà máy, quản lý việc ra vào tại Nhà máy. Các bộ phận sản xuất gồm có: - Phân xưởng in Ofset, phân xưởng hoàn thiện: có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch sản xuất định kì. Tổ chức thực hiện lệnh của giám đốc thông qua phiếu sản xuất. Chịu trách nhiệm quản lý toàn bộ tài sản, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, bán thành phẩm…trong phạm vi phân xưởng. Phối hợp với các bộ phận khác lập và gửi kịp thời các báo cáo thống kê sản lượng cho ban lãnh đạo và các phòng ban liên quan. Ngoài các bộ phận sản xuất trên còn có tổ cơ điện, tổ chế bản và tổ cắt rọc. Các tổ chức đoàn thể của Nhà máy cũng phát triển mạnh góp phần nâng cao đời sống vật chất tinh thần công nhân viên Nhà máy. Các phân xưởng sản xuất không có bộ máy quản lý riêng, quản đốc phân xưởng chịu trách nhiệm tổ chức sản xuất và trực tiếp điều hành quản lý lao động, vật tư sản phẩm, thiết bị … chịu trách nhiệm trước Giám đốc về chất lượng sản phẩm và mọi hoạt động của phân xưởng. Một số đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của Nhà máy có ảnh hưởng đến công tác quản lý và hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị. 1. Đặc điểm về tính chất nhiệm vụ sản xuất Nhà máy in Diên Hồng là 1 đơn vị thành viên của NXBGD, từ khi thành lập Nhà máy có nhiệm vụ in các giấy tờ, việc vặt, bằng phương pháp in Tygô. Hiện nay nhà máy có nhiệm vụ là: Tổ chức in sách giáo khoa, các tài liệu dạy học khác, các tạp chí phục vụ cho ngành Giáo dục và Đào tạo theo kế hoạch hàng năm của NXBGD. Tổ chức in gia công cho các đơn vị khác để tận dụng công suất máy móc thiết bị để tạo thêm thu nhập cho công nhân viên chức. Thực hiện sản xuất kinh doanh vở học sinh chất lượng cao từ năm 2000. NXBGD có 4 đơn vị thành viên trong đó có 2 đơn vị ở miền Bắc là Nhà máy in Diên Hồng và Nhà máy in Đông Anh. Nhà máy in Diên Hồng có năng lực sản xuất bằng nửa năng lực sản xuất của nhà máy in Đông An. Hàng năm nhà máy in được NXBGD giao chỉ tiêu chiếm khoảng 70% sản lượng trang in, đặc biệt năm 2002 lên tới 90%. Việc giao chỉ tiêu cho Nhà máy được thực hiện thông qua việc ký kết hợp đồng kinh tế, tuỳ thuộc vào năng lực sản xuất và khả năng đáp ứng các chỉ tiêu sản lượng của Nhà máy, điều này tạo điều kiện cho Nhà máy ổn định sản xuất và tận dụng năng lực sản xuất của máy móc thiết bị. Tuy nhiên việc giao sản lượng không được thực hiện đều qua các thời kỳ, mà có những lúc sản xuất phải đi vào cao điểm, có những lúc thong thả cầm chừng. Việc giao chỉ tiêu không cân đối về cơ cấu màu trang in (Trang in 1 màu, trang in 2 màu, trang in 4 màu) gây lãng phí cho việc sử dụng máy (máy in 2 màu phải sử dụng vào in 1 màu). Để tận dụng công suất còn lại của mình, Nhà máy thực hiện in gia công cho các đơn vị khác. Tuy nhiên trong công tác này Nhà máy không có quan hệ ổn định lâu dài với 1 đơn vị nào khác, do vậy không tạo được thế chủ động cho Nhà máy, đôi khi vẫn không tận dụng hết năng lực sản xuất của mình. Từ năm 2000 Nhà máy đưa vào sản xuất kinh doanh vở học sinh chất lượng cao, và sản phẩm hiện nay được thị trường chấp nhận, tạo điều kiện tận dụng thời gian và công suất máy trong những thời điểm sản xuất nhàn rỗi, góp phần nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh cho Nhà máy. Với những nhiệm vụ trên, hệ thống máy móc thiết bị của Nhà máy cũng không hiện đại lắm, tất cả sản phẩm in của Nhà máy cũng chỉ cần có 1 quy trình công nghệ duy nhất. Vì vậy nó tạo ra điều kiện để đơn giản hoá công tác quản lý máy móc thiết bị, đồng thời số lượng và chủng loại máy móc thiết bị cũng đòi hỏi ít hơn. 2. Đặc điểm về cơ sở vật chất kỹ thuật Nhân tố này phản ánh khả năng tiếp nhận và vận dụng thành công việc đưa máy móc thiết bị vào sản xuất. Điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật quyết định việc bố trí hệ thống máy móc thiết bị, cho phép đưa máy móc thiết bị vào áp dụng trên cơ sở vừa đảm bảo theo xu hướng phát triển đồng thời có thể tận dụng được một cách tối đa cơ sở vật chất hiện có. Đồng thời cũng tạo điều kiện cho công tác phục vụ việc vận hành máy móc thiết bị Kể từ khi thành lập đến nay Nhà máy đã thực hiện nhiều lần di chuyển địa điểm sản xuất cho phù hợp. Nhà máy cũng đã thực hiện nhiều cuộc thay đổi lớn về đầu tư máy móc thiết bị mới tiến, hiện đại. Đặc biệt năm 1991, Nhà máy đã thay đổi toàn bộ quy trình công nghệ sản xuất từ phương pháp in Typô sang phương pháp in offset. Các thiết bị mới của cộng hoà liên bang Đức, Việt Nam, Nhật, Thuỵ sỹ, Trung Quốc … đều là máy móc thiết bị hiện đại. Các máy móc thiết bị được đầu tư đồng bộ cho các phân xưởng, các bộ phận. Các thiết bị phục vụ cho công nghệ chế bản, in hoàn thiện sách đều là máy móc tân tiến, có năng suất chất lượng cao và là những máy móc bán tự động. Các máy móc chủ yếu phục vụ cho công việc in và hoàn thiện sách gồm có : máy tính, máy in, in laze, máy chụp, máy phơi bản, máy tráng, máy sấy, máy con tắc, film, máy in, máy dao xén, máy cắt rọc… hầu hết là các máy móc thiết bị chuyên dùng. Toàn nhà máy có 2 phân xưởng, và 3 tổ, mỗi bộ phận này được trang bị một số máy móc thiết bị để thực hiện một hoặc một số các giai đoạn của công nghệ in và hoàn thiện sách. Đòi hỏi việc quản lý máy móc thiết bị phải được cụ thể hoá cho từng bộ phận. Nhà máy có một khu 5 tầng để phục vụ công tác quản lý nói chung và được trang bị những trang thiết bị cần thiết để phục vụ văn phòng… Ta có thể xem xét tình hình cơ sở vật chất, kỹ thuật của Nhà máy. Bảng 01: Cơ cấu tài sản cố định của Nhà máy theo giá trị tuyệt đối. Đơn vị : Triệu đồng Chỉ tiêu. Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 NG GTCL NG GTCL NG GTCL 1. TSCĐ đang dùng. - Nhà cửa, vật chất kiến trúc. - Máy móc thiết bị. - Phương tiện vận chuyển truyền dẫn. - Thiết bị dụng cụ quản lý. 17649,93 1636,53 15133,28 408,99 471,13 8516,8 935,98 7069.1 203,66 308,05 18850 2682 15197,5 708,99 561,5 7794,3 1964 5344,6 165,75 319,94 18895,6 2682 15.226 408,99 578,43 6376,2 1835 4133,6 129 278,6 2. Tài sản cố địng không dùng . 0 0 0 0 0 0 3. Tài sản cố định chờ thanh lý. 8,45 7,29 0 0 0 0 Tổng: 17658,4 8524,1 18850 7794,3 18895,6 6379,2 Nguồn: Phòng kế hoạch - vật tư. Nhìn vào bảng trên ta thấy TSCĐ đang dùng của nhà máy ngày càng tăng lên và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, TSCĐ không dùng và TSCĐ chờ thanh lý đã không có đó là do kế hoạch của Nhà máy. Theo đó giá trị của máy móc thiết bị chiếm trong tổng TSCD của nhà máy luôn chiếm một tỷ trọng lớn khoảng 80%- 85% theo nguyên giá và 70 - 83% theo giá trị còn lại. Đòi hỏi trong công tác quản lý TSCĐ tại Nhà máy, thì phải coi trọng quản lý máy móc thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất. Năm 1999 và năm 2000 theo chỉ đạo của NXBGD, các phân xưởng sản xuất, nhà văn phòng làm việc… của nhà máy được di chuyển, quy hoạch và sửa chữa và cải tạo thuận lợi trong việc bố trí dây chuyền sản xuất khoa học, hợp lý, tạo điều kiện làm việc được cải thiện hơn. Tuy nhiên từ năm 1991 trở lại đây, Nhà máy chưa thực hiện 1 cuộc đầu tư đổi mới thiết bị máy móc có quy mô lớn nào, do vậy phần lớn các máy móc sản xuất chính, thực hiện các công việc hiện đã cũ và lạc hậu, cơ cấu máy móc không đồng bộ… làm cho việc khai thác, tận dụng công suất gặp nhiều khó khăn và công tác sửa chữa, bảo dưỡng cũng phải được coi trọng để kịp thời phát hiện sự cố, sửa chữa kịp thời tránh để máy móc phải dừng hoạt động lâu. Đồng thời là hệ thống kho bãi, nhà xưởng của Nhà máy hiện nay đang tận dụng hết về mặt không gian do vậy gây khó khăn cho việc mua sắm thêm máy móc thiết bị. 3. Đặc điểm về lao động Hiện nay, Nhà máy có số lao động có tay nghề tương đối cao, được đào tạo, có trình phù hợp với công nghệ sản xuất của nhà máy. Hàng năm nhà máy đều có kế hoạch đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ quản lý cho nhân viên quản lý, kỹ sư, đào tạo về chính trị về chính trị. Đồng thời cũng tổ chức học, kiểm tra thi nâng bậc cho công nhân sản xuất đến thời hạn nâng bậc, bồi dưỡng nâng cao trình độ chung toàn Nhà máy tăng lên, làm tăng khả năng quản lý Nhà máy nói chung, khả năng quản lý và sử dụng máy móc thiết bị của công nhân viên nói riêng cũng tăng lên, như là khả năng về sửa chữa, bảo dưỡng; khả năng vận hành máy đúng quy trình quy phạm tkkhả năng thích ứng nhanh chóng với máy móc thiết bị khi đầu tư đổi mới. Nhà máy có 1 bộ phận công nhân làm hợp đồng công nhật, với số lượng lao động này tăng hay giảm tuỳ khối lượng công việc từng thời kỳ. Số công nhân này không được làm việc thường xuyên nên việc sử dụng máy móc thiết bị có gặp khó khăn, và tăng thêm tính phức tạp trong việc quản lý họ. Số cán bộ công nhân hành chính, kinh tế, kỹ thuật, đều có trình độ từ trung cấp đến đại học theo chuyên môn. Số lượng lao động quản lý chuyên môn, nghiệp vụ chiếm khoảng 11-12%, đây là lao động không tham gia trực tiếp vào sản xuất và đối với nhà máy thực hiện nhiệm vụ sản xuất là chủ yếu thì đây là 1 tỷ lệ cao do vậy mà làm tăng chí phí quản lý nói chung, gián tiếp làm giảm hiệu quả quản lý và sử dụng máy móc thiết bị. Ta có thể xem xét tình hình cơ cấu lao động tại Nhà máy như sau: Bảng 2: Tình hình cơ cấu lao động tại Nhà máy Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Số lượng (người) tỷ trọng(%) Số lượng (người) tỷ trọng(%) Sốlượng (người) tỷ trọng(%) I.Tổng số lao động 232 100 234 100 235 100 1.Lao động thường xuyên 198 85.34 196 83.76 198 84.25 -Viên chức quản lý cm nghiệp vụ 27 11.64 28 63.67 27 11.49 - Lao động công nghệ 152 65.1 149 8.12 152 64.68 - Lao động phù trợ 19 8.6 19 83.76 19 8.08 2. Lao động không thường xuyên 34 14.65 38 16.24 37 15.74 Nguồn: phòng Hành chính - Lao động - Tiền lương. Dưới đây ta có thể xem xét cụ thể hơn về trình độ người lao động trong nhà máy Bảng 3: Cơ cấu trình độ chuyên môn của nhà máy. Chỉ tiêu Số lượng (người) Tỷ trọng (%) 1. Lao động quản lý - Trên đại học - Đại học - Trung cấp và cao đẳng 30 1 22 7 12.82 0.43 9.4 2.99 2. Lao động trực tiếp sản xuất - Chuyên nghiệp - Bậc cao - Còn lại 173 39 52 85 73.93 16.67 22.22 36.32 3. Lao động phù trợ 31 13.25 Tổng số 234 100 Nguồn: Phòng Hành chính - lao động - tiền lương. Theo bảng trên ta thấy, tổng số 234 lao động của Nhà máy, số lao động quản lý chiếm 12,8% tổng số lao động, đây là điều bất lợi đối với Nhà máy. Tuy nhiên trong số đó có tới 23 người có trình độ Đại học và trên Đại học. Đây là thuận lợi để nâng cao hiệu quả công tác quản lý máy móc thiết bị nói riêng. Với trình độ cao, họ có khả năng đưa ra những cải tiến về máy móc thiết bị cho phù hợp, đưa ra các quy trình quy phạm 1 cách khoa học, phân công lao động đúng người đúng việc tạo động lực lao động cho công nhân vận hành máy. Trong số lao động trực tiếp sản xuất, số lao động chuyên nghiệp chiếm 16,67% lao động bậc cao chiếm 22,22% so với 36,22% số lao động bậc thấp, mùa vụ … đây cũng là tỷ lệ khá cao điều này làm tăng khả năng sử dụng thời giam làm việc có ích của máy móc thiết bị, nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên số lao động bậc cao, số lao động có kỹ năng cao để đảm bảo việc in và hoàn thiện sản phẩm chất lượng cao còn thiếu, vì vậy mà nhiều khi không thực hiện được những hợp đồng in màu chất lượng cao, làm giảm khả năng huy động công suất và thời gian làm việc của máy móc thiết bị. Nhà máy có 3 hình thức trả lương có: 46 lao động hưởng lương thời giam chiếm 19,66%. 21 lao động hưởng lương sản phẩm tập thể chiếm 8,97%. 167 lao động hưởng lương sản phẩm cá nhân chiếm 71,47%. Như vậy khối lượng lao động hưởng lương sản phẩm cá nhân chiếm tỷ trọng lớn điều này góp phần tạo động lực kích thích sản xuất, nâng cao năng suất lao động, nhưng nó cũng đồng thời làm cho người lao động có xu hướng chạy theo chỉ tiêu sản lượng, không quan tâm chú trọng đến bảo dưỡng máy móc, sửa chữa máy móc thiết bị. Do đó đòi hỏi Nhà máy phải tăng cường công tác bảo dưỡng, sửa chữa khắc phục sự cố của máy móc thiết bị để đảm bảo việc trả lương công bằng và là động lực kích thích sản xuất. Ngoài các mặt trên, Nhà máy còn chăm lo đời sống vật chất tinh thần và các điều kiện làm việc cho công nhân viên chức, người lao động. Điều đó tạo nên niềm tin cho người lao động vào Nhà máy, tạo nên sự gắn bó tinh thần trách nhiệm của người lao động đối với các mặt công tác của nhà máy trong đó công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị, làm cho người công nhân vận hành máy có trách nhiệm hơn trong việc bảo dưỡng, theo dõi tình trạng và vận hành máy theo đúng quy định. 4. Cung ứng nguyên vật liệu. Việc cung ứng kịp thời các loại nguyên vật liệu đảm bảo cho máy móc thiết bị được hoạt động đều đặn và liên tục. Chất lượng và chủng loại nguyên vật liệu đảm bảo cho sản xuất được đồng bộ, làm tăng thời gian làm việc có ích của máy (thời gian sản xuất sản phẩm hợp cách). Việc giảm chi phí nguyên vật liệu tạo điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh . ở Nhà máy, chủng loại nguyên vật liệu cần đáp ứng cũng không cần nhiều lắm gồm: nguyên vật liệu chính (gồm giấy in và bìa các loại, mực in đen và màu, bản Diazo); vật liệu phụ (gồm bột, hồ, keo, ghim, dây thép đóng sách, chỉ khâu …) Việc cung cấp giấy in thì chủ yếu đó là do các đơn vị đi gia công cung cấp giấy khi ký hợp đồng, theo định mức và khối lượng sản xuất. Còn lại một phần thì do Nhà máy mua lấy thông qua việc thiết lập mối quan hệ mua bán lâu dài với nhà máy giấy Bãi Bằng, Nhà máy giấy Tân Mai Các loại nguyên vật liệu khác do nhà máy tự mua lấy. Mực in thì nhà máy chủ yếu dùng loại mực nhập ngoại của Trung Quốc, Singapore và Đức, các loại này đựơc Nhà máy mua thông qua công ty xuất nhập khẩu SCJ. Các loại ngyên vật liệu khác thì được Nhà máy mua trên thị trường, tuỳ theo từng trường hợp mà có quan hệ mua bán với các đối tác khác nhau. Các loại nguyên vật liệu này cũng đa dạng, phong phú trên thị trường chứ không khan hiếm và không có sự biến động lớn. Tạo điều kiện cho Nhà máy cung ứng kịp thời cho sản xuất, giảm thiểu thời gian ngừng máy do thiếu nguyên vật liệu. Việc cấp phát nguyên vật liệu của nhà máy được thực hiện theo hình thức hạn mức. Căn cứ vào định mức và khối lượng công tác mà cung cấp vật tư cho sản xuất, tuy nhiên nhiều khi xảy ra tình trạng thiếu thì phải xin quyết định của giám đốc mới được cấp tiếp và như vậy trong thời gian chờ quyết định thì phải ngừng máy. Nhưng trong nhà máy rất hiếm khi phải ngừng máy vì lí do thiếu nguyên vật liệu. Đây là một cố gắng, cũng là một điểm mạnh của Nhà máy, tạo điều kiện duy trì sản xuất ổn định và liên tục. Nhưng điều đó cũng chưa phải là thật sự tốt, và đem lại hiệu quả cao. Trong Nhà máy việc lập kế hoạch cung ứng vật tư chưa thật sự coi trọng. Nhiều khi vật tư hết thì mua chứ không theo kế hoạch định trước, việc tìm kiếm nguồn cung ứng nguyên vật liệu chưa được quan tâm. Điều này gây nên khả năng tăng chi phí mua sắm hoặc chi phí tồn kho do mua nhiều về. 5. Sản phẩm và cơ cấu sản phẩm của Nhà máy. Không giống như các doanh nghiệp khác sản phẩm do Nhà máy làm ra không phải thuộc về Nhà máy. Nhà máy chỉ thực hiện in gia công theo hợp đồng cho nhà xuất bản giáo dụcvà các đơn vị khác. Tuy nhiên đặc điểm về kết cấu kỹ thuật của sản phẩm này và tiêu thụ nó ảnh hưởng lớn đến quản lý và sử dụng máy móc thiết bị tại nhà máy. Hàng năm lượng tiêu dùng sách giáo khoa là khá lớn, đây là mặt hàng thiết yếu đối với lứa tuổi từ 6-18 tuổi. Hiện nay chỉ có NXBGD mới có quyền phát hành sách giáo khoa, vì vậy lượng cung cấp của nhà xuất bản là ổn định và tăng đều qua các năm, do vậy các chỉ tiêu sản lượng do NXBGD giao là ổn định có thể dự kiến chính xác, tạo điều kiện cho Nhà máy ổn định sản xuất, đơn giản hoá công tác quản lý máy móc thiết bị. Tuy nhiên việc tiêu dùng sách giáo khoa lại mang tính chất thời vụ, chủ yếu vào thời điểm nhập học (khoảng tháng 8-9) vì vậy làm cho sản xuất vào 1 số tháng trước đó trở nên dồn dập khẩn trương. Một thời gian sau đó Nhà máy lại thực hiện hợp đồng in sách tham khảo cho NXBGD và hợp đồng in cho các đơn vị khác vì vậy mà sản xuất của Nhà máy cũng được tiến hành đều đặn liên tục, chỉ có khoảng tháng 10 ,11 là thong thả cầm chừng hơn. Thời gian này tạo điều kiện cho Nhà máy đại tu lại, sửa chữa lại máy móc thiết bị. Nhà máy in gia công cho đơn vị nào thì thành phẩm đều là sách. Sách thì có kết cấu nhẹ giản đơn. Sách chỉ gồm 2 phầm là các trang in bên trong và bìa, chúng đều có quy trình in như nhau. Các trang in bên trong chủ yếu là in một màu, có một phần là 2 màu, và một phần nhỏ là 4 màu. Bìa thì có yêu cầu in 2 màu hoặc 4 màu. Vì vậy mà số lượng hoặc chủng loại máy móc yêu cầu huy động vào sản xuất ít, và công tác quản lý đơn giản hơn. Việc cân đối về số lượng giữa trang in một màu, 2 màu và 4 màu tạo điệu kiện để tận dụng hết công suất của máy móc thiết bị như có thể huy động hết công suất của máy in 4 màu hoặc không phải dùng máy in 2 màu cho việc in một màu tránh lãng phí. Dưới đây ta có thể xem xét cơ cấu trang in qua các năm tại Nhà máy. Bảng 4: Tình hình cơ cấu trang in tại nhà máy Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2001 Số lượng (tr trang) Tỷ trọng (%) Số lượng (tr trang) Tỷ trọng (%) Số lượng (tr trang) Tỷ trọng (%) - Trang in 1 màu. - Trang in 2 màu. - Trang in 4 màu. 1090,15 251,65 216 70 16,15 13,85 1.113,6 438,2 257,2 61.56 24,2 14,24 1.128,5 432,4 271,9 61,57 23,6 14,83 Tổng số trang in thành phẩm 1.557,8 100 1.808,97 100 1832,8 100 Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm 2000- 2002. Theo như trên ta thấy tổng sản lượng toàn nhà máy tăng lên, đồng thời tỷ trọng trang in 4 màu tăng lên. Trên đây mới là giai đoạn in sách, sách còn phải qua một giai đoạn hoàn thiện, có thể qua khâu chỉ, đóng ghim, khâu thép rồi vào bìa. Năng lực sản xuất của phân xưởng hoàn thiện lớn hơn của phân xưởng in. Do vậy và trong phân xưởng này sản xuất còn cầm chừng, thong thả. 6. Đặc diểm về thị trường kinh doanh. Nhiệm vụ chính trị hàng đầu của Nhà máy là in SGK và các tài liệu dạy và học khác cho NXBGD. Vì vậy khách hàng lớn nhất và quan trọng nhất của Nhà máy là NXBGD. Trong mọi trường hợp, ưu tiên hành đầu phải dành cho NXBGD. Khối lượng in hàng năm cho NXBGD chiếm 1 tỷ lệ lớn, khoảng trên 50% tổng doanh thu hoặc trên 70% tổng sản lượng. Điều này cũng có những thuận lợi và cũng gây ra những khó khăn nhất định: hàng năm được NXBGD giao cho tỷ lệ sản lượng lớn tạo điều kiện cho Nhà máy ổn định sản xuất, chủ động trong việc huy động công suất, số lượng, thời gian máy móc thiết bị vào sản xuất. Tạo khả năng làm đơn giản công tác quản lý máy móc thiết bị. Nhưng đồng thời nó cũng gây ra những khó khăn như việc in cho NXBGD thì có giá công in thấp hơn ở bên ngoài do vậy mà làm cho các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị không được nâng cao. Ngoài ra Nhà máy còn in cho các đơn vị khác như là các trường Đại học, 1 số Công ty … nhưng mối quan hệ với các dơn vị này lại không ổn định, và các khách hàng này lại không có nhu cầu thường xuyên nên khó có thể làm ăn lâu dài với họ. Việc kinh doanh vở học sinh chất lượng cao còn gặp nhiều khó khăn. vừa mới gia nhập thị trường thì đã có rất nhiều đối thủ cạnh tranh đã có uy tín trên thị trường, trong khi đó lực lượng nhân viên làm công tác này có trình độ còn yếu. 7. Tình hình tài chính Bảng 6: Tình hình tài chính tại Nhà máy. Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Tổng doanh thu Trđ 14074 18354.8 14000 lợi nhuận sau thuế Trđ 267.6 273 256.9 Tổng tài sản Trđ 14542.6 13543.7 11489 TSCĐ Trđ 8524.1 7794.3 6379.2 TSLĐ Trđ 6018.5 5749.4 5109.8 Nợ phải trả Trđ 6504.9 5350.7 3351.4 Vốn CSH Trđ 8037.7 8193 8137.6 TSCĐ/TTS % 52.05 48.29 42.95 TSLĐ/TTS % 47.95 51.71 57.05 Nợ phải trả/Tổng nguồn % 44.73 39.7 29.17 Vốn CSH/Tổng nguồn % 55.27 60.3 70.83 Khả năng thang toán nhanh Lần 0.27 0.2 0.13 Khả năng thanh toán hiện hành Lần 2.24 2.52 3.43 Nguồn: Các báo cáo tài chính của Nhà máy. Theo bảng trên ta thấy, Nhà máy có hệ số nợ phải trả/tổng nguồn cũng còn nhỏ, vì vậy mà khả năng vay thêm vốn của Nhà máy để đầu tư máy móc thiết bị là còn có thể thực hiện được. Khả năng thanh toán hiện hành và thanh toán nhanh luôn đảm bảo vững chắc. Vì vậy mà Nhà máy có khả năng mua sắm cung tương đối, tạo điều kiện cho việc cung ứng vật tư cho sản xuất được kịp thời, không bị chậm trễ, giảm thiểu thời gian ngừng máy do thiếu nguyên vật liệu. Nhưng đối với 1 Nhà máy thực hiện sản xuất là chủ yếu thì tỷ lệ TSLĐ/TTS là tương đối lớn như vậy, và ngày một tăng (năm 2002 lên đến 57,05%) thì đây là một điều bất lợi đối với Nhà máy, trong đó tỷ lệ sản phẩm dở dang thường chiếm tới 50% TSLĐ, điều này gây ảnh hưởng đến vấn đề huy động công suất đồng bộ của máy móc thiết bị. Nó làm cho năng lực sản xuất của Nhà máy giảm xuống. Hàng năm nguồn vốn ngân sách cấp cho Nhà máy hầu như không đáng kể, hầu như là không có. Đồng thời nguồn vốn kinh doanh và các quỹ của Nhà máy cũng còn nhỏ, trong đó lại không có quỹ đầu tư xây dựng cơ bản, quỹ đầu tư phát triển với số dư hàng năm chỉ khoảng 200 (trđ), chính vì vậy mà hạn chế khả năng đầu tư đổi mới máy móc thiết bị ở Nhà máy, nó cũng giải thích vì sao trong những năm qua nguồn tài trợ cho đầu tư mua sắm máy móc thiết bị tại Nhà máy chủ yếu là nguồn đi vay. Phần II: Phân tích thực trạng về công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị ở Nhà máy in Diên Hồng- NXBGD. i. Phân tích tình hình sản xuất kinh doanh của Nhà máy thời kỳ 2000-2002. 1. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất sản phẩm. Nhà máy in Diên Hồng là đơn vị trực thuộc NXBGD, hàng năm được NXBGD giao chỉ tiêu khoảng 70% sản lượng theo kế hoạch sản xuất sản phẩm của Nhà máy. Tuy nhiên Nhà máy không chỉ dừng lại ở đó, mà hàng năm còn khai thác thị trường bên ngoài NXBGD, thực hiện in sách cho các đơn vị khác, không ngừng nâng cao sản lượng sản xuất của khu vực này. Cụ thể ta có thể xem bảng trang sau (bảng 7) Theo bảng, Năm 2000 trang in thành phẩm đạt 1557,7 trang vượt kế hoạch đề ra là 4%, tuy nhiên vẫn chỉ đạt 63,6% công suất máy móc tiết bị. Sản lượng trang in thành phẩm vượt kế hoạch chủ yếu là do việc khai thác các sản phẩm in ngoài NXBGD đặc biệt là Nhà máy đã bắt đầu sản xuất vở học sinh chất lượng cao. Sản lượng trang in công nghiệp không đạt kế hoạch đặt ra do nhiều nguyên nhân như : công tác điều độ quản lý sản xuất vẫn còn nhiều thiếu sót bấp cập, chưa thật sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận và các giai đoạn công nghệ; một số máy móc thiết bị phải ngừng sản xuất để sửa chữa, bảo dưỡng; đội ngũ công nhân lành nghề, kỹ thuật để đảm đương việc in và hoàn thiện sản phẩm chất lượng cao còn thiếu; NXBGD đã giao việc cho Nhà máy nhưng cơ cấu trang in theo màu chưa gắn với năng lực thiết bị hiện có. Năm 2001, sản lượng trang in thành phẩm đạt 116,12% so với năm 2000, đạt 110,98% so với kế hoạch. Hệ số màu (trang in công nghiệp /trang in thành phẩm) là 1,67, trong đó hệ số màu của sách và các tài liệu của NXBGD là 1,72. Điều này cho thấy cơ cấu trang in 1 màu, 2 màu, 4 màu đồng bộ hơn năm 2000, hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị được phát huy làm tăng sản lượng, tăng doanh thu, tăng việc làm. Điều đó một phần là do, bước vào đầu năm 2001, NXBGD đã giao việc cho Nhà máy ngay từ đầu năm, tăng cường cơ cấu trang in 2 màu và 4 mầu tạo điều kiện thuận lợi, chủ động cho Nhà máy. Đồng thời năm 2001 sản phẩm vở học sinh chất lượng cao của Nhà máy đã được người tiêu dùng chấp nhận, thị trường tiêu thụ được mở rộng hơn làm cho sản lượng trang in vở học sinh tăng gấp 2,076 lần so với kế hoạch, gấp 2,4 lần so với năm 2000. Năm 2002, sản lượng trang in thành phẩm giảm 3% so với kế hoạch, tăng 1,32% so với năm 2001 do: Giám đốc NXBGD đã quan tâm giao sản lượng SGK sớm, khá phù hợp với công suất máy móc thiết bị, tỷ lệ màu thuận lợi ngay từ đầu năm. Sản lượng trang in thành phẩm khổ 14,5x20,5 SGK và các tài liệu của NXBGD tăng so với năm 2001 là 187.333.216 trang (vượt 13,2%) tăng 11,5% so với kế hoạch. Sản lượng trang in thành phẩm ngoài NXBGD đạt 51.803.414 trang, giảm so với năm 2001 là 65,1%, so với kế hoạch là 72.74%. Như vậy sang năm 2002 sản lượng in cho NXBGD đã chiếm lên đến 90% tổng sản lượng, tạo điều kiện cho Nhà máy tận dụng năng lực sản xuất, giảm thời gian nhàn rỗi chờ việc. 2. Tình hình thực hiện kế hoạch doanh thu Nhà máy in Diên Hồng có nhiệm vụ là thực hiện gia công cho các đơn vị khác, nên Nhà máy không phải lo khâu tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Sản phẩm sản xuất ra đến đâu thì trả lại cho khách hàng đến đó. Và doanh thu của Nhà máy được xác định ngay khi ký kết hợp đồng gia công. Ngoài ra, Nhà máy còn có một số khoản thu khác. Dưới đây là tình hình thực hiện kế hoạch doanh thu của Nhà máy ( xem bảng trang sau) Theo bảng trên ta thấy: Năm 2000, theo kế hoạch thì tỷ lệ doanh thu từ kế hoạchNXBGD đưa xuống chiếm 72% doanh thu thuần, nhưng trên thực tế thì loại này chỉ chiếm 48,2% do doanh thu từ in khác và bán vở học sinh tăng đột biến. Trên thực tế thì doanh thu từ NXBGDchỉ đạt 92,57% so với kế hoạch do giá công in giảm và việc giao kế hoạch in cho Nhà máy chưa cân xứng. Doanh thu từ in khác đạt 275,72% so với kế hoạch, doanh thu vở học sinh chiếm 8,3% tổng doanh thu thuần, đây là con số đáng khích lệ vì đây là lần đầu tiên Nhà máy thực hiện sản xuất kinh doanh vở học sinh, Nhà máy có cố gắng trong việc khai thác các sản phẩm in ngoài NXBGD. Sang năm 2001, doanh thu kế hoạch từ NXBGD chiếm 48,87% và thực tế thì chiếm 43,43%. Tuy vậy thực hiện cũng vựơt kế hoạch 26,64%. Doanh thu từ vở học sinh đã chiếm đến 24,55%, đây là 1 tỷ lệ lớn, tăng đột biến so với năm 2000. Đồng thời thực hiện cũng đạt 362,08% so với kế hoạch, đây là bước tiến lớn của Nhà máy trong kinh doanh vở học sinh. Tuy nhiên, doanh thu từ in ngoài NXBGD không đạt kế hoạch điều này chứng tỏ việc khai thác các hợp đồng in ngoài Nhà Xuất Bản đã không được như mong muốn và cũng là do việc tăng doanh thu từ NXBGD và bán vở học sinh. Điều đó làm tổng doanh thu thuần đạt 138,95% so với kế hoạch và đạt 131,5% so với thực hiện. Đây là một thành tích lớn của Nhà máy. Sang năm 2002 tổng doanh thu chỉ đạt 75,785% so với kế hoạch, chỉ bằng 76,62% so với 2001. Mặc dù sản lượng có tăng nhưng do Nhà máy chỉ in cho NXBGD nên giá công in thấp hơn ngoài nhiều 3. Phân tích tình hình thực hiện kết quả sản xuất kinh doanh. Nhà máy in Diên Hồng là một đơn vị trực thuộc NXBGD thực hiện hạch toán độc lập, ngoài sự giúp đỡ từ phía NXBGD thì chủ yếu là sự cố gắng nỗ lực của tập thể cbcnv toàn Nhà máy. Trong những năm qua nhà máy luôn cố gắng hoàn thành nhiệm sản xuất và cố gắng thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển hơn nữa. Cụ thể ta có thể xem tình hình thực hiện kết quả sản xuất kinh doanh trong bảng trang sau (bảng 10) Theo bảng trên thì ta thấy năm 2000, doanh thu thuần đạt 138,58% so với kế hoạch, với thu nhập khác đạt 196,79% so với kế hoạch. Điều này đã làm cho tổng doanh thu và thu nhập đạt 139,11% so với kế hoạch. Tuy nhiên theo đó tổng chi phí sản xuất kinh doanh cung tăng 40,69%so với kế hoạch. Do vậy mà lợi nhuận sau thuế cũng tăng không đáng kể so với kế hoạch (chỉ bằng 100,07% so với kế hoạch). Các khoản nộp ngân sách chỉ bằng 83,6% so với kế hoạch đó là do thuế giá trị gia tăng được khấu trừ chỉ bằng 43,68% so với kế hoạch, thu sử dụng vốn đạt 92,87% so với kế hoạch. Còn lại là thuế thu nhập doanh nghiệp,thuê đất, thuế môn bài bằng kế hoạch. Sang năm 2001, doanh thu thuần đạt 18.273 triệu đồng, đạt 138,95% so với kế hoạch, đạt 131,5% so với năm 2000. Đây là một cố gắng lớn của Nhà máy, thu nhập khác chỉ bằng 87,04% so với kế hoạch và bằng 44,59% so với năm 2000.Tuy nhiên do giá vật tư, các yếu tố đầu vào như tiền lương, các khoản trích theo lương, tiền điện… đều có xu hướng tăng, trong khi đó giá công in thấp do cạnh tranh gay gắt nên lợi nhuận sau thuế chỉ đạt 101,9% so với kế hoạch, và bằng 102,03% so với năm 2000. Và cũng vì vậy mà tỷ suất lợi nhuận/doanh thu chỉ đạt 1,5% trong khi đó năm 2000 đạt 1,901%. Nhưng tỷ suất lợi nhuận/Tổng tài sản, tỷ suất lợi nhuận/Vốn chủ sở hữu, số vòng quay của vốn và thu nhập bình quân đầu người đề tăng so vơi năm 2000. Năm 2002, doanh thu lại có xu hướng giảm xuống và chỉ đạt 75,98% so với kế hoạch và bắng 76,62% so với năm 2001, đó là do tổng sản lượng có giảm xuống so với kế hoạch và tăng không đáng kể so với năm 2001. Và cũng là do sản lượng in ngoài NXBGD và in vở học sinh giảm mạnh, trong khi đó ở khu vực này thì đơn giá trang in lại cao hơn. Cũng do doanh thu giảm mà dẫn đến lợi nhuận sau thuế giảm, chỉ còn bằng 94,1% so với năm 2001, do vậy các khoản nộp ngân sách cũng chỉ bằng 91,37% so với năm 2001. Tỷ suất lợi nhuận /doanh thu tăng 034% so với năm 2001 và tỷ suất lợi nhuận / tổng tài sản và lợi nhuận/vốn chủ sở hữu đều tăng. Tuy nhiên số vòng quay của toàn bộ vốn và thu nhập bình quân đầu người lại giảm. Nói tóm lại, các chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của Nhà máy cưa cao do sản xuất kinh doanh trong ngành in trong những năm gần đây rất khó khăn, giá công in thấp, chí phí đầu vào tăng. II. Phân tích cơ cấu máy móc thiết bị của Nhà máy. Do chỉ thực hiện nhiệm vụ là in, nên chủ yếu máy móc thiết bị được trang bị tại Nhà máy chủ yếu là để làm việc in và hoàn thiện sách. Ta có thể xem tình hình trang bị máy móc thiết bị tại Nhà máy như sau. Bảng11 : Tình hình trang bị máy móc thiết bị tại Nhà máy. Tên máy móc thiết bị Nước sản xuất Năm đưa vào sd Nguyên giá (đ) GTCL (đ) PX.in ofset Máy in 16 tr 1 màu HEIDELBERG Đức 1990 358.622.918 0 Máy in 16 tr2 màu KOMORY Nhật 1991 669.738.000 94.269.512 Máy in 8 tr 2 màu HEIDELBERG Đức 1995 2.381.244.983 57.504.289 Máy in 8 tr 2 màu HEIDELBERG Đức 1995 2.520.470.290 526.962.02 Máy in 16 tr 2 màu KOMORY Nhật 1995 809.970.200 0 Máy in 8 tr 1 màu HEIDELBERG Đức 1988 28.561.000 0 Máy in 8 tr 1 màu HEIDELBERG Đức 1988 28.561.000 0 Máy in 8 tr 1 màu HAHADA Nhật 1988 284.000.000 0 Máy in 16 tr 4 màu MIITSUBITSHI Nhật 1998 1.516.000.000 606.400.004 Máy rửa lô VN 1998 18.400.000 7.053.338 Máy dao 1 mặt MAXIMA Tiệp 1998 257.197.350 124.312.064 Máy dao 1 mặt POLAR Đức 1996 720.400.968 150.083.559 Máy nén khí ABC ý 2001 728.569 4.414.288 Cộng nhóm 9.598.309.566 1570999074 PX hoàn thiện sách Máy gấp 570 Đức 1992 37.000.000 758.424 Máy gấp STALL Đức 1995 489.130.000 52.989.092 Máy gấp MBOT Đức 1996 696.699.784 111.252.579 Máy khâu chỉ BREHMER Đức 1991 604.553.057 0 Máy khâu chỉ BREHMER Đức 1994 453.021.235 3.775.184 Máy khâu chỉ BREHMER Đức 1994 453.021.235 3.775.184 Máy khâu chỉ A4 Đức 1969 14.111.000 0 Máy vào bìa PONY Thụy Sĩ 1996 982.519.934 200.308.898 máy dao 3 mặt PERFECTA Đức 1968 11.147.000 0 Máy đóng gim 2 đầu Nhật 1997 86.000.000 32.966.662 Máy mạ vàng thuỷ lực VN 1998 27.000.000 10.350.000 Máy cán vàng láng bóng VN 1998 32.700.000 12.535.000 Máy ép sách nghiêng VN 1998 10.700.000 4.101.662 Máy ép sách đứng TQ 1998 16.000.000 6.133.338 Máy sấn gân bìa TQ 1998 30.500.000 11.691.662 Máy ép sách thuỷ lực VN 1998 25.000.000 9.583.338 Máy bắt liên hoàn YOSINO Nhật 1998 1.118.814.000 475.128.659 Máy đóng sách TQ TQ 2000 15.238.095 9.904.765 Máy đóng sách TQ TQ 2000 15.238.095 9.904.765 Máy hấp phụ hơi khí độc VN 2000 13.714.286 8.914.285 Máy hấp phụ hơi khí độc VN 2000 13.714.286 8.914.285 Máy nén khí ABC ý 2001 5.142.857 4.414.288 Cộng nhóm 5.150.917.442 977.402.069 Tổ cắt rọc Máy cắt cuộn Đài Loan 1998 131.322.300 0 Máy dao một mặt PC - 49 TQ 1993 82.000.000 0 Cộng nhóm 213.322.300 0 Tổ chế bản Máy công tắc phim VN 1993 5.500.000 595.826 Máy chụp + ổn áp Đức 1993 6.500.000 659.999 Máy phơi bản + bộ nguồn VN 1991 26.200.000 0 Máy phơi bản MONTAKOP Đức 1998 150.811.160 58.648.783 Máy rửa bản VN 1998 9.050.000 3.469.162 Máy sấy VN 1993 13.861.000 1.501.604 Máy sấy bản VN VN 2001 18.300.000 15.097.500 Cộng nhóm 230.222.160 79.972.874 Tổ cơ điện Máy mài dao 1997 27.000.000 12.105.000 Cộng nhóm 27.000.000 12.105.000 Tổng cộng 15.219.771.468 2640479017 Nguồn: Phòng Kế hoạch - vật tư Từ năm 1991, Nhà máy đã thay đổi hàng loạt các máy móc thiết bị, chủ yếu là các máy móc tiên tiến hiện đại, có năng suất, chất lượng cao, phần lớn là máy móc bán tự động. Các máy móc thiết bị được đầu tư đồng bộ cho tất cả các phân xưởng, bộ phận, chủ yếu là để phục vụ cho việc in và hoàn thiện sách. Tính đến tháng 3 năm 2003, toàn bộ giá trị máy móc thiết bị hiện có của Nhà máy theo nguyên giá là 15.219.771.468 (đồng), theo giá trị còn lại là 2.640.479.017 (đ). Trong đó đầu tư từ ngân sách là 930.132.918 (đ) (chiếm 6,11% tổng giá trị máy móc thiết bị theo nguyên giá); đầu tư bằng nguồn vốn tự có là 5.706.591.864 (đ) (chiếm37,49% tổng giá trị máy móc thiết bị ); đầu tư bằng nguồn khác là 8.583.046.686 (đ) (chiếm56,4% tổng giá trị máy móc thiết bị) Ngân sách tài trợ cho Nhà máy trong việc mua sắm máy móc thiết bị rất ít, còn các nguồn vốn tự có chỉ tài trợ được một phần nhỏ đối với những máy móc thiết bị có giá trị lớn hoặc toàn bộ cho những máy móc thiết bị có giá trị dưới 100 triệu đồng Chất lượng trang in phụ thuộc trực tiếp vào công đoạn in được thực hiện ở phân xưởng in Offset. Vì vậy mà những máy móc trong phân xưởng này dùng cho việc in đều được mua từ Nhật và Đức và là những máy móc hiện đại có năng suất chất lượng cao và chủ yếu được mua cách đây 10 năm. Còn lại các máy móc khác đều được mua từ Nhật, Đức, Trung Quốc, Việt Nam… Hiện tại Nhà máy có một số máy móc đã cũ, một số máy móc đã khấu hao hết nhưng vẫn được sử dụng. Những máy móc đã khấu hao hết có tổng giá trị theo nguyên giá là 2.592.370.775 (đ) (chiếm 17.03% giá trị máy móc thiết bị theo nguyên giá). Đây là một tỷ lệ khá lớn đòi hỏi Nhà máy phải xem xét lại để có kế hoạch đầu tư mua sắm thêm hoặc có kế hoạch thanh lý, loại bỏ một số máy móc thiết bị. ở Nhà máy tất cả các máy móc thiết bị đều là chuyên dùng, được thiết kế để đảm nhiệm 1 hay 1 vài công việc nào đó. Các thiết bị này thường là bán tự động nên có thể giảm bớt nhu cầu về thợ, nhưng lại đòi hỏi trình độ lành nghề của người thợ. Đồng thời nó có thể đảm bảo tính liên tục của sản xuất do không phải dừng máy để thay đổi dụng cụ, đồ gá lắp. Tuy nhiên trong Nhà máy còn có một phần máy móc phải sử dụng nhiều lao động thủ công và chúng được trang bị cho phân xưởng hoàn thiện sách và các tổ sản xuất phù trợ. Số máy móc thiết bị trong Nhà máy hiện nay đã được sử dụng 100%, số máy móc thiết bị dó đều cần dùng và đã được lắp đặt toàn bộ. Có được điều đó là do Nhà máy đã có kế hoạch trong việc trang bị máy móc cho sản xuất, những máy nào cần thì mới mua và mua về là đưa vào sử dụng ngay, đồng thời Nhà máy cũng có kế hoạch thanh lý những máy móc thiết bị không còn sử dụng được nữa. Tại 2 phân xưởng sản xuất chính giá trị máy móc thiết bị được trang bị tương đối lớn, theo nguyên giá là 14.956.544.868 (đồng) chiếm 98,27% ; theo giá trị còn laị là 23.548.401.143 (đ) chiếm 96,5% tổng giá trị. Đây là một tỷ lệ khá lớn. Còn lại các máy móc thiết bị cho công tác phụ trợ chiếm một phần nhỏ và được trang bị cho các tổ phụ trợ theo nguyên giá là 263.226.600 (đ) chiếm 1,73 % tổng giá trị máy móc thiết bị, theo giá trị còn lại là 920.770.874 (đ) chiếm 3,5%. Hiện nay đang có xu hướng tăng tỷ trọng của sản xuất chính về mặt năng lực sản xuất vì vậy ở Nhà máy tỷ trọng máy móc thiết bị ở 2 phân xưởng sản xuất chính lớn thì cũng có nghĩa là như vậy. Tuy nhiên xu hướng nâng cao trình độ cơ giới hoá của sản xuất phụ trợ lại không được thực hiện, ở các tổ sản xuất phù trợ ta có thể thấy máy móc đã cũ và phải sử dụng nhiều lao động thủ công. III. Phân tích tình hình sử dụng máy móc thiết bị về mặt số lượng, thời gian, công suất. Phân tích tình hình sử dụng về mặt số lượng. Có thể nói xét về vấn đề sử dụng số lượng máy móc thiết bị thì Nhà máy đang tận dụng triệt để số lượng máy móc thiết bị hiện có. Kể từ năm 2000 trở đi toàn bộ TSCĐ của Nhà máy không có loại nào đang chờ thanh lý hay không sử dụng. Như vậy, máy móc thiết bị của Nhà máy phải thật cần thiết thì mới được đầu tư và khi mua về thì được lắp đặt và đưa vào sử dụng ngay. Và Nhà máy cũng có kế hoạch thanh lý những máy móc không còn sử dụng được. Đo đặc điểm và tính chất của ngành sản xuất công nghiệp, sản xuất sản phẩm tiêu dùng nên trong quá trình sản xuất sản phẩm được thực hiện bởi hệ thống dây chuyền công nghệ. Trong đó lại có nhiều giai đoạn công nghệ nhỏ, nên máy móc thiết bị của Nhà máy mang tính chuyên dùng, có nhiều chủng loại khác nhau. Mặt khác, nhiệm vụ của Nhà máy là ổn định theo thời gian và chỉ thực hiện theo một quy trình công nghệ duy nhất. Do vậy mỗi khi ký kết hợp đồng in gia công thì sau đó toàn bộ máy móc thiết bị đều được huy động vào sản xuất. Điều này không giống như các công ty xây dựng, vì sản phẩm của họ mang tính đơn chiếc, đặc thù không giống nhau nên có những loại máy chỉ được dùng cho một số công trình đặc thù, Và do vậy mà trong một khoảng thời gian khá dài chúng có thể không được huy động vào sản xuất. Còn ở Nhà máy trong những năm gần đây luôn có hệ số sử dụng số lượng của máy móc thiết bị là 1. Trong nhiều trường hợp Nhà máy đã từ chối ký hợp đồng in gia công với lý do máy móc thiết bị đã hoạt động gần hết công suất thiết kế. ở phân xưởng in Offset hầu hết các máy móc đã hoạt động đến 80% công suất thiết kế, do đó trong thời gian tới Nhà máy có xu hướng đầu tư thêm để tăng năng lực cho phân xưởng này. Tuy nhiên hệ số sử dụng số lượng trên vẫn chưa nói lên được nhiều điều, ta còn cần phải xem xét nó trong mối quan hệ với các chỉ tiêu khác. Phân tích tình hình sử dụng máy móc thiết bị về mặt công suất Việc sử dụng công suất máy móc thiết bị ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng tận dụng tối ưu công suất của máy móc thiết bị. Để đánh giá trình độ sử dụng công suất máy móc thiết bị ta có thể sử dụng hệ số huy động công suất thiết kế theo sản lượng x 100% KSL = Tổng sản lượng sản phẩm thực hiện trong kỳ Tổng sản lượng theo thiết kế Hệ số này phản ánh mức huy động công suất của máy móc thiết bị. Hệ số này càng tiến đến 1 thì hiệu quả sử dụng công suất của máy móc thiết bị càng cao. Nó là cơ sở để doanh nghiệp xác định hướng đầu tư cho máy móc thiết bị. Dưới đây ta có thể xem tình hình huy động công suất máy móc thiết bị của Nhà máy theo bảng 12 trang sau. Theo trình tự sản xuất sản phẩm của Nhà máy thì việc in được thực hiện bắt đầu từ Tổ chế bản, tiếp theo được in bằng các máy in tại phân xưởng in Offset, sau đó sẽ được tiếp tục được đưa vào các máy hoàn thiện ở phân xưởng Hoàn thiện. Vì vậy mà công suất của toàn Nhà máy phụ thuộc vào khâu in, tức là vào công suất thực tế của các máy in. Thành phẩm của các máy in ra đến đâu thì các máy hoàn thiện sách đều có thể đáp ứng. Vì vậy việc nâng cao công suất của các máy hoàn thiện và từ đó nâng cao hệ số huy dộng công suất thiết kế theo sản lượng là phụ thuộc vào việc nâng cao công suất của các máy in Từ bảng trên, ta thấy trong 3 năm qua hệ số huy động công suất thiết kế theo sản lượng tương đối cao và tăng năm sau cao hơn năm trước. Hệ số này thay đổi qua các năm và theo các loại máy. Năm 2000 hệ số huy động công suất tương đối cao. Đặc biệt các máy in nói chung, hệ số huy động công suất bằng 59,4%. Nhưng hệ số này lại không đồng đề giữa các loại máy. Máy in 2 màu công suất thực tế chỉ bằng 21,82% so với năng lực sản xuất. Trong khi đó máy in 1 màu lại tương đối cao và bằng 91,42% còn máy in 4 màu cũng đạt 77,57%. Các máy còn lại hệ số này cũng không cao lắm và lại không đồng đều giữa các máy. Điều đó là do năng lực sản xuất được xây dựng giữa các máy là không cân đối. Vì vậy mà trong khi 1 số máy có hệ số huy động công suất thiết kế là tương đối cao (Máy gấp bằng 80,87%; máy bắt sách đạt 81,65%) một số máy khác hệ số này lại tương đối thâp, đặc biệt là máy khâu thép chỉ đạt 41,1 %, máy xén 3 mặt bằng 50,03% . Sang năm 2001, tình hình này được thiện hơn. Tuy hệ số huy động công suất vẫn không đồng đều giữa các máy nhưng hệ số này đã tăng 1 cách đáng kể so với năm 2000. Hệ số huy động chung của các máy in đạt 68,93% tăng so với năm 2000 là 11,53%, đây là mức khá lớn. Đạt được điều đó là do công suất của các máy in tăng, tạo điều kiện tăng công suất thực tế của các máy hoàn thiện. Năm này công suất của máy in một màu tăng không đáng kể so với năm 2000, đó là do mức công suất này đa rất cao, gần bằng với công suất thiết kế do vậy mà tốc độ tăng chậm. Công suất thực tế của máy in 2 màu cũng tăng nhiều vì vậy mà hệ số huy động công suất thiết kế so với năm 2000 tăng 16,18%. Tuy nhiên hệ số này vẫn con rất thấp ( mới chỉ bằng 38%). Máy in 4 màu hệ số này rất cao (bằng 92,36%) tăng so với năm 2000 là 14,9%. Còn lại các máy hoàn thiện sách có công suất thực tế tăng theo cũng tương đối lớn . Vì vậy mà hệ số huy động công suất tăng tương đối cao so với năm 2000. Nhất là máy gấp và máy bắt sách hệ số này đã lên 93,91% và 94,81% tăng so với năm 2000 là 13,04% và 13,16% . Máy khâu thép và máy xén 3 mặt có hệ số này cũng tăng cao( khoảng 6,61% và 8,07%.) tuy nhiên các hệ số này còn thấp và chỉ bằng 47,71% và 58,1%. Đạt được thành tích trên là do năm 2001, NXBGD đã quan tâm giao chỉ tiêu sản lượng cho nhà máy ngay từ đầu năm và cơ cấu trang in đã hợp lý hơn. Sản phẩm in ngoài NXBGD của Nhà máy đã được chấp nhận, công tác điều độ sản xuất được hoàn thiện hơn. Sang năm 2002 tình hình không thay đổi nhiều. Hệ số huy động công suất đã tăng chậm lại đó là do hệ số huy động công suất của các máy in chỉ bằng 69,84%, chỉ tăng 0,91% so với năm 2001. Cụ thể là do: Máy in 1 màu và 4 màu công suất đã lên tới qua cao ( hệ số huy động công suất đã bằng 94,63% và 97,65%) nên không thể tăng nhiều được. Trong khi đó máy in 2 màu công suất thực tế lại giảm. Chính vì vậy hệ số này của các máy in chỉ đạt 64,84% và chỉ tăng 0,91%. Điều đó làm cho hệ số huy động của các máy hoàn thiện sách tăng không đáng kể. Nhưng trong đó hệ số này của máy gấp và máy bắt sách cũng rất cao( bằng 95,15% và 96,06%) và máy khâu chỉ cũng tương đối cao bằng 85,63%. Tóm lại, ta thấy hiện nay hệ số huy động công suất thiết kế của Nhà máy tương đối cao đó là máy in 1 màu và 4 màu, máy gấp và máy khâu thép. Vì vậy mà Nhà máy nên có những biện pháp để đầu tư thêm những máy móc loại này. Còn máy in 2 màu thì có công suất thực tế tương đối thấp so với năng lực sản xuất vì vậy cần phải có kế hoạch khai thác các sản phẩm có trang in 2 màu, đôi khi bắt buộc phải sử dụng để in 1 màu. Như vậy sẽ làm tăng công suất máy. Cũng từ đó mà làm tăng hệ số huy động công suất của máy in và kéo theo sự tăng thêm hệ số này của các máy hoàn thiện sách. Phân tích tình hình sử dụng máy móc thiết bị về mặt thời gian. Để đánh giá tình hình sử dụng máy móc thiết bị về mặt thời gian ta dùng hệ số sử dụng máy móc thiết bị về mặt thời gian. Ta sử dụng các hệ số sau: HTG = Thời gian làm việc thực tế Thời gian làm việc theo chế độ Hệ số này cho biết trong 1 năm máy móc thiết bị hoạt động bao nhiêu giờ, phải ngừng hoạt động bao nhiêu giờ. Hệ số này càng tiến tới 1 thì hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị càng cao. Trong thời gian qua, do tính chất sản xuất ổn định, sản xuất được tiến hành liên tục vì vậy mà thời gian làm việc của thực tế của máy móc thiết bị ở Nhà máy có điều kiện nâng cao. Cụ thể ta có thể xem xét tình hình sử dụng thời gian làm việc của máy móc thiết bị tại Nhà máy ở bảng 13 trang sau. Theo chế độ, Nhà máy quy định chung là mỗi máy làm việc 2 ca/ngày và một năm làm 273 ngày, trong đó 1 ca làm việc 8 tiếng. Không giống như các doanh nghiệp xây dựng có thời gian làm việc thực tế rất thấp so với thời gian làm việc theo chế độ. ở Nhà máy do tính chất sản xuất liên tục nên thời gian làm việc thực tế tương đối cao, và không có sự biến động lớn giữa các loại máy. Nhìn vào bảng trên, ta có thể thấy năm 2000 hệ số sử dụng thời gian cũng khá cao ở một số máy như máy in offset 1 màu, 4 màu, máy gấp và máy khâu chỉ (bằng 0,8; 0,58; 0,71; 0,79). Tuy nhiên máy in 2 màu có hệ số này rất thấp (chỉ bằng 0,19). Đó là do lượng đặt hàng về trang in 2 màu rất thấp so với năng lực sản xuất. Sang năm 2001, hệ số sử dụng thời gian của tất cả các loại máy đều tăng lên đáng kể và hệ số này của các loại máy là tương đối cao, đặc biệt là máy in 1 màu, máy gấp và máy khâu chỉ (bằng 0,82; 0,82; 0,92). Do vậy mà sang năm 2002, hệ số này cũng tăng nhưng không đánh kể. Nhìn chung 3 năm qua, ta thấy máy in 1 màu, 4 màu, máy gấp, máy khâu chỉ có hệ số sử dụng thời gian tương đối cao, do vậy mà hệ số huy động công suất của các máy này cũng rất cao (như đã phân tích ở phần trước). Có được nhữnh tình hình như trên là do 1 số nguyên nhân sau: Sản phẩm SGK tuy là có tính chất mùa vụ, nhưng lại có khả năng lưu kho nên Nhà máy có thể sản xuất từ tháng 11 năm trước cho đến hết tháng 8 năm sau. Đồng thời vào tháng 9, tháng 10. Nhà máy có thể thực hiện in sách tham khảo. Do vậy mà có thể làm giảm tính mùa vụ của sản xuất, làm cho sản xuất được tiến hành liên tục, nâng cao thời gian làm việc thực tế của máy móc thiết bị. Vào những lúc sản xuất cao điểm, thao chế độ thì Nhà máy chỉ làm việc 2 ca một ngày, nhưng lại huy động làm 3 ca 1 ngày, do vậy cũng tăng thời gian làm việc thực tế. Việc cung ứng nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất được thực hiện tương đối tốt. Hầu như các máy móc thiết bị của Nhà máy chưa từng phải ngừng máy do thiếu nguyên vật liệu. Điều này cũng tạo điều kiện cho máy móc thiết bị được hoạt động liên tục. Công tác bảo dưỡng máy hàng ngày, hàng tuần tạo điều kiện cho việc duy trì sự lâu bền của máy móc thiết bị và có thể kịp thời phát hiện sự cố và hỏng hóc để kịp thời sửa chữa, tránh để máy ngừng lâu. Tuy nhiên, ở Nhà máy lại không có công tác sửa chữa dự phòng, mà chỉ có sửa chữa khi phát hiện sự cố nên nhiều khi bị động và quá tải trong sửa chữa, làm cho thời gian ngừng máy kéo dài. Chế độ bảo dưỡng máy hàng ngày hàng tuần tốn khá nhiều thời gian gây nên thời gian ngừng máy dài. Đặc biệt lại với biên chế chỉ có 6 người trong tổ Cơ điện thì không tránh khỏi việc không hoàn thành nhiệm vụ sửa chữa nhanh chóng. Điều đó đã làm cho thời gian làm việc thực tế của máy móc thiết bị giảm xuống. Năng lực sản xuất được bố trí không đồng đều giữa các máy trong một dây chuyền sản xuất, gây nên tình trạnh một số máy thì làm việc khẩn trương còn một số máy thì không có việc để làm. Do vậy cũng ảnh hưởng đến sự không đồng đều giữa các máy về việc huy động thời gian làm việc theo chế độ. Trên đây là một số nguyên nhân chung cơ bản ảnh hưởng đến tình hình huy động máy móc thiết bị về mặt thời gian. Và trong mỗi năm lại có những nguyên nhân, lý do riêng cho sự tăng giảm hệ số huy động thời gian của mỗi loại máy móc thiết bị. IV. Phân tích công tác quản lý, bảo quản và sửa chữa, hiện đại hoá máy móc thiết bị tại Nhà máy. 1. Công tác quản lý máy móc thiết bị. 1.1. Phân tích hệ thống tổ chức quản lý máy móc thiết bị Hệ thống tổ chức quản lý máy móc thiết bị ở Nhà máy được chia làm các cấp. Ta có thể xem qua sơ đồ sau: Sơ đồ 2: Hệ thống tổ chức quản lý máy móc thiết bị. Công nhân vận hành máy PGĐ sản xuất - kỹ thuật P. kế hoạch vật tư Tổ Cơ điện Các phân xưởng sản xuất Tổ sản xuất P. kế toán tài vụ Như vậy, ở cấp Nhà máy hệ thống tổ chức quản lý gồm: PGĐ sản xuất - kỹ thuật, phòng kế hoạch vật tư, phòng kế toán tài vụ và tổ Cơ điện. Cấp này đóng vai trò chính trong việc quản lý máy móc thiết bị về mặt tài chính, kỹ thuật, thời gian huy động cũng như kế hoạch sửa chữa. PGĐ sản xuất kỹ thuật có trách nhiệm quản lý máy móc thiết bị, bổ sung và quản lý các quy trình quy phạm kỹ thuật liên quan đến sản xuất, an toàn lao động, quy định việc kiểm tra và nghiệm thu sản phẩm của từng công đoạn. Phòng kế hoạch vật tư có nhiệm vụ lập kế hoạch, quản lý việc mua sắm, đổi mới hệ thống máy móc thiết bị trên cơ sở đó phòng cũng thực hiện quản lý tiến độ huy động công suất vào sản xuất, có kế hoạch cung ứng vật tư cho sản xuất theo tiến độ. Phòng kế toán tài vụ có nhiệm vụ quản lý về mặt số lượng, giá trị từng loại máy. Quản lý việc tính và trích khấu hao, phân bổ chi phí khấu hao máy móc thiết bị. Tổ Cơ điện quản lý hồ sơ lý lịch của từng máy, có trách nhiệm thực hiện toàn bộ các hoạt động sửa chữa lớn, vừa, nhỏ máy móc thiết bị toàn Nhà máy, cung cấp điện cho sản xuất. Tại các phân xưởng, hoạt động quản lý và sử dụng máy móc thiết bị được thực hiện bởi chính các phân xưởng sản xuất đó thông qua các tổ sản xuất. Các quản đốc có nhiệm vụ nắm vững tình trạng kỹ thuật máy móc thiết bị mình quản lý, khai thác tối đa năng lực máy, tổ chức khắc phục, sửa chữa nhanh các hư hỏng bất thường; cunng cấp các thông tin, thông số kỹ thuật về máy móc thiết bị cho công nhân vận hành máy. Các tổ trưởng đôn đốc công nhân tuân thủ nghiêm túc nội dung, chất lượng bảo dưỡng ca kíp; tổ chức thực hiện đúng các quy trình, quy phạm về an toàn sử dụng máy. Các công nhân vận hành máy có trách nhiệm tuân thủ các quy trình quy phạm kỹ thuật khi vận hành máy, thực hiện bảo dưỡng và bảo quản máy hàng ca sản xuất. Đồng thời phải có trách nhiệm phản ánh, thông báo về tình trạng máy móc thiết bị cho bộ phận chuyên môn để sửa chữa. Với hệ thống tổ chức quản lý máy móc thiết bị này, việc sử dụng máy móc thiết bị trong toàn Nhà máy trở nên hiệu quả hơn, các phân xưởng chủ động trong việc sử dụng máy móc thiết bị thuộc phạm vi của mình, đảm trách những hỏng hóc thông thường trong phạm vi có thể. Điều đó nâng cao trách nhiệm của người công nhân trong sử dụng máy đảm bảo sự thông suốt trong quản lý. 1.2. Phân tích tình hình quản lý hồ sơ, lý lịch máy móc thiết bị Hồ sơ, lý lịch máy móc thiết bị là một bộ phận không thể thiếu được của mọi chương trình, kế hoạch sửa chữa bảo dưỡng tốt máy móc thiết bị. Máy móc thiết bị ngay từ khi đưa về đã cần phải lập hồ sơ chi tiết để quản lý, hồ sơ này phải được cập nhật hàng ngày về tình trạng hoạt động của máy móc thiết bị. ở Nhà máy in Diên Hồng, tổ Cơ điện chịu trách nhiệm lập và quản lý hồ sơ lý lịch này. Hồ sơ lý lịch có nội dung chính gồm: tên máy, năm đưa vào sử dụng, số các lần sửa chữa, các loại sửa chữa, tình trạng hiện nay ra sao, độ phức tạp sửa chữa … Tuy nhiên, việc quản lý hồ sơ này chưa được chặt chẽ, chỉ mang tính hình thức, sau mỗi lần thay dổi tổ trưởng là việc lập và quản lý hồ sơ lại bắt đầu lại từ đầu, song 1 thời gian sau lại không cập nhật hàng ngày. 1.3. Công tác tính và trích khấu hao máy móc thiết bị Việc tính và trích khấu hao máy móc thiết bị và sử dụng quỹ khấu hao cơ bản có một ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng máy móc thiết bị đảm bảo cho máy móc thiết bị hoạt động liên tục và luôn được hiện đại hoá. Việc tính khấu hao cũng có nhiều phương pháp, mỗi phương pháp lại có ưu nhược điểm riêng, có điều kiện vận dụng riêng, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phai rlựa chọn cho mình một phương pháp phù hợp. Nhà máy in Diên Hồng, hiện đang áp dụng phương pháp khấu hao tuyến tính cho tất cả TSCĐ của Nhà máy. Theo phương pháp này: Mức khấu hao máy móc thiết bị năm = Nguyên giá máy móc thiết bị Số năm sử dụng định mức Với phương pháp này, việc tính toán đơn giản, đảm bảo thu hồi vốn theo tuổi thọ máy móc thiết bị. Đồng thời nó cũng tạo ra sự ổn định về chi phí khấu hao trong giá thành, không gây nên những biến động lớn về giá. Đặc biệt nó rất phù hợp trong điều kiện Nhà máy có nhiệm vụ sản xuất ổn định qua các năm, và khối lượng sản phẩm tăng tương đối đồng đều. Và với các loại máy móc thiết bị của Nhà máy với phương pháp in offset vẫn thuộc loại tiên tiến ở nước ta, nên cũng không cần thiết phải thu hồi vốn nhanh hơn. Nhà máy đã quy định tất cả máy móc thiết bị của Nhà máy dùng cho sản xuất hoặc phục vụ sản xuất đều có số năm sử dụng định mức là 10 năm, vì vậy mà tỷ lệ khấu hao hàng năm là 10%. Do đó những máy móc thiết bị của Nhà máy được sử dụng từ năm 1993 trở về trước hiện đã khấu hao hết, chỉ còn lại một số máy do tiểu tu nhiều lần nên vẫn còn được tính và trích khấu hao. Bảng 13: Tình hình tính và trích khấu hao máy móc thiết bị Đơn vị: Triệu đồng Bộ phận Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 NG KH NG KH NG KH 1. Tổ cắt rọc 213,3 21,33 213,3 0 213,3 0 2. Tổ chế bản 211,92 18,57 230,22 20,402 230,22 20,402 3. Tổ cơ diện 27 2,7 27 2,7 27 2,7 4. Phân xưởng in offset 9593,17 808,34 9598,31 808,86 9598,31 808,86 5. Phân xưởng hoàn thiện 5145,78 451,3 5150,92 448,1 5150,92 448,1 Tổng cộng 15209,5 1302,24 15219,78 1280,1 15219,78 1280,1 Nguồn: Phòng Kế toán tài vụ Theo như bản trên ta thấy, mức khấu hao hàng năm của Nhà máy không thay đổi nhiều qua các năm. Mức này thay đổi chủ yếu là do một số máy móc thiết bị đã khấu hao hết năm trước thì năm sau không được trích nữa hoặc do Nhà máy đưa vào sử dụng thêm máy móc thiết bị. Năm 2000, mức khấu hao của toàn Nhà máy là là 1.302,24 (triệu đồng), sang năm 2001 mức khấu hao có thấp hơn mặc dù nguyên giá thì có tăng lên đó là do một số máy đã khấu hao hết từ năm 2000. Cụ thể, số máy móc của Tổ cắt rọc đã không phải trích khấu hao, và việc trích thêm của một số máy mới đưa vào sử dụng năm 2001 không đủ để bù vào khoản giảm đi. Năm 2002, không có sự biến động nào về việc mua sắm thêm hay có thêm máy đã khấu hao hết nên mức khấu hao bằng với năm 2001. Ngoài việc tính và trích khấu hao hợp lý, các doanh nghiệp còn phải biết sử dụng quỹ khấu hao đúng mục đích. Hiện nay quỹ khấu hao của Nhà máy chỉ được sử dụng cho việc đầu tư mua sắm mới TSCĐ, còn ngoài ra không được sử dụng dụng vào mục đích gì khác, kể cả cho công tác sửa chữa. Hàng năm mức khấu hao máy móc thiết bị rất lớn, khoảng hơn 1tỷ đồng, nhưng việc mua sắm lại rất hạn chế, do vậy một lượng vốn lớn nhàn rỗi 2. Phân tích công tác bảo quản và sửa chữa máy móc thiết bị. Công tác sửa chữa máy móc thiết bị là một hoạt động hết sức quan trọng, nó ảnh hưởng tới rất nhiều vấn đề khác nhau như : vấn đề sử dụng thời gian làm việc thực tế của máy móc thiết bị, tới vấn đề huy động công suất thực tế của máy vào sản xuất, tới chất lượng sản phẩm đầu ra … Qua đó ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Công tác sửa chữa tốt sẽ đảm bảo máy móc thiết bị hoạt động trơn tru, luôn trong tình trạng tốt, giảm bớt thời gian ngừng máy, tăng thời gian hoạt động thực tế của máy móc, đảm bảo chất lượng sản phẩm đầu ra, giảm tối đa phế phẩm, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn doanh nghiệp. Nội dung của công tác này bao gồm: việc theo dõi, kiểm tra, xác định trạng thái hoạt động của máy móc thiết bị nhằm lập kế hoạch bảo dưỡng, sửa chữa máy móc thiết bị định kỳ hoặc đột xuất. Hiện tại Nhà máy có các hình thức sửa chữa sau: bảo dưỡng máy móc hàng ngày, hàng tuần và sửa chữa khi có sự cố. Hệ thống tổ chức sửa chữa bảo dưỡng máy móc thiết bị được thực hiện như sau: Tổ Cơ điện chịu trách nhiệm sửa chữa vừa và sửa chữa lớn. Phân xưởng chịu trách nhiệm sửa chữa nhỏ thiết bị do mình phụ trách. Công nhân vận hành máy chịu trách nhiệm bảo dưỡng máy móc thiết bị được giao sử dụng. Như vậy, Nhà máy thực hiện hình thức sửa chữa hỗn hợp. Thực hiện sửa chữa phân tán đối với các loại hỏng hóc thông thường và được thực hiện trực tiếp bởi các phân xưởng sản xuất với biên chế bình quân mỗi phân xưởng từ 1 đến 2 công nhân kỹ thuật làm nhiệm vụ sửa chữa. Còn đối với trường hợp sửa chữa lớn, nếu thuận lợi, Nhà máy sẽ tập trung đưa về cho tổ Cơ điện sửa chữa hoặc thuê ngoài. Đối với từng phân xưởng, sẽ phải thực hiện bảo dưỡng máy hàng ngày, hàng tuần và sửa chữa thông thường khi máy có sự cố. Hàng ngày ở mỗi ca sản xuất, vào đầu và cuối ca làm việc công nhân đứng máy phải kiểm tra, lau chùi và tra dầu mỡ cho máy móc thiết bị. Nếu phát hiện có bộ phận nào dơ dão có thể sẽ hỏng, nếu sửa chữa được thì sửa chữa còn nếu không thì phải thông báo cho người phụ trách. Hàng tuần máy móc được bảo dưỡng, trách nhiệm thuộc về công nhân kỹ thuật của mỗi phân xưởng và dưới sự giám sát của PGĐ sản xuất - kỹ thuật và tổ Cơ điện. Thời gian bảo dưỡng máy hàng tuần như sau: Máy in offset 1 và 2 màu : 2h/ca/tuần. Máy in offset 4 màu : 4h/ca/tuần. Các máy móc thiết bị khác : 1h/ca/tuần. Thời gian bảo dưỡng phải được ấn định theo lịch cụ thể. Và phải được thông báo cho PGĐ và tổ Cơ điện. Ngoài việc bảo dưỡng máy hàng tuần như vậy, thì Nhà máy còn có hình thức sửa chữa máy khi có sự cố: Đối với những hỏng hóc thông thường, trách nhiệm sửa chữa thuộc về công nhân vận hành máy hoặc công nhân kỹ thuật thuộc phân xưởng. Còn đối với sửa chữa vừa và sửa chữa lớn; khi có hỏng hoặc có dấu hiệu hỏng mà không thuộc trách nhiệm sửa chữa của phân xưởng thì quản đốc sẽ thông báo cho PGĐ sản xuất - kỹ thuật và tổ Cơ điện để lập biên bản, xác định nguyên nhân và tìm giải pháp để tiến hành sửa chữa. Thực tế, Nhà máy vẫn chưa bao giờ thực hiện một đợt sửa chữa lớn nào, đó là do hiện nay máy móc thiết bị đã cũ, đã sản xuất từ lâu nên trên thị trường không có các phương tiện thiết bị để có thể thay thế toàn bộ, mà nếu có thì chi phí lại gần bằng với dầu tư mua sắm mới. Và điều đó đã hạn chế khả năng hiện đại hoá máy móc thiết bị trên cơ sở máy móc thiết bị hiện có và cũng là do tâm lý muốn tận dụng triệt để giá trị sử dụng của máy. Nhà máy cũng không có kế hoạch sửa chữa dự phòng mà chỉ có việc bảo dưỡng máy hàng ngày, hàng tuần và thông qua đó thì phát hiện các bộ phận bị hỏng và các bộ phận có dấu hiệu hỏng để sửa chữa, như vậy thì có thể phát hiện kịp thời sự cố để có thể sửa chữa ngay, nhưng với trình độ của người công nhân vận hành máy và công nhân kỹ thuật chưa thể phát hiện được hết những hỏng hóc có thể xảy ra. Vì vậy mà khi sự cố xảy ra thì mới tiến hành sửa chữa nên nhiều khi thiếu vật tư, phụ tùng cho công tác sửa chữa. Cộng với biên chế chỉ có 6 người trong tổ Cơ điện trong đó chỉ có 3 người làm nhiệm vụ sửa chữa thì việc ách tắc trong sửa chữa là không thể tránh khỏi, do đó làm tăng thời gian ngừng máy để sửa chữa. 3. Phân tích công tác đổi mới máy móc thiết bị Việc đầu tư mua sắm mới máy móc thiết bị là 1 việc làm tất yếu để mỗi doanh nghiệp tiếp tục khẳng định vị trí, uy tín của mình lâu nay trên thương trường, đồng thời không ngừng nâng cao năng lực sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Từ năm 1991 đến nay, Nhà máy đã đầu tư mới một số loại máy móc thiết bị, ta có thể xem qua bảng sau: Bảng 14: Tình hình mua sắm mới áy móc thiết bị Đơn vị: (Trđ) Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 GT mmtb 1326,7 37 107,9 906 6200,8 2399,57 Năm 1997 1998 1999 2000 2001 2002 GT mmtb 86 3343,43 0 57,9 28,58 0 Nguồn: Phòng kế toán tài vụ Việc đầu tư đổi mới máy móc thiết bị không thể xem xét trong thời gian ngắn, mà ta phải xem trong thời kỳ dài. và việc đầu tư không phải là Nhà máy sau hơn năm trước là tốt, mà nó phải có trọng điểm vào từng thời điểm cụ thể. Từ năm 1991 đến nay Nhà máy có 3 thời điểm đầu tư lớn máy móc thiết bị. Đó là vào năm 1991, 1995 và 1996, 1998 Năm 1991, Nhà máy đầu tư tổng giá trị là 1.326,7 (trđ), vào 3 máy là máy phơi bản + bộ nguồn cho tổ Chế bản, máy in 2 màu cho phân xưởng in và máy khâu chỉ cho phân xưởng Hoàn thiện. Hiện tại các máy vẫn còn hoạt động tốt. Năm 1995 + 1996: Đây là thời kỳ đầu tư lớn nhất. Giá trị đầu tư thời kỳ này là 8.600,37 (trđ) đây là một con số khá lớn đối với Nhà máy. Thời kỳ này để tăng năng lực sản xuất cho toàn Nhà máy, nên đã thực hiện đầu tư 3 máy in 2 màu và 1 máy dao một mặt cho phân xưởng in; 2 máy gấp và 1 máy vào bìa cho phân xưởng Hoàn thiện. Việc tăng năng lực sản xuất ở 2 phân xưởng sản xuất chính đã làm cho năng lực toàn Nhà máy tăng lên rất lớn. Năm 1998, tổng giá trị đầu tư lúc này là 3.343,43 (trđ). Lúc này do đòi hỏi của việc in trang nhiều màu, nên Nhà máy đã đầu tư 1 máy in 4 màu và hiện nay máy này đã sử dụng gần hết công suất. Đồng thời thì cũng phải tăng năng lực của phân xưởng Hoàn thiện nên ở phân xưởng này cũng được trang bị rất nhiều máy. Việc đầu tư máy móc thiết bị của Nhà máy chủ yếu là từ nguồn vốn vay và vồn tự có. Từ năm 1995 trở về trước thì có một phần máy móc thiết bị đầu tư được vốn ngân sách tài trợ nhưng từ đó trở đi thì tự Nhà máy phải lo liệu lấy bằng việc trích từ quỹ khấu hao hoặc vay hoặc trích từ nguồn vốn kinh doanh. Nhưng việc trích này cũng có hạn, chỉ tài trợ được cho những máy có giá trị nhỏ dưới 100 trđ. Còn lại chủ yếu là từ vốn vay và trích từ quỹ khấu hao máy móc thiết bị. Từ năm 1998 đến nay thì chưa có một đợ đầu tư lớn nào khác, nhất là năm 1999 và năm 2002 đã không có một sự đầu tư nào. Năm 2000 và năm 2001 sự đầu tư tương đối thấp và không làm ảnh hưởng đến năng lực sản xuất toàn Nhà máy. Các máy in 1 màu của Nhà máy đã được đầu tư từ trước năm 1991, hiện đã rất cũ, và lại không được đại tu sửa chữa lớn kết hợp với hiện đại hoá mà lại phải hoạt động gần hết công suất thiết kế vì vậy cần phải có kế hoạch đầu tư thêm hoặc hiện đại hoá các máy này. V. Phân tích tình hình thực hiện các chỉ tiêu hiệu quả trong công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị tại Nhà máy in Diên Hồng. 1. Chỉ tiêu sức sản xuất của máy móc thiết bị Chỉ tiêu này có thể được tính theo doanh thu hoặc theo khối lượng sản phẩm sản xuất ra: HDT = Tổng doanh thu Tổng giá trị máy móc thiết bị HSL = Tổng sản lượng Tổng giá trị máy móc thiết bị Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng giá trị máy móc thiết bị tham gia sản xuất trong 1 năm thì tạo được mấy đồng doanh thu hoặc bao nhiêu sản phẩm. Ta có thể xem xét trong bảng sau: Bảng 15: Sức sản xuất của máy móc thiết bị Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2000 Năm 2001 Năm2002 Thực hiện so với năm 2000 Thực hiện so với năm 2000 Tổng doanh thu Trđ 13105 17996 4891 14000 - 3996 Tổng sản lượng Trđ 2670 3018,7 348,7 3080,9 - 62,2 Gtrị máy móc thiết bị Trđ 15209,5 15219,8 10,28 15219,8 0 Hdt đ/đ 0,86 1,18 0,32 0,92 - 0,26 Hsl Ttr/trđ 0,176 0,198 0,022 0,202 0,004 Nguồn: Phòng kế hoạch - vật tư Theo bảng trên thì ta thấy, nhìn chung 3 năm qua chỉ tiêu sức sản xuất có tăng. Nhưng năm 2002, chỉ tiêu sức sản xuất theo doanh thu giảm 0,26 (đ/đ), có nghĩa là 1 đồng giá trị máy móc thiết bị bị tạo ra được ít doanh thu hơn, trong khi đố sức sản xuất theo sản lượng lại tăng 0,004 (triêu trang/triệu đồng). Đó là do năm 2002 Nhà máy tập trung chủ yếu vào việc in cho NXBGD, nên mặc dù sản lượng có tăng nhưng giá công in cho NXBGD lại thấp hơn nhiều so với in ngoài nên doanh thu vẫn thấp hơn. Điều này càng đòi hỏi Nhà máy phải tích cực trong việc khai thác các sản phẩm in ngoài NXBGD. 2. Chỉ tiêu khả năng sinh lợi và nộp ngân sách của máy móc thiết bị. Chỉ tiêu này được tính bằng cách: HLN = Lợi nhuận Tổng giá trị máy móc thiết bị HNS = Các khoản nộp ngân sách Tổng giá trị máy móc thiết bị Hai chỉ tiêu này cho biết, 1 đồng giá trị máy móc thiết bị tạo ra mấy đồng lợi nhuận và nộp ngân sách được bao nhiêu. Ta có thể xem trong bảng dưới đây: Bảng 16: Khả năng sinh lợi và nộp ngân sách Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2000 Năm 2001 Năm2002 Thực hiện so với năm 2000 Thực hiện so với năm 2000 Lợi nhuận Trđ 267,58 273,02 5,44 256,92 - 16,102 Các khoản nộp NS Trđ 258,95 483,26 224,31 441,58 - 41,69 Gtrị máy móc tb Trđ 15209,5 15219,8 10,28 15219,8 0 HLN đ/trđ 17592,95 17.938,5 345,55 16.880,5 - 1.058 HNS đ/trđ 17025,7 31752,2 14726,5 29013,35 - 2.738,8 Nguồn: Phòng kế hoạch - vật tư Theo như trên ta thấy, các chỉ tiêu của Nhà máy không tăng đều qua các năm, năm 2001 là năm có các chỉ tiêu cao nhất. Nhưng so với năm 2000 chỉ tiêu khả năng sinh lợi chỉ tăng 345,55 đồng trên 1 triệu đồng giá trị máy móc thiết bị. Do vậy mà lợi nhuận chỉ tăng khoảng hơn 5 triệu. Đồng thời các khoản nộp ngân sách thì tăng nhiều và khả năng nộp ngân sách cũng tăng khoảng 14.726,5 đồng trên 1 triệu giá trị máy móc thiết bị. Năm 2002, tất cả các chỉ tiêu đều giảm so với năm 2001. Ta thấy tất cả các chỉ tiêu hệ số huy động công suất, hệ số huy động thời gian làm việc của Nhà máy đều tăng năm sau cao hơn năm trước, do vậy mà sức sản xuất theo sản lượng tăng nhưng do một số nguyên nhân , nên sức sản xuất của máy móc thiết bị theo doanh thu năm 2002 lại giảm so với năm 2001 đó là nguyên nhân khách quan thuộc về NXBGD. 3. Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng chi phí khấu hao máy móc thiết bị. Ta có thể tính như sau: KDT = Tổng doanh thu Khấu hao máy móc thiết bị KLn = Tổng lợi nhuận Khấu hao máy móc thiết bị Hai chỉ tiêu này cho biết 1 đồng chi phí khấu hao tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hoặc lợi nhuận. Cụ thể ta có thể xem xét các chỉ tiêu trong bảng sau: Bảng17: Hiệu quả sử dụng chi phí khấu hao Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2000 Năm 2001 Năm2002 Thực hiện so với năm 2000 Thực hiện so với năm 2000 Lợi nhuận Trđ 267,58 273,02 5,44 256,92 - 16,102 Tổng doanh thu Trđ 13105 17996 4891 14000 - 3996 Khấu hao mmtb Trđ 1302,24 1280,1 - 22,14 1280,1 0 KDT đ/đ 10,06 14,06 4 10,94 - 3,12 KLn đ/đ 0,205 0,213 0,008 0,2 - 0,013 Nguồn: Phòng kế hoạch - vật tư Năm 2000, 1 đồng chí phí khấu hao tạo ra 10,06 đồng doanh thu và 0,205 đồng lợi nhuận. Năm 2001 con số này cao hơn, 1 đồng chi phí tạo ra 14,06 đồng doanh thu và 0,213 đồng lợi nhuận( tăng 4 đồng doanh thu và 0,008 đồng lợi nhuận so với năm 2000). Sang năm 2002 các chỉ tiêu này giảm xuống, chỉ còn xấp xỉ bằng năm 2000, năm này 1 đồng chi phí khấu hao chỉ tạo ra 10,94 đồng doanh thu và 0,2 đồng lợi nhuận ( giảm so với năm 2001 là 3,12 đồng doanh thu và 0,013 đồng lợi nhuận ) Do việc trích khấu hao đều và trong điều kiện ít đầu tư thêm máy móc thiết bị thì trong 3 năm này chi phí khấu hao là tương đương nhau. Trong khi điều kiện kinh doanh có thau đổi và doanh thu, lợi nhuận giảm. VI. Đánh giá chung về công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị tại Nhà máy in Diên Hồng - NXBGD. 1. Một số thành tích đã đạt được. Tình hình chung: trong những năm qua, tình hình lợi nhuận của doanh nghiệp không giảm trong điều kiện giá công in giam, chi phí sản xuất kinh doanh tăng là 1 điều cố gắng lớn. thu nhập bình quân đầu người thuộc loại trung bình khá so với các nhà in khác và cũng tăng qua các năm do vậy đời sống cán bộ công nhân viên chức của Nhà máy được cải thiện. Chất lượng sản phẩm qua 1 số năm được đánh giá là 100% loại A. Tiến độ sản xuất đã được Nhà máy quan tâm, về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu của các quyết định in và các hợp đồng kinh tế. Tình hình đầu tư đổi mới : Hiện nay, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp cũng khá, tình hình tự chủ của nhà máy về vốn là khá tốt vì vậy có khả năng sử dụng nguồn vốn này để đầu tư mới, sửa chữa, để nâng cấp máy móc thiết bị, công nghệ… Từ năm 1991 đến nay Nhà máy đã áp dụng công nghệ in offset, cho đến nay công nghệ này vẫn thuộc loại tiên tiến cho chất lượng in đẹp. Nhà máy đã thực hiện ba đợt đầu tư mua sắm mới có giá trị. Hầu hết là các máy móc thiết bị tiên tiến hiện đại, hầu hết là các máy móc bán tự động Nhà máy đầu tư có đủ các loại máy: máy in 1 màu, 2 màu, 4 màu để đáp ứng yêu cầu in màu. Tuy số lượng máy móc thiết bị đã cũ nhưng còn hoạt động tốt, năng lực sản xuất của các loại máy là không đồng bộ nhưng nhà máy đã cố gắng quản lý và sử dụng chúng 1 cách linh hoạt, đảm bảo việc bố trí sắp xếp các loại máy giữa các khâu trong quá trình sản xuất hợp lý đảm bảo tính liên tục. Về mặt sử dụng máy móc thiết bị : có thể thấy máy móc thiết bị của Nhà máy được huy động sử dụng 100% về số lượng. Nhà máy luôn có 2 đợt kiểm kê TSCĐ vào cuối quý II và quý IV hàng năm thông qua đó mà có kế hoạch thanh lý kịp thời những máy móc thiết bị không sử dụng hoặc có kế hoạch mua sắm nếu cần thiết và đưa vào sử dụng ngay. Đồng thời công suất huy động của các máy cũng rất cao như : Máy in 1 màu 94,63%, máy in 4 màu đạt 97,65%, máy gấp bằng 95,15%, máy bắt sách đạt 96,06%. Đặt trong bối cảnh tình trạng máy móc thiết bị tại Nhà máy đã cũ và lại không đồng bô, thì thành tích dạt được ở trên là do Nhà máy đã có những chính sách quản lý thích hợp công tác điều độ sản xuất được thực hiện có hiệu quả. Về công tính và trích khấu hao : công tác tính và trích khấu hao của Nhà máy luôn đảm bảo tính đúng và tính đủ. Nhờ vậy trong những năm qua Nhà máy khấu hao 1 cách hợp lý máy móc thiết bị, đảm bảo việc duy trì ổn định giá thành sản phẩm. Đồng thời sử dụng đúng quỹ khấu hao cho việc mua sắm thêm máy móc thiết bị. Về tổ chức quản lý máy móc thiết bị : Trách nhiệm quản lý máy móc thiết bị được giao đến tận người công nhân vận hành máy. Từng bộ phân có trách nhiệm và quyền hạn riêng trong việc quản lý và sử dụng máy móc thiết bị. Về công tác bảo dưỡng, bảo quản máy móc thiết bị ở từng nơi làm việc: Nhà máy rất coi trọng công tác bảo dưỡng máy móc thiết bị hàng ngày và hàng tuần. Mỗi ca trước khi làm, người công nhân đứng máy phải kiểm tra tình trạng hoạt động của máy, sau ca làm việc thì phải lau chùi, tra dầu mỡ. Công tác bảo dưỡng hàng tuần cũng được coi trọng và phải mất rất nhiều thời gian. Công tác sửa chữa thì được quy định chặt chẽ hơn đó là phải lập biên bản và phải báo cho PGĐ sản xuất - kỹ thuật và tổ Cơ điện. Tất cả các công tác này đều được áp dụng các hình thức khuyến khích vật chất rõ ràng nên luôn đảm bảo thực hiện tốt, tình trạng kỹ thuật máy móc thiết bị luôn được theo dõi. Công tác cung ứng nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất luôn đáp ứng được nhu cầu của sản xuất, chưa từng xảy ra tình trạng thiếu nguyên vật liệu cho sản xuất. Công tác đào tạo nguồn nhân lực cho công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị: Hàng năm Nhà máy đều có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ quản lý, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân vận hành máy tại trường trung cấp in. Hàng năm đều tổ chức thi nâng bậc cho công nhân, tạo điều kiện khuyến khích họ phấn đấu, nâng cao tay nghề, phát huy sáng kiến, làm tăng khả năng sử dụng thành thạo máy móc thiết bị… 2. Những tồn tại Công tác đổi mới máy móc thiết bị: Cho tới nay Nhà máy vẫn còn đang sử dụng 1 số loại máy móc thiết bị đã được trang bị từ lâu, công suất, năng suất lao động không cao nhưng do vẫn còn khả năng tận dụng được nên Nhà máy vẫn duy trì việc sử dụng chúng, gây cản trở tới công tác đầu tư mua sắm mới máy móc thiết bị. Trong phần trước ta thấy từ năm 1991 đến nay Nhà máy đã thực hiện đầu tư đổi mới 3 lần lớn nhưng từ năm 1998 đến nay thì không có 1 sự đầu tư nào cho việc đổi mới để làm hiện đại hơn hay tăng năng lực sản xuất. Việc đại tu máy móc kết hợp với hiện đại hoá máy móc cũng không được thực hiện. Một số máy móc đã được dùng từ năm 1968 và từ năm1988 mà vẫn chưa được đổi mới hay đại tu. Vì vậy hệ thống hay hỏng hóc bất thường, có nguy cơ gây mất an toàn lao động, sản phẩm sản xuất ra chất lượng kém, đồng thời quá trình vận hành tiêu hao rất nhiều nguyên vật liệu, năng lượng. Hàng năm Nhà máy mất khá nhiều thời gian cho việc sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị. Thời gian huy động máy móc thiết bị còn thấp, cho thấy khả năng huy động máy móc thiết bị vào sản xuất còn hạn chế, thời gian ngừng máy còn nhiều. Hệ số huy động thời gian làm việc theo chế độ không đồng đều giữa các máy. Trong khi một số máy phải làm việc khẩn trương thì một số máy khác lại không có việc để làm. Hệ số huy động công suất thiết kế của một số máy cũng còn thấp và cũng còn không đồng đều. Công tác bảo dưỡng sửa chữa máy móc thiết bị: Công tác này đã có sự phân cấp trách nhiệm rõ ràng cho các bộ phận, tới từng công nhân đứng máy nhưng chưa thật hiệu quả. Tuy dã có chế dộ bảo dưỡng máy hàng ngày hàng tuần, nhưng chế độ này tốn khá nhiều thời gian, và nhiều khi cũng không phát hiện được hết sự cố có thể xảy ra. Đồng thời Nhà máy chưa có chế độ sửa chữa dự phòng mà mới chỉ thực hiện sửa chữa khi có sự cố xảy ra, trong khi đó với biên chế tổ Cơ điện chỉ có 6 người và lại chỉ có 3 người làm nhiệm vụ sửa chữa. Nên nhiều khi sự cố xảy ra thì không sửa chữa kịp, gây ùn tắc trong sửa chữa. Trình độ người sửa chữa nhiều khi không đảm đương nổi một số hỏng hóc, do vậy mà phải đi thuê, làm cho thời gian ngừng máy càng kéo dài. Công tác tính và trích khấu hao: Nhà máy hiện đang sử dụng phương pháp khấu hao tuyến tính là phù hợp, nhưng lại quy định cho tất cả các loại máy móc đều có 10 năm sử dụng định mức. Đây là 1 điều bất hợp lý, vì mỗi loại máy móc đều có công dụng riêng, tuổi thọ riêng, yêu cầu về thu hồi vốn đầu tư riêng nên không thể quy định như vậy. Đồng thời chi phí khấu hao trên 1 trang in của Nhà máy là rất cao so với các nhà in khác trong ngành. Công tác quản lý hồ sơ máy móc thiết bị: Tuy mỗi máy móc khi mua về đều được lập hồ sơ riêng nhưng việc quản lý hồ sơ lại không được coi trọng, công tác cập nhật hồ sơ cũng không được thực hiện đầy đủ. Nhà máy còn thiếu 1 đội ngũ công nhân lành nghề để đảm đương việc in những sản phẩm chất lượng cao. Vào những thời điểm nhàn rỗi là lúc để Nhà máy khai thác các hợp đồng in màu chất lượng cao như : tờ rơi, pano, appích … nhưng do thiếu đội ngũ công nhân có tay nghề giỏi để đảm đương việc in vì vậy mà đã không ký được hợp đồng nào. Đó là do Nhà máy chưa có chế độ chính sách phù hợp đủ để giữ chân những người thợ giỏi, những người thợ làm việc lâu năm có kinh nghiệm, nếu họ được nâng bậc lên cao là lại từ bỏ Nhà máy do vậy mà Nhà máy đang rất thiếu một đội ngũ công nhân bậc 5 trở lên. Đòi hỏi Nhà máy cần phải xem xét lại chế độ chính sách của mình để tạo sự gắn bó cho những người lao động đối với Nhà máy. 3. Một số nguyên nhân của tình trạng trên 3.1. Một số nguyên nhân khách quan: Nhà máy là một đơn vị thành viên của NXBGD, tuy thực hiện hạch toán độc lập nhưng nhiều khi vẫn phải được sự đồng ý của NXBGD thì mới thực hiện được một số việc, hoặc muốn phát triển thì phải có chủ trương của NXBGD. Nói chung Nhà máy còn phụ thuộc rất nhiều vào NXBGD về các chính sách phát triển lớn. Đồng thời hàng năm NXBGD giao một chỉ tiêu sản lượng lớn cho Nhà máy, và điều này cũng hoàn toàn phụ thuộc vào NXBGD, sự cân đối giữa các loại trang in tạo điều kiện cho Nhà máy tận dụng hết công suất máy, nhưng hàng năm cơ cấu này lại không được cân đối do vậy mà công suất huy động của các máy không được đồng đều, có những lúc phải sử dụng máy in 2 màu cho việc in một màu gây lãng phí rất lớn. Việc đầu tư, trang bị mới máy móc thiết bị để nâng cao năng lực của Nhà máy phụ thuộc vào việc NXBGD có chủ trương muốn phát triển Nhà máy hay không. Chính vì vậy, hiện nay theo chủ trương của NXBGD là tạm thời chưa nâng cao năng lực của Nhà máy do vẫn còn đáp ứng được các chỉ tiêu sản lượng. Điều này giải thích vì sao trong những năm qua Nhà máy chưa thực hiện một đợt đầu tư lớn nào. Do dặc thù của việc in gia công là lợi nhuận bị chia sẻ do vậy mà qua các năm khả năng sinh lợi của máy móc thiết bị rất thấp, và vì vậy lợi nhuận cũng thấp. Do đặc điểm của việc in SGK, là sản phẩm mang tính thời vụ, do vậy việc sản xuất cũng mang tính thời vụ. Đồng thời Nhà máy lại có nhiệm vụ số 1 là in SGK cho NXBGD nên đã không tích cực trong việc tìm kiếm các hợp đồng in bên ngoài, do đó đã không làm giảm được tính mùa vụ trong sản xuất, ảnh hưởng đến việc huy động thời gian và công suất máy. 3.2. Một số nguyên nhân chủ quan Khi hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị của Nhà máy chưa cao do khối lượng công việc chưa nhiều, giá công in của NXBGD còn thấp thì công tác tiếp thị mở rông thị trường in gia công cho các khách hàng ngoài NXBGD chưa được coi trọng. Vì vậy mà chưa giảm được tính mùa vụ của sản xuất, giảm khả năng huy động thời gian, công suất của máy móc. Tâm lý muốn tận dụng 1 cách triệt để giá trị sử dụng của máy móc thiết bị dẫn tới việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới phục vụ công tác hiện đại hoá máy móc thiết bị chậm trễ. Mặc dù nhiều máy móc thiết bị đã khấu hao hết, đã cũ nhưng vẫn còn sử dụng được. Việc này ảnh hưởng về lâu dài tới năng lực sản xuất của toàn Nhà máy. Chính vì tâm lý trên, mà việc đầu tư được thực hiện không đồng bộ, ở đâu thiếu thì đầu tư, cái nào không dùng được nữa thì đổi mới, do vậy mà số lượng, chủng loại máy không đồng bộ. Năng lực sản xuất của các máy trong một dây chuyền không cân đối, gây ảnh hưởng tới khả năng huy động công suất và thời gian của từng máy. Công nhân kỹ thuật của Nhà máy hầu hết là từ bậc 4 trở xuống và có 1 tỷ lệ lớn lao động mùa vụ thuê hàng năm. Do đó khả năng sử dụng máy móc thiết bị của công nhân còn nhiều hạn chế, năng suất hoạt động của máy móc thiết bị không cao. Đội ngũ công nhân còn gặp khó khăn trong công tác bảo dưỡng, sửa chữa máy móc thiết bị cũng như cải tiến kỹ thuật máy móc thiết bị sao cho phù hợp với điều kiện sản xuất của Nhà máy, phát huy hết khả năng sản xuất của máy móc thiết bị. Phần III: Một số biện pháp cơ bản nhằm quản lý và sử dụng có hiệu quả máy móc thiết bị tại Nhà máy in Diên Hồng 1. Biện pháp thứ nhất: Hoàn thiện công tác bảo dưỡng,sửa chữa dự phòng theo kế hoạch 1.1. Cơ sở lý luận Máy móc thiết bị chiếm vị trí cơ bản trong tông năng lực sản xuất của doanh nghiệp, ảnh hưởng quyết định đến số, chất lượng sản phẩm sản xuất ra,đến yêu cầu quá trình sản xuất cân đối, nhịp nhàng và liên tục. Xét về mặt vốn thì nó là hình thái vật chất của vốn cố định, chiếm 1 tỷ trọng lớn trong tổng số vốn dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy cũng như các loại vốn khác nó cần phải được bảo toàn và phát triển. Máy móc thiết bị chịu ảnh hưởng của 2 loại hao mòn là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình, công tác sửa chữa, bảo dưỡng dự phòng có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc duy trì hoạt động bình thường, ổn định của máy móc thiết bị, công tác này thực hiện tôt sẽ góp phần kéo dài tuổi thọ của máy móc thiết bị qua đó sẽ giảm gánh nặng phải trích khấu hao nhiều cho doanh nghiệp, mặt khác nó làm giảm sự cố hỏng hóc trong quá trình sử dụng và giảm thời gian ngừng việc do máy móc thiết bị hỏng. Mỗi máy móc thiết bị đôi khi lã những mắt xích quan trọng, nhất là các dây chuyền sản xuất hiện đại, tính chuyên môn hoá cao, nếu một bộ phận máy móc thiết bị hỏng sẽ kéo theo sự ngừng trệ cả dây chuyền sản xuất và cả quá trình sản xuất. Việc sửa chữa dự phòng theo kế hoạch lấy quan điểm sửa chữa dự phòng làm chính, không đợi máy móc thiết bị hỏng mới sửa chữa.Vì vậy mà việc bảo dưỡng, sửa chữa định kỳ thường không gây ảnh hưởng tới lịch trình bởi công việc này đã được xác định từ trước. Do đó nó sẽ giảm tối đa việc ngừng máy có ảnh hưởng tới quá trình sản xuất. Công tác này cũng bao gồm việc kiểm tra thường xuyên do đó cũng phát hiện 1 cách kịp thời những sai hỏng nhỏ nhất, tiến hành sửa chữa tại chỗ, tránh tình trạng phát sinh những hỏng hóc lớn, phải sửa chữa lớn kéo theo thời gian sửa chữa kéo dài, tăng chi phí cho sửa chữa. ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh chung của toàn doanh nghiệp. 1.2. Cơ sở thực tiễn: Hệ thống máy móc thiết bị trong Nhà máy hầu hết đã cũ, một số đã khấu hao hết và một số thì đã mua từ khoảng năm 1990 do vậy mà sự cố, hỏng hóc cũng theo đó mà tăng cao. Hàng năm Nhà máy phải tiến hành đại tu để duy trì hoạt động của máy móc thiết bị, phải sửa chữa,khác phục rất nhiều sự cố bất thường. Điều này đã ảnh hưởng tới việc huy động công suất của dây chuyền cũng như khả năng tận dụng thời gian làm việc theo chế độ. Đồng thời nó cũng ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm làm ra và lượng tiêu hao nguyên vật liệu, năng lượng. Hiện nay, hầu hết máy móc thiết bị của Nhà máy chưa được đại tu lần nào, điều này càng hay gây ra hỏng hóc bất thường cho máy móc thiết bị. Nhà máy có 2 phân xưởng sản xuất chính và mỗi phân xưởng trong Nhà máy đều có từ 1 đến 2 công nhân kỹ thuật làm nhiệm vụ bảo dưỡng, sửa chữa những hư hỏng bất thường, còn những hư hỏng lớn hơn thì do tổ Cơ điện đảm nhận. Do vậy khi đột xuất có nhiều có nhièu hư hỏng xảy ra vượt quá khả năng của công nhân kỹ thuật của phân xưởng thì máy móc thiết bị phải dừng khá lâu để chờ thợ sửa chữa của tổ Cơ điện . Điều này coá thể kéo theo cả hệ thống dây chuyền sản xuất đều phải ngừng hoạt động. Do vậy, mà Nhà máy không được coi nhẹ công tác sửa chữa dự phòng theo kế hoạch để đảm bảo những dây chuyền này luôn hoạt động tốt, không hỏng hóc bất thường và để kéo dài tuổi thọ. Công tác dự phòng phải được lập cho cả hệ thống máy móc thiết bị để đón đầu những hỏng hóc, giảm tối đa những hỏng hóc sự cố bất thường. Xuất phát từ thực tế này mà trong những năm tới Nhà máy cần đặc biệt chú trọng công tác sửa chữa, bảo dưỡng theo kế hoạch để đảm bảo phát huy tối đa khả năng vốn có của máy móc thiết bị. 1.3. Phương thức tiến hành: Để thực hiện biện pháp trên thì Nhà máy cần làm tốt các công việc sau: Trước tiên cần phải phân cấp lại hệ thống tổ chức sửa chữa như sau: Sơ đồ 3: Hệ thống tổ chức sửa chữa máy móc thiết bị. Sửa chữa lớn Tổ Cơ điện Sửa chữa vừa Cấp phân xưởng (Tổ kỹ thuật) Sửa chữa nhỏ Công nhân vận hành máy Bảo dưỡng Thay vì trước đây tổ Cơ điện đảm nhận công việc sửa chữa lớn và cả sửa chữa vừa, công nhân kỹ thuật trong phân xưởng sản xuất đảm nhận sửa chữa nhỏ và sửa chữa thông thường, bảo dưỡng hàng tuần; còn công nhân đứng máy thì bảo dưỡng, lau chùi. Nhà máy cần phải thực hiện phân cấp hợp lý hơn các hình thức sửa chữa, tổ chức lại như trên thì mới đảm bảo hiệu quả cao trong sửa chữa, công nhân kỹ thuật trong phân xưởng cần phải chia sẻ thêm 1 phần công việc của tổ Cơ điện, tức là phải thực hiện cả một số những sửa chữa vừa. Để làm được diều này thì trong mỗi phân xưởng phải thành lập 1 tổ kỹ thuật, tức là mỗi phân xưởng sẽ biên chế thêm 1 công nhân kỹ thuật có tay nghề bậc cao (từ bậc 5 trở lên) để có 1 tổ kỹ thuật có biên chế từ 2 -3 người. Tổ này sẽ tiến hành theo dõi tình trạng hoạt động của máy móc thiết bị. Nếu gặp sự cố hỏng hóc vừa và nhỏ sẽ tự tiến hành sửa chữa vào những ca không làm việc hoặc máy hoạt động ít, còn nếu hỏng hóc lớn và vừa mà vượt quá khả năng thì sẽ thông báo cho tổ Cơ điện để có kế hoạch xử lý kịp thời. Làm được điều này thì tổ luôn nắm được tình trạng kỹ thuật của máy móc thiết bị để có thể báo cho tổ Cơ điện, đồng thời tạo điều kiện cho người công nhân chú tâm vào vận hành máy và lau chùi, bảo dưỡng lặt vặt, tránh cho họ khỏi bị phân tán trong công việc. Đồng thời là phải tăng cường trách nhiệm của các bộ phận đó, phải tuân thủ nguyên tắc chế đọ lập biên bản về tình trạng máy móc thiết bị khi giao nhận trong sửa chữa. Tăng cường công tác chuẩn bị trước khi sửa chữa bằng việc đầu tiên là lập kế hoạch tổng hợp và chi tiết quá trình bảo dưỡng và sửa chữa gồm: Lập kế hoạch sửa chữa năm Lập lịch xích sửa chữa cho từng máy Xác định độ phức tạp của sửa chữa Xác định số lượng công nhân làm công tác sửa chữa Từ đó sẽ phân bổ kế hoạch sửa chữa chi tiết cho từng thời kỳ, giao cho các bộ phận triển khai thực hiện. Đồng thời xác định mức tiêu hao về thời gian, vật tư và nhân công cho công tác sửa chữa. Quá trình chuẩn bị được thực hiện tốt sẽ làm giảm thời gian sửa chữa, có thể đưa nhanh máy móc thiết bị và sử dụng. Phải đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh chu kỳ sửa chữa máy móc thiết bị và làm tốt công tác xác định chu kỳ sửa chữa, tránh tình trạng máy móc ít sử dụng, chưa hỏng đã đem vào sửa chữa. Lập hồ sơ lý lịch rõ ràng cho từng loại máy và giao trách nhiệm trực tiếp cho người vận hành máy. Thực hiện phương pháp sửa chữa nhanh: cố gắng bố trí thời gian sửa chữa nằm ngoài thời gian sản xuất (vào ca đêm hoặc vào khoảng tháng 9, tháng 10), tập trung sửa chữa dứt điểm 1 máy đưa vào sử dụng rồi mới chuyển sang máy khác. áp dụng phương pháp sửa chữa tiên tiến như: thay cả cụm, thay cả bộ phận. Thực hiện sửa chữa xen kẽ: trong cùng một lúc có thể tiến hành sửa chữa nhiều loại máy móc thiết bị nhưng đảm bảo vẫn có loại máy đó đang hoạt động. Theo cách này sẽ không làm gián đoạn việc sản xuất vì thiếu loại máy đó, cho phép quá trình được tiến hành bình thường, liên tục. Thực hiện chế độ khuyến khích vật chất đối với những người có nhiều thành tích trong sửa chữa. Đối với 1 số loại hỏng hóc mà Nhà máy chưa có khả năng sửa chữa thì phải tiến hành ký hợp đồng với các cơ sở sửa chữa đảm bảo giảm đến mức thấp nhất thời gian ngừng máy, phục vụ kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh. 1.4. Hiệu quả thực hiện biện pháp. Nhờ phân cấp đối với từng loại sửa chữa, bảo dưỡng nên sẽ kịp thời phát hiện sự cố. Những sửa chữa tại chỗ sẽ làm giảm hỏng hóc lớn, dẫn đến phải đại tu gây nhiều lãng phí. Tăng cường hơn nữa công tác bảo dưỡng, sửa chữa dự phòng sẽ có tác dụng kéo dài tuổi thọ, giảm hao mòn vô hình, góp phần sử dụng vốn có hiệu quả. Đồng thời nó cũng làm tăng tính liên tục trong sản xuất. Việc xây dựng tổ kỹ thuật tại mỗi phân xưởng sẽ giảm gánh nặng cho tổ Cơ điện, tăng tính kết hợp giữa sửa chữa và sản xuất, đảm bảo sửa chữa kịp thời. Ta có thể ước tính chi phí và hiệu quả đem lại của biện pháp như sau: Ví dụ tại phân xưởng in offset: Tổng số máy móc thiết bị : 12 Số thợ sửa chữa : 2 (thợ bậc 3/7) Mỗi ngày dừng thiết bị để sửa chữa bình quân: 2 giờ/ngày Đơn giá một giờ máy : 415.625 (đ) Chi phí dừng máy trong năm để sửa chữa của phân xưởng là: 2 x 273 x 415.625 = 226931250 (đ) Nếu bố trí thêm 1 thợ sửa chữa bậc 5/7 thì thời gian ngừng thiết bị để sửa chữa trong 1 ngày là 1 giờ. Lúc này: chi phí dừng máy là: 273 x 415625 = 113465625 (đồng). Chi phí trả lương cho thợ sửa chữa bậc 5/7 là. 1,5 triệu x 12 tháng = 18 (triệu). Như vậy 1 năm phân xưởng sẽ tiết kiệm 95,5 triệu cho chi phí dừng máy và sửa chữa, đồng thời máy móc thiết bị luôn được bảo dưỡng, sửa chữa kịp thời, có thể kéo dài tuổi thọ của máy móc thiết bị, đáp ứng được yêu cầu sản xuất khẩn trương từ đó mà hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ được tăng cao hơn nữa. 1.5. Điều kiện thực hiện biện pháp. Chi phí cho sửa chữa hiện nay của Nhà máy không được trích từ quỹ khấu hao, trong những năm tới cần lập kế hoạch xác định chi phí một cách chi tiết và đặc biệt là phải xác định nguồn cung cấp chi phí. Cần phải có sự thường xuyên trao đổi, bồi dưỡng, rút kinh nghiệm giữa công nhân trực tiếp đứng máy với nhau và với công nhân kỹ thuật, áp dụng các hình thức khen thưởng, kỷ luật thích đáng trong quá trình sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị. Lên kế hoạch mua sắm đầy đủ phụ tùng cần thiết cho quá trình sửa chữa và sửa chữa dự phòng, đảm bảo luôn có sẵn những phụ tùng, chi tiết mà thường xuyên hỏng để có thể cung cấp kịp thời cho hoạt động sửa chữa, đặc biệt là với những thiết bị đặc chủng cần phải chuẩn bị 1 cách chu đáo để đảm bảo cho hoạt động sửa chữa nhanh chóng, kịp thời. Đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa phân xưởng sản xuất với tổ Cơ điện và PGĐ sản xuất kỹ thuật trong công tác xây dựng lịch xích, lập kế hoạch sửa chữa chi tiết đầy đủ để có thể phân bổ xuống từng đơn vị chính xác, hợp lý phát huy tối đa hiệu quả công tác sửa chữa. Việc thành lập các tổ kỹ thuật ở các phân xưởng sản xuất phải được thực hiện nghiêm túc, đảm bảo tay nghề công nhân kỹ thuật bậc cao đủ khả năng thực hiện các công tác sửa chữa trong phân xưởng. 2.Biện pháp thứ 2 : Nâng cao hệ số thời gian làm việc của máy móc thiết bị. 2.1 Cơ sở lý luận. Khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong quá trình sản xuất phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong dó có thời gian hoạt động của máy móc thiết bị. Khối luợng sản phẩm tạo ra tỷ lệ thuận với thời gian máy hoạt động. Do đó sử dụng tốt thời gian làm việc của máy có 1 ý nghĩa hết sức quan trọng. Hệ số thời gian làm việc thực tế phản ánh trình độ sử dụng máy móc thiết bị của mỗi doanh nghiệp. Thông qua hệ số này ta có thể thấy được khả năng huy động công suất thiết bị cũng như hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Nó cho biết trong năm máy móc thiết bị của doanh nghiệp hoạt động được bao nhiêu giờ, phải ngừng hoạt động bao nhiêu giờ. hệ số này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị càng lớn. Bên cạnh đó thời gian làm việc thực tế của máy móc thiết bị còn có tác dụng giúp các cán bộ quản lý trong doanh nghiệp có thể nhanh chóng nắm bắt được tình trạng hoạt động thừa, thiếu máy móc thiết bị ở từng bộ phận sản xuất để có kế hoạch đều chỉnh kịp thời do vậy đối với mỗi doanh nghiệp nếu có thể nâng cao hệ số thời gian làm việc thực tế của máy móc thiết bị thì cũng đồng nghĩa với việuc nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng máy móc thiết bị nói riêng va hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung. 2.2 Cơ sở thực tiễn: Trong những năm qua hệ thống máy móc thiết bị của nhà máy chưa thực sự làm việc đúng với năng lực của chúng, mức độ đóng góp trong quá trình sản xuất, còn nhiều hạn chế. Nhìn chung mức độ huy động về mặt thời gian của máy móc thiết bị còn thấp. Nguyên nhân do công việc công việc không có đều trong năm do trình độ người công nhân sử dụng không đúng với quy trình, quy phạm, và do máy móc thiết bị quá cũ, hàng năm phải sửa chữa những hỏng hóc bất thường nhiều. Do vậy đã ảnh hưởng tới thời gian làm việc thực tế của máy móc thiết bị. Vì vậy nâng cao hệ số thời gian làm việc thực tế của má

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24245.DOC
Tài liệu liên quan