Đề tài Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Hiệp

Tài liệu Đề tài Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Hiệp: Lời mở đầu Hiệu quả kinh tế là một phạm trù có ý nghĩa rất quan trọng trong mọi nền kinh tế thế giới. Đối với nước ta, từ một nền sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, cùng một lúc phải thực hiện những nhiệm vụ to lớn và cấp bách trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ Quốc XHCN, thì việc nâng cao hiệu quả kinh tế trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh ở tất cả các ngành, các cấp, các đơn vị kinh tế cơ sở càng có ý nghĩa quan trọng. Việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN đã tạo ra những cơ hội mới và cả những thách thức mới cho các doanh nghiệp. Với các nguồn lực ngày càng khan hiếm, sự cạnh tranh cũng càng trở nên gay gắt, khốc liệt đã làm cho nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ, giải thể, thậm chí phá sản, nhưng cũng có không ít các doanh nghiệp do nắm bắt được cơ hội, tổ chức thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả đã trụ vững và ngày càn...

doc79 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1139 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Hiệp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Hiệu quả kinh tế là một phạm trù có ý nghĩa rất quan trọng trong mọi nền kinh tế thế giới. Đối với nước ta, từ một nền sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, cùng một lúc phải thực hiện những nhiệm vụ to lớn và cấp bách trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ Quốc XHCN, thì việc nâng cao hiệu quả kinh tế trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh ở tất cả các ngành, các cấp, các đơn vị kinh tế cơ sở càng có ý nghĩa quan trọng. Việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN đã tạo ra những cơ hội mới và cả những thách thức mới cho các doanh nghiệp. Với các nguồn lực ngày càng khan hiếm, sự cạnh tranh cũng càng trở nên gay gắt, khốc liệt đã làm cho nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ, giải thể, thậm chí phá sản, nhưng cũng có không ít các doanh nghiệp do nắm bắt được cơ hội, tổ chức thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả đã trụ vững và ngày càng phát triển. Chính vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh càng trở nên có tính chất sống còn đối với các doanh nghiệp. Công ty TNHH Hoàng Hiệp đã gặp không ít những khó khăn từ khi bắt đầu được thành lập. Để tồn tại và phát triển trong cơ chế mới. Công ty đã mạnh dạn đa dạng hóa các ngành nghề kinh tế với mục tiêu lâu dài là kinh doanh có hiệu quả. Nhận rõ được vai trò quan trọng của hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như việc không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, trong thời gian về thực tập và những tình hình sản xuất kinh doanh ở Công ty TNHH Hoàng Hiệp, cùng với sự giúp đỡ tận tình của Thấy giáo - ThS Vũ Trí Dũng, em đã quyết định chọn một đề tài nghiên cứu với ước muốn được sáng tỏ những kiến thức đã học được và đóng góp cho việc thực hiện mục tiêu lâu dài của Công ty. Đề tài của em có tên "Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Công ty TNHH Hoàng Hiệp" với nội dung gồm 3 chương: Chương I: Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là mục tiêu cơ bản và lâu dài của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Chương II: Thực trạng về hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Công ty TNHH Hoàng Hiệp từ khi bắt đầu thành lập. Chương III: Một số biện pháp cơ bản nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Công ty TNHH Hoàng Hiệp. Với khả năng và thời gian có hạn, những thiếu sót trong bài viết là không tránh khỏi, em mong nhận được sự thông cảm và góp ý của các thầy, cô giáo và các cán bộ, công nhân viên của Công ty TNHH Hoàng Hiệp để bài viết được hoàn thiện. Qua bài viết này, em xin bảy tỏ lòng biết ơn chân thành nhất đến Thầy giáo - Th.S Vũ Trí Dũng cùng toàn thể cán bộ, công nhân viên ở Công ty TNHH Hoàng Hiệp đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành bài viết này. Chương I Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là mục tiêu cơ bản và lâu dài của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường I. hiệu quả sản xuất kinh doanh và sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. 1. Các quan điểm cơ bản về bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh. 1.1. Các quan điểm về hiệu quả sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế được thành lập để thực hiện các hoạt động kinh doanh, từ khâu nghiên cứu khảo sát nhu cầu thị trường để quyết định sản xuất đến các khaua tổ chức quá trình sản xuất, mua hàng hóa hoặc làm dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu con người và xã hội, và thông qua hoạt động hữu ích đó mà kiếm lời. Chính vì vậy để xem xét một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả hay không ta có thể xuất phát từ việc tính toán hiệu quả của toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh hay của từng bộ phận lĩnh vực riêng lẻ tức là khi đề cập đến vấn đề hiệu quả có thể đứng trên các góc độ khác nhau để xem xét. Cũng giống như một số chỉ tiêu khác, hiệu quả chỉ là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất, đồng thời là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất hàng hóa. Sản xuất hàng hóa có phát triển hay không là nhờ đạt được hiệu quả cao hay thấp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh vừa là một phạm trù cụ thể, vừa là phạm trù trừu tượng. Nếu là phạm trù cụ thể thì trong công tác quản lý phải định lượng thành các chỉ tiêu, con số để tính toán, so sánh. Nếu là phạm trù trừu tượng phải được định tính thành mức độ quan trọng hoặc vai trò của nó trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Có thể nói rằng, phạm trù hiệu quả là kiến thức thường trực của mọi cán bộ quản lý, được ứng dụng rộng rãi vào mọi khâu, mọi bộ phận trong quá trình sản xuất kinh doanh. Từ đây ta có thể chia hiệu quả thành hai loại: hiệu quả sản xuất kinh doanh (hiệu quả kinh tế) và hiệu quả kinh tế - xã hội. Hiệu quả trực tiếp của doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế, còn hiệu quả của ngành hiệu quả của nền Kinh tế Quốc dân là hiệu quả kinh tế - xã hội. Cả hai hiệu quả này đều có vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp bảo đảm bù đắp chi phí đã bỏ ra và vừa có tích lũy để tiếp tục quá trình tái sản xuất mở rộng. Còn hiệu quả kinh tế - xã hội đem lại lợi ích cho xã hội và nền Kinh tế Quốc dân, nó thể hiện qua việc tăng thu ngân sách cho Nhà nước, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống của người lao động và tái phân phối lợi tức xã hội. 1.2. Khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh. Từ trước đến nay các nhà kinh tế đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ hữu ích của sản phẩm sản xuất tức là giá trị sử dụng của nó (hoặc là doanh thu và nhất là lợi nhuận thu được sau quá trình kinh doanh). Khái niệm này lẫn lộn giữa hiệu quả và mục tiêu kinh doanh. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh là sự tăng trưởng kinh tế phản ánh nhịp độ tăng của các chỉ tiêu kinh tế. Cách hiểu này chỉ là phiến diện, chỉ đúng trên mức độ biến động theo thời gian. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ tiết kiệm chi phí và mức tăng kết quả. Đây là biểu hiện của bản chất chứ không phải là khái niệm về hiệu quả kinh tế. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra. Điển hình cho quan điểm này là tác giả Manfred - Kuhn và quan điểm này được nhiều nhà kinh tế và quản trị kinh doanh áp dụng và tính hiệu quả kinh tế của các quá trình sản xuất kinh doanh. - Từ các khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh trên ta có thể đưa ra một số khái niệm ngắn gọn như sau: hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (lao động, máy móc, thiết bị, vốn và các yếu tố khác) nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh mà doanh nghiệp đã đề ra. 1.3. Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh. Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh là nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có mối quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả kinh tế. Chính việc khan hiếm nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính cạnh tranh nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, đặt ra yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để và tiết kiệm các nguồn lực. Để đạt được mục tiêu kinh doanh, các doanh nghiệp buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực, hiệu năng của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí. Để hiểu rõ về bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh, ta cũng cần phân biệt giữa hai khái niệm hiệu quả và kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh là những gì mà doanh nghiệp đạt được sau một quá trình sản xuất kinh doanh nhất định, kết quả cần đạt bao giờ cũng là mục tiêu cần thiết của doanh nghiệp. Trong khi đó trong khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh, người ta sử dụng cả hai chỉ tiêu kết quả và chi phí để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Vì vậy, yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là phải đạt kết quả tối đa với chi phí tối thiểu, hay chính xác hơn là đạt kết quả tối đa với chi phí nhất định hoặc ngược lại đạt kết quả nhất định với chi phí tối thiểu. Chi phí ở đây được hiểu theo nghĩa rộng là chi phí để tạo ra nguồn lực và chi phí sử dụng nguồn lực, đồng thời phải bao gồm cả chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội là giá trị của việc lựa chọn tốt nhất đã bị bỏ qua hay là giá trị của sự hy sinh công biệt kinh doanh khác để thực hiện hoạt động kinh doanh này. Chi phí cơ chội phải được bổ sung vào chi phí kế toán và loại ra khỏi lợi nhuận kế toán để thấy rõ lợi ích kinh tế thật sự. Cách tính như vậy sẽ khuyến khích các nhà kinh doanh lựa chọn phương án kinh doanh tốt nhất, các mặt hàng sản xuất có hiệu quả hơn. 2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh là một trong các công cụ hữu hiệu để các nhà quản trị thực hiện các chức năng của mình. Việc xem xét và tính toán hiệu quả kinh doanh không những chỉ cho biết việc sản xuất đạt ở trình độ nào mà còn cho phép các nhà quản trị phân tích, tìm ra các nhân tố để đưa ra các biện pháp thích hợp trên cả hai phương diện tăng kết quả và giảm chi phí kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả. Với tư cách là một công cụ đánh giá và phân tích kinh tế, phạm trù hiệu quả không chỉ được sử dụng ở giác độ tổng hợp, đánh giá chung trình độ sử dụng tổng hợp đầu vào trong phạm vi toàn doanh nghiệp mà còn sử dụng để đánh giá trình độ sử dụng từng yếu tố đầu vào ở phạm vi toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như ở từng bộ phận cấu thành của doanh nghiệp. Ngoài ra, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn là sự biểu hiện của việc lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp phải tự lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh cho mình phù hợp với trình độ của doanh nghiệp. Để đạt được mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, doanh nghiệp buộc phải sử dụng tối ưu nguồn lực sẵn có. Nhưng việc sử dụng nguồn lực đó như thế nào để có hiệu quả lại là một bài toán mà nhà quản trị phải lựa chọn cách giải. Chính vì vậy, ta có thể nói rằng hiệu quả sản xuất kinh doanh không chỉ là công cụ hữu hiện để các nhà quản trị thực hiện các chức năng quản trị của mình mà còn là thước đo trình độ của nhà quản trị. Ngoài chức năng trên của hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn do vai trò quan trọng của nó trong cơ chế thị trường. Thứ nhất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là cơ sở cơ bản đẻ đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự có mặt của doanh nghiệp trên thị trường, mà hiệu quả kinh doanh lại là nhân tố trực tiếp đảm bảo sự tồn tại đó, đồng thời mục tiêu của doanh nghiệp là luôn tồn tại và phát triển một cách vững chắc. Do vậy, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là một đòi hỏi tất yếu khách quan đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường hiện nay. Do yêu cầu của sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp đòi hỏi nguồn thu nhập của doanh nghiệp phải không ngừng tăng lên. Nhưng trong điều kiện nguồn vốn và các yếu tố kỹ thuật cũng như các yếu tố khác của quá trình sản xuất chỉ thay đổi trong khuôn khổ nhất định thì để tăng lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả kinh doanh. Như vậy, hiệu quả kinh doanh là kinh doanh hết sức quan trọng trong việc đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Một cách nhìn khác sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự tạo ra hàng hóa, của cải vật chất và cá dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của xã hội, đồng thời tạo ra sự tích lũy cho xã hội. Để thực hiện được như vậy thì mõi doanh nghiệp đều phải vươn lên để đảm bảo thu nhập đủ bù đắp chi phí bỏ ra và có lãi trong quá trình hoạt động kinh doanh. Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu tái sản xuất trong nền kinh tế. Và như vậy chúng ta buộc phải nâng cao hiệu quả kinh doanh một cách liên tục trong mọi khâu của quá trình hoạt động kinh doanh như là một nhu cầu tất yếu. Tuy nhiên, sự tồn tại mới chỉ là yêu cầu mang tính chất giản đơn còn sự phát triển và mở rộng của doanh nghiệp mới là yêu cầu quan trọng. Bởi vì sự tồn tại của doanh nghiệp luôn luôn phải đi kèm với sự phát triển mở rộng của doanh nghiệp, đòi hỏi phải có sự tích lũy đảm bảo cho quá trình sản xuất mở rộng theo đúng quy luật phát triển. Thứ hai, nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhân tố thúc đẩy sự cạnh tranh và tiến bộ trong kinh doanh. Chính việc thúc đẩy cạnh tranh yêu cầu các doanh nghiệp phải tự tìm tòi, đầu tư tạo nên sự tiến bộ trong kinh doanh. Chấp nhận cơ chế thị trường là chấp nhận sự cạnh tranh. Song khi thị trường ngày càng phát triển thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt và khốc liệt hơn. Sự cạnh tranh lúc này không còn là sự cạnh tranh về mặt hàng mà cạnh tranh về mặt chất lượng, giá cả và các yếu tố khác. Trong khi mục tiêu chung của các doanh nghiệp đều là phát triển thì cạnh tranh là yếu tố làm cho các doanh nghiệp mạnh lên nhưng ngược lại cũng có thể là cho các doanh nghiệp không tồn tại được trên thị trường. Để đạt được mục tiêu là tồn tại và phát triển mở rộng thì doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh trên thị trường. Do đó doanh nghiệp phải có hàng hóa dịch vụ chất lượng tốt, giá cả hợp lý. Mặt khác hiệu quả lao động là đồng nghĩa với việc giảm giá thành, tăng khối lượng hàng hóa bán, chất lượng không ngừng được cải thiện nâng cao.... Thứ ba, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh chính là nhân tố cơ bản tạo ra sự thắng lợi cho doanh nghiệp trong quá trình hoạt động trên thị trường. Muốn tạo ra sự thắng lợi trong cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Chính sự nâng cao hiệu quả kinh doanh là con đường nâng cao sức cạnh tranh và khả năng tồn tại, phát triển của mỗi doanh nghiệp. 3. Những biện pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh chẳng những bị ảnh hưởng của những nhân tố bên trong, còn luôn bị tác động các yếu tố môi trường bên ngoài. Chính vì vậy, muốn đạt được hiệu quả kinh doanh, doanh nghiệp không chỉ có những điều kiện, biện pháp sử dụng nguồn lực bên trong một cách hiệu quả mà phải nắm bắt các bất chắc của môi trường có thể có, đưa ra những biện pháp đối phó, thậm trí có thể lấy đó làm cơ hội cho việc kinh doanh. 3.1. Nâng cao trình độ quản lý doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó trình độ quản trị doanh nghiệp đóng vai trò quyết định. Việc thực hiện tốt bốn chức năng cơ bản: Hoạch định, tổ chức, điều khiển, kiểm tra là điều kiện tiên quyết để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh. Từ việc xác định mục tiêu, xây dựng chiến lược, tổ chức các nguồn lực doanh nghiệp, xây dựng bộ máy quản lý, tác nghiệp, bố trí sử dụng nước, các biện pháp đôn đốc, thúc đẩy, động viên và kiểm soát. Ngoài ra quản trị còn nghiên cứu các yếu tố môi trường, theo dõi, dự báo những biến động, thay đổi có thể có nhằm hạn chế những tổn thất, thiệt hại cho quá trình sản xuất kinh doanh. Để thực hiện được biện pháp này cần nhận thức, hiểu rõ vai trò, tầm quan trọng của quản trị đối với doanh nghiệp. Nói chung trước tình hình kinh doanh hiện nay, nhiều doanh nghiệp đi vào chỗ thua lỗ, phá sản là có nhiều nguyên nhân. Nhưng ta có thể khẳng định một trong những nguyên nhân cơ bản nhất đó chính là sự yếu kém về quản trị của các nhà quản trị. Vì vậy, trước tiên cần phải trang bị hay trang bị lại những kiến thức quản trị kinh doanh hiện đại, tạo điều kiện cho các cán bộ quản lý tham gia vào các khóa đào tạo, bồi dưỡng về quản trị. Học hỏi các kinh nghiệm quản lý của các nước nước phát triển. Việc có được trình độ quản lý cao là cơ sở để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tổ chức như vốn, nước, công nghệ... cũng như việc làm chủ được các yếu tố bên ngoài như thị trường, giá cả, hạn chế những lãng phí, tổn thất. 3.2. Xây dựng cấu trúc tổ chức hợp lý. Một trong những nguyên nhân phổ biến làm doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả chính là do cơ cấu tổ chức cồng kềnh, trì trệ, hoạt động không hiệu quả. Vì vậy, để hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả cần phải có cơ cấu tổ chức hợp lý, có khả năng dẫn dắt đơn vị đến mục tiêu đề ra, tạo được những tác động kết hợp các nguồn lực doanh nghiệp, tác động thúc đẩy các nguồn lực phát triển. Cần phải có một cơ cấu gọn nhẹ hơn, đồng thời lại mang đến một kết quả lớn hơn. Khi các doanh nghiệp thất bại hoặc suy giảm thường thay đổi cho các yếu tố khách quan, cho rằng môi trường kinh doanh khó khăn, do cạnh tranh gay gắt khốc liệt. Nhưng cũng trong các hoàn cảnh đó lại có những doanh nghiệp ăn nên làm ra, Vậy nguyên nhân là do cơ cấu tổ chức trước đã xơ cứng, lỗi thời, không còn phù hợp, không linh hoạt và không có khả năng thay đổi, thích nghi một cách nhanh chóng với môi trường, từ đó dẫn đến thua lỗ, phá sản. Vì vậy để đáp ứng với sự thay đổi, duy trì hiệu quả hoạt động, doanh nghiệp buộc phải tái cấu trúc tổ chức, tạo sức sống mới cho doanh nghiệp. 3.3. Xác định mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp cần có cái nhìn đúng đắn về hiện trạng doanh nghiệp, môi trường hoạt động để đề ra các mục tiêu xác đáng, các chiến lược, giải pháp để thực hiện mục tiêu đề ra. Với mục tiêu đề ra, các doanh nghiệp phải xây dựng các chiến lược phù hợp cho từng thời kỳ. Doanh nghiệp không phải lúc nào cũng theo đuổi chiến lược phát triển, phát triển với một tốc độ nhanh chóng như việc theo đuổi quá nhiều dự án, những siêu dự án. Những chiến lược phát triển như vậy dễ dẫn đến mất cân đối tài chính, tài chính bị dàn trải và dễ dẫn đến sự phá sản. Hơn nữa hầu hết các dự án chỉ luôn đưa ra những số liệu tính toán theo hướng lạc quan mà không tính đến khía canh ngược lại của nó là bi quan. Khi dự án gặp phải tình hình thị trường bất lợi, đối thủ cạnh tranh mạnh, giá bán giảm... lúc đó ta không lượng được những rủi ro, những thua lỗ, thất bại có thể có và khi tình hình không như mong muốn doanh nghiệp sẽ bị rơi vào tình trạng phá sản. 3.4. Yếu tố con người - sự quan tâm hàng đầu. Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh chúng ta không thể không quan tâm đến yếu tố con người, đây chính là thách thức lớn nhất đối với quản lý. Làm sao có được một đội ngũ lao động lành nghề, luôn học hỏi, có nỗ lực, có nhiệt tình cao trong công việc. Đó là điều kiện bảo đảm cho sự thành công của doanh nghiệp. Muốn vậy phải nhận thức được vai trò quan trọng của yếu tố con người, phải thường xuyên tạo điều kiện cho người lao động nâng cao trình độ, đưa ra những ý kiến đóng góp, kích thích tinh thần sáng tạo và tinh thần tích cực trong công việc nhờ các hình thức khuyến khích bằng vật chất và tinh thần làm người lao động thỏa mãn, gắn bó với doanh nghiệp. 3.5. Tạo vốn kinh doanh. Khó khăn chung của hầu hết các doanh nghiệp là thiếu vốn bởi vì nó bổ sung vốn cơ bản trong suốt quá trình kinh doanh. Tạo vốn bằng hình thức đi vay sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh, doanh nghiệp phải luôn mang gánh nặng lãi suất. Hơn nữa vốn vay lớn tạo ra sự mất cân đối lớn trong cơ cấu vốn, chứa định nhiều sự bấp bênh rủi ro. Vì vậy không nên lạm dụng vốn vay, khi sử dụng biện pháp vay vốn cần phải có kế hoạch sử dụng hiệu quả và có biện pháp phòng chống những rủi ro có thể từ yếu tố này. Để đáp ứng nhu cầu vốn cho kinh doanh, biện pháp cổ phần hóa doanh nghiệp, hình thành thị trường chứng khoán là một biện pháp hữu hiệu nhằm huy động vốn cho các doanh nghiệp. Xác định cơ cấu vốn hợp lý, chặt chẽ và thích ứng với quy mô doanh nghiệp, tránh không lạm dụng vốn vay quá mức, đặc biệt là vốn vay ngắn hạn. có những biện pháp hữu hiệu đối phó với những biến động về tài chính. 3.6. Trình độ kỹ thuật và công nghệ. Các doanh nghiệp để khẳng định vị trí trên thị trường, để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh, để giảm chi phí, sản lượng cao đồng thời để thị trường chấp nhận sản phẩm, đòi hỏi sản phẩm phải đạt được các tiêu chuẩn, phải đạt được chất lượng sản phẩm. Muốn vậy cần phải tiếp cận với khoa học kỹ thuật công nghệ tiên tiến, vận dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh, phải không ngừng cải tiến đầu tư công nghệ, chính đó là một nhân tố giúp doanh nghiệp hoạt động ngày càng hiệu quả hơn. 3.7. Nghiên cứu môi trường. Mỗi doanh nghiệp tồn tại và phát triển đều có sự liên hệ với môi trường và chịu sự tác động của môi trường đến doanh nghiệp. Những tác động của môi trường có thể là thuận lợi hay bất lợi cho doanh nghiệp. Do tính chất quốc tế hóa, khu vực hóa, hoạt động của doanh nghiệp không chỉ còn thuộc phạm vi của một quốc gia hay một vùng nào đó, cho nên doanh nghiệp còn chịu sự tác động của môi trường kinh tế thế giới. Những thay đổi vê chính trị, kinh tế, xã hội, công nghệ trên thế giới đều có thể tác động đến doanh nghiệp. Vì vậy, muốn hoạt động hiệu quả cần phải quản trị môi trường, đó là việc thu thập thông tin, dự đoán ước lượng thay đổi, bất trắc của môi trường trong và ngoài nước, đưa ra những biện pháp đối phó nhằm giảm bớt những tác động, những tổn thất có thể có do sự thay đổi, bất trắc đó. II. các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đó chính là việc nâng cao hiệu quả của tất cả các hoạt động trong quá trình sản xuất kinh doanh. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu sự tác động của rất nhiều các nhân tố ảnh hưởng khác nhau. Việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh nhằm mục đích thấy được sự ảnh hưởng có tính tích cực và có tính tiêu cực của các nhân tố đó, xây dựng các chiến lược cho doanh nghiệp nhằm tận dụng những thuận lợi và có biện pháp khắc phục những khó khăn để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. 1. Nhóm nhân tố khách quan. 1.1. Môi trường nhân khẩu học. Trong thời đại ngày nay nhất là trong quá trình đất nước ta đang trong công cuộc đổi mới cùng với sự thúc đẩy của quá trình hội nhập quốc tế đã tạo ra sự thay đổi về cái nhìn mới đối với hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự biến đổi của thị trường diễn ra thường xuyên cùng với tính chất khắc nghiệt của nó cộng với quá trình đô thị hóa và phân bố lại dân cư. Lịch sử đã từng có nhiều cuộc di dân diễn ra mang tính chất tự nhiên và cơ học. Bản chất của con người luôn tìm kiếm những vùng có định hướng tự nhiên thuận lợi để cư trú, sinh sống và làm ăn. Các vùng đô thị tập trung luôn luôn là thị trường quan trọng cho các nhà quản trị. Bên cạnh đó việc phân bố lại lực lượng sản xuất, phân vùng lãnh thổ đặc khu kinh tế cùng tạo ra các cơ hội thị trường mới đầy hấp dẫn, ngay cả khi trung tâm thành phố trở nên quá đông đúc chật chội thì các nhà quy hoạch bắt đầu phát triển các vùng vên đô, ven thị, chúng trở thành các vệ tinh và những nơi đó càng trở thành những thị trường. Nền kinh tế ngày càng phát triển, trình độ văn hóa giáo dục trong dân cư được tăng lên, sự hiểu biết về cảm nhận mới mẻ hơn, đẹp đẽ hơn cũng được tăng lên cộng thêm nhiều ngành nghề mới ra đời tạo ra những loại sản phẩm mới, nhu cầu mới, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng. 1.2. Môi trường kinh tế Môi trường kinh tế trước hết phản ánh qua tốc độ tăng trưởng kinh tế chung về cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng. Nó có thể tạo ra tính hấp dẫn về thị trường và sức mua khác nhau đối với các thị trường hàng hóa khác nhau. Khi nền kinh tế ở vào giai đoạn khủng hoảng, tỷ lệ lạm phát cũng như thuế khóa tăng thì người tiêu dùng buộc phải đắn đo để ra các quyết định mua sắm. Nhiều hành vi mua sắm mang tính chất "không tích cực sẽ diễn ra" ảnh hưởng rất lớn đến các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm phục vụ người tiêu dùng do đó cũng ảnh hưởng tới nhu cầu về nhãn mác sản phẩm. Khi nền kinh tế trở lại thời kỳ phục hồi và tăng trưởng. Việc mua sắm tấp nập trở lại làm cho nhịp và chu kỳ kinh doanh trở nên phồn thịnh. Những người có thu nhập cao sẽ đòi hỏi chất lượng hàng hóa và dịch vụ ở mức cao hơn, con người không chỉ đơn thuần cầu "ăn no mặc ấm" mà thay bằng mong muốn "ăn ngon mặc đẹp" họ cần nhiều loại sản phẩm tiêu dùng cho phép tiết kiệm thời gian, hình thức bao bì mẫu mã trở thành yếu tố quan trọng đê thu hút người mua. Việc tiêu dùng mang tính vật chất không còn đóng vai trò quan trọng, việc thỏa mãn các giá trị văn hóa tinh thần sẽ đòi hỏi phải được đầu tư với cơ cấu, tỷ trọng lớn hơn trong những ưu tiên về chi tiêu. Tuy nhiên ở Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì một bộ phận không nhỏ tần lớp dân cư có thu nhập thấp, do đó đòi hỏi chất lượng hàng hóa dịch vụ chưa cao, đặc biệt là dân cư nông thôn; ảnh hưởng không nhỏ tới nhu cầu về mẫu mã, nhãn hiệu của sản phẩm. Sản phẩm hàng hóa phục vụ người tiêu dùng có phát triển kéo theo sự nâng cao về mặt chất lượng, số lượng, hình thức mẫu mã của sản phẩm điều đó phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của nền kinh tế. Chính vì vậy, có thể nói rằng yếu tố kinh tế ảnh hưởng rất lớn đến môi trường kinh doanh của doanh nghiệp, nhu cầu về hàng hóa sản phẩm thấp tất sẽ dẫn đến các sản phẩm có sử dụng nhãn mác, bao bì cũng sẽ giảm đi rất nhiều vì lúc đó cầu của người tiêu dùng bị các yếu tố kinh tế tác động làm giảm sức mua của họ, ngoài ra còn có thể kể đến các yếu tố tác động như tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp, chính sách tài chính tiền tệ. 1.3. Môi trường công nghệ. Xu hướng phát triển khoa học kỹ thuật công nghệ và tình hình ứngdungj khoa học kỹ thuật công nghệ trên thế giới cũng như trong nước ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chất lượng sản phẩm, tức là ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tế, thế giới đã chứng kiến sự biến đổi công nghệ làm khủng hoảng, thậm chí mất đi nhiều lĩnh vực kinh doanh nhưng xuất hiện những lĩnh vực kinh doanh mới hoặc làm phát triển hơn các lĩnh vực đã có. Các sản phẩm của công nghệ mới như các sản phẩm cải tiến, sản phẩm cải tiến, sản phẩm đổi mới , NVL mới, NVL thay thế với sự xuất hiện các quy trình công nghệ có năng suất, chất lượng hiệu quả hơn. Đó có thể là các nguy cơ. Là cơ hội đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư cho các loại công nghệ phù hợp với trình độ của doanh nghiệp và biết sử dụng có hiệu quả, ngược lại là nguy cơ đối với các doanh nghiệp không nắm bắt được các thông tin về công nghệ và không biết sử dụng nó một cách hiệu quả. 1.4.Môi trường chính trị và luật pháp Các yếu tố thuộc về chính trị và luật pháp cũng có tác động lớn đến mức độ thuận lợi về khó khăn của môi trường. Các doanh nghiệp phải tuân theo các quy định của chính phủ về thuê mướn công nhân, thuế, quảng cáo... những quy định này có thể là cơ hội hoặc mối đe dọa với các doanh nghiệp . Đối với các doanh nghiệp sản xuất nhãn mác những yếu tố về chính trị và luật pháp cũng có những tác động không nhỏ tới quá trình hoạt động sản xuất của mình. Do đó họ cũng phải dành nhiều thời gian để qan tâm tới các vấn đề về pháp luật và chính trị. Các doanh nghiệp cần phải hiểu rõ những tiến trình ra quyết định của địa phương hoặc đất nước nơi doanh nghiệp mình đang thực hiện các hoạt động kinh doanh . 1.5.Yếu tố xã hội Trong nền kinh tế thị trường cùng với sự tác động của các yếu tố bên trong, bên ngoài đòi hỏi doanh nghiệp cần phải có những biện pháp, chính sách để thích ứng một các hiệu quả nhất để đem lại một hiệu quả kinh tế cao. Yếu tố xã hội đòi hỏi tất cả các công ty, doanh nghiệp đều phải phân tích các yếu tố đó nhằm nhận biết các cơ hội và nguy cơ có thể xảy ra. Khi một yếu tố hay nhiều yếu tố thay đổi chúng có thể tác động đến các doanh nghiệp như xu hướng nhân chủng học, sở thích vui chơi giải trí, chuẩn mực đạo đức xã hội ... Nhưng môi trường văn hóa xã hội đôi khi trở thành hàng rào "gai góc" đối với các nhà hoạt động quản trị, Marketing . Nói chung các giá trị văn hóa chủ yếu trong xã hội được thể hiệnơr quan niệm hay cách nhìn nhận, đánh giá con người về bản thân mình về mối quan hệ và về thế giới. Điều đó kích thích sự phát triển của nền kinh tế tạo ra nhiều hàng hóa, sản phẩm đa dạng về mẫu mã, nó sẽ thúc đẩy sự phát triển của các ngành sản xuất có liên quan tạo ra sự biến động không ngừng của thị trường. 2. Nhóm nhân tố chủ quan. Là nhóm nhân tố doanh nghiệp mà có thể kiểm soát được cũng như có thể điều chỉnh được ảnh hưởng của nó. 2.1. Lực lượng lao động. Lao động là một trong những nhân tố khó xem xét và việc đánh giá dự đoán kết quả tác động của nhân tố này đến hiệu quả sản xuất kinh doanh thường khó chính xác. Khoa học kỹ thuật càng phát triển thì việc đưa chúng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là điều tất nhiên, nhưng vai trò quan trọng của con người là không thể phủ nhận được trong lực lượng sản xuất. Trình độ, năng lực và tinh thần trách nhiệm của người lao động là nhân tố được trong lực lượng sản xuất. Trình độ, năng lực và tinh thần trách nhiệm của người lao động là nhân tố tác động trực tiếp đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và tốc độ tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra công tác tổ chức phân công hiệp tác lao động hợp lý sao cho phát huy tốt nhất năng lực, sở trường của người lao động là một yêu cầu không thể thiếu trong quản trị nhân lực cảu doanh nghiệp nhằm đạt hiệu quả cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc bố trí nhân lực trong mỗi công ty phụ thuộc vào nhiệm vụ sản xuất kinh doanh , vào chiến lược kinh doanh, kế hoạch kinh doanh mà doanh nghiệp đã đề ra. Việc tổ chức nhân sự của bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải tuân thủ các nguyên tắc chung là sử dụng đúng người, đúng việc; quyền lợi và trách nhiệm rõ ràng sao cho có thể thực hiện nhanh nhất, tốt nhất các nhiệm vụ được giao, đồng thời phải khuyến khích phát huy được tính độc lập sáng tạo của người lao động, có như vậy sẽ góp phần vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tiền lương và thu nhập của người lao động có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, vì tiền lương là một bộ phận lớn cấu thành nên chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi tiền lương cao thì chi phí sản xuất kinh doanh sẽ tăng do đó làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh, nhưng mặt khác nó lại khuyến khích người lao động tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm dẫn đến tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh và ngược lại. 2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật. Cơ sở vật chất kỹ thuật là tài sản cố định của doanh nghiệp phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, gồm nhà cửa, kho tàng, bến bãi, máy móc thiết bị... đem lại sức mạnh kinh doanh cho doanh nghiệp trên cơ sở sức sinh lời của tài sản. Cơ sở vật chất kỹ thuật thể hiện trình độ phát triển của doanh nghiệp và góp phần đáng kể vào thúc đẩy hoạt động kinh doanh. Cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp càng được bố trí hợp lý bao nhiêu thì càng góp phần đem lại hiệu quả cao bấy nhiêu. Nó thể hiện trình độ quản lý TSCĐ. Một hệ thống có máy móc, thiết bị, nhà xưởng, bến bãi, kho tàng... nếu được sắp xếp hợp lý với các gian đoạn sản xuất, thuận tiện cho việc vận chuyển thì tiết kiệm được thời gian, làm giảm chi phí sản xuất. 2.3. Nhân tố quản trị trong doanh nghiệp. Bộ máy quản trị trong các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến thành công cũng như thất bại của doanh nghiệp. Trong quản trị, thước đo hiệu quả của nhà quản trị chính là việc ra các quyết định quản trị đúng đắn. Bộ máy quản trị doanh nghiệp phải đồng thời thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau, tự hoạt động lập kế hoạch kinh doanh, xây dựng chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp, tổ chức thực hiện các kế hoạch, các phương án và các hoạt động sản xuất kinh doanh đã đề ra cho tới việc tổ chức kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh cho các giai đoạn sau. Với chức năng vô cùng quan trọng của bộ máy quản trị doanh nghiệp, ta có thể khẳng định rằng chất lượng của bộ máy quản trị quyết định rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhân tố này cho phép doanh nghiệp sử dụng hợp lý và tiết kiệm các yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất kinh doanh, giúp lãnh đạo doanh nghiệp đề ra những quyết định và chỉ đạo sản xuất kinh doanh chính xác và kịp thời, tạo ra những động lực to lớn để kích thích sản xuất phát triển. Một doanh nghiệp có năng lực quản trị non kém sẽ không thể đứng vững trước sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường. Nếu bộ máy quản trị được bố trí có cơ cấu phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, gọn nhẹ, linh hoạt, có sự phân chia nhiệm vụ chức năng rõ ràng, có cơ chế phối hợp hoạt động hợp lý, tránh được sự chồng chéo trách nhiệm vì chống được sức ỳ trong quản trị, chi phí hành chính sẽ được giảm đi góp phần tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Và ngược lại. 3. Môi trường ngành. Để phân tích môi trường cạnh tranh ngành ta có thể sử dụng mô hình "Năm lực lượng tác động vào ngành" của Michael Eporter bao gồm: + Mức độ cạnh tranh giữa các Công ty đang hoạt động trong ngành. + Khả năng cạnh tranh của các đối thủ tiềm ẩn + Mức độ cạnh tranh của các sản phẩm thay thế + Sức ép về giá cả của người mua + Sức ép về giá của người cung ứng Mỗi tác động ngày càng lớn mạnh của những lực đó có thể coi là một sự đe dọa khi mà nó làm giảm lợi nhuận. Một tác động cạnh tranh yếu có thể coi là cơ hội khi nó cho phép Công ty kiếm được lợi nhuận nhiều hơn. Cường độ của 5 lực tác động này thườngthay đổi theo thời gian, đòi hỏi các nhà quản lý chiến lược phải nhận biết được những cơ hội và các đe dọa khi chúng xuất hiện và phải đưa ra những đối sách chiến lược phù hợp. 3.1. Sự cạnh tranh của các đối thủ tiềm ẩn. Đối thủ tiềm ẩn là các Công ty hiện không ở trong ngành nhưng có khả năng nhảy vào hoạt động kinh doanh trong ngành đó. Những đối thủ này mới tham gia trong ngành có thể là yếu tố làm giảm lợi nhuận của Công ty do họ đưa vào khai thác các năng lực sản xuất mới với mong muốn giành được một phần thị trường. Do đó doanh nghiệp đang hoạt động tìm mọi cách để hạn chế các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn nhảy vào lĩnh vực kinh doanh của mình. Bơi vì hiển nhiên là nhiều Công ty nhảy vào hoạt động trong một ngành nó sẽ trở lên khó khăn hơn đối với các Công ty đang hoạt động trong ngành đó. Chính vì vậy, Công ty cần duy trì một hàng rào hợp phá ngăn cản sự xâm nhập tư bên ngoài. Ba yếu tố sau là trở ngại chủ yếu đối với việc tham gia vào một ngành kinh doanh. 3.1.1. Sự ưa chuộng sản phẩm. Đó là sự ưa thích của người mua đối với sản phẩm của Công ty sản xuất ra. Công ty có thể thiết lập nên sự ưa chuộng của khách hàng đối với sản phẩm của mình bằng cách: quảng cáo thường xuyên tên Công ty và các sản phẩm mà Công ty đã thực hiện sản xuất. Đối với các sản phẩm thông qua các chương trình nghiên cứu và phát triển để nâng cao, nhấn mạnh ưu thế và chất lượng hàng hóa cao và dịch vụ sau bán hàng. Như vậy, có thể nói có thể sự ưa chuộng sản phẩm làm giảm bớt sự đe dọa thâm nhập vào ngành của các đối thủ tiềm ẩn làm cho họ thấy rằng việc phá vỡ sự ưa thích của khách hàng với các sản phẩm của các Công ty trong ngành là khó khăn và tốn kém. 3.1.2. Các ưu thế về chi phí thấp. Đây chính là khó khăn đối với các đối thủ tiềm ẩn khi mới nhảy vào ngành, những lợi thế về chi phí thấp thường bắt nguồn từ: phương pháp sản xuất tốt do kết quả của quá trình tích lũy kinh nghiệm lâu dài, sự quản lý có hiệu quả đầu vào của sản xuất như lao động, nguyên vật liệu, máy móc. Thiết bị có nguốn vốn cho kinh doanh ổn định với lãi suất thấp do hoạt động của Công ty chứa đựng ít rủi ro hơn các Công ty khác. Đây cũng là một yếu tố gây trở ngại đối với các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn. 3.1.3. Tính hiệu quả của sản xuất lớn. Đây là ưu thế về chi phí của các Công ty có quy mô lớn bao gồm: Giảm chi phí thông qua sản xuất hàng loạt các đầu ra được tiêu chuẩn hóa, giảm giá cho việc mua các nguyên vật liệu đầu vào các bộ phận máy móc thiết bị với số lượng lớn. Nếu Công ty có được lợi thế này sẽ buộc các Công ty mới thâm nhập và đương đầu với những khó khăn về quy mô sản xuất nhỏ và phải đương đầu với những bất lợi về chi phí lớn. 3.2. Sự cạnh tranh của các sản phẩm thay thế. Sản phẩm thay thế là những sản phẩm của các Công ty ngành khác nhưng thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng giống như các Công ty trong ngành, tạo ra sự cạnh tranh gián tiếp giữa các Công ty với nhau. Như vậy, sự tồn tại những sản phẩm thay thế hình thành một sức ép cạnh tranh rất lớn, nó giới hạn mức giá một Công ty có thể định ra và do đó giới hạn mức lợi nhuận của Công ty va ngược lại. 3.3. Sức ép về giá của người mua. Người mua được xem như là sự đe dọa mang tính cạnh tranh khi họ đẩy giá cả xuống hoặc khi họ yêu cầu chất lượng sản phẩm và dịch vụ tốt hơn làm cho chi phí hoạt động của Công ty tăng lên. Ngược lại nếu người mua có người yếu thế sẽ tạo cho Công ty cơ hội để tăng giá và kiếm nhiều lợi nhuận hơn. Người mua có thể gây áp lực với Công ty đến mứ nào phụ thuộc vào thế mạnh của họ trong mối quan hệ với Công ty. Theo Porter, những yếu tố tạo áp lực cho người mua là: + Khi ngành cung cấp gồm nhiều Công ty nhỏ còn người mua chỉ là số ít nhưng họ có quy mô lớn. + Khi người mua với số lượng lớn, họ có thể sử dụng sức mua của mình như một đòn bảy để yêu cầu được giảm giá. + Khi người mua có thể lựa chọn đơn đặt hàng giữa các Công ty cung ứng cùng loại sản phẩm (cùng loại hình sản xuất). Trong giai đoạn hiện nay của nền kinh tế thị trường cùng với sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp, sự xuất hiện của các Công ty, các doanh nghiệp có cùng loại hình sản xuất là tất yếu tạo ra sự lựa chọn của người mua với hàng tiêu dùng của mình. Chính vì vậy đã tạo ra sức ép về giá cả đối với tất cả các loại sản phẩm. 3.4. Sức ép về giá của người cung cấp. Người cung cấp được coi là sự đe dọa với Công ty khi họ có thể đẩy mức giá hàng cung cấp cho Công ty lên, ảnh hưởng đến lợi nhuận của Công ty. Các Công ty thường phải quan hệ với các tổ chức cung cấp các nguồn hàng khác nhau như vật tư thiết bị, nguồn lao động, tài chính. Yếu tố làm tăng thế mạnh của các tổ chức cung ứng cũng tương tự như các yếu tố làm tăng thế mạnh của người mua sản phẩm. 3.5. Sự cạnh tranh giữa các Công ty đang hoạt động trong ngành. Sự cạnh tranh giữa các Công ty trong ngành là yếu tố quan trọng tạo ra cơ hội hoặc mỗi đe dọa cho các Công ty. Nếu sự cạnh tranh này là yếu, các Công ty có hội hội để nâng giá nhằm thu được lợi nhuận cao hơn. Nếu sự cạnh tranh này là gay gắt cả về giá cả lẫn chất lượng sản phẩm. Sự cạnh tranh giữa các Công ty trong ngành này thường chịu sự tác động tổng hợp của ba yếu tố: cơ cấu ngành, mức độ của cầu và những trở ngại ra khỏi ngành. - Cơ cấu cạnh tranh ngành: đó là sự phân bố về số lượng và quy mô của các Công ty trong ngành. Có hai loại cơ cấu chính. + Thứ nhất: ngành phân tán + Thứ hai: ngành hợp nhất Đặc trưng của những ngành phân tán là các Công ty nhỏ bé không có sức mạnh chi phối thị trường và thường phải chấp nhận mức giá của thị trường. Khi đó mức lợi nhuận của Công ty phụ thuộc vào khả năng giảm chi phí hoạt động nhưng về mặt này các Công ty có nhiều mặt hạn chế do quy mô nhỏ, sản phẩm của Công ty thường phải chịu tỷ lệ chi phí lớn hơn về Marketing hoặc chi phí nghiên cứu và phát triển để tạo ra sự khác biệt hóa về sản phẩm. Đặc trưng của những ngành hợp nhất là các Công ty hoạt động phụ thuộc vào nhau. Điều này có nghĩa là các hoạt động cạnh tranh của một Công ty sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến mức lợi nhuận của các Công ty khác trong ngành. Trong ngành hợp nhất, hoạt động mang tính cạnh tranh của một Công ty tác động trực tiếp đến thị trường của các đối thủ cạnh tranh và buộc chúng phải đối phủ lại. Hậu quả là sự xoáy trôn ốc tăng lên về mức độ của cạnh tranh, làm giảm dần mức lợi nhuận của ngành. Do đó, điều rõ ràng là trong ngành hợp nhất, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các Công ty và khả năng xảy ra chiến tranh về giả cả tạo ra sự đe dọa chủ yếu. Các Công ty cố gắng làm giảm hiệu quả của sự đe dọa này bằng cách theo sau các mức giá được định bởi Công ty đầu đàn trong ngành. Việc này được gọi là hình thức thỏa thuận ngầm, bởi vì việc thỏa thuận một cách rõ ràng là trái pháp luật. Do đó, đứng trước nguy cơ đe dọa của cuộc chiến tranh giá cả, các Công ty trong ngành hợp nhất thường có xu hướng cạnh tranh về chất lượng hoặc mẫu mã của sản phẩm và việc né tránh các cuộc chiến tranh giá cả chính là xu hướng đặc trưng của ngành hợp nhất. III. phương pháp đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. 1. Phương pháp đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh - Phương pháp đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh được đo bằng hiệu số giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. H = K - C* Trong đó: H: hiệu quả sản xuất kinh doanh K: kết quả đạt được C: Chi phí bỏ ra - Phương pháp đánh giá tương đối hiệu quả sản xuất kinh doanh được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. H = K C Hiện nay, phương pháp đánh giá này được áp dụng nhiều trong các doanh nghiệp do nó có ưu điểm hơn phương pháp đánh giá tuyệt đối, bởi vì phương pháp này biểu hiện được tương quan về chất và lượng, giữa kết quả với chi phí, phản ánh hết mức độ chặt chẽ của mối liên hệ này. Một quan điểm đưa ra khi đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh, là chúng ta phải xem xét một cách toàn diện cả về mặt thời gian và không gian, cả về mặt định tính và định lượng của sản xuất kinh doanh. a. Về thời gian. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh ta có thể tính toán được hiệu quả đạt được trong từng giai đoạn, nhưng về nguyên tắc thì hiệu quả của từng giai đoạn không được làm giảm hiệu quả khi xem xét trong thời kỳ dài hoặc hiệu quả của chu kỳ sản xuất trước không được làm hạ thấp hiệu quả của chu kỳ sau. Trong nhiều trường hợp vì lý do nào đó chỉ thấy lợi ích trước mặt mà không thấy lợi ích lâu dài, như việc nhập một số thiết bị máy móc cũ kỹ, lạc hậu hoặc xuất khẩu hàng loạt các tài nguyên thiên nhiên sẽ làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất lâu dài của doanh nghiệp. b. Về mặt không gian. Hiệu quả của hoạt động kinh tế cụ thể nào đó ảnh hưởng tăng hoặc giảm đến hiệu quả kinh tế của cả hệ thống mà nó liên quan tức là có sự ảnh hưởng giữa các ngành kinh tế này với các ngành kinh tế khác, giữa từng bộ phận với toàn bộ hệ thống, giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. c. Về mặt định tính. Đứng trươc góc độ nền Kinh tế Quốc dân, hiệu quả kinh tế mà doanh nghiệp đạt được phải gắn chặt chẽ với hiệu quả của toàn xã hội. Doanh nghiệp có hiệu quả cao chưa chắc đã mang lại hiệu quả cho xã hội. Và ngược lại hiệu quả xã hội trong nhiều trường hợp là mặt có tính quyết định khi lưạc chọn một giải pháp kinh tế. Khi đánh giá hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh nào đó không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả mà còn phải đánh giá chất lượng của kết quả đạt được. Kết quả đạt được trong sản xuất mới bảo đảm được yêu cầu tiêu dùng trong toàn xã hội. Do vậy việc đánh giá hiệu quả sản xuất không chỉ đánh giá ở kết quả mà phải xem doanh nghiệp sản xuất tạo ra kết quả như thế nào, bằng phương tiện gì, trình độ ra sao. d. Về mặt định lượng. Hiệu quả kinh tế phải được thể hiện thông qua mối tương quan giữa thu và chi theo hướng tăng thu giảm chi. Điều đó có nghĩa là sử dụng tiết kiệm tối đa mức chi phí sản xuất kinh doanh để tạo ra nhiều sản phẩm có ích nhất. Như vậy đứng trên góc độ của nền Kinh tế Quốc dân, việc nâng cao hiệu quả của một doanh nghiệp phải luôn luôn gắn chặt với hiệu quả toàn xã hội, mang lại hiệu quả kinh tế cho ddơn vị phải đảm bảo hiệu quả kinh tế ngành, địa phương. Nói cách khác, khi đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh cần phải quán triệt một số quan điểm sau: - Bảo đảm sự kết hợp hài hòa và các loại lợi ích xã hội, lợi ích tập thể, lợi ích người lao động, lợi ích trước mặt và lợi ích lâu dài... quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh phải xuất phát từ việc thỏa mãn một cách thích đáng nhu cầu của các chủ thể trong mối quan hệ mắt xích phụ thuộc lẫn nhau. - Bảo đảm tính toàn diện và hệ thống trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Theo quan điểm này thì việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh phải là sự kết hợp hài hòa giữa hiệu quả sản xuất kinh doanh của các bộ phận trong doanh nghiệp với hiệu quả toàn doanh nghiệp. - Phải đảm bảo tính thực tiễn cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Quan điểm này đòi hỏi khi đánh giá và xác định biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát từ, điều kiện kinh tế xã hội của ngành, của địa phương và của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. - Đảm bảo thống nhất giữa nhiệm vụ chính trị - xã hội với nhiệm vụ kinh tế trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. - Đánh giá hiệu quả kinh doanh phải căn cứ vào cả mặt hiện vật lẫn giá trị hàng hóa. Theo quan điểm này đòi hỏi việc tính toán đánh giá hiệu quả phải đồng thời chú trọng cả hai mặt hiện vật và giá trị, ở đây mặt hiện vật ở số lượng sản phẩm và chất lượng sản phẩm, còn mặt giá trị là biểu hiện bằng tiền của giá trị sản phẩm. 2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh 2.1. Nhóm chỉ tiêu tổng hợp. Nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm: - Chỉ tiêu doanh thu trên 1 đồng chi phí Chỉ tiêu doanh thu trên 1 đồng chi phí = Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ Tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này cao khi tổng chi phí thấp, do vậy nó có ý nghĩa khuyến khích các doanh nghiệp tìm ra các biện pháp giảm chi phí để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. - Chỉ tiêu doanh thu trên một đồng vốn sản xuất (sức sản xuất của vốn): Sức sản xuất của vốn = Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ Tổng vốn kinh doanh Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp: một đồng vốn kinh doanh sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. Do đó, nó có ý nghĩa khuyến khích các doanh nghiệp trong việc quản lý vốn chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả đồng vốn kinh doanh. - Chỉ tiêu doanh lợi theo chi phí: Chỉ tiêu doanh lợi theo chi phí = Lợi nhuận trong kỳ Tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết một đồng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. - Chỉ tiêu doanh lợi theo vốn kinh doanh. Chỉ tiêu doanh lợi theo vốn kinh doanh = Lợi nhuận trong kỳ Tổng vốn kinh doanh trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp; một đồng vốn tạo ra được bao nhiêu đồnglnh. Nó phản ánh trình độ lợi dụng yếu tố vốn của doanh nghiệp. - Chỉ tiêu doanh lợi theo doanh thu thuần: Chỉ tiêu doanh lợi theo doanh thu thuần = Lợi nhuận trong kỳ Doanh thu thuần trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận từ một đồng doanh thu thuần. Chỉ tiêu này có ý nghĩa khuyến khích doanh nghiệp tăng doanh thu, giảm chi phí hoặc tốc độ tăng doanh thu phải lớn hơn tốc độ tăng chi phí. 2.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào cơ bản. * Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động. - Chỉ tiêu năng suất lao động: Chỉ tiêu năng suất lao động = Tổng giá trị sản xuất tạo ra trong kỳ Tổng số lao động bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết một lao động sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng giá trị sản xuất. - Chỉ tiêu kết quả sản xuất trên một đồng chi phí tiền lương: Chỉ tiêu kết quả sản xuất trên 1 đồng chi phí tiền lương = Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ Tổng chi phí tiền lương trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng chi phí tiền lương trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. - Chỉ tiêu lợi nhuận bình quân tính cho một lao động: Chỉ tiêu lợi nhuận bình quân tính cho một lao động = Lợi nhuận trong kỳ Tổng số lao động bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết bình quân một lao động trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. - Hệ số sử dụng lao động: Hệ số sử dụng lao động = Tổng số lao động được sử dụng Tổng số lao động hiện có Chỉ tiêu này cho biết trình độ sử dụng lao động của doanh nghiệp. - Hệ số sử dụng thời gian lao động: Hệ số sử dụng thời gian lao động = Tổng thời gian lao động thực tế Tổng thời gian lao động định mức Chỉ tiêu này phản ánh thời gian lao động thực tế so với thời gian lao động định mức, nó cho biết tình hình sử dụng thời gian lao động trong doanh nghiệp. * Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định: Sức sản xuất của vốn cố định = Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ Vốn cố định bình quân trong kỳ - Sức sản xuất của vốn cố định. Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định trong kỳ sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Sức sinh lợi của vốn cố định = Lợi nhuận trong kỳ Vốn cố định bình quân trong kỳ - Sức sinh lợi của vốn cố định: Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định trong kỳ sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. - Hiệu suất sử dụng thời gian làm việc của máy móc thiết bị. Hiệu quả sử dụng thời gian làm việc của máy móc thiết bị = Thời gian làm việc thực tế Thời gian làm việc theo thiết kế - Hệ số sử dụng tài sản cố định: Hệ số sử dụng tài sản cố định = Tổng tài sản cố định được huy động Tổng tài sản cố định hiện có - Hệ số đổi mới tài sản cố định: Hệ số đổi mới tài sản cố định = Tổng giá trị tài sản cố định được đổi mới Tổng tài sản cố định hiện có * Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả vốn lưu động: Sức sản xuất của vốn lưu động = Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ Vốn lưu động bình quân trong kỳ - Sức sản xuất của vốn lưu động: Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động trong kỳ sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. - Hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động: Hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động = Vốn lưu động bình quân trong kỳ Doanh thu thuần Chỉ tiêu này cho biết cần bao nhiêu đồng vốn lao động đảm nhiệm để tạo ra một đồng doanh thu. - Số vòng quay của vốn lưu động: Số vòng quay cảu vốn lưu động = Doanh thu thuần Vốn lưu động bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ việc sử dụng vốn lưu động có hiệu quả và ngược lại. - Thời gian của một vòng quay: Thời gian của một vòng quay = Thời gian của kỳ phân tích Số vòng quay của vốn lưu động Chỉ tiêu này cho biết số ngày để vốn lưu động quay được một vòng. Thời gian này càng ngắn thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao và ngược lại. Chương II thực trạng về hiệu qủa sản xuất kinh doanh của công ty TNHH in bao bì hoàng hiệp I. vài nét về công ty TNHH hoàng hiệp Từ khi có chính sách mở cửa, chiyển đổi cơ chế từ quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, cùng với sự ra đời của luật doanh nghiệp , công ty... lần lượt đã có nhiều công ty với đủ loại hình kinh doanh được hình thành và phát triển với quy mô khá lớn, có dây chuyền theo phương pháp công nghiệp. Nhưng do yêu cầu trong nước và xu thế hội nhập quốc tế được nâng tới một tầm cao mới, nhu cầu sản xuất ngày càng nhiều lên với mức sản xuất hiện nay vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu. Để góp phần phát triển sản xuất kinh doanh đáp ứng lời kêu gọi của nhà nước đầu tư, máy móc trang thiết bị, vốn, kinh nghiệm quản lý-Công ty TNHH Hoàng Hiệp được ra đời chuyên sản xuất bao bì các loại và in công nghiệp trên các sản phẩm bao bì. Xây dựng phương án kỹ thuật cho một hay nhiều xưởng sản xuất theo quy trình công nghệ mới. Ngoài việc sản xuất bao bì các loại và in công nghiệp trên các sản phẩm bao bì. Xây dựng phương án kỹ thuật cho một hay nhiều xưởng sản xuất theo quy trình công nghệ mới. Ngoài việc sản xuất bao bì nhựa, giấy, in bao bì công ty sẽ kinh doanh thương mại như sau: +Mua bán hàng tư liệu sản xuất: máy móc, nguyên liệu, hoá chất, vật tư, trang thiết bị dùng trong công nông nghiệp. +Mua bán hàng tiêu dùng: bách hoá, vải sợi, may mặc, kim khí điện máy, thiết bị văn phòng, xe gắn máy, xe hơi, VLXD. +Đại lý gửi hàng hoá Công ty TNHH Hoàng Hiệp trực thuộc UBND tỉnh Hà Tây, thành lập 17./1/1999. Ngành nghề kinh doanh và sản xuất nhãn mác bao bì. Trong quá trình hoạt động công ty có nhiệm vụ sau: -Làm đầy đủ các thủ tục đăng ký kinh doanh và hoạt động theo đúng qui định của nhà nước . -Thực hiện đầy đủ các nội dung trong đơn xin thành lập doanh nghiệp nhà nước và chịu trách nhiệm trước pháp luật. -Tạo lập sự quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhằm thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh và đảm bảo công ty làm ăn có lãi. -Tuân thủ các chính sách chế độ pháp luật của nhà nước về quản lý kinh tế , tài chính, lao động, không ngừng nâng cao hiệu quả thực hiện nghiêm túc các hợp đồng đã ký kết nhằm nâng cao uy tín cho công ty. Xây dựng và thực hiện các kế hoạch kinh doanh trên cơ sở kế hoạch hoá gắn với thị trường. Góp phần bảo đảm nhu cầu về nhãn mác, bao bì cho thị trường miền bắc nói riêng và cả nước nói chung, tạo nên một chỗ đứng vững chắc trên thị trường của công ty. -Những ngày đầu thành lập công ty gặp rất nhiều khó khăn do đầu tư trang thiết bị công nghệ in Flexco(in trên chất liệu decan) hiện đại vào loại bậc nhất tại Việt Nam hiện nay, công nghệ này hầu như còn khá mới mẻ đối với thị trường miền bắc cũng như các doanh nghiệp sản xuất cùng ngành nghề kinh doanh, nguyên vật liệu để phục vụ cho quá trình sản xuất lại hiếm có ở thị trường miền bắc-chủ yếu được mua từ thị trường miền nam do đó gặp rất nhiều khó khăn trong việc đáp ứng cho quá trình sản xuất về mặt thời gian. Hơn nữa, nhu cầu về nhãn mác cao cấp trên thị trường miền bẵc lại rất thấp, do các doanh nghiệp sản xuất chưa chú trọng đến tính quan trọng của mẫu mã sản phẩm nhãn mác. Sau hơn một năm thành lập nhưng công việc sản xuất kinh doanh của công ty vẫn chưa có hiệu quả vì chi phí khấu hao rất lớn. Vì vậy thay đổi thị trường cũng như chuyển hướng đầu tư công nghệ là một việc làm mang tính chiến lược để củng cố vị thế chiến lược của công ty cũng như thích ứng một cách tích cực đối với thị trường miền bắc. Từ đây mở rộng ngành nghề in Letterpress và Ofsset là hướng đi đúng đắn tạo điều kiện cho sự phát triển của công ty cũng như sự phát triển của công nghệ in Flexo. -Quy mô và cơ cấu tổ chức Cơ cấu tổ chức là tổng hợp các bộ phận khác nhau có mối liên hệ và quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, được chuyên môn hoá, được giao những trách nhiệm và quyền hạn nhật định và được bố trí theo từng cấp nhằm thực hiện các chức năng qản trị doanh nghiệp. Quá trình đó phải được xây dựng trên cơ sở cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp . Công ty TNHH Hoàng Hiệp là doanh nghiệp chuyên sản xuất bao bì, giấy, in bao bì và dịch vụ thương mại vì vậy quy mô và cơ cấu tổ chức sản xuất được phân cấp từ trên xuống dưới dựa trên cơ sở: +Đảm bảo tính chuyên môn hoá đến mức cao nhất có thể +Đảm bảo tiêu chuẩn hoá, xác định rõ nhiệm vụ của từng bộ phận, từng cá nhân cũng như quy định các nguyên tắc, quy trình thực hiện, tiêu chuẩn chất lượng với từng nhiệm vụ. + Đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận, phòng ban, cá nhân. + Đảm bảo tính thống nhất quyền lực trong hoạt động quản trị về điều hành. Vì vậy cần phải lựa chọn cơ cấu tổ chức hợp lý, xác định tính thống nhất quyền lực trong toàn bộ hệ thống thể hiện cụ thể quy chế hoạt động nhất là trong giai đoạn hiện nay người tổ chức phải tìm kiếm kiểu cơ cấu tổ chức thích ứng với sự thay đổi thường xuyên của môi trường, đồng thời cũng phải thường xuyên nghiên cứu và hoàn thiện cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp. II. Một số đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của công ty TNHH Hoàng Hiệp: 1.Đặc điểm về sản phẩm Là một công ty sản xuất các sản phẩm nhãn mác bao bì và kinh doanh thương mại nên trước hết sản phẩm của công ty mang đặc điểm của các sản phẩm có sử dụng nhãn mác bao bì, cung cấp cho các loại hàng hoá dịch vụ có sử dụng sản phẩm mà công ty sản xuất ra. Tuỳ theo tính chất và đặc điểm của từng loại sản phẩm mà khách hàng yêu cầu công ty sẽ có những kế hoạch phân công tới từng bộ phận thực hiện. Để thực hiện hoàn chỉnh một loại sản phẩm nói chung cần một quy trình công nghệ như sau: Các khâu liên quan và máy móc sử dụng Sản phẩm A Thiết kế, chế bản. Xuất fiml Bình chụp bản Công đoạn in Offset hoặc Letterpress Công đoạn Cán mảng(nếu có) Công đoạn Bế dập tạo khuôn. KCS(kiểm tra loại bỏ sản phẩm hư hỏng) Nhập kho thành phẩm. Tuy nhiên, các loại sản phẩm đó được phân chia theo từng cấp tuỳ theo yêu cầu của khách hàng (sản phẩm chất lượng cao hay thấp). Trong nền kinh tế ngày nay, do sự tác động của nền kinh tế thị trường cùng với sự hội nhập kinh tế đang diễn ra từng ngày, các loại sản phẩm nhập ngoại đều có sử dụng những loại nhãn mác, bao bì có chất lượng cao, mẫu mã đẹp đi đôi với chất lượng của sản phẩm cạnh tranh rất mạnh với các lại sản phẩm trong nước, làm cho nhu càu về hình thức mẫu mã sản phẩm, chất lượng của nhãn mác cũng được đẩy lên rất cao, đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất nhãn mác thường xuyên phải tiếp cận những công nghệ in mới cũng như thiết kế những kiểu dáng mẫu mã của các loại nhãn mác đi đôi với chất lượng của nhãn mác để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Việc doanh thu của loại hình sản xuất này mang lại lợi nhuận rất cao nên nó ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. -Ngoài ra khi sản xuất loại sản phẩm này đều không gây mất nhiều chi phí bảo quản dẫn đến giảm chi phí sản xuất kinh doanh và tăng hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp. -Một đặc điểm nữa về sản phẩm là được sản xuất theo nhu cầu thị trường, đặc điểm này có thuận lợi là không có nhiều hàng tồn kho ứ đọng hay thất thoát vốn, nhưng cũng chính đặc điểm này làm cho doanh nghiệp không chủ động được nhiều trong việc sản xuất kinh doanh để nâng cao hiệu quả cũng như tiết kiệm được nguyên vật liệu. 2.Đặc điểm về cơ sở vật chất kỹ thuật Để phục vụ tốt hơn trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp, mỗi công ty, doanh nghiệp phải có những bước đi đúng đắn trong quá trình đầu tư máy móc thiết bị để đảm bảo cho sự hoạt động liên tục của dây chuyền sản xuất cũng như tiếp cận với những công nghệ mới để nâng cao chất lượng, hiệu quả cho sản phẩm của mình. Đó là yếu tố mang tính tất yếu cho sự sống còn của mỗi doanh nghiệp sản xuất. Hiện nay, công ty TNHH Hoàng Hiệp có hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật như sau: Bảng A: Thống kê hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty. Đơn vị: 1000đ Các chỉ tiêu Nguyên giá Giá trị còn lại Hệ thống văn phòng làm việc 350.000 250.000 Hệ thống xưởng tạo khuôn bế dập Hệ thống xưởng bình chụp bản Hệ thống xưởng in Offset Hệ thống xưởng in Letterpress Hệ thống kho tàng 800.000 450.000 Phương tiện vận tảI 150.000 100.000 Máy móc thiết bị 2.500.000 1.500.000 Trong đó hệ thống máy móc thiết bị của công ty như sau: Các loại máy móc thiết bị Số lượng Công suất (kw/h) Năm sử dụng Quốc gia cung cấp Máy chế bản(máy vi tính) 10 2 1998 Sigapore Máy in film 1 3 1998 Nhật Máy in Offset 2 màu 3 30 1986 Nhật Máy in Letterpress 3 màu 3 20 1986 Nhật Máy in Offset 1 màu 3 15 1970 Nhật Máy bế dập 4 10 1995 Việt Nam Máy bế tự động 2 15 1990 Nhật Máy cắt 3 10 1990 Nhật Máy khoan 3 10 1995 Đài Loan Máy dán hộp tự động 2 10 1990 Nhật Máy ép thuỷ lực 2 10 1985 Đài Loan Máy dập ghim 2 5 1990 Trung Quốc Máy cán màng 3 15 1995 Việt Nam (Theo nguồn: Phòng kỹ thuật tháng 7/2002) *ảnh hưởng của cơ sở vật chất kỹ thuật đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Như trên đã trình bày ta thấy rằng giá trị còn lại của hệ thống cơ sở vật chất của công ty là rất thấp so với nguyên giá ban đầu, do nhiều hệ thống đã khấu hao và các hệ thống đầu tư mới chưa có nhiều. Điều này đã gây nhiều bất lợi cho công ty trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật thấp kém, thứ nhất ảnh hưởng đến việc phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh. Hệ thống văn phòng làm việc xuống cấp, không đầy đủ trang thiết bị cần thiết cho hoạt động quản lý của công ty. Sự sắp xếp giữa các phòng ban chưa tạo nên điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi thông tin và thành một tổng thể thống nhất nên không tạo ra được một bầu không khí, một môi trường làm việc thoải mái khuyến khích người lao động làm việc hăng say hơn. Hệ thống kho tàng các phân xưởng đã xuống cấp rất nhiều, thậm chí những nơi không còn đủ điều kiện đảm bảo cho việc sản xuất kinh doanh. Sự xuống cấp này đã ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động và an toàn lao động, người lao động chưa yên tâm thoải mái làm việc và không đảm bảo cho bảo quản nguyên vật liệu, sản phẩm và hàng hoá. Mặc dù công ty đã có nhiều biện pháp để khắc phục giảm bớt những khó khăn về cơ sở hạ tầng nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của sản xuất kinh doanh. Phương tiện vận tải dùng để vận chuyển hàng hoá có số lượng hạn chế đôi khi chưa đáp ứng đủ nhu cầu vận chuyển hàng hoá của doanh nghiệp. Nó gây ảnh hưởng trì trệ, không kịp thời và ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. ảnh hưởng thứ hai của cơ sở vật chất hạ tầng như hiện nay của công ty là đã tạo ra được một môi trường không mỹ quan, không có sức hấp dấn với đối tác, đặc biệt là với ngân hàng cho vay. Chính điều đó làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh ở công ty. Đối với hệ thống máy móc thiết bị của công ty ngoài những máy móc mới đầu tư gần đây còn đại đa số máy móc đã quá cũ cộng với sự phát triển một cách nhanh chóng của công nghệ in ấn, đã làm cho hiệu quả trong quá trình sản xuất chưa đạt hiệu quả cao, dẫn đến hiệu qủa làm ra sản phẩm kém chất lượng, năng suất lao động thấp, tiêu hao nhiều nguyên vật liệu, làm chi phí sản xuất kinh doanh cao gây giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh. 3. Đặc điểm lao động: Nhân tố con người là yếu tố quyết định trong hoạt động sản xuất kinh doanh do đó công ty đã xác định: lao động là yếu tố hàng đầu của quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu như đảm bảo được số lượng, chất lượng lao động sẽ mang lại hiệu quả cao vì yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động, hệ số sử dụng lao động, nhưng do tính chất công việccủa công ty là ít ổn định, có thời gian khối lượng công việc nhiều và ngược lại nên trong mấy năm qua công ty không chú trọng phát triển số lượng lao động mà chỉ quan tâm đến việc nâng cao chất lượng lao động mà thôi và giải quyết tình trạng thiếu lao động bằng việc thuê ngoài lao động để hoàn thành nhiệm vu sản xuất kinh doanh. Đặc điểm vè lao động sản xuất của công ty là lao động kỹ thuật được đào tạo cơ bản từ các trường của ngành in, tuỳ theo từng bộ phận trong phân xưởng sản xuất công ty sẽ bố trí thích hợp cho từng vị trí đảm bảo sự thông suốt trong quá trình sản xuất cũng như phù hợp với trình độ chuyên môn của từng người. Việc sắp xếp bố trí nhân sự trong công ty như sau: cơ cấu lao động theo chức năng: bảng 4: Cơ cấu lao động theo chức năng Chỉ tiêu Số lượng Tỉ trọng 1.Lao động gián tiếp: 15 30% -Quản lý 5 10% -Ký thuật 10 20% 2.Lao động trực tiếp: 35 70% -Phân xưởng bình chụp bản, in 15 30% -Phân xưởng bế cán 10 20% -Phân xưởng KCS 10 20% Tổng 50 người 100% (Theo nguồn: Phòng tổ chức lao động tiền lương tháng 2/2002) Nhìn vào bảng trên ta thấy với 50 cán bộ công nhân viên của công ty, lao động gián tiếp chiếm tỷ trọng nhỏ(30%) trong đó có 10% là lao động quản lý, đây là một bộ máy quản lý đã được tinh giảm, gọn nhẹ, chứng tỏ ban giám đốc chú trọng đến chất lượng lao động hơn là số lượng lao động. Công ty cũng là doanh nghiệp làm việc theo chế độ một thủ trưởng, sự chồng chéo trong quản lý được hạn chế tối đa. Cơ cấu trong lao động các phân xưởng cũng được sắp xếp một cách hợp lý, đối với các phân xưởng từ thiết kế chế bản đến phòng bình chụp bản, in ấn đến khâu cuối cùng là KCS, đảm bảo một cách tối đa công suât, năng lực của từng bộ phận. Với cơ cấu nhân sự như vậy công ty đã phần nào đáp ứng được nhu cầu sản xuất tạo điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. -Cơ cấu lao động theo trình độ: Bảng 5: Cơ cấu lao động theo trình độ Chỉ tiêu lao động Đại và sau đại học Cao đẳng Trung cấp Công nhân kỹ thuật Cán bộ quản lý 5 2 0 Cán bộ kỹ thuật 5 5 0 Công nhân bậc 6-7 5 Công nhân bậc 4-5 15 Công nhân bậc 2-3 13 Tổng số 10 7 0 33 Tỉ trọng 20% 14% 0 66% (Theo nguồn: Phòng tổ chức lao động tiền lương tháng 02/2002) Số lượng lao động quản lý là 5 người, trong đó có 5 người có trình độ đại học và trên đại học, còn lại là cán bộ kỹ thuật t người, cao đẳng_trung cấp chiếm tỉ lệ không nhỏ. Như vậy với bộ máy quản lý nhỏ gọn nhưng lại có tỷ trọng cán bộ có trình độ cao chiếm phần lớn nên công việc quản lý của công ty vẫn được tổ chức một cách khoa học và hiệu quả. Trong số cán bộ kỹ thuật có trình độ đại học và trên đại học chiếm tỷ trọng cao, nhưng đó chưa phải là số lượng cán bộ đủ để đáp ứng nhu cầu sản xuất của công ty. Công ty cần chú trọng tuyển thêm cán bộ kỹ thuật về các phân xưởng phụ trách trực tiếp quá trình sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của công ty. Công ty có số lượng công nhân kỹ thuật bậc cao tương đối lớn, đó là những công nhân đã có nhiều năm kinh nghiệm làm việc, là những công nhân bậc thầy cho các lớp công nhân trẻ mới vào làm, tạo điều kiện thuận lợi cho công ty nâng cao hiệu quả sử dụng lao động. Nhưng mặt khác số công nhân bậc cao này cũng gây ra những bất ổn cho công ty trong quá trình sản xuất, tuy là những công nhân lành nghề đã quen với nếp sống kỷ luật của công ty nhưng nó đồng nghĩa với tuổi tác của công nhân này đã cao, sắp hết tuổi lao động. Nhiều người trong số họ sức khỏe đã giảm đi nhiề ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động. Vì vậy công ty cần phải chuẩn bị tuyển người và đào tạo nâng cao tay nghề của các lớp công nhân trẻ, kịp thời thay thế cho các lớp thế hệ trước. Cũng qua bảng trên ta thấy số công nhân bậc 2-3 của công ty chiếm một tỷ trọng khá lớn trong bảng, tổng số công nhân kỹ thuật, chủ yếu các công nhân này ở phân xưởng in Offset và Letterpress, một phân xưởng đang được công ty chú trọng và cần phải đẩy mạnh năng suất lao động, chất lượng sản phẩm. Chính vì vậy công ty cần chú trọng đào tạo, nâng bậc cho công nhân nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. 4. Đặc điểm về nguyên vật liệu. Nguyên vật liệu là một trong 3 yếu tố của quá trình sản xuất trực tiếp cấu thành nên thực thể sản phẩm. Thiếu nguyên vật liệu thì quá trình sản xuất bị gián đoạn hoặc không thể tiến hành được. Vởy nguyên vật liệu có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm, đến việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm nguyên vật liệu, đến hiệu quả của việc sử dụng vốn, hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nguyên vật liệu của công ty có đặc điểm là nguyên vật liệu của ngành in ấn và sản xuất bao bì, bao gồm: giấy, mực, bản kẽm, xăng dầu... và các nhiên liệu này là nếu không được bảo quản tốt sẽ nhanh bị thái hoá dẫn đến chất lượng nguyên vật liệu không tốt làm chất lượng sản phẩm cũng giảm theo, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường ngày nay việc xuất hiện nhiều những công ty sản xuất in ấn nhãn mác phục vụ nhu cầu các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm có sử dụng bao bì, chính vì vậy cũng xuất hiện rất nhiều các nhà cung cấp cac nguyên vật liệu phục vụ cho ngành in ấn. Do vậy việc cung ứng nguyên vật liệu đầu vào của công ty gặp rất nhiều thuận lợi mặc dù còn nhiều loại nguyên vật liệu đặc chủng sử dụng trong lĩnh vực in Letterpress còn khan hiếm trên thị trường miền bác, nên công ty không phải mất nhiều chi phí dự trữ nguyên vật liệu trong kho, mà công ty có điều kiện trực tiếp mua trên thị trường cho sản xuất sản phẩm theo từng đợt hàng. 5.Đặc điểm về thị trường . *Về thị trường cung ứng nguyên vật liệu và hàng hoá kinh doanh. Đối với thị trường cung ứng nguyên vật liệu cho công ty như giấy Bãi Bằng, công ty giấy Tân Mai và một số công ty tư nhân... đều là những thị trường đầu vào trong nước. Đặc điểm này có ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến hiệu quả sản xuất kinh doanh như sau: -ảnh hưởng tích cực: công ty không phải chịu chi phí nhập ngoại, chi phí cho việc nghiên cứu thị trường đầu vào của mình và do có nhiều nhà cung cấp cạnh tranh với nhau nên giá thành có thể được giảm. -ảnh hưởng tiêu cực: chủng loại, chất lượng sản phẩm hạn chế. Đối với thị trường cung ứng hàng hoá: công ty chủ yếu chủ động đến với các công ty sản xuất các sản phẩm có sử dụng nhãn mác, bao bì như công ty Trung Thành, công ty Lever Haso, các công ty như công ty giầy, công ty may mặc... Tuy nhiên, việc các công ty này có bán được sản phẩm của mình trên thị trường hay không phụ thuộc rất nhiều những yếu tố như giá nguyên vật liệu, việc nhập ngoại các sản phẩm của khác... đã gây nhiều khó khăn cho việc sản xuất kinh doanh của công ty làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Ngoài ra công ty phải bỏ một khoản chi phí lớn đi nghiên cứu thị trường, chăm sóc khách hàng, ký kết hợp đồng và kiểm tra từng lô hàng trước khi nhập hàng. *Về thị trường tiêu thụ sản phẩm: -Đối với thị trường tiêu thụ sản phẩmlà các sản phẩm của ngành in, hiện nay công ty đã chiếm được đa số thị phần ở khu vực miền bắc nhất là các sản phẩm in trên công nghệ Letterpress và Flexo. Công ty gần như độc quyền cung cấp sản phẩm này cho các tỉnh phía bắc và đã tạo được uy tín, chiếm được lòng tin của khách hàng, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. Nhưng do người tiêu dùng Việt Nam nói chung và miền bắc nói riêng chưa thật sự có nhữn cái nhìn đầy đủ về những loại mẫu mã hàng hoá cùng với chất lượng hàng hoá trong nước cho nên ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp có sản phẩm sử dụng nhãn mác... Mặt khác, thị trường này có đặc điểm lớn là phụ thuộc theo thời vụ, thời tiết nên nhu cầu về các loại thiết bị này là không ổn định kéo theo sự bất ổn trong sản xuất. Thị phần của doanh nghiệp chiếm 50% miền bắc nhưng ở thị trường này số chủng loại nhãn mác lại hạn chế do sự quản lý còn chưa thông thoáng trong việc sản xuất nhãn mác và nhu cầu của người tiêu dùng trong khi đó công ty vẫn chưa xâm nhập và chiếm lĩnh được thị trường miền trung và miền nam, là thị trường có rất nhiều những khu công nghiệp cũng như các nhà máy sản xuất các sản phẩm có sử dụng sản phẩm do công ty sản xuất... vì ở thị trường này đã có nhà cung ứng về máy móc thiết bị có chất lượng và công suất cao hơn, đó là một đối thủ cạnh tranh lớn kìm hãm công ty trong việc mở rộng thị trường, ảnh hưởng tiêu cực đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. -Đối với thị trường kinh doanh như: +Mua bán hàng tư liệu sản xuất; máy móc, nguyên liệu, hoá chât, vật tư, trang thiết bị dùng trong công nông nghiệp. +Mua bán hàng tiêu dùng: bách hoá, vải sợi, may mặc, kim khí điện máy, thiết bị văn phòng, xe gắn máy, xe hơi, VLXD. +Đại lý ký gửi hàng hoá Trong những năm đầu thành lập công ty chưa thật sự tham gia vào những lĩnh vực này bởi vì trong chiến lược phát triển của công ty là củng cố và đẩy mạnh sản xuất phục vụ cho người tiêu dùng đi đôi với việc đầu tư các công nghệ mới, từ đó tạo uy tín cho doanh nghiệp của mình rồi tiếp đến phát triển các ngành, nghề khác mà công ty đã đăng ký kinh doanh. Điều đó cho thấy chiến lược phát triển của công ty là phát triển theo từng bước, tạo uy tín, tăng khả năng cạnh tranh đối với các đối thủ của mình. III.Phân tích thực trạng hiệu quả sản xuất kinh doanh ở công ty TNHH Hoàng Hiệp. 1.Tình hình kết quả sản xuất kinh doanh của công ty trong thời gian qua: bang ngang bảng ngang Qua bảng trên đây ta có thể thấy rằng năm 1999 và năm 2001 công ty đều hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra, riêng năm 2000 công ty đã không hoàn thành kế hoạch của các chỉ tiêu giá trị sản xuất công nghiệp, giá trị sản lượng hàng hoá và doanh thu, tuy nhiên chỉ tiêu lợi nhuận và nộp ngân sách đã được công ty hoàn thành vượt mức. Điều đó chứng tỏ năng lực sản xuất của công ty tăng lên qua các năm. Là một doanh nghiệp sản xuất nhãn mác, bao bì linh hoạt trong cơ chế thị trường. Vì vậy, cơ cấu mặt hàng ngày càng được đa dạng và phong phú, vừa đảm bảo tính chuyên môn hoá kết hợp với đa dạng hoá đáp ứng nhu cầu thị trường một cách tốt nhất. Mặt khác do có những thay đổi trong việc hoàn thiện bộ máy tổ chức, đầu tư mới dây chuyền công nghệ và mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh nên trong 3 năm gần đây tốc độ tăng trưởng của công ty không ngừng tăng lên cùng với sự chuyển dịch cơ cấu mặt hàng sản xuất kinh doanh. Bảng 7: Tình hình sản xuất kinh doanh của công ty Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 1.Tổng thiết bị 2.144,911 2.494,7 468,719 2.Phụ tùng 233,303 314,08 450,478 3.Vật tư 2,6 7,127 9,353 4.Sản xuất 106,589 2.211,873 6.340,554 Tổng cộng: 2.459,403 5.054,793 7.269,104 (Theo nguồn: Phòng kinh doanh tháng 03/2001) Qua bảng trên ta thấy năng lực sản xuất của công ty không ngừng tăng lên, giá trị tổng sản lượng cao và tăng mạnh trong 3 năm 1999, 2000, 2001 đặc biệt là có sự nhảy vọt của năm 2000. Qua bản báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của công ty, ta thấy rằng trong những năm qua tình hình sản xuất kinh doanh của công ty cơ bản là có hướng phát triển tốt. Chỉ tiêu tổng lợi nhuận đối với mọi doanh nghiệp vẫn được đặt lên hàng đầu vì đó là mục tiêu quan trọng nhất mà doanh nghiệp theo đuổi. Tuy tổng doanh thu của năm 2000 là 411.090 nghìn đồng giảm 0,51% so với năm 1999 với mức giảm tuyệt đối là 2110 nghìn đồng, nhưng nguyên nhân của sự giảm này là do doanh nghiệp giảm việc sản xuất các mặt hàng không đem lại khả năng sinh lợi nhuận cao cho doanh nghiệp. Sang đến năm 2001 tổng doanh thu của công ty đã tăng mạnh lên 63.400 nghìn đồng tăng 818,9% so với năm 2000, sự phát triển nhảy vọt này là do sự đầutư vào việc sản xuất một cách đúng đắn và hiệu quả. Lợi nhuận của năm 2000 là 20.170 nghìn đồng tăng so với năm 1999 là 517,3% mức tăng tuyệt đối là 16.930 nghìn đồng, sang năm 2001 lợi nhuận của doanh nghiệp tiếp tục tăng lên đến 25.380 nghìn đồng, tăng so với năm 2000 là 25,8%, mức tăng tuyệt đối là 5.210 nghìn đồng. Điều này chứng tỏ công ty đã thực hiện kinh doanh tốt, đặc biệt là chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong những năm qua. Qua việc phân tích doanh thu, chi phí và lợi nhuận của doanh nghiệp ta có thể thấy được công ty thực hiện sản xuất kinh doanh có hiệu quả, mặc dù doanh thu năm 2000 giảm so với năm 1999 nhưng lợi nhuận năm 2000 so với năm 1999 tăng lên gấp nhiều lần và tăng doanh thu năm 2001/2000 lớn hơn tốc độ chi phí. Đó là điều kiện cần thiết để công ty nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong những năm qua công ty TNHH Hoàng Hiệp đã luôn thực hiện tốt nghĩa vụ đối với nhà nước, cùng với việc tăng kết quả sản xuất kinh doanh, công ty cũng góp phần làm tăng nguồn thu ngân sách n thông qua việc đóng thuế: Thuế doanh thu(6%), thuế VAT(10%) và thuế thu nhập doanh nghiệp (32%). Không chỉ dừng lại ở mức kết quả đạt được như trên, trong những năm gần đây công ty đã xây dựng cho mình các chiến lược phát triển, kế hoạch sản xuất kinh doanh để tiếp tục sản xuất và mở rộng sản xuất các loại sản phẩm công nghệ cao, lắp đặt thêm các dây chuyền sản xuất mới, không ngừng nâng cao trình độ năng lực của công nhân viên nhằm phát triển ngành công nghiệp Việt Nam nói chung và sự phát triển của doanh nghiệp, tạo công ăn việc làm, nâng cao đời sống của người lao động trong doanh nghiệp nói riêng. 2.Phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty TNHH Hoàng Hiệp Trong những năm qua mặc dù còn gặp nhiều khó khăn và trở ngại nhưng công ty đã có những cố gắng to lớn để trụ vững, ổn định và có những bước đi lớn để đạt được hiệu quả cao. Công ty đã tạo công ăn việc làm ổn định cho hơn 50 công nhân nhằm đảm bảo đời sống của họ, góp phần làm ổn định trật tự an ninh xã hội và tăng thu cho ngân sách nhà nước. 2.1. Phân tích thực trạng hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp: Cũng như mọi doanh nghiệp nhà nước khác, doanh thu và lợi nhuận là hai chỉ tiêu mà công ty TNHH Hoàng Hiệp coi là động lực thúc đẩy sự phát triển. Doanh thu chính là giá trị hay số tiền mà doanh nghiệp có được nhờ thực hiện sản xuất kinh doanh còn lợi nhuận chính là kết quả cuối cùng mà doanh nghiệp đạt được. Theo sự phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở trên, ta mới chỉ biết doanh nghiệp có phát triển theo chiều rộng hay không, nhưng để biết được sự phát triển theo chiều sâu của công ty ta phải xem xét các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tổng hợp. Bảng 8: Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế tổng hợp Chỉ tiêu 1998 1999 2000 1999/1998 2000/1999 1.Doanh thu trên đồng chi phí 1.5038 1.4805 2.0811 -1,55 40,6 2.Sức sản xuất của vốn 3.9529 3.3257 20.7771 -15,9 525 3.Doanh lợi theo DT thuần 0,873% 5,488% 1,183% 529 -78,4 4.Doanh lợi theo vốn KD 3,09% 16,32% 13,96% 428,2 -14,5 5.Doanh lợi theo chi phí 1.18% 7,26% 1,39% 515,3 -80,8 Qua 2 biểu đồ trên ta thấy chỉ tiêu doanh thu trên một đồng chi phí là tương đối cao, đặc biệt là sang năm 2000 là 2,0811 tăng 41% so với năm 1999. Sức sản xuất của vốn Điều này cho thấy, công ty đã tiết kiệm được chi phí sản xuất và tiêu thụ khiến cho một đồng chi phí bỏ ra thu về được nhiều đồng doanh thu hơn. Đây là một điều kiện cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu sức sản xuất của vốn ở công ty khá cao, năm 1998, một đồng vốn sản xuất tạo ra 3,9529 đồng doanh thu; năm 1999 là 3,3257 đồng và năm 2000 là 20,7771 đồng; tăng 524,7% so với năm 1999.Điều nàychứng tỏ công ty đã huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn vào quá trình sản xuất kinh doanh, tuy rằng năm 2000 chỉ tiêu này giảm so với năm 1999 do doanh thu giảm trong khi vốn kinh doanh lại tăng lên. Năm 2000 tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu của doanh nghiệp tăng lên rất nhiều so với năm1999 với tỷ lệ là 519,9% điều này chứng tỏ hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tăng lên. Tuy nhiên, đến năm 2001 thì tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu giảm 86% so với năm 2000 do tốc độ tăng doanh thu hơn nhiều lần so với tốc độ tăng lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận theo vốn kinh doanh của doanh nghiệp năm 2000 và 2001 đều tăng lên so với năm 1999, tuy vậy năm 2001 lại thấp hơn so với năm 2000 do tốc độ tăng lợi nhuận nhỏ hơn tốc độ tăng vốn kinh doanh. Nếu năm 1999, với 1 đồng vốn kinh doanh bỏ ra thì sẽ thu được 0,0309 đồng lợi nhuận thì năm 2000 là 0,1632 đồng và năm 2001 là 0,1396 đồng, tăng lên 428,2% và 351,8% so với năm 1998. Điều này chứng tỏ trình độ lợi dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp tăng lên. Cũng giống như tỷ suất lợi nhuận theo vốn kinh doanh, tỷ suất lợi nhuận theo chi phí của doanh nghiệp năm 2000 và 2001 tăng lên 627,8% và 58,5% so với năm 1999, chứng tỏ sự tiét kiệm chi phí của năm 2000 và 2001 tăng lên so với năm 1999. 2.2.Phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu tư cơ bản: 2.2.1. Phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng lao động : Số lao động trong kỳ và tổng chi phí tiền lương trong vài năm gần đây được thống kê như sau: Bảng 9: Tình hình sử dụng lao động của công ty Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Số lượng lao động bình quân trong kỳ Người 20 30 50 Tổng chi phí tiền lương Nghìn đồng 30.630 40.000 50.000 Thu nhập bình quân Nghìn đ/người 654,7 884,2 1.980 Số lao động hiện có Người 20 30 50 Qua số liệu trên ta có bảng chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động của công ty như sau: Bảng 10: Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động Chỉ tiêu Đơn vị tính 1998 1999 2000 1.Chỉ tiêu năng suất lao động Nghìn đồng/người 234,24 208,194 883,245 2.Kết quả sản xuất trên 1 đồng chi phí tiền lương đồng/ đồng 31,875 21,521 79,376 3.Lợi nhuận bình quân tính cho 1 lao động Nghìn đồng/người 1,964 11,21 12,69 4.Hệ số sử dụng lao động % 67,35 64,98 68,49 Biểu năng xuất lao động Lợi nhuận bình quân 1 lao động Trong 3 năm qua thì số lao động bình quân trong công ty không thay đổi nhiều, nhưng chi phí tiền lương tăng lên với tốc độ ngày càng tăng, chứng tỏ công nhân được sử dụng nhiều về mặt thời gian(làm thêm giờ) Chỉ tiêu năng suất lao động tuy có giảm so với năm 1999, nhưng sang đến nam 2001 chỉ tiêu này tăng lên rất nhiều, bằng 703,98% và 804,56% so với năm 1999 và năm 2000. Con số này khá cao chứng tỏ tuy số lượng lao động không nhiều nhưng làm việc có hiệu quả. Như trên đã phân tích, mặc dù năng suất bình quân và kết quả sản xuất trên một đồng chi phí tiền lương của công ty năm 2000 giảm so với năm 1999, nhưng chỉ tiêu lợi nhuận bình quân tính cho một lao động năm 2000 tăng lên rất nhiều so với năm 1999 bằng 470,77%. Điều này chứng tỏ rằng hiệu quả sử dụng lao động của công ty được tăng lên vì lợi nhuận chính là một thước đo của hiệu quả, nó bằng hiệu của kết quả trừ đi chi phí. Nhưng một điều đáng lưu ý là hệ số sử dụng lao động của công ty không phải là một con số đáng mong đợi (70%). Kết quả này là do tính chất sản xuất kinh doanh của công ty là sản xuất theo đơn đặt hàng. Khi có nhiều đơn đặt hàng thì số lượng lao động được huy động hết khả năng ngoài ra coàn ký thêm hợp động lao động và ngược lại khi không có nhiều việc thì một số lớn lao động phải tạm nghỉ. Qua đó công ty cần phải tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh cho lao động của mình có việc làm ổn định. 2.2.2.Phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng vốn cố định: Bảng 11: Thống kê sự biến động vốn cố định của công ty TNHH Hoàng Hiệp Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Vốn cố định 2.500 2.600 3.500 -Vốn lưu động 300 500 500 -Vốn vay ngắn hạn 500 600 700 Bảng 12: Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 2000/ 1999 (%) 2001/ 2000 (%) -Sức sản xuất vốn cố định(đ/đ) 5,5863 5,397 46,78 -3,39 766,8 -Sức sinh lợi của vốn cố định(đ/đ) 0,046 0,271 0,314 489 15,8 Sức sinh lợi của vốn cố định tăng liên tục từ năm 1999 đến năm 2001. Nếu năm 1999 sức sinh lợi của vốn cố định là 0,046 thì đến năm 2000 và năm 2001, sức sinh lợi của vốn cố định tăng lên 489%(0,225) và 582%(0,268) so với năm 1999. Như vậy có thể nói 3 năm qua việc quản lý và sử dụng vốn cố định ở công ty là tương đối tốt, đặc biệt là năm 2001, đó là kết qủa của việc đầu tư có hiệu quả cho công nghệ sản xuất mới, cải tiến tổ chức sản xuất hợp lý, hoàn chỉnh cơ cấu tài sản cố định, hoàn thiện những khâu yếu hoặc lạc hậu của quy trình công nghệ. 2.2.3.Phân tích thực trạng sử dụng hiệu quả sử dụng vốn lưu động: Điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh là phải có vốn. Vốn lưu động là bộ phận thứ hai có vai trò quan trọng đặc biệt trong toàn bộ vốn sản xuất kinh doanh. Nó là biểu hiện bằng tiền của giá trị tài sản lưu động được sử dụng vào quá trình tái sản xuất. Do vậy để nghiên cứu tình hình sử dụng và quản lý vốn lưu động của công ty TNHH Hoàng Hiệp ta nghiên cứu cơ cấu vốn theo các nguồn sau: -Theo nguồn hình thành: +Vốn vay ngắn hạn +Vốn tự bổ sung -Theo quá trình tuần hoàn và luân chuyển: +Vốn dự trữ +Vốn trong sản xuất + Vốn trong lưu thông a. Cơ cấu vốn lưu động theo nguồn hình thành: Bảng 13: Cơ cấu vốn lưu động theo nguồn hình thành Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Vốn lưu động 340 492 1.010 -Vốn vay ngắn hạn 1.00 251 733 -Vốn tự bổ sung 345 357 719 Do sản xuất kinh doanh ngày càng có hiệu quả, nên năm 2000 và năm 2001 vốn tự bổ sung vào vốn lưu động của công ty ngày càng tăng lên. Năm 1999, vốn tự bổ sung là 345 triệu đồng, năm 2000 là 357 triệu đồng và năm 2001 là 719 triệu đồng, tăng 108,4% và 101,4% so với năm 1999 và năm 2000. b.Cơ cấu vốn lưu động theo quá trình tuần hoàn và luân chuyển: Bảng 14: Cơ cấu vốn lưu động theo quá trình tuần hoàn và luân chuyển Đơn vị : triệu đồng Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Vốn lưu động trong khâu dự trữ 795 1.408 2.884 Vốn lưu động trong khâu sản xuất 1.156 1.267 1.943 Vốn lưu động trong khâu lưu thông 1.454 2.254 5.279 Qua biểu trên, ta có thể thấy vốn lưu động trong khâu lưu thông của doanh nghiệp là lớn nhất mà chúng ở dạng tiền là chủ yếu, các khoản phải thu của doanh nghiệp nhỏ, điều đó có nghĩa là vốn lưu động của doanh nghiệp ít bị ứ đọng trong khâu dự trữ và khâu sản xuất kinh doanh. Vốn lưu động ở trong khâu dự trữ chiếm tỷ lệ ít nhất trong năm 1999( chiếm tỷ lệ 23,5%) nhưng đến năm 2000 và năm 2001 tỷ lệ này lớn hơn tỷ lệ vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh (năm 2000: vốn dự trữ chiếm 28,57%, vốn có trong sản xuất chiếm 25,7%; năm 2001: vốn dự trữ chiếm 28,54%; vốn trong sản xuất chiếm 19,22%) nhưng vẫn nhỏ hơn nhiều so với vốn trong khâu lưu thông (năm 1999, vốn lưu thông chiếm 42,7%, năm 2000 chiếm 45,73% và năm 2001 chiếm 52,24%). Vốn lưu động trong khâu sản xuất kinh doanh giảm tỷ lệ ở năm 2000 và năm 2001 là do thành phẩm tồn kho đã được tiêu thụ nhanh, điều này sẽ làm tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động, tăng hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Sức sinh lợi của vốn lưu động năm 2000 là 0,41 tức là một đồng vốn lưu động bỏ ra thu được 0,41 đồng lợi nhuận, mức tăng so với năm 1999 là 0,315 tỷ lệ tăng là 331,6% điều này cho ta thấy nếu sức sinh lợi không đổi so với năm 1999 thì để đạt được lợi nhuận như năm 2000. Tuy nhiên nếu ta so sánh kết quả đạt được của năm 2001 với năm 2000 thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động bị giảm thể hiện là năm 2001 sức sinh lợi giảm xuống -39% so với năm 2000 (1 đồng vốn lưu động bỏ ra chỉ thu về được 0,25 đồng lợi nhuận ). Nguyên nhân gây ra là do tốc độ tăng lợi nhuận nhỏ hơn tốc độ tăng vốn lưu động. -Sức sản xuất của vốn lưu động năm 2000 giảm 3,8 và tỷ lệ giảm là 31,3% so với năm 1999 do doanh thu năm 2000 giảm trong khi vốn lưu động tăng lên. Nhưng sang đến năm 2001, chỉ tiêu này tăng lên nhiều hơn so với năm 2000 là 29,04 với tỷ lệ tăng là 348,2% tức là 1 đồng vốn lưu động bỏ ra của năm 2001sẽ thu về được nhiều hơn năm 2000 là 29,04 đồng lợi nhuận. -Số vòng quay của vốn lưu động trong năm hay còn được gọi là số lần luân chuyển vốn lưu động trong năm, được xác định bằng doanh thu thuần chia cho vốn lưu động bình quân, chỉ tiêu này càng cao càng tốt cho doanh nghiệp. Số vòng quay của vốn lưu động của công ty năm 2000 là 7,46 vòng/ năm giảm 3,43 vòng so với năm 1999. Tuy nhiên năm 2001 số vòng quay của vốn lưu động tăng đến 13,74 vòng/năm( với tỷ lệ tăng 184,6% so với năm 2000 xuống còn 16,9 ngày/vòng ở năm 2001. Điều này chứng tỏ trong năm 2001 công ty đã sử dụng đồng vốn lưu động có hiệu quả. -Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động : Hệ số đảm nhiệm Vốn lưu động = Vốn lưu động bình quân Doanh thu thuần Chỉ tiêu này càng giảm càng tốt. Như vậy, năm 2000 hệ số đảm nhiệm vốn lưu động của công ty là 0,13 tăng 44,4% so với năm 1999. Tuy nhiên hệ số đảm nhiệm vốn lưu động năm 2001 giảm 0,08 với tỷ lệ giảm là 61,5% so với năm 2000, điều này cho thấy năm 2001 công ty đã tìm cách làm tăng hiệu quả sử dụng vốn lưu động của mình. Tóm lại, qua phân tích các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tổng hợp và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào, ta thấy rằng công ty TNHH Hoàng Hiệp nhìn chung là kinh doanh có hiệu quả. Tuy nhiên, có nhiều chỉ tiêu đánh giá qua mấy năm gần đây đã không theo một xu hướng nhất định. Do doanh thu năm 2000 giảm so với năm 1999 nên các chỉ tiêu có liên quan đến doanh thu bị giảm xuống. Mặt khác, do mức tăng đột biến về doanh thu của năm 2001 thì các chỉ tiêu như sức sản xuất,doanh thu trên một đồng chi phí tăng lên đáng kể. Qua đây ta thấy, mặc dù công ty vẫn đạt được mục tiêu lợi nhuận nhưng tốc độ tăng lợi nhuận năm 2001 so với năm 2000 nhỏ hơn tốc độ tăng doanh thu, vốn kinh doanh và chi phí nên các chỉ tiêu doanh lợi theo doanh thu, theo vốn kinh doanh và theo chi phí giảm. Điều này chứng tỏ việc sử dụng các yếu tố đầu vào vẫn còn lãng phí. Nếu nỗ lực khắc phục nhược điểm này thì hiệu quả kinh doanh của công ty sẽ được cải thiện nhiều. IV.Đánh giá tổng quát hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty : 1.Những điểm mạnh, điểm yếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh : Từ khi được thành lập và trải qua nhiều khó khăn, công ty TNHH Hoàng Hiệp đã đạt được những thành công nhất định, góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế non trẻ nước ta nói chung và nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên trong công ty nói riêng. Trong quá trình thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh , công ty TNHH Hoàng Hiệp luôn đặt ra cho chính mình một mục tiêu phát triển và luôn nỗ lực trong việc thực hiện các mục tiêu đặt ra. Nhưng trong điều kiện hiện nay, mọi nỗ lực của công ty đều nhằm mở rộng quy mô hoạt động của mình trên cơ sở mở rộng thị trường, mặt hàng kinh doanh, đa dạng hoá các ngành nghề kinh doanh ..., đồng thời công ty cũng đặt ra vấn đề hiệu quả kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh lên hàng đầu. Thực tế tại công ty thời gian vừa qua chỉ thực hiện được mục tiêu mở rộng kinh doanh, mà mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh doanh vẫn còn là một bài toán khó đang được lãnh đạo của công ty dần dần tìm ra lời giải. Mặc dù qua việc phân tích và đánh giá các chỉ tiêu cơ bản và cụ thể về hiệu quả kinh doanh ở công ty, ta thấy rằng thời gian qua công ty luôn đạt được kết quả khá cao về tổng doanh thu, tổng lợi nhuận thu nhập bình quân và khoản nộp ngân sách nhà nước của công ty, nhưng công ty vẫn chưa thực hiện dược việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Nguyên nhân của việc chưa thực hiện được việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là do ngoài những thuận lợi và nỗ lực bản thân thì công ty còn có nhiều khó khăn hạn chế từ môi trường bên trong cũng như bên ngoài của công ty, đã tác động không nhỏ đến mục tiêu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Qua quá trình thực tế nghiên cứu tại công ty TNHH Hoàng Hiệp, tôi rút ra được những nhận xét chung sau: -Công ty luôn hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch về doanh thu, lợi nhuận, giá trị tổng sản lượng. -Đời sống cán bộ công nhân viên ngày càng được cải thiện do thu nhập của họ tăng từ 654.000đ/người/tháng năm 1999 lên đến 884.000đ/người/tháng trong năm 2000 và đến năm 2001 là 1.500.000đ/người/tháng. -Công ty hàng năm đã đóng góp một phần nhỏ cho ngân sách nhà nước, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế đất nước cũng như tạo công ăn việc làm cho người lao động cùng với sự phát triển của công nghệ mới trong quá trĩnh tạo nên một bước mới trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. a.Những điểm mạnh trong hoạt động sản xuất kinh doanh : Công ty TNHH Hoàng Hiệp là một công ty trong số ít các công ty tư nhân có dây chuyền công nghệ mới được đưa vào sản xuất cùng với một loạt các dây chuyền sản xuất phục vụ cho sự hoạt động của công ty luôn được đảm bảo một cách thông suốt từ trên xuống dưới. Những công nghệ mới được đưa vào sản xuất đã góp phần nâng cao hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Ưu điểm củadây chuyền công nghệ này là do nhập từ nước ngoài cùng với công nhân ký thuật cao được đào tạo cơ bản do chuyên gia nước ngoài hướng dẫn nên đáp ứng được các nhu cầu đặt ra để nâng cao năng suất lao động, tận dụng được nguồn nhân lực sẵn có và tạo thế chủ động cho công ty. Với sản phẩm là các loại nhãn mác, bao bì chất lượng cao hình ảnh và uy tín của công ty về chất lượng sản phẩm, phương thức sản xuất kinh doanh là một điều kiện hết sức thuận lợi cho công ty tiếp tục đa dạng hoá cac ngành nghề kinh doanh, mở rộng thị trường tiêu thụ để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Về quan hệ giao dịch của công ty, công ty có quan hệ mật thiết với các cơ sở cung cấp nguyên vật liệu trong nước và các nguồn hàng từ nước ngoài. Công ty đã đạt được chữ tín để kinh doanh lâu dài trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Công ty đã có nguồn cung cấp nguyên vật liệu đầy đủ và có chất lượng cao. -Thị trường hiện có các sản phẩm do công ty in ấn chiếm tới 20% thị trường miền bắc. Đó là thị trường hiện có của công ty đồng thời cũng là một thị trường tiềm năng lớn đối với một số sản phẩm nếu như công ty đa dạng hoá được các sản phẩm của mình có trình độ công nghệ kỹ thuật cao để có được các sản phẩm phục vụ cho nhu cầu thị trường. Công ty có một thị phần tương đối lớn so với nhiều những doanh nghiệp có cùng loại hình sản xuất như công ty kể cả với các doanh nghiệp nhà nước, chiếm tới 20% thị phần và các doanh nghiệp còn lại chiếm 80% thị phần. Như vậy là trong môi trường cạnh tranh gay gắt này, công ty vẫn chiếm lĩnh được thị trường bằng uy tín, chất lượng sản phẩm mặc dù công ty còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm hiểu về thị trường trong nước, sự thay đổi trong môi trường kinh doanh và các chính sách của nhà nước và các ngành. -Hiện nay bậc thợ trung bình của công ty là 4,1/7. Chỉ tiêu này là tương đối cao so với các doanh nghiệp khác, chứng tỏ trình độ tay nghề của công nhân là khá cao, nên vấn đề về chất lượng lao động của công ty là một lợi thế trong việc sử dụng nguồn lao động. Doanh nghiệp có đội ngũ lao động có trình độ tay nghề cao, lành nghề, có kinh nghiệm tốt,...nên có khả năng cao hơn trong chủ động đàm phán cũng như việc nhận gia công các mặt hàng có chất lượng cao cho một số doanh nghiệp khác. Chất lượng của người công nhân ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm. -Công ty nằm ở Hà Tây-tuy rằng với vị trí này chưa thực sự thuận lợi đối với một doanh nghiệp sản xuất mới ra đời, nhưng công ty đã nhạy bén trong việc nắm bắt những thông tin về tình hình kinh tế -xã hội, sự thay đổi trên thị trường, sự thay đổi trong môi trường kinh doanh và các chính sách của nhà nước và các ngành nghề kinh doanh của mình. b.Những điểm yếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh : Mặc dù có một số ưu điểm trên, nhưng nhìn chung công ty vẫn còn nhiều tồn tại cản trở việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. -Vấn đề về kỹ thuật công nghệ: Ngoài dây chuyền công nghệ cao được nhập từ nước ngoài, còn lại một loạt những máy móc đã quá lạc hậu so với sự phát triển một cách nhanh chóng của công nghệ in ấn hiện nay. Đặc biệt là công ty không có máy móc chuyên dụng mà toàn bộ là máy móc vạn năng, chính vì vậy mà mẫu mã và chất lượng sản phẩm không đáp ứng được đặc tính riêng của từng loại sản phẩm. Công tác kinh doanh của công ty gồm những khâu như sau: thu thập thông tin, xử lý thông tin và ra quyết định kinh doanh. Đối với công ty TNHH Hoàng Hiệp thì các khâu này hoạt động rất thủ công. Các khâu của hoạt động này rất cần có sự hỗ trợ của các phương tiện hiện đại: dịch vụ mạng và Internet, các phương pháp nghiên cứu hiện đại, các ứng dụng thư thương mại điện tử Email...Những hạn chế về kỹ thuật này đã gây ra những tổn thất cho công ty và làm tăng chi phí, giảm lợi nhuận của công ty. Ngoài ra còn có những thiệt hại như luôn bị thiếu thông tin về các đối tác kinh doanh, ra quyết định lựa chọn phương án kinh doanh rất lúng túng và thiếu chính xác, không xử lý và phân loại được thông tin thứ cấp. -Về thị trường : do nhu cầu về số lượng, chất lượng của những doanh nghiệp có sử dụng sản phẩm của công ty đòi hỏi sự thích ứng một cách nhanh nhạy trong cơ chế thị trường mà thực sự thì trong lĩnh vực này công ty thực sự chưa chú trọng nhiều, vì vậy gặp rất nhiều khó khăn trong việc nghiên cứu thị trường cũng như việc phát triển thị trường. Công việc này nhiều khi còn rất chồng chéo, không hiệu quả cho nên không tạo nên sự khác biệt nhiều về chất lượng sản phẩm cũng như mẫu mã sản phẩm. Hiện nay việc nghiên cứu nhu cầu thị trường của công ty còn rất yếu kém, công ty không có biện pháp nghiên cứu thị trường riêng của mình, nên việc nắm bắt nhu cầu thị trường không nhanh nhạy làm cản trở việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. -Vấn đề về vốn: việc sản xuất đòi hỏi phải có một số vốn lưu động tương đối lớn, năm 2001 vừa qua vốn lưu động của công ty tăng lên chủ yếu bằng nguồn vốn vay ngắn hạn, điều này ảnh hưởng đến tài chính cũng như khả năng thanh toán của công ty. Nợ nhiều, công ty phải trả lãi nhiều làm cho lợi nhuận của công ty giảm đi, phải đối mặt với áp lực thanh toán nợ đến hạn. -Vấn đề bộ máy quản lý: có được một bộ máy quản lý gọn nhẹ sẽ làm giảm được chi phí quản lý, dễ điều hành, phát huy được tinh giảm đến quá mức, vượt quá giới hạn cho phép sẽ làm cho công ty thiếu mất một số bộ phận chức năng, người cán bộ quản lý phải kiêm nhiệm quá nhiều công việc tạo cho họ sự mệt mỏi, không chuyên tâm được vào công việc. Công ty TNHH Hoàng Hiệp là một trong các công ty rơi vào tình trạng này và đang gặp phải rất nhiều khó khăn, khi nhu cầu về các bộ phận quản lý chức năng tăng lên và đòi hỏi có trình độ chuyên môn cao để giải quyết các công việc cụ thể. -Vấn đề lao động: tuy rằng công ty có số lượng công nhân có trình độ tay nghề cao ( công nhân bậc 5 trở lên) có kinh nghiệm tốt, tạo điều kiện thuận lợi trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng những công nhân có trình độ kỹ thuật cao này cũng đồng nghĩa với độ tuổi trung bình của họ cao tạo ra những khó khăn cho công ty. Đó là thời gian lao động của họ còn ít, sức khoẻ giảm sút về cả thể lực lẫn tinh thần làm ảnh hưởng đến năng suất lao động. Mặt khác đội ngũ lao động này không được tiếp cận với kiến thức và trình độ khoa học kỹ thuật đương đại, nên việc áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật gặp nhiều khó khăn. Vấn đề xây dựng cơ cấu lao động sao cho hợp lý để đảm bảo việc làm ổn định, nâng cao được hiệu quả sử dụng lao động vẫn là một bài toán khó cho doanh nghiệp. -Vấn đề về chính sách: hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phụ thuộc chặt chẽ vào các chính sách của nhà nước, đặc biệt là các chính sách xuất nhập khẩu, các điều kiện để được in ấn các loại sản phẩm nhãn mác, các chính sách về thuế suất ưu đãi cho các doanh nghiệp có tỷ lệ nội địa hoá theo quy định. Do vậy mà hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chịu sự chi phối của các chính sách nhà nước và có những thay đổi theo sự thay đổi của chính sách. 2.Nguyên nhân gây ra hạn chế: a.Nguyên nhân khách quan: -Về môi trường kinh doanh: sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt của cơ chế thị trường, những mặt trái và khuyết tật của cơ chế thị trường luôn tạo ra những cái bẫy vô hình để đưa bất kỳ một doanh nghiệp nào rơi vào vực thẳm của sự phá sản. Hơn nữa công ty còn phải đối phó trước sự ra đời của hàng loạt các công ty, doanh nghiệp khác có cùng loại hình sản xuất và trước sự kiện Việt Nam tham gia vào tổ chức AFTA. Đây không chỉ là vấn đề hạn chế bởi môi trường mà nó còn là sự thách thức của công ty trong thời gian tới. Sự đoàn kết của các doanh nghiệp Việt Nam chưa cao, không những không tăng cường liên kết với nhau mà còn có xu hướng cạnh tranh, thủ tiêu lẫn nhau. Nguyên nhân này dẫn tới sự thiếu tin tưởng lẫn nhau của các doanh nghiệp trong nước, đồng thời vô hình hoá tạo ra lợi thế cho các công ty nước ngoài trong cạnh tranh, trong khi mọi tiềm năng hoạt động của họ đều mạnh hơn các doanh nghiệp trong nước. Không những vậy, nhiều tư nhân núp bóng các doanh nghiệp được cấp phép kinh doanh để lũng đoạn thị trường về giá cả, sản xuất linh kiện vượt khỏi sự kiểm soát của nhà nước dẫn đến chất lượng sản phẩm không được đảm bảo, gây thiệt hại cho các nhà sản xuất chân chính, trong đó có công ty TNHH Hoàng Hiệp. -Về chính sách, pháp luật của nhà nước: nhà nước chưa thực sự có những chính sách hợp lý đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, không khuyến khích được doanh nghiệp đổi mới trang thiết bị công nghệ, chủ động trong việc sản xuất kinh doanh. Mặt khác hệ thống pháp luật nước ta chưa đầy đủ và thiếu sự đồng bộ, đặc biệt là sự thay đổi đột ngột, thường xuyên các văn bản mới ra đời, phủ định, không thống nhất với văn bản cũ là vấn đề gây rất nhiều khó khăn, phiền toái trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, việc cải cách thủ tục hành chính ở nước ta đang từng bước thực hiện các thủ tục nhập khẩu hàng hoá cũng như thủ tục vay vốn để sản xuất kinh doanh. Ngoài ra thái độ của cán bộ ngành có liên quan luôn gây ra những phiền hà, nhiễu sự đối với các doanh nghiệp trong ngành nói chung và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng. b.Nguyên nhân chủ quan: - Bộ máy quản lý công ty chưa được hoàn thiện là do bản thân lãnh đạo của công ty chưa nhận thấy rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cán bộ, bộ phận và lợi ích đem lại từ việc thực hiện các nhiệm vụ đó. Ngoài việc quan tâm đến lợi ích của người lao động thì việc sắp xếp bố trí phù hợp với khả năng của họ cho phép công ty tận dụng được năng lực của người lao động, khuyến khích họ phát huy hết khả năng của mình. Trong công ty có sự sắp xếp từ ban lãnh đạo đến các phòng ban đều phải gánh vác nhiều nhiệm vụ khác nhau, không tạo được điều kiện thuận lợi cho cán bộ tham gia các chương trình đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ của mình. Đặc biệt là dù công ty có nhu cầu rất lớn về việc tìm hiểu , nghiên cứu thị trường để mở rộng thị trường và tăng tốc độ tiêu thụ của sản phẩm nhưng hiện nay công ty vẫn chưa có một chính sách cụ thể cho lĩnh vực này. - Trong mấy năm gần đây công ty tuyển dụng lao động rất ít là do tính chất sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không được ổn định, nhiều công nhân phải tạm nghỉ khi công ty không đủ việc làm. Công ty chưa có những biện pháp để tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và tạo công ăn việc làm ổn định cho lao động, đào tạo và tuyển dụng thêm công nhân để có được đội ngũ lao động có trình độ tay nghề cao. -Công nghệ chưa được đổi mới là do đặc đỉêm chung của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam, là không có sự ứng dụng khoa học, công nghệ một cách thời sự, có thói quen, dẫn tới sự thụt lùi, xa lạ với sự tiếp cận thị trường bằng những phương tiện hiện đại. Do chưa cạnh tranh mạnh dạn về đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, đầu tư đào tạo nguồn nhân lực của công ty. Trình độ ngoại ngữ, tin học trong hệ thống cán bộ, nhân viên q

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24333.DOC