Tài liệu Đề tài Lý luận giá cả của Mác và sự vận dụng lý luận trên vào nền ở nước ta hiện nay: LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, bất kỳ một nền sản xuất nào cũng phải giải quyết ba vấn đề cơ bản là sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai? Câu trả lời này chỉ có thể có được thông qua xem xét các mối quan hệ thị trường và yếu tố giá cả thị trường. Có lẽ vì tầm quan trọng đó của giá cả mà hầu như các trường phái kinh tế từ cổ điển đến hiện đại đều cố gắng đưa ra nhiều cách định nghĩa và lý giải khác nhau về giá cả thị trường, để từ đó rút ra những quy tắc chung cho điều hành sản xuất và lưu thông. Việc nắm vững nội dung, quy luật, nguyên tắc hình thành giá cả thị trường có ý nghĩa rất quan trọng trong thực tiễn hoạt động kinh tế hiện nay với mọi quốc gia. Đặc biệt với Việt Nam chúng ta, khi vừa mới gia nhập kinh tế thế giới, dù thời cơ thuận lợi có nhiều song thách thức cũng không ít, trước những biến động phức tạp của tình hình giá cả hiện nay, chúng ta cần có một nhận thức đúng đắn nhằm chỉ đạo hoạt động điều hành giá cả một cách có hiệu quả nhất. Nhận thức điều ...
41 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1387 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Lý luận giá cả của Mác và sự vận dụng lý luận trên vào nền ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, bất kỳ một nền sản xuất nào cũng phải giải quyết ba vấn đề cơ bản là sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai? Câu trả lời này chỉ có thể có được thông qua xem xét các mối quan hệ thị trường và yếu tố giá cả thị trường. Có lẽ vì tầm quan trọng đó của giá cả mà hầu như các trường phái kinh tế từ cổ điển đến hiện đại đều cố gắng đưa ra nhiều cách định nghĩa và lý giải khác nhau về giá cả thị trường, để từ đó rút ra những quy tắc chung cho điều hành sản xuất và lưu thông. Việc nắm vững nội dung, quy luật, nguyên tắc hình thành giá cả thị trường có ý nghĩa rất quan trọng trong thực tiễn hoạt động kinh tế hiện nay với mọi quốc gia. Đặc biệt với Việt Nam chúng ta, khi vừa mới gia nhập kinh tế thế giới, dù thời cơ thuận lợi có nhiều song thách thức cũng không ít, trước những biến động phức tạp của tình hình giá cả hiện nay, chúng ta cần có một nhận thức đúng đắn nhằm chỉ đạo hoạt động điều hành giá cả một cách có hiệu quả nhất. Nhận thức điều đó, qua quá trình học tập môn Kinh tế chính trị, em đã có điều kiện nghiên cứu ba đại diện có nhiều đóng góp tích cực vào lý thuyết giá trị là C.Mác. Vì vậy em chọn đề tài “Lý luận giá cả của Mác và sự vận dụng lý luận trên vào nền ở nước ta hiện nay” để trình bày một số ý tưởng của mình.
Trong giới hạn thời gian và yêu cầu môn học, em chỉ xin nêu ra những quan điểm tưởng chính của các nhà kinh tế và liên hệ với thực tế công tác điều hành giá cả tại nước ta, qua đó trình bày một số nhận định và kiến nghị một số giải pháp đối với công tác điều hành giá cả hiện nay tại nước ta. Em rất mong nhận được ý kiến góp ý của các thầy cô giáo để bài viết của em được hoàn thiện hơn!
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÝ LUẬN GIÁ CẢ VÀ VAI TRÒ CỦA LÝ LUẬN GIÁ CẢ TRONG NỀN KINH TẾ HÀNG HOÁ
1. Lý luận giá cả - lý luận kinh tế căn bản của nền sản xuất hàng hoá.
K. Mác là một trong những người đầu tiên sáng lập ra kinh tế chính trị học Macxit. Lần đầu tiên, ông đã nêu ra đối tượng của kinh tế chính trị là quan hệ sản xuất, tức là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, mà trước hết là các quan hệ sở hữu và phân phối. Từ xuất phát điểm đó, ông đi nghiên cứu về sản xuất và lưu thông hàng hóa trong xã hội. Trên cở sở phê phán và kế thừa các học thuyết của các trường phái kinh tế trước đó cộng với thiên tài bẩm sinh, Mác đã xây dựng cho mình một học thuyết kinh tế chính trị hoàn bị. Trong đó, thành tựu đầu tiên phải kể đến là phát hiện ra quy luật giá trị - quy luật kinh tế cơ bản của mọi nền sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Bằng việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, Mác đã phân biệt được hai thuộc tính của hàng hóa là giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị sử dụng là công dụng một vật, là thuộc tính tự nhiên của nó làm thỏa mãn nhu cầu nào đó của cong người, còn giá trị là hao phí lao động để làm ra hàng hóa đó. Đặc trưng của giá trị sử dụng là phải được tiêu dùng, thông qua trao đổi hàng hóa. Trong quá trình trao đổi trên thị trường, sự cạnh tranh nội bộ ngành sẽ dẫn tới hình thành giá trị trao đổi hay giá cả. Do vậy giá cả chính là giá trị thị trường của hàng hóa. Mác cho rằng giá trị là cơ sở, là nội dung còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện. Giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa. Giá cả tách khỏi giá trị, vận động xoay quanh trục giá trị. Khi giá trị thay đổi thì giá cả - giá trị trao đổi cũng thay đổi theo.
Nghiên cứu nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, Mác đưa ra phạm trù chi phí sản xuất. Trước đây, khi chưa xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất thì giá cả hàng hóa xoay quanh giá trị hàng hóa. Giờ đây, giá cả hàng hóa sẽ xoay quanh giá cả sản xuất. Trong mối quan hệ này thì giá trị vẫn là cơ sở, là nội dung bên trong của giá cả sản xuất, giá cả sản xuất là cơ sở của giá cả thị trường, và giá cả thị trường xoay quanh giá cả sản xuất.
1.1.1. Đặc điểm hoạt động của lý luận giá cả
Là một lý luận kinh tế chung, lý luận giá cả cũng như các lý luận kinh tế khác, nó có những đặc điểm sau:
Một là lý luận giá cả hoạt động thông qua hoạt động kinh tế của con người.Động lực trực tiếp thúc đẩy hoạt động kinh tế của con người là lợi ích kinh tế. Chúng vốn không giống nhau ở mỗi người, mỗi tập đoàn xã hội, vì vậy kết quả tác động của lý luận giá cả chỉ mang tính xu hướng, có thể kết quả không hoàn toàn giống nhau. Cũng vì vậy khi vận dụng lý luận giá cả, điều cốt yếu là thực hiện và kết hợp tốt lợi ích của các chủ thể tham gia các hoạt động kinh tế. Sự vận dụng lý luận giá cả của con người hoạt động vì lợi ích kinh tế là một phương tiện cho chúng ta biết được sự hoạt động của lý luận giá cả.
Hai là lý luận giá cả hoạt động thông qua sự vận động của giá cả trên thị trường. Đặc điểm này đòi hỏi việc vận dụng lý luận giá cả, điều cốt yếu là phải biết lựa chọn, tổ chức thực hiện tốt phạm trù giá cả. Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá cả. Giá cả phụ thuộc vào giá cả, vì giá cả là cơ sở của giá cả. Nhưng do tác động của lý luận cung cầu,tình trạng độc quyền trên thị trường và các nhân tố khác làm cho giá cả hàng hoá trên thị trường có thể tách rời giá cả, lên xuống xung quanh giá cả của nó. C.Mác gọi đó là “vẻ đẹp” của lý luận giá cả. Trong ‘vẻ đẹp” này, giá cả hàng hoá là trục, giá cả của hàng hoá trên thị trường lên xuống quanh trục đó. Đối với mỗi hàng hoá riêng biệt, giá cả của nó có thể cao hơn, thấp hơn hoặc phù hợp với giá cả. Nhưng cuối cùng, tổng giá cả phù hợp với giá cả của chúng. Chính nhờ phương thức vận động như vậy của giá cả mà lý luận giá cả phát huy tác dụng.
Ví dụ khi sản xuất ra một cái rìu theo định nghĩa là lượng tiền đúng bằng hao phí lao động xã hội cần thiết của người thợ thủ công. Nhưng do tác dụng của quan hệ cung cầu làm cho lượng tiền để mua được cái rìu lớn hơn( cầu lớn hơn cung) hoặc nhỏ hơn( cầu nhỏ hơn cung) giá cả của nó. Tuy nhiên vai trò quyết định là lý luận giá cả, còn lý luận cung cầu chỉ mang tính phụ trợ cho sự hoạt động của lý luận giá cả vì Mác chứng minh rằng ngay cả khi cung cầu cân bằng nhau giá vẫn biến động. “Mác khẳng định: dù giá cả hàng hoá được điều tiết như thế nào thì lý luận giá cả vẫn chi phối sự vận động của chúng”
Ba là tính lịch sử của lý luận giá cả.Đặc điểm này nhấn mạnh đến cơ sở xác định của sự xuất hiện và tồn tại của lý luận giá cả từ đó đòi hỏi việc vận dụng lý luận giá cả phải tính đến điều kiện lịch sử cụ thể của những cơ sở tồn tại của nó để có những hình thức và biện pháp phù hợp.Cơ chế thị trường tự điều tiết là cơ chế vận động của hệ thống lý luận kinh tế trước hết là lý luận giá cả. lý luận giá cả là “thống soái” chi phối cơ chế thị trường. Vận dụng lý luận giá cả như một đòn bẩy cho sự phát triển của kinh tế thị trường là một chính sách đúng đắn.
1.1.2. Những yêu cầu của lý luận giá cả trong nền kinh tế hàng hoá
Nói đến hàng hoá là nói đến hai đặc tính của nó là giá cả và giá cả sử dụng. Hàng hoá được sản xuất ra để bán trên thị trường nên giá cả hàng hoá là đặc tính quan trọng nhất. Trong nền kinh tế hàng hoá muốn thúc đẩy sự phát triển của nó thì cần phải tuân theo những yêu cầu của lý luận giá cả trong sản xuất và trong lưu thông.
Lý luận giá cả quyđịnh mặt chất và sự vận động về mặt lượng của giá cả hàng hoá. Theo lý luận này:
“sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở giá cả hàng hoá hay thời gian lao động xã hội cần thiết”.
Điều đó có nghĩa là:
Trong sản xuất: lý luận giá cả yêu cầu hao phí lao động xã hội cá biệt để sản xuất ra hàng hoá phải phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết.
Ví dụ hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một kg thóc là 2000 đồng. Người nông dân muốn bán được với thu lợi thì hao phí lao động cá biệt để sản xuất ra một kg thóc phải nhỏ hơn 2000 đồng.
Thực hiện yêu cầu này, các chủ thể sản xuất hàng hoá phải định mức hao phí lao động, vật tư máy móc… sao cho hao phí lao động của mình phù hợp hoặc nhỏ hơn hao phí lao động xã hội cần thiết. Như vậy nghành sản xuất nào áp dụng kinh tế mới trước nhất thì hao phí lao động cá biệt sẽ nhỏ hơn hao phí xã hội cần thiết, nhưng họ bán hàng phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết thì sẽ phát tài.
Trong lưu thông: lý luận giá cả yêu cầu trao đổi ngang giá.
Ví dụ một cái rìu đổi được 20kg thóc tức là hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một cái rìu phải phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra 20kg thóc. Lý luận giá cả đòi hỏi phải căn cứ vào giá cả xã hội để tiến hành trao đổi theo nguyên tắc ngang giá. Người bán đảm bảo: đúng số lượng, chất lượng, giá cả sử dụng, người mua phải trả đúng giá cả hàng hoá đảm bảo sự bình đẳng,công bằng không vi phạm lợi ích của nhau giữa người sản xuất và tiêu dùng hàng hoá.
Muốn vận dụng tốt lý luận giá cả trong việc phát triển kinh tế hàng hoá thì ngoài những nghiên cứu về sự xuất hiện, tồn tại cùng với những đặc điểm, tính chất của lý luận giá cả-lý luận kinh tế của sản xuất hàng hoá chúng ta còn phải nghiên xem xét đến vai trò của lý luận giả trị trong cơ sở kinh tế xác định của nó.
1.2. Vai trò của lý luận giá cả trong nền kinh tế hàng hoá
Lý luận giá cả là lý luận kinh tế chung, nó hoạt động trong tất cả các phương thức sản xuất và lưu thông hàng hoá.Với ba tác dụng cơ bản, lý luận giá cả có vai trò quan trọng trong nền kinh tế hàng hoá.
Một là lý luận giá cả có tác dụng tự phát điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Trong sản xuất, lý luận giá cả điều tiết việc phân phối tư liệu sản xuất và sức lao động giữa các nghành sản xuất thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá.
Tác dụng này của lý luận giá cả do nguyên nhân sự biến động của giá cả hàng hoá xung quanh giá cả của hàng hoá. Do quan hệ cung cầu, giá cả hàng hóa trên thị trường lên xuống xung quanh giá cả của nó. Chỉ rõ những sự mất cân đối trong việc phân phối lao động xã hội đối với các nghành sản xuất. Nếu ngành nào đó cung không đáp ứng cầu, giá cả hàng hoá lên cao thì người sản xuất sẽ đổ xô vào nghành đó. Ngược lại, khi nghành nào đó thu hút quá nhiều lao động xã hội, cung vượt quá cầu, giá cả hàng hoá hạ xuống, thì người sản xuất sẽ phải chuyển bớt tư liệu sản xuất và sức lao động ra khỏi nghành này để đầu tư vào nơi có giá cả hàng hoá cao.Nhờ vậy mà tư liệu sản xuất và sức lao động được phân phối qua lại một cách tự phát vào các nghành sản xuất khác nhau. Sự vận động của giá cả là do lý luận giá cả chi phối. Vai trò quyết định là lý luận giá cả, còn lý luận cung cầu chỉ có tính chất phụ trợ cho lý luận giá cả hoạt động. Lý luận cung cầu giải thích sự biến dạng của lý luận giá cả trong đời thường.
Trong lĩnh vực lưu thông, lý luận giá cả có tác dụng điều tiết nguồn hàng từ nơi giá thấp đến nơi giá cao. Tác dụng này của lý luận tạo nên sự cân bằng về hàng hoá trên thị trường.
Hai là lý luận giá cả tự phát kích thích sản xuất phát triển. Vì lao động xã hội cần thiết là cơ sở của giá cả hàng hoá. Trong nền kinh tế hàng hoá, người sản xuất nào mà hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội cần thiết thì thu lợi, còn người nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết thì sẽ bị thiệt, vì không thu về được toàn bộ lao động đã hao phí. Muốn đứng vững và thắng lợi trong cạnh tranh, mỗi người sản xuất đều phải luôn tìm cách rút xuống đến mức tối thiểu hao phí lao động cá biệt thông qua cải tiến kỹ thuật, tăng suất lao động. Vì thế, trong nền kinh tế hàng hoá, lực lượng sản xuất được kích thích và phát triển nhanh hơn nhiều so với trong nền kinh tế tự cấp, tự túc.
Tuy nhiên tác dụng này còn có khuyết tật là do chạy theo sản xuất những hàng hóa có giá cả cao, cho nên tạo ra tình trạng có một loại hàng hoá nào đó được sản xuất ra quá nhiều, dẫn đến hiện tượng dưa thừa, làm lãng phí lao động xã hội. Mặt khác nhiều người sản xuất chỉ chú ý đến lợi nhuận nên hàng hoá có chất lượng kém.
Ba là thực hiện sự bình tuyển tự nhiên và phân hoá người sản xuất thành kẻ giàu, người nghèo. Trong cuộc cạnh tranh chạy theo giá cả, lao động cá biệt của mỗi người sản xuất có thể không nhất trí với lao động xã hội cần thiết. Những người làm tốt làm giỏi có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động cần thiết, nhờ đó phát tài, làm giàu, mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng doanh nghiệp của mình. Đây cũng chính là tác động kích thích lực lượng sản xuất phát triển. Những người làm tốt có thể là những người biết ứng dụng những thành tựu mới của khoa học vào sản xuất để giảm hao phí lao động xã hội cá biệt. Bên cạnh đó, những người làm ăn kém cỏi không gặp may, không biết áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến, hao phí lao động cá biệt cao hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nên họ bị lỗ vốn, thậm chí đi đến phá sản. Ví dụ hai công ty dệt may sử dụng dây truyền sản xuất khác nhau. Công ty nào sử dụng dây dây truyền công nghệ mới thì hao phí lao động cá biệt sẽ nhỏ hơn của dây truyền cũ, sản phẩm làm ra có giá thành rẻ hơn mà vẫn bán đúng theo giá thị trường thì công ty đó có lãi. Như vậy lý luận giá cả bảo đảm sự bình đẳng đối với người sản xuất. tuy nhiên ngay trong quá trình thực hiện sự bình tuyển người sản xuất, lý luận giá cả đã phân hoá người sản xuất thành kẻ giàu, người nghèo. Người giàu trở thành ông chủ, người nghèo dần trở thành người làm thuê. Lịch sử phát triển của sản xuất hàng hoá giản đơn trong xã hội phong kiến dần dần sinh ra quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Quan hệ giữa kẻ giàu- người nghèo, quan hệ giữa chủ- thợ, quan hệ giữa tư sản- vô sản là quan hệ đối kháng về lợi ích kinh tế. Sự đối kháng đó tất yếu dẫn đến đấu tranh giữa người nghèo chống lại kẻ giàu, thợ chốnglại chủ, vô sản chống lại tư sản. Ngay trong cùng lớp giàu hoặc cùng lớp nghèo với nhau, cũng xảy ra cạnh tranh chèn ép, thôn tính lẫn nhau “cá lớn nuốt cá bé”, gây thiệt hại lợi ích kinh tế của đối thủ một cách tàn nhẫn. Đó cũng là một khuyết tật của nền kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường.
Từ những tác dụng của lý luận giá cả ta thấy được mặt trái của lý luận này trong cạnh tranh, do đó cần phải xem xét biểu hiện của nó trong cạnh tranh để có những giải pháp khắc phục khuyết tật.
1.3 Biểu hiện của lý luận giá cả trong cạnh tranh
Cạnh tranh là một hình thức đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất hàng hoá đựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nhằm giành giật những điều kiện có lợi nhất về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Cơ sở của cạnh tranh là chế độ tư hữu.
Vì lý luận giá cả hoạt động thông qua hoạt động kinh tế của con người nên trong cạnh tranh nó biểu hiện ở hoạt động cạnh tranh trong nội bộ nghành và cạnh tranh giữa các nghành.
Cạnh tranh trong nội bộ nghành là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra loại hàng hoá có lợi hơn để thu được lợi nhuận siêu nghạch. Lợi nhuận siêu nghạch này có đặc điểm tạm thời, không ổn định với từng nhà tư bản. Lợi nhuận siêu nghạch là phần giá cả thặng dư thu được trội hơn so với giá cả thặng dư bình thường nhờ giá cả cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá cả xã hội của hàng hoá. Như vậy hoạt động kinh tế của các nhà tư bản trong cạnh tranh trong nội bộ nghành mà thực hiện theo yêu cầu của lý luận giá cả thì sẽ thu được lợi nhuận siêu nghạch. Biện pháp cạnh tranh của các nhà tư bản là thường xuyên cải tiến kỹ thuật, nâng cao cấu tạo hữu cơ của tư bản, nâng cao năng xuất lao động nhằm làm cho giá cả cá biệt của hàng hoá xí nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá cả xã hội để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Các nhà tư bản là những nhà sản xuất giỏi vì đã vận dụng tốt lý luận giá cả trong kinh doanh. Kết quả của cạnh tranh là hình thành nên giá cả xã hội
( giá cả thị trường) của từng loại hàng hoá. giá cả này theo C.Mác: “Một mặt, phải coi giá cả thị trường là giá cả bình quân của những hàng hoá được sản xuất ra trong một khu vực nào đó; mặt khác, lại phải coi giá cả thị trường là giá cả cá biệt của những hàng hoá đã được sản xuất ra trong những điều kiện trung bình của khu vực đó chiếm một khối lượng lớn trong số những sản phẩm của khu vực này.”
Cạnh tranh giữa các nghành là sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản trong nghành sản xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn. Để đạt được mục đích các nhà tư bản sử dụng biện pháp tự do di chuyển tư bản tức là phân phối tư bản vào các nghành sản xuất khác nhau. Kết quả của cuộc cạnh tranh này là giá cả hàng hoá trở thành giá cả sản xuất đi kèm với sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Trong cạnh tranh, đặc biệt là cạnh tranh giữa các nghành sự hoạt động của lý luận giá cả thông qua sự vận động của giá cả lại có hình thức biểu hiện khác. Đó là giá cả không xoay quanh giá cả hàng hoá nữa mà nó lại xoay quanh giá cả sản xuất. Thực chất hoạt động của lý luận giá cả sản xuất là sự biểu hiện của lý luận giá cả trong thời kỳ tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản. Lý luận giá cả là lý luận “thông soái” chi phối cơ chế thị trường và lý luận giá cả sản xuất chỉ là sự biểu hiện yêu cầu của quy luật giá cả mà thôi.
Trung tâm của cơ chế thị trường là lý luận giá cả quyết định giá cả. xoay quanh trung tâm đó có các lý luận kinh tế khác như công cụ, phương tiện để thực hiện yêu cầu của lý luận giá cả. Do đó nó có sức mạnh tự điều chỉnh, A.Smith gọi là cánh tay vô hình.
1.4 Biểu hiện của giá cả trong độc quyền
Lý luận giá cả là lý luận hoạt động trong các phương thức sản xuất có sản xuất và lưu thông hàng hoá. Vì vậy cần xem xét sự hoạt động của lý luận giá cả trong giai đoạn độc quyền.
Lý luận giá cả vận động thông qua hoạt động của con người và sự vận động của giá cả. Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền tối đa hoá lợi nhuận không phải chủ yếu do sử dụng các biện pháp kinh tế như cải tiến kỹ thuật, phương pháp quản lý…mà chủ yếu là do địa vị, quyền lực thống trị của độc quuyền tạo ra. Ngày nay, độc quyền vẫn là bản chất sâu xa của chủ nghĩa tư bản, song tự do cạnh tranh vẫn tồn tại như một đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền.Theo V.I.Lênin: Tổ chức độc quyền không thủ tiêu cạnh tranh tự do là cái đã sinh ra nó: nó tồn tại ở trên sự cạnh tranh tự do và cùng với cạnh tranh tự do, do đó mà gây ra một số mâu thuẫn,va chạm và xung đột gay gắt. Bởi vậy trong các nước tư bản hiện nay, khoa học phát vẫn có tác động phát triển nhanh. So với thời kỳ trước, cạnh tranh đã mở ra môi trường rộng lớn cho sự tiến bộ khoa học- công nghệ.
Giá cả độc quyền là hình thức biểu hiện của giá cả hàng hoá trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền. Nó bao gồm chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận độc quyền. Thông thường, khi bán hàng hoá thì giá cả cao hơn giá cả hàng hoá, khi mua hàng hoá thì giá cả thấp hơn giá cả hàng hoá- đó là cơ chế mua bán theo giá cả độc quyền. Nhờ vậy mà các tổ chức độc quyền thu được lợi nhuận độc quyền. Giá cả thị trường độc quyền được hình thành do sự kiểm soát được cung( hoặc cầu), nên nhà độc quyền quyết định được giá cả. Họ có thể tăng giá bán hàng hoá dịch vụ bằng cách giảm cung, tạo nên sự khan hiếm hàng hoá dịch vụ.
Trong giai đoạn độc quyền lý luận giá cả vẫn còn phát huy tác dụng. Việc các tổ chức độc quyền mua bán theo giá cả độc quyền xét về thực chất chỉ là sự biểu hiện mới, cao hơn, nó không làm giảm hiệu lực của lý luận giá cả. Giá cả hàng hoá vẫn lên xuống xunh quanh giá cả của chúng nhưng do ưu thế độc quyền. Doanh nghiệp độc quyền có thể quyết định và kiểm soát giá cả, ít quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất như đổi mới công nghệ sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, cải tiến mẫu mã chất lượng sản phẩm. Do vậy xét về phương diện xã hội, độc quyền là hiện tượng kinh tế không hiệu quả, gây trở ngại cho việc phát triển sản xuất xã hội và phương hại đến người tiêu dùng.
Việc nhận thức và vận dụng lý luận giá cả là cần thiết khách quan. Nhưng muốn vận dụng tốt thì việc nhận thức không chỉ dừng ở nhận thức cảm tính, kinh nghiệm mà phải có trình độ nhận thức lý tính. Vì vậy cần phải nghiên cứu sự vận dụng lý luận giá cả trong nền kinh tế thị trường ở một số nước để rút ra bài học kinh nghiệm cho nước ta.
1.5 Kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc vận dụng lý luận giá cả vào nền kinh tế thị trường
Trong bài “Châu Á đang hồi phục?” của tác giả Anh Sa đăng trên Thời Báo Kinh tế Sài gòn số 16-2002, có nhận định “Trung Quốc sẽ tiếp tục là người khỏe trong khu vực”.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới phục hồi chậm chạp, một số nước muốn nền kinh tế phát triển nhanh hơn bằng cách sử dụng công cụ tỷ giá hối đoái. Do đó hiện nhiều nước, đặc biệt là nhiều nước Châu Á, lo ngại Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ để khuyến khích xuất khẩu. Nếu Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ, điều đó đồng nghĩa với việc hàng hoá Trung Quốc sẽ rẻ hơn và tràn ngập thị trường. Nhưng Thống đốc Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã tuyên bố trên baó chí là Trung Quốc không cần thiết phá giá đồng nhân dân tệ. Sự khẳng định như vậy là do Trung Quốc có dự trữ một lượng ngoại tệ mạnh đứng thứ hai trên thế giới sau Nhật Bản. Lượng dự trữ này luôn vượt nợ nước ngoài. Ngoài ra Trung Quốc còn lựa chọn giải pháp khác là cắt giảm lãi xuất. Giải pháp này dựa trên sự vận dụng lý luận giá cả vì lãi suất giảm sẽ khuyến khích đầu tư, sản xuất hàng hoá sẽ sử dụng nhiều công nghệ mới tạo ra hàng hoá có giá rẻ hơn các nước khác. Đây là giải pháp làm tăng tính cạnh tranh trong xuất khẩu hàng hoá. Một nhân tố khác giúp hàng hoá Trung Quốc lấy lại tính cạnh tranh là chi phí lao động rất thấp so với nhiều nước phát triển khác trong khu vực. chính vì vậy mà Trung Quốc đã duy trì được thặng dư thương mại liên tục.
Đây cũng là một bài học kinh nghiệm cho nước ta trong việc vận dụng lý luận giá cả trong sản xuất và khuyến khích đầu tư.
Có nhà kinh tế đã gọi “năm 2002 là năm Trung Quốc”, vì Trung Quốc đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế là 8% trong bối cảnh kinh tế thế giới phục hồi chậm chạp sau cuộc suy giảm và chỉ đạt được tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 2,5%. Năm 2002 còn là năm Trung Quốc ra nhập tổ chức thương mại thế giới( WTO). Những thành tựu thu được trong năm 2002 trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, đối ngoại đã tạo đà cho nhân dân trung quốc chuyển sang năm 2003. Vì vậy nghiên cứu sự vận dụng lý luận giá cả trong việc hoạch định những chính sách của chính phủ Trung Quốc trong năm 2002 cho nước ta những bài học kinh nghiệm tốt để phát triển.
Những thành tựu mà Trung Quốc đạt được do rất nhiều những nguyên nhân chủ quan và khách quan. Chính phủ Trung Quốc đã tìm cách kích thích nhu cầu trong nước, nhu cầu tiêu dùng và nhu cầu đầu tư, đồng thời áp dụng các chính sách khuyến khích xuất khẩu. Sau khi gia nhập WTO, môi trường ngoại thương của Trung Quốc thuận lợi hơn. Các xí nghiệp vốn ngoại đã mạnh dạn đưa nhiều dây chuyền sản xuất tại Trung Quốc, và bán ra nhiều sản phẩm sản xuất tạ Trung Quốc. Tình hình chính trị ổn định của Trung Quốc cũng là nguyên nhân dẫn đến thành công của kinh tế Trung Quốc. Trong đó sự quản lý nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị trường XHCN ở trung quốc là một nguyên nhân dẫn đến kết quả đáng mong đợi đó. Trung Quốc đã sử dụng những phương pháp, những công cụ quản lý một cách hữu hiệu nhất dựa trên một lý luận kinh tế “thống soái” trong cơ chế thị trường đó là lý luận giá cả. Xét về từng khía cạnh mà Trung Quốc đã vận dụng lý luận giá cả để có thể tránh những sai lầm và học được những kinh nghiệm tốt cho sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Các phương pháp chủ yếu mà Trung Quốc sử dụng trong quản lý nhà nước về kinh tế là: phương pháp hoạch định chiến lược, phương pháp kinh tế, phương pháp hành chính, phương pháp giáo dục. Trong đó phương pháp kinh tế là việc sử dụng các đòn bẩy kinh tế( như thuế, lợi nhuận...) tác động đến chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh, thông qua việc đạt được các lợi ích kinh tế để thực hiện các mục tiêu quản lý của mình. Ví dụ như để khuyến khích xuất khẩu, Trung Quốc đã sử dụng các biện pháp như tài trợ tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi, giảm/ miễn thuế cho doanh nghiệp mở rộng được thị phần hay có kim ngạch lớn. Lý luận giá cả được vận dụng trong hoạt động khuyến khích xuất khẩu tạo cho các doanh nghiệp có được nhiều thuận lợi trong xuất khẩu hàng hoá, lợi nhuận thu được cao hơn các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển khác mặc dù cùng sản xuất với mức hao phí lao động như nhau.
Có nhiều công cụ quản lý nhà nước được Trung Quốc sử dụng trong quản lý nền kinh tế thị truờng XHCN như Tài chính, Pháp luật. Về tài chính: các công cụ như giá cả và các đòn bẩy khác như lợi nhuận, thuế, lãi suất... được sử dụng khá phổ biến. Trung Quốc đã thực hiện cắt giảm lãi suất, tài trợ tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi, giảm miễn thuế cho doanh nghiệp mở rộng thị phần hay có kinh nghạch lớn. Việc thực hiện đều dựa trên các yêu cầu của lý luận giá cả.
Trong công tác quản lý nhà nước Trung Quốc đã đạt được một số thành công. Trong xây dựng hệ thống điều tiết vĩ mô, Nhà nước đã không buông lỏng cơ thị trường mà từng bước vững chắc xây dựng hệ thống điều tiết vĩ mô. Trong cơ chế tài chính, Nhà nước thực hiện phân rõ thu chi, phân cấp đảm nhận, xây dựng chế độ phân chia thuế khoá thích ứng với yêu cầu thị trường. Đó là do sử dụng lý luận giá cả một cách linh hoạt.
Tuy nhiên không tránh khỏi những hạn chế đó là do sự can thiệp của chính phủ qua nhiều trong kiểm soát và đầu tư vi phạm tính khách quan của lý luận giá cả.
Từ thực tiễn có thể rút ra một số kinh nghiệm cho việc vận dụng lý luận giá cả trong công tác quản lý nhà nước về kinh tế ở việt nam.
Trước hết là tạo lập môi trường kinh tế ổn định, thuận lợi để tăng trưởng kinh tế nhanh,vững chắc, đưa ra được khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động sản xuất kinh doanh đối với các thành phần kinh tế như: có quy định về thu thuế thu nhập doanh nghiệp sao cho khuyến khích doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu nhưng cũng hạn chế sự dư thừa hàng hoá trên thị trường; có những quy định ưu đãi về các nguyên liệu đầu vào đối với các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hoặc hoạt động sản xuất kinh doanh trong các đặc khu kinh tế...Tiếp sau đó là đổi mới chính sách tài chính và tiền tệ. Nhà nước nên tiếp tục thực hiện đổi mới cơ chế quản lý tài chính của các doanh nghiệp nhà nước gắn với quá trình sắp xếp lại các doanh nghiệp đó. Đổi mới chính sách tiền tệ càn hướng vào mục tiêu: ổn định giá cả đồng nội tệ,ổn định tỷ giá hối đoái thực tế, đảm bảo tín dụng hợp lý với nhu cầu kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho mọi hoạt động tài chính trong nền kinh tế. Đổi mới chính sách thu nhập đi đôi với chính sách giá cả thông qua thị trường, như vậy qua thị trường mới cân bằng giữa lương và giá. Theo kinh nghiệm của Trung Quốc, tam giác giá-lương-thị trường là tam giác “thần” đẩy nền kinh tế phát triển. Phối hợp tốt ba yếu tố này là tuân theo những yêu cầu của lý luận giá cả và đảm bảo tính khách quan.
Nhìn chung nền kinh tế thị trường ở Việt Nam vẫn còn chưa hoàn thiện.Muốn thúc đẩy nền kinh tế phát triển cần sử dụng hiệu quả các đòn bẩy kinh tế.
CHƯƠNG 2
SỰ VẬN DỤNG LÝ LUẬN GIÁ CẢ V À VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG NỀN KINH TẾ HÀNG HOÁ VÀ VẬN DỤNG NÓ TRONG NỀN KINH TẾ NƯỚC TA THỜI GIAN QUA.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM VẬN DỤNG TỐT LÝ LUẬN GIÁ CẢ Ở VIỆT NAM.
2.1 Thực trạng sự vận dụng lý luận giá cả ở nước ta trong thời gian qua
Cơ chế thị trường tự điều tiết là cơ chế vận động của hệ thống các lý luận kinh tế. Lý luận giá cả là lý luận “thống soái” chi phối cơ chế thị trường. Lý luận giá cả quyết định giá cả hàng hoá dịch vụ mà giá cả là tín hiệu nhạy bén nhất của cơ chế thị trường. Hoạt động của lý luận giá cả được thể hiện bằng hững đòn bẩy kinh tế như giá cả, lãi suất, thuế, tín dụng, tiền tệ…Do đó sự vận dụng lý luận giá cả trong nền kinh tế chính là việc sử dụng những đòn bẩy kinh tế trên, trong nền kinh tế thị trường, tuân theo nội dung lý luận.
2.1.1 Vận dụng lý luận giá cả trong công cuộc đổi mới chính sách giá cả
Nghị quyết đại hội đảng lần thứ VI đã chỉ đạo: “phấn đấu thi hành chính sách một giá, đó là giá kinh doanh thương nghiệp. Chính sách giá cả phải vận dụng tổng hợp các lý luận, trong đó lý luận giá cả có tác động trực tiếp. Giá cả phải phù hợp với giá cả, đồng thời phải phù hợp với sức mua của đồng tiền và tính đến quan hệ cung cầu, không thể ổn định giá bằng cách giữ giá cả cứng nhắc, bất chấp sức mua của đồng tiền, bất chấp quan hệ cung cầu và sự biến động của các yếu tố hình thành giá cả.”
Thực hiện phương hướng trên đây, trong những năm 1978-1988, nhà nước đã tiếp tục điều chỉnh giá mua nông sản, giá bán tư liệu sản xuất, giá bán lẻ hàng tiêu dùng, và việc điều chỉnh được làm dần từng bước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân trong đó có hậu quả của cuộc tổng điều chỉnh giá tháng 10-1985 cộng với sự bao cấp qua vốn đã làm cho “lạm phát ngầm” trong nền kinh tế nổi lên bề mặt của đời sống kinh tế xã hội và tạo nên lạm phát cao phi mã. Để chống được lạm phát hàng loạt các biện pháp được đề ra và tổ chức thực hiện. Đặc biệt là những biện pháp chống bao cấp.
Về giá Nhà nước đã từng bước chuyển hệ thống giá mua nông sản, giá bán lẻ và giá bán vật tư sang cơ chế kinh doanh( đầu năm 1989 thực hiện mua nông sản, bán vật tư nông nghiệp theo giá thoả thuận sát giá thị trường; thực hiện cơ chế một giá kinh doanh đối với hàng tiêu dùng; thực hiện tính đúng tính đủ đối với các loại vật tư cơ bản để chuyển sang cơ chế một giá kinh doanh…). Giá thị trường xoay quanh giá cả hàng hoá của nó, điều này là do tác động của lý luận cung cầu. Nhưng lý luận cung cầu chỉ thực hiện yêu cầu của lý luận giá cả. Do đó việc chuyển hệ thống giá mua nông sản, giá bán lẻ và giá bán vật tư nông nghiệp theo giá thoả thuận sát với giá thị trường là thực hiện yêu cầu của lý luận giá cả.
Có thể khẳng định, sự thành công trên được đường lối mới của Đại hội Đảng VI soi đường thông qua việc chúng ta đã thực hiện việc chuyển đổi cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường; thực hiện cải cách toàn bộ hệ thống giá theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và coi đây là khâu đột phá của tiến trình đổi mới cơ chế kinh tế. Cơ chế kinh tế mới với đặc trưng cơ bản của nó là nhà nước đã tự rời bỏ quyền can thiệp sâu, quyết định mọi vấn đề của sản xuất kinh doanh và trao lại quyền đó cho đúng người chủ và đúng địa chỉ của nó. Người sản xuất kinh doanh được tự chủ trong quá trình sản xuất kinh doanh trên cơ sở những tín hiệu khách quan của thị trường.Nhà nước đã giải phóng cơ chế giá kế hoạch, không còn công bố những tỷ lệ trao đổi hiện vật định sẵn, chủ quan để buộc thị trường chấp nhận chuyển sang thực hiện cơ chế giá thị trường.
Cơ chế giá kế hoạch là một cơ chế cứng nhắc, nó vi phạm tính khách quan của lý luận giá cả. Thực hiện cơ chế giá thị trường, một cơ chế giá linh động, sự vận động của giá cả thị trường là tuân theo những lý luận kinh tế hoạt động trong cơ chế kinh tế thị trường. Chính sách của Đảng đã chú ý đến tính khách quan của lý luận giá cả, một khía cạnh quan trọng, có tác động rất lớn trong việc phát triển kinh tế.
Trong năm 1991-1995, trên cơ sở những thành quả và kinh nghiệm đạt được trong những năm đầu của cuộc cải cách kinh tế nói chung và cải cách nói riêng, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII tiếp tục chỉ đạo: “Kiên trì vận dụng cơ chế thị trường đối với giá hàng tiêu dùng, tư liệu sản xuất, tỷ giá hối đoái, lãi suất tín dụng; điều chỉnh từng bước mặt bằng giá và quan hệ tỷ giá cho phù hợp với sự thay đổi của giá quốc tế với các loại vật tư, nguyên liệu, thiết bị nhập khẩu, song phải đảm bảo sản xuất phát triển, kiểm tra và giám sát các loại vật tư, hàng hoá dịch vụ, quan trọng nhất là giá của một số đơn vị độc quyền kinh doanh. Tiếp tục xoá bỏ các hình thức phân phối hiện vật, tính đủ giá cả đối với tài sản đất đai tài nguyên…đưa vào sử dụng”.
Thực hiện nghị quyết trên, về cơ chế quản lý giá, chúng ta xác định rõ: việc quản lý sẽ được thực hiện thông qua các hình thức can thiệp gián tiếp bằng các biện pháp quản lý vĩ mô ngoài công cụ giá(điều hoà cung cầu, chính sách thuế, tỷ giá hối đoái, lưu thông tiền tệ, xuất nhập khẩu, kinh doanh nội địa…để tác động đến giá thị trường xã hội chủ nghĩa và giá hàng hoá quan trọng thiết yếu cho sản xuất đời sống,hướng sự hình thành và vận dụng giá cả thị trường vào thực hiện các mục tiêu định hướng của nền kinh tế ! Can thiệp trực tiếp với mức độ khác nhau phù hợp với tính chất của từng loại hàng hoá dịh vụ như định giá chuẩn hoặc giá giới hạn đối với đất đai, tài nguyên và một số ít hàng hoá dịch vụ quan trọng độc quyền, hàng hoá dịch vụ chi từ nguồn ngân sách Nhà nước. Đảng ký giá đối với một số hàng hoá quan trọng cho sản xuất và đời sống… Hiệp thương giá theo yêu cầu của doanh nghiệp… Thực hiện niêm yết giá…
Đặc biệt, để chủ động thực hiện tốt công tác bình ổn giá ngày 12/4/1993 Thủ tướng chính phủ đã có quyết định số 151/TTG về việc: “hình thành và quản lý quỹ bình ổn giá”.
Cùng với việc hình thành Quỹ bình ổn giá, trong những năm 1991-1995, Nhà nước đã chủ động từng bước điều chỉnh giá một số vật tư, hàng hoá thuộc danh mục Nhà nước định giá cho phù hợp với chi phí sản xuất, lưu thông quan hệ cung cầu và giá cả thị trường thế giới(năm 1995 so với năm 1991 giá điện tăng gấp 2,4 lần, xăng ô tô tăng gấp 1,4 lần,xi măng tăng gấp 2,5 lần, giấy tăng gấp 1,3 lần…)
Việc điều chỉnh giá những vật tư quan trọng trên đây đã góp phần từng bước xoá bỏ bao cấp qua giá, tính đúng, tính đủ chi phí, giảm bù lỗ, tiến tới xoá bỏ bù lỗ tăng thu cho ngân sách. Điều quan trọng hơn là việc điều chỉnh giá những vật tư quan trọng là đầu vào của sản xuất, buộc các doanh nghiệp phải sử dụng tiết kiệm vật tư, tăng cường quản lý, giảm chi phí sản xuất, lưu thông, đổi mới mặt hàng nâng cao chất lượng để cạnh tranh được trên thị trường trong nước và thế giới. Sự điều chỉnh này đã thực hiện những yêu cầu của lý luận giá cả và khắc phục những mặt trái của lý luận này. Một trong những khuyết tật được hạn chế là: việc chạy theo lợi nhuận của các nhà sản xuất bằng cách cắt giảm chi phí để hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, làm cho chất lượng hàng hoá kém, ảnh hưởng đến người tiêu dùng.
Thực hiện các chính sách, biện pháp giá cả trên, cùng với các biện pháp quản lý vĩ mô khác như: Điều hoà cung cầu xuất nhập khẩu, thuế, tín dụng, tỷ giá hối đoái… góp phần vào việc kiềm chế và đẩy lùi lạm phát đưa chỉ tăng giá tiêu dùng từ 67,5 % năm 1991 xuống còn 12,7% năm 1995; thúc đẩy việc thay đổi cơ cấu kinh tế, phân bổ và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn lực của đất nước.
Những năm gần đây, công tác giá đã tập trung vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về giá, tạo môi trường pháp lý tiếp tục xoá bao cấp giá, giảm thiểu tình trạng bảo hộ, trợ cấp xin cho không hợp lý để người sản xuất kinh doanh chủ động tính toán hiệu quả kinh tế cạnh tranh lành mạnh về giá cả. Tiếp tục thực hiện điều chỉnh giá những hàng hoá dịch vụ thuộc danh mục nhà nước định giá phù hợp với lộ trình hội nhập quốc tế. Thực hiện thẩm định giá đối với các tài sản góp vốn đầu tư liên doanh; các tài sản vật tư thiết bị có giá rrị cao, khối lượng mua sắm từ nguồn ngân sách nhà nước. Đồng thời thực hiện biện pháp nhằm góp phần giữ bình ổn giá cả thị trường, ngăn ngừa thiểu phát trong những năm 1999-2000.
Thực hiện biện pháp giá cả trên cùng phối hợp đồng bộ với các chính sách quản lý khác như: điều hoà cung cầu, xuất nhập khẩu, chính sách tài chính tiền tệ … đã góp phần kiềm chế lạm phát, kéo chỉ số giá tiêu dùng tiêu dùng xuống mức tăng dưới 10%, thúc đẩy việc tăng trưởng kinh tế, phân bổ và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn lực của đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 7-8%/năm. chính vì vậy tại công văn số 472-CV/TW ngày 13-4-2000 của ban thương vụ Bộ chính trị- Ban chấp hành TW Đảng gửi Ban cán sự Đảng Ban vật giá, Chính phủ đã khẳng định: “Trong những năm qua, Ban vật giá chính phủ đã có nhiều những cố gắng để nghiên cứu đề xuất các cơ chế mới mà đáng chú ý là cơ chế bình ổn giá, mở rộng hoạt động thẩm định giá … góp phần vào việc ổn định thị trường, đẩy mạnh sản xuất phát triển và ổn định đời sống nhân dân”.
Để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đảm bảo cho giá cả đóng góp vai trò tích cực, có hiệu quả vào quá trình sản xuất bảo vệ người tiêu dùng, Nhà nước cần phải kiểm soát giá độc quyền đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh độc quyền . vận dụng lý luận giá cả trong việc kiểm soát giá độc quyền cũng chính là tác động tới sự vận động của giá cả độc quyền với mục đích bảo vệ người tiêu dùng và đạt hiệu quả trong sản xuất. Các giải pháp được sử dụng để kiếm soát giá đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực độc quyền là:
Thứ nhất là căn cứ vào tính chất và mức độ độc quyền của từng nghành hàng hóa độc quyền mà có những hình thức quy định giá thích hợp . Giải pháp này không hề vi phạm tính khách quan của lý luận giá cả, vẫn đảm bảo giá cả hàng hóa vận động quanh giá cả của nó.
Thứ hai, Ngoài việc kiểm soát việc chấp hành các mức giá mà nhà nước quy định, cần phải kiểm tra chi phí sản xuất một cách chặt chẽ và nghiêm ngặt trên chi phí sản xuất hợp lý. Chi phí sản xuất hợp lý phải dựa trên những định mức tiên tiến và có tham khảo với các nước trong khu vực và thế giới.
Thứ tư, Dân chủ hóa trong việc định giá đối với sản phẩm hàng hóa dịch vụ của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực độc quyền.
Thứ năm, Mức giá nhà nước quy định đối với hàng hóa độc quyền cần gắn với chất lượng của nó và chất lượng dịch vụ.
Trong kiểm soát giá độc quyền, nhà nước ta đã vận dụng triệt để lý luận giá cả, đưa ra những quy định chặt chẽ vừa đảm bảo công bằng với người tiêu dùng, với nhà sản xuất, vừa đảm bảo cho sự phát triển nền kinh tế.
Tuy có nhiều thành công nhưng nếu so với yêu cầu giai đoạn mới, cơ chế quản lý điều hành với hệ thống giá hiện tại còn bộc lộ nhiều như điểm như: Tình trạng độc quyền, liên minh độc quyền, đầu cơ lũng đoạn, cạnh tranh không lành mạnh về giá nhằm thu lợi nhuận không chính đáng làm phương hại đến lợi ích người tiêu dùng diễn ra khá phổ biến nhưng chưa có luật lệ kiểm soát có hiệu quả; Tình trạng thương mại bất công bằng, gian lận chi phí sản xuất, chi phí đầu tư và giá cả góp vốn, gian lận giá cả chưa có cơ chế khắc phục. Sự hội nhập của nền kinh tế nước ta vào kinh tế khu vực và thế giới cũng đã được thúc đẩy một bước; nhưng những biện pháp kinh tế để kiểm soát việc xuất nhập khẩu chưa được xử lý linh hoạt; khi xuất khẩu được giá thì tranh mua đấy giá nội địa tăng cao, tranh bán ngoài nước làm cho giá hạ thấp; khi giá thế giới hạ không đẩy mạnh mua xuất khẩu làm cho giá hạ thấp không hợp lý, nhiều khi vượt quá cả nhu cầu tiêu dùng nội địa gây ứ đọng, giá hạ thấp… chính sách cơ chế đối với vùng núi và vùng sâu vùng xa, cơ chế giá bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, người sản xuất và của Nhà nước còn sơ khai, kém hiệu lực… những tồn tại chủ yếu sự lợi dụng khe hở pháp luật của những kẻ làm ăn bất chính; sự hướng dẫn thực hiện không chặt chẽ của nhà quản lý.
2.1.2 Vận dụng lý luận giá cả trong hạch toán kinh tế ở các doanh ngiệp nhà nước
Hạch toán kinh tế là phạm trù kinh tế gắn liền với sự hoạt động của các doanh nghiệp trong điều kiện tồn tại sản xuất hàng hóa, đồng thời hạch toán kinh tế là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô. Kinh nghiệm thực tiễn qua nhiều đợt cải tiến công tác quản lý ở nước ta đã chứng tỏ rằng: không có hạch toán chừng nào cơ chế tập trung quan liêu bao cấp còn thống trị, chừng nào chưa thừa nhận trên thực tế sản xuất hàng hóa, lý luận giá cả và các phạm trù của nó. Ở nước ta hiện nay sự chuyển đổi cơ chế kinh tế trên phạm vi toàn nền kinh tế ở tầm vĩ mô, gắn liền với nó là sự chuyển biến từ quan hệ bao cấp sang quan hệ hạch toán kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp là người sản xuất hàng hóa, để đứng vững trên thị trường họ không thể không tính đến hiệu quả sản xuất kinh doanh thông qua các hình thức: giá cả, lợi nhuận,chi phí, giá cả,…thường xuyên so sánh đối chiếu đầu ra đầu vào. Mỗi doanh nghiệp là đơn vị hạch toán kinh tế độc lập. Lợi nhuận luôn là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp. Để đạt được mục tiêu đó doanh nghiệp phải hạ thấp chi phí sản xuất bằng cách hợp lý hóa sản xuất, tiết kiệm chi phí vật chất và tăng năng suất lao động. Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều tuân theo yêu cầu của lý luận giá cả. Mọi hình thức áp dụng đều làm cho hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội.
Vận dụng lý luận giá cả trong hoạt động hạch toán kinh tế tạo điều kiện phát huy mọi tiềm năng , thúc đẩy tính chủ động sáng tạo, phản ứng nhanh nhạy, kịp thời nắm bắt nhu cầu thị trường, thường xuyên cải tiến phương pháp tổ chức quản lý, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật… làm cho doanh nghiệp tự chủ và sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Tuy nhiên không tránh khỏi tình trạng chạy theo lợi nhuận mà cắt giảm chi phí bằng các cách như trốn thuế, sản phẩm không đảm bảo sự an toàn,… là những khuyết tật cần chú ý khi vận dụng lý luận giá trị .
2.1.3 Vận dụng lý luận giá cả trong các phạm trù kinh tế: Tài chính, Tín dụng, Lưu thông tiền tệ
Tài chính, tín dụng, lưu thông tiền tệ là những phạm trù kinh tế khách quan gắn liền với kinh tế hàng hóa như là những điều kiện của tái sản xuất, đồng thời chúng còn là công cụ vĩ mô điều tiết nền kinh tế.
Tài chính là phạm trù kinh tế gắn liền với kinh tế hàng hóa và sự vận động của tài chính chịu sự tác động chi phối của cơ chế thị trường với những lý luận nội tại của nền sản xuất hàng hóa. Trong nền kinh tế thị trường, nguồn tài chính không chỉ bao gồm giá cả tổng sản phẩm xã hội , mà còn là giá cả tài sản quốc gia. Vì vậy không bó hẹp trong phạm vi phân phối giá cả của cải xã hội và tài sản quốc gia. Kinh tế thị trường buộc các doanh nghiệp phải tự lo liệu các hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình từ việc đầu tư vốn, tổ chức kinh doanh đến tiêu thụ sản phẩm , nên tài chính đồng thời vừa là phương tiện, vừa là mục đích của các hành vi kinh tế. Hoạt động tài chính trong nền kinh tế thị trường có tác động tích cực đối với tăng trưởng kinh tế. Việc vận dụng lý luận giá cả trong phạm trù tài chính thể hiện trong chức năng cơ bản của tài chính đó là chức năng tổ chức giám sát . Tổ chức giám sát: tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều gắn liền với các hoạt động tài chính thông qua sự vận động của đồng tiền. Lý luận giá cả hoạt động thông qua sự vận động của giá cả, mà giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá cả, nên có thể nhận định rằng lý luận giá cả hoạt động thông qua sự vận động của đồng tiền khi vận dụng nó vào trong phạm trù tài chính.
Tín dụng là quan hệ kinh tế dưới hình thức quan hệ tiền tệ mà người chủ sở hữu cho người khác vay trong thời gian nhất định để thu món lời là lợi tức. Thừa nhận hoạt động tín dụng là hình thức kinh doanh tiền tệ thì lợi tức phải được xem như giá cả của loại hàng hóa- tiền tệ và nó thay đổi theo quan hệ cung cầu trên thị trường tiền tệ. Mặt khác lý luận cung cầu chỉ là sự biểu hiện của lý luận giá cả, do đó lợi tức bị chi phối bởi lý luận giá cả . Vận dụng lý luận giá cả trong phạm trù tín dụng chính là quyết định mức lãi suất tùy theo quan hệ cung cầu trên thị trường. Lãi suất có tác dụng rất lớn trong việc khuyến khích đầu tư nhưng trái lại, nó cũng không tránh khỏi việc gây tác động xấu đến nền kinh tế, khi mà lãi suất quá cao hoặc quá thấp so với yêu cầu trên thị trường tiền tệ thì dẫn tới suy thoái hoặc lạm phát.
Tiền là phạm trù kinh tế gắn liền với kinh tế hàng hóa phản ánh mối quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa, đồng thời tiền là công cụ mục đích của người sản xuất hàng hóa, sự vận động của đồng tiền không ngừng từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực lưu thông và từ lưu thông sang sản xuất liên tục chuyển hóa cho nhau. lưu thông hàng hóa lấy tiền tệ là môi giới. Lưu thông tiền tệ dựa trên cơ sở của lưu thông hàng hóa và phụcvụ cho lưu thông hàng hóa. Vận dụng lý luận giá cả trong lưu thông tiền tệ là việc thực hiện tiết kiệm nghiêm ngặt trong sản xuất, xây dựng và tiêu dùng khi xảy ra lạm phát, để giảm bớt lượng tiền trong lưu thông. Tuy nhiên áp dụng chính sách tiết kiệm trong thời kỳ suy thoái lại là cách đẩy nền kinh tế lâm vào suy thoái nặng nề hơn .
2.1.4 Vận dụng lý luận giá cả trong quan hệ kinh tế quốc tế
Trong nền kinh tế thị trường đặc biệt là thị trường thế giới, nguyên tắc bình đẳng giữa các quốc gia sẽ không được thực hiện nếu các quốc gia tham gia không cùng cùng có lợi về kinh tế. Vì trong trường hợp này quan hệ kinh tế thế giới sẽ vi phạm các lý luận, nhất là lý luận giá cả, lý luận kinh tế vốn có của kinh tế thị trường trong thị trường quốc tế. Nguyên tắc cùng có lợi phải trở thành động lực kinh tế, để thiết lập và duy trì lâu dài mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia với nhau.
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển .
Báo cáo của Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nêu nhiệm vụ đối ngoại của nước ta là: Tiếp tục giữ môi trường hoà bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế _xã hội, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo đảm độc lập và chủ quyền quốc gia, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập, dân chủ tiến bộ xã hội. Mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực theo nguyên tắc tôn trọng độc lập,chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực bình đẳng cùng có lợi; giải quyết các bất đồng tranh chấp bằng thương lượng hoà bình; làm thất bại mọi âm mưu và hành động gây sức ép, áp đặt và cường quyền.
Một trong những quan điểm phát triển trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 là gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.
Với mục tiêu đảm bảo xen kẽ giữa lợi ích quốc gia với lợi ích các nước, các vùng, các khu vực thì quan hệ kinh tế quốc tế trong trường hợp này tuân theo lý luận giá cả. Vì lý luận giá cả vận động thông qua hoạt động kinh tế của con người, động lực trực tiếp thúc đẩy hoạt động kinh tế của con người là lợi ích kinh tế nên vận dụng lý luận giá cả trong quan hệ kinh tế quốc tế chính là sự đảm bảo về mặt lợi ích kinh tế giữa các bên.
Trong thời đại ngày nay, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đã và đang là một trong những vấn đề thời sự đối với hầu hết các nước. Sự hình thành kết cấu hạ tầng và chi phí sản xuất ngày càng có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế của các nước. Quốc tế hoá đời sống kinh tế còn biểu hiện ở sự hình thành chi phí sản xuất quốc tế, giá cả quốc tế. Mỗi nước có một điều kiện sản xuất khác nhau nên sản xuất ra cùng một loại hàng hoá sẽ có chi phí khác nhau. Thí dụ, nước ta sản xuất ra một tấn cao su, chè rẻ hơn Châu Âu, ngược lại Châu Âu lại sản xuất ra ô tô, máy bay rẻ hơn ta. Dựa vào chi phí sản xuất quốc tế, các nước tìm cách khai thác thế mạnh của mình để đạt hiệu quả kinh tế cao trong quan hệ quốc tế. Sự vận động của giá cả quốc tế là sự hoạt động của lý luận giá cả trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay. Nước nào thu được phần lợi nhuận lớn hay thắng trong cạnh tranh là đã thực hiện yêu cầu của lý luận giá cả. Bên cạnh những kết quả tốt thì còn có mặt trái đó là việc chạy theo lợi nhuận mà hàng hóa xuất khẩu có chất lượng kém, ngoài ra lý luận giá cả cũng phân hóa thành nước giàu và nước nghèo.
2.1.5 Vận dụng lý luận giá cả trong xuất khẩu lao động
Chúng ta đều biết, Nước ta đất hẹp người đông. Trong quá trình CNH-HĐH, giải quyết công ăn việc làm, vấn đề thu nhập là nhu cấu hết sức cấp bách. GDP bình quân đầu người mới khoảng 400 USD, bình quân mỗi năm số người đến độ tuổi lao động ở nước ta là 1 triệu người. Những tính toán trong chiến lược 10 năm ( 2001-2010) vẫn không giải quyết hết số lao động. Vì vậy XKLĐ và chuyên gia là một trong những hướng giải quyết hết số lao động. Vì xuất khẩu lao động và chuyên gia là một trong những hướng giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho nhân dân và người lao động. Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược vừa cấp bách, vừa lâu dài của nước ta.
Trong bối cảnh thi trường lao động quốc tế suy giảm, cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu lao động ngày càng gay gắt, phần lớn các doanh nghiệp của việt nam mới bước vào hoạt động còn ít kinh nghiệm. Hiện nay có hơn 300.000 lao động và chuyên gia Việt Nam đang làm việc ở trên 400 nước và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm nghành nghề thuộc các lĩnh vực: xây dựng, cơ khí, chế biến thủy sản, vận tải biển, đánh bắt chế biến hải sản, chuyên gia y tế, giáo dục, nông nghiệp, tin học vv... năm 2000, thu nhập dòng của lao độngvà chuyên gia đạt khoảng 1,25 tỷ USD.
Đạt được thành tích trên, trước hết là do thực hiện nghị định 152/CP, Bộ lao động- thương binh và xã hội đã phối hợp với các Bộ, nghành có liên quan như Tài chính, Công an, Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước...ban hành một hệ thống các văn bản quy định, hướng dẫn về cấp phép,đăng ký hợp đồng, đơn giản hóa các thủ tục cấp hộ chiếu và lý lịch tư pháp của người lao động; hạ mức thuế suất đối với các doanh nghiệp làm dịch vụ xuất kẩu lao động; giảm chi phí dịch vụ và tiền đặt cọc của người lao động và cho vay với người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Các chính sách trên của Nhà nước đã vận dụng tốt lý luận giá cả. Vì việc giảm thuế suất đối với các doanh nghiệp sẽ giúp cho chi phí của doanh nghiệp đó giảm đi, lợi nhuận tăng nên và tăng sức cạnh tranh với các doanh nghiệp của các nước khác. Đối với người lao động thì đi xuất khẩu lao động dù cực khổ nhưng có thu nhập giúp đỡ gia đình, phần lớn họ là những người có thu nhập thấp, nên chính sách cho vay, giảm chi phí dịch vụ và tiền đặt cọc của người lao động làm tăng quy mô đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Trong xuất khẩu lao động có vấn đề đặt ra cho nước ta là thị trường tiếp nhận lao động nước ngoài có sự thay đổi cơ bản về nhu cầu chất lượng và cơ cấu, đó là sự đòi hỏi ngày càng cao về trình độ tay nghề, ngoại ngữ và ý thức kỷ luật, phong tục tập quán, tức là đòi hỏi tính văn hóa cao hơn trong trong XKLĐ. Muốn mở và giữ được thị trường phải có lao động chất lượng cao. Thị trường và nguồn lao động là hai yếu tố chính quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Nhận thức vấn đề này việc đào tạo nguồn lao động trở thành vấn đề trọng tâm được cả nước và doanh nghiệp rất quan tâm: từ chỗ tuyển lao động tự do nay Bộ LĐ-TBXH đã hướng các doanh nghiệp tuyển lao động từ các trường nghề. Đây là một hướng đi hết sức đúng đắn, giải tỏa được ách tắc về chất lượng lao động đưa đi làm việc ở nước ngoài, cắt giảm được chi phí đào tạo so với tuyển lao động tự do. Nó có tác dụng tốt đối với các doanh nghiệp.
Nhìn chung các doanh nghiệp đều có quy chế, quy định rõ ràng. Công tác tuyển chọn được cải tiến và quan tâm nhiều hơn theo nguyên tắc trực tuyến, tuyển đúng nghành nghề, kỹ thuật. Bước đầu có ưu tiên nhất định với gia đình chính sách, gia đình nghèo. Việc thu chi được thực hiện rõ ràng, minh bạch, thanh toán kịp thời tiền lương do lao động gửi về. Với những hoạt động trên,doanh nghiệp nào thực hiện tốt sẽ tăng khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước, trong lĩnh vực xuất khẩu lao động.
Việc vận dụng tốt lý luận giá cả trong hoạt động xuất khẩu lao động của các doanh nghiệp và Nhà nước ta là rất quan trọng, nó đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và làm tăng ngân sách nhà nước. Ngoài ra vấn đề việc làm được giải quyết, tệ nạn xã hội giảm.
Tuy nhiên vận dụng sai cơ chế tác động của lý luận giá cả thì sẽ có những tác động xấu đến sự phát triển kinh tế, ổn định xã hội. Sự vận dụng không đạt hiệu quả lý luận giá cả thể hiện là vẫn còn tồn tại những yếu kém trong hoạt động xuất khẩu lao động ở Nước ta. Lao động nước ta được đánh giá là cần cù và khéo léo. Tuy nhiên kiến thức về ngoại ngữ, nhận thức về quan hệ chủ-thợ, kém hiểu biết về tác phong công nghiệp là nguyên nhân chu yếu gây ra tranh chấp lao động. Sai sót này do sự tuyển dụng và đào tạo của doanh nghiệp, do đào tạo sơ qua thì chi phí sẽ thấp đi và lợi nhuận thu được sẽ tăng nên. Doanh nghiệp đã vận dụng lý luận giá cả nhưng với mục đích lợi ích cá nhân, không tính đến lợi ích của xã hội, làm mất đi giá cả của con người Việt Nam ở nước ngoài. Những yếu kém còn tồn tại còn do sự phối hợp thiếu đồng bộ giữa các cơ quan chức năng trong tổ chức triển khai chính sách xuất khẩu lao động. Đặc biệt là gần đây sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc hướng dẫn Luật doanh nghiệp chưa tốt, nên các văn bản hướng đã coi dịch vụ việc làm là một lĩnh vực kinh doanh không điều kiện. Vì vậy đã có một số lượng lớn các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh dịch vụ việc làm, trong đó có một số doanh nghiệp lợi dụng chức năng này để tuyển chọn lao động đi làm việc ở nước ngoài trái pháp luật, mang tính lừa đảo, gây thiệt hại đối với người lao động, gây dư luận xấu trong xã hội.
Khe hở trong pháp luật mà các doanh nghiệp lợi dụng để đem lại lợi ích cho mình là do các nhà hoạch định chính sách đã không xét đến tính hai mặt của lý luận giá cả khi vận dụng nó. Bên cạnh mặt tích cực,chúng ta còn phải chú ý đến những tác đọng tiêu cực của nó.
2.1.6 Vận dụng lý luận giá cả để thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế
Thành phần kinh tế là một loại hình kinh tế (hay một kiểu tổ chức ) trong đó dựa trên hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất cụ thể, là nền tảng kinh tế hình thành các giai tầng, các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Ở nước ta, việc khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển có tác phát huy mọi tiềm năng của từng thành phần kinh tế, cũng như sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế. Đó là những tiềm năng về vốn, kỹ thuật, sức lao động, kinh nghiệm tổ chức quản lý... Ngoài ra, việc kích thích các thành phần kinh tế phát triển còn có tác dụng thúc đẩy quá trình hội nhập và mở cửa kinh tế, thực hiện chủ trương kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc gia và sức mạnh quốc tế nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển đất nước. Chính vì vậy từ đại hội Đảng VI đến nay, Đảng ta luôn khẳng định quan điểm thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần và coi đó là đường lối chiến lược lâu dài ở nước ta.
“Thời kỳ quá độ là một thời kỳ lịch sử đặc biệt, trong đó nền kinh tế quá độ là nền kinh tế quá độ là nền kinh tế nhiều thành phần. V.I Lênin chỉ ra rằng, ở các nước đi lên chủ nghĩa xã hội, phổ biến có ba thành phần kinh tế cơ bản: kinh tế XHCN, kinh tế TBCN và kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ.”
Vận dụng tư tưởng của lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, Đảng ta khẳng định, nước ta hiện có các thành phần kinh tế sau: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước năm 2001 phân theo thành phần kinh tế(%) :
Kinh tế nhà nước: 38,58; kinh tế tập thể : 8,21; kinh tế tư bản nhà nước: 4,2; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: 13,11; kinh tế cá thể: 32,13; kinh tế tư bản tư nhân: 3,77.
Phát triển các thành phần kinh tế là điều kiện để đại đa số công dân tham gia hoạt động kinh tế, làm giàu chính đáng, không ngừng nâng cao đời sống. Đó là tiền đề cho dân chủ hóa đời sống kinh tế-xã hội và thực hiện mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”. Đối với mỗi thành phần kinh tế nhà nước ta đã có những chủ trương và chính sách phù hợp.
Đối với thành phần kinh tế nhà nước: Xuất phát từ thực trạng của quá trình củng cố và sắp xếp lại kinh tế nhà nước trong thời gian qua và yêu cầu đòi hỏi đối với thành phần kinh tế này trong thời gian tới, Đại hội đại biểu lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo:làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội ; mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển ; làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô; tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới”. Một trong những hướng giải quyết cho quá trình này là phát huy quyền làm chủ của người lao động, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, hối lộ lạm dụng chức quyền và các hiện tượng tiêu cực khác trong khu vực kinh tế này. Hướng giải quyết này được đề ra trên cơ sở vận dụng quy luật giá cả đó là thực hiện yêu cầu hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội như thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí. Phát huy quyền làm chủ của người lao động làm cho năng xuất lao động tăng và nó cũng thỏa mãn yêu cầu của lý luận giá cả.
Đối với thành phần kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã, Đảng ta chủ trương không ngừng đổi mới và phát triển thành phần kinh tế hợp tác , hợp tác xã trong nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng, thương nghiệp dịch vụ ở các thành thị và nông thôn theo luật hợp tác xã nhằm kết hợp sức mạnh của tập thể và sức mạnh của hộ xã viên, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trên cơ sở phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ gia đình theo tinh thần nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VII. Việc phát huy sức mạnh tập thể tạo ra năng suất lao động thấp hơn là một yêu cầu của lý luận giá cả.
Đối với thành phần kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên cơ sở đồng sở hữu về tư liệu sản xuất, kết hợp lợi ích nhà nước với lợi ích tư bản tư nhân trong nước và tư bản tư nhân nước ngoài. Nó là hình thức kinh tế quá độ trung gian thích hợp để đi lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, Đảng và nhà nước ta chủ trươngkhuyến khích phát triển kinh tế tư bản nhà nước. Được phép áp dụng nhiều phương thức góp vốn liên doanh tư nhân trong nước nhằm tạo thế, tạo lực cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển, tăng cường hợp tác và cạnh tranh với bên ngoài. Chủ trương của nhà nước dựa trên yêu cầu của lý luận giá cả vì hình thức góp vốn liên doanh sẽ tạo sự chủ động sử dụng vốn và không để phí những cơ hội kinh doanh vì thiếu vốn.
Đối với thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ,Đảng ta chủ trương khuyến khích phát triển kinh tế cá thể trong các nghành nghề ở thành thị và nông thôn, nó không bị hạn chế trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh mà luật pháp cấm . Kinh tế cá thể có thể tồn tại độc lập hoặc liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác. Chủ trương này giải quyết được lao động dư thừa trong xã hội, là đệm cho sự phát triển nền kinh tế. Sự thông thoáng trong cơ chế này tạo cho người sản xuất kinh doanh có thể tự do kinh doanh và áp dụng các thành tựu công nghệ để thu được lợi nhuận cao, đó cũng là một chính sách xây dựng trên yêu cầu của lý luận giá cả.
Thành phần kinh tế tư bản tư nhân cũng như thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ nhưng ngoài ra còn được bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của các nhà kinh doanh tư nhân.
Tuy nhiên sự can thiệp quá sâu vào sự phát triển của các thành phần kinh tế của nhà nước cũng hạn chế sự phát triển của chúng. Mặt trái của lý luận giá cả là sự chạy theo lợi nhuận, khoảng cách giàu nghèo cũng không tránh khỏi có tác động khi ta vận dụng lý luận này cùng với những phạm trù kinh tế của nó.
2.1.7 Vận dụng lý luận giá cả trong việc điều tiết hành vi đạo đức của con người
Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX vừa qua, nước ta bắt đầu bước vào giai đoạn đổi mới. Sự gặp nhau giữa sản xuất hàng hóa, kinh tế thị trường, sự mở rộng giao lưu hợp tác với nước ngoài, sự hội nhập kinh tế thế giới, cùng với cuộc cách mạng khoa học, thông tin hiện đại và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã tạo ra cho Việt nam nhiều nhân tố mới , cơ hội mới để phát triển, đặc biệt là những điều kiện hết sức thuận lợi cho con người khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Kinh tế thị trường với lý luận giá cả, nguyên tắc lợi nhuận tối đa, quan hệ cung cầu và sự cạnh tranh đã kích thích mạnh mẽ lợi ích cá nhân trước mắt. Đạo đức gắn liền với lợi ích. Trong kinh tế thị trường, lợi ích có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc điều tiết mối quan hệ giữa con người với con người thông qua các mối quan hệ lợi ích ở trong xã hội theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng về lợi ích. Điều đó có nghiã là quan hệ lợi ích góp phần tích cực điều tiết hành vi đạo đức con người, làm cho đạo đức xã hội dần hoàn thiện hơn, lành mạnh hơn.
Lý luận giá cả hoạt động thông qua hoạt động kinh tế của con người, nó thực hiện sự tìm kiếm lao động và phân hóa người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo.
Nên vận dụng lý luận giá cả trong việc điều tiết hành vi đạo đức của con người trong kinh doanh là một tất yếu. Người sản xuất kinh doanh luôn mong thu được lợi nhuận cao , lý luận giá cả là một cơ chể tác động công bằng đối với mọi nhà sản xuất kinh doanh. Lý luận giá cả yêu cầu hao phí lao động cá biệt phải nhỏ hơn hao phí xã hội. Các nhà sản xuất kinh doanh vận dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Có người do áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ, có người thì làm mọi cách để đạt được điều đó bất chấp các tiêu chuẩn, pháp luật . Tuy nhiên Ai là người sản xuất giỏi sau một quá trình kinh doanh dài và sự tồn tại cùng danh tiếng trên thị trường chứ không phải là khoản lợi nhuận trước mắt. Những nhà sản xuất kinh doanh bất chấp thủ đoạn thì hoặc là sa lưới pháp luật hoặc bị thị trường đào thải. Những tấm gương về việc phá sản do những hành vi áp dụng lý luận giá cả nhưng với mục đích xấu là một bài học đối với các người sản xuất kinh doanh. Chỉ khi nào hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội mà đạt được do áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật, tiết kiệm chống lãng phí trong sản xuất … thì người sản xuất mới thực sự phát triển lâu dài. Với những yếu kếm tồn tại trong việc xuất khẩu lao động có các hiện tượng thu phí cao hơn so với quy định của nhà nước. Lại có doanh nghiệp ký được hợp đồng lao động ngoại ít, song trong việc tuyển dụng lại thông báo số lượng tuyển dụng qúa mức để kiếm lời từ phí tuyển dụng bất chấp sự thiệt hại gây cho người lao động.Chỉ vì lợi ích trước mắt mà làm hại đến những người đã khốn khó lại càng khó khăn hơn trong cuộc sống.
Người ta không chỉ vì lợi ích của bản thân mà vi làm xấu đi mối quan hệ giữa con người với con người mà còn tác động đến cả thiên nhiên. Với lợi ích ích kỷ trước mắt con người chỉ nhìn thấy giá cả sử dụng của thiên nhiên . Tất cả các loại tài nguyên thiênnhiên như rừng, đất đai, nước, khoáng sản, thực vật,… đều đang bị con người khai thác cạn kiệt, sử dụng lãng phí đưa đến ô nhiễm nặng nề môi trường sống.ở nước ta hiện tượng đó diễn ra đặc biệt từ khi chúng ta tiến hành công cuộc đổi mới đến nay.
quan hệ giữa thiên nhiên và con người được xem như là mối quan hệ đạo đức sinh thái. Quan hệđạo đức sinh thái thể hiện trước tiên qua quan hệ lợi ích. Quan hệ lợi ích giữ vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh hành vi con người trong xã hội .Do đó có thể sử dụng cơ chế lợi ích như một công cụ hữu hiệu để điều chỉnh hành vi đạo đức của con người. Lý luận giá cả hoạt động thông qua hoạt động kinh tế của con người, vì vậy lý luận giá cả là công cụ hữu hiệu để điều tiết hành vi đạo đức của con người.
2.2 Vai trò của lý luận giá cả trong thời gian qua
Nước ta bắt đầu sự nghiệp đổi mới từ Đại hội Đảng VI, chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường. Đến nay đã củng cố và khẳng định con đường lựa chọn đi nên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn. Chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn được kiên trì.
Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa chịu sự tác động của rất nhiều những quan hệ kinh tế trong đó lý luận giá cả đóng vai rò trung tâm. Sự tác động của lý luận giá cả được thực hiện trong mối liên hệ với hệ thống các lý luận kinh tế của chủ nghĩa xã hội đang hoạt động trong thời kỳ quá độ. Do đó vai trò điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa của lý luận giá cả còn phụ thuộc vào sự tác động của các lý luận kinh tế căn bản.
Việc thiết lập cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện cho lý luận giá cả phát huy tác dụng, trên cơ sở đó hình thành một môi trường cạnh tranh quyết liệt, không chỉ trong phạm vi quốc gia mà cả trên bình diện quốc tế. Để tồn tại hầu hết các doanh nghiệp trong các nghành nghề đều phải tổ chức lại sản xuất, không ngừng đổi mới công nghệ, tiết kiệm chi phí , hạ giá thành sản phẩm,trên cơ sở đó hạ giá bán, chiếm lĩnh thị phần và lợi thế cạnh tranh. Cùng với đà phát triển và hoàn thiệ của kinh tế thị trường, xu hướng này diễn ra ngày càng rõ rệt, góp phần làm cho giá cả mặt bằng chung giảm xuống. Bên cạnh yếu tố cạnh tranh, sự phát triển khoa học công nghệ với tính chất là lực lượng sản xuất trực tiếp cũng góp phần quan trọng vào việc tăng năng xuất lao động, tiết kiệm nguyên, nhiên, vật liệu, chi phí nhân cong quảng cáo là nhân tố quan trọng để hạ giá thành và giá bán sản phẩm .
Trong sản xuất : lý luận giá cả tác động từng mức độ khác nhau tới từng loại hình sản xuất hàng hóa. Tác động đến việc lựa chọn phương án sản xuất, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đến tính toán các tỷ lệ cân đối trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội,tính toán việc sử dụng lao động , tài nguyên, vật tư thiết bị và tiền vốn trong các nghành các địa phương và cơ sở nhằm đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất.
Trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa : Lý luận giá cả tác động đến phương án đầu tư xây dựng cửa hàng, kho bãi, cách thức bảo quản , phương diện vận chuyển, cân, đong, đo, đếm, đến kế hoạch điều hòa lưu thông hàng hóa giữa mọi miền đất nước nhằm mục tiêu với chi phí lưu thông ít nhất có thể lưu thông được một khối lượng hàng hóa nhiều nhất.
Đối với mỗi thành phần kinh tế: mỗi thành phần kinh tế xã hội khác nhau, cách thức đạt lợi nhuận khác nhau và sử dụng lợi nhuận khác nhau. Có tác dụng kích thích các đơn vị sản xuất, kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế khác nhau ra sức cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượngvà hạ giá thành hàng hóa.
Lý luận giá cả là một trong những đòn bẩy kinh tế góp phần vào những thnàh tựu to lớn và rất quan trọng trong 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội và sau 15 năm đổi mới. Phần lớn các mục tiêu chủ yếu để ra trong chiến lược phát kinh tế xã hội 1991-2000 đã được thực hiện. Nền kinh tế –xã hội có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và hội nhập kinh tế quốc tế. Tống sản phẩm trongnước (GDP) sau 10 năm tăng 2,07 lần; 5 năm qua GDP tăng bình quân hàng năm 7%; tích lũy nội bộ của nền kinh tế từ mứckhông đáng kể, đến nay đạt 27% GDP; sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu xã hội, tăng xuất khẩu và có dự trữ; kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội phát triển nhanh, cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích cực : Trong GDP, tỷ trọng nông nghiệp từ 38,7% còn 24,3 %; công nghiệp từ 22,7% lên 36,6%; dịch vụ từ 38,6% lên 39,1 %. Nhịp độ tăng xuất khẩu gần gấp ba lần nhịp độ tăng GDP, từng bước chủ động hội nhập có hiệu quả với kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, thực trạng kinh tế, xã hội còn những mặt yếu kém , bất cập , đất nước chưa vượt qua tình trạng nước nghèo và nước kém phát triển :nền kinh tế kém hiệu quả và sức cạnh tranh còn yếu; tích lũy nội bộ và sức mua còn thấp ; quan hệ sản xuất còn xchưa có mặt phù hợp . Đó là câu hỏi đặt ra với các nhà hoạch định chính sách phát triển kinh tế xã hội.
2.3 Những giải pháp nhằm vận dụng tốt lý luận giá cả trong thời gian tới ở nước ta
Với những tác động của lý luận giá cả và những thành tựu mà nước ta đã đạt được thì cần có những giải pháp để vận dụng tốt hơn lý luận gai trị trong thời gian tới.
Trong nhữnh năm tới nước ta tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, do đó còn có sự hoạt động của lý luận giá cả và còn có sự vận động của giá cả là một tất yếu khách quan. Chính vì vậy trong chính sách giá cả nhà nước không thể buông lỏng, thả nổi giá cả mà phải có cơ chế chính sách để điều hành hệ thống giá, kiểm soát giáđộc quyền, mặt bằng vận động ở mức hợp lý làm chuẩn mực quan trọng để kiểm soát lạm phát (hoặc thiểu phát), ổn định các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô để phát huy nội lực, thu hút vốn đầu tư, tiết kiệm , phấn khởi thu nhập , ổn định và nâng cao đời sống và suy cho cùng là ổn định tình hình kinh tế chính trị xã hội nói chung của đất nước. Vì vậy cần phải nhấn mạnh việc tiết tục đổi mới quản lý điều hành giá cả thị trường trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế nhằm hình thành được hệ thống giá bình ổn hợp lý ,góp phần nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nề kinh tế ,khuyến khích xuất khẩu , thu hút vốn đầu tư , thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng cao, liên tục và bền vững. Đối với các doanh nghiệp cần có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh quy định quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp trong hoạt động hạch toán kinh tế.
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc tế. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa; có cơ cấu kinh tế hợp lý , có hiệu quả và sức cạnh tranh ; có thể chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô.
Trong xuất khẩu lao động phải nâng cao chất lượng lao động của người việt nam, vấn đề chất lượng đào tạo phải đặt ra như một yêu cầu lớn, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động phải gắn với trường dạy nghề, gắn với các trường đào tạo , làm thế nào để đào tạo cho phù hợp . Đào tạo tiếng nước ngoài, giáo dục về phong tục tập quán, văn hóa tôn giáo, pháp luật sở tại để cho họ thấy người lao động ta có văn hóa, đi lao động nhưng có bản chất, truyền thống văn hóa Việt Nam. Phải tìm hiểu thị trường, bố trí lại hệ thống xuất khẩu lao động, tăng cường quản lý cả trong nước lẫn nước ngoài,
quy định chặt chẽ về việc thành lập doanh nghiệp xuất khẩu lao động song song với việc tăng cường kỷ cương kỷ luật với người lao động.
Khi dùng tiền tệ để thực hiện công bằng xã hội chủ nghĩa chúng ta cần tách bạch những nguyên nhân phi tiền tệ ảnh hưởng tới giá (như dùng thuế cao gấp bội trường hợp mua về để dùng, đánh mạnh vào đầu cơ, mua đi bán lại nhà đất, sốt cây con giống …) để ổn định giá cả song song với việc kiểm soát lạm phát.
Ngoài ra cần có những giải pháp trong công tac quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta. Cần xây dựng chiến lược, sách lược phát triển bền vững, kết hợp phát triển hài hòa kinh tế xã hội với môi trường coi trọng nâng cao chất lượng và hiệu quả. Tạo lập đồng bộ các thị trường Việt Nam khi chuyển sang nền kinh tế thị trường. Phát triển hệ thống pháp luật đồng bộ, khuôn khổ pháp lý phù hợp cho hoạt động sản xuất kinh doanh để giảm những khuyết tật khi áp dụng lý luận giá cả .
Để vận dụng tốt hơn lý luận giá cả trong thời gian tới cho sự phát triển của nền kinh tế, cần phải nhận thức rõ vị trí , nội dung yêu cầu tác dụng và các hình thức hoạt động của lý luận giá cả , hiểu rõ điều kiện kinh tế xã hội mà lý luận đang vận động. Việc nhận thức lý luận không chi dừng lại ở khâu nhận thức cảm tính , kinh nghiệm mà cần có trình độ nhận thức lý tính.
Cho đến nay, công tác điều hành giá cả hiện nay ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập.
Trước đổi mới kinh tế
Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, do đánh đồng quy luật giá trị gắn liền với chế độ tư bản chủ nghĩa, chúng ta đã thực hiện một chính sách giá cực kỳ cứng nhắc. Nhà nước quy định giá cố định cho tất cả các mặt hàng trong nền kinh tế. Như Mác đã nói, giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị. Giá cả tách rời và xoay quanh giá trị. Do đó giá cả thị trường phải phản ánh được giá trị hàng hóa. Giữa giá cả và giá trị luôn luôn có một khoảng cách, điều này làm nên vẻ đẹp của quy luật gia trị. Như vậy, việc áp đặt giá trước đây là không tôn trọng quy luật giá trị làm mất đi vẻ đẹp vốn có của quy luật giá trị.
Giá áp đặt không phải là tín hiệu của sản xuất tiêu dùng Việc áp đặt ở một mức cố định không phản ánh được giá trị và chi phí sản xuất khiến cho giá cả mất đi chức năng cơ bản của nó – hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng. Giá không còn là dấu hiệu chỉ ra những sản phẩm đang có nhu cầu cao để người sản xuất gia nhập thị trường nhằm tìm kiếm lợi nhuận, không thể là yếu tố điều tiết thị trường, kích thích cung cầu. Việc xác định mức giá quy định cũng gặp nhiều vấn đề. Nếu mức giá quy định quá thấp sẽ kìm hãm sản xuất, gây khan hiếm hàng hóa, nếu mức giá quy định quá cao sẽ ngăn cản tiêu dùng, ế thừa hàng hóa. Cả hai trường hợp đều gây ra thiệt hại chung cho nền kinh tế, kìm hãm tăng trưởng và phát triển
Mặt khác khi chính sách giá đặt ra không thống nhất với chính sách tiền lương và thu nhập sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển vĩ mô của nền kinh tế như lạm phát, khan hiếm hàng hóa, làm cho đời sống nhân dân khó khăn. Nhiều lĩnh vực thiết yếu cho đời sống kinh tế xã hội nhưng doanh nghiệp bị đông, hoạt động không hiệu quả, nhà nước phải bao tiêu, bù lỗ. Chính sách cố định đồng ngoại tệ cũng gây trở lực lớn đối với buôn bán và thanh toán quốc tế… Đó là những thực tế mà trước đây chúng ta đã từng phải gánh chịu.
Tình hình hiện nay
Sau đổi mới kinh tế năm 1986, chính sách giá cả đã có những cải cách tích cực. Nhìn chung, khi bước vào cơ chế thị trường, giá cả được điều tiết theo các quy luật của thị trường như quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh. Giá cân bằng giao động theo các nguyên lý của thị trường trở thành yếu tố tích cực kích thích sản xuất tiêu dùng, phát triển sản phẩm, thị trường, mạng lưới thương nghiệp, bán buôn phát triển…Tỷ giá đồng ngoại tệ được thả nổi, kích thích xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế, kích thích đầu tư…
Tuy nhiên bên cạnh đó cũng còn một số bất cập trong công tác quản lý và điều hành giá. Một số lĩnh vực, nhà nước vẫn quy định giá (xăng dầu, một số nông sản) làm cho các doanh nghiệp dựa dẫm ỷ lại vào bao tiêu và trợ cấp của nhà nước, tăng gánh nặng cho nhà nước. Giá cả chưa phản ánh được đúng giá trị và chi phí sản xuất, giữa nhu cầu và cung ứng còn có khoảng cách khá xa. Mặ khác một số ngành khi để tự điều tiết giá cả theo thị trường thì xuất hiện các hiện tượng tiêu cực như hàng giả, kém phẩm chất, giá cả sai khác rất nhiều so với giá trị. Nhà nước quy định niêm yết giá với một số mạt hàng (tân dược) thì lại tiến hành một cách đối phó, khó kiểm soát được chất lượng thuốc và giá cả, ảnh hưởng xấu đến tâm lý người tiêu dùng… Lĩnh vực bất động sản, nhà ở, giá cả đang tăng với tốc độ chóng mặt…
Những năm gần đây, tỷ lệ lạm phát lại có xu hướng gia tăng với tốc độ khá nhanh, nhất là vào thời điểm cuối năm, sau đó chững lại rồi lại tiếp tục tăng cao. Trong khi đó chính sách tiền lương và thu nhập thì chậm thay đổi, làm cho đời sống nhân dân ít nhiều ảnh hưởng…
Định hướng giải quyết và các giải pháp
Định hướng giải quyết
Để giải quyết những vấn đề trên, vấn đề trước tiên là phải nắm vững và vận dụng linh hoạt lý luận giá cả thị trường vào công tác điều hành giá trong điều kiện đánh giá những thời cơ và thách thức của tiến trình hội nhập. Đảm bảo nguyên tắc tuân theo quy luật giá trị, để cho thị trường điều tiết giá cả nhưng đồng thời cũng kết hợp với sự can thiệp có mức độ của nhà nước, tạo ra một hệ thống giá cả ổn định và kích thích tăng trưởng kinh tế. Phấn đấu đạt mục tiêu chung là bình ổn giá cả thị trường, kiểm soát lạm phát, khuyến khích cạnh tranh về giá theo pháp luật để tăng hiệu quả, thúc đẩy hội nhập quốc tế thắng lợi.Biện pháp đặ ra phải hướng đến các mục tiêu cụ thể như: chỉ số giá tiêu dùng không tăng vượt tốc độ tăng trưởng kinh tế, đẩy nhanh tiến trình xóa cơ chế bù lỗ, bù giá đối với một số ít mặt hàng mà nhà nước còn định giá đang áp dụng cơ chế bù lỗ, bù giá…
Một số giải pháp cụ thể
Điều chỉnh hệ thống giá phải thể hiện đầy đủ giá trị của hàng hóa, dịch vụ mà biểu hiện trên thị trường là giá thị trường của chúng. Xi măng, sắt thép, phân bón kinh doanh theo giá thị trường và sẽ không bù lỗ giá xăng, giảm mạnh bù lỗ giá dầu; riêng than cung cấp cho phát điện từng bước điều chỉnh phù hợp với khả năng chấp nhận được của giá điện để tiến tới thống nhất một giá bán than theo giá thị trường cho tất cả các hộ tiêu thụ than; thực hiện lộ trình điều chỉnh hợp lý về giá bán điện, không bao cấp tràn lan.
Việc đưa hệ thống giá trong nước tiếp cận với giá thị trường thế giới theo hướng: điều hành giá một số loại dịch vụ cùng loại, cùng tiêu chuẩn chất lượng đang cao hơn so với giá thế giới xuống tương đương các nước trong khu vực. Điều hành một số hàng hóa nhập khẩu với khối lượng lớn đang bán thấp hơn so với giá thế giới lên mức tiệm cận với giá thế giới thông qua việc xóa bao cấp, bù giá, bù lỗ tài chính; tính đúng, tính đủ chi phí bỏ ra cho sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc thị trường chấp nhận.
Thực hiện điều hành hệ thống giá mềm dẻo, linh hoạt theo tín hiệu thị trường – nhất là đối với một số ít mặt hàng Nhà nước còn định giá khi các yếu tố hình thành giá đã thay đổi, nhưng không thả nổi hoàn toàn theo tác động tự phát của thị trường. Không tăng giá hoặc giảm giá một chiều mà tăng giảm theo tín hiệu của thị trường gắn với mục tiêu kinh tế xã hội; chia sẻ lợi ích, trách nhiệm giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Đối với những hàng hóa dịch vụ độc quyền, hàng hóa dịch vụ quan trọng tính cạnh tranh hạn chế (điện, xăng dầu, vận chuyển hành khách bằng máy bay nội địa, cước viễn thông...) cần căn cứ vào giá trị hàng hóa mà biểu hiện cụ thể là căn cứ vào chi phí sản xuất, chi phí lưu thông và các nghĩa vụ tài chính phải nộp theo luật định được tính đúng, tính đủ theo quy chế tính giá do Bộ Tài Chính ban hành và tỷ lệ lợi nhuận nhất định phù hợp với tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế. Đồng thời so sánh giá hàng hóa, dịch vụ cùng loại trên thị trường thế giới và trong nước để quy định mức giá phù hợp với sức chịu đựng của nền kinh tế, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và phải được thị trường chấp nhận.
Đối với những hàng hóa, dịch vụ nhà nước đặt hàng phục vụ các chương trình, mục tiêu quốc gia, hàng hóa dịch vụ công ích; đối với hàng hóa dịch vụ còn được trợ cước, trợ giá, hàng hóa dịch vụ thực hiện chính sách xã hội thì từng bước chuyển mạnh hình thức định giá sang cơ chế đấu thầu, đấu giá.
Đối với tất cả những hàng hóa dịch vụ còn lại được khuyến khích cạnh tranh về giá theo quy định của pháp luật thì giá do người mua và người bán thỏa thuận trên cơ sở các yếu tố hình thành giá hợp lý, theo tín hiệu khách quan của cung cầu, của giá thị trường trong nước và giá thị trường thế giới. Trong trường hợp giá tăng quá cao, bất hợp lý phải áp dụng các biện pháp bình ổn giá theo quy định của Pháp lệnh giá để thực hiện mục tiêu bình ổn giá.
Giữ vững các cân đối vĩ mô trong mọi tình huống. Chỉ đạo đạt cho được những chỉ tiêu cơ bản về tốc độ tăng trưởng và phát triển mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và Nghị quyết của Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ 10 đã đề ra.
Về chính sách tài khóa, cần thực hiện quản lý chặt chẽ hoạt động thu chi ngân sách theo đúng quy định của Luật Ngân sách Nhà nước. Thực hiện nhất quán lộ trình cắt giảm thuế theo đúng cam kết quốc tế, giảm thiểu biện pháp bảo hộ qua hàng rào thuế quan và phi thuế quan để tạo sức ép cạnh tranh.
Về chính sách tiền tệ. “Tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt với sự giám sát, điều tiết của nhà nước theo nguyên tắc thị trường; đảm bảo mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát được lạm phát
Trong điều hành mặt bằng giá, tiếp tục thực hiện tính đúng, tính đủ theo cơ chế giá thị trường đối với giá trị đất đai, tài nguyên và các nguồn lực đưa vào sử dụng để thực hiện xóa bao cấp cho một số ít hàng hóa dịch vụ còn có giá bao cấp do Nhà nước định giá; tiếp tục chỉ đạo các địa phương quy định giá đất bám sát nguyên tắc sát giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường phù hợp với Nghị định số 188/2004/NĐ-CP của Chính phủ về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất để thực hiện tốt chính sách tài chính về đất đai giữa Nhà nước và các tổ chức, cá nhân sử dụng đất.
Đối với đại bộ phận các loại hàng hóa dịch vụ Nhà nước không còn định giá (sắt, thép, xi măng, phân bón, lúa gạo, cà phê, chè, cao su, sản phẩm chăn nuôi, thủy hải sản, hàng tiêu dùng...) áp dụng cơ chế giá thị trường. Đó là cơ chế mà nhà nước dựa trên những nguyên tắc và quy luật kinh tế khách quan của giá cả trong nền kinh tế thị trường (quy luật cung cầu, giá trị cạnh tranh...) vừa dựa trên cơ sở được dẫn dắt bởi nguyên tắc và bản chất kinh tế của CNXH là công bằng, hiệu quả và ổn định nhằm phát huy những tác động tích cực, khắc phục những tác động tự phát của cơ chế giá thị trường như: độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh, tự phát điều tiết các nguồn lực và cơ cấu sản xuất dẫn đến phá vỡ các cân đối vĩ mô, tự phát nhân hóa những người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo. Trong trường hợp thị trường có biến động bất thường (trước hết là các hàng hóa dịch vụ quan trọng, thiết yếu) cần áp dụng các biện pháp bình ổn giá theo quy định của Pháp lệnh giá. Bộ Tài chính phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và UBND cấp tỉnh thường xuyên tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, chấp hành kỷ luật Nhà nước về giá theo quy định c ủa Chính phủ, chống các hiện tượng quy định giá không hợp lý, trái pháp luật; các hiện tượng lợi dụng sự biến động của thị trường để trục lợi làm phương hại đến lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích của Nhà nước.
Các Bộ quản lý nhà nước về sản xuất kinh doanh tập trung chỉ đạo các doanh nghiệp thuộc ngành có các biện pháp quyết liệt đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chống lãng phí, giảm chi phí sản xuất và lưu thông khắc phục khó khăn do giá dầu vào tăng để kiềm chế tăng giá dầu ra, bình ổn thị trường. Từ đó tạo ra điều kiện phân bổ một cách có hiệu quả toàn bộ tài nguyên tiền vốn và lao động xã hội theo hướng tiết kiệm chi phí, nâng cao chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế.
Tăng cường tổ chức hoạt động, kiểm tra, giám sát hoạt động của thị trường. Bộ Thương mại chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và UBND cấp tỉnh tiếp tục thực hiện các giải pháp mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu; chấn chỉnh, sắp xếp lại mạng lưới kinh doanh, khắc phục tình trạng mua bán vòng vèo, chồng chéo, lũng đoạn thị trường. Kiểm soát và xử lý các tình trạng đầu cơ, buôn lậu, hàng giả, gian lận thương mại, hàng hóa, vi phạm các quy định về vệ sinh, an toàn thực phẩm; trước hết là kiểm soát việc giết mổ, vận chuyển gia súc, gia cầm; ngăn chặn kịp thời việc nhập lậu gia súc, gia cầm và các sản phẩm gia cầm từ nước ngoài vào. Gắn biển kiểm tra niêm yết giá bán và bán đúng giá hàng hóa dịch vụ với kiểm tra để đảm bảo chất lượng và đơn vị đo lường hàng hóa tương xứng với giá bán, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng.
KẾT LUẬN VÀ CÁC KIẾN NGHỊ
Tóm lại có thể nói lý thuyết giá cả thị trường của Mác là cơ sở lý luận của kinh tế học hiện nay trong phân tích thị trường, cung cầu và giá cả. Việc nghiên cứu vằ nắm vững lý thuyết này giúp chúng ta có được nhận thức đúng đắn về về trạng thái vận động của thị trường dưới tác động của các quy luật khách quan như quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh..., sự cân bằng của giá cả trên thị trường không phải là cân bằng tĩnh mà là cân bằng động, luôn dao động quanh điểm cân bằng… Đây là cơ sở để phân tích sự biến động giá cả hàng hóa trên thị trường, trên cơ sở đó nhà nước có thể đưa ra chính sách điều chỉnh phù hợp. Đây cũng là cơ sở để doanh nghiệp chủ động trong chiến lược kinh doanh, thông qua việc chủ động tác động vào cung cầu và đưa ra chính sách giá cả, sản lượng phù hợp để thu được lợi nhuận cao…
Nhìn chung trong xu thế mở cửa hội nhập đầy thời cơ và thách thức hiện nay, chúng ta cũng đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức lớn trong vấn đề đảm bảo một chính sách giá cả ổn định với an ninh tài chính vững mạnh. Do vậy yêu cầu đặt ra đối với các cơ quan chức năng là phải nắm vững và vận dụng các lý thuyết giá cả một cách linh hoạt vào điều hành giá cả của nền kinh tế, thông qua các chính sách tác động và kiểm soát thực sự có hiệu quả. Các doanh nghiệp và người tiêu dùng cần cập nhật các thông tin mới về chủ trương chính sách của Nhà nước và Chính phủ, nghiêm chỉnh chấp hành, tích cực đấu tranh phòng chống những biểu hiện tiêu cực trong việc thực thi chính sách giá cả như đầu cơ, niêm yết đối phó, hàng giả, hàng kém chất lượng… Đảm bảo phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan chuyên ngành và các doanh nghiệp, người tiêu dùng, làm cho tình hình giá cả ổn định và tạo đà cho phát triển kinh tế vững mạnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.C.Mác Tư bản, quyểnIII, tập 1,nhà xuất bản sự thật , hà nội ,1978.
2. Niên giám thống kê 2001, nhà xuất bản hà nội , 2002
3.Học viện nghiên cứu Nguyễn ái Quốc, kinh tế chính trị, t II, nxb: tư tưởng- văn hóa, hà nội ,1992
4. Học viên chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, phân viện hà nội ,khoa kinh tế chính trị, Kinh tế chính trị học Mác-Lênin, tI vàII, nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2001
5.Trung tâm thông tin tư liệu học viện chính trị quốc gia HCM, Một số vấn đề lý luận kinh tế chính trị và phát triển kinh tế Việt Nam , Hà nội ,1995
6.Trường đại học Kinh Tế Quốc Dân,Bộ môn kinh tế chính trị học, Kinh tế chính trị Mác-Lênin, tI vàII, nhà xuất bản giáo dục,1998
7.Viện nghiên cứu kinh tế thuộc viện hàn lâm khoa học Liên Xô, Sách giáo khoa chính trị kinh tế học, nhà xuất bản sự thật, Hà Nội ,1961.
8.Tạp chí cộng sản, số 18(9/2001)
9.Tạp chí giáo dục lý luận 2/01, 12/2002.
10.Tạp chí lao động và xã hội,1/2001, 4/2001
11.Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc 1/2003
12.Tạp chí ngân hàng ,số12 năm 2001
13. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số286(3/2001)
14.Tạp chí sở hữu lý luận 2/2001
15. Tạp chí thị trường giá cả, 9/2001, 1/2002
16. Thời báo kinh tế sài gòn 4/2002
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KTCT-24.docx