Tài liệu Đề tài Mô hình Temasek Holdings trong thực tiễn xây dựng Tổng công ty SCIC Việt Nam
58 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1232 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Mô hình Temasek Holdings trong thực tiễn xây dựng Tổng công ty SCIC Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bé Gi¸o dôc vµ §µo t¹o
Trêng §¹i häc Ngo¹i Th¬ng
-----------o0o-----------
C«ng tr×nh tham dù Cuéc thi
“Sinh viªn nghiªn cøu khoa häc §¹i häc Ngo¹i Th¬ng n¨m 2008”
Tªn c«ng tr×nh: M« h×nh Temasek Holdings cña
Singapore trong thùc tiÔn x©y dùng Tæng
c«ng ty SCIC ViÖt Nam
Nhãm ngµnh: XH1a
Hµ Néi, th¸ng 08 n¨m 2008
2
TÓM TẮT CÔNG TRÌNH
Công trình nghiên cứu “ Mô hình Temasek Holdings trong thực tiễn xây dựng Tổng
công ty SCIC Việt Nam” của chúng tôi gồm các nội dung chính sau đây:
1. Lời nói đầu
Nêu lên tính cấp thiết của đề tài trong nền kinh tế Việt Nam. Đối tượng nghiên cứu là
Tập đoàn Temasek Holdings trong khoảng thời gian từ 1974 đến 2007 và Tổng công ty SCIC từ
khi thành lập năm 2005 đến nay. Phương pháp nghiên cứu và kết quả nghiên cứu cũng được đề
cập trong phần này.
2. Nội dung bao gồm 3 chương chính sau:
Chương I: Tập đoàn Temasek Holdings (Công ty vốn đầu tư Nhà nước) của Singapore
Chương này bao gồm: tìm hiểu về Tập đoàn Temasek Holdings; đánh giá hoạt động của Tập
đoàn Temasek Holdings và từ Temasek Holdings tới kinh nghiệm xây dựng một mô hình công
ty đầu tư vốn Nhà nước hiệu quả.
Chương I: Tập đoàn SCIC (Tồng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước) của Việt
Nam
Chương này bao gồm: tìm hiểu về Tập đoàn SCIC; đánh giá hoạt động của Tổng công ty SCIC
Chương III: Một số bài học kinh nghiệm từ Temasek Holdings nhằm thúc đẩy hoạt
động của SCIC trong thời gian tới.
Chương này bao gồm: mối liên hệ giữa Tập đoàn Temasek Holdings và Tổng công ty SCIC; bài
học kinh nghiệm từ Temasek Holdings nhằm khắc phục nhược điểm của SCIC.
3. Kết luận
Tổng kết lại các vấn đề đã đề cập và giải quyết trong phần nội dung. Nêu ý nghĩa đóng
góp của Công trình đối với thực tiễn. Mở rộng vấn đề đối với hướng đi của các Danh nghiệp
Nhà nước ở Việt Nam trong thời gian tới.
3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1.NICs: Các nƣớc công nghiệp phát triển mới
2.DNNN: Doanh nghiệp Nhà nƣớc
3.GDP: Tổng thu nhập quốc nội
4.GIC: Công ty Đầu tƣ Chính phủ của Singapore
5.SASAC: Uỷ ban giám sát và quản lý tài sản Nhà nƣớc của Trung Quốc
6.Công ty TNHH: Công ty Trách nhiệm hữu hạn
7.WB: Ngân hàng Thế giới
8.ADB: Ngân hàng phát triển Á Châu
9.UBNN: Uỷ ban Nhân dân
10.NN: Nhà nƣớc
4
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Số lƣợng các Công ty thành viên của Temasek Holdings tính đến năm 2007
Nguồn: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia về Temasek Holdings
Bảng 2: Doanh thu hoạt động của Tập đoàn từ năm 2004 đến 2007
Nguồn: Group Financial Summary - Temasek Review 2007
Bảng 3: Sơ đồ bộ máy quản lý của SCIC
Nguồn:
18
Bảng 4: Số lƣợng doanh nghiệp thành viên của SCIC tính đến ngày 31/12/2007
Nguồn: Website: www. scic.vn
Bảng 5: Bảng cơ cấu đầu tƣ theo thành phần kinh tế và tỉ trọng của từng khu vực vào
GDP
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2004 - Báo cáo chất lượng tăng trưởng kinh tế - Nguyễn Thị Tuệ
Anh, Lê Xuân Bá
5
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................................................ 1
CHƢƠNG I: TẬP ĐOÀN TEMASEK HOLDINGS CỦA SINGAPORE .................... 3
I. Tìm hiểu về Tập đoàn Temasek Holdings .............................................................. 3
1.1. Đặc điểm tập đoàn Temasek Holdings ................................................................ 3
1.2. Các hoạt động của Tập đoàn từ khi thành lập cho đến nay (1974-2007) ......... 6
II. Đánh giá hoạt động của Temasek Holdings .......................................................... 9
2.1. Những mặt hiệu quả .............................................................................................. 9
2.2. Những mặt chƣa hiệu quả và cách giải quyết của Temasek Holdings ........... 10
III. Từ Temasek Holdings tới kinh nghiệm xây dựng một mô hình công ty đầu tƣ
vốn Nhà nƣớc hiệu quả .............................................................................................. 12
3.1. Độc lập hoá khỏi Nhà nƣớc trong quá trình ra quyết định và cơ chế tự chịu
trách nhiệm ................................................................................................................. 12
3.2. Hoạt động theo kiểu tƣ nhân .............................................................................. 14
3.3. Ban lãnh đạo có năng lực và không bị ràng buộc quyền lợi với Chính phủ .. 14
3.4. Nhận thức đúng đắn từ phía Chính phủ ........................................................... 16
CHƢƠNG II: TỔNG CÔNG TY SCIC CỦA VIỆT NAM ............................................ 17
I. Tìm hiểu về Tập đoàn SCIC .................................................................................. 17
1.1 Tổng quan về SCIC .............................................................................................. 17
1.2. Đặc điểm của SCIC ............................................................................................. 20
1.3. Các hoạt động của SCIC từ khi thành lập đến nay (2005-2007) .................... 23
II. Đánh giá hoạt động của SCIC .............................................................................. 26
2.1.Những đóng góp thiết thực cho nền kinh tế ....................................................... 27
2.2 Những vấn đề tồn tại chƣa đƣợc giải quyết ....................................................... 31
CHƢƠNG III: MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ TEMASEK HOLDINGS
NHẰM THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG CỦA SCIC TRONG THỜI GIAN TỚI ........... 35
I. Mối liên hệ giữa Temasek Holdings và SCIC ...................................................... 35
6
1.1. Do sự tƣơng đồng giữa SCIC với Temasek Holdings về mục tiêu, cách xây
dựng và quản lý .......................................................................................................... 36
1.2. Do hiệu quả của mô hình Temasek Holdings đã đƣợc chứng minh tại
Singapore và ở một số quốc gia nhƣ Trung Quốc, Indonexia... ............................. 36
1.3. Do yêu cầu cấp thiết về một SCIC hiệu quả đối với nền kinh tế ................... 37
1.4. Một đặc điểm chung giữa Singapore và Việt Nam: Doanh nghiệp Nhà nƣớc
đóng vai trò đáng kể trong nền kinh tế .................................................................... 37
II. Từ Temasek Holdings tới những khuyến nghị đối với SCIC Việt Nam .......... 38
2.1. Phân định rõ chức năng Quản lý hành chính - kinh tế với chức năng Chủ sở
hữu vốn của Nhà nƣớc ............................................................................................... 38
2.2 Xây dựng cơ chế đầu tƣ hiệu quả, công khai minh bạch đối với các dự án đầu
tƣ .................................................................................................................................. 40
2.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật kinh tế nói riêng, tạo cơ
sở pháp lý phù hợp để công ty hoạt động ................................................................. 41
2.4. Tổ chức đƣợc bộ máy quản lý hiệu quả ............................................................ 45
KẾT LUẬN ............................................................................................................................... 49
1
1
LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam là một quốc gia đi theo con đường kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, doanh nghiệp vốn Nhà nước vẫn có ảnh hưởng khá lớn tới nền kinh tế. Trong
khi đó, hiện nay phần lớn những doanh nghiệp này hoạt động còn kém hiệu quả, gây nên
những cản trở không nhỏ đối với nền kinh tế tiềm năng và đang phát triển với nhiều
tham vọng như Việt Nam. Hơn nữa nền kinh tế của chúng ta đã đi vào quỹ đạo chung
của toàn thế giới sau khi gia nhập WTO, đồng nghĩa với việc mất đi sự bảo hộ đối với
các doanh nghiệp trong nước và nguy cơ bị đào thải khỏi thị trường nếu không có hoặc
khả năng cạnh tranh yếu. Vậy nên cải cách lại hệ thống doanh nghiệp vốn Nhà nước để
có sức cạnh tranh thật sự trong một môi trường kinh tế mở là một việc làm vô cùng cần
thiết nhưng cũng là yêu cầu cấp thiết đối với chính phủ và các cơ quan hữu quan của
Việt Nam.
Năm 2005 chính phủ phê duyệt việc thành lập Tổng công ty đầu tư và kinh doanh
vốn Nhà nước (gọi tắt là SCIC). Tới đầu năm 2006 công ty này chính thức có những
hoạt động đầu tiên. Với tư cách là tổ chức chuyên kinh doanh vốn của Chính phủ, sự ra
đời của SCIC nằm trong tiến trình cải cách kinh tế nói chung và cải cách doanh nghiệp
nói riêng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn của Nhà nước. SCIC cũng là đại
diện duy nhất chủ sở hữu vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp, thực hiện quyền đầu tư tài
chính, kinh doanh vốn theo những nguyên tắc, quy luật thị trường.
Thực chất công ty SCIC được thành lập dựa trên mô hình công ty Temasek
Holdings rất nổi tiếng và khá hiệu quả của Singapore. Điều đó đã được chứng minh qua
sự tồn tại khá thuyết phục của tập đoàn Temasek Holdings và những đóng góp to lớn của
nó đối với nền kinh tế Singapore từ năm 1974 tới nay. SCIC đang chập chững những
bước đi đầu tiên với khát vọng sẽ là một Temasek Holdings của Việt Nam. Liệu chúng ta
có thể biến điều đó thành hiện thực khi hoạt động của SCIC trong 2 năm vừa qua vẫn
chưa có nhiều hứa hẹn, thậm chí còn gây ra những ngoại ứng tiêu cực? Thực tế này một
vấn đề đặt ra là chúng ta nên học hỏi những gì và như thế nào để SCIC Việt Nam có thể
2
2
thực sự trở thành một Temasek Holdings của Việt Nam đáp lại niềm mong mỏi và kỳ
vọng của một nền kinh tế đang trên đà cất cánh.
Bài viết của chúng tôi sẽ tập trung vào tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích hoạt
động của Temasek Holdings và SCIC cũng như mối liên hệ giữa hai công ty này. Từ đó
đưa ra những đề xuất nhằm giải quyết những vấn đề còn tồn tại cho SCIC. Với nghiên
cứu này chúng tôi mong mỏi đóng góp tiếng nói của những người trẻ tuổi vào các vấn đề
xã hội đang xảy ra và tác động trực tiếp đến cuộc sống của cả đất nước.
Về đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung phân tích vào đối tượng tập
đoàn Temasek Holdings của Singapore từ 1974 đến 2007 và tập đoàn SCIC của Việt
Nam từ khi có đề án thành lập vào năm 2005 đến nay.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháp phân tích,tổng hợp và so
sánh để đưa ra những nhận định về 2 tập đoàn này.Đồng thời các phương pháp phân tích
kinh tế,mô hình hóa phục vụ mục đích đánh giá và đưa ra các giải pháp phù hợp.
3
3
CHƢƠNG I
TẬP ĐOÀN TEMASEK HOLDINGS CỦA
SINGAPORE
I. Tìm hiểu về Tập đoàn Temasek Holdings
Sau khi đất nước độc lập khỏi Malaysia, Thủ tướng Lý Quang Diệu đã nhận thức
rất rõ rằng với một quốc gia nghèo tài nguyên thiên nhiên và diện tích nhỏ bé như
Singapore thì đáp số cho bài toán kinh tế quốc gia sẽ là mấu chốt cho hoà bình và cuộc
sống tốt đẹp của người dân. Để thực hiện điều đó, ông và các cộng sự đầy nhiệt huyết đã
vạch ra hướng phát triển kinh tế phù hợp với quốc gia mình: đầu tư ra nước ngoài nhằm
mở rộng thị trường và giải quyết vấn đề tài nguyên. Tuy nhiên sau khi đầu tư ra nước
ngoài bắt đầu nở rộ thì yêu cầu về sự kiểm soát các công ty đầu tư đó lại xuất hiện - một
công ty có thể giúp Chính phủ kiểm soát tốt hơn các nguồn lực đầu tư ra nước ngoài
đồng thời phải đảm bảo tính hiệu quả về mặt kinh tế. Singapore thành lập Tập đoàn
Temasek Holdings, giao Tập đoàn này trách nhiệm làm chủ sở hữu và quản lý khoảng 30
vụ đầu tư khởi nghiệp. Việc thành lập Temasek nhằm phục vụ yêu cầu tách biệt vai trò
điều hòa và đề ra chính sách của Chính phủ khỏi vai trò kinh doanh. Trải qua 34 năm
hoạt động, nó đã khiến tất cả các quốc gia có mô hình kinh tế này hoặc có ý định thành
lập mô hình kinh tế tương tự phải nghiên cứu học tập.
1.1. Đặc điểm tập đoàn Temasek Holdings
1.1.1. Là Tập đoàn kinh doanh vốn đầu tư Nhà nước
Không giống như một số nước NICs (các nước công nghiệp phát triển mới) ở
Châu Á, tuy Singapore là một nền kinh tế vô cùng năng động nhưng tư nhân không phải
thành phần chủ chốt mà người ra quyết định lại là thành phần kinh tế Nhà nước.
4
4
Temasek cũng là một trong những thành phần chủ chốt đó. Sau khi thành lập, Temasek
đã thực sự lớn mạnh hơn rất nhiều so với ý định ban đầu, không những kiểm soát thị
phần của mình trong phạm vi đất nước mà đã vươn bước chân khổng lồ ra khỏi biên giới
Singapore, tới Châu Á và trên khắp thế giới. Cổ phần và danh mục đầu tư năng động của
Tập đoàn này chủ yếu trong những lĩnh vực sau: tài chính ngân hàng, bất động sản, xây
dựng cơ sở hạ tầng, vận tải giao nhận, truyền thông - thông tin, giáo dục, hàng hoá tiêu
dùng, năng lượng, kỹ thuật… Đây đều là những ngành chủ chốt, có tính chất quyết định
đến nền kinh tế quốc gia. Vậy nên họ không những có nhiệm vụ vi mô là thực hiện tốt
công việc của mình mà còn có nhiệm vụ vĩ mô đối với tổng thể nền kinh tế. Cho đến
nay, sau bao thăng trầm thay đổi về cơ cấu tổ chức, trong khi Chính phủ nhiều nước trên
thế giới đang loay hoay tìm cách tư hữu hóa các doanh nghiệp của mình, Temasek
Holdings vẫn là một tổ chức danh tiếng có uy tín thuộc bộ phận đầu tư của Chính phủ
Singapore và thuộc sở hữu của Bộ Tài chính.
1.1.2. Kinh doanh theo kiểu tư nhân
Nếu loại trừ yếu tố Nhà nước trong số vốn đầu tư ra, thì Temasek không khác gì
những công ty tư nhân khác. Tuy toàn bộ vốn của Tập đoàn đều do Bộ Tài chính
Singapore cấp và quản lý nhưng hoạt động của Công ty lại đi theo đường hướng như một
công ty tư nhân. Bằng chứng là ban giám đốc của Temasek đã thuyết phục các nhà đầu
tư nước ngoài rằng họ dù là công ty 100% vốn Nhà nước nhưng không làm theo cách
Nhà nước và cũng không bị Nhà nước chi phối trong quá trình ra quyết định. Đồng thời
trên trang web chính thức của mình, Temasek khẳng định: “Chúng tôi hoạt động hoàn
toàn chỉ như một công ty vốn thương mại. Các quyết định của Temasek đơn thuần dựa
trên các mối quan tâm thương mại. Cả Thủ tướng và Chính phủ Singapore đều không
liên quan đến các quyết định đầu tư, rút vốn hoặc các hoạt động kinh doanh khác của
chúng tôi”. Cam kết và hành động của Temasek đã thuyết phục được giới doanh nghiệp
nước ngoài. Ví dụ cụ thể là từ năm 2002 đến nay, Công ty đã mua được 1,5 tỷ đôla Mỹ
cổ phần của các ngân hàng Indonesia, Hàn Quốc và Ấn Độ, 5% cổ phần trong Telekom
Malaysia, 62% cổ phần trong Global Crossing - một tập đoàn viễn thông Hoa Kỳ, và một
lượng lớn cổ phần trong Quintiles - một công ty dược Hoa Kỳ (Nguồn: Sài gòn Đầu Tư
5
5
Tài Chính số ra ngày 04/01/2008). Vậy nên hiện nay, cái tên Temasek đã được nhìn
nhận như một hình mẫu của công ty đầu tư Nhà nước nhưng hoạt động theo kiểu tư
nhân. Vào giữa năm 2007, Chính phủ Trung Quốc cũng thành lập một công ty đầu tư mà
họ gọi là “tương tự Temasek”. Ngay cả ở những nước phát triển như Hoa Kỳ, Nhật Bản
và các nước phương Tây, nơi mà thành phần tư nhân được coi là xương sống của nền
kinh tế, Temasek cũng được mọi người công nhận về tính năng động và hiệu quả như
một công ty tư nhân.
1.1.3. Luôn theo đuổi mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận
Trong quá trình hoạt động, Temasek luôn đề cao tôn chỉ “ tối đa hoá lợi nhuận”
cho công ty và các cổ đông. Tối đa hoá lợi nhuận ở đây có nghĩa là kinh doanh hiệu quả
trên từng lĩnh vực mà Temasek tham gia hoạt động trên thị trường và đạt lợi nhuận cao
nhất có thể. Thông qua việc nâng cao giá trị các khoản đầu tư trong danh mục, thước đo
hiệu quả hoạt động của Temasek cũng chính là mức lợi tức do danh mục đầu tư mang
lại. Theo số liệu công bố, Temasek mang lại cho cổ đông (tính theo giá trị thị trường của
danh mục đầu tư) mức lợi tức đầu tư bình quân khá ấn tượng 18%/năm trong vòng hơn
30 năm qua.
Đến nay, Temasek đã có hơn 170.000 nhân viên với 32 công ty con, trong đó 9
công ty ở nước ngoài. Trong nước, Temasek nắm giữ khoảng 1/5 tổng giá trị thị trường
chứng khoán nội địa. Trong số 10 công ty niêm yết lớn nhất của Singapore thì Temasek
kiểm soát tới 7 công ty. Tập đoàn này đang là cổ đông lớn nhất của Singapore Airlines –
một trong những hãng hàng không hàng đầu thế giới. Ngoài ra, trong danh sách địa chỉ
đầu tư của Temasek còn có rất nhiều tập đoàn công nghiệp và dịch vụ lớn khác như Tập
đoàn Bưu chính Viễn thông Sing Tel, Tập đoàn Kinh tế CMS, Tập đoàn Keppel hay
Ngân hàng DBS, Tập đoàn Điện lực Singapore Power… Các công ty có Temasek là cổ
đông đóng góp hơn 15% GDP của cả nước. Cụ thể, từ số vốn ban đầu 354 triệu đôla
Singapore nhận từ Bộ Tài chính, sau hơn 30 năm, hiện tổng giá trị danh mục đầu tư ròng
của Temasek đạt 164 tỷ đôla Singapore. Đây là một mức tăng trưởng mơ ước nhưng
không dễ thực hiện đối với hầu hết các quỹ đầu tư trên thế giới.
6
6
1.2. Các hoạt động của Tập đoàn từ khi thành lập cho đến nay (1974-2007)
Đầu thập niên 1960, Chính phủ Singapore đã mua một số cổ phiếu của các ngành
đóng tàu và chế tạo trong nước. Các cổ phần này do Bộ Tài chính nắm giữ và đó chính là
tiền thân của Temasek Holdings. Với khởi đầu khiêm tốn, đến nay phạm vi đầu tư chính
của Temasek gần như bao trùm toàn bộ các lĩnh vực và các ngành kinh tế mũi nhọn của
Singapore.
1.2.1. Tình hình hoạt động từ năm 1974 đến 2007
Để hiểu hơn về Tập đoàn này, chúng tôi sẽ tóm tắt các hoạt động chính của
Temasek Holdings từ năm 1974 cho đến năm 2007 và các số liệu liên quan đến tình hình
kinh doanh của Công ty.
Từ năm 1974 đến 1985
Đây là giai đoạn thành lập và tạo dựng cơ sở cho hoạt động của Công ty với trị
giá danh mục đầu tư ban đầu là 354 triệu đôla Singapore.
Từ 1986 đến 1994
Temasek bắt đầu mở rộng các danh mục đầu tư của mình. Giá trị danh mục đầu tư
của Công ty trong thời gian này đạt từ 5 đến 20 triệu đôla Singapore.
Từ năm 1994 đến 2003
Đối mặt với nhiều khó khăn từ sự ảnh hưởng của dịch bệnh SAR và sự kiện 11/9
nên tuy giá trị danh mục đầu tư của Công ty đạt được ở mức cao nhưng không ổn định.
Cuối năm 1994 công ty Sing Tel ra đời kéo giá trị đầu tư của Công ty lên tới 64 đôla
Singapore. Từ năm 1995 đến 1999 con số này giao động trong khoảng từ 62 đến 100
triệu đôla Singapore. Năm 2000 là năm giá trị danh mục đầu tư đạt kỉ lục (120 triệu đôla
Singapore). Từ 2001 đến 2003 giá trị danh mục đầu tư của Công ty giảm xuống do ảnh
hưởng của sự kiện 11/9 tại Mỹ và bệnh dịch SAR (từ 90 xuống 60 triệu đôla Singapore).
Năm 2004
Lần đầu tiên sau 30 năm thành lập, vào ngày 12 tháng 10, Tập đoàn đã công khai
tài chính để đáp ứng yêu cầu của luật pháp trong việc phát hành cổ phiếu của mình với
lợi nhuận là 7.4 tỷ đôla Singapore trên tổng doanh thu 56.5 tỷ đôla Singapore (theo số
liệu năm tài chính tính đến tháng 3 năm 2004). Báo cáo năm 2004 cho thấy Temasek
7
7
đang sở hữu nguồn tài sản trị giá 90 tỷ đôla Singapore. Nguồn lợi nhuận mà mỗi cổ đông
nhận được hàng năm là 18 % liên tục từ năm 1974. Tập đoàn này đã nắm giữ 1/3 vốn cổ
phần của Singapore.
Đây cũng là năm đánh dấu bước chuyển biến trong việc công khai các thông tin ra
công chúng. Nhờ vậy, Temasek bắt đầu có tên trong danh sách đánh giá tín dụng của
Standard & Poor’s và Moody’s. Điều này giúp Temasek có những lợi thế không nhỏ
trong việc phát hành trái phiếu ra quốc tế.
Năm 2005
Đây là năm diễn ra các thương vụ thâu tóm cổ phần của các công ty nước ngoài
nhiều nhất và các phi vụ đầu tư lớn nhất trong lịch sử của Temasek, trong đó có thể kể
đến các công ty: MPlant, NDLC-Ific Bank, Russian TeleSystems, Amtel Holland
Holdings, Taiwan's Chang Hwa Commercial Bank, Chinatrust Financial Holding Co,
China Construction Bank.
Năm 2006
Temasek tiếp tục với những dự án thâu tóm cổ phần của các công ty nước ngoài và
không ngừng mở rộng sức mạnh của mình ra khắp Châu Á. Điển hình là vụ mua lại 49
% cổ phần của Shin Corporation từ gia đình cựu Thủ tướng Thái Lan Thaksin
Shinawatra.
Năm 2007
Đây là năm mà lần đầu tiên giá trị danh mục đầu tư ròng của Temasek vượt ngưỡng
100 tỷ đôla Mỹ, được các tổ chức Standard & Poor’s và Moody’s xếp hạng AAA/Aaa,
tức hạng tối ưu và gần tối ưu.
Nguồn: Portfolio Highlights - Temasek Review 2007
1.2.2. Số lượng các Công ty thành viên và Công bố tài chính của Temasek
Holdings
a) Số lượng các doanh nghiệp thành viên tính đến năm 2007
Bảng 1: Số lƣợng các Công ty thành viên của Temasek Holdings tính đến năm 2007
Nghành Số lượng
Tài chính & Ngân hàng 11
8
8
Viễn thông & Truyền thông 7
Giao thông & Hậu cần 3
Bất động sản 5
Đa nghành 3
Hạ tầng & Kỹ thuật 3
Dược 2
Tiện ích năng lượng 8
Các nghành khác 7
Nguồn: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia về Temasek Holdings
b) Bản công bố doanh thu của Tập đoàn Temasek Holdings trong các năm từ 2004 đến
2007
Bảng 2: Doanh thu hoạt động của Tập đoàn từ năm 2004 đến 2007
Tính theo tỷ đôla Singapore
Năm tài chính (tính đến 31 tháng 3 hàng năm)
2004 2005 2006 2007
Doanh thu 56,468 67,520 79,822 74,563
Chi phí bán hàng (37,659) (43,780) (53,309) (49,282)
Lợi nhuận gộp 18,809 23,740 26,513 25,281
Thu nhập từ hoạt động kinh
doanh khác
1,482 3,334 7,678 8,370
Chi phí bán hàng và phân phối
hppo
(3,559) (3,939) (4,086) (4,278)
Chi phí quản lý (5,722) (7,003) (8,040) (8,104)
Tài chính - (2,120) (2,415) (2,611)
Các hoạt động khác (3,633) (4,648) (4,758) (5,053)
Lợi nhuận trước khi tính các hạng
mục đặc biệt
7,377 9,364 14,892 13,605
Các hạng mục đặc biệt 2,165 404 1,66 -
Lợi nhuận sau khi tính thu nhập
đặc biệt
9,542 9,768 16,558 13,605
Các hạng mục phát sinh 1,077 - - -
9
9
- Thu nhập tài chính 619 - - -
- Chi phí tài chính (1,724) - - -
Cổ phần của các công ty liên
doanh và đối tác
1,472 1,410 1,163 (830)
Cổ phần từ các dự án liên doanh 787 1,037 1,263 1,566
Lợi nhuận trước thuế thu nhập 11,773 12,215 18,984 14,341
Chi phí cho thuế thu nhập (2,050) (1,837) (2,518) (1,381)
Lợi nhuận từ các hoạt động tiếp
tục tiến hành
9,723 10,378 16,466 12,960
Lợi nhuận từ các hoạt động đã kết
thúc
- 31 67 16
Tổng lợi nhuận - 10,409 16,533 12,976
Đóng góp: - - - -
- Cổ đông của công ty 7,365 7,521 12,827 9,112
- Tiền lãi 2,358 2,888 3,706 3,864
Tổng lợi nhuận cho năm tài
chính
9,723 10,409 16,533 12,976
Nguồn: Group Financial Summary - Temasek Review 2007
II. Đánh giá hoạt động của Temasek Holdings
2.1. Những mặt hiệu quả
2.1.1.Thành công về tính hiệu quả
Ước mong xây dựng một công ty đầu tư vốn Nhà nước thành công là khát khao của
bất kỳ quốc gia nào nơi mà Chính phủ muốn áp dụng bàn tay can thiệp của mình vào thị
trường một cách trực tiếp, nhanh chóng và hiệu quả. Tuy nhiên, để đảm bảo được tính
hiệu quả của riêng công ty đó mà vẫn không ảnh hưởng tới sự công bằng chung, đồng
thời không gây những tác động xấu tới nền kinh tế bằng các chính sách một phía của
mình, vốn chưa bao giờ là chuyện dễ dàng. Ngoài Singapore, có rất nhiều các quốc gia
Châu Á khác như Inđônêxia, Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia… hay thậm chí cả ở
10
10
cường quốc số một thế giới là Mỹ cũng mong muốn xây dựng một loại hình kinh tế
thành công tương tự như Temasek Holdings. Nhưng cho đến nay, cũng chỉ có một
Temasek Holdings là thành công duy nhất. Từ lâu Tập đoàn này được giới quan sát đem
ra làm khuôn mẫu cho hoạt động của các công ty đầu tư vốn Nhà nước trên toàn thế giới.
Với riêng Việt Nam, Temasek cũng là gợi ý và động lực cho sự ra đời của SCIC.
2.1.2. Đóng góp vào sự phát triển của Singapore
Kể từ khi thành lập tới nay, Temasek Holdings đã chứng minh được vai trò và sự
đóng góp to lớn của mình vào nền kinh tế quốc gia Singapore. Nếu ở Hàn Quốc vào thời
kì đầu những năm 1950, các Cheabol dẫn dắt kinh tế đất nước đi lên (tất nhiên có sự bảo
hộ một phần của Nhà nước trong thời gian đầu), ở Nhật có các Tập đoàn tài phiệt
Keiretsu làm đầu tầu cho nền kinh tế thì ở Singapore, Temasek Holdings đã đóng góp
phần công sức to lớn đối với sự phát triển của quốc gia.
Trong tổng thu nhập quốc nội, Temasek chiếm tỷ trọng không nhỏ. Tính đến năm
2007, Tập đoàn đã nắm được tích sản lên tới 110 tỷ đôla Mỹ, đóng góp 15% GDP cho
nền kinh tế Singapore. Cánh tay dài của Temasek không chỉ dừng lại ở các nước đang
phát triển Châu Á nữa mà bắt đầu vươn ra thị trường các nước phát triển như Nhật Bản,
Canada, Mỹ…và không ngừng lớn mạnh.
2.2. Những mặt chƣa hiệu quả và cách giải quyết của Temasek Holdings
2.2.1. Chưa tách hết được yếu tố Nhà nước ra khỏi Tập đoàn
Yếu tố Nhà nước ở Temasek được thể hiện rõ nhất qua sự ưu đãi đầu tư từ Chính
phủ. Nhiều khoản đầu tư tốt nhất trong danh mục đầu tư của Temasek là những công ty
có vị thế độc quyền hoặc hoạt động trong môi trường bảo hộ. Hơn nữa việc đánh thuế
của Nhà nước đối với Tập đoàn, nhất là đối với các lĩnh vực công nghệ mới thường là rất
thấp. Đây cũng được coi là một hình thức bảo hộ khác của Nhà nước. Để khắc phục điều
này, bà Ho Ching - Tổng Giám đốc điều hành quyết tâm thuyết phục các nhà đầu tư
nước ngoài rằng họ dù là công ty 100% vốn Nhà nước nhưng không làm theo cách Nhà
nước và cũng không bị Nhà nước chi phối. Temasek nêu rõ nguyên tắc hoạt động hoàn
11
11
toàn chỉ như một công ty vốn thương mại với quyết định đơn thuần dựa trên các mối
quan tâm thương mại, không bị tác động bởi Thủ tướng và Chính phủ. Thế nhưng, để
kiểm soát hoàn toàn việc tách bạch yếu tố Nhà nước nói trên là rất khó, bởi hình thức
can thiệp có thể rất linh hoạt tinh vi, núp dưới các khoản ưu đãi đầu tư hay các công ty
thành viên có vị thế độc quyền. Tuy nhiên, không thể phủ nhận những cố gắng nỗ lực
của Temasek để được nhìn nhận là một cá thể độc lập trong hoạt động kinh doanh của
mình.
2.2.2. Quản lý vốn chưa minh bạch
Một công ty Nhà nước luôn vấp phải sự nghi ngờ từ phía dư luận và các đối tác
rằng liệu có mục đích chính trị nào nằm sâu bên trong các dự án kinh doanh hay không?
Thực tế Temasek đã thâu tóm rất nhiều cổ phần từ các công ty danh tiếng của nước
ngoài, vậy nên sự lo lắng về tính thiếu minh bạch lại càng tăng. Điều này có thể ảnh
hưởng đến sự thuận lợi trong quá trình kinh doanh và tham vọng vươn ra khắp Châu Á
của Tập đoàn này. Trước tình hình đó, vào năm 2004, Temasek Holdings đã lần đầu tiên
công bố báo cáo thường niên của mình ra công chúng nhằm chứng tỏ sự minh bạch trong
quá trình quản lý vốn. Bản công bố tài chính đó không những đã dập tắt đi tâm lý lo lắng
của các nhà đầu tư mà còn giúp Temasek có thể phát hành trái phiếu trên thị trường
quốc tế để có thể thực hiện chiến lược đầu tư mở rộng.
Trên đây là hai trở ngại mà bất kỳ một công ty đầu tư vốn Nhà nước nào cũng sẽ
vấp phải dù làm tốt hay không tốt. Tuy nhiên đó là vấn đề mang tính bản chất chung cho
tất cả các công ty Nhà nước, dù là Temasek Holdings, GIC(Công ty Đầu tư Chính phủ)
của Singapore, SASAC (Uỷ ban giám sát và quản lý tài sản Nhà nước) của Trung Quốc,
hay SCIC của Việt Nam đều phải đối mặt. Vấn đề ở chỗ là tìm ra hướng giải quyết và
cách xua tan những nghi ngờ đó bằng hiệu quả kinh doanh và thực hiện nghiêm túc các
cam kết đã đề ra. Temasek đã làm tốt điều đó bằng nỗ lực và khả năng của mình. Đó là ý
chí của một doanh nghiệp có tham vọng chính đáng mà bất kỳ ai cũng phải công nhận.
Vì vậy, cần phải cân nhắc trước khi chỉ trích Temasek, bởi ngoài vấn đề mang tính
khách quan khó tránh, nó còn được xây dựng như một mô hình tiên phong trong vai trò
12
12
công ty đầu tư vốn Nhà nước hoạt động theo kiểu tư nhân nên có những trở ngại nhất
định. Hai nhược điểm này của Temasek chính là kinh nghiệm quí báu để những công ty
có ý định tiếp bước phân tích suy xét để rút ra bài học.
III. Từ Temasek Holdings tới kinh nghiệm xây dựng một mô hình
công ty đầu tƣ vốn Nhà nƣớc hiệu quả
Thực tế đôi khi rất khó khăn để xác định rõ công ty đầu tư Nhà nước là thành phần
kinh tế Nhà nước hay tư nhân. Tình trạng có vẻ như lưỡng thể này sẽ gây không ít khó
khăn cho loại hình công ty trên. Bởi nếu thành công có thể sẽ bị dị nghị rằng vì là con đẻ
của Chính phủ nên được hưởng những ưu đãi đặc biệt, còn nếu thất bại sẽ bị chê trách
rằng đã phụ thuộc quá nhiều vào Nhà nước. Vậy nên để thành công các công ty đầu tư
vốn Nhà nước cần phải nỗ lực vô cùng. Từ những quan sát ở trên, chúng tôi rút ra nhận
định: Chính bởi những định chế hoạt động vô cùng hiệu quả cộng với sự lãnh đạo sáng
suốt và nỗ lực không ngừng đã khiến Temasek có được kết quả như ngày hôm nay. Dưới
đây là những kinh nghiệm từ Temasek Holdings và một số công ty tương tự mà chúng
tôi nghiên cứu và tổng hợp lại, coi như một dạng mô hình tham khảo cho các công ty đầu
tư vốn Nhà nước.
3.1. Độc lập hoá khỏi Nhà nước trong quá trình ra quyết định và cơ chế tự chịu
trách nhiệm
Chúng ta biết rằng ngoài chức năng chính trị, Nhà nước cũng như bao thành phần
kinh tế khác, có quyền tham gia vào hoạt động kinh doanh bằng cách bỏ vốn đầu tư. Có
nghĩa là đối với các công ty có vốn đầu tư Nhà nước, Nhà nước có vai trò như các cổ
đông trong công ty, được hưởng phần lợi nhuận cũng như bù vào phần thiếu hụt tuỳ tình
trạng lợi nhuận âm hay dương. Tuy nhiên, để cho các công ty này làm ăn có hiệu quả thì
cần phải có một ban quản lý và điều hành độc lập với bộ phận cổ đông này. Đó mới
chính là bản chất thật của cái tên công ty đầu tư vốn Nhà nước. Nếu các công ty đi theo
hướng đó, mọi việc sẽ trở nên dễ dàng và thuận lợi hơn cho họ trong việc đưa ra những
13
13
quyết sách đúng đắn bởi công ty đã độc lập với Nhà nước trong quá trình ra quyết định
và nằm trong cơ chế tự chịu trách nhiệm với tất cả hành vi của mình.
Chúng ta không thể phủ nhận vai trò của Chính phủ trong việc tạo ra khung pháp lý
ưu tiên cho các công ty này bởi họ còn gánh vác thêm những trách nhiệm vĩ mô đối với
cả nền kinh tế. Tuy nhiên cũng giống như một đứa trẻ, để chúng lớn khôn và trở thành
người có ích thì cha mẹ phải có cách khuyến khích, ưu ái, nhưng lại phải để cho chúng
biết cách độc lập và tự chịu trách nhiệm với những hành vi của mình. Công ty đầu tư vốn
Nhà nước chính là con đẻ của Nhà nước. Tuy nhiên nếu vì điều đó mà trong quá trình ra
quyết định cái bóng quá lớn của Nhà nước cứ thường trực trong họ thì quyết định được
đưa ra sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực bởi các chính sách phi kinh tế ít nhiều liên quan đến vấn
đề chính trị hoặc các mục đích của Nhà nước. Nếu việc đó xảy ra, công ty đầu tư vốn
Nhà nước sẽ chẳng còn ý nghĩa nào khác ngoài chức năng công cụ của Chính phủ.
Như đã nói ở trên, để con cái trưởng thành cha mẹ phải cho chúng cơ hội để thử
nghiệm mình và tự chịu trách nhiệm với những gì chúng làm. Đồng ý rằng các chính
sách bảo hộ hay các chính sách ưu đãi là quyền mà công ty đầu tư Nhà nước được
hưởng, nhưng điều đó chỉ nên áp dụng trong thời gian đầu thành lập. Như các Cheabol ở
Hàn Quốc, hay các Keiretsu của Nhật Bản, trong thời gian đầu họ cũng đã được hưởng
những chính sách ưu đãi vô cùng đặc biệt nhưng sau đó Nhà nước rút dần bảo hộ và cuối
cùng là rút hết, áp dụng cơ chế thưởng phạt rõ ràng. Tuy rằng công ty đầu tư vốn Nhà
nước khác các Chaebol hay Keiretsu nhưng đây lại là một phương pháp khá hay nên áp
dụng. Các công ty đầu tư vốn Nhà nước nên có tư tưởng độc lập và nhất thiết phải tự tạo
ý thức “tự làm tự chịu” đối với tất cả các thương vụ của mình. Nhà nước cũng không nên
can thiệp quá sâu vào sự thành bại của công ty. Điều đó sẽ có tác dụng “bắt buộc” các
công ty này nỗ lực vận động không ngừng để tránh rơi vào thất bại đồng thời thúc đẩy sự
phát triển của chúng. Chỉ những công ty tự cường, lớn lên bằng chính sức mạnh và nội
lực của mình, mới đứng vững trước sóng gió thương trường và tăng trưởng bền vững.
Xét cho cùng công ty đầu tư vốn Nhà nước cũng chính là công ty đầu tư do Nhà
nước bỏ vốn ra để đầu tư. Và cho dù nó có theo đuổi những mục đích riêng tư nào đó
14
14
của Nhà nước thì trước hết nó phải là một công ty tạo ra lợi nhuận và có những tác động
tích cực tới toàn bộ nền kinh tế quốc gia.
3.2. Hoạt động theo kiểu tư nhân
Sẽ là thuận lợi nếu một công ty có mối quan hệ tốt với Chính phủ, tuy nhiên nếu
công ty đầu tư vốn Nhà nước cũng mang theo những ý tưởng chính trị vào thì sẽ rất khó
thành công. Điều này là bởi vì những lí do khách quan liên quan đến các chính sách xã
hội, đối ngoại...Và dù sao Chính phủ cũng chỉ tốt nhất khi họ vạch ra những chính sách
vĩ mô còn việc thực thi các chính sách vi mô thì tư nhân vẫn là người làm tốt hơn cả.
Vậy nên các công ty đầu tư vốn Nhà nước khi đứng trên thương trường nên định hướng
các hoạt động kinh doanh theo kiểu tư nhân để có hiệu quả tốt nhất. Temasek Holdings
đã coi mình như một thành phần kinh tế tư nhân để cạnh tranh không mệt mỏi trên
thương trường và gặt hái những thành công rực rỡ.
Bất kỳ một công ty tư nhân nào trong quá trình kinh doanh của mình cũng hướng
đến lợi nhuận. Làm ăn theo kiểu tư nhân có nghĩa là tất cả những quyết định của công ty
phải hướng đến tính hiệu quả kinh tế. Đối với công ty đầu tư vốn Nhà nước cũng vậy.
Trên thương trường họ phải năng động như một công ty tư nhân nếu không muốn bị các
đối thủ cạnh tranh lấn át và đè bẹp. Vậy nên dù là công ty Nhà nước, khi quyết định kinh
doanh cần phải xác định rõ mình là ai, phải làm gì để cạnh tranh với các đối thủ và phải
hoạt động hiệu quả để tồn tại chứ không nên nằm chờ những ưu ái từ Chính phủ bởi điều
đó sẽ tiêu diệt chính bản thân họ. Temasek Holdings cũng đã thành công khi họ có
những hướng đi đúng đắn và tự lập khỏi Nhà nước.
3.3. Ban lãnh đạo có năng lực và không bị ràng buộc quyền lợi với Chính phủ
Sự sống còn của các công ty đầu tư vốn Nhà nước không những quan trọng đối với
riêng công ty đó mà còn ảnh hưởng đến Chính phủ cũng như nền kinh tế. Thế nên việc
điều hành một tập đoàn với những trọng trách và áp lực lớn, yêu cầu đối với những nhà
quản lý cấp cao lại càng khắt khe hơn. Lãnh đạo phải là những người thật sự có năng lực
quản lý, năng lực chuyên môn vững vàng và ý thức trách nhiệm đối với toàn bộ vận
15
15
mệnh của công ty. Và chìa khóa thành công của Temasek chính là do có sự lãnh đạo tốt
với sự tiếp sức của một ban cố vấn quốc tế tên tuổi, trong đó có một Phó Chủ tịch của
Tập đoàn Dịch vụ tài chính Merrill Lynch và một chủ tịch sáng lập của một tập đoàn tài
chính Mỹ Merrill Lynch. Lý do này có lẽ phần nào giải thích khả năng ra quyết định độc
lập của bộ máy điều hành Temasek. Họ là những người không bị Nhà nước tác động tới
quyết định của mình, không có những tính cách mang hơi hướng chính trị và quyền lợi
của họ không bị ràng buộc với Chính phủ. Bộ máy của Temasek được lựa chọn kĩ càng
để đảm bảo không phải chịu bất cứ một áp lực nào trong quá trình ra quyết định, sao cho
quyết định ấy chỉ hướng đến mục tiêu lớn nhất là lợi nhuận mà thôi.
16
16
3.4. Nhận thức đúng đắn từ phía Chính phủ
Chính phủ nên suy nghĩ kĩ lưỡng trước khi ra quyết định thành lập một Tập đoàn
vốn đầu tư Nhà nước về cả tính hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Sau khi cân nhắc rõ
ràng việc này, Chính phủ cần phải thấy rõ trách nhiệm và quyền hạn khi có ý định can
thiệp vào hoạt động của công ty. Họ nên có những nhận thức đúng về bản chất của một
công ty Nhà nước là gì để có sự trợ giúp phù hợp nhưng không bóp méo quy luật thị
trường hoặc gây ra những ngoại ứng tiêu cực đối với nền kinh tế. Trong đó Nhà nước
cần phân định rõ quyền sở hữu và quyền quản lý doanh nghiệp. Để thực hiện ý tưởng
trên tốt nhất là Chính phủ nên có những điều luật hay chính sách phù hợp để quản lý loại
hình kinh tế này. Bên cạnh đó Chính phủ cũng cần giới hạn rõ quyền hạn của mình đối
với các doanh nghiệp thuộc mô hình trên.
17
17
CHƢƠNG II
TỔNG CÔNG TY SCIC CỦA VIỆT NAM
I. Tìm hiểu về Tập đoàn SCIC
Tên gọi Tổng công ty SCIC xuất phát từ tiếng Anh - State Company of
Investment and Commerce - Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước. Nếu xét
về tên gọi dễ dàng nhận thấy có sự giống nhau giữa Temasek Holdings và SCIC. Từ đó
một câu hỏi đặt ra liệu SCIC có phải là bản sao của Temasek Holdings hay không?
Trước tình hình đa số các DNNN đều nhỏ, hiệu quả đầu tư thấp dẫn đến sự đầu tư
dàn trải, thiếu tập trung gây lãng phí nguồn vốn Nhà nước và cơ chế quản lý chưa thực
sự đồng bộ với thị trường, vào đầu năm 2005, Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt việc
thành lập Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC). Sự ra đời của
SCIC nằm trong tiến trình cải cách kinh tế nói chung và cải cách doanh nghiệp nói riêng
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn Nhà nước. SCIC là đại diện duy nhất chủ sở
hữu vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp, thực hiện quyền đầu tư tài chính, kinh doanh
vốn theo những nguyên tắc và quy luật thị trường. Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh
vốn Nhà nước được xem là giải pháp để tách cặp song sinh dính nhau lâu nay là quản lý
Nhà nước ra khỏi quản lý kinh doanh nhằm mục đích kinh doanh đồng vốn Nhà nước có
hiệu quả.
1.1 Tổng quan về SCIC
1.1.1. Cơ sở pháp lí cho việc thành lập
SCIC được xây dựng dựa trên những nguồn luật sau đây:
1. Luật DNNN 2003 (điều 11, 21, 47, 60, 31, 63, 65, 68)
2. Luật Đầu tư 2005 (điều 68)
3. Quyết định số 151/2005/QĐ-TTg ngày 20/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ về
việc thành lập Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước
4. Quyết định số 152/2005/QĐ-TTg ngày 20/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ về
18
18
phê duyệt điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn
Nhà nước
1.1.2.Tổ chức bộ máy quản lý
Với tư cách là một "siêu" Tổng công ty, quản lí hàng trăm doanh nghiệp
thành viên, SCIC có bộ máy tổ chức khá chặt chẽ, phân ra nhiều ban chuyên môn, chịu
trách nhiệm riêng rẽ trong phạm vi của mình.
Bảng 3: Sơ đồ bộ máy quản lý
Nguồn:
temid=18
HỘI ĐỒNG
QUẢN TRỊ
BAN CHIẾN LƯỢC
CÁC UỶ BAN
CHUYÊN TRÁCH
BAN TÀI CHÍNH
BAN TỔ CHỨC
CÁN BỘ
BAN KIỂM SOÁT
CHI NHÁNH KHU
VỰC PHÍA NAM
BAN KIỂM TOÁN
NỘI BỘ
BAN GIÁM ĐỐC
BAN ĐẦU TƯ
BAN PHÁP CHẾ
BAN KẾ TOÁN
BAN CÔNG NGHỆ
THÔNG TIN
VĂN PHÒNG
ĐIỀU HÀNH
CÁC CÔNG TY
THÀNH VIÊN
HỘI ĐỒNG TƯ VẤN
CÁC CÔNG TY
LIÊN KẾT
19
19
1.1.3. Qui định trong cơ cấu hoạt động
Gánh vác trọng trách nặng nề là tái cơ cấu, từ đó vực dậy những DNNN làm ăn
kém hiệu quả, đồng thời cũng mang theo niềm hi vọng trở thành nhà đầu tư tin cậy của
Chính phủ, SCIC có một bộ khung pháp lý tương đối qui mô cho hoạt động kinh doanh
của mình. Sau đây chúng tôi xin điểm ra một vài nét chính yếu làm cơ sở phân tích về
sau.
Vai trò và vị thế
1. Đổi mới quan hệ giữa Nhà nước và DNNN trên nguyên tắc phân định tách quyền
quản lí Nhà nước khỏi quyền quản lí kinh doanh. Tách quyền chủ sở hữu vốn Nhà
nước tại doanh nghiệp với quyền sử dụng vốn Nhà nước.
2. Chuyển việc quản lí doanh nghiệp có vốn của Nhà nước từ phương thức hành
chính sang phương thức kinh doanh vốn.
3. Đổi mới cơ chế đầu tư kinh doanh vốn của Nhà nước vào các nghiệp vụ phù hợp
với cơ chế thị trường, chuyển từ cơ chế bao cấp về vốn (cấp vốn không hoàn lại)
sang hình thức đầu tư tài chính vào doanh nghiệp.
4. Tạo công cụ để đẩy nhanh quá trình cải cách sắp xếp và chuyển đổi DNNN, thúc
đẩy thị trường vốn và thị trường chứng khoán phát triển.
5. Làm đầu mối để hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tiếp cận các hỗ trợ của Nhà
nước để chủ động trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới.
Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu
1. Tiếp nhận và thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước đầu tư
2. Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước vào các ngành, lĩnh vực kinh tế trong nước và
nước ngoài dưới hình thức
3. Thực hiện việc đầu tư và quản lí vốn đầu tư của Tổng công ty vào các lĩnh vực,
ngành kinh tế quốc dân theo nhiệm vụ Nhà nước giao
4. Tổ chức huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước để bổ sung vốn kinh doanh
thông qua việc vay vốn, phát hành trái phiếu công ty, trái phiếu công trình, lập quỹ
tín thác đầu tư theo qui định của pháp luật đối với công ty Nhà nước.
Vốn hoạt động
20
20
1 Vốn điều lệ ban đầu: 5000 tỷ đồng, bao gồm:
o Vốn ngân sách Nhà nước cấp: 1000 tỷ đồng
o Vốn tiếp nhận từ các công ty khi thực hiện việc tiếp nhận và đại diện
quyền chủ sở hữu vốn Nhà nước tại thời điểm thành lập công ty .
2 Vốn Nhà nước bổ sung cho Tổng công ty để thực hiện việc đầu tư và vốn tiếp
nhận bổ sung từ các công ty
3 Vốn tự bổ sung từ lợi nhuận sau thuế, vốn huy động và các nguồn vốn hợp pháp
khác
Thẩm quyền quyết định đầu tư vốn
1 Tổng công ty có quyền:
o Quyết định lựa chọn dự án đầu tư, phương thức đầu tư, mức vốn, thời gian
đầu tư đối với từng dự án, từng doanh nghiệp trong phạm vi vốn do Tổng
công ty quản lý.
o Quyết định giảm bớt phần vốn của Tổng công ty tại doanh nghiệp khác
thông qua việc chuyển nhượng vốn và bán cổ phần.
2 Thủ tướng Chính phủ quyết định các trường hợp đầu tư sau:
o Mức đầu tư vượt thẩm quyền của Tổng công ty theo quy định của pháp
luật
o Đầu tư vào các dự án, các lĩnh vực, địa bàn có rủi ro cao
o Đầu tư vào các dự án thuộc các ngành, lĩnh vực không có khả năng sinh lời
cần có chính sách ưu đãi và sự hỗ trợ về tài chính của Nhà nước
Tài chính của Tổng công ty
Là đơn vị hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính, thực hiện chế độ hạch toán
kế toán tập trung. Chế độ kế toán, báo cáo kế toán, báo cáo tài chính, báo cáo thống kê
và thực hiện chế độ kiểm toán theo qui định. Tổng công ty có trách nhiệm thực hiện các
nghĩa vụ về tài chính và được hưởng các chính sách ưu đãi theo qui định của pháp luật
1.2. Đặc điểm của SCIC
1.2.1. Là một công ty đầu tư vốn Nhà nước
21
21
SCIC là một tổ chức kinh tế đặc biệt của Nhà nước, thực hiện việc quản lí, đầu tư
và kinh doanh vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp, các lĩnh vực theo qui định của pháp
luật. SCIC ra đời là cả một quá trình nghiên cứu của Chính phủ trên cơ sở tham khảo
kinh nghiệm một số mô hình của các nước trong khu vực, trong đó có Temasek Holdings
của Singapore. Có thể nói, SCIC là một thử nghiệm cải cách trong phương thức quản lý
DNNN, tách biệt chức năng thực hiện quyền chủ sở hữu với chức năng quản lý hành
chính. Sự ra đời của SCIC được kỳ vọng là sẽ chấm dứt tình trạng không xác định rõ
ràng người đại diện sở hữu phần vốn Nhà nước tại các công ty cổ phần, giúp phần vốn
này năng động và hiệu quả hơn. Tổng công ty sẽ đồng thời là: đại diện chủ sở hữu vốn
Nhà nước tại doanh nghiệp - nhà đầu tư chiến lược của Chính phủ - tổ chức cung cấp
dịch vụ tư vấn tài chính cho khách hàng liên quan đến quản lí và sử dụng vốn.
1.2.2. Hoạt động vẫn phụ thuộc quá nhiều vào Chính phủ
Trong khoản 4 về quyền và nghĩa vụ của Tổng công ty có qui định: “Lựa chọn và
quyết định lĩnh vực đầu tư và kinh doanh vốn theo nguyên tắc thị trường, bảo đảm hiệu
quả và khả năng sinh lời trong tương lai. Trường hợp thực hiện các nhiệm vụ do Thủ
tướng Chính phủ giao, nếu không có hiệu quả thì được thực hiện các chính sách ưu đãi
thích hợp và Nhà nước hỗ trợ về tài chính”. Vậy phạm vi những lĩnh vực đầu tư Thủ
tướng Chính phủ có thể chỉ định cho SCIC là gì? Nếu không có giới hạn cho các nhiệm
vụ này, thì khả năng đầu tư cũng như chỉ định đầu tư tràn lan là rất có thể xảy ra. Thực
chất, trong hoạt động của SCIC, không có một cơ sở rõ ràng nào cho việc phân định: liệu
khi nào thì Tổng công ty có thể toàn quyền sử dụng vốn theo nhận định của mình để
kinh doanh có lãi, khi nào thì sẽ phải thực hiện các nhiệm vụ phi kinh tế của Nhà nước?
Chính sự lỏng lẻo trong việc phân định quyền và nghĩa vụ sử dụng vốn đã tạo nên dư
luận không hay về SCIC trong hành động đầu tư vào thị trường chứng khoán thời gian
qua: đó là việc đầu tư nắm lấy cơ hội kinh doanh khi thị trường đi xuống hay đơn thuần
là việc cứu thị trường theo mệnh lệnh hành chính? Nếu là việc cứu thị trường chứng
khoán (không thuộc thẩm quyền quyết định đầu tư vốn), đây đơn thuần là một mệnh lệnh
hành chính, ai sẽ chịu trách nhiệm khi thị trường chứng khoán sụp đổ kéo phần vốn Nhà
nước chìm theo? Mọi người vẫn còn rất e dè khi đánh giá mục đích trong mỗi thương vụ
22
22
kinh doanh của SCIC một phần là vì lí do này. Cơ sở phân định vẫn còn rất mơ hồ, tạo
nên kẽ hở cho sự nhập nhằng trong việc sử dụng vốn.
Mặt khác, phụ thuộc vào Chính phủ ở đây có nghĩa là họ không được độc lập trong
quá trình ra quyết định cho các hoạt động kinh doanh của mình. Trong khoản 3 điều lệ
qui định về chức năng và nhiệm vụ chủ yếu của Tổng công ty có phát biểu: “Thực hiện
việc đầu tư và quản lí vốn đầu tư của Tổng công ty vào các lĩnh vực, ngành kinh tế quốc
dân theo nhiệm vụ Nhà nước giao”. Chúng ta có thể thấy rất rõ trong văn bản quy định
và các điều luật còn sơ sài về SCIC cái bóng của Chính phủ vẫn còn quá lớn. Nói cách
khác, Chính phủ vẫn can thiệp vào hoạt động của Tổng công ty cho dù đã cho phép
doanh nghiệp này tự thu, tự chi và tự chịu trách nhiệm trong quá trình kinh doanh. Nó
không những trói buộc doanh nghiệp vào những lề thói và tư duy trì trệ của cơ chế cũ mà
còn tạo ra tâm lí ỷ lại trông chờ vào bầu sữa Nhà nước. Phải chăng Chính phủ không
thực hiện nghiêm túc cam kết này bởi SCIC không đáng tin cậy, hay thực ra việc thành
lập SCIC không phải phục vụ mục đích giải quyết bài toán hiệu quả cho các công ty Nhà
nước mà chủ yếu phục vụ cho các chính sách vĩ mô của Chính phủ khi họ không đủ năng
lực kiểm soát thị trường?
1.2.3. Không đặt lợi nhuận làm mục tiêu đầu tiên
Trong bốn mục tiêu hoạt động của SCIC, mục tiêu đầu tiên là “Tăng trưởng đạt
giá trị bền vững. Đạt tỷ suất lợi nhuận lớn hơn chi phí vốn”. Điều này cũng được Phó
Tổng giám đốc Lê Song Lai khẳng định rất nhiều lần trong các bài phát biểu trước báo
giới. Mục đích ban đầu khi thành lập Tổng công ty là cải cách lại cách làm ăn của các
doanh nghiệp nói chung và chỉ dừng lại ở việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn của
Nhà nước. Nếu Temasek Holdings luôn có khát khao tạo ra lợi nhuận nhiều nhất thì
SCIC chỉ dừng lại ở mức lợi nhuận lớn hơn chi phí bỏ ra.
Đã là một công ty tham gia vào thị trường, lợi nhuận phải là mục tiêu lớn nhất và
đó cũng là một tiêu chí để đánh giá tình hình kinh doanh của công ty. Vậy tại sao SCIC
lại không đặt mục tiêu lợi nhuận lên đầu mà chỉ muốn dừng lại ở trên điểm hoà vốn? Nó
nguy hiểm ở chỗ, suy nghĩ chỉ cần đạt tỉ suất lợi nhuận lớn hơn chi phí dễ dàng làm nảy
sinh tâm lí thoả mãn và không tận dụng hết các nguồn lực của công ty, trong khi SCIC
23
23
được xây dựng như một mô hình đầu tàu để kéo các doanh nghiệp, đặc biệt là các
DNNN đi lên. Đồng thời, điều đó cũng có khả năng làm chệch hướng trong việc ra quyết
định, cụ thể là công ty sẽ không đầu tư vì mục đích tối đa hoá lợi nhuận mà sẵn sàng
phục vụ cho các mục đích phi kinh tế khác (miễn là SCIC nhận định rằng việc kinh
doanh đó chỉ cần trên điểm hoà vốn là đủ). Có lẽ SCIC cần phải xác định lại tiêu chí cho
mình, đó là lấy hiệu quả kinh doanh trên vốn làm trọng tâm, chứ không đơn thuần chỉ là
bảo toàn vốn.
1.3. Các hoạt động của SCIC từ khi thành lập đến nay (2005-2007)
Một số doanh nghiệp tiêu biểu có vốn đầu tư của SCIC bao gồm: Công ty cổ phần
Đầu tư phát triển công nghệ (FPT), Công ty cổ phần Hàng không Châu Á Thái Bình
Dương (Pacific Airlines), Công ty cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk), Tổng công ty Bảo
Minh, Tổng công ty cổ phần Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam (Vinaconex)…
Bảng 4: Số lƣợng doanh nghiệp thành viên của SCIC tính đến ngày 31/12/2007
Dịch vụ tài chính Số lƣợng
Bảo hiểm 2
Bất động sản 3
Các ngân hàng thương mại 1
Quản lý và phát triển bất động sản 2
Tài chính tiêu dùng 2
Nguyên vật liệu
Bao bì và đóng gói bao bì giấy 9
Giấy và lâm sản 9
Hóa chất 42
Kim loại và khai khoáng 20
Vật liệu xây dựng 23
Y tế và Chăm sóc sức khỏe
Công nghệ sinh học 8
Dược phẩm 39
24
24
Dịch vụ y tế 2
Hàng tiêu dùng thiết yếu
Đồ ăn 58
Đồ uống 2
Thực phẩm và nguyên liệu thực phẩm 2
Công nghiệp
Công ty Thương mại và Nhà phân phối 42
Dịch vụ thương mại và cung ứng vật tư 36
Đường bộ và đường sắt 47
Hạ tầng giao thông vận tải 25
Hàng hải 6
Hàng không 1
Máy móc 15
Sản phẩm xây dựng 44
Tập đoàn công nghiệp 1
Thiết bị điện 4
Vận tải đường không và dịch vụ hậu cần 2
Xây dựng và Công trình 119
Hàng tiêu dùng
Bán lẻ nhiều loại mặt hàng 20
Dịch vụ truyền thông 43
Đồ gia dụng lâu bền 1
Khách sạn, nhà hàng, giải trí 43
Vải, quần áo & hàng hóa xa xỉ 17
Dịch vụ viễn thông
Dịch vụ viễn thông được đa dạng hóa 1
Dịch vụ viễn thông không dây
Nguồn: Website: www. scic.vn
1.3.1. Tình hình hoạt động từ 2006 đến 2007
25
25
Chính thức đi vào hoạt động từ tháng 8 năm 2006, tính đến ngày 31/12/2007, SCIC
quản lý danh mục đầu tư gồm 829 doanh nghiệp với tổng giá trị sổ sách 7.710 tỷ đồng,
tổng giá trị thị trường ước tính 40.129 tỷ đồng. Các doanh nghiệp thành viên và doanh
nghiệp liên kết của SCIC hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế như
dịch vụ tài chính, năng lượng, công nghiệp, viễn thông, xây dựng, vận tải, hàng tiêu
dùng, y tế, công nghệ thông tin…. Song song với việc đẩy mạnh tốc độ tiếp nhận nguồn
vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp, Tổng công ty đang tiếp tục củng cố bộ máy tổ chức,
tiến hành phân tích đánh giá các doanh nghiệp và tìm kiếm cơ hội đầu tư mới.
SCIC ngay từ khi mới thành lập đã gây xôn xao dư luận, hi vọng thì nhiều nhưng lo ngại
cũng không ít. Đến thời điểm hiện tại đã được hơn 3 năm tuổi. Những cam kết, dự định
đã và đang triển khai. Có những thành công nhất định. Tuy nhiên dường như “tội nhiều
hơn công” và cho đến nay những sai lầm của SCIC vẫn là điều gây nhiều tranh cãi.
Trong khi số doanh nghiệp được SCIC đưa ra cổ phần hoá vẫn còn khá khiêm tốn, thì đã
có những thông tin về việc SCIC không thực hiện hiệu quả nhiệm vụ sử dụng vốn của
mình. Nhưng phải chờ đến sự kiện nổi bật của Tổng công ty từ khi chính thức đi vào
hoạt động là mua cổ phiếu ở một thời điểm "nhạy cảm" đã làm dấy lên tâm lí nghi ngờ
liệu SCIC có quá bất cẩn với nguồn vốn Nhà nước hay không? Lí do về việc mới thành
lập, kinh nghiệm còn ít và chưa có tiền lệ về mô hình kinh tế này ở Việt Nam trước đây
không thể biện hộ cho sai lầm mang tính cơ bản của Tổng công ty này trong thời gian
vừa qua.
Ngày 5/3/2007 VN-Index xuống mức thấp kỷ lục 583 điểm. Đối mặt với tình hình
này, Uỷ ban Chứng khoán, các công ty chứng khoán trong một phiên họp khẩn đã kiến
nghị Chính phủ cần có biện pháp cứu thị trường. Đáp ứng yêu cầu đó, Chính phủ đã uỷ
quyền cho SCIC thực hiện các nghiệp vụ cần thiết để giải quyết tình trạng này. Chỉ vài
ngày sau khi Uỷ ban Chứng khoán có yêu cầu, SCIC đã nhanh chóng ra tay, giúp chỉ số
VN-Index vượt lên ngưỡng 611 điểm vào ngày 6/3. Cho dù đã bỏ ra một số tiền rất lớn
để đầu tư và cam kết sẽ “cứu” được thị trường chứng khoán, nhưng thực tế cho đến hiện
nay thị trường này vẫn chưa có dấu hiệu gì khả quan cho các nhà đầu tư khi liên tục sụt
giảm. Khi đó trách nhiệm đã không được SCIC thừa nhận về mình mà họ cho rằng đó là
26
26
sự ảnh hưởng tất yếu của thị trường chứng khoán thế giới và một số nhân tố khách quan
khác. Đây là điều không thể phủ nhận, nhưng vấn đề cần được xem xét là hành động này
của SCIC liệu có đúng với vai trò và bổn phận của nó hay không. Trong lịch sử thị
trường chứng khoán thế giới, việc một công ty ra tay cứu chứng khoán là rất hi hữu,
thậm chí là chưa từng xảy ra. Lí do một phần bởi lo ngại những tác động tới tâm lí đám
đông có thể gây ra phản ứng tiêu cực hay phục hồi giả, khiến thị trường không cân bằng
ở giá trị thực của nó. Mặt khác, chứng khoán là một lĩnh vực rất rộng, vận động phức
tạp, mức độ biến động khá mạnh, lại phụ thuộc nhiều vào tâm lí người trong cuộc, do
vậy, khả năng một công ty có thể hoàn toàn kiểm soát hay tác động để bình ổn cả thị
trường là điều không tưởng. Thực tế đã chứng minh sự tham gia của SCIC không thể đảo
ngược chứng khoán trong xu hướng trở về giá trị thực của nó sau một thời gian bị đẩy
lên quá cao. Rõ ràng, đây là hành động bóp méo thị trường; thất vọng hơn, nó đã gây
thêm ngoại ứng tiêu cực, khi mà các thông điệp SCIC đưa ra giờ đây sẽ khó có thể
thuyết phục được công chúng với sức mạnh như trước. Và một câu hỏi đặt ra cho SCIC
là liệu họ có phải chỉ là một công ty đầu tư vốn Nhà nước đơn thuần hay kiêm nhiệm
thêm vai trò là cánh tay vươn dài của Chính phủ trong các can thiệp thô bạo đối với thị
trường?
1.3.2. Mục tiêu đến năm 2010
Mục tiêu SCIC đặt ra là vào năm 2010 trở thành một Tập đoàn tài chính Nhà nước
chuyên nghiệp. Trong đó, SCIC trở thành cổ đông năng động của doanh nghiệp, nhà đầu
tư chiến lược của Chính phủ; đồng thời tập trung đầu tư nắm giữ từ 100-150 doanh
nghiệp hoạt động trong những ngành, lĩnh vực then chốt có ý nghĩa chiến lược với sự
phát triển kinh tế xã hội của đất nước. SCIC chủ trương giữ vai trò là cổ đông lớn chi
phối và phấn đấu đưa ít nhất 80% doanh nghiệp này ra niêm yết trên thị trường chứng
khoán. Rõ ràng, với việc nắm giữ và quản lí những DNNN - vốn được xác định là xương
sống của nền kinh tế trong một thời gian dài nữa, thì trọng trách này quả là không nhỏ,
đòi hỏi SCIC phải rất thận trọng và cân nhắc khi đưa ra những quyết định, sách lược của
mình.
II. Đánh giá hoạt động của SCIC
27
27
2.1.Những đóng góp thiết thực cho nền kinh tế
2.1.1. Tập trung góp vốn phát triển nền kinh tế, giúp Nhà nước đầu tư hiệu quả
Các DNNN và doanh nghiệp cổ phần hoá bị chi phối bởi nhiều cơ quan chủ quản,
gây khó khăn cho việc phối hợp và điều hành, mà hệ quả của tình trạng chồng chéo này
là hoạt động kém hiệu năng. Sự ra đời của SCIC nhằm mục đích chấn chỉnh tình trạng
trên. Trước đây vốn Nhà nước có quá nhiều “ông chủ” là các cơ quan chủ quản thuộc
nhiều cấp, nhiều ngành, mỗi nơi lại sử dụng một phương pháp quản lý thống kê khác
nhau. Độ trung thực, chính xác của các báo cáo do đó cũng khác nhau và không có
chuẩn mực kê khai hay cơ chế giám sát hữu hiệu... Khi tất cả những khoản vốn đó được
tập trung thống kê tại SCIC, Nhà nước đã biết chính xác mình có bao nhiêu tiền, tiền
đang nằm ở những đâu, được quản lý, kinh doanh theo phương pháp nào và cơ hội sinh
lời cũng như nguy cơ rủi ro ra sao. Từ đó mới có thể tính đến giải pháp kinh doanh cho
hiệu quả. Một trong các hình thức hoạt động của SCIC là thoái vốn. Tức là tại những
ngành nghề, doanh nghiệp nhất định, đồng vốn khó quản lý, khó sinh lời hay không phù
hợp với qui mô lớn thì sẽ rút vốn ra. Như vậy Nhà nước không chỉ có thêm cơ hội tăng
lợi nhuận mà còn giảm thiểu nguy cơ thiệt hại vốn.
Cái lợi nữa là khi mệnh lệnh hành chính, những chỉ thị, tờ trình, đơn xin... được
tách khỏi hoạt động kinh doanh thì cũng là một bước tiến dài trong cải cách thủ tục hành
chính - hẳn nhiên sẽ tạo rất nhiều thuận lợi trong hoạt động của các doanh nghiệp, bởi
trước nay hành chính vốn bị coi là một trong những trở lực lớn trong công việc kinh
doanh ở nước ta. SCIC không có quyền ra lệnh đối với các DNNN, mà chỉ chi phối các
doanh nghiệp này thông qua phần vốn chủ sở hữu mà nó đại diện. Phân tách rạch ròi
quản lý Nhà nước ra khỏi quản lý kinh doanh là ý nghĩa đầu tiên và quan trọng nhất
trong việc thành lập SCIC. Điều này khác biệt với việc trước đây các Bộ, UBND chỉ đạo
các DNNN theo cơ chế hành chính mệnh lệnh khi mà Bộ chủ quản, cơ quan chủ quản,
vừa đá bóng (kinh doanh), vừa thổi còi (quản lý Nhà nước). Nhà nước lúc này giống như
một cổ đông bình đẳng và minh bạch với tất cả “đối tác” khác trong kinh doanh. Doanh
nghiệp lúc này đã được trả lại quyền tự chủ và được tăng thêm tiềm lực. Nhà nước quản
lý được vốn và tăng nguồn lợi từ đây.
28
28
Sự đóng góp thiết thực cho nền kinh tế được thể hiện qua các mặt sau:
Vốn
Trước đây, tại các doanh nghiệp cổ phần hóa, Nhà nước, thực chất là cơ quan chủ
quản, cử đại diện của mình xuống doanh nghiệp trong vai các ủy viên Hội đồng quản trị.
Các đại diện này thường là cán bộ kiêm nhiệm, kỹ năng quản trị, kinh doanh yếu. Mặt
khác họ không bị ràng buộc trách nhiệm về đồng vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Các
ủy viên này dù năng lực có kém đi chăng nữa thì vẫn mặc nhiên tồn tại vì nhiệm vụ của
họ, chủ yếu là thay mặt cơ quan chủ quản ra lệnh và nhận cổ tức cũng như những khoản
đóng góp khác của doanh nghiệp. Do vậy, đồng vốn dưới bàn tay thờ ơ của những cán
bộ với trách nhiệm nửa vời không những không sinh lời hiệu quả, lại có nguy cơ lãng phí
và chảy vào túi một bộ phận cá nhân.
Đó là chưa kể việc định giá tài sản doanh nghiệp khi cổ phần hóa do thiếu phương
pháp tổ chức và công cụ giám sát nên Nhà nước và người lao động (cổ đông) đã mất mát
rất nhiều tài sản. Không quá khó hiểu khi có những nhận định rằng nếu việc cổ phần hoá
không được chỉnh đốn và tiến hành nghiêm túc thì tài sản Nhà nước hoàn toàn có khả
năng rơi vào tay một số bộ phận cơ hội với cái giá rẻ mạt giống như kịch bản nước Nga
hồi những năm đầu cải cách. Nhưng nay Nhà nước hiện diện trong vai người đại diện
SCIC, với hi vọng một cơ quan chuyên quản lí vốn sẽ giảm thiểu tình trạng chắp vá lộn
xộn, đồng thời tập trung được phần vốn phân tán rải rác trước đây. Đại diện này hoàn
toàn tuân thủ theo Luật Doanh nghiệp và điều lệ công ty. Tổng công ty bị ràng buộc
trách nhiệm với đồng vốn của Nhà nước như chính đồng tiền của họ bỏ ra. Việc thất
thoát vốn, lãi của Nhà nước trong doanh nghiệp sẽ không thể diễn ra như trước đây.
Với mục đích mang lợi nhuận về cho Nhà nước, SCIC chủ trương xác định giá trị
thật của doanh nghiệp. Để tính được phần vốn của Nhà nước ở đây, SCIC áp dụng
những công cụ định giá theo khoa học quản trị thông dụng quốc tế, có độ chính xác và
tiệm cận nhất với giá thị trường. Cơ quan chủ quản cũ, đại diện ngành tài chính và doanh
nghiệp cùng tham gia công việc này. SCIC thống kê toàn bộ tài sản và phân loại doanh
nghiệp làm ba nhóm lớn A, B, C tùy theo qui mô, tỉ trọng vốn Nhà nước và ngành nghề
để có phương án đầu tư quản lí vốn thích hợp với từng nhóm.
29
29
Cơ chế người đại diện
Toàn bộ những người đại diện phần vốn Nhà nước cũ được rà soát lại, ai phù hợp với
cơ chế mới thì trưng dụng, tách chức năng quản lý của Nhà nước ra khỏi chức năng kinh
doanh. Trước đây các Bộ, các UBND, các cơ quan công quyền quản lý nguồn vốn thì
nay giao cho một đơn vị độc lập, ứng dụng được các chuẩn mực mới về quản trị doanh
nghiệp vào các doanh nghiệp thành viên, qua đó nâng cao được hiệu quả của nguồn vốn
Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp. Từ cuối năm 2006 khi SCIC đi vào hoạt động ổn
định, cơ chế bộ chủ quản cấp tỉnh coi như không còn nữa. Thay vào đó, cơ chế người đại
diện được kì vọng là sẽ chấm dứt tình trạng “bình mới rượu cũ” trong đa số các doanh
nghiệp có phần vốn Nhà nước đã cổ phần hoá (bộ máy nhân sự cũ vẫn tiếp tục giữ vai
trò điều hành, người đại diện phần vốn Nhà nước là các giám đốc doanh nghiệp – cũng
đồng thời là chủ tịch Hội đồng quản trị, tất yếu dẫn đến tư duy điều hành không có gì
khác trước). Quan trọng nhất hiện nay là nâng cao được hiệu quả nguồn vốn đầu tư của
Nhà nước và xác định rõ được trách nhiệm sử dụng nguồn vốn đó, mà tiền đề là phải
phân định trách nhiệm rõ ràng, hạn chế sử dụng cán bộ kiêm nhiệm.
Theo quy chế của SCIC, "người đại diện" là người được cấp có thẩm quyền cử, uỷ
quyền hoặc thuê làm đại diện phần vốn góp của Tổng công ty tại các doanh nghiệp.
Người đại diện thay mặt Tổng công ty quản lí phần vốn đầu tư tại những doanh nghiệp
này. Tuỳ theo qui mô vốn, đặc điểm, hình thức kinh doanh của doanh nghiệp, năng lực
của cán bộ mà Tổng công ty cử người đại diện theo những nguyên tắc sau:
- Cử trực tiếp nhân viên thuộc Tổng công ty;
- Uỷ quyền cho cán bộ hoặc lãnh đạo đang làm việc tại doanh nghiệp;
- Thuê người đại diện;
- Uỷ quyền cho lãnh đạo doanh nghiệp thay mặt Tổng công ty thực hiện một số
nhiệm vụ;
Có thể thấy, trong trường hợp cần thiết, SCIC sẵn sàng thuê người đại diện mới, hoặc
cử cán bộ xuống chuyên trách. Qui chế người đại diện được soạn thảo tỉ mỉ, khoa học,
(với các điều khoản về chế độ báo cáo của người đại diện lên Tổng công ty, đánh giá
người đại diện, thay thế người đại diện nếu năng lực không đáp ứng yêu cầu…), phần
30
30
nào giúp minh bạch hoá giữa chức năng quản lí và chức năng hành chính, khiến các
doanh nghiệp có vốn Nhà nước bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác, tránh sự
cẩu thả tuỳ tiện trong các quyết định kinh doanh. Tùy từng loại hình doanh nghiệp,
người đại diện sẽ có thẩm quyền khác nhau trong việc thay mặt SCIC thực hiện tái cơ
cấu, xây dựng chiến lược hoạt động rõ ràng. Quan hệ giữa Tổng công ty và người đại
diện cũng linh hoạt thay đổi, tuỳ theo đó là Công ty TNHH một thành viên, hai thành
viên, hay Công ty cổ phần.
Thiết lập quan hệ kinh doanh với nhiều đối tác quốc tế
Các lớp bồi dưỡng, tập huấn về quản trị, kinh doanh được tổ chức rộng khắp cho lãnh
đạo doanh nghiệp. Với vị thế là Tổng công ty quản lí và đầu tư vốn của Nhà nước, SCIC
thiết lập quan hệ với các đối tác trong và ngoài nước; hợp tác với các tổ chức tài chính
lớn như WB, ADB, Tập đoàn đầu tư Temasek (Singapore), Tập đoàn Merrill Lynch
(Mỹ), Công ty Đầu tư và chứng khoán Hàn Quốc... để thụ hưởng những mô hình quản trị
tiên tiến của quốc tế, trong đó có những công ty tương tự về mô hình - một lợi thế mà
những công ty qui mô nhỏ không thể có được. Hơn 20 tổ chức tài chính, quĩ đầu tư đã ký
biên bản ghi nhớ với SCIC, mở ra nhiều cơ hội mới để phát triển đồng vốn Nhà nước.
2.1.2. Hỗ trợ Nhà nước kiểm soát tốt hơn nền kinh tế
Với ưu thế nổi bật là số vốn lớn, có thể hi vọng SCIC sẽ dùng nguồn vốn này để
đầu tư vào một số lĩnh vực trọng yếu cần nhiều vốn hoặc trước mắt chưa có lãi, mục đích
là để thu hút các thành phần kinh tế khác cùng tham gia. SCIC đã tập trung các DNNN
lại để giải quyết tình trạng trì trệ trong hoạt động của các công ty này đồng thời tập trung
vốn đầu tư và tăng khả năng cạnh tranh đối với các doanh nghiệp nước ngoài đang tràn
vào Việt Nam ngày càng nhiều. Chẳng hạn, theo dự kiến SCIC sẽ thu xếp để cùng Tổng
công ty Điện lực Việt Nam thành lập một công ty cổ phần mới xây dựng nhà máy điện
thay vì phải đi vay vốn nước ngoài để làm như hiện nay. Cách làm tương tự sẽ được áp
dụng đối với các ngành khác như xi măng, xây dựng cảng biển...dựa trên tiêu chí hiệu
quả, trong tình trạng hiện tại có nhiều dự án lớn mà ngay cả việc kéo các nhà đầu tư tư
nhân vào cũng không dễ dàng. Tuy nhiên cách làm này cũng sẽ tạo ra một loạt các công
ty cổ phần mà cổ đông chỉ gồm các DNNN, giống như Pacific Airlines hay Pjico. Cần
31
31
phải cẩn trọng bởi gianh giới giữa việc giúp Nhà nước kiểm soát DNNN và việc trở
thành công cụ để can thiệp sâu vào thị trường đôi khi rất mong manh, như chúng tôi đã
phân tích ở trên.
2.2 Những vấn đề tồn tại chƣa đƣợc giải quyết
2.2.1. Chưa có những đóng góp tương xứng so với vai trò trong nền kinh tế
2.2.1.1.Trở ngại lớn nhất của SCIC hiện nay là phần vốn Nhà nước trong các doanh
nghiệp đang được đầu tư quá dàn trải trong một thời gian dài. Nguyên nhân của việc bố
trí vốn dàn trải là do nhu cầu đầu tư phát triển của các bộ, ngành và địa phương là rất lớn
trong khi khả năng tăng đầu tư từ vốn ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển lại có
hạn, chỉ đáp ứng được từ 40 - 50% nhu cầu dẫn đến tình trạng các địa phương đều muốn
kéo vốn về ngành mình, địa phương mình, thậm chí ngay cả khi chưa có dự án. Ngoài ra,
trong bố trí kế hoạch vốn đầu tư, còn tâm lý ỷ lại, trông chờ vào nguồn vốn bổ sung của
ngân sách Trung ương. Đây là một mâu thuẫn thường gặp ở các nước đang phát triển,
song đối với nước ta, nó lại càng trở nên gay gắt, đặc biệt là trong giai đoạn thực hiện
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chính vì vậy, để sử dụng và quản lý nguồn vốn này hiệu quả hơn, trước mắt cũng
như lâu dài, cần bán bớt hoặc bán hết phần vốn Nhà nước đầu tư ở các công ty, theo tinh
thần chỉ đạo của Thủ tướng. Số tiền thu được sẽ dùng để đầu tư vào các dự án có hiệu
quả.
2.2.1.2. Có một điều không rõ ràng là SCIC đã cố gắng thâm nhập được đến đâu
trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp mà nó đã tham gia đầu tư, và liệu nó
có cho phép ban lãnh đạo một khoảng thời gian đủ để thực hiện trách nhiệm của mình,
hoặc liệu nó đã cố gắng thực thi có hiệu quả quyền chủ sở hữu vốn Nhà nước của mình
hay chưa. Đã ba năm kể từ khi thành lập, vẫn còn những băn khoăn về hiệu quả thực sự
của mô hình đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước này. Số liệu thống kê các chỉ số kinh
doanh của SCIC chủ yếu lưu hành trong nội bộ doanh nghiệp, không cho phép sự tiếp
cận từ bên ngoài nên rất khó để có nhận định chính xác và cụ thể về nỗ lực của Tổng
công ty. Một khi kết quả kinh doanh không được công bố công khai thì những thắc mắc
32
32
như trên ắt hẳn sẽ còn tồn tại, và những nghi ngờ về tính hiệu quả mà SCIC đạt được sẽ
còn tiếp tục trong đánh giá của dư luận cũng như của các chuyên gia.
2.2.1.3. Gánh nặng là những trì níu của cơ chế cũ. Cơ chế chủ quản với hệ thống
chế tài lỏng lẻo, lạc hậu đã làm phương hại đồng vốn Nhà nước nhưng lại là mảnh đất
màu mỡ cho nhiều tổ chức, cá nhân liên quan. Do là mô hình mới và lại đứng ra quản lý
vốn đầu tư của hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước nên SCIC đụng chạm lớn đến quyền
lợi của nhiều bộ, ngành, địa phương, những cơ quan trước đây là chủ sở hữu, quản lý
doanh nghiệp. Lực lượng này gồm lãnh đạo cơ quan chủ quản và lãnh đạo doanh nghiệp
thuộc diện chuyển giao. Với cơ quan chủ quản, phần lớn lãnh đạo tìm cách từ chối, né
tránh hợp tác với SCIC trong việc định giá doanh nghiệp hoặc tự đặt các điều kiện về
quyền lợi cục bộ và đòi hỏi SCIC đáp ứng. Một số bộ, ngành, địa phương buông lỏng
quản lý doanh nghiệp trước khi chuyển giao phần vốn Nhà nước về SCIC, dẫn đến bộ
máy doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả; nội bộ doanh nghiệp mất đoàn kết kéo dài,
người đại diện không tuân thủ các quy định pháp luật. Bộ máy còn thiếu nhân lực của
SCIC đã phải mất rất nhiều thời gian cơ cấu lại các doanh nghiệp này trong vai trò là cổ
đông lớn nhất.
Ngay cả trong Nghị định 109/2007/NĐ-CP về chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà
nước thành công ty cổ phần, mới được ban hành ngày 26/6/2007, vẫn có quy định yêu
cầu khi cử người đại diện trong công ty cổ phần phải lấy ý kiến UBND ở địa phương. Đó
cũng là quy định “khó hiểu” và gây khó khăn không nhỏ cho tiến trình tách bạch quyền
sở hữu doanh nghiệp với cơ quan chủ quản. UBND các địa phương không có liên quan
gì đến quyền sở hữu DNNN để có thể cho ý kiến về các chức danh lãnh đạo doanh
nghiệp. Nhiều DNNN lớn vẫn án binh bất động nằm im trong sự chủ quản của các bộ
ngành. Rõ ràng, những khó khăn mà SCIC đang đương đầu không chỉ đến từ một phía.
Ở đây có hai nguyên nhân: thứ nhất, một số cán bộ do giữ quan điểm cũ là Nhà
nước phải quản chặt doanh nghiệp. Thậm chí một lãnh đạo cấp bộ còn tuyên bố:
“Chuyển giao vốn thì được nhưng về nhân sự thì vẫn phải để lại cho bộ quyết định!”.
Nguyên nhân thứ hai vì quyền lợi cục bộ, cá nhân nên họ đã dùng nhiều cách thức đối
phó. Ví dụ: cố tính trì hoãn và từng bước bán hết phần vốn Nhà nước ra ngoài. Tất nhiên
33
33
cái giá họ bán thường cực kỳ rẻ mạt để giá trị chênh lệch chảy vào túi cá nhân. Một số
nơi ráo riết sáp nhập doanh nghiệp sắp bị bán vào các tổng công ty để mong thoát khỏi
danh sách chuyển giao...Nếu những điều nêu trên không sớm được cải thiện thì đây sẽ là
rào cản khiến SCIC còn vấp phải nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động của mình.
2.2.1.4. Việc các doanh nghiệp cùng về dưới mái nhà SCIC sẽ tạo thuận lợi cho
việc điều hành và giúp Nhà nước có thêm một công cụ hữu hiệu để can thiệp khi xảy ra
cạnh tranh không lành mạnh, giúp kiểm soát khi có quá nhiều doanh nghiệp đầu tư vốn
quá lớn vào cùng một lĩnh vực. Tuy nhiên, theo điều lệ được duyệt, SCIC sẽ làm chủ
quản các công ty TNHH một thành viên, thực chất là các DNNN đã được đổi tên. Điều
này gây ra tâm lí lo ngại cho rằng các DNNN độc lập ở các Bộ bấy lâu là đối thủ cạnh
tranh của nhau, nay về dưới “mái nhà chung” sẽ làm triệt tiêu khả năng cạnh tranh của
từng doanh nghiệp nói riêng và thành phần kinh tế Nhà nước nói chung.
2.2.2 Phụ thuộc quá nhiều vào Nhà nước trong việc ra quyết định dẫn đến những
quyết định lệch lạc
Do SCIC là một tổ chức kinh tế đặc biệt trực thuộc Chính phủ nên khả năng bị
phụ thuộc (thậm chí là bị chi phối) trong việc ra quyết định là rất lớn. Điều này đã được
chứng minh trong những quyết định mà SCIC đưa ra trong thời gian vừa qua. Việc lệch
lạc ở đây không hẳn là những quyết định có sự ảnh hưởng của Chính phủ là sai lầm mà
nó còn là sự lệch lạc khỏi những ý định ban đầu. Từ đó những hoạt động của công ty
cũng có thể bị ảnh hưởng. Như đã chứng minh ở phần 1.2, việc SCIC cứu chứng khoán
là một ví dụ cho điều này. Uy tín của công ty đã suy giảm một phần khi nó làm việc mà
đáng ra phận sự của nó không nằm ở đó.
Theo cơ chế hiện hành, SCIC trực thuộc Chính phủ, lại hành động theo quyết
định của Thủ tướng trong những trường hợp đặc biệt để thực hiện nhiệm vụ vĩ mô, do
vậy nếu không cải cách từ ngay trong chính quy chế, điều lệ của bản thân công ty thì đòi
hỏi việc độc lập hoàn toàn với Nhà nước trong kinh doanh là điều không khả thi. Trong
bối cảnh hiện tại, có thể khẳng định chắc chắn SCIC vẫn chưa tách hẳn khỏi áp lực của
Nhà nước trong hoạt động của mình, mà nhiều khi lý do là Tổng công ty được xác định -
34
34
và nó cũng tự cho mình, quyền hạn có thể dùng nguồn vốn dồi dào can thiệp vào những
bất ổn của thị trường.
2.2.3. Bộ máy quản lý chưa chuyên nghiệp
Bộ máy quản lý hiện nay của SCIC hầu như là các quan chức của bộ ngành liên
quan và chủ doanh nghiệp của các doanh nghiệp thành viên cũ. Một vấn đề đặt ra liệu
kiến thức chuyên môn của các quan chức này có phù hợp với vị trí mà họ đảm nhiệm
cũng như là năng lực thật sự của họ có đảm bảo cho hoạt động trơn tru của một guồng
máy khổng lồ như SCIC. Đây là mối quan ngại đối với bất kì ai khi nhìn vào bộ máy
quản lý của SCIC. Hầu hết các quan chức chủ chốt đều lấy từ Bộ Tài chính hoặc một số
bộ ngành khác. Việc quản lý các Bộ khác với việc quản lý một doanh nghiệp và làm tốt
công việc ở Bộ chưa hẳn chứng minh rằng sẽ làm tốt điều đó trong việc quản lý SCIC.
Hơn nữa quan chức ở các Bộ thường có óc phán xét thiên về chủ quan không bắt kịp với
thực tế thương trường. Một quan chức của Bộ Tài chính cũng thừa nhận: “Chúng tôi có
kinh nghiệm quản lí, nhưng việc ra quyết định đầu tư theo tín hiệu thị trường sẽ khó
khăn, không phải cứ quản lý tốt là kinh doanh tốt” ( Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam -
số ra ngày 15/07/2005). Mặt khác, mối liên hệ trước kia của các lãnh đạo sẽ làm cho
việc độc lập hoá trong hoạt động của SCIC trở nên khó khăn hơn.
35
35
CHƢƠNG III
MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
TỪ TEMASEK HOLDINGS NHẰM THÚC ĐẨY
HOẠT ĐỘNG CỦA SCIC TRONG THỜI GIAN TỚI
I. Mối liên hệ giữa Temasek Holdings và SCIC
Từ những phân tích trên và cũng từ sự thể hiện của SCIC trong ba năm vừa qua
chúng ta đã thấy được những bất cập đang tồn tại trong lòng Tổng công ty này. Nếu cứ
để sự việc này tiếp diễn, có khả năng SCIC sẽ trở thành một trong những dự án thất bại
của Chính phủ xuất phát từ ý tưởng vô cùng tốt đẹp ban đầu. Nếu điều này xảy ra, nó sẽ
36
36
có những tác động rất xấu tới nền kinh tế đang phát triển và dễ bị tổn thương như Việt
Nam. Để truy nguyên cho những bước đi sai lầm, một trong những cách tốt nhất là SCIC
cần nhìn lại bản thân và những người đi trước, nhìn nhận cả thành công lẫn thất bại của
họ để làm bài học kinh nghiệm cho mình. Chúng tôi thiết nghĩ, SCIC là tập đoàn thành
lập dựa trên mô hình Temasek Holdings và có nhiều nét tương đồng. Temasek Holdings
đã thành công, nhưng tại sao SCIC vẫn chưa thể khẳng định mình như Temasek đã làm?
Thậm chí, chỉ trong vài năm đầu sau khi thành lập, SCIC đã vấp phải những vướng mắc
không nhỏ. Vậy liệu chúng ta có nên xem xét lại những điều mà SCIC vận dụng từ
Temasek Holdings? Liệu việc học tập của chúng ta có cần sự cải tiến thay đổi? Và cơ sở
cho sự học hỏi đó là gì?
1.1. Do sự tương đồng giữa SCIC với Temasek Holdings về mục tiêu, cách xây
dựng và quản lý
Việc lấy vốn từ nguồn ngân sách Nhà nước (cụ thể là Bộ Tài chính) và từ các
doanh nghiệp thành viên đã làm cho SCIC có những đặc điểm gần giống với Temasek
Holdings. Hơn nữa, cả Temasek Holdings và SCIC đều thành lập dựa trên ý tưởng của
Nhà nước với mục đích kiểm soát nguồn vốn đầu tư của Nhà nước, làm cho chúng có
hiệu quả cao hơn. Về cơ cấu công ty, cả hai đều có những nét tương đồng trong thành
phần tổ chức, ban quản lý lẫn các danh mục đầu tư. Chính phủ có sự kiểm soát nhất định
đối với các hoạt động của công ty thông qua quyền cổ đông. Điều này cũng dễ hiểu khi ý
tưởng thành lập SCIC được lấy từ Temasek. Trong quá trình hoạt động 2 năm qua của
SCIC, Temasek cũng đã giúp đỡ rất nhiều về chiến lược hành động. Đây chính là mối
liên hệ căn bản giữa 2 Công ty này.
1.2. Do hiệu quả của mô hình Temasek Holdings đã được chứng minh tại
Singapore và ở một số quốc gia như Trung Quốc, Indonexia...
Chúng ta đã thấy rõ những thành công của Temasek Holdings như ở Chương I
chúng tôi đã phân tích. Điều này cũng được cả thế giới hoặc chí ít là các quốc gia có ý
định thành lập loại hình công ty này công nhận. Riêng tại Singapore người ta xem
Temasek như là một trong những trụ cột của nền kinh tế bởi sự đóng góp vào GDP hàng
37
37
năm cho quốc gia là khá cao cộng với những ảnh hưởng nhìn chung là tích cực cho toàn
nền kinh tế. Không chỉ được công nhận trong biên giới quốc gia mà Temasek còn được
các tổ chức danh tiếng đánh giá rất cao. Hiện nay cái tên Temasek đã được nhìn nhận
như một hình mẫu của công ty đầu tư vốn Nhà nước hiệu quả. Các nước như Trung
Quốc và Indonexia cũng học tập theo mô hình này để kiểm soát tốt hơn các công ty đầu
tư vốn Nhà nước của mình. SCIC Việt Nam cũng là một trong những người đi sau
Temasek, vậy nên việc học hỏi lại càng cần thiết hơn.
1.3. Do yêu cầu cấp thiết về một SCIC hiệu quả đối với nền kinh tế
Chúng ta đã thấy được thực trạng cấp thiết cho vấn đề SCIC đang gặp phải. Kinh
tế Việt Nam đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa, rất cần một SCIC xứng đáng để dẫn
dắt và vực dậy những "anh cả" công ty Nhà nước vốn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế nhưng đến nay đã để mất phần lớn uy tín. Việc cải thiện vị thế quả thật không hề dễ
dàng, nhất là khi các công ty Nhà nước thường gắn với hình ảnh trì trệ từ thời bao cấp.
Cũng cần nói thêm, SCIC được coi là một giải pháp dung hoà cho câu hỏi là liệu nền
kinh tế “định hướng xã hội chủ nghĩa” (DNNN giữ vai trò chủ đạo) và nền kinh tế thị
trường (kinh tế tư nhân là động lực cho sự phát triển), có thể cùng sánh vai song hành -
thường bị một số người coi là nghịch lý. Trong con mắt không chỉ của những người sáng
lập mà còn là của Chính phủ và người dân, SCIC với nhiệm vụ to lớn nêu trên thực sự là
niềm hi vọng. Nhưng phải bắt đầu từ đâu? Tiến trình xây dựng một SCIC mang tầm vóc
quốc gia như thế nào? Làm thế nào để dự đoán và phòng tránh những thiếu sót, sai lầm
trong quá trình hoạt động của tổ chức này? Rõ ràng đây là những câu hỏi mà việc đi tìm
câu trả lời thoả đáng không hề đơn giản. Do vậy, cũng dễ hiểu khi chúng ta nhìn sang
một mô hình đã thành công trong điều kiện tương tự và lấy đó làm mục tiêu hướng tới.
Nhận thức được điều này, các nhà hoạch định ngay từ ban đầu đã có ý định lấy Temasek
làm chuẩn mực để xây dựng SCIC như một Temasek Holdings của Việt Nam.
1.4. Một đặc điểm chung giữa Singapore và Việt Nam: Doanh nghiệp Nhà nước
đóng vai trò đáng kể trong nền kinh tế
38
38
Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển và cơ hội kinh doanh mở ra cho rất nhiều
người miễn là họ có vốn và khả năng quản lý. Dù vậy, thành phần tư nhân cũng chỉ
chiếm một vị trí rất khiêm tốn. Trong khi đó thành phần kinh tế Nhà nước vẫn được ưu
ái hơn rất nhiều. Khác với đa số các nước phát triển khác như Nhật Bản hay Hàn Quốc
với sự kiểm soát thị trường thuộc về tư nhân, ở Singapore thành phần kinh tế Nhà nước
có tiếng nói chủ đạo. Chính phủ Singapore sở hữu 25% GDP - hơn một trăm công ty, tất
cả bất động sản và khả năng tiếp cận những nguồn tiết kiệm khổng lồ của tư nhân. Các
quan chức Chính phủ có nhiệm vụ phân bổ hầu hết lượng vốn đầu tư. Ngoài đất đai và
khoảng 85% lượng nhà cho thuê, Chính phủ Singapore còn kiểm soát chừng 20% GDP.
Thêm vào đó, hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế đều có cổ phần của Chính phủ. Quá
trình tư nhân hoá ở Singapore diễn ra với mức độ và phạm vi thấp hơn nhiều so với
những nước có cùng trình độ phát triển. Điểm tương đồng này với Việt Nam chứng tỏ
rằng những định hướng chính sách hay chế độ khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư
vốn Nhà nước của hai quốc gia có những điểm giống nhau. Đây là một yếu tố khách
quan giúp cho SCIC có cơ hội thuận lợi hơn để áp dụng mô hình Temasek vào thực tiễn
của mình.
II. Từ Temasek Holdings tới những khuyến nghị đối với SCIC Việt
Nam
Với những khó khăn mà SCIC đang đương đầu, như chúng tôi đã phân tích, nếu
không thực hiện các biện pháp cứng rắn và mạnh tay ngay lập tức, SCIC sẽ từ sự kỳ
vọng trở thành một thất bại không thể cứu vãn nổi. Vấn đề ở đây không phải là hướng đi
hay mục tiêu mà chính là sự lựa chọn hoạt động thiết thực hay những cam kết sẽ hành
động cho những lời hứa đã đưa ra chứ không phải việc để cho những lời hứa đó tô điểm
cho những kế hoạch tốt đẹp nhưng không có tính khả thi. Dựa trên những ghi nhận về
tính hiệu quả của Temasek Holdings đã nói ở trên, dưới đây chúng tôi xin đề xuất một số
biện pháp hi vọng có thể tháo gỡ bài toán mà SCIC đang mắc phải.
2.1. Phân định rõ chức năng Quản lý hành chính - kinh tế với chức năng Chủ
39
39
sở hữu vốn của Nhà nƣớc
Cải thiện hơn nữa sự phân chia cổ tức ở các doanh nghiệp mà SCIC góp vốn đầu
tư, đặc biệt là các DNNN. Cho đến nay, SCIC và Bộ Tài chính vẫn đang bế tắc trong
cuộc đàm phán để tìm ra cơ quan nào sẽ chịu trách nhiệm thu tiền từ các DNNN. Xét
cho cùng các công ty cổ phần lớn có xu hướng giữ tiền và không muốn nộp trực tiếp cho
Kho bạc Nhà nước. Điều quan trọng là SCIC và Bộ Tài chính phải đạt được một sự nhất
trí về việc làm thế nào để giám sát tốt hệ thống kế toán của các doanh nghiệp mà mình
đầu tư, đặc biệt là các DNNN nơi tập trung phần lớn lượng vốn SCIC, để đảm bảo doanh
thu tập trung hơn. Để siêu Tổng công ty trở thành giải pháp tối ưu cho việc quản lý và sử
dụng vốn thì trước hết cần tách bạch hoàn toàn với chức năng chủ sở hữu vốn của doanh
nghiệp.
2.1.1. Xóa bỏ cơ chế cấp phát và bao cấp vốn của Nhà nước đối với hoạt động
đầu tư của doanh nghiệp
SCIC cần hội đủ các đặc tính kỷ luật thương trường và tính chuyên nghiệp của
Temasek. Bắt đầu là những kiểm toán quốc tế nhằm đánh giá mức độ kỷ luật tài chính
của SCIC, những lượng giá độc lập về tính “ăn chắc mặc bền” của các dự án đầu tư cũng
như xem có xung đột lợi ích hay không để tránh thất thoát vốn Nhà nước. Và do 15.000
tỉ đồng (xấp xỉ 1 tỉ đôla Mỹ) vốn điều lệ của SCIC là vốn của Nhà nước, tức từ tiền thuế
của người dân, nên cần phải sớm cáo bạch với Quốc hội, người cấp vốn ban đầu cho
SCIC. Nếu cơ chế cấp phát và bao cấp vốn vẫn còn tiếp tục thì rất có thể việc SCIC
giành lại quyền sở hữu một khối lượng lớn cổ phiếu sẽ đảo ngược quá trình cổ phần hóa
mà mục tiêu là đưa đồng vốn đến các doanh nghiệp năng động. Điều này có thể sẽ khó
khăn, gây ra một sự hụt hẫng về tài chính ban đầu cho doanh nghiệp và mất một thời
gian dài để thực hiện, nhưng cần phải dũng cảm gạt bỏ ngay cơ chế bao cấp, bởi thực tế
đã chứng minh đây là cái nôi dung dưỡng cho sự ù lì thụ động trong sản xuất kinh
doanh.
2.1.2. SCIC sẽ là người quản lý số vốn của Nhà nước khi đầu tư vào các doanh
nghiệp thành viên
Để quản lí vốn Nhà nước hiệu quả hơn, SCIC cũng đang nghiên cứu xây dựng hoàn
40
40
thiện cơ chế nhằm tự chủ hơn nữa trong việc quản lí và sử dụng vốn nhưng vẫn phải tuân
theo quy định của pháp luật hiện hành. Hiện SCIC đang kiến nghị làm thế nào để thoái
vốn một cách nhanh nhất, có hiệu quả nhất thông qua việc mở rộng các hình thức bán
vốn. Có nghĩa là, ngoài hình thức bán cổ phần Nhà nước qua đấu giá như hiện nay, cần
mở thêm một số hình thức như: bán thỏa thuận, căn cứ vào giá niêm yết trên thị trường
chứng khoán để đàm phán bán vốn cho các nhà đầu tư khác. Bên cạnh đó, vấn đề quản lý
vốn Nhà nước ở các công ty sau cổ phần hóa cũng là vấn đề đáng phải quan tâm. Để việc
quản lý có hiệu quả, SCIC phải thực sự là một cổ đông được thực hiện quyền và nghĩa
vụ của cổ đông đúng theo Luật Doanh nghiệp và theo quy định điều lệ của các công ty
này. Khi doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì vốn Nhà nước ở các doanh nghiệp này
cũng sẽ tăng trưởng theo.
2.2 Xây dựng cơ chế đầu tƣ hiệu quả, công khai minh bạch đối với các dự án
đầu tƣ
2.2.1. Công khai các dự án đầu tư
Cải cách hiệu quả và tính minh bạch của cơ chế quản lí vốn Nhà nước là rất quan
trọng. Việc thành lập SCIC là cơ quan duy nhất nắm quyền sở hữu vốn Nhà nước của
các DNNN được cổ phần hoá, đánh giá và giải thể những doanh nghiệp kém hiệu quả
nằm trong cơ cấu thể chế mới nhằm cải thiện quản lý vốn. Việc chuyển quyền sở hữu ra
khỏi các bộ ngành và cơ quan Chính phủ sẽ loại bỏ các xung đột về quyền lợi giữa sở
hữu và ra quyết định, nhưng đồng thời có nguy cơ nảy sinh các giao dịch không minh
bạch vì liên quan đến những khoản tiền khổng lồ. Để kiểm soát và hạn chế nguy cơ này,
tiền đề cần thiết là phải công khai minh bạch các quyết định đầu tư cũng như những chỉ
số kinh doanh của nó.
2.2.2. Nên công bố các báo cáo tài chính hàng năm của Tập đoàn và Công ty
thành viên
Còn nhớ hoạt động gây nhiều tranh cãi nhất của SCIC gần đây là việc đầu tư vào trị
trường chứng khoán khi thị trường này đảo chiều và có nguy cơ chạm đáy. Động thái
này đã gây ra nhiều tranh cãi ngược chiều từ phía công chúng cũng như các chuyên gia.
Nhưng điều đáng nói hơn là việc không công khai số liệu mua vào bao nhiêu, phương
41
41
thức thế nào, lỗ lãi cũng như kết quả thương vụ này ra sao…vẫn còn là một ẩn số, đã tạo
ra dư luận tiêu cực, gây bất lợi cho chính bản thân SCIC. Điều này là dễ hiểu. Trong khi
chúng ta đang khuyến khích công khai minh bạch hoá các số liệu tài chính, bất cứ một
hành vi nào có vẻ đi ngược lại xu thế chung này đều ít nhiều gây nên những nhận định
ảnh hưởng tới hình ảnh cũng như uy tín của công ty. Hơn nữa, việc hạch toán kinh doanh
vẫn còn thiếu minh bạch và chưa tuân theo các tiêu chuẩn kế toán khiến các cơ chế được
sử dụng rất hiệu quả của nền kinh tế thị trường vẫn khó có thể áp dụng thành công vào
việc xác định giá trị thực của SCIC cùng những công ty thành viên của nó.
2.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật kinh tế nói riêng, tạo
cơ sở pháp lý phù hợp để công ty hoạt động
2.3.1. Tách biệt giữa quản lí công và sở hữu công
Thông qua SCIC, tổ chức đóng vai trò thực chất là nhà đầu tư trong các DNNN,
Chính phủ trung ương có thể đạt được sự kiểm soát tốt hơn về quản lí công ty thông qua
sự tập trung hoá có hiệu quả hơn quyền ra quyết định. SCIC chịu trách nhiệm chính
trong việc giám sát và quản lí tài sản của Nhà nước thông qua các cơ chế khác nhau: bổ
nhiệm hay cách chức cũng như đề xuất kế hoạch hoạt động cho những người chịu trách
nhiệm về các doanh nghiệp đầu tư, chịu trách nhiệm về tái cơ cấu và tái tổ chức các
doanh nghiệp cũng như việc phân chia, sáp nhập, giải thể hay tuyên bố phá sản của các
doanh nghiệp và sự tăng vốn trái phiếu doanh nghiệp, quyết định việc chuyển giao cổ
phần thuộc sở hữu Nhà nước, chịu trách nhiệm bảo tồn và làm tăng giá trị thuộc sở hữu
Nhà nước. SCIC cần phải nâng cao vai trò của mình bằng việc chấm dứt tình trạng bộ
ngành và các đơn vị hành chính khác của Chính phủ đều có tiếng nói trong hoạt động
thường nhật của các DNNN, cũng như cố gắng minh bạch hoá và đơn giản hoá hệ thống
quản lí tài sản Nhà nước. Về mặt lí thuyết, hoạt động của SCIC đã cải thiện một phần
hoặc tổng thể hệ thống quản trị của các doanh nghiệp mà nó có vốn góp thông qua cơ
chế người đại diện thực hiện tốt chức năng và mở ra một đợt cổ phần hoá mới, tăng cơ
hội kinh doanh cho các nhà đầu tư và cơ hội đa dạng hoá nguồn vốn cho chính bản thân
doanh nghiệp. Tuy nhiên, để điều này hoàn toàn trở thành hiện thực thì có lẽ SCIC còn
phải cố gắng rất nhiều nếu xét đến những gì nó đã thể hiện thời gian qua.
42
42
2.3.2. Làm rõ chính sách quyền sở hữu hiện nay
Việc xác định quyền sở hữu Nhà nước có xu hướng mập mờ, SCIC đang đứng giữa
ranh giới sở hữu tập thể và sở hữu Nhà nước. Điều quan trọng là phải làm rõ cơ cấu
quyền sở hữu của các doanh nghiệp, để việc quản lí tài sản Nhà nước ngày một minh
bạch hơn, tạo thuận lợi cho việc giám sát chính bản thân SCIC. Một trong những điều
kiện để bộ máy SCIC vận hành trơn tru là phải kiến tạo được sự minh bạch trong hoạt
động cũng như cơ cấu vốn, tổ chức…của những công ty mà nó có phần vốn góp, càng rõ
ràng càng tốt. Một số chính sách như “Giữ lại các công ty lớn, bỏ các công ty nhỏ” theo
mô hình Trung Quốc được kì vọng là sẽ tinh giản những DNNN làm ăn kém hiệu quả,
khiến việc quản lí giám sát trở nên dễ dàng hơn (tuy nhiên quá trình tái cơ cấu này cần
được diễn ra dần dần để các doanh nghiệp giải thể không phải chịu thiệt thòi quá lớn và
tránh dẫn đến những nguy cơ căng thẳng trong xã hội và ngành nghề). Cũng theo cách
này, các nhiệm vụ của SCIC có khả năng sẽ được thực thi tốt hơn.
2.3.3. Cố gắng tối thiểu hoá xung đột về lợi ích với Chính phủ
Trong hầu hết các chính sách kinh tế hiện nay, các Bộ của Chính phủ có xu hướng
chồng chéo trong chức năng của mình và cố gắng tranh giành để có tiếng nói và quyền
lực trong các quyết định cải cách doanh nghiệp. Để khắc phục thực trạng này, điều quan
trọng là phải có một khung khổ pháp lí gắn kết hơn nhờ đó chức năng của các Bộ được
xác định rõ ràng và không làm ảnh hưởng đến quá trình tham gia đầu tư kinh doanh của
SCIC. Các quyền lợi cục bộ có khả năng làm trì trệ việc thực hiện kế hoạch hợp tác và
điều phối các doanh nghiệp vốn trực thuộc các Bộ ngành địa phương. Như các phần trên
đã trình bày, từ quan điểm về chức năng và thực tế bộ máy lãnh đạo SCIC hiện nay chủ
yếu là những quan chức cấp cao trong các Bộ ngành Nhà nước, lo ngại về sự mâu thuẫn
lợi ích và thậm chí là thói cơ hội trong đầu tư không phải là không có cơ sở. Cần phải
tách Bộ Tài chính ra khỏi hoạt động kinh doanh của SCIC, điều này chỉ khả thi khi cắt
được tâm lí muốn duy trì quyền lực Nhà nước trong tổ chức này. Trong bối cảnh hiện
nay khi đã có chủ trương mà tiến trình thực hiện vẫn cứ chậm, dường như chỉ dừng lại ở
lời hô hào kêu gọi hơn là thúc đẩy giải quyết triệt để vấn đề, chỉ chứng tỏ một điều đơn
giản: bộ máy Nhà nước chưa đủ quyết tâm, chưa đủ mạnh để chiến thắng sự lũng đoạn
43
43
lợi ích của các quan chức bộ ngành.
2.3.4. Giải quyết vướng mắc từ sự lẫn lộn hành vi của một nhà đầu tư
Hành vi ứng xử của SCIC trong các quyết định đầu tư thường gây tranh cãi do
không có được một sự giải thích rõ ràng trong cơ chế hoạt động của nó (điều này do đặc
thù riêng của mô hình Tổng công ty Nhà nước SCIC qui định ngay trong điều khoản
quyền và nghĩa vụ sử dụng vốn, ngoài việc tự lựa chọn ra quyết định đầu tư còn phải
tuân thủ theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ khi cần thiết trong một vài trường hợp
đặc biệt): vừa là một công cụ điều tiết thị trường, vừa là một nhà đầu tư thực thụ đúng
nghĩa “đầu tư và kinh doanh vốn”. Sự nhập nhằng trong phân định thực ra không phải là
một vấn đề mới mà đã được đề cập khá lâu trước đây, nhưng để tiến tới việc tách bạch
hoàn toàn giữa các quyết định đầu tư mang tính mệnh lệnh hành chính từ cấp trên và
việc đầu tư với tư cách một nhà kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận thực sự không dễ dàng
với đa số các DNNN Việt Nam nói chung và SCIC nói riêng. Về giải pháp, chúng ta hay
nói nhiều đến quyết tâm, nhưng rõ ràng quyết tâm không đi kèm với việc mạnh dạn thay
đổi những điều lệ cứng nhắc ràng buộc SCIC phụ thuộc vào mệnh lệnh hành chính thì
không đủ.
2.3.5. Xác định rõ phạm vi và qui mô khu vực kinh tế Nhà nước
Chủ trương tập trung quản trị vốn vào một đầu mối nhằm giảm thiểu tình trạng
chồng chéo và cục bộ là hướng đi đúng, nhưng vấn đề cốt lõi vẫn là phạm vi và qui mô
khu vực kinh tế Nhà nước cần duy trì để các DNNN kinh doanh đạt hiệu năng và phát
triển cân đối với các thành phần kinh tế khác. Đây là vấn đề vĩ mô nhưng tác động trực
tiếp đến việc hoạch định chiến lược, mục tiêu, cũng như đường hướng hoạt động của
SCIC, nếu sai lầm trong việc xác định này sẽ dễ dàng dẫn đến việc bành trướng hay thu
hẹp quá mức thành phần vốn Nhà nước trong các doanh nghiệp thành viên. Theo nhận
định của nhiều chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước, Chính phủ Việt Nam vẫn còn
khá lúng túng trong việc xác định rõ phạm vi nên mở rộng khu vực Nhà nước đến đâu.
Trong khi xu hướng của nhiều nước trên thế giới là thu hẹp tỉ trọng của khu vực Nhà
nước, thì ở Việt Nam, tuy số lượng các DNNN có giảm nhưng vị thế thống trị nền kinh
tế không hề bị ảnh hưởng, bởi hầu hết những ngành, lĩnh vực trọng yếu đều do các
44
44
doanh nghiệp này nắm giữ. Thành phần kinh tế Nhà nước trước nay vốn được hưởng rất
nhiều ưu đãi. Vào năm 1991, tổng số DNNN lên đến 12.000. Con số này giảm xuống
còn phân nửa năm 1994, với khoảng 3000 doanh nghiệp bị giải thể và 2000 sáp nhập
thành công ty Nhà nước khác. Đến năm 2005, tổng số DNNN chỉ còn khoảng 3200.
Chương trình cổ phần hoá khởi đầu năm 1992, nhưng chỉ thực sự được đẩy mạnh từ năm
2000 với khoảng 2600 doanh nghiệp đã được cổ phần hóa. Tuy nhiên, vì tuyệt đại đa số
các DNNN bị thanh lý, sáp nhập và cổ phần hóa có qui mô nhỏ, đồng thời số lượng các
DNNN qui mô lớn ngày một tăng, vai trò chi phối của các doanh nghiệp này không hề
suy giảm, thể hiện qua tỷ phần sản lượng của các DNNN trên tổng sản lượng nội địa hầu
như không thay đổi.
Sự kém hiệu quả của việc duy trì một loạt những DNNN cồng kềnh được thể hiện ở
bảng sau:
Bảng 5: Bảng cơ cấu đầu tƣ theo thành phần kinh tế và tỉ trọng của từng khu vực
vào GDP
Đơn vị tính: Tỷ VND
Cơ cấu đầu tư Cơ cấu GDP
Năm 1995 2000 2003 1995 2000 2003
Khu vực Nhà nước 42 57.5 56.5 40.2 38.5 38.3
Ngân sách NN 18.7 23.8 21.6
Tín dụng đầu tư
23.3
18.5 17.2
DNNN 15.2 17.7
Khu vực ngoài quốc
doanh
27.6 23.8 26.7 53.5 48.2 47.8
Khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài
30.4 18.7 16.8 6.3 11.4 14.0
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2004 - Báo cáo chất lượng tăng trưởng kinh tế - Nguyễn Thị
Tuệ Anh, Lê Xuân Bá
Từ bảng có thể thấy, đầu tư của Nhà nước không những chiếm tỉ trọng cao mà còn
tăng tương đối so với các thành phần kinh tế khác. Trái với xu hướng đầu tư, đóng góp
45
45
vào GDP của khu vực này lại giảm đi. Năm 1995, 1% đóng góp của khu vực Nhà nước
vào GDP tương ứng với 1,04% đóng góp của đầu tư thì năm 2000 tương ứng với 1,49%
và năm 2003 cần 1,48%. Nhìn chung, 1% GDP do khu vực Nhà nước tạo ra ngày càng
cần mức đầu tư cao hơn. Khu vực tư nhân có tỷ trọng đầu tư thấp nhất nhưng lại đóng
góp nhiều nhất vào giá trị gia tăng, trái ngược hẳn với khu vực Nhà nước.
Rõ ràng, Chính phủ nên nhìn nhận lại việc hoạch định phạm vi của khu vực Nhà
nước, bởi nếu có quá nhiều DNNN thành viên nhỏ lẻ, manh mún, làm ăn không hiệu quả
như hiện nay thì SCIC sẽ khó lòng thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý của mình. Phạm vi ở
đây không chỉ có nghĩa số lượng các doanh nghiệp, đó còn là qui mô vốn mà Nhà nước
nắm giữ trong từng doanh nghiệp: doanh nghiệp nào nên giữ 100% vốn, doanh nghiệp
nào 50%, doanh nghiệp nào thì cho cổ phần hoá hoàn toàn...Nhà nước chỉ nên duy trì
những doanh nghiệp nào làm ăn hiệu quả để SCIC kiến tạo được bộ máy quản lí gọn nhẹ
và vận hành tốt.
2.4. Tổ chức đƣợc bộ máy quản lý hiệu quả
2.4.1. Nhà quản lý phải có năng lực thực sự và phù hợp với vị trí đảm nhiệm
Temasek có một bộ khung kỷ luật toàn diện liên quan đến lãnh đạo tốt và kỷ luật
tài chính. Một Uỷ ban Đầu tư sẽ tỉ mỉ lượng giá mọi đề xuất đầu tư. Nếu ai đó có khả
năng xung đột lợi ích hay chưa đủ năng lực phù hợp với từng thương vụ kinh doanh sẽ bị
đưa ra khỏi các thảo luận và quyết định. Temasek cũng không ngừng xem xét hoạt động
tài chính của chính mình qua những đánh giá của các cơ quan lượng giá quốc tế và kiểm
toán độc lập quốc tế...Kinh nghiệm của Singapore cho thấy, loại doanh nghiệp đặc biệt
này phải được vận hành bởi những người có đầu óc kinh doanh tốt, được đào tạo có bài
bản và nhìn thấy được cơ hội đầu tư ở trong và ngoài nước. Theo nhận định của chúng
tôi, SCIC, cũng như các DNNN khác, nếu muốn đẩy nhanh quá trình cải cách và hướng
tới những tiêu chuẩn toàn cầu như trong mục tiêu đã đề ra, thì cần phải thông qua đội
ngũ quản lý quốc tế lớn hơn bao gồm những người điều hành có kĩ năng kinh nghiệm và
độc lập trong việc đưa ra quyết định.
Để SCIC có thể thành công được như Temasek thì ngay từ đầu chúng ta phải tổ
46
46
chức được một bộ máy quản lý hiệu quả và thủ lĩnh phải là người có năng lực thực sự.
Nếu không đảm bảo được điều này thì vô hình chung Tổng công ty lại trở thành một cấp
quản lý nữa của DNNN.
2.4.2. Quyền ra quyết định độc lập đối với hoạt động của Tổng công ty
Temasek và SCIC có điểm tương đồng trên mô hình nhưng trong quá trình hoạt
động lại có một số điểm khác. Sự khác nhau chính yếu nằm ở chỗ Temasek độc lập với
Chính phủ trong các quyết định đầu tư. SCIC thì không hẳn như thế. Thông tin chính
thức trên trang nhà của Temasek viết rằng, trong khuôn khổ luật pháp qui định, công ty
hoạt động hoàn toàn dựa trên nguyên tắc thương mại và linh hoạt dưới sự chỉ đạo duy
nhất của Hội đồng quản trị. Trên thực tế, thành viên Hội đồng quản trị cũng như Tổng
Giám đốc Temasek phải được sự chuẩn thuận của Tổng thống Singapore, nhưng các
quyết định đầu tư, làm ăn, giao dịch là trách nhiệm của Hội đồng quản trị và Ban điều
hành. Không một ai, kể cả Tổng thống hay Chính phủ Singapore được quyền tham dự
vào việc chỉ đạo, dẫn hướng các quyết định làm ăn của Temasek. Ho Ching, giám đốc
hiện tại của Temasek, đã điều hành Temasek rất chặt chẽ và độc lập. Bà cho biết việc
công ty thuộc quyền sở hữu của Chính phủ không có nghĩa họ phải đáp ứng các yêu cầu
của Chính phủ, mà sẽ hoạt động như một doanh nghiệp, với các ban điều hành độc lập.
Còn SCIC thì hoạt động ra sao? Trên website chính thức của Tổng công ty cho thấy
cơ cấu Ban lãnh đạo bao gồm: Ông Vũ Văn Ninh - Bộ trưởng Bộ tài chính, là chủ tịch
Hội đồng Quản trị; ông Cao Viết Sinh - Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng ông
Đỗ Hữu Hào - Thứ trưởng Bộ Công thương, là uỷ viên Hội đồng Quản trị. Những thông
tin trên cho phép đặt ra câu hỏi liệu có hay không sự can thiệp vươn dài cánh tay Nhà
nước, hay thậm chí là việc “đá lấn sân” sang những lĩnh vực ngoài phạm vi qui định?
Cũng theo thông tin chính thức trên trang nhà công ty có đoạn viết, rằng trong “trường
hợp thực hiện các nhiệm vụ do Thủ tướng Chính phủ giao, nếu không có hiệu quả thì
được thực hiện các chính sách ưu đãi thích hợp và Nhà nước hỗ trợ về tài chính”. Sự độc
lập với chính quyền trong các quyết định kinh doanh có thể được xem là yếu tố cực kỳ
quan trọng để đánh giá sự tồn tại và hiệu quả của một công ty. SCIC, theo chức năng
được qui định, vừa là công ty đầu tư làm ăn, vừa là công cụ của Nhà nước trong các
47
47
chính sách kinh tế, để ngỏ khả năng lệ thuộc chính trị của Tổng công ty. SCIC là một
DNNN nên mọi sự can thiệp đều có thể dẫn đến nghi ngại là sự can thiệp của Nhà nước -
điều mà các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài băn khoăn vì không phù hợp
với cơ chế thị trường. Chính những mâu thuẫn trong trách nhiệm của công ty sẽ đặt ra
nhiều câu hỏi về hiệu quả, nhất là trong các hoạt động mang tính công cụ của Chính phủ.
Điều gì sẽ xảy ra nếu đầu tư của SCIC bị lỗ và được ngân sách bù lỗ? Trong trường hợp
đó, có hay không có sự tách biệt rạch ròi với hoạt động đầu tư thực sự của SCIC? Bởi
phía sau câu hỏi này, có thể có những khoản lỗ “ngoài vùng phủ sóng” rất nhạy cảm.
2.4.3. Không nên dùng quá nhiều lãnh đạo cấp cao xuất thân từ các bộ ngành của
Nhà nước để tránh tình trạng tham nhũng và sức ỳ quá lớn
Sự thành công của Temasek Singapore, một quốc gia có chế độ chính trị không
khác mấy so với Việt Nam, là một mô thức đáng để học hỏi. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý
rằng Singapore là một trong những nước có tỉ lệ tham nhũng thấp nhất trên thế giới, so
sánh với Việt Nam đang xếp ngang hàng với Belarus và Zimbabwe trong 1/3 phần cuối
bảng xếp hạng tham nhũng của 159 quốc gia, (theo tường trình của tổ chức Transparence
International) làm dấy lên mối lo ngại liệu nguồn vốn Nhà nước, dưới điều kiện còn
nhiều kẽ hở trong quản lí như hiện nay, có bị lạm dụng cho những mục đích sai trái?
Như phần 2 Chương II đã chứng minh, việc sử dụng những người không có kiến thức
chuyên môn trong việc điều hành một tổ chức tài chính lớn và đòi hỏi nhiều kĩ năng như
SCIC đã chứng tỏ sự không hiệu quả. Thực tế cũng cho thấy, việc các công chức Nhà
nước có tiếng nói lấn át hay tác động quá sâu vào các tổ chức kinh tế sẽ dễ dàng dẫn đến
tham nhũng hay tình trạng sức ỳ quá lớn. Ở đây thiết nghĩ cũng nên nói tới vấn đề quan
niệm. Một trong những ảo tưởng tai hại mà nhiều nước thuộc thế giới thứ ba đang nuôi
dưỡng là quan niệm cho rằng các nhà chính trị và các quan chức có thể đảm nhận thành
công các vai trò kinh doanh. Cho dù có phải đứng trước thực tế ngược lại hoàn toàn thì
càng lạ lùng là người ta vẫn cứ tin vào ảo tưởng đó. Thương trường không có chỗ cho
“mệnh lệnh cách” vốn tự thân đã là duy ý chí. Khi mang những phẩm chất của thương
gia chứ không phải “máu quan chức”, người ta sẽ không có xu hướng ra luật lệ hay
khuôn khổ theo ý mình, mà là tôn trọng luật chơi. Một khi sự can thiệp của các quan
48
48
chức Chính phủ trong việc ra quyết định giảm đi, năng suất của các DNNN sẽ tăng lên,
chúng tôi tin rằng điều này cũng đúng với SCIC. Cần gắn chế độ, quyền lợi và trách
nhiệm của người đứng đầu bộ máy với kết quả kinh doanh là điều hiển nhiên đúng đối
với bất cứ doanh nghiệp nào, nhất là với một DNNN đặc biệt như SCIC. Tương tự, khi
hệ thống quản trị công ty trở nên minh bạch hơn, trách nhiệm pháp lí trong việc bảo tồn
và làm gia tăng giá trị các tài sản Nhà nước sẽ dễ dàng hơn và tất nhiên hợp pháp hơn rất
nhiều.
49
49
KẾT LUẬN
Cho tới nay, mô hình DNNN hiệu quả vẫn còn là một bài toán chưa có lời giải đối
với các nhà kinh tế và các nhà phân tích. Những câu hỏi vẫn được tiếp tục đặt ra và các
mối quan ngại xung quanh mô hình này vẫn chưa được giải toả thoả đáng. Trong cách
doanh nghiệp vốn đầu tư Nhà nước nổi lên trên toàn thế giới cho đến thời điểm hiện nay
duy nhất chỉ có Temasek Holdings là một thành công đáng học hỏi. SCIC của Việt Nam
là một trong những công ty đi theo mô hình của Temasek Holdings nhưng cho đến thời
điểm hiện nay nó dường như đã trở thành một thất bại đáng phê phán và nghiêm túc nhìn
nhận từ phía bản thân SCIC và các nhà hoạch định chính sách Việt Nam. Trong nội dung
của bài nghiên cứu ở trên, chúng tôi đã thực hiện phân tích về thành công và một số
nhược điểm nhỏ của mô hình Temasek Holdings, từ đó đưa ra những kiến nghị cho
SCIC Việt Nam.
Nếu nhìn sâu vào ngõ ngách các vấn đề của SCIC những câu hỏi tiếp tục vẫn
được đặt ra đó là: Liệu SCIC có phải là một sự cải tổ lại tất cả các DNNN của Việt Nam
như kỳ vọng hay vẫn chỉ là “bình mới rượu cũ” của một tập hợp rời rạc các DNNN hoạt
động không hiệu quả? SCIC có thưc sự là một việc làm cần thiết đối với một nền kinh tế
đang phát triển, cần phải phát triển từ sự nỗ lực của tất cả mọi người dân bằng chứ và
quyết tâm cao của Chính phủ chứ không phải bằng những cải tổ chỉ mang tính hình
thức? Chúng tôi xin trích dẫn những ý kiến của các nhà kinh tế của trường Đại học
Havard trong nghiên cứu “Lựa chọn thành công” như một tham k
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài-Mô hình Temasek Holdings trong thực tiễn xây dựng Tổng công ty SCIC Việt Nam.pdf