Tài liệu Đề tài Mối quan hệ biện chứng của quan hệ sản xuất - Lực lượng sản xuất và sự vận dụng trong công cuộc Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay: Lời mở đầu
Sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người. Sản xuất xã hội bao gồm: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Ba quá trình đó gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội. Trong quá trình tồn tại và phát triển, con người không thỏa mãn với những cái đã có sẵn trong giới tự nhiên, mà luôn luôn tiến hành sản xuất vật chất nhằm tạo ra các tư liệu sinh hoạt thỏa mãn nhu cầu ngày càng phong phú, đa dạng của con người. Việc sản xuất ra các tư liệu sinh hoạt là yêu cầu khách quan của đời sống xã hội. Bằng việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình. Cùng với quá trình sản xuất ra của cải vật chất con người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ các mặt của đời sống xã hội. Tất cả các quan hệ xã hội về nhà nước, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật … đều hình thành, biến đổi trên ...
19 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1131 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Mối quan hệ biện chứng của quan hệ sản xuất - Lực lượng sản xuất và sự vận dụng trong công cuộc Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người. Sản xuất xã hội bao gồm: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Ba quá trình đó gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội. Trong quá trình tồn tại và phát triển, con người không thỏa mãn với những cái đã có sẵn trong giới tự nhiên, mà luôn luôn tiến hành sản xuất vật chất nhằm tạo ra các tư liệu sinh hoạt thỏa mãn nhu cầu ngày càng phong phú, đa dạng của con người. Việc sản xuất ra các tư liệu sinh hoạt là yêu cầu khách quan của đời sống xã hội. Bằng việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình. Cùng với quá trình sản xuất ra của cải vật chất con người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ các mặt của đời sống xã hội. Tất cả các quan hệ xã hội về nhà nước, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật … đều hình thành, biến đổi trên cơ sở sản xuất vật chất. Sản xuất vật chất được tiến hành bằng phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất đóng vai trò quyết định đối với tất cả các mặt của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao. Trong sản xuất, con người có quan hệ với giới tự nhiên, tức là lực lượng sản xuất; mặt khác là quan hệ giữa người với người tức là quan hệ sản xuất. Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tương ứng.
Sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là rất quan trọng để thúc đấy xã hội phát triển. Đặc biệt với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay, quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ giúp chúng ta khai thác được mọi tiềm năng, nguồn lực của đất nước để xây dựng cơ sở vật chất cho Chủ nghĩa xã hội.
Biện chứng quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất tạo điều kiện cho sinh viên nói chung và em nói riêng cóđược một nhận thức về sản xuất xãhội, đồng thời nó có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta hiện nay. Chính vì vậy em đã chọn đề tài “Mối quan hệ biện chứng của quan hệ sản xuất - lực lượng sản xuất và sự vận dụng trong công cuộc Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay” cho bài tiểu luận của mình.Tuy nhiên,do trình độ nhận thức còn hạn chế nên không tránh khỏi những sai sót. Em mong nhận được sựgóp ý của thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn !
Chương I
Lý luận chung về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
và mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất – quan hệ sản xuất
I. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
1. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu sẳn xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất.
Các yếu tố của lực lượng sản xuất: lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động.
* Con người – Người lao động:
“Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”. Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của con người ngày càng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người không ngừng phát triển, hàm lượng trí tuệ của người lao động ngày càng cao. Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò chính yếu.
* Tư liệu sản xuất gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động
- Đối tượng lao động
Đối tượng lao động là bộ phận của giới tự nhiên mà lao động của con người tác động vào làm thay đổi hình thái của nó cho phù hợp với mục đích của con người.
Đối tượng lao động có thể chia làm hai loại
+ Loại có sẵn trong tự nhiên: như gỗ, quặng, tôm cá…con người chỉ cần tách chúng khỏi mối liên hệ trực tiếp với tự nhiên là dùng được.
+ Loại đã trải qua lao động, được cải biến ít nhiều như bông để kéo sợi, vải để may mặc, than ở nhà máy nhiệt điện…
- Tư liệu lao động
Tư liệu lao động là một vật hay hệ thống những vật làm nhiệm vụ truyền dẫn sự tác động của con người lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động theo mục đích của mình.
Tư liệu lao động được chia làm 2 loại:
+ Công cụ lao động:
Công cụ lao động là vật hay hệ thống vật dùng để chuyền dẫn sự tác động của con người vào đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với nhu cầu của con người.
Công cụ lao động giữ vị trí hệ thống “xương cốt và bắp thịt” của sản xuất. Trình độ phát triển của chúng là những dấu hiệu đặc trưng tiêu biểu cho một thời đại sản xuất xã hội nhất định. C.Mác viết: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải là ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào’.
+ Tư liệu lao động dùng để bảo quản những đối tượng lao động, gọi chung là “hệ thống bình chứa của sản xuất” như ống, thùng… và kết cấu hạ tầng của sản xuất như đường xá, bến cảng, sân bay, phương tiện giao thông vận tải, …là điều kiện cần thiết đối với quá trình sản xuất. Phát triển kết cấu hạ tầng sản xuất phải đi trước một bước so với đầu tư sản xuất trực tiếp.
Trong các yếu tố hợp thành lực lượng sản xuất, người lao động là chủ thể, bao giờ cũng là lực lượng sản xuất cơ bản, quyết định nhất của xã hội.
Lịch sử loài người được đánh dấu bởi các mốc quan trọng trong sự phát triển của lực lượng sản xuất trước hết là công cụ lao động. Sau bước ngoặt sinh học, sự xuất hiện công cụ lao động đánh dấu một bước ngoặt khác trong sự chuyển từ vượn thành người. Từ kiếm sống bằng săn bắt hái lượm sang hoạt động lao động thích nghi với tự nhiên và dần dần cải tạo tự nhiên. Từ sản xuất nông nghiệp công nghệ lạc hậu chuyển lên cơ khí hoá sản xuất. Sự phát triển lực lượng sản xuất trong giai đoạn này không chỉ giới hạn ở việc tăng một cách đáng kể số lượng thuần tuý với các công cụđã có mà chủ yếu làở việc tạo ra những công cụ hoàn toàn mới sử dụng cơ bắp con người. Do đó con người đã chuyển một phần công việc năng nhọc cho máy móc cóđiều kiện để phát huy các năng lực khác của mình.
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống. Những phát minh khoa học trở thành điểm xuất phát ra đời những ngành sản xuất mới, những máy móc mới, công nghệ mới, …Sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa học vào sản xuất đã làm cho lực lượng sản xuất có bước phát triển nhảy vọt, tạo thành một cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Yếu tố trí lực trong sưc lao động đặc trưng cho lao động hiện đại không còn là kinh nghiệm và thói quen của họ mà là tri thức khoa học. Có thể nói: “khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại”.
Ở nước ta từ trước tới nay nền kinh tế lấy nông nghiệp làm chủ yếu, nên trình độ khoa học kỹ thuật kém phát triển. Hiện thời chúng ta đang ở trong tình trạng kế thừa những lực lượng sản xuất vừa nhỏ nhoi, vừa lạc hậu so với trình độ chung của thế giới, hơn nữa trong một thời gian khá dài, những lực lượng ấy bị kìm hãm, phát huy tác dụng kém. Bởi vậy Đại hội lần thứ VI của Đảng đặt ra nhiệm vụ là phải "Giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có. Khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước, sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tếđể phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Mặt khác chúng ta đang ở trong giai đoạn mới trong sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật đang chứng kiến những biến đổi cách mạng trong công nghệ. Chính điều này đòi hỏi chúng ta lựa chọn một mặt tận dụng cái hiện có mặt khác nhanh chóng tiếp thu cái mới do thời đại tạo ra nhằm dùng chúng để nhân nhanh các nguồn lực từ bên trong. Nếu phân tích một cách khách quan thì rõ ràng lực lượng sản xuất của ta đang ứng với cả ba giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất trong nền văn minh loài người. Thực tế hiện nay trong nhiều ngành sản xuất công cụ thủ công vẫn đang là chủ yếu, lao động nặng đang chiếm tỉ lệ cao, đến nay vẫn chưa hoàn thành cơ khí hoá và thực tế chưa biết khi nào mới xong. Cần khẳng định một vấn đề có tính quy luật là trong lịch sử bao giờ cũng có sựđan xen của trình độ phát triển khác nhau trong từng yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất.
Tuy nhiên trên thực tế song song với tình trạng lạc hậu trong phạm vi hẹp nhất định, chúng ta đang dần dần đi lên với tựđộng hoá, sử dụng thành thạo máy móc vi tính... Đối tượng lao động thấp kém đang được bổ sung. Chính vì lẽđó mà sẽ không có câu trả lời đơn thuần về việc chỉ nên phát triển loại tư liệu sản xuất nào, công cụ gì vàđối tượng lao động nào là chính.
2. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm xã hội.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, các mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động, phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất gồm ba mặt:
- Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất tức là quan hệ giữa người đối với tư liệu sản xuất, nói cách khác tư liệu sản xuất thuộc về ai.
- Chế độ tổ chức và quản lý sản xuất, kinh doanh, tức là quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao đổi của cải vật chất như phân công chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động, quan hệ giữa người quản lý với công nhân.
- Chế độ phân phối sản xuất, sản phẩm tức là quan hệ chặt chẽ với nhau và cùng một mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu quả tư liệu sản xuất để làm cho chúng không ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, nâng cao phúc lợi người lao động.
Các mặt nói trên của quan hệ sản xuất có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sở hữu giữ vai trò quyết định. Tuy nhiên, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối lưu thông cũng có tác động trở lại quan hệ sở hữu.
Thực tế lịch sử cho thấy rõ bất cứ một cuộc cách mạng xã hội nào đều mang một mục đích kinh tế là nhằm bảo đảm cho lực lượng sản xuất cóđiều kiện tiếp tục phát triển thuận lợi và đời sống vật chất của con người cũng được cải thiện. Đó là tính lịch sử tự nhiên của các quá trình chuyển biến giữa các hình thái kinh tế - xã hội trong quá khứ và cũng là tính lịch sử tự nhiên của thời kỳ quáđộ từ hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa sang hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Và xét riêng trong phạm vi một quan hệ sản xuất nhất định thì tính chất của sở hữu cũng quyết định tính chất của quản lý và phân phối. Mặt khác trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội nhất định quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chi phối các quan hệ sản xuất khác ít nhiều cải biến chúng để chẳng những chúng khong đối lập mà còn phục vụ đắc lực cho sự tồn tại và phát triển của chế độ kinh tế - xã hội mới.
Nếu trong quá khứ, đã không có một cuộc chuyển biến nào từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác hoàn toàn là một quá trình tiến hoáêm ả, thì thời kỳ quáđộ từ hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa hoặc trước tư bản chủ nghĩa sang hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa (CSCN) trong thời đại ngày nay càng không thể là một quá trình êm ả. Chủ nghĩa Mác - Lênin chưa bao giờ coi hình thái kinh tế - xã hội nào đã tồn tại kể từ trước đến nay là chuẩn nhất. Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội cùng với một quan hệ sản xuất thống trị, điển hình còn tồn tại những quan hệ sản xuất phụ thuộc, lỗi thời như là tàn dư của xã hội cũ. Ngay ở cả các nước tư bản chủ nghĩa phát triển nhất cũng không chỉ có một quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thuần nhất. Tất cả các tình hình trên đều bắt nguồn từ phát triển không đều về lực lượng sản xuất không những giữa các nước khác nhau mà còn giữa các vùng và các ngành khác nhau của một nước. Việc chuyển từ quan hệ sản xuất lỗi thời lên cao hơn như C. Mác nhận xét: "Không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệđó chưa chín muồi..." phải có một thời kỳ lịch sử tương đối lâu dài mới có thể tạo ra điều kiện vật chất trên.
Trong cải tạo và củng cố quan hệ sản xuất vấn đề quan trọng màđại hội VI nhấn mạnh là phải tiến hành cả ba mặt đồng bộ: chếđộ sở hữu, chếđộ quản lý và chếđộ phân phối không nên coi trọng một mặt nào cả về mặt lý luận, không nghi ngờ gì rằng: chếđộ sở hữu là nền tảng quan hệ sản xuất . Nó làđặc trưng để phân biệt chẳng những các quan hệ sản xuất khác nhau mà còn các thời đại kinh tế khác nhau trong lịch sử như mức đã nói.
II- Mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
1. Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất mâu thuẫn hay phù hợp.
Trong tác phẩm góp phần phê phán khoa kinh tế - chính trị năm 1859 C.Mác viết "Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người ta có những quan hệ nhất định, tất yếu không phụ thuộc ý muốn của họ, tức những quan hệ sản xuất. Những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất của họ.
Khái niệm "phù hợp" được hiểu với nghĩa chỉ phù hợp mới tốt, mới hợp qui luật, không phù hợp là không tốt, là trái qui luật. Có nhiều vấn đề mà nhiều lĩnh vực đặt ra với từ "phù hợp" này. Các mối quan hệ trong sản xuất bao gồm nhiều dạng thức khác nhau mà nhìn một cách tổng quát thìđó là những dạng quan hệ sản xuất và dạng những lực lượng sản xuất từđó hình thành những mối lien hệ chủ yếu cơ bản là mối liên hệ giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Nhưng mối liên hệ giữa hai yêu tố cơ bản này là gì? Phù hợp hay không phù hợp. Thống nhất hay mâu thuẫn? Trước hết cần xác định khái niệm phù hợp với các ý nghĩa sau.
- Phù hợp là sự cân bằng, sự thống nhất giữa các mặt đối lập hay "sự yên tính" giữa các mặt.
- Phù hợp là một xu hướng mà những dao động không cân bằng sẽđạt tới.
Trong phép biện chứng sự cân bằng chỉ là tạm thời và sự không cân bằng là tuyệt đối. Chính đâylà nguồn gốc tạo nên sự vận động và phát triển. Ta biết rằng trong phép biện chứng cái tương đối không tách khỏi cái tuyệt đối nghĩa là giữa chúng không có mặt giới hạn xác định. Nếu chúng ta nhìn nhận một cách khác có thể hiểu sự cân bằng như một sự đứng im, còn sự không cân bằng có thể hiểu như sự vận động. Tức sự cân bằng trong sản xuất chỉ là tạm thời còn không cân bằng không phù hợp giữa chúng là tuyệt đối. Chỉ có thể quan niệm được sự phát triển chừng nào người ta thừa nhận tính chân lý vĩnh hằng của sự vận động. Cũng vì vậy chỉ có thể quan niệm được sự phát triển chừng nào người ta thừa nhận, nhận thức được sự phát triển trong mâu thuẫn của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chừng nào ta thừa nhận tính vĩnh viễn không phù hợp giữa chúng.
Từ những lý luận đó đi đến thực tại nước ta cũng vậy với quá trình phát triển lịch sử lâu dài của mình từ thời đồ đá đến nay thời văn minh hiện đại. Nước ta đi từ sự không phù hợp hay sự lạc hậu từ trước lên đến nay nền văn minh đất nước. Tuy nhiên quá trình vận động và phát triển của sản xuất là quá trình đi từ sự không phù hợp đến sự phù hợp, nhưng trạng thái phù hợp chỉ là sự tạm thời, ngắn ngủi, ý muốn tạo nên sự phù hợp vĩnh hằng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất là trái tự nhiên, là thủ tiêu cái không thủ tiêu được, tức là sự vận động.
Tóm lại, có thể nói thực chất của qui luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là qui luật mâu thuẫn. Sự phù hợp giữa chúng chỉ là một cái trục, chỉ là trạng thái yên tĩnh tạm thời, còn sự vận động, dao động sự mâu thuẫn là vĩnh viễn chỉ có khái niệm mâu thuẫn mới đủ khả năng vạch ra động lực của sự phát triển mới có thể cho ta hiểu được sự vận động của qui luật kinh tế.
2. Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất – quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội.
Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất. Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất chất cá nhân lên tính chất xã hội hoá. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá.
- Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thưc sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế.
- Quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ…và do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất không phải giản đơn. Nó phải thông qua nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thuỷ, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
Tất cả chúng ta đều biết, quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt hợp thành của phương thức sản xuất có tác động qua lại biện chứng với nhau. Việc đẩy quan hệ sản xuất lên quá xa so với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một hiện tượng tương đối phổ biến ở nhiều nước xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nguồn gốc của tư tưởng sai lầm này là bệnh chủ quan, duy ý chí, muốn có nhanh chủ nghĩa xã hội thuần nhất bất chấp qui luật khách quan. Về mặt phương pháp luận, đó là chủ nghĩa duy vật siêu hình, quá lạm dụng mối quan hệ tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự lạm dụng này biểu hiện ở "Nhà nước chuyên chính vô sản có khả năng chủđộng tạo ra quan hệ sản xuất mới để mởđường cho sự phát triển của lực lượng sản xuất".
Nhưng khi thực hiện người ta đã quên rằng sự "chủđộng" không đồng nghĩa với sự chủ quan tuỳ tiệ, con người không thể tự do tạo ra bất cứ hình thức nào của quan hệ sản xuất mà mình muốn có. Ngược lại quan hệ sản xuất luôn luôn bị qui định một cách nghiêm ngặt bởi trạng thái của lực lượng sản xuất, bởi quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất chỉ có thể mởđường cho lực lượng sản xuất phát triển khi mà nóđược hoàn thiện tất cả về nội dung của nó, nhằm giải quyết kịp thời những mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
Chương II
Sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất - lực lượng sản xuất trong công cuộc CNH-HĐH ở Việt Nam hiện nay
I. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
1. Quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH)
Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới năm 1986, cùng với việc từng bước phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, giải phóng các lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng và Nhà nước đã xác định ngày càng rõ quan điểm mới về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Quan điểm mới ấy là kết quả tổng kết thực tiễn, rút ra từ những bài học của mấy thập kỷ trước đây kết hợp với sự nghiên cứu, học hỏi kiến thức và kinh nghiệm của thế giới và thời đại
Cuối thế kỷ 20, Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra công nghiệp hoá, hiện đại hoá không phải là hai quá trình tuy có phần lồng vào nhau nhưng về cơ bản vẫn tách biệt và nối tiếp nhau, mà là một quá trình thống nhất, có thể tóm tắt là công nghiệp hoá theo hướng hiện đại
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 Khoá VII của Đảng ta (1994) chỉ rõ: “CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học- công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
Coi sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta trong thời kỳ đổi mới là một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế- xã hội, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996), khi thông qua đường lối đẩy mạnh CNH, HĐH, Đảng ta nhấn mạnh: “Mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Tại Đại hội này, Đảng ta cũng xác định rõ mục tiêu “phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”. Cùng với những thành tựu phát triển quan trọng đạt được sau 10 năm đổi mới, sự xác định rõ ràng hơn về chủ trương đã tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta đẩy mạnh CNH, HĐH.
Kết thúc thế kỷ 20, bước vào thế kỷ 21, bối cảnh trong nước và quốc tế tiếp tục có những thay đổi mau chóng. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng nhận định: “Thế kỷ 21 sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất”. Trong bối cảnh ấy, nhận thức của Đảng ta về CNH, HĐH đất nước cũng có bước đổi mới quan trọng, cho rằng quá trình CNH, HĐH ở nước ta có thể được rút ngắn. Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn 2001-2010 được thông qua tại Đại hội IX xác định: “Con đường CNH, HĐH của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát triển những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức”. Đảng ta đề ra mục tiêu “phấn đấu trong giai đoạn 2001-2010 đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Điều này hứa hẹn mở ra những bước đột phá trong nhiều lĩnh vực kinh tế- xã hội, góp phần thực hiện “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
2. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá, hiện đại hóa
Mỗi phương thức sản xuất xã hội chỉ có thể được xác lập vững chắc trên cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của một xã hội là toàn bộ hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội phù hợp với trình độ kỹ thuật tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu của xã hội. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa là phải xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, trong đó có công nghiệp hoá. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ quan trọng nói trên, nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hoá, tức là chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế công nghiệp.
Chủ nghĩa xã hội muốn tồn tại và phát triển, cũng cần phải có một nền kinh tế tăng trưởng và phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội cần phải xây dựng trên cơ sở những thành tựu mới nhất, tiên tiến nhất của khoa học và công nghệ. Cơ sở vật chất - kỹ thuật đó phải tạo ra được một năng suất lao động xã hội cao. Công nghiệp hoá chính là quá trình tạo ra nền tảng cơ sở vật chất đó cho nền kinh tế quốc dân xã hội chủ nghĩa.
Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất - kỹ thuật thấp kém, trình độ của lực lượng sản xuất chưa phát triển, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mới được thiết lập, chưa được hoàn thiện. Vì vậy, quá trình công nghiệp hoá chính là quá trình xây dựng cơ sơ vật chất - kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân. Mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một bước tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Trong xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá về kinh tế đang phát triển mạnh mẽ, trong điều kiện cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại phát triển rất nhanh chóng; những thuận lợi và khó khăn về khách quan và chủ quan, có nhiều thời cơ và cũng có nhiều nguy cơ, vừa tạo ra vận hội mới, vừa cản trở, thách thức nền kinh tế của chúng ta, đan xen với nhau, tác động lẫn nhau. Vì vậy, đất nước chúng ta phải chủ động sáng tạo nắm lấy thời cơ, phát huy những thuận lợi để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá tạo ra thế và lực mới để vượt qua những khó khăn, đẩy lùi nguy cơ, đưa nền kinh tế tăng trưởng phát triển bền vững.
3. Tác dụng của công nghiệp hoá, hiện đại hóa
Từ thập niên 60 của thế kỷ 20, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối công nghiệp hóa và coi công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Phân tích những tác dụng cơ bản của công nghiệp hoá đối với nền kinh tế đất nước hiện nay càng làm rõ ý nghĩa vai trò trung tâm của công nghiệp hoá.
- Công nghiệp hoá tạo ra cơ sở vật chất để làm biến đổi về chất lực lượng sản xuất nhờ đó mà nâng cao vai trò của con người lao động – nhân tố trung tâm của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa; tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Nền kinh tế tăng trưởng và phát triển nhờ thành tựu công nghiệp hoá mạng lại, là cơ sở kinh tế để củng cố và phát triển khối liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt góp phần tăng cường quyền lực, sức mạnh và hiệu quả của bộ máy quản lỹ kinh tế của nhà nước.
- Quá trình công nghiệp hoá tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền kinh tế nền kinh tế độc lập, tự chủ vững mạnh trên cơ sở đó mà thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế.
- Công nghiệp hóa thúc đẩy sự phân công lao động xã hội phát triển, thúc đẩy quá trình quy hoạch vùng lãnh thổ hợp lý theo hướng chuyên canh tập trung làm cho quan hệ kinh tế giữa các vùng, các miền trở nên thống nhất cao hơn.
- Tạo tiền đề vật chất để xây dựng, phát triển và hiện đại hoá nền quốc phòng – an ninh.
Thành tựu công nghiệp hoá tạo ra tiền đề kinh tế cho sự phát triển đồng bộ về kinh tế - chính trị, văn hóa – xã hội, quốc phòng và an ninh. Thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân là nhân tố quyết định sự thắng lợi của con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Chính vì vậy mà công nghiệp hoá kinh tế được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Công nghiệp hoá là con đường tất yếu mà dân tộc Việt Nam phải trải qua để tiến lên. Trong quá khứ, trước mỗi bất hạnh, đều có sự trỗi dậy của nguyện vọng công nghiệp hoá. Hiện nay, trước nguy cơ tụt hậu của đất nước, nhấn mạnh vấn đề công nghiệp hoá là hoàn toàn phù hợp và rất dễ được cả dân tộc chấp nhận.
II. Công nghiệp hoá, hiện đại hóa vận dụng tuyệt vời quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
Thuộc phạm trù của lực lượng sản xuất và vận động không ngoài biện chứng nội tại của phương thức sản xuất, vấn đề công nghiệp hoá gắn chặt với hiện đại hoá, trước hết phải được xem xét từ tư duy triết học. Trước khi đi vào công nghiệp hoá - hiện đại hoá và muốn thành công trên đất nước thì phải có tiềm lực về kinh tế con người, trong đó lực lượng lao động là một yếu tố quan trọng. Ngoài ra phải có sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất đây mới là nhân tố cơ bản nhất.
Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì phát triển lực lượng sản xuất và thiết lập quan hệ sản xuất phù hợp là rất quan trọng.
* Phát triển lực lượng sản xuất – cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội – trên cơ sở thực hiện cơ khí hoá nền sản xuất xã hội và áp dụng những thành tựu khoa học – công nghệ hiện đại.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết là quá trình cải biến lao động thủ công , lạc hậu thành lao động sử dụng máy móc, tức là phải cơ khí hoá nền kinh tế quốc dân. Đó là bước chuyển đổi rất căn bản từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp.
Đi liền với cơ khí là điện khí hoá và tự động hoá sản xuất từng bước và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải xây dựng và phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp, trong đó then chốt là ngành chế tạo tư liệu sản xuất. Sự phát triển của các ngành chế tạo tư liệu sản xuất là cơ sở là “đòn xèo” để cải tạo, phát triển nền kinh tế quốc dân, phát triển khu vực nông – lâm – ngư nghiệp.
Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn là sử dụng kỹ thuật, công nghệ ngày càng tiên tiến hiện đại nhằm đạt năng suất lao động xã hội cao. Tất cả những điều đó chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở một nền khoa học – công nghệ phát triển đến một trình độ nhất định.
* Thiết lập quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Công nghiệp hoá ở nước ta nhằm mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó, công nghiệp hoá không chỉ là phát triển lực lượng sản xuất, mà còn là quá trình thiết lập, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, bất cứ sự thay đổi nào của quan hệ sản xuất, nhất là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, cũng đều là kết quả tất yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất. Công nghiệp hóa, hiện đại hoá không chỉ là phát triển mạnh lực lượng sản xuất, khơi dậy và khai thác mọ tiềm năng kinh tế, mọi nguồn lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tuỳ theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà quan hệ sản xuất sẽ tứng bước được cải biến cho phù hợp.
* Sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất -lực lượng sản xuất trong sư nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá rõ nét nhất là sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất tương ứng với nó là các hình thức sở hữu phù hợp.
Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật chung cho mọi phương thức sản xuất. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta với nền kinh tế chưa thực sự phát triển cao, lực lượng sản xuất luôn tồn tại ở nhiều trình độ khác nhau; tương ứng với mỗi trình độ của lực lượng sản xuất sẽ có một kiểu quan hệ sản xuất. Do đó, cơ cấu của nền kinh tế, xét về phương diện kinh tế - xã hội, phải là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
Ở nước ta hiện nay tồn tại 6 thành phần kinh tế là:
- Kinh tế nhà nước
- Kinh tế tập thể
- Kinh tế cá thể, tiểu chủ
- Kinh tế tư bản tư nhân
- Kinh tế tư bản nhà nước
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Tương ứng với các thành phần kinh tế trên là hình thức sở hữu tư liệu sản xuất công cộng, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp. Trong mỗi loại hình sở hữu tư liệu sản xuất tồn tại những hình thức sở hữu khác nhau và vì thế trong nền kinh tế có nhiều hình sở hữu khác nhau: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu cá thể, sở hữu tư bản tư nhân, sở hữu hỗn hợp giưac nhà nước và tư nhân…
Đặc điểm to lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là điểm xuất phát rất thấp, sản xuất nhỏ là phổ biến, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta còn rất thấp kém và do đó, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vần còn phù hợp với trình độ của lực lưọng sản xuất, là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Bởi vậy, trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hở Việt Nam, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất chẳng những không cần phải xoá bỏ, mà còn cần được tạo mọi điều kiện để phát triển.
Sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất vừa là phương tiện, vừa là mục tiêu cân thực hiện trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó, xây dựng sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất là tất yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa, sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất còn là công cụ quan trọng định hướng nền kinh tế lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, việc xây dựng sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất phải trải qua một thời kỳ lâu dài, từ thấp đến cao và luôn phải đặt trong mối liên hệ với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất không đơn giản là thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức toàn dân và tập thể, mà điều quan trọng và khó khăn hơn là phải làm cho sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao hơn so với hữu tư nhân.
Việt Nam không theo con đường chủ quan của tư bản, nhưng không phải triệt tiêu tư bản và vẫn quan hệ với chủ nghĩa tư bản trên cơ sở có lợi cho đôi bên và học hỏi những thành tựu tiên tiến của họ. Quan điểm từđại hội VI cũng đã khẳng định không những khôi phục thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cả thế mà phải phát triển chúng rộng rãi theo chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhưng điều quan trọng là phải nhận thức được vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong thời kỳ quáđộ. Để thực hiện vai trò này một mặt nó phải thông qua sự nêu gương về các mặt năng suất, chất lượng và hiệu quả. Thực hiện đầy đủđối với nhà nước. Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể thực hiện chính sách khuyến khích phát triển. Tuy nhiên với thành phần kinh tế này phải có những biện pháp để cho quan hệ sản xuất thực hiện phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quáđộ. Vì như thế mới thực sự thúc đẩy sự phát triển của lực lượng lao động.
C.Mác đã đưa ra kết luận rằng xã hội loài người phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai đoạn của sự phát triển đó là một hình thái kinh tế - xã hội nhất định - rằng tiến bộ xã hội là sự vận động theo hướng tiến lên của các hình thái kinh tế - xã hội khác mà gốc rễ sâu xa của nó là sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Rằng sự vận động và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là do tác động của các qui luật khách quan. Mác và Ănghen đã đưa ra nhiều lý luận, nhiều tư tưởng. Những lý luận tư tưởng cơ bản đó trong học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội chính là cơ sở lý luận cho phép chúng ta khẳng định sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay là phù hợp với qui luật khách quan trong quá trình phát triển của dân tộc ta, của thời đại. Đối với nước ta để phù hợp với lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đảng ta đã nêu công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá, kết hợp những bước tiến tuần tự về công nghệ với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học công nghệ thế giới. Mặt khác chúng ta phải chú trọng xâydựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết của nhà nước và theo định hướng XHCN. Đây là hai nhiệm vụ được thực hiện đồng thời. Chúng luôn tác động thúc đẩy hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển. Bởi lẽ "nếu công nghiệp hoá - hiện đại hoá tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chếđộ xã hội mới thì việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần chính làđể xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp đưa nước ta tiến lên từng ngày nhưĐảng và Nhà nước ta mong muốn đa và đang thực hiện.
Kết luận
C.Mác đã từng khẳng định một cách đúng đắn rằng, một xã hội chỉ có thể phát triển cao với một nền đại công nghiệp. Lý tưởng cao đẹp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta là xây dựng Việt Nam thành một nước xã hội chủ nghĩa giàu mạnh và văn minh. Để thực hiện lý tưởng đó, Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra: từ nay đến năm 2020 chúng ta phải phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại. Để đạt được mục tiêu to lớn ấy chúng ta phải thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa với nội dung cốt lõi là phát triển lực lượng sản xuấtvà xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Chúng ta cần phải hiểu và vận dụng một cách tốt nhất qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trên thực tếrất khú cóđược sự phù hợp tuyệt đối giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng phải tuỳ theo tình hình thực tế mà chọn giải pháp phù hợp. Nếu chúng ta sử dụng đúng các qui luật trên cộng với điều hoà quan hệ lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất thì không lâu sau nước ta sẽ tiến nhanh cùng với các nước phát triển tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá đã chọn.
Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu to lớn: Công nghiệp phát triển với tốc độ cao (trên 10%/năm) bao gồm cả công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến và chế tác; nông nghiệp đã được điều chỉnh theo hướng hiện đại, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn được cập nhật nhiều và tiếp tục nghiên cứu tìm giải pháp; khoa học công nghệ và kinh tế tri thức đóng vai trò là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đạt được những thành tựu trên có đóng góp rất lớn của việc vận dụng tốt mối quan hệ biện chững giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài Mối quan hệ biện chứng của quan hệ sản xuất - lực lượng sản xuất và sự vận dụng trong công cuộc Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay.doc