Đề tài Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu

Tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu: Thảo luận đề tài Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu MỤC LỤC CHƯƠNG I:LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ THEO CHIỀU RỘNG VÀ ĐẦU TƯ THEO CHIỀU SÂU, MỐI QUAN HỆ GIỮ ĐẦU TƯ THEO CHIỀU RỘNG VÀ CHIỀU SÂU 2 I/ Những vấn đề cơ bản của đầu tư và đầu tư phát triển. 2 1. Khái niệm: 2 1.1. Đầu tư: 2 1.2. Đầu tư phát triển: 3 2. Đặc điểm và vai trò của đầu tư phát triển: 3 2.1. Đặc điểm 3 2.2. Vai trò: 4 3. Phân loại đầu tư phát triển. 6 4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả của đầu tư: 7 4.1. Hiệu quả đầu tư: 7 4.2. Nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư 8 II/ Nội dung đầu tư theo chiều rộng, đầu tư theo chiều sâu và mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu. 9 1.Đầu tư theo chiều rộng: 9 1.1 Khái niệm 9 1.2. Nội dung: 9 1.3. Ưu điểm và nhược điểm: 10 1.4. Vai trò: 11 2. Đầu tư theo chiều sâu: 12 2.1 Khái niệm: 12 2.2. Nội dung của đầu tư theo chiều sâu: 12 2.3. Ưu điểm và nhược điểm: 13 2.4. Vai trò của đầu tư theo ch...

docx104 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1476 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thảo luận đề tài Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu MỤC LỤC CHƯƠNG I:LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ THEO CHIỀU RỘNG VÀ ĐẦU TƯ THEO CHIỀU SÂU, MỐI QUAN HỆ GIỮ ĐẦU TƯ THEO CHIỀU RỘNG VÀ CHIỀU SÂU 2 I/ Những vấn đề cơ bản của đầu tư và đầu tư phát triển. 2 1. Khái niệm: 2 1.1. Đầu tư: 2 1.2. Đầu tư phát triển: 3 2. Đặc điểm và vai trò của đầu tư phát triển: 3 2.1. Đặc điểm 3 2.2. Vai trò: 4 3. Phân loại đầu tư phát triển. 6 4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả của đầu tư: 7 4.1. Hiệu quả đầu tư: 7 4.2. Nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư 8 II/ Nội dung đầu tư theo chiều rộng, đầu tư theo chiều sâu và mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu. 9 1.Đầu tư theo chiều rộng: 9 1.1 Khái niệm 9 1.2. Nội dung: 9 1.3. Ưu điểm và nhược điểm: 10 1.4. Vai trò: 11 2. Đầu tư theo chiều sâu: 12 2.1 Khái niệm: 12 2.2. Nội dung của đầu tư theo chiều sâu: 12 2.3. Ưu điểm và nhược điểm: 13 2.4. Vai trò của đầu tư theo chiều sâu: 14 III.Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu. 14 1.ĐTCR là nền tảng cơ sở, là bước đi đầu tiên để đầu tư chiều sâu. 14 2.Đầu tư chiều sâu tiếp tục tạo tiền đề để đầu tư chiều rộng ở những phương diện mới. ............................................................................................15 2.1.Đầu tư theo chiều rộng dựa trên kết quả của đầu tư theo chiều sâu 15 2.2.Đầu tư theo chiều rộng giúp tăng hiệu quả kinh tế và hiệu quả về mặt thời gian của đầu tư theo chiều sâu. 16 3.Đầu tư chiều sâu và đầu tư chiều rộng không tách rời nhau, đan xen và bổ sung lẫn nhau trong quá trình thực hiện chiến lược đầu tư phát triển của doanh nghiệp 17 4.Đầu tư theo chiều sâu là chiến lược lâu dài của doanh nghiệp, giúp rút ngắn khoảng cách cho 1 số nước tiến tới đầu tư theo chiều rộng. 19 CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ THEO CHIỀU RỘNG, ĐẦU TƯ THEO CHIỀU SÂU VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG , ĐẦU TƯ CHIỀU SÂU 20 I. Đặc điểm đầu tư của ngành dệt may 21 II. THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ THEO CHIỀU RỘNG VÀ ĐẦU TƯ THEO CHIỀU SÂU TRONG NGÀNH DỆT MAYVIỆT NAM 22 1.Đầu tư theo chiều rộng là nền tảng cơ sở, là bước đi đầu tiên để đầu tư theo chiều sâu 22 1.1 Đầu tư theo chiều sâu tiếp tục tạo tiền đề để đầu tư chiều rộng ở những phương diện mới. 23 2.1. Đầu tư vào máy móc thiết bị và công nghệ 23 2.2 . Đầu tư vào thương hiệu 32 2.3. Đầu tư vào nguồn nhân lực 33 3. Đầu tư chiều sâu và đầu tư chiều rộng không tách rời nhau, đan xen và bổ sung lẫn nhau trong quá trình thực hiện chiến lược đầu tư phát triển của doanh nghiệp và đầu tư chiều sâu là chiến lược lâu dài của doanh nghiệp. 37 III. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ THEO CHIỀU SÂU TRONG TOÀN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 52 1- Đầu tư nguồn nhân lực. 52 2- Đầu tư khoa học công nghệ 61 3- Thực trạng kết hợp đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu ở Việt Nam: 71 IV. ĐÁNH GIÁ CHUNG 75 CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐẦU TƯ THEO CHIỀU RỘNG VÀ ĐẦU TƯ THEO CHIỀU SÂU HIỆN NAY VÀ KẾT HỢP GIỮA CHÚNG. 78 I- Một số giải pháp khắc phục những hạn chế trong ngành dệt may: 78 1.Giải pháp từ phía doanh nghiệp 78 2- Kiến nghị với Nhà nước 80 II. Giải pháp thúc đẩy đầu tư theo chiều sâu: 81 1. Giải pháp đầu tư phát triển nguồn nhân lực 81 2. Giải pháp đầu tư nâng cấp khoa học công nghệ 84 3. Giải pháp kết hợp hiệu quả đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu 88 3.1. Nhóm giải pháp cho doanh nghiệp. 89 Nhóm giải pháp vĩ mô cho chính phủ 91 4. Kết luận 95 Nhóm 14: lớp Kinh tế Đầu tư 51D 1.Đỗ Trung Hiếu 2.Lương Hoàng Huy 3.Nguyễn Kim Thoa 4.Hoàng Thị Huyền Trang 5.Nguyễn Thùy Trang LỜI MỞ ĐẦU Sau hơn hai thập kỷ đổi mới và hội nhập, Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc cả về kinh tế, văn hoá và xã hội. Điều đó thể hiện con đường phát triển đúng đắn mà Đảng và nhà nước ta đã lựa chọn. Thực hiện đường lối đổi mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đến nay, có thể khẳng định rằng Việt Nam đã bước đầu thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nâng vị thế quốc gia lên một tầm cao mới trên trường khu vực cũng như quốc tế. Từ năm 2001 – 2007, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao, đặc biệt năm 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao nhất trong lịch sử: 8,5%,vài năm trở lại đây có phần chậm laị nhưng vẫn là khá cao so với thế giới điển hình như năm 2010 là 6.78%. Một vấn đề cấp thiết được đặt ra là làm thế nào để duy trì tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế ấy trong một thời gian dài. Để tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội một cách bền vững thì một trong những điều kiện quan trọng là phải mở rộng và nâng cao hiệu quả đầu tư. Vậy câu hỏi đặt ra là hoạt động đầu tư phát triển trong giai đoạn vừa qua đã đạt hiệu quả cao nhất chưa? Nếu chưa thì có thể tăng hiệu quả đầu tư lên nữa được không? Để trả lời câu hỏi đó, chúng ta cần phải nghiên cứu hoạt động đầu tư phát triển. Nếu phân loại đầu tư phát triển theo tính chất hoạt động đầu tư, thì chia ra thành 2 khía cạnh là hoạt động đầu tư theo chiều rộng và hoạt động đầu tư theo chiều sâu. 2 hoạt động đầu tư này tuy khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau,luôn đan xen và bổ sung lẫn nhau. Mối quan hệ đó rất quan trọng và quyết định đến hiệu quả đầu tư. Vì vậy, chúng em – nhóm 14 lớp kinh tế Đầu tư 51D đã chọn đề tài: “ Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu” để cùng các bạn tìm hiểu, nghiên cứu và thảo luận về vấn đề này. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy tối đa mối quan hệ này để phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước. Trong quá trình thực hiện, bài viết của nhóm chúng em còn nhiều thiếu sót.Vì thế, chúng em rất mong nhận được sự nhận xét và đóng góp của thầy cô cùng toàn thể các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn. Tập thể nhóm 14 lớp kinh tế Đầu tư 51D xin chân thành cảm ơn PGS.TS.Từ Quang Phương đã giúp đỡ tận tình để nhóm hoàn thành đề tài này. CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ THEO CHIỀU RỘNG VÀ ĐẦU TƯ THEO CHIỀU SÂU, MỐI QUAN HỆ GIỮ ĐẦU TƯ THEO CHIỀU RỘNG VÀ CHIỀU SÂU I/ Những vấn đề cơ bản của đầu tư và đầu tư phát triển. 1.Khái niệm: 1.1.Đầu tư: Nghĩa rộng: Đầu tư là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm đem lại cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra. Nghĩa hẹp: Đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng những nguồn lực ởhiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt đựoc các kết quả đó. Các nguồn lực bao gồm: Tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và trí tuệ. Biểu hiện bằng tiền của tất cả các nguồn lực gọi là vốn đầu tư. Các kết quả: Gia tăng tài sản vật chất, tài sản tài chính hoặc tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực có điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn cho nền kinh tế và toàn bộ xã hội. 1.2. Đầu tư phát triển: Là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chỉ dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất (nhà xưởng, thiết bị) tài sản trí tuệ (tri thức, kĩ năng…) gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển. 2.Đặc điểm và vai trò của đầu tư phát triển: 2.1. Đặc điểm Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn. Vốn đầu tư lớn nằm khê đọng lâu trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Lao động cần sử dụng cho dự án rất lớn, đặc biệt đối với các dự án trọng điểm quốc gia. Thời kì đầu tư kéo dài: thời kì đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự án đến khi dự án hoàn thành và đi vào hoạt động. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài: thời gian vận hành các kết quả đầu tư tính từ khi đưa công trình vào hoạt động cho đến khi hết thời hạn sử dụng và đào thải công trình. Trong suốt quá trình vận hành, các thành quả đầu tư chịu sự tác động của cả 2 mặt, cả tích cực và tiêu cực, các yếu tố tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội. Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà là các công trình xây dựng thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được tạo dựng lên, do đó, quá trình thực hiện đầu tư cũng như thời kì vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của các nhân tố về tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng. Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao: do quy mô vốn đầu tư lớn, thời kì đầu tư kéo dài và thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài…nên mức độ rủi ro của hoạt động đầu tư phát triển thường cao. 2.2. Vai trò: Trên góc độ vĩ mô * Đầu tư là nhân tố quan trọng tác động đến tăng trưởng kinh tế: - Theo mô hình Harrod – Domar, mức tăng trưởng của nền kinh tế phụ thuộc trực tiếp vào mức gia tăng vốn đầu tư thuần. g = dY/Y = (dY / dK ) * ( dK / Y ) dY = I / ICOR Trong đó: Delta Y là mức gia tăng sản lượng Delta K là mức gia tăng vốn đầu tư I là mức đầu tư thuần K tổng quy mô vốn của nền kinh tế Y là tổng sản lượng của nền kinh tế ICOR Hệ số gia tăng vốn – sản lượng Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng thể hiện cũng rất rõ nét trong tiến trình đổi mới mở cửa nền kinh tế nước ta thời gian qua. Với chính sách đổi mới, các nguồn vốn đầu tư cả trong nước và nước ngoài ngày càng được đa dạng hóa và gia tăng về quy mô, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế đạt được cũng rất thỏa đáng. * Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Đầu tư có tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua những chính sách tác động đến cơ cấu đầu tư. Trong điều hành chính sách đầu tư, nhà nước có thể can thiệp trực tiếp như thực hiện chính sách phân bổ vốn, kế hoạch hóa, xây dựng cơ chế quản lý đầu tư hoặc điều tiết gián tiếp thông qua các công cụ chính sách như thuế, tín dụng, lãi suất để xác lập và định hướng một cơ cấu đầu tư dẫn dắt sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngày càng hợp lý hơn. Vốn đầu tư cũng như tỷ trọng vốn đầu tư cho các ngành và các vùng kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế vùng và ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng chung của cả nền kinh tế. * Đầu tư tác động làm tăng năng lực khoa học công nghệ của đất nước: Đầu tư phát triển trực tiếp tạo mới và cải tạo chất lượng năng lượng sản xuất, phục vụ của nền kinh tế và các đơn vị cơ sở. Đầu tư là điểu kiện tiên quyết cho quá trình đổi mới và nâng cao năng lực công nghệ của quốc gia. * Đầu tư tác động đến tổng cung, tổng cầu của nền kinh tế: Đầu tư (I) là một trong những bộ phận quan trọng của tổng cầu ( AD= C + I + G + X - M). Khi quy mô đầu tư thay đổi cũng có tác động trực tiếp đến quy mô tổng cầu. Tuy nhiên tác động của đầu tư lên tổng cầu là ngắn hạn. Trong dài hạn, khi các thành quả của đầu tư đã được huy động và phát huy tác dụng, năng lực sản xuất và cung ứng dịch vụ gia tăng thì tổng cung cũng sẽ tăng lên. Trên góc độ vi mô Trên góc độ vi mô thì đầu tư là nhân tố quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của các cơ sở sản xuất, cung ứng dịch vụ và của cả các đơn vị vô vị lợi. 3.Phân loại đầu tư phát triển. +Theo bản chất của đối tượng đầu tư: Đầu tư cho các đối tượng vật chất (Đầu tư tài sản vật chất hoặc tài sản thực như nhà xưởng ,máy móc thiết bị…) Đầu tư cho các đối tượng phi vật chất (đầu tư tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực như đào tạo, nghiên cứu khoa học,  y tế…) + Theo phân cấp quản lý: Đầu tư phát triển được chia thành đầu tư theo các dự án quan trọng quốc gia,dự án nhóm A,B,C + Theo lĩnh vực hoạt động của các kết quả đầu tư: Đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, đầu tư phát triển  cơ sở hạ tầng. + Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư: đầu tư cơ bản và đầu tư vận hành. + Theo thời gian hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội: đầu tư thương mại và đầu tư sản xuất. + Theo thời gian thực hiện và phat huy tác dụng của các kết quả đầu tư: đầu tư ngắn hạn và đầu tư dài hạn. + Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. + Theo nguồn vốn trên phạm vi quốc gia: đầu tư bằng nguồn vốn trong nước và đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài . + Theo vùng lãnh thổ: đầu tư phát triển của các vùng lãnh thổ, các vùng kinh tế trọng điểm, đầu tư phát triển khu vực thành thị và nông thôn… 4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả của đầu tư: 4.1.Hiệu quả đầu tư: - Là phạm trù kinh tế biểu hiện quan hệ so sánh giữa các kết quả kinh tế - xã hội đã đạt được của hoạt động đầu tư với chi phí bỏ ra để có các kết quả đó trong 1 thời kì nhất định. Thước đo hiệu quả đầu tư cho thấy mô hình tăng trưởng của nền kinh tế theo chiều rộng hay chiều sâu. ICOR là chỉ số phản ánh hiệu quả đầu tư, nghĩa là cho thấy để có thêm một đồng GDP thì cần bỏ ra bao nhiêu đồng vốn. Chỉ số này của Việt Nam hiện đang cao hơn năm 2008 (trên 8 điểm so với 6,66 điểm năm 2008), nghĩa là để có mức tăng trưởng như năm 2008, năm nay chúng ta sẽ phải bỏ ra nhiều vốn đầu tư hơn. Hiệu quả đầu tư của chúng ta đang sụt giảm. Muốn tăng hiệu quả đầu tư thì ngoài những yếu tố khách quan, tăng cường nội lực là đòi hỏi tất yếu. Ở tầm vĩ mô, tăng cường nội lực cho nền kinh tế là nâng cấp cơ sở hạ tầng (giao thông thuận tiện, điện đầy đủ...), cơ chế chính sách rộng mở kích thích được các thành phần kinh tế, thủ tục hành chính thuận lợi, đào tạo nhân lực hiệu quả... Đối với mỗi doanh nghiệp, tăng cường nội lực là tăng đầu tư trang thiết bị, máy móc, quy trình công nghệ hiện đại hơn, hiệu năng lớn hơn; quản lý, tổ chức sản xuất tốt hơn; công nhân giỏi... (tóm lại là nâng được năng suất và sức cạnh tranh của sản phẩm). Như vậy, để tăng hiệu quả đầu tư, không chỉ cần sự vào cuộc mạnh mẽ của cấp trung ương, mà mỗi địa phương, mỗi doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh trên cả nước đều phải chuyển mình, cùng hành động. 4.2. Nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư Hiệu quả đầu tư phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố tác động qua lại lẫn nhau trong đó có 3 yếu tố cơ bản là thu nhập,chi phí đầu tư sản xuất và môi trường đầu tư. Thu nhập phản ánh được lượng hàng hoá mà doanh nghiệp  đó bán được. Khi thu nhập tăng=> nhu cầu về hàng hoá tiêu dùng của người dân tăng lên, khi đó hiệu quả của đầu tư tăng lên tương ứng. Chi phí đầu tư sản xuất: là biểu hiện bằng tiền của các chi phí mà doanh nghiệp đã phải bỏ ra để tiến hành sản xuất trong 1 chu kì kinh doanh. Chi phí đầu tư sản xuất phụ thuộc vào 2 yếu tố quan trọng là lãi suất và thuế. Một dự án đầu tư muốn đầu tư được thì phải có vốn để đầu tư. Vốn đầu tư,trên góc độ toàn bộ nền kinh tế vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Lãi suất chính là cầu nối giữa cung và cầu về vốn đầu tư. Vấn đề quan trọng nhất của 1 dự án đầu tư là khả năng huy động vốn. Điều kiện huy động có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư là tạo lập và duy trì năng lực tăng trưởng nhanh và bền vững cho nền kinh tế, đảm bảo ổn định mô trường kinh tế vĩ mô, xây dựng các chính sách xây dựng các nguồn vốn có hiệu quả. Nếu vốn đầu tư lớn nhưng lãi suất mà quá cao thì việc huy động vốn cũng sẽ khó mà thực hiện được vì thế mà hiệu quả đầu tư sẽ không cao.  Ngoài lãi suất thì thuế cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư. Chính sách thuế có khuyến khích được các nhà đầu tư hay không ,có mang lại được hiệu quả đầu tư hay không là vấn đề mà đang được nhiều nước quan tâm. Môi trường đầu tư cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả đầu tư. Một quốc gia có nền chính trị ổn định,có những chính sách ưu đãi đối với nhà đầu tư ,có những chính sách về công nghệ khoa học,có hệ thống thông tin hiện đại giúp cho việc đầu tư được thuận lợi thì chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả đầu tư cao. II/ Nội dung đầu tư theo chiều rộng, đầu tư theo chiều sâu và mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu. Đầu tư theo chiều rộng: Khái niệm: Theo quan điểm tái sản xuất của Mác: đầu tư theo chiều rộng là đầu tư nhằm mở rộng quy mô sản xuất nhưng không làm tăng năng suất lao động. Đầu tư theo chiều rộng cũng chính là đầu tư mới. Theo quan điểm ngày nay thì đầu tư theo chiều rộng là đầu tư trên cơ sở cải tạo và mở rộng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có,xây dựng mới các cơ sở vật chất với những kỹ thuật công nghệ cơ bản như cũ. 1.2. Nội dung: + Đầu tư theo chiều rộng là mở rộng quy mô sản xuất mà không làm tăng năng suất lao động. Đó là đầu tư cho cả 4 yếu tố của đầu vào là lao động,vốn,công nghệ và tài nguyên một cách tương xứng như nhau, theo 1 tỷ lệ như cũ. + Đầu tư theo chiều rộng là hoạt động mua sắm máy móc thiết bị để đổi mới thay thế cho những thiết bị cũ theo 1 dây chuyền công nghệ đã có từ trước. + Đầu tư theo chiều rộng là đầu tư xây dựng mới nhà cửa,cấu trúc hạ tầng theo thiết kế được phê duyệt lần đầu làm tăng thêm lượng tài sản vật chất tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy vậy tính kỹ thuật của công trình đó vẫn dựa trên những thiết kế có sẵn chưa được cải tạo và hiên đại hoá. Như vậy thực chất của đầu tư theo chiều rộng là để mở rộng quy mô sản xuất nhằm sản xuất 1 khối lượng sản phẩm lớn hơn trên cơ sở xây dựng mới các hạng mục công trình như nhà xưởng sản xuất,thuê thêm nhiều nhân công để đáp ứng khối lượng yêu cầu tăng thêm của sản xuất, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng đòi hỏi của công việc. 1.3. Ưu điểm và nhược điểm: + Ưu điểm: - Gia tăng số lượng dây chuyền công nghệ nhưng không làm thay đổi công nghệ hiện có. - Tạo thêm việc làm do tốc độ tăng của lao động thường lớn hơn tốc độ tăng của vốn. + Nhược điểm: - Đầu tư theo chiều rộng đòi hỏi thời gian thực hiện đầu tư và thời gian huy động vốn lâu: thể hiện ở thời gian thực hiện đầu tư (thời gian xây dựng công trình của dự án) thời gian cần hoạt động để thu hồi vốn, do đó không tránh khỏi tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yêu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị , kinh tế. - Đầu tư theo chiều rộng không dẫn đến tiết kiệm nguyên liệu và không làm tăng năng suất lao động. Đầu tư theo chiều rộng có hạn chế trong việc đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực áp dụng công nghệ và kỹ thuật. - Đầu tư theo chiều rộng đòi hỏi lượng vốn lớn  và vốn này nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Do đó  đòi hỏi các nhà đầu tư cần có sự lựa chọn kỹ càng để lực chọn được cơ hội đầu tư mang lại hiệu quả cao nhất,tức là phải có 1 quá trình nghiên cứu tìm hiểu các yếu tố thị trường,các điều kiện tự nhiên và các yếu tố kinh tế xã hội trước khi đưa ra quyết định đầu tư nhằm bảo đảm thu hồi vốn và có lãi. Cũng do lượng vốn lớn nên việc huy động vốn thường gặp khó khăn và tốn nhiều thời gian. - Đầu tư theo chiều rộng có tính chất phức tạp và độ mạo hiểm cao. Tính chất phức tạp do phải xây dựng và lắp ghép nhiều hạng mục công trình.Trong quá trình thực hiện đầu tư cũng do quá trình xây dựng phức tạp cộng với vốn lớn và tác động tiêu cực của các yếu tố khách quan và chủ quan cho nên đầu tư theo chiều rộng có độ mạo hiểm cao hơn. 1.4. Vai trò: + Đối với nền kinh tế: Đầu tư theo chiều rộng là nhân tố làm tăng quy mô cho nền kinh tế. Nền kinh tế tăng trưởng với quy mô lớn hơn trước trên cơ sở xây dựng mới và mở rộng nhiều vùng kinh tế,nhiều khu cụm công nghiệp trên khắp cả nước. Do đó nó còn thúc đẩy quá trình chuyển dịch  cơ cấu vùng kinh tế,thúc đẩy tạo điều kiện và hỗ trợ  các vùng kinh tế chậm phát triển,vùng sâu vùng xa được tham gia vào quá trình phát triển kinh tế của đất nước 1 cách tích cực hơn mạnh mẽ hơn. + Đối với doanh nghiệp: Đầu tư theo chiều rộng đi cùng với việc có thêm nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh khiến cho quy mô sản xuất của các doanh nghiệp được mở rộng, đưa năng suất tăng thêm, cho phép khai thác hiệu quả theo quy mô. Nó còn góp phần tạo ra nhiều việc làm mới,giải quyết công ăn việc làm cho người lao động ở các địa phương,làm tăng doanh thu của các doanh nghiệp,góp phần làm tăng ngân sách của nhà nước đóng góp vào đà tăng trưởng chung của nền kinh tế. Đầu tư theo chiều rộng có hiệu quả càng nhiều thì doanh nghiệp càng có nhiều điều kiện về vốn, lao động tài nguyên để phát triển sản xuất Đầu tư theo chiều sâu: Khái niệm: Là hoạt động đầu tư được thực hiện trên cơ sở cải tạo nâng cao, đồng bộ hoá, hiện đại hoá, cơ sở vật chất kĩ thuật hiện có, hoặc xây dựng lại hoặc đầu tư mới một dây chuyền công nghệ, xây dựng một nhà máy mới nhưng kĩ thuật công nghệ phải hiện đại hơn kĩ thuật công nghệ hiện có hoặc kĩ thuật trung bình của ngành, vùng nhằm duy trì năng lực đã có. 2.2. Nội dung của đầu tư theo chiều sâu: - Xây dựng thêm hoặc mua sắm thêm những tài sản mới nằm trong thành phần tài sản cố định có sẵn nhằm tăng cường khối lượng sản xuất. - Đầu tư bố trí lại toàn bộ hoặc một bộ phận các dây chuyền sản xuất ở cơ sở cho phù hợp với dây chuyền sản xuất mới. - Duy trì năng lực đã có của các cơ sở đang hoạt động là thực hiện các biện pháp  nhằm bù đắp các tài sản cố định đã bị loại bỏ do hao mòn hoặc lạc hậu bằng các thiết bị mới có năng suất hoạt động và hiệu quả cao hơn. - Đầu tư theo chiều sâu là hoạt động phát triển nguồn nhân lực, đầu tư và nâng cấp bộ máy quản lý, phương pháp quản lý của doanh nghiệp. Đầu tư theo chiều sâu chính là đầu tư về mặt chất cho nên chất lượng nguồn nhân lực và hiệu quả của bộ máy nhà nước đóng vai trò hết sức quan trọng. 2.3. Ưu điểm và nhược điểm: * Ưu điểm - Đầu tư chiều sâu làm giảm chi phí sản xuất tăng năng suất lao động và nâng cao hiệu quả đầu tư. - Khối lượng vốn đầu tư không lớn và có thể thực hiện dễ dàng nhanh chóng hơn so với đầu tư theo chiều rộng. - Thời gian thực hiện đầu tư theo chiều sâu tương đối ngắn hơn so với đầu tư theo chiều rộng do khối lượng công  việc ít đa dạng hơn. - Đầu tư theo chiều sâu ít mạo hiểm hơn và có độ rủi ro thấp hơn so với đầu tư theo chiều rộng. - Thông thường trong quá trình thực hiện đầu tư việc sản xuất vẫn có thể song song, thêm vào đó do khối lượng vốn đầu tư tương đối nhỏ khiến cho việc thu hồi vốn diễn ra nhanh chóng. * Nhược điểm - Với đầu tư chiều sâu thì tốc độ tăng vốn lớn hơn tốc độ tăng lao động. Mà trong điều kiện nước ta cũng như các nước phát triển và đang phát triển trên thế giới thì sức ép về lao động đang là vấn đề cấp bách. - Đầu tư chiều sâu cần phải có đội ngũ tri thức cao nghiên cứu chính xác, học hỏi các kinh nghiệm của các nước trên thế giới những cũng cần phải phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp mình. 2.4. Vai trò của đầu tư theo chiều sâu: - Đầu tư theo chiều sâu  là điều kiện không thể thiếu trong điều kiện hiện nay để thực hiện chiến lược công nghiệp  hoá hiện  đại hoá nền kinh tế. - Đối với doanh nghiệp đầu tư theo chiều sâu là chiến lược tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Đầu tư theo chiều sâu giúp doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí, hạ giá thành nhờ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. - Đầu tư theo chiều sâu có ảnh hưởng quan trọng không chỉ đến tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn ảnh hưởng đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. III.Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu. ĐTCR là nền tảng cơ sở, là bước đi đầu tiên để đầu tư chiều sâu. - Để có thể đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì bất kỳ doanh nghiệp nào cũng cần có được một nền tảng cơ bản. Nền tảng cơ bản đó bao gồm hệ thống nhà xưởng, cơ sở hạ tầng, máy móc trang thiết bị, công nhân lao động, đội ngũ cán bộ quản lý điều hành… Những hoạt động này đòi hỏi một lượng vốn đầu tư ban đầu lớn. Do đó các doanh nghiệp trong thời gian đâu thành lập thường có quy mô vừa và nhỏ. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp sẽ tích luỹ để có vốn tiếp tục đầu tư. Lúc này, doanh nghiệp cần tiến hành đầu tư chiều rộng để mở rộng hoạt động sản xuất của mình, củng cố vị trí của mình trên thị trường. - Sau khi đã có được một nền tảng vững chắc, một vị thế tốt trên thị trường thì việc nâng cao hiệu quả sản xuất là rất cần thiết. Quá trình hoạt động lâu dài sẽ khiến máy móc trang thiết bị của doanh nghiệp bị hao mòn vô hình và hữu hình. Vì vậy, doanh nghiệp cần bỏ vốn đầu tư thay thế máy móc, thiết bị cũ, tu sửa, cải tạo nhà xưởng. Bên cạnh đó, việc duy trì một công nghệ quá lâu sẽ khiến sản phẩm của doanh nghiệp không thể đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của khách hàng, khó cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường của các doanh nghiệp mới có công nghệ tiên tiến. - Trên nền tảng có được thông qua hoạt động đầu tư theo chiều rộng, doanh nghiệp sẽ tiến hành đầu tư theo chiều sâu như hiện đại hoá, đổi mới công nghệ, áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến, đào tạo nâng cao trình độ tay nghề cũng như trình độ quản lý điều hành…Những hoạt động này chỉ có thể tiến hành khi đã có được một nền tảng vững chắc. à Vì vậy, đầu tư chiều rộng đóng một vai trò rất lớn đối với hoạt động đầu tư chiều sâu, nó là nền tảng, là cơ sở để hoạt động đầu tư chiều sâu có hiệu quả. Đầu tư chiều sâu tiếp tục tạo tiền đề để đầu tư chiều rộng ở những phương diện mới. 2.1.Đầu tư theo chiều rộng dựa trên kết quả của đầu tư theo chiều sâu - ĐTCR là để mở rộng quy mô sản xuất nhằm sản xuất một khối lượng sản phẩm lớn hơn nữa trên cơ sở xây dựng mới thêm các hạng mục công trình. - Đầu tư theo chiều sâu có vai trò làm tăng năng suất lao động, tạo ra sản phẩm có mẫu mã và chất lượng tốt hơn, do đó làm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp đầu tư theo chiều sâu thành công, doanh nghiệp sẽ bắt kịp về trình độ khoa học công nghệ hiện đại, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành cũng như hoàn thiện hơn công tác quản lý trong doanh nghiệp góp phần tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Sau 1 thời gian, khi sản phẩm đã khẳng định được chỗ đứng trên thị trường và đựơc khách hàng ưa chuộng thì nhu cầu về sản phẩm sẽ tăng lên. Khi đó, để đáp ứng nhu cầu thị trường và kì vọng tăng doanh thu của doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư thêm máy móc nhà xưởng, thuê thêm nhiều lao động, đó chính là lúc doanh nghiệp đầu tư theo chiều rộng dựa trên kết quả có sẵn của đầu tư theo chiều sâu. -Với nền tảng mới do đầu tư chiều sâu tạo ra, đầu tư chiều rộng sẽ được tiến hành trên những phương diện mới, đưa doanh nghiệp lên vị thế mới với trình độ cao hơn. -Đầu tư theo chiều sâu có hiệu quả sẽ tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp có thể đầu tư nghiên cứu và sản xuất các sản phẩm mới hoặc các lĩnh vực kinh doanh có tiềm năng; tạo đà cho doanh nghiệp có thể chuyển từ đơn sản phẩm thành đa sản phẩm hay từ đơn lĩnh vực thành đa lĩnh vực, qua đó doanh nghiệp lại tiếp tục đầu tư theo chiều rộng trên những phương diện mới. => Doanh nghiệp có thể khẳng định được vị thế của mình trên thị trường, duy trì tốc độ tăng trưởng, đồng thời không ngừng phát triển cả về chiều sâu lẫn chiều rộng. Nhu cầu của thị trường là rất đa dạng, biến động, yêu cầu ngày càng cao về mọi mặt nên đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn linh hoạt trong vấn đề phối kết hợp đầu tư theo chiều rộng và theo chiều sâu. 2.2.Đầu tư theo chiều rộng giúp tăng hiệu quả kinh tế và hiệu quả về mặt thời gian của đầu tư theo chiều sâu. -Đầu tư theo chiều sâu liên quan đến việc nghiên cứu các máy móc thiết bị mới hiện đại và đào tạo đội ngũ nhân sự có chuyên môn kiến thức. Công việc này có độ rủi ro cao và đòi hỏi tri thức và tốn kém về mặt thời gian, tiền bạc. Đầu tư theo chiều rộng giúp ứng dụng các kết quả của đầu tư theo chiều sâu 1 cách rộng rãi , từ đó nâng cao trình độ kĩ thuật cho toàn bộ nền kinh tế. -Nhờ đầu tư theo chiều rộng mà máy móc thiết bị do kết quả của đầu tư theo chiều sâu được tăng thời gian sử dụng, tiết kiệm chi phí dùng để nghiên cưu các loại máy móc mới. -Đối với những nước nền kinh tế còn kém phát triển, lượng vốn để huy động được cho đầu tư còn thiếu, phải tìm cách đầu tư cần ít vốn mà đem lại hiêu quả. Đầu tư theo chiều sâu để phát triển kinh tế đối với các nước này là vô cùng quan trọng. - Các nước nghèo có nhiều cơ hội để nhập công nghệ từ các nước phát triển đặc biệt là thông qua con đường đầu tư trực tiếp nước ngoài và tự do hóa thương mại. Từ đó làm tăng tuổi thọ của các dây chuyền thiết bị, tức là tăng hiệu quả về mặt thời gian và kinh tế cho đầu tư theo chiều sâu ở các nước phát triển, đồng thời tạo điều kiện đầu tư theo chiều rộng ở nước đang phát triển. - Quá trình toàn cầu hóa làm cho các nền kinh tế ngày càng phụ thuộc lẫn nhau hơn, bởi vậy các nước cần học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước, học hỏi công nghệ tiên tiến phù hợp với nước mình để phát triển. Đầu tư chiều sâu và đầu tư chiều rộng không tách rời nhau, đan xen và bổ sung lẫn nhau trong quá trình thực hiện chiến lược đầu tư phát triển của doanh nghiệp. - Đầu tư theo chiều rộng sẽ tạo ra cơ sở nền tảng để tiến hành đầu tư chiều sâu. Đến lượt mình thì đầu tư chiều sâu lại thúc đẩy hoạt động đầu tư chiều rộng. Hai hoạt động này không thể tách rời nhau được. + Nếu không có hoạt động đầu tư chiều rộng tiến hành trước để tạo ra cơ sở vật chất cũng như nền tảng ban đầu cho doanh nghiệp thì không thể nào có được hoạt động đầu tư chiều sâu. + Nếu chỉ tiến hành hoạt động đầu tư chiều rộng thì lượng sản phẩm sản xuất ra quá lớn mà không có sự thay đổi để đáp ứng tốt hơn nữa yêu cầu của khách hàng thì sẽ khó tiêu thụ sản phẩm, gây ứ đọng vốn. - Đầu tư theo chiều rộng giúp doanh nghiệp duy trì năng lực kinh doanh, giữ được uy tín và thị phần của mình: thay thế máy móc, thiết bị đã quá cũ, tu sửa, cải tạo nhà xưởng, mở rộng hoạt động sản xuất để đáp ứng nhu cầu của thị trường như xây dựng thêm nhà máy mới, mua thêm dây chuyền sản xuất... với trình độ công nghệ như cũ. - Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng lưu ý đầu tư theo chiều sâu để tăng tính cạnh tranh cho sản phẩm của mình, như đổi mới công nghệ, đổi mới cơ chế quản lý, hay nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân... Để từ đó tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. -Không ngừng bổ sung và hoàn thiện cho nhau nhưng hai hoạt động này cũng có tác động kiềm chế lẫn nhau. Không phải lúc nào đầu tư theo chiều rộng cũng có tác dụng là động lực thúc đẩy đầu tư theo chiều sâu. Đầu tư theo chiều rộng không hợp lý, tràn lan thì lại hạn chế hiệu quả của hoạt động đầu tư theo chiều sâu của doanh nghiệp. + Nếu đầu tư theo chiều rộng tạo ra một cơ sở vật chất không phù hợp và đồng bộ như nhà xưởng không đúng quy cách, hay dây chuyền máy móc nhập lúc đầu quá lạc hậu hoặc quá tiên tiến, sự chênh lệch về trình độ công nghệ quá lớn giữa các bộ phận sản xuất… sẽ dẫn đến tình trạng làm đầu tư chiều sâu không phát huy được hiệu quả, gây lãng phí, thất thoát. + Ngược lại, đầu tư theo chiều sâu không hiệu quả sẽ làm cho doanh nghiệp không có đủ điều kiện để tiếp tục đầu tư theo chiều rộng mở rộng sản xuất. Tóm lại, đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu có mối quan hệ vô cùng mật thiết. Hoạt động này góp phần làm tăng hiệu quả của hoạt động kia và ngược lại. Đồng thời, sự kém hiệu quả của hoạt động này cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kia. Do đó, để thực hiện đầu tư có hiệu quả thì doanh nghiệp cần xem xét đầy đủ, nghiên cứu kỹ lưỡng để phối kết hợp một cách hợp lý hai hình thức đầu tư này, tạo nên sức cạnh tranh và chỗ đứng vững chắc trên thị trường. 4.Đầu tư theo chiều sâu là chiến lược lâu dài của doanh nghiệp, giúp rút ngắn khoảng cách cho 1 số nước tiến tới đầu tư theo chiều rộng. -Đối với một nền kinh tế, việc đầu tư theo chiều rộng không thể kéo dài quá lâu. Bất kỳ quốc gia nào cũng không thể tăng trưởng mãi theo chiều rộng bằng cách tăng vô hạn vốn đầu tư, đất đai, lao động, tài nguyên vì các nguồn này đều có giới hạn. - Do đầu tư theo chiều rộng đòi hỏi vốn lớn và thời gian đầu tư kéo dai, do đó gây trở ngại cho các nươc thiếu vốn. Bên cạnh đó đầu tư theo chiều sâu có khối lượng vốn đầu tư không lớn và có thể thực hiện dễ dàng nhanh chóng hơn so với đầu tư theo chiều rộng. -Bên cạnh đó nếu tiếp tục phát triển theo chiều rộng, thiếu chiều sâu thì nền kinh tế sẽ có nguy cơ phụ thuộc nhiều hơn vào nguồn vốn vật chất và các yếu tố bên ngoài. -Đối với một doanh nghiệp, việc mở rộng quy mô sản xuất với trình độ công nghệ như cũ chỉ có thể đến một giới hạn nhất định. Doanh nghiệp nếu không đầu tư theo chiều sâu để nâng cao năng lực công nghệ cũng như chất lượng sản phẩm thì sẽ nhanh chóng tụt hậu sản phẩm không thể tiêu thụ được dẫn đến không thể tồn tại được là điều tất nhiên. - Đầu tư theo chiều sâu có thể nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư bỏ ra theo hướng gia tăng tỷ trọng đóng góp của yếu tố công nghệ - một yếu tố không có giới hạn như những yếu tố khác và tạo ra một nền tảng bền vững cho sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp. =>Có thể nói, đầu tư chiều sâu là một chiến lược lâu dài và quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của mỗi quốc gia. CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ THEO CHIỀU RỘNG, ĐẦU TƯ THEO CHIỀU SÂU VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG , ĐẦU TƯ CHIỀU SÂU Trong số 10 mặt hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, Ngành may mặc là câu chuyện thành công chính của Việt Nam. Đây là mặthàng có nhiều lợi thế so sánh và có khả năng phát triển cao.Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước công nghiệp Dệt May đóng vai trò là ngành tích luỹ tư bản cho quá trình phát triển công nghiệp về sau.Hơn nữa, trong xu thế quốc tế hoá hiện nay, Việt Nam cũng đã trở thành thành viên ASEAN (5/1995), APEC (11/1998) và gia nhập tổ chức WTO . Như vậy, các sản phẩm dệt may của Việt Nam vừa có điều kiện để mở rộng, xâm nhập thị trường tiêu thụ, vừa chịu sức ép cạnh tranh lớn hơn trong môi trường cạnh tranh quốc tế.Vì vậy khi nghiên cứu về đề tài “Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu”, trong phần thực trạng đầu tư theo chiều rộng nhóm em sẽ trình bày về một ngành cụ thể đó là ngành dệt may. I. Đặc điểm đầu tư của ngành dệt may Mỗi một ngành công nghiệp độc lập có những đặc điểm nhất định, khác biệt so với các ngành khác.Những đặc điểm đó chi phối đến quá trình tổ chức sản xuất và trực tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành.Việc nghiên cứu, làm rõ chúng có vai trò quan trọng trong việc định hướng phát triển.ngành dệt may có điểm khác biệt so với các ngành khác, do đó đầu tư của ngành dệt may cũng có những điểm khác biệt, đó là: Thứ nhất, vốn đầu tư vào ngành dệt may không lớn và thời gian thu hồi vốn nhanh. Đây là ngành có suất đầu tư thấp, suất đầu tư ngành dệt may bằng 1/10 so với ngành cơ khí, 1/15 so với ngành điện, 1/20 so với ngành luyện kim. Đểtạo ra một việc làm ngành dệt chỉ cần đầu tư 15000$, ngành may 10000$,trong đó ngành giấy cần 30000$. Đồng thời, thời gian thuhồi vốn của ngành dệt may thấp hơn so với nhiều ngành khác, thời gian thi hồi vốn của ngành may là 5-7 năm, dệt là 10-12 năm, công nghiệp nặng là 10-15 năm. Thứ hai, dệt may là ngành không đòi hỏi công nghệ quá phức tạp. Khác với các ngành công nghiệp khác, công nghệ phải phát triển tới một mức độ nào đó thì sản xuất của ngành mới có thể thuẹc hiện được như việc khai thác, dầu khí, mỏ quặng…Dệt may là ngành sử dụng nhiều lao động giản đơn, do đó không yêu cầu công nghệ phải hiện đại và vì vậy nó xuất hiện sớm ở nhiều nước đang phát triển. Thứ ba, trong quá trình phát triển sản xuất, đầu tư nguyên nhiên liệu là quan trọng.Cũng như các ngành công nghiệp khác, nguyên vật liệu là cơ sở chính để sản xuất , đặc biệt trong ngành dệt may nó có những tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất. Hiện nay, dệt may Việt Nam còn nhập nguyên liệu nhiều với giá rất cao, do đó cần đầu tư phát triển vùng nguyên liệu trong nước đáp ứng nhu cầu sản xuất của ngành. Thứ tư, ngành dệt may đòi hỏi đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Như ta đã biết, 4 yếu tố tham gia vào sản xuất: vốn, lao động, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên. Dệt may là ngành có đòi hỏi vốn không nhiều, công nghệ không quá phức tạp, do đó trong sản xuất phải đầu tư phát triển nhiều nguồn lực. Do ngành dệt may là ngành sử dụng nhiều lao động, đặc biệt là lao động giản đơn, do đó chú trọng vào nguồn nhân lực là điều quan trọng. II. THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ THEO CHIỀU RỘNG VÀ ĐẦU TƯ THEO CHIỀU SÂU TRONG NGÀNH DỆT MAYVIỆT NAM Đầu tư theo chiều rộng là nền tảng cơ sở, là bước đi đầu tiên để đầu tư theo chiều sâu So với nhiều ngành khác, ngành dệt may ở Việt Nam là ngành công nghiệp truyền thống có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển. Từ khi đổi mới, ngành dệt may không ngừng phát triển cả về qui mô, năng lực sản xuất, sản phẩm dệt may Việt nam đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu trong nước và có khả năng xuất khẩu lớn sang các thị trường khó tính như EU, Nhật Bản, Bắc Mỹ… Việc xuất khẩu hàng dệt may đã đem lại một khoản ngoại tệ rất đáng kể. Chỉ tính riêng trong bốn năm gần đây (1999 – 2002), xuất khẩu của ngành dệt may đã mang về cho đất nước trên 8,3 tỉ USD . Nhưng với hệ thống dây chuyền cũ kỹ, lạc hậu đang vận hành thì sản phẩm làm ra không thể cạnh tranh trên thị trường do thua kém cả về năng suất và chất lượng, Để Dệt May phát triển trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn thì phải cần vốn đầu tư cải tạo, nâng cấp, đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ, nângcao chất lượng hạ giá thành sản phẩm, cạnh tranh được trên thị trường. Đầu tư mở rộng sản xuất không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất, tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp mà còn là điều kiện để nâng cao trình độ khoa học công nghệ, góp phần đáng kể vào đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hoá quá trình sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong giai đoạn tiếp. Đầu tư theo chiều sâu tiếp tục tạo tiền đề để đầu tư chiều rộng ở những phương diện mới. 2.1. Đầu tư vào máy móc thiết bị và công nghệ Hoạt động đầu tư vào thiết bị công nghệ có vai trò rất quan trọng trong sản xuất của các ngành công nghiệp, đặc biệt là ngành dệt may. Tuy ngành dệt may được phát triển sớm nhưng nếu không có khả năng đầu tư đổi mới công nghệ thì không có khả năng phát triển sản xuất sản phẩm chất lượng cao, tốn kém về chi phí sản xuất, không tạo được sản phẩm đa dạng. Công nghệ mới góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, phục vụ tốt hơn nhu cầu ngày một gia tăng của con người. Ngược lại, sự tiến bộ khoa học công nghệ tạo sản phẩm mới kích thích làm phát triển nhu cầu tiêu dùng dẫn đến thúc đẩy trở lại ngành dệt may phát triển. a. Khối lượng vốn đầu tư Khối lượng vốn đầu tư toàn ngành trong những năm qua có xu hướng tăng và vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu vốn đầu tư, thường là 40-60%. Theo kết quả thống kê cho bảng sau: Bảng 3: Khối lượng vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ Tổng công ty Dệt may Việt Nam giai đoạn 2000-2005 Năm Tổng mức đầu tư (tỷ đồng) Vốn đầu tư đổi mới công nghệ (tỷ đồng) Tỷ trọng (%) 2000 2.066,8 1.126,0 54,48 2001 3.157,0 1.774,0 56,19 2002 2.111,8 1.036,0 48,89 2003 1.245,3 598,0 48,02 2004 1.514,6 709,6 46,85 2005 1.863,4 808,9 43,41 Tổng 11.948,9 6.052,5 TB:50,65 Nguồn: Tổng công ty Dệt may Việt Nam (Vinatex) Tình hình đầu tư ở Tổng công ty Dệt may Việt Nam cũng phản ánh tình hình chung toàn ngành. Tuy vốn đầu tư giai đoạn 2000-2005 có tăng so với giai đoạn trước nhưng xét về tỷ trọng vốn đầu tư dành cho đổi mới công nghệ thì có giảm. Tỷ trọng vốn tư cho đổi mới công nghệ 2000-2005 là trên 50% tổng mức vốn đầu tư trong khi ở giai đoạn 1996-2000 là 81,1%. Sở dĩ có sự giảm tỷ trọng như trên là do giai đoạn 1996-2000 đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ với mọi tiềm lực để đầu tư hiện đại hóa máy móc thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất. Chính vì vậy từ năm 2000 đến nay ngành không phải đầu tư nhiều cho công nghệ nữa mà chủ yếu tập trung đầu tư theo chiều rộng. Trung bình mỗi doanh nghiệp dệt may giành 2,9% doanh thu để đầu tư để cho đổi mới công nghệ. Có khoảng 12 doanh nghiệp điển hình có tỷ lệ vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ trên tổng doanh thu lớn hơn 5%: Công ty dệt kim Đông Xuân (25%); Công ty Dệt nhuộm vải Phước Thịnh (24,61%); Công ty dệt 8/3 (11,2%); Công ty dệt may Hà Nội (9%). Có thể thấy quy mô vốn đầu tư toàn ngành cũng như từng doanh nghiệp đều tăng lên. b.Phương thức đầu tư đổi mới công nghệ Đa số các doanh nghiệp sử dụng kết hợp nhiều phương thức, rất ít doanh nghiệp chỉ sử dụng một phương thức đổi mới công nghệ.Trong đó, tự tổ chức nghiên cứu được tiến hành song song với việc mua công nghệ mới nhằm mục đích tăng hiệu quả ứng dụng và vận hành công nghệ. Bảng 5: Phương thức đầu tư đổi mới công nghệ của 64 doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Phương thức đầu tư Tỷ lệ (%) Tự tổ chức nghiên cứu và thiết kế trong nội bộ doanh nghiệp 32 Hợp tác với cơ quan khoa học nước ngoài 26 Hợp tác với cơ quan khoa học trong nước 5 Bắt chước thiết kế lại theo mẫu 54 Mua công nghệ từ trong nước 20 Mua công nghệ từ nước ngoài 54 Liên doanh liên kết với doanh nghiệp trong nước 20 Liên doanh liên kết với doanh nghiệp nước ngoài 23 Thuê tư vấn trong nước 18 Thuê tư vấn nước ngoài 3 Nguồn: Báo cáo kết quả khảo sát về đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam. Từ kết quả nghiên cứu trên thấy rằng đa số các doanh nghiệp lựa chọn hình thức khép kín, ít có sự giao lưu hợp tác với nước ngoài. Phương thức được áp dụng nhiều nhất là mua công nghệ từ nước ngoài và bắt chước thiết kế lại theo mẫu đều được 54% doanh nghiệp áp dụng. Hai phương thức này có chung một ưu điểm là đều tiết kiệm được thời gian và chi phí nghiên cứu. c.Nội dung đầu tư đổi mới công nghệ Trong 5 năm 2000-2005, số lượng máy móc thiết bị của toàn ngành và Vinatex có sự thay đổi đáng kể được trình bày ở bảng sau. Bảng 6: Nội dung đầu tư đổi mới công nghệ ngành dệt may và Vinatex Danh mục Đơn vị Năm 2000 Năm 2005 Toàn ngành Vinatex Toàn ngành Vinatex Năng lực sản xuất -Bông -Sợi -Vải -Khăn -Sản phẩm may tấn tấn triệu m tấn triệu sp 8.000 85.000 304 25.000 400 6.400 75.000 139 5.200 110 16.750 260.000 800 32.000 1.200 16.000 118.700 205.000 8.500 360 Trang thiết bị -Kéo sợi nồi cọc -Kéo sợi OE -Dệt vải -Dệt kim -May cọc sợi rôto máy dệt máy dệt kim máy may 1.050.000 3.520 14.000 1.110 190.000 900.000 2.000 6.320 130 28.000 2.487.000 17.870 17.437 4.972 245.300 1.274.000 11.300 5.015 720 41.460 Nguồn: Tổng công ty dệt may Việt Nam + Thiết bị kéo sợi Được đầu tư nâng cấp từng giai đoạn với lượng vốn đầu tư khác nhau.Giai đoạn 1991-1995, ngành dệt đầu tư 39,96 triệu USD để thay mới, thay thế đồng bộ và cục bộ các máy cũ của Tây Âu và nâng cấp cải tạo các cọc sợi bên cạnh việc mua mới 201.906 cọc sợi. Do đó sợi dệt công nghệ mới đạt chất lượng cao. Đến giai đoạn 1996-2004 thiết bị kéo sợi tiếp tục được đầu tư đổi mới đáp ứng yêu cầu của ngành gồm nhiều chủng loại, xuất xứ từ Tây Âu, Nhật Bản…20,2% thiết bị từ Italy; 19,97% từ Thụy Sỹ; 18,25% từ Trung Quốc; 16,65% từ Đức… với tổng vốn đầu tư là 1.976,5 triệu USD. Năm 2005, ngành dệt có 2.487.000 cọc sợi (17.870 rôto) trong đó đầu tư mới 502.000 cọc sợi, sản xuất 260.000 tấn sợi một năm. Tuy nhiêntheo đánh giá của các chuyên gia thì trình độ công nghệ của tiểu ngành vẫn ở mức trung bình và lạc hậu đòi hỏi phải đầu tư hơn nữa. + Thiết bị, công nghệ dệt thoi Giai đoạn 1991-1995 vốn đầu tư cho thiết bị dệt thoi là 14,09 triệu USD chủ yếu thay mới các thiết bị đã quá cũ và lạc hậu so với khu vực và thế giới, đầu tư nâng cấp những thiết bị đã qua sử dụng nhưng năng lực thực tế vẫn chấp nhận được. Thiết bị chủ yếu có xuất xứ từ Hàn Quốc, Nhật Bản…Từ năm 1996 đến nay toàn ngành có 6000 thiết bị mới được đầu tư với lượng vốn đầu tư là 78,5 triệu USD. Hiện nay có 17.437 máy dệt sản xuất 800 triệu m vải, 32.000 tấn khăn bông nhưng chất lượng vải còn hạn chế. Vải dệt thoi xuất khẩu và cung cấp cho may xuất khẩu chỉ khoảng 13-14%. Nguyên nhân là do trình độ công nghệ ở mức trung bình không đáp ứng được yêu cầu vải xuất khẩu. Vì vậy, tăng đầu tư cho thiết bị dệt thoi sẽ góp phần tăng giá trị xuất khẩu. + Thiết bị, công nghệ dệt kim Vào giai đoạn 1996-2000, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã đầu tư dây chuyền công nghệ dệt kim mới của châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc kết hợp với đầu tư sửa chữa máy móc đã qua sử dụng, phát huy hiệu quả cao và năng lực sản xuất đã tăng lên với 1.110 máy dệt kim, đạt hơn 70.000 tấn sản phẩm mỗi năm. Từ năm 2000 , để đáp ứng chất lượng hang hoá xuất khẩu vào các thị trường khó tính như Mĩ, tiểu ngành dệt kim đã tăng tốc trong việc cải thiện trình độ công nghệ. Đến năm 2005, toàn ngành có tới 4.972 máy dệt kim và được đánh giá là trình độ công nghệ trung bình khá và đã cải thiện được một số vấn đề về công nghệ như giảm tỷ lệ tiêu hao nguyên liệu, thay đổi mặt hàng, sản xuất các loại vải mật độ cao, ổn định kích thước, ít lỗi… +Thiết bị, công nghệ ở khâu in nhuộm, hoàn tất Theo thống kê của Vinatex, giai đoạn 2000-2004, các doanh nghiệp thành viên đã đầu tư khoảng 1.208,67 tỷ đồng cho việc thay mới và bổ sung, nâng cấp thiết bị công nghệ in, nhuộm, hoàn tất. Trong đó, đa số thiết bị được nhập từ các nước Tây Âu với tổng giá trị 321,5 tỷ đồng, chiếm 56% tổng giá trị; tiếp đó là máy móc Đài Loan với tổng giá trị 102,4 tỷ đồng, chiếm 16% và Nhật Bản với tổng vốn đầu tư khoảng 68,2 tỷ đồng, chiếm 14% ... Các thiết bị công nghệ mua ở thị trường trong nước rất ít, chỉ khoảng 1,984 tỷ đồng chiếm 0,3% tổng vốn đầu tư mới. + Đầu tư cho thiết bị, công nghệ ngành may Nếu như ngành dệt chủ yếu sản xuất đầu vào cho ngành may thi ngành may lại là ngành trực tiếp tạo ra sản phẩm tiêu dùng và xuất khẩu. Vì vậy vấn đề nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm là hết sức cần thiết.Giai đoạn 1991-1995, ngành may đã đầu tư 267,3 tỷ đồng với 19.527 máy may. Các máy may mới đều là những máy khá hiện đại so với thiết bị may thế giới và khu vực, có tốc độ cao, bơm dầu tự động, đảm bảo vệ sinh,…Bước sang giai đoạn 1996-2005,toàn ngành lại tiếp tục đầu tư cho máy móc thiết bị ngành may. Trong giai đoạn này, Vinatex đã đầu tư 356,8 tỷ đồng cho thiết bị công nghệ ngành may, chiếm 28,7% tổng vốn đầu tư của Tổng công ty; trong đó, tổng đầu tư của các doanh nghiệp may là 260,2 tỷ đồng, chiếm 87% tổng vốn đầu tư cho thiết bị công nghệ may mặc và các doanh nghiệp dệt đầu tư cho may là 50,3 tỷ đồng, chiếm 13%. Đầu tư máy móc thiết bị ngành may hiện nay dịch chuyển theo hướng tăng cường các sản phẩm cao cấp, hướng vào các thị trường mục tiêu. Trong thời gian qua, những doanh nghiệp đi đầu trong việc đầu tư đổi mới công nghệ phải kể đến doanh nghiệp may Việt Tiến, May 10, may Nhà Bè … Nhìn vào các con số thống kê có thể thấy rằng, các doanh nghiệp dệt may đã tập trung một lượng vốn lớn cho đầu tư hiện đại hoá và đổi mới trang thiết bị công nghệ của ngành. Những nỗ lực đó đã mang lại nhiều kết quả khả quan như năng lực sản xuất tăng lên, công nghệ và thiết bị được hiện đại hóa, cải thiện kim ngạch xuất khẩu và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may trên thị trường quốc tế. Trong năm 2005, toàn ngành đã thực hiện và triển khai được nhiều dự án đổi mới công nghệ như dự án đầu tư mới và mở rộng của công ty Dệt Đông Á, đầu tư mới tại công ty dệt may Hà Nội tăng năng lực sản xuất thêm 2.494 tấn sợi/năm; công ty May 10 đã đầu tư thêm máy móc thiết bị hiện đại để tăng năng lực thêm 200.000 bộ veston/năm, ngoài ra còn có các dự án bổ sung dây chuyền kéo sợi của công ty dệt may Hòa Thọ, đầu tư máy móc thiết bị mới tại công ty dệt Phong Phú, dệt Thành Công, dệt may Nha Trang… Năm 2006, tập đoàn dệt may Việt Nam dành 1773 tỷ đồng cho đầu tư đổi mới công nghệ dệt may. Trong đó, nội dung đầu tư gồm đầu tư nâng cấp và mở rộng khâu hoàn tất vải dệt thoi như nâng cấp và mở rộng các nhà máy nhuộm của Dệt Nam Định, Dệt May Thắng Lợi, Dệt Việt Thắng trên cơ sở cổ phần hóa hoặc liên doanh với các đối tác nước ngoài. Đẩy nhanh tiến độ di dời kết hợp hiện đại hóa các công ty dệt 8/3, Dệt Nam Định, Dệt kim Đông Xuân,…Nghiên cứu sản xuất sản phẩm mới và sản phẩm dệt thoi trên cơ sở vải cotton CLC, vải spandex, vải thời trang; các sản phẩm dệt đa chức năng, kỹ thuật và nhóm sản phẩm nội thất: vải bọc, đồ dùng gia đình, xe hơi, thảm trải sàn,…Tập đoàn dệt may Việt Nam cũng đầu tư nâng cao năng suất lao động trọng tâm vào khâu kéo sợi, dệt thoi, may mặc với chỉ tiêu tăng 20-30% so với hiện nay. 1 ví dụ diển hình là: Công ty Cổ phần Dệt May Hoàng Thị Loan thuộc Tổng Công ty Dệt May Việt Nam, tên viết tắt quốc tế là Halotexco, được thành lập năm 2004, trên cơ sở sát nhập Nhà máy Sợi Vinh và Công ty Dệt kim Hoàng Thị Loan. Hiện nay, Công ty có 2 nhà máy trực thuộc và chi nhánh Hà Nội với trên 70 kỹ sư chuyên ngành và 1.200 lao động lành nghề. Sản phẩm sản xuất chính là sợi các loại như sợi nồi cọc, sợi OE, sợi xe và hàng dệt may công nghiệp. Trước đây, sản phẩm sợi được sản xuất trên dây chuyền công nghệ của CHDC Đức, công suất 5200 tấn/năm. Các máy móc, thiết bị trong dây chuyền chủ yếu được sản xuất từ những năm 1978, 1990 và 2000 của CHDC Đức, Italia và Trung Quốc. Sợi là sản phẩm truyền thống, là thế mạnh chiếm trên 2/3 tổng số doanh thu hàng năm của Công ty. Nhưng với hệ thống dây chuyền cũ kỹ, lạc hậu đang vận hành thì sản phẩm làm ra không thể cạnh tranh trên thị trường do thua kém cả về năng suất và chất lượng. Trong khí đó, thị trường sợi nội địa và nước ngoài đã có nhiều sản phẩm chất lượng tốt, có thương hiệu nổi tiếng, được khách hàng ưa chuộng.Điều này tạo ra một áp lực cạnh tranh lớn đối với các sản phẩm sợi của Công ty CP Dệt May Hoàng Thị Loan. Trước thực trạng đó, năm 2009, sau thời gian nghiên cứu, tìm tòi các công nghệ mới đang được áp dụng tại các nhà máy trong nước và châu Á, Công ty đã lựa chọn công nghệ sản xuất sợi thế hệ mới của Trung Quốc, công suất 6500 tấn/ năm, chất lượng sản phẩm đáp ứng tiêu chí xuất khẩu ngành, các chỉ tiêu về môi trường đạt tiêu chuẩn cho phép, với tổng giá trị đầu tư là 29 tỷ đồng.  Quá trình đổi mới công nghệ sản xuất được thực hiện trên nguyên tắc hiệu quả và tiết kiệm chi phí.Đối với các chủng loại thiết bị quá lạc hậu, công ty đầu tư mua thiết bị mới thay thế; còn đối với các chủng loại thiết bị vẫn đáp ứng yêu cầu sản xuất thì được nâng cấp, bảo dưỡng để tiếp tục sử dụng. Đồng thời với việc nghiên cứu, lắp đặt hệ thống thiết bị mới, công ty cũng tiến hành cải tạo lại cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật để phù hợp với điều kiện sản xuất mới, phát huy hết công suất của thiết bị. Cụ thể như thiết kế và làm mới hệ thống phân phối điện cho các thiết bị mới, cải tạo các miệng hút gió của hệ thống điều hòa không khí, v.v… Qua quá trình đầu tư đổi mới, nâng cấp công nghệ- thiết bị, công ty đã hoàn chỉnh dây chuyền công nghệ sản xuất sợi mới với 7 công đoạn, gồm: công đoạn máy bông, máy chải, máy ghép, máy thô, máy sợi con, máy ống, và quả sợi thành phẩm. Với dây chuyền thiết bị mới, tất cả các công đoạn đều cho năng suất cao hơn, chất lượng sợi tốt, giảm nhân công và giảm thiểu mức độ bụi bông gây ô nhiễm môi trường. Cụ thể, ở công đoạn chải bông sản lượng tăng 2500kg/ca, giảm 3 công nhân đứng máy/ca; công đoạn ghép sợi giảm 1 công nhân/ca, tăng sản lượng cúi ghép 2000kg/ca. Ở các công đoạn máy sợi thô, sợi con, công đoạn đánh ống, sản lượng tăng 1500 kg/ca. Tính tổng thể, sản lượng toàn nhà máy tăng thêm 1300 tấn/năm. Đồng thời, sau đổi mới dây chuyền thiết bị, chất lượng sợi nâng lên rõ rệt, đạt các tiêu chuẩn xuất khẩu của Tổng Công ty và của ngành sản xuất sợi trong nước, giúp công ty có thêm nhiều bạn hàng nước ngoài, tăng tỷ lệ sợi xuất khẩu từ 20% lên tới 40%/năm. Đưa tổng doanh thu của Công ty năm 2010 xấp xỉ 500 tỷ đồng, gần gấp 2 lần doanh thu các năm 2008 và 2009. Như vậy, từ hướng đầu tư theo chiều sâu đã tạo bước tiến cho doanh nghiệp không ngừng mở rộng quy mô sản xuát.(đầu tư theo chiều rộng) 2.2 . Đầu tư vào thương hiệu Theo đánh giá của chuyên gia quốc tế Việt Nam thành lập khá ổn định sự có mặt của mình trong thị trường hàng dệt may toàn cầu, ngành công nghiệp dệt may của Việt Nam đã có sức cạnh tranh. Sản phẩm dệt may Việt Nam đã tạo được sự tin cậy của các nhà bán lẻ quốc tế được biết đến khá nhiều trên thị trường quốc tế. Một số thương hiệu quen thuộc đã gây được uy tín như: may 10, may Việt Tiến, gấm Thái Tuấn, dệt kim Đông Xuân, sơ mi An Phước. Vài năm trở lại đây, một số doanh nghiệp dệt may đầu tư vào công tác tiếp thị, quảng bá sản phẩm hiệu quả đã sản xuất được nhiều sản phẩm mang thương hiệu của chính mình và từng bước đẩy lùi hàng ngoại như: công ty thời trang Việt với nhãn hiệu NinoMaxx, đưa ra sản phầm trên vải jeans, kaki, lylen… thích hợp cho giới trẻ năng động ; gấm Thái Tuấn với vải lụa mềm, hoạ tiết độc đáo hợp cho trang phục mang đậm nét văn hoá; may Việt Tiến với sản phẩm sơ mi, quần âu… đa dạng mẫu mã chiếm lĩnh thị trường khá đông đảo. Gần đây các doanh nghiệp đã quan tâm đến nghiên cứu, thu thập và phân tích thông tin thị trường như: tổ chức xây dựng các bộ phận nghiên cứu phát triển của phòng Marketing, xây dựng chương trình quảng cáo khuyến mãi, mở rộng hội nghị khách hàng, tham dự hội trợ trong nước, quốc tế. 3.3. Đầu tư vào nguồn nhân lực Yếu tố nguồn nhân lực:đây là một trong những yếu tố chính của hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong ngành Dệt May. Nó được biểu hiện trên hai mặt là số lượng và chất lượng. Về số lượng là những người trong độ tuổi lao động và thời gian của họ có thể huy động vào làm việc. Về mặt chất được thể hiện ở trình độ khéo léo của công nhân, trình độ quản lý...Ngành Dệt May có đặc trưng là sử dụng nhiều lao động, quy trình nhiều công đoạn thủ công. Vì thế lao động là yếu tố quan trọng trong ngành. Nguồn nhân lực dồi dào với giá rẻ là một lợi thế so sánh của ngành Dệt May Việt Nam. Nhưng lao động cũng phải đạt đến một trình độ nhất định, có trình độ chuyên môn cao, sáng tạo, nhanh nhạy với cái mới thì mới thực sự trở thành lợi thế của ngành, ngược lại người lao động kém năng động, kém khéo léo thì kìm hãm sự phát triển của ngành. Lao động trong ngành Dệt May hiện nay tăng nhanh và tập trung chủ yếu trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, sau đó là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Hai loại hình doanh nghiệp này hiện nay đang thu hút 2/3 lao động của toàn ngành Dệt May. Thường đa số các doanh nghiệp này hiện nay lại có khuynh hướng đầu tư cho việc thu hút lao động, chứ không có khuynh hướng đầu tư mạnh cho hoạt động đào tạo. Do yêu cầu về lao động của ngành Dệt May tăng rất nhanh nên khả năng đáp ứng của cơ sở đào tạo không theo kịp. Dẫn đến tính trạng tranh giành lao động giữa các doanh nghiệp trong ngành tăng lên đã đến mức báo động. Khi tình trạng đó xảy ra, các doanh nghiệp ngại đào tạo người lao động vì khả năng họ rời bỏ công ty sau khi được đào tạo là quá lớn. Doanh nghiệp không đào tạo, nhân viên cảm thấy không thỏa mãn nhu cầu được học tập của mình lại muốn ra đi tìm nơi khác nhiều hơn. Bảng 3. Tỷ lệ biến động lao động trong ngành Dệt May 2002 2003 2004 Tổng số lao động 496154 589246 652689 Tuyển mới trong năm 202671 41% 209514 36% 229168 35% Giảm trong năm 88828 18% 107858 18% 175851 27% (Tổng hợp từ nguồn số liệu của Tổng cục Thống kê) Tỷ lệ biến động lao động cao nhất thuộc các doanh nghiệp liên doanh, sau đó đến doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Bảng 4. Tăng giảm lao động theo loại hình doanh nghiệp 2004 Loại hình doanh nghiệp Lao động đầu năm Lao động cuối năm (LĐCN) Tuyển mới (TM) Lao động giảm Tổng số TM/LĐCN Tổng số giảm/LĐCN DN Nhà nước TW 93285 93462 20899 22% 20722 22% DN Nhà nước địa phương 54393 54020 10371 19% 10744 20% Ngoài quốc doanh 244530 266535 90747 34% 69517 26% 100% vốn nước ngoài 179859 211382 97175 46% 65652 31% Liên doanh khác 26530 27290 9976 37% 9216 34% (Tổng hợp từ nguồn số liệu của Tổng cục Thống kê) Hiện nay, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực của ngành đã được quan tâm. Vinatex với hệ thống 5 trường Cao đẳng dệt may thời trang và 3 Viện nghiên cứu đã đóng góp tích cực vào hoạt động nghiên cứu và đào tạo chủ lực cho toàn ngành. Các trường đại học đã có chuyên ngành đào tạo riêng như: Trường đại học Mỹ thuật công nghiệp, Khoa công nghệ dệt may của Trường đại học Bách Khoa, chuyên ngành thời trang của Viện đại học Mở. Ngoài ra, các công nhân kỹ thuật cũng được đào tạo trong các trường dạy nghề ở Gia Lâm. Các địa phương cũng có trường dạy nghề tại chỗ, trường hướng nghiệp. Theo số liệu năm 2004, tổng công ty dệt may Việt Nam đã triển khai được 24 lớp đào tạo, 699 học viên, 126 cán bộ được tập huấn quản trị chiến lược. Tuy nhiên ,Theo đánh giá chung, cán bộ thiết kế mẫu mốt, cán bộ marketing trong các doanh nghiệp dệt may đang rất thiếu và yếu, đặc biệt trong lĩnh vực sử dụng internet để tạo lợi thế trong tiếp cận khách hàng ở các nước và marketing cho công ty và sản phẩm. Công nhân trong ngành dệt may không có tay nghề còn cao (20,4%) nên năng suất lao động thấp, chẳng hạn cùng một ca làm việc - năng suất lao động bình quân của một lao động ngành may Việt Nam chỉ đạt 12 áo sơ mi ngắn tay hoặc 10 quần thì một lao động Hồng Kông năng suất lao động là 30 áo hoặc 15 - 20 quần.[5] Bên cạnh đó ngành đang có tình trạng thiếu nguồn lao động quản lý và kĩ thuật, nghiệp vụ. Hầu hết, các cán bộ quản lý chủ chốt trong các doanh nghiệp Dệt may đều có trinh đọ đại học hoặc cao đẳng, chuyên môn khá nhưng trình độ quản lý theo phong cách công nghiệp còn yếu, tiếp cận với phương thức quản lý hiện đại còn ít. Cán bộ kĩ thuật chủ yếu trưởng thành từ công nhân bậc cao nên chỉ giỏi về chuyên môn của nhưng sản phẩm cụ thể con như việc sáng tác mẫu, tạo dang sản phảm còn rất kém.Các doanh nghiệp rất cần những kỹ sư có bằng cấp, công nhân kĩ thuật và các nhà quản lý- những người có khả năng nắm bắt công nghệ hiện đại. Có một thực tế là nhiều doanh nghiệp bỏ ra một số tiền lớn để mua thiết bị và công nghệ hiện đại, giá cao để chuẩn bị cho việc sản xuất các mặt hàng cao cấp, song người vận hành các thiết bị này lại có trình độ chuyên môn thấp. Trong ngành dệt, lượng lao động qua đào tạo chỉ chiếm 35,1%; trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học chỉ chiếm 7%. Trong ngành may, tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp hơn, chiếm 18,24% tổng số lao động; trình độ cao đẳng, đại học và sau đại học chỉ dừng lại ở mức 4,16%. Bảng 7: Trình độ lao động trong các doanh nghiệp Dệt may Việt Nam. Trình độ lao động Tỷ lệ trong các doanh nghiệp dệt (%) Tỷ lệ trong các doanh nghiệp may (%) Lao động phổ thông 65,9 81,76 Công nhân 19,2 6,53 Kỹ thuật viên 3,3 3,92 Trung cấp 4,6 3,63 Đại học và cao đẳng 6,9 4,15 Trên đại học 0,1 0,01 Đối với lao động trực tiếp sản xuất, phần lớn là người ngoại tỉnh lao động phổ thông (trên 60%), trình độ văn hóa thấp, trình độ khi vào doanh nghiệp là dưới cơ bản. Hầu hết các doanh nghiệp đều phải tự đào tạo công nhân trước khi đưa vào dây chuyền sản xuất. Do đó, doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong quản lý và tổ chức sản xuất. Đầu tư chiều sâu và đầu tư chiều rộng không tách rời nhau, đan xen và bổ sung lẫn nhau trong quá trình thực hiện chiến lược đầu tư phát triển của doanh nghiệp và đầu tư chiều sâu là chiến lược lâu dài của doanh nghiệp. Như vậy, trong giai đoạn 2000-2005 ngành dệt may dã có sự đầu tư mở rộng quy mô sản xuất đi kèm với đầu tư chiều sâu, mặc dù chủ yếu là đổi mới máy móc trang thiêt bị hơn , vẫn chưa chú trọng đầu tư đào tạo lao động. Đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu đã bổ sung lẫn nhau trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Không chỉ dừng lại ở cấp độ doanh nghiệp, qua sự kết hợp giữa 2 hình thức này đã góp phần vào tăng sản phẩm cho xã hôị, từng bước nâng cao vị thế của ngành dệt may trên trường quốc tế. Theo số liệu của Trung tâm thương mại thế giới, Việt Nam đứng trong danh sáchTOP 10 các nước có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất thế giới về hàng Dệt may tronggiai đoạn 2007-2009 và đứng ở vị trí thứ 7 trong năm 2010 với thị phần xuất khẩugần 3%, sau Trung Quốc (thị phần 36.6%), Bangladesh (4,32%), Đức (5,03%), Italy(5%), Ấn Độ (3,9%) và Thổ Nhĩ Kỳ (3,7%).Bình quân giai đoạn 2006-10/2011, ngành Dệt may đóng góp trên 15% vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong những năm 2006-2008, Dệt may là ngành hàng có giá trị xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam, chỉ đứng sau dầu thô. Tuy nhiên, từ năm 2009 tính đến hết 10 tháng đầu năm 2011, Dệt may đã vươn lên vị trí hàng đầu mặc dù tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu có giảm nhẹ. Ngành hiện sử dụng trên 3 triệu lao động – trong đó hơn 1,3 triệu lao động công nghiệp, chiếm tỉ trọng trên 10% so với lao động công nghiệp cả nước và đạt kim ngạch xuất khẩu 11,2 tỉ USD/năm 2010, là ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất với mức đóng góp trên 16% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trên bản đồ xuất khẩu dệt may thế giới, dệt may Việt Nam cũng đã vươn lên rất nhanh: Năm 1995 Dệt may Việt Nam chỉ xuất khẩu được 850 triệu USD và chưa có tên trong bản đồ xuất khẩu dệt may thế giới, thì đến năm 2010 đã xuất khẩu trên 11 tỷ USD. Hiện nay Việt Nam là nước xuất khẩu dệt may lớn thứ 2 vào thị trường Hoa Kỳ, thứ 3 tại thị trường Nhật Bản, thứ 9 tại thị trường EU. Bảng 1 - Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may (2007- 2011) Chỉ tiêu 2007 2008 2009 2010 2011 Kim ngạch xuất khẩu Dệt may (tr USD) 7,750 9,120 9,066 11,175 13,8 00 % tổng k im ngạch XK của VN 16.02% 14.50% 16.02% 15.60% 16,5% Tăng trưởng so với cùng k ỳ năm trướctheo giá hiện thời 17.68 -0.59% 23.26% 29.40% Nguồn: GSO, HBBS Tính theo giá hiện thời, kim ngạch xuất khẩu ngành Dệt may Việt Nam tăng trưởngmạnh trong năm 2008 (gần 18%). Tuy nhiên, đến năm 2009, dưới ảnh hưởng củacuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, kim ngạch xuất khẩu Dệt may của Việt Namgiảm nhẹ (gần 0,6%) so với năm 2008 xuống còn 9.066 triệu USD. Theo UNCTAD, sự sụt giảm này có thể do các nhà sản xuất giảm giá hàng bán để khuyến khích người mua trong điều kiện nhu cầu tiêu thụ sụt giảm và do người mua chuyển sang sử dụng các sản phẩm rẻ tiền hơn để cắt giảm chi tiêu trong tình hình kinh tế khó khăn Năm 2010, ngành dệt may Việt Nam đã có bước tăng trưởng khả quan với những chỉ tiêu đầy kinh tế thuyết phục. Ngành dệt  may đạt kim ngạch XK đạt gần 11,2 tỷ USD, về trước kế hoạch đặt ra 4 năm, đưa ngành dệt may Việt Nam lên Top 5 thế giới về kim ngạch xuất khẩu, tăng 23,2% so với năm 2009. trong đó, xuất khẩu sang thị trường Mỹ đạt hơn 6 tỷ USD, tăng 22%, EU đạt hơn 1,8 tỷ USD, tăng 14%, Nhật Bản đạt 1,2 tỷ USD, tăng 20%. Tiêu thụ tại thị trường nội địa có mức tăng trưởng cao. Tỷ lệ nội địa hóa đạt 46%. Với những kết quả trên, hiện, ngành dệt may đang là điểm sáng của sản xuất công nghiệp năm 2010. Riêng Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) trong năm 2010 đã đạt sự tăng trưởng vượt bậc: doanh thu toàn Tập đoàn tăng 26%, kim ngạch xuất khẩu tăng 23%, lợi nhuận tăng 23%, tỷ lệ nội địa hóa đạt 49%. Các thành viên trong Tập đoàn đã chủ động phát triển thị trường nội địa. Doanh thu từ thị trường nội địa năm 2010 toàn Tập đoàn đã đạt trên 15,3 ngàn tỷ đồng, tăng 20% so với năm 2009. Hệ thống cửa hàng giới thiệu sản phẩm, siêu thị thời trang của tập đoàn và các đơn vị thành viên được mở rộng về hầu khắp các tỉnh, thành phố trong cả nước với hơn 3.100 đại lý, 56 siêu thị thời trang và hàng trăm cửa hàng giới thiệu sản phẩm.Năm 2010 cũng đánh dấu thành công của chiến lược phát triển thương hiệu.Một số thương hiệu như Manhattan, San Sciaro (Việt Tiến), Mattana, Novelty (May Nhà Bè), Pharaon, Cleopatre (May 10), Molis (Phong Phú)… đã khẳng định được vị thế, khả năng cạnh tranh với các nhãn hiệu hàng hóa nước ngoài.  Trong năm 2010, giá trị xuất khẩu Dệt may của Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ trở lại với tốc độ tăng trên 20% (năm 2010) do các đơn hàng gia công được chuyển dần từ Trung Quốc sang Việt Nam, đồng thời, Việt Nam đã mở rộng thị trường xuất khẩu sang các thị trường mới như Đài Loan, Hàn Quốc, các nước ASEAN. và gần 30% (10 tháng năm 2011) so với cùng kỳ năm trước Năm 2011- Vinatex tập trung vào chiến lược đầu tư chiều sâu Tập đoàn sẽ tập trung mạnh vào chiến lược đầu tư: xây dựng những nhà máy trọng yếu của tập đoàn nhất là trong lĩnh vực sản xuất vải và dệt nhuộm; đầu tư máy móc, công nghệ và  chuyển dịch các nhà máy về vùng sâu, xa để ổn định lao động cũng như tạo việc làm cho lao động địa phương; đầu tư phòng kiểm nghiệm sinh thái để kiểm tra đầu vào cũng như đầu ra của sản phẩm dệt may; triển khai những nhà máy có sự đầu tư cốt lõi vào sản phẩm có giá trị thặng dư cao. Đặc biệt năm 2011, Tập đoàn Dệt may Việt Nam định hướng phát triển sản xuất các sản phẩm veston cao cấp bằng việc cho ra đời 4 nhà máy sản xuất mới. Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đã biểu dương những nỗ lực của Tập đoàn Dệt may Việt Nam với những nỗ lực của mình, đã đóng vai trò hết sức quan trọng, là trụ cột để đưa toàn ngành dệt may Việt Nam phát triển. Để thích ứng với giai đoạn phát triển mới, Phó Thủ tướng yêu cầu, Tập đoàn phải chuyển dịch cơ cấu và mô hình tăng trưởng, từ đầu tư chiều rộng sang đầu tư chiều sâu, đầu tư theo hướng nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp, công nghệ hiện đại, để tăng năng suất lao động, thực hiện tốt công tác quy hoạch, rà soát quy hoạch, có cơ chế phù hợp để di dời các nhà máy trong nội đô, đây cũng là cơ hội để đầu tư chiều sâu. Phó Thủ tướng yêu cầu, Tập đoàn phải triển khai tốt các chiến lược phát triển đã được Chính phủ phê duyệt, đặc biệt là chiến lược về nguồn nhân lực, phát triển vùng cây nguyên liệu; đồng thời mạnh dạn đề xuất các cơ chế quản lý phù hợp với Chính phủ để cho ngành dệt may phát triển. Thay mặt lãnh đạo Tập đoàn, Chủ tịch Hội đồng Thành viên Tập đoàn Dệt may Việt Nam Vũ Đức Giang đã khẳng định quyết tâm đưa Tập đoàn Dệt may Việt Nam nói riêng và toàn ngành dệt may Việt Nam nói chung phát triển nhanh và bền vững theo hướng chuyển dịch từ gia công sang xuất khẩu FOB, đặc biệt chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và vùng nguyên liệu trồng bông, nâng cao hơn nữa tỷ lệ nội địa hóa.  Kết quả: Trong 10 tháng đầu năm 2011, kim ngạch xuất khẩu ngành Dệt may tiếp tục tăngtrưởng cao (gần 30% so với cùng kỳ năm 2010). Theo Bộ Công Thương, giá xuấtkhẩu Dệt may của Việt Nam, tăng liên tục trong những tháng đầu năm 2011 kể từtháng 3/2011. Riêng trong tháng 9/2011, giá các mặt hàng dệt may xuất khẩu tăng0,4% so với tháng 8/2011 và tăng 11,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong năm 2011, ngành Dệt may hướng tới mục tiêu kim ngạch xuất khẩu 13-13,5 tỷ USD và đã thu về thu về gần 11,7 tỷ USD trong 10 tháng đầu năm 2011. Như vậy, trong 2 tháng cuối năm, ngành Dệt may phải đạt kim ngạch khoảng 650-900 triệu USD/tháng, những con số có thể thực hiện được đối với ngành trong điều kiện hiện tại. Việt Nam xuất khẩu hàng Dệt may đi 54 thị trường trên toàn thế giới. Trong đó, các khách hàng lớn nhất của Việt Nam là Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Canada và Đài Loan. 9 tháng đầu năm 2011, kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt may đến các thị trường này chiếm gần 89,5% tổng kim ngạch. Hoa Kỳ49.97% EU18.11% Nhật Bản11.73% Hàn Quốc6.07% Canada1.94% Đài Loan1.62% 33 TT còn lại10.56% Nguồn: TTTTCN&TM, HBBS Hình 2- Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt may đi các thị trường 9T’2011 Những vấn đề cần giải quyết: -Doanh nghiệp dệt may của Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn là thực hiện các đơn hàng gia công xuất khẩu cho phía nước ngoài. Số doanh nghiệp có khả năng thiết kế và sản xuất các sản phẩm thời trang hiện vẫn chưa nhiềuMặc dù kim ngạch xuất khẩu lớn và liên tục tăng từ năm 2000 cho đến nay nhưng hiệu quả xuất khẩu của ngành dệt may vẫn còn thấp. Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may hiện chỉ tập trung ở các sản phẩm sản xuất theo phương thức gia công đơn giản (chiếm đến 60%) và phụ thuộc rất lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu (khoảng 70-80%) nên giá trị gia tăng hàng xuất khẩu thấp, , dẫn đến lợi nhuận thu về chưa tương xứng với khả năng cũng như giá trị xuất khẩu cao trong những năm qua. ; nhiều DN VN hầu như không có đối tác phân phối trực tiếp trên thị trường quốc tế. Lợi nhuận của các DN dệt may thường khá thấp (so với doanh thu) do phần lớn nguyên phụ liệu, mẫu mã thiết kế và hoạt động phân phối đều được quyết định bởi đối tác nước ngoài. Phần đóng góp của phía VN vào việc hoàn thiện một chiếc áo khoác chỉ vào khoảng 11%, đối với sơ mi là 25%, quần dài là 15% và trong các sản phẩm khác luôn dưới mức 25%. Sản phẩm may tiêu thụ nội địa phần lớn dựa vào mẫu mốt nước ngoài. Công tác nghiên cứu thiết kế mẫu thời trang còn thiếu.Các sản phẩm thời trang trên sàn diễn không được nhiều người thực tế sử dụng. Một số hàng thời trang cho trẻ em và phụ nữ còn ở mức cóp nhặt cải biển từ mẫu mã của Thái Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc mà chưa có nhà thiết kế chuyên nghiệp. Ngành dệt may đến nay chưa hình thành được các trung tâm thiết kế mẫu mốt, tình hình tiêu thụ sản phẩm dệt may chất lượng cao mang nhãn mác của doanh nghiệp Việt Nam còn quá ít do đó không tạo được uy tín cho khách hàng, chưa xây dựng được hình ành doanh nghiệp trên thị trường. Chính thực trạng này đang làm giảm lợi thế cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam khi mà xu hướng mua hàng trên thế giới đang thay đổi. Các nhà nhập khẩu lớn tại Mỹ, Nhật Bản và châu Âu muốn chọn những doanh nghiệp có khả năng sản xuất trọn gói, từ kéo sợi, dệt vải cho đến cắt, may sản phẩm cuối cùng. Đồng thời, họ cũng đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất và thời gian giao hàng nhanh chóng. - Ngành công nghiệp phụ trợ còn yếu Các ngành công nghiệp phụ trợ như ngành cơ khí chưa được đầu tư phát triển hợp lý nên ngành dệt may hiện nay vẫn phải nhập máy móc thiết bị với giá cao để phục vụ sản xuất. Bên cạnh đó, các ngành sản xuất nguyên phụ liệu chưa được đầu tư đúng hướng, phải nhập nhiều nguyên phụ liệu đã làm cho doanh nghiệp thụ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Một thực tế là ngành may mặc của Việt Nam vẫn bị phụ thuộc khá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài, với trị giá nguyên phụ liệu nhập khẩu thường chiếm gần 70 – 80% so với giá trị kim ngạch xuất khẩu. Tuy đã được chú trọng đầu tư về công nghệ, dây chuyền sản xuất hiện đại hơn nhưng nguyên liệu sản xuất trong nước hoặc không đủ cho nhu cầu sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu, hoặc không đáp ứng được tiêu chuẩn của khách hàng nước ngoài. Nhiều đơn đặt hàng, phía nước ngoài cũng chỉ định luôn nhà cung cấp nguyên vật liệu khiến cho các doanh nghiệp may Việt Nam không có điều kiện sử dụng những nguyên liệu sản xuất trong nước với giá thành rẻ hơn. Như vậy, giá trị thực tế mà ngành may thu được không hề cao so với con số kim ngạch xuất khẩu. Điều này một lần nữa lý giải tại sao tuy giá trị xuất khẩu của ngành may cao nhưng cả chủ và thợ trong ngành lại không mặn mà lắm với công việc. Nhiều doanh nghiệp may đã có sự chuyển hướng sang các ngành nghề, lĩnh vực khác như đầu tư và kinh doanh bất động sản, đầu tư tài chính v.v. nhằm tăng thêm thu nhập. Các doanh nghiệp may mặc trong nước lại chưa chú trọng đến thị trường nội địa, chưa thể cạnh tranh được với hàng Trung Quốc ngay trên “sân nhà”. Với số dân đông đảo hiện nay Khi chất lượng cuộc sống được nâng cao thì nhu cầu về may mặc lại càng lớn. Các sản phẩm về quần áo thời trang trở thành nhu cầu của hầu hết các tầng lớp dân cư trong xã hội, đặc biệt là giới trẻ. Với một đất nước có tổng số dân khoảng 87 triệu người thì nhu cầu về may mặc lại càng lớn. Với số lượng dân cư dồi dào sẽ góp phần thúc đẩy nguồnnhân lực phát triển. Dân số tăng lên nhu cầu về hàng Dệt May cũng tăng lên.Do đó ngành Dệt May phải phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu để đápứng đủ nhu cầu tiêu dùng và giải quyêt việc làm. Đầu tư phát triển cho ngành Dệt May cần có định hướng vào thị trường trong nước, sản xuất nhiều mặt hàng phong phú về mẫu mã và kiểu cách để kích thích tiêu dùng trong nước, hướng dẫn khuynh hướng thời trang cho người tiêu dùng. Ngành dệt may được tổ chức trên phạm vi toànvquốc, có đủ sức giải quyết mối quan hệ giữa sản xuất và lưu thông trong một tổ chức thống nhất và có sự điều hành chặt chẽ từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ, bán buôn và bán lẻ làm chủ thị trường trong nước. Cơ cấu dân cư được chia làm ba loại: cơ cấu dân cư theo độ tuổi, theo nhóm tuổi, theo vùng. Căn cứ vào đó ngành có định hướng phát triển về sản phẩm phù hợp cho từng đối tượng khác nhau. Hiện nay, các doanh nghiệp may mặc trong nước lại chưa chú trọng đến thị trường nội địa với số dân đông đảo hiện nay. Chính vì thế, hàng may mặc Việt Nam dù được đánh giá khá cao tại nước ngoài thì lại không được coi trọng ở trong nước. Quần áo của Trung Quốc với giá rẻ và mẫu mã đa dạng có thể được tìm thấy ở khắp các cửa hàng, siêu thị, chợ của Việt Nam trong khi hàng Việt Nam thì hầu như vắng bóng. Gần đây, hàng may mặc của Việt Nam với một số thương hiệu như May 10, Việt Tiến, Ninomax, Made in Vietnam v.v. đ. dần được người tiêu dùng Việt Nam chú .hơn. Tuy nhiên, ở phân khúc thị trường hàng may mặc giá rẻ thì hàng Việt Nam vẫn chưa thể cạnh tranh được với hàng Trung Quốc ngay trên “sân nhà”. Tuy  nhiên, người Việt Nam vẫn có tâm lý “ăn chắc mặc bền”, nên những sản phẩm chất lượng tốt của các doanh nghiệp trong nước vẫn được nhiều người Việt Nam tìm dùng. Đây là một thuận lợicho  các  doanh  nghiệp  trong nước  khi muốn  chiếm  lại  thị trường nội địa hiện đang bị hàng Trung Quốc  tấn công và thống trị. - Chưa có chiến lược đào tạo nguồn nhân lực công nghệ đúng đắn Lợi thế của chúng ta là nguồn nhân lực dồi dào nhưng lao động của ta chủ yếu là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo, thiếu lao động lành nghề… Vì vậy khi muốn đầu tư mua mới dây chuyền công nghệ doanh nghiệp phải đồng thời đầu tư cho công tác đào tạo nguồn nhân lực mà khoản phí đào tạo không phải là nhỏ. Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cũng gặp phải khó khăn đó và hiện nay ngành cũng chưa có chiến lược đào tạo tương xứng với tầm vóc và triển vọng phát triển của ngành. Xét về số lượng thì số trường đào tạo kỹ sư chuyên ngành dệt may còn thiếu, chưa đáp ứng đủ nhu cầu của ngành. Xét về chất lượng thì kiến thức cơ bản của chuyên ngành cung cấp cho sinh viên còn yếu, thiếu trầm trọng, chưa cập nhật trình độ khoa học công nghệ của sản xuất. Bên cạnh đó cơ sở vật chất của các trường đào tạo quá yếu, thiếu sự thực hành và giao lưu trao đổi với cán bộ kỹ thuật trong và ngoài nước Hiện nay, hàng Dệt may Việt Nam đang chủ yếu dựa vào lợi thế nhân công giá rẻ.Với mức thu nhập thấp của nhân công Dệt may Việt Nam hiện nay thì có thể nói làlợi thế này của ngành Dệt may Việt Nam thực chất là một gánh nặng lớn về mặt xãhội. Theo xu hướng phát triển chung, mức thu nhập của người Việt Nam được nânglên thì lợi thế so sánh này của Việt Nam có thể sẽ không còn, đặc biệt với xu hướngngày càng sử dụng nhiều công nghệ tiên tiến và lao động có tay nghề cao. Do đó đầu tư phát triển vào nguồn nhân lực trong ngành dệt may cần được chú trọng để nâng cao sản xuất của ngành. - Trình độ công nghệ và năng  lực sản xuất của các doanh nghiệp may Việt Nam hiện nay vẫn còn thấp hơn 30 – 50%so với mặt bằng chung của khu vực. Năng  lực  sản  xuất  kém,  công  nghệ  lạc  hậu  là một  trong những  hạn  chế lớn  của  ngành  may  mặc  Việt  Nam  hiện nay. Hoạt động của ngành may hiện nay phần  lớn  là  thực hiện gia công cho nước ngoài hoặc chỉ sản xuất những sản phẩm đơn giản, còn những sản phẩm đòi hỏi kỹ thuật cao mang lại giá trị gia tăng lớn lại chưa đáp ứng được a) Lượng vốn đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp còn thấp Tuy các doanh nghiệp đã có nhận thức mới về tầm quan trọng của đổi mới công nghệ nhưng theo khảo sát tại 64 doanh nghiệp dệt may thì tỷ lệ đầu tư cho đổi mới công nghệ trung bình trong 3 năm 2001-2003 chỉ đạt khoảng 3% trong tổng doanh thu. Tính trung bình cho một doanh nghiệp có tiến hành đổi mới công nghệ, số vốn mà doanh nghiệp bỏ ra là 5 tỷ đồng một năm.Trong đó, tỷ trọng vốn đầu tư cho phần cứng cao hơn phần mềm. Theo số liệu thống kê của tổng công ty dệt may Việt Nam, trong năm 2005, có 29 dự án đầu tư đổi mới công nghệ chuyển tiếp, trong đó chỉ có 3 dự án trên 100 tỷ đồng, còn lại số vốn khá nhỏ. b). Đầu tư đổi mới công nghệ vẫn thiếu đồng bộ Hiện nay, một trong những chủ trương của ngành dệt may là đầu tư thiết bị công nghệ đồng bộ nhưng trên thực tế chúng ta chưa làm được điều này. Trong 29 dự án đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp thành viên của Vinatex thì có 3 dự án rất nhỏ lẻ, chỉ đầu tư một dây chuyền sản xuất như dự án máy nhuộm cao áp của doanh nghiệp dệt Phong Phú (tổng số vốn 3,7 tỷ đồng), dự án máy Compact của doanh nghiệp dệt Thành Công (2,3 tỷ đồng), dự án thiết bị lẻ đánh máy ống của doanh nghiệp Nha Trang (8,45 tỷ đồng). Trong số 29 dự án đó chỉ có duy nhất một dự án đầu tư vào công nghệ phần mềm là xây dựng mạng thông tin quản lý của công ty May 10. c)Hiệu quả của vốn đầu tư đổi mới công nghệ còn thấp Xét về hiệu quả vốn đầu tư thì ngành may đạt hiệu quả cao hơn ngành dệt. Với mỗi đồng vốn đầu tư cho ngành dệt thì thu về 2,53 đồng doanh thu thì ở ngành may sẽ thu về 4,14 đồng doanh thu (2005). Nguyên nhân là do công nghệ của ngành dệt rất phức tạp nên đầu tư phải với lượng vốn lớn, mà sản phẩm dệt hiện nay chất lượng còn thấp, chưa cạnh tranh được với các nước khu vực đặc biệt là Trung Quốc. Trên đây là những hạn chế còn tồn tại trong ngành dệt may mà nếu không được giải quyết nhanh chóng sẽ trở thành thách thức đối với sự phát triển của ngành. Muốn tìm được giải pháp phù hợp và hiệu quả thì ngành phải tìm ra nguyên nhân của những hạn chế đó. d). Khó khăn về vốn đầu tư Không chỉ đối với ngành dệt may mà đối với hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam, vấn đề thiếu vốn là vấn đề nan giải. Trong điều kiện phải cạnh tranh gay gắt về giá cả và chất lượng của các nước xuất khẩu dệt may lớn thế giới, ngành dệt may Việt Nam đòi hỏi lượng vốn đầu tư khá lớn hàng năm. Tuy nhiên khả năng vốn tự có của mỗi doanh nghiệp để phục vụ cho đầu tư đổi mới công nghệ chỉ đạt khoảng 10-15%, khoảng 20% vốn do ngân sách nhà nước cấp (đối với doanh nghiệp nhà nước), còn lại các doanh nghiệp phải tự lo bằng cách vay với lãi suất cao nên năng lực của ngành rất hạn chế - Sự liên kết giữa ngành dệt và may chưa hiệu quả, cụ thể là Thiếu liên kết sợi - dệt, nhuộm - may Trong năm phân khúc chính của chuỗi giá trị dệt may toàn cầu gồm: sản xuất nguyên liệu thô; sản xuất nguyên phụ liệu; may; xuất khẩu và phân phối bán lẻ thì ngành dệt may Việt Nam chủ yếu vẫn hoạt động ở phân khúc may - là phân khúc tạo ra giá trị gia tăng thấp nhất. Nhìn lại quá trình phát triển của chuỗi giá trị ngành dệt may, có thể thấy sự phát triển thiếu đồng bộ giữa các phân khúc trong toàn bộ chuỗi cung ứng, đặc biệt là sự yếu kém trong liên kết sợi - dệt nhuộm - may là nguyên nhân chính làm cho ngành dệt may Việt Nam không thể dịch chuyển sang các phân khúc có giá trị gia tăng cao hơn. Thực ra, phân khúc sợi và may đã có bước phát triển khá nhanh chóng trong thời gian gần đây. Chỉ trong giai đoạn 2001-2010, ngành kéo sợi đã tăng trưởng trên 300%, từ 1,2 triệu cọc sợi với tổng sản lượng 120.000 tấn lên 3,75 triệu cọc đạt 420.000 tấn. Về giá trị xuất khẩu, năm 2004 xuất khẩu sợi chỉ đạt 13,2 triệu đô la Mỹ thì đến năm 2008 đạt 89,7 triệu đô la Mỹ và hiện nay đã tăng gần gấp bốn lần so với giá trị xuất khẩu năm 2008. Tương tự, ngành may xuất khẩu của Việt Nam đã phát triển nhanh chóng kể từ cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990. Đặc biệt từ sau khi Hiệp định Thương mại song phương với Hoa Kỳ có hiệu lực vào năm 2001, ngành dệt may Việt Nam đã mở rộng thị trường xuất khẩu đáng kể. Số liệu kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may từ năm 2000-2010 cho thấy, trong tất cả các khâu của chuỗi giá trị dệt may Việt Nam thì may là ngành có sự phát triển rõ rệt nhất. Trong năm 2010, Việt Nam đã sản xuất được 2,6-2,8 tỉ sản phẩm may mặc, trong đó khoảng 70% dành cho xuất khẩu, giá trị đạt trên 10 tỉ đô la Mỹ. Trong khi ngành sợi, may nước ta đã có những bước tiến tương đối dài thì ngành dệt vải, in nhuộm và hoàn tất vẫn chưa phát triển được như mong muốn. Năm 2010, ngành dệt sản xuất 1,1 tỉ mét vuông sản phẩm dệt thoi, 150.000-200.000 tấn sản phẩm dệt kim và in nhuộm hoàn tất khoảng 800 triệu mét vuông, chỉ đáp ứng được khoảng 20-30% nhu cầu trong nước. Kết quả là trong khoảng 9 tỉ đô la Mỹ kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2009, giá trị xuất khẩu vải chiếm chưa đến 430 triệu đô la, nghĩa là ngành dệt chỉ đóng góp chưa đến 5% giá trị xuất khẩu. Theo đánh giá của các chuyên gia, kết quả yếu kém này là do công đoạn dệt nhuộm của Việt Nam “đang chậm hơn các nước trong khu vực, nhất là công đoạn nhuộm, với 30% máy móc thiết bị cần khôi phục, hiện đại hóa do đã sử dụng trên 20 năm”. Sự yếu kém của khâu dệt nhuộm đã hạn chế sự phát triển của hoạt động sản xuất sợi và may mặc, do đó ảnh hưởng đến khả năng phát triển của ngành dệt may. Điều này thể hiện ở các khía cạnh sau: Thứ nhất, làm hạn chế khả năng tiêu thụ sợi sản xuất trong nước.Đa số lượng sợi sản xuất ra đều xuất khẩu. Theo báo cáo khảo sát năng lực sản xuất kinh doanh ngành sợi Việt Nam 2010, chỉ 34% sản lượng sợi (178.000 tấn) sản xuất tại Việt Nam được tiêu thụ ở trong nước, khoảng 66% sản lượng còn lại được xuất khẩu. Thứ hai, dệt nhuộm có vai trò quan trọng đối với ngành may vì vải là yếu tố quan trọng quyết định đến chi phí và chất lượng cuối cùng của một sản phẩm may mặc. Thống kê sơ bộ của Tổng cục Thống kê năm 2010 cho thấy, tổng nhu cầu của ngành may xuất khẩu đối với các loại nguyên phụ liệu do ngành dệt cung cấp là gần 9 tỉ đô la Mỹ, trong đó vải khoảng 5,4 tỉ đô la Mỹ. Mặc dù có vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguyên liệu tại chỗ cho ngành may nhưng trên thực tế, ngành dệt nhuộm Việt Nam chưa làm tốt vai trò đó. Hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam đều không hài lòng cả về số lượng lẫn chất lượng vải nội vì không đáp ứng được yêu cầu về sản xuất hàng may mặc của họ. Từ phân tích trên cho thấy, ngành dệt nhuộm có vị trí rất quan trọng đối với ngành sản xuất sợi, may nói riêng và tổng thể ngành dệt may nói chung. Nhưng hiện nay, ngành dệt nước ta chưa thể hiện được vai trò đó, làm cho mối liên kết sợi - dệt nhuộm - may vừa lỏng lẻo, vừa yếu kém.Mặc dù ngành dệt và may là hai ngành cần có sự liên kết hiệu quả vì đầu ra của ngành dệt là nguyên liệu của ngành may. Để đầu tư có hiệu quả thì các doanh nghiệp không thể không chú trọng đến sự liên kết này vì như vậy thì đầu tư mới đồng bộ, mới tận dụng được hết công suất của máy móc thiết bị. Nhưng trên thực tế thì sự gắn kết giữa hai ngành này còn lỏng lẻo, sự đầu tư cho ngành may chưa hẳn là đầu tư cho đầu ra của ngành dệt và ngược lại. + Bên cạnh đó, thương hiệu dệt may Việt Nam vẫn còn quá ít.Doanh nghiệp Việt Nam thiếu ý thức về đăng ký bản quyền bảo hộ thương hiệu, thường bị động trong việc bảo vệ thương hiệu khi xâm nhập thị trường nước ngoài. Chính vì vậy doanh nghiệp dệt may Việt Nam thường bị mất thương hiệu do sự thiếu cẩn trọng trong nghiên cứu thị trường và đối tác nước ngoài. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam xuất khẩu chưa có thương hiệu riêng về hàng hoá của mình theo thống kê có 70% giá trị xuất khẩu là sản phẩm gia công và mang nhãn hiệu hàng hoá của bên đặt hàng, 30% mang nhãn hiệu hàng hoá của nhà sản xuất trong nước hoặc mua quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá của nước ngoài. Chính vì vậy, một số nhãn hiệu nổi tiếng của Việt Nam như: may Nhà Bè, may Thành Công, dệt kim Hà Nội không được Mỹ, Nhật, EU biết đến. Mặt khác doanh nghiệp Việt Nam sau khi bị đánh cắp thương hiệu thường lúng túng trong việc giành lại quyền sở hữu thương hiệu của mình, như vừa qua công ty Việt Tiến bị chiếm dụng thương hiệu ở Mỹ. Nhiều doanh nghiệp thành viên của Vinatex đã sản xuất ra được những sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế nhưng sự chậm trễ trong việc xây dựng và đăng ký thương hiệu của sản phẩm và của doanh nghiệp đã cản trở sự thâm nhập của sản phẩm vào thị trường, gây ra những bất lợi cho công tác mở rộng thị trường xuất khẩu của Vinatex cũng như của các doanh nghiệp thành viên. Sự chậm trễ này là do các doanh nghiệp đã quá quen với việc gia công xuất khẩu, còn yếu trong các khâu cung ứng nguyên phụ liệu, thiết kế mẫu cho các sản phẩm…nên chưa tự sản xuất ra được các sản phẩm mà được gắn nhãn mác của doanh nghiệp, tỷ trọng sản phẩm được xuất theo hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm còn ít nên các doanh nghiệp cũng ít quan tâm đến vấn đề xây dựng thương hiệu cho mình. III. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ THEO CHIỀU SÂU TRONG TOÀN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Năng suất tổng hợp (TFP) là yếu tố phản ảnh sự tăng trưởng theo chiều sâu. Đặc trưng của đầu tư theo chiều sâu chính là đầu tư làm tăng yếu tố năng suất tổng hợp TFP. Trong đó các yếu tố quyết định tới sự tăng trưởng của yếu tố TFP là sự thay đổi của chất lượng nguồn nhân lực và tiến bộ KHCN. Để xem xét thực trạng đầu tư theo chiều sâu ở Việt Nam ta sẽ xem xét thực trạng đầu tư nguồn nhân lực và đầu tư cho KHCN. 1- Đầu tư nguồn nhân lực. Khi nói đến nguồn nhân lực, ai cũng biết rằng đó là một trong những thế mạnh của nước ta và luôn được các nước trên thế giới quân tâm đến. Bởi ở Việt Nam luôn sẵn có một lực lượng nhân công hùng hậu nhưng vô cùng rẻ mạt,và hiện nay còn xếp sau cả Trung Quốc biểu hiện rõ nhất trong năm 2010 khi mà hàng loạt các đơn đặt hàng gia công ngành dệt may đã được nước này đẩy sang Việt Nam, chính điều này đã giúp Việt Nam cạnh tranh được với các môi trường đầu tư khác và kích thích các nhà đầu tư trên toàn thế giới đầu tư vào nước ta. Nghe qua có vẻ lấy làm vui mừng khi Việt Nam trở thành 1 trong số những sự lựa chọn hàng đầu của các nhà đầu tư trên toàn thế giới khi họ muốn lựa chọn cho mình một điểm đến. Nhưng nếu nghĩ sâu xa thì chúng ta cần phải đặt ra một câu hỏi rằng tại sao nhân công nuớc ta lại rẻ như thế, tại sao không nâng tầm nhân lực nước ta lên tầm cao hơn để sánh ngang với nhân công của các nước trong khu vực và trên thế giới. Chính vì vậy, để trả lời các câu hỏi này, phải tìm hiểu xem nguồn nhân lực ở Việt Nam xuất phát từ đâu và đang trong tình trạng nào? - Nguồn nhân lực từ nông dân:  Tính đến nay, số dân của cả nước vào khoảng 87 triệu người, Nông dân Việt Nam chiếm khoảng hơn 61 triệu 433 nghìn người, bằng khoảng 73% dân số của cả nước. Cả nước có khoảng 113.700 trang trại, 7.240 hợp tác xã nông, lâm nghiệp, thủy sản; có 217 làng nghề, 40% sản phẩm từ các ngành, nghề của nông dân được xuất khẩu đến hơn 100 nước. Như vậy, so với trước đây, nông thôn nước ta đã có những chuyển biến tích cực Tuy nhiên, nguồn nhân lực trong nông dân ở nước ta vẫn chưa được khai thác, chưa được tổ chức đầy đủ.Người nông dân chẳng có ai dạy nghề trồng lúa.Họ đều tự làm. Đến lượt con cháu họ cũng tự làm. Có người nói rằng, nghề trồng lúa là nghề dễ nhất, không cần phải hướng dẫn cũng có thể làm được.Ở các nước phát triển, họ không nghĩ như vậy.Mọi người dân trong làng đều được hướng dẫn tỷ mỷ về nghề trồng lúa trước khi lội xuống ruộng. Hiện có từ 80 đến 90% lao động nông, lâm, ngư nghiệp và những cán bộ quản lý nông thôn chưa được đào tạo. Điều này phản ánh chất lượng nguồn nhân lực trong nông dân còn rất yếu kém. Sự yếu kém này đẫ dẫn đến tình trạng sản xuất nông nghiệp nước ta vẫn còn đang trong tình trạng sản xuất nhỏ, manh mún, sản xuất theo kiểu truyền thống, hiệu quả sản xuất thấp. Việc liên kết "bốn nhà" (nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp) hiện đang còn là hình thức. Tình trạng đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, làm cho một bộ phận lao động ở nông thôn dôi ra, không có việc làm. Từ năm 2000 đến năm 2007, mỗi năm nhà nước thu hồi khoảng 72 nghìn ha đất nông nghiệp để phát triển công nghiệp, xây dựng đô thị. Chính vì nguồn nhân lực trong nông thôn chưa được khai thác, đào tạo, cho nên một bộ phận nhân dân ở nông thôn không có việc làm ở các khu công nghiệp, công trường. Tình trạng hiện nay là các doanh nghiệp đang thiếu nghiêm trọng thợ có tay nghề cao, trong khi đó, lực lượng lao động ở nông thôn lại dư thừa rất nhiều; chất lượng lao động rất thấp. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do khâu tổ chức lao động và quy hoạch lao động trong nông thôn chưa tốt. Chính sách đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn chưa đồng bộ, chưa mang tính khuyến khích và tính cạnh tranh. - Nguồn nhân lực từ công nhân:  Về số lượng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay có khoảng 5 triệu người, chiếm 6% dân số của cả nước, trong đó, công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ lệ thấp, khoảng gần 2 triệu người, bằng khoảng 40% so với lực lượng công nhân nói chung của cả nước; lực lượng công nhân của khu vực ngoài nhà nước có khoảng 2,70 triệu, chiếm gần 60%. Xu hướng chung là lực lượng công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước ngày càng ít đi, trong khi đó, lực lượng công nhân của khu vực ngoài nhà nước ngày càng tăng lên. Công nhân có tay nghề cao chiếm tỷ lệ rất thấp so với đội ngũ công nhân nói chung. Trình độ văn hóa, tay nghề, kỹ thuật của công nhân còn thấp. Số công nhân có trình độ cao đẳng, đại học ở Việt Nam có khoảng 150 nghìn người, chiếm khoảng 3,3% so với đội ngũ công nhân nói chung ở Việt Nam. Số công nhân xuất khẩu lao động tiếp tục tăng, tuy gần đây có chững lại. Từ năm 2001 đến năm 2006, Việt Nam đã đưa được gần 375 nghìn người lao động đi làm việc tại trên 40 nước và vùng lãnh thổ, tăng gấp 4 lần so với thời kỳ 1996-2000 (95 nghìn người). Hiện nay, lao động Việt Nam làm việc tại nước ngoài có khoảng 500 nghìn người, làm việc tại trên 40 nước và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề. Vì đồng lương rẻ mạt, công nhân không thể sống trọn đời với nghề, mà phải kiêm thêm nghề phụ khác như đi làm xe ôm trong buổi tối và ngày nghỉ, làm nghề thủ công, buôn bán thêm, cho nên đã dẫn đến tình trạng nhiều người vừa là công nhân, vừa không phải là công nhân. Trong các ngành nghề của công nhân, tỷ lệ công nhân cơ khí và công nghiệp nặng còn rất thấp, khoảng 20% trong tổng số công nhân của cả nước, trong khi đó, công nhân trong các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến thực phẩm lại chiếm tỷ lệ cao, khoảng 40%. Sự già đi và ít đi của đội ngũ công nhân Việt Nam đã thấy xuất hiện. Với tình hình này, công nhân khó có thể đóng vai trò chủ yếu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Về mặt chính trị, thực chất, công nhân Việt Nam chưa có địa vị bằng trí thức, công chức, viên chức, rất khó vươn lên vị trí chủ đạo trong đời sống xã hội và trong sản xuất, kinh doanh. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do sự quan tâm chưa đầy đủ và chưa có chính sách có hiệu quả trong việc xây dựng giai cấp công nhân. Cả nước, tính đến năm 2007, có 262 trường dạy nghề, 599 trung tâm dạy nghề.Trường trung cấp công nghiệp đến năm 2008 là 275. Theo số liệu mới thống kê được, tính đến cuối năm 2010, cả nước có 123 trường cao đẳng dạy nghề, 303 trường trung cấp nghề; 810 trung tâm dạy nghề; hơn 1.000 cơ sở khác có tham gia dạy nghề. Dạy nghề trình độ trung cấp từ 75,6 nghìn tăng lên 360 nghìn người; có khoảng 600 nghề có nhu cầu đào tạo. Đến cuối năm 2010, cả nước có 123 trường cao đẳng dạy nghề; 303 trường trung cấp nghề; 810 trung tâm dạy nghề, hơn 1.000 cơ sở khác có tham gia dạy nghề. Dạy nghề trình độ trung cấp từ 75,6 nghìn tăng lên 360 nghìn người. Trong các ngành nghề của công nhân, tỷ lệ công nhân cơ khí và công nhân làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp nặng còn rất thấp, khoảng 20% trong tổng số công nhân của cả nước, trong khi đó, công nhân trong các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến thực phẩm lại chiếm tỷ lệ cao, khoảng 40%. Vì đồng lương còn thấp, công nhân không thể sống trọn đời với nghề, mà phải kiêm thêm nghề phụ khác như đi làm xe ôm trong buổi tối và ngày nghỉ, làm nghề thủ công, buôn bán thêm, cho nên đã dẫn đến tình trạng nhiều người vừa là công nhân, vừa không phải là công nhân. Nhìn chung, qua hơn 25 năm đổi mới, cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giai cấp công nhân nước ta đã có những chuyển biến tích cực, tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên từng bước. Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam, việc làm và đời sống của giai cấp công nhân ngày càng được cải thiện. Bên cạnh đó, sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, chất lượng, kỹ năng nghề nghiệp; thiếu nhiều các chuyên gia kỹ thuật, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; phần lớn công nhân xuất thân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống. "Địa vị chính trị của giai cấp công nhân chưa thể hiện đầy đủ". Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do quá trình phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình đổi mới đã mở ra một giai đoạn lịch sử mới trong sự phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam. Bên cạnh đó, những hạn chế, yếu kém trong phát triển kinh tế - xã hội ảnh hưởng không nhỏ đến việc làm, đời sống, tâm tư, tình cảm của công nhân; những chính sách về giai cấp công nhân tuy đã ban hành, nhưng chưa sát hợp với tình hình thực tế của giai cấp công nhân. Trong các doanh nghiệp và người sử dụng lao động, không ít trường hợp còn vi phạm chính sách đối với công nhân và người lao động -Nguồn nhân lực từ trí thức, công chức, viên chức: Nếu tính sinh viên đại học và cao đẳng trở lên được xem là trí thức, thì đội ngũ trí thức Việt Nam trong những năm gần đây tăng nhanh. Riêng sinh viên đại học và cao đẳng phát triển nhanh: năm 2000, cả nước có 899,5 nghìn người; năm 2002: 1.020,7 nghìn người; năm 2003: 1.131 nghìn người; năm 2004: 1.319,8 nghìn người. Năm 2005: 1,387,1 nghìn người; năm 2006 (mới tính sơ bộ): 1,666, 2 nghìn người,… Cả nước có khoảng 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học; 1.131 giáo sư; 5.253 phó giáo sư; 16 nghìn người có trình độ thạc sĩ; 30 nghìn cán bộ hoạt động khoa học và công nghệ; 52.129 giảng viên đại học, cao đẳng, trong đó có 49% của số 47.700 có trình độ thạc sĩ trở lên, gần 14 nghìn giáo viên trung cấp chuyên nghiệp, 11.200 giáo viên dạy nghề và 925 nghìn giáo viên hệ phổ thông; gần 9.000 tiến sĩ được điều tra, thì có khoảng 70% giữ chức vụ quản lý và 30% thực sự làm chuyên môn. Đội ngũ trí thức Việt Nam ở nước ngoài, hiện có khoảng 300 nghìn người trong tổng số gần 3 triệu Việt kiều, trong đó có khoảng 200 giáo sư, tiến sĩ đang giảng dạy tại một số trường đại học trên thế giới. Số trường đại học tăng nhanh. Tính đến đầu năm 2007, Việt Nam có 143 trường đại học, đại học, học viện2; 178 trường cao đẳng; 285 trường trung cấp chuyên nghiệp và 1.691 cơ sở đào tạo nghề. Cả nước hiện có 74 trường và khối trung học phổ thông chuyên với tổng số 47,5 nghìn học sinh tại 63/64 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và 7 trường đại học chuyên. Tỷ lệ học sinh trung học phổ thông chuyên so với tổng dân số của cả nước đạt 0,05%, còn chiếm rất thấp so với thế giới. Các cơ sở giáo dục ngoài công lập ngày càng phát triển. Vào năm học 2007-2008, cả nước có gần 6 nghìn cơ sở giáo dục mầm non, 95 trường tiểu học, 33 trường trung học cơ sở, 651 trường trung học phổ thông, 308 cơ sở dạy nghề, 72 trường trung cấp chuyên nghiệp và 64 trường cao đẳng, đại học là các cơ sở giáo dục ngoài công lập. Số học sinh, sinh viên học tại các cơ sở giáo dục ngoài công lập ngày càng tăng. Năm học 2007-2008, tỷ lệ học sinh, sinh viên ngoài công lập là 15,6% (năm 2000 là 11,8%), trong đó, tỷ lệ học sinh phổ thông là 9%, học sinh trung cấp chuyên nghiệp là 18,2%, học nghề là 31,2%, sinh viên cao đẳng, đại học là 11,8%. Cả nước có 1.568/3.645 học sinh đọat giải trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia trung học phổ thông năm học 2007-2008. Đầu năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đã trình lên Thủ tướng Chính phủ Việt Nam dự án đào tạo 20 nghìn tiến sĩ trong giai đoạn 2007-2020 ở cả trong nước và ngoài nước. Nhà nước đã dành một khoản ngân sách chi cho giáo dục và đào tạo là 76.200 tỷ đồng, chiếm 20% tổng chi ngân sách nhà nước, tăng 14,1% so với thực hiện năm 2007. Bên cạnh nguồn nhân lực là trí thức trên đây, nguồn nhân lực là công chức, viên chức (cũng xuất thân từ trí thức) công tác tại các ngành của đất nước cũng tăng nhanh: Tổng số công chức, viên chức trong toàn ngành xuất bản là gần 5 nghìn người làm việc tại 54 nhà xuất bản trong cả nước (trung ương 42, địa phương 12). Tổng số nhà báo của cả nước là 14 nghìn phóng viên chuyên nghiệp và hàng nghìn cán bộ, kỹ sư, nghệ sĩ, nhân viên làm việc trong các cơ quan báo chí và hàng chục nghìn người khác là cộng tác viên, nhân viên, lao động tham gia các công đoạn in ấn, tiếp thị quảng cáo, phát hành, làm việc tại 687 cơ quan báo chí, hơn 800 báo, tạp chí, báo điện tử, đài phát thanh, truyền hình. Đội ngũ công chức, viên chức của ngành thuế Việt Nam hiện có gần 39 nghìn người; ngành hải quan của Việt Nam là 7.800 người, ngành kho bạc là 13.536 người. Tính đến tháng 6-2005, đội ngũ cán bộ nghiên cứu, hoạch định chính sách pháp luật của các cơ quan trung ương là 824 người, trong đó có 43 tiến sĩ luật (chiếm 5,22%), 35 tiến sĩ khác (chiếm 4,25%), 89 thạc sĩ luật (chiếm 10,08%), 43 thạc sĩ khác (chiếm 5,22%), 459 đại học luật (chiếm 55,70%), 223 đại học khác (chiếm 27,06%), 64 người có 2 bằng vừa chuyên môn luật, vừa chuyên môn khác (chiếm 7,77%),… Cả nước có 4.000 luật sư (tính ra cứ 1 luật sư trên 24 nghìn người dân). Trí thức, công chức, viên chức trong các ngành nghề khác của các cơ quan trung ương và địa phương cũng tăng nhanh. Tổng nhân lực các hội, liên hiệp hội, viện, trung tâm (NGO) hiện có 52,893 người. Bên cạnh sự tăng nhanh từ nguồn nhân lực trí thức, công chức, viên chức đã dẫn ra trên đây, thấy rằng, ở Việt Nam hiện nay, chất lượng nguồn nhân lực từ trí thức, công chức, viên chức còn yếu kém và bất cập. Đa số công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan công quyền chưa hội đủ những tiêu chuẩn của một công chức, viên chức như trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học, ảnh hưởng nhiều đến chất lượng công việc. Có 63% tổng số sinh viên tốt nghiệp ra trường chưa có việc làm; không ít đơn vị nhận người vào làm, phải mất 1-2 năm đào tạo lại. Trong số 37% sinh viên có việc làm, thì cũng không đáp ứng được công việc. Bằng cấp đào tạo ở Việt Nam chưa được thị trường lao động quốc tế thừa nhận. Năm 2007, số sinh viên tốt nghiệp đại học là 161.411 người. Theo ước tính, mỗi tấm bằng đại học, người dân bỏ ra 40 triệu đồng, còn nhà nước đầu tư khoảng 30 triệu đồng. Như vậy, với tỷ lệ 63% số sinh viên ra trường chưa có việc làm, cho thấy kinh phí đầu tư của sinh viên thất nghiệp (161.411 sinh viên x 63% x 70 triệu), ít nhất thất thoát 7.117 tỷ đồng (trong đó, 4.067 tỷ đồng của dân và 3.050 tỷ đồng của nhà nước). Việt Nam có khoảng 2,6 triệu người có trình độ đại học trở lên. Con số này có thể nói tương đương với 2,6 triệu trí thức nước nhà. Nói tóm lại, nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí thức (trong đó có công chức, viên chức) ở Việt Nam, nhìn chung, còn nhiều bất cập. Sự bất cập này đã ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm đổi mới, kinh tế đất nước tuy có tăng từ 7,5 đến 8%, nhưng so với kinh tế thế giới thì còn kém xa. Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới (WB) và tập đoàn tài chính quốc tế (IFC), công bố ngày 26-9-2007, kinh tế Việt Nam xếp thứ 91/178 nước được khảo sát. Có thể rút ra mấy điểm về thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam: - Nguồn nhân lực ở Việt Nam khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan tâm đúng mức, chưa được quy hoạch, chưa được khai thác, chưa được nâng cấp, còn đào tạo thì chưa đến nơi đến chốn, nhiều người chưa được đào tạo. - Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa lượng và chất. - Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí thức,… chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng nhau thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Có thể đánh giá tổng quát về nhân lực Việt Nam hiện nay là số lượng đông, chất lượng không đông, thể hiện là tay nghề thấp, chưa có tác phong công nghiệp, chưa có những tổng công trình sư, kỹ sư, nhà khoa học thật sự giỏi; chưa có những chuyên gia giỏi; chưa có những nhà tư vấn, nhà tham mưu giỏi; chưa có những nhà thuyết trình giỏi; chưa có những nhà lãnh đạo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxThảo luận đề tài- Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.docx
Tài liệu liên quan