Đề tài Lý luận của kinh tế học chính trị tư sản cổ điển Anh. W. Petty, A. Smith và Ricardo

Tài liệu Đề tài Lý luận của kinh tế học chính trị tư sản cổ điển Anh. W. Petty, A. Smith và Ricardo: Lời mở đầu Môn kinh tế chính trị tư sản bắt đầu từ CN trọng thương. Sự phát triển của CNTB đã làm cho những luận điểm của CN trọng thương trở nên lỗi thời. Trọng tâm chú ý của các nhà kinh tế học ngày càng chuyển từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Chủ nghĩa trọng thương nhường chỗ cho chủ nghĩa trọng nông. Mặc dù là giai đoạn cao hơn so với chủ nghĩa trọng thương, nhưng chủ nghĩa trọng nông còn nhiều hạn chế, đặc biệt là chỉ giới hạn ở lĩnh vực sản xuất trong nông nghiệp và chưa có khái niệm đúng đắn về giá trị. Chủ nghĩa trọng nông nhường chỗ cho kinh tế học chính trị tư sản cổ điển mà tiêu biểu là kinh tế học chính trị tư sản cổ điển Anh. Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh mở đầu từ W. Petty (1622-1687) đến A. Smith (1723-1790) và kết thúc ở D. Ricardo (1772-1823). W. Petty là một trong những người sáng lập ra học thuyết kinh tế cổ điển ở Anh. A. Smith là nhà kinh tế của thời kỳ công trường thủ công của CNTB, còn Ricardo là nhà kinh tế của thời kỳ đại công nghiệp cơ khí...

doc10 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1938 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Lý luận của kinh tế học chính trị tư sản cổ điển Anh. W. Petty, A. Smith và Ricardo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Môn kinh tế chính trị tư sản bắt đầu từ CN trọng thương. Sự phát triển của CNTB đã làm cho những luận điểm của CN trọng thương trở nên lỗi thời. Trọng tâm chú ý của các nhà kinh tế học ngày càng chuyển từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Chủ nghĩa trọng thương nhường chỗ cho chủ nghĩa trọng nông. Mặc dù là giai đoạn cao hơn so với chủ nghĩa trọng thương, nhưng chủ nghĩa trọng nông còn nhiều hạn chế, đặc biệt là chỉ giới hạn ở lĩnh vực sản xuất trong nông nghiệp và chưa có khái niệm đúng đắn về giá trị. Chủ nghĩa trọng nông nhường chỗ cho kinh tế học chính trị tư sản cổ điển mà tiêu biểu là kinh tế học chính trị tư sản cổ điển Anh. Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh mở đầu từ W. Petty (1622-1687) đến A. Smith (1723-1790) và kết thúc ở D. Ricardo (1772-1823). W. Petty là một trong những người sáng lập ra học thuyết kinh tế cổ điển ở Anh. A. Smith là nhà kinh tế của thời kỳ công trường thủ công của CNTB, còn Ricardo là nhà kinh tế của thời kỳ đại công nghiệp cơ khí của CNTB, là đỉnh cao lý luận của kinh tế học chính trị tư sản cổ điển Anh. W. Petty, A. Smith và Ricardo là những đại biểu lớn nhất cho kinh tế học chính trị cổ điển Anh. Lý thuyết giá trị lao động là một trong những lý thuyết quan trọng của các nhà kinh tế tư sản cổ điển Anh. Qua đánh giá các điểm giá trị khoa học và hạn chế của W. Petty, A. Smith và Ricardo trong lý luận giá trị lao động để ta thấy được Mác đã kế thừa và phát triển tư tưởng của họ như thế nào. Nội dung 1. W. Petty W. Petty có công lao trong việc nêu ra nguyên lý giá trị lao động. Trong tác phẩm “Bàn về thuế khóa và lệ phí” viết năm 1662 khi nghiên cứu về giá cả thì Petty đã chia thành hai hình thức giá cả: giá cả chính trị và giá cả tự nhiên. Ông viết: một người nào đó trong thời gian lao động khai thác được một ounce bạc và cùng thời gian đó sản xuất được một barrel lúa mì, thì một ounce bạc là giá cả tự nhiên của một barrel lúa mì. Nếu nhờ những mỏ mới giàu quặng hơn, nên cùng một thời gian lao động đó, bây giờ khai thác được 2 ounce bạc thì 2 ounce bạc là giá cả tự nhiên của 1 barrel lúa mì. Như vậy, ông đi đến kết luận giá cả tự nhiên phản ánh lượng lao động hao phí của con người trong việc sản xuất ra sản phẩm sẽ quyết định giá trị của sản phẩm. Hay ông khẳng định lao động là cội nguồn của giá trị. Về giá cả chính trị, W. Petty cho rằng nó là một loại đặc biệt của giá cả tự nhiên. Giá cả chính trị phụ thuộc một phần vào lao động hao phí làm ra sản phẩm nhưng mặt khác nó còn phụ thuộc vào những ý chí về mặt chính trị và phụ thuộc vào tình trạng thực tế của xã hội. Vì vậy, giá cả chính trị quyết định giá cả thị trường của sản phẩm. Khi nghiên cứu về lý luận giá trị thì Petty cũng rút ra kết luận thời gian lao động và năng suất lao động có ảnh hưởng đến mức giá cả của hàng hóa. Petty là người đầu tiên phát hiện ra mối quan hệ giữa năng suất lao động và lượng giá trị của mỗi sản phẩm. W. Petty đặt vấn đề nghiên cứu lao động giản đơn và lao động phức tạp, so sánh lao động trong thời gian dài, lấy năng suất lao động trung bình trong nhiều năm để loại trừ tình trạng ngẫu nhiên. Từ đó có thể khẳng định W.Petty là người đầu tiên trong lịch sử đặt nền móng cho lý thuyết giá trị lao động. Tuy nhiên lý thuyết giá trị lao động của W. Petty còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng chủ nghĩa trọng thương. Ông chưa phân biệt được sự khác nhau giữa các phạm trù giá trị, giá trị trao đổi và giá cả của sản phẩm. Khi nghiên cứu về giá trị thì Petty đã gắn lao động sản xuất ra hàng hóa với lao động khai thác ra kim loại quý là bạc và vàng. Từ đó ông cho rằng muốn xác định giá trị của các hàng hóa khác nhau thì cần phải quy đổi lượng lao động hao phí làm ra nó với lượng lao động hao phí để làm ra một đơn vị vàng hoặc bạc. Đồng thời ông chưa phân biệt được lao động tạo ra giá trị và lao động tạo ra giá trị sử dụng. Từ đó ông đưa ra câu nói nổi tiếng: “lao động là cha, đất đai là mẹ của mọi của cải”. Về phương diện của cải vật chất đó là công lao to lớn của ông. Nhưng ông lại xa rời tư tưởng giá trị – lao động khi kết luận lao động và đất đai là cơ sở tự nhiên của giá cả mọi vật phẩm, tức là cả lao động và đất đai là nguồn gốc của giá trị. Điều này là sai, đất đai hay tư liệu sản xuất đóng vai trò quan trọng nhưng nó không phải là nguồn gốc của giá trị. 2. A. Smith So với W. Petty và trường phái trọng nông, lý thuyết giá trị lao động của A. Smith có bước tiến đáng kể. Trước hết ông chỉ ra tất cả các loại lao động sản xuất đều tạo ra giá trị. Lao động là thước đo cuối cùng của giá trị. Ông phân biệt rõ ràng sự khác nhau giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi và khẳng định giá trị sử dụng không quyết định giá trị trao đổi mà giá trị trao đổi của sản phẩm được quyết định bởi lượng lao động hao phí để sản xuất ra nó. Ông là người đầu tiên phân biệt hai thuộc tính của hàng hóa nhưng chưa lý giải tại sao lại có hai thuộc tính ấy. Trong phạm trù giá trị ông đưa ra hai định nghĩa của giá trị: một mặt ông cho rằng giá trị là do lao động hao phí vào sản xuất hàng hóa quyết định. Với định nghĩa này, ông đứng vững trên cơ sở lý thuyết giá trị lao động và bước tiến bộ của ông là cho rằng nguồn gốc của giá trị là mọi thứ lao động chứ không phải chỉ do lao động nông nghiệp như trường phái trọng nông đưa ra. Nhưng mặt khác ông lại cho rằng giá trị hàng hóa do số lượng lao động mà người ta có thể mua được bằng hàng hóa đó quyết định. Điều đó có nghĩa là giá trị hàng hóa là lượng giá trị do hao phí lao động tạo ra, tính bằng v+m còn lao động mua được biểu hiện là tiền công, tính bằng (v) chính là giá cả của sức lao động. (v+m) và (v) là hai đại lượng khác hẳn nhau, mà ở đây A. Smith đã đồng nhất làm một. Sai lầm của Smith vì chưa phân biệt được sức lao động và lao động và chính sai lầm này gắn với việc ông lý giải tiền lương là giá cả của lao động. A. Smith không giải thích đúng đắn giá trị cho nên ông đã biến lý luận tạo ra giá trị thành lý luận chi phí sản xuất dẫn đến kết luận hoàn toàn không khoa học: giá trị là tổng thu nhập do lợi nhuận, địa tô và tiền lương hợp thành. Tức trong cơ cấu giá trị của A. Smith (giá trị = v+m) ông đã bỏ qua giá trị của tư bản bất biến (c). A. Smith đưa ra hai định nghĩa về giá cả: giá cả tự nhiên và giá cả thị trường, và đi đến kết luận giá cả tự nhiên phản ánh hao phí lao động của người sản xuất vì vậy quyết định giá trị của sản phẩm, giá cả chính trị ngoài sự hao phí lao động còn biểu hiện sự tác động của những nhân tố về mặt chính trị và xã hội. Vì vậy nó hình thành lên giá cả thị trường của sản phẩm. Do vậy, ông khẳng định giá cả tự nhiên là trung tâm còn giá cả chính trị là sự biểu hiện của giá trị hàng hóa trên thị trường. Mác đánh giá công lao lớn nhất của A. Smith trong lý luận giá trị lao động là ông đã phân biệt rõ hai thuộc tính của hàng hóa là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, đồng thời ông đã cho rằng lao động là thước đo thực tế của giá trị. 3. D. Ricardo Trong lý thuyết giá trị lao động D. Ricardo dựa vào lý thuyết của A. Smith, kế thừa và phát triển tư tưởng của A. Smith. Ông phân biệt rõ hai thuộc tính của hàng hóa là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi và chỉ rõ giá trị sử dụng là điều kiện cần thiết cho giá trị trao đổi, nhưng không phải là thước đo của nó. Từ một số ít hàng hóa khan hiếm, thì giá trị sử dụng quyết định giá trị trao đổi, còn đại đa số hàng hóa khác, giá trị do lao động quyết định. Vì giá trị trao đổi là giá trị tương đối được biểu hiện một số lượng nhất định của hàng hóa khác nên ông đặt vấn đề là bên cạnh giá trị tương đối còn tồn tại giá trị tuyệt đối. Đó là thực thể của giá trị, là số lượng lao động kết tinh, giá trị trao đổi là hình thức cần thiết và có khả năng duy nhất để biểu hiện giá trị tuyệt đối. D. Ricardo soát xét lại lý luận giá trị của A. Smith, gạt bỏ những chỗ thừa và mâu thuẫn trong lý thuyết kinh tế của A. Smith. Trong hai định nghĩa về giá trị của A. Smith, Ricardo chỉ ra định nghĩa “giá trị do lao động hao phí quyết định” là đúng còn định nghĩa “giá trị lao động mà người ta có thể mua được bằng hàng hóa này quyết định” là không đúng. Theo Ricardo không phải chỉ trong nền sản xuất hàng hóa giản đơn, mà ngay cả trong nền sản xuất lớn TBCN, giá trị vẫn do lao động quyết định. Ông chỉ ra rằng trong cơ cấu giá trị hàng hóa phải bao gồm là ba bộ phận: C+v+m, chứ không thể loại C ra khỏi giá trị sản phẩm như A. Smith. Tuy nhiên ông chưa phân tích được sự chuyển dịch C vào sản phẩm mới diễn ra như thế nào. Ông có ý định phân tích lao động giản đơn và lao động phức tạp, quy lao động phức tạp thành lao động giản đơn trung bình. Ông cho rằng lao động xã hội cần thiết quyết định lượng giá trị hàng hóa song lại cho rằng lao động xã hội cần thiết do điều kiện sản xuất xấu nhất quyết định. Khi nghiên cứu cơ cấu giá trị sản phẩm Ricardo đã chứng minh một cách tài tình giá trị của sản phẩm sẽ giảm khi năng suất lao động tăng lên. Phương pháp nghiên cứu giá trị hàng hóa của ông còn có tính siêu hình. Ông coi giá trị là phạm trù vĩnh viễn. Đó là thuộc tính của mọi vật, ông không thấy được mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị, vì chưa có được lý thuyết tính hai mặt của lao động, ông chịu ảnh hưởng của tính khan hiếm quyết định giá trị, ông chưa phân biệt được giá trị hàng hóa với giá cả sản xuất, mặc dù ông có nhìn thấy xu hướng bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận. So với A. Smith, Ricardo đã đứng vững và tỏ ra nhất quán với nguyên lý giá trị lao động song ông không thể phát triển lý luận đó đến cùng vì ông chưa biết tính hai mặt của lao động sản xuất ra hàng hoá. Mặc dù vậy, tư tưởng của ông đã nâng kinh tế chính trị tư sản cổ điển tới đỉnh cao nhất – Mác đã đánh giá rất cao lý luận giá trị lao động của Ricardo. 4. C. Mác Đến Mác dựa vào những thành tựu của các nhà kinh tế tư sản cổ điển Anh, gạt bỏ mọi nhân tố không khoa học, kế thừa và phát triển các nhân tố khoa học của họ để xây dựng học thuyết của mình hoàn thiện nhất từ trước tới lúc đó. Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong lý luận kinh tế để đưa kinh tế chính trị học trở thành một khoa học. Chiếc chìa khóa mở cửa cho con đường nghiên cứu của Mác là việc ông phát hiện ra tính hai mặt của cùng một lao động sản xuất ra hàng hóa. Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, nên ông đã đưa lý luận giá trị lao động tới đỉnh cao. Lao động sản xuất ra hàng hóa có tính hai mặt: a. Lao động cụ thể: Đó là những lao động ngành nghề, chúng được phân biệt với nhau bởi thao tác riêng, đối tượng riêng, mục đích riêng và kết quả riêng. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa. Tính đa dạng và phong phú của của cải là do tính đa dạng và phong phú của những lao động cụ thể quy định. Tất cả những lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội. Lao động cụ thể là phạm trù vĩnh viễn. Như vậy, với việc phát hiện ra mặt thứ nhất của lao động sản xuất hàng hóa Mác đã trả lời được câu hỏi: lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa. Nhưng đã là hàng hóa thì vật phẩm ấy phải được dùng để trao đổi trên thị trường. Cái gì đã tạo ra được sự trao đổi ấy, Mác nói đó là giá trị do lao động trừu tượng tạo ra. b. Lao động trừu tượng: Lao động sản xuất ra hàng hóa nếu coi là sự hao phí sức lao động nói chung của con người không tính đến các hình thức cụ thể của nó như thế nào thì gọi là lao động trừu tượng. Lao động trừu tượng tạo nên giá trị của hàng hóa. Nói lao động trừu tượng là sự hao phí sức lao động nói chung của con người, điều này là đúng đắn nhưng không phải mọi sự hao phí sức lao động của con người đều gọi là lao động trừu tượng, chỉ trong những xã hội có sản xuất hàng hóa thì sự hao phí sức lao động của những người sản xuất hàng hóa mới được coi là lao động trừu tượng. Lao động trừu tượng là phạm trù lịch sử. Cần khẳng định không phái có hai thứ lao động khác nhau kết tinh trong hàng hóa mà chỉ là hoạt động lao động sản xuất ra hàng hóa được xem xét về hai mặt. Nó có tính hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Khi nói lao động cụ thể là nói lao động sản xuất ra hàng hóa được tiến hành với thao tác như thế nào, đối tượng ra sao, mục đích và kết quả của nó là gì. Còn khi nói lao động trừu tượng là nói hoạt động lao động sản xuất ra hàng hóa tốn bao nhiêu sức lực, hết bao nhiêu thời gian, không nói tới hình thức cụ thể của nó diễn ra như thế nào. Với việc phát hiện ra mặt thứ hai của cùng một lao động sản xuất hàng hóa, Mác đã trả lời được câu hỏi: lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa phản ánh tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động của người sản xuất hàng hóa. Do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất làm cho các nhà sản xuất độc lập với nhau nên lao động của họ có tính chất tư nhân, lao động cụ thể của họ biểu hiện lao động tư nhân của họ. Đồng thời do có sự phân công lao động xã hội buộc các nhà sản xuất phải liên hệ gắn bó với nhau. Các nhà sản xuất thông qua việc trao đổi hàng hóa phải quy lao động cụ thể thành lao động trừu tượng. Do đó lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội. Tóm lại, từ hai điều kiện của nền sản xuất hàng hóa, một mặt do có sự phân công lao động xã hội nên có trao đổi và có lao động xã hội, lao động xã hội biểu hiện thành lao động trừu tượng và lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa. Mặt khác do có chế độ tư hữu nên có lao động tư nhân biểu hiện thành lao động cụ thể và lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng. Trên cơ sở phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong khoa kinh tế chính trị. Nhờ phát hiện này Mác đã xây dựng học thuyết của mình một cách có hệ thống và hoàn chỉnh. Với việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, Mác đã lý giải được cơ sở tạo ra các thuộc tính hàng hóa. Hàng hóa là sản phẩm của lao động. Một hàng hóa có hai thuộc tính bởi lao động để sản xuất ra hàng hóa đó có tính hai mặt. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng còn lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa. Hàng hóa là hết thẩy những vật và những thứ có thể thỏa mãn được nhu cầu nào đó của con người và chúng được sản xuất ra không phải để người sản xuất ra nó tiêu dùng mà để trao đổi, mua bán trên thị trường. Hàng hóa là sự thống nhất biện chứng giữa giá trị sử dụng và giá trị. Chính công dụng của vật phẩm được quan niệm là giá trị sử dụng của nó. Giá trị sử dụng chỉ thể hiện ra khi tiêu dùng vật phẩm. Xã hội càng tiến bộ thì số lượng giá trị sử dụng càng nhiều, chất lượng giá trị sử dụng càng tốt, thể loại giá trị sử dụng càng phong phú. Giá trị sử dụng là nội dung của của cải, nó là một phạm trù vĩnh viễn. Trong điều kiện kinh tế hàng hóa thì giá trị sử dụng là cái mang giá trị trao đổi. Sở dĩ hàng hóa trao đổi được vì trong hàng hóa có giá trị. Giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Giá trị chỉ thể hiện ra khi trao đổi, giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị. Giá trị hàng hóa là biểu hiện quan hệ sản xuất xã hội giữa những người sản xuất hàng hóa, bởi thực chất của quá trình trao đổi hàng hóa, những người trao đổi đã trao đổi lao động cho nhau thông qua một lao động thống nhất. Với ý nghĩa đó, giá trị là một phạm trù lịch sử. Quan niệm này của Mác đã làm đảo lộn hoàn toàn các quan điểm kinh tế chính trị trước đó cho rằng giá trị không phản ánh quan hệ xã hội nên nó là phạm trù vĩnh viễn. Nhờ phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa mà Mác đã tìm ra nguồn gốc và bản chất của tiền tệ. Tiền tệ là một hình thái giá trị của hàng hóa, là sản phẩm của quá trình phát triển sản xuất và trao đổi hàng hóa. Các nhà kinh tế trước Mác giải thích tiền tệ từ hình thái phát triển cao nhất của nó và do đó đã không làm rõ được bản chất của nó. Trái lại, Mác nghiên cứu tiền tệ từ lịch sử phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa, từ sự phát triển của các hình thái giá trị hàng hóa, do đó đã tìm thấy nguồn gốc và bản chất của tiền tệ. Mỗi hàng hóa là sự thống nhất của hai mặt giá trị sử dụng và giá trị. Nếu giá trị sử dụng của hàng hóa có thể nhận biết bằng các giác quan, thì giá trị của hàng hóa lại chỉ nhận biết được qua giá trị trao đổi, tức là ở các hình thái giá trị. Trong lịch sử phát triển của trao đổi hàng hóa, hình thái của giá trị cũng phát triển từ thấp đến cao, từ hình thái giản đơn ngẫu nhiên đến hình thái mở rộng, hình thái chung, hình thái tiền tệ. Theo Mác xét về mặt cơ cấu giá trị hàng hóa gồm hai phần. Một là giá trị cũ tức là giá trị những tư liệu sản xuất được chuyển dịch và giá trị của sản phẩm hàng hóa, ký hiệu là C. Phần giá trị cũ được hình thành là nhờ có vai trò của lao động cụ thể. Lao động cụ thể luôn luôn bảo toàn và chuyển dịch giá trị những tư liệu sản xuất đã hao phí vào giá trị sản phẩm của hàng hóa. Hai là giá trị mới được tạo ra trong quá trình sản xuất hàng hóa nhờ lao động trừu tượng. Giá trị mới được ký hiệu: v+m. Bộ phận giá trị mới được hình thành là nhờ vai trò của lao động trừu tượng. Nói rằng lao động trừu tượng tạo nên giá trị – giá trị hàng hóa được công thức hóa: C+v+m. Điều này không có nghĩa là lao động trừu tượng tạo nên toàn bộ C+v+m mà nó chỉ tạo nên phần giá trị mới. Như vậy, nói rằng lao động là nguồn gốc của giá trị thì lao động đã được hiểu theo nghĩa là lao động trừu tượng và phần giá trị do nó tạo ra chỉ là giá trị mới. Hai mặt của giá trị đã hình thành tổng thể giá trị đầy đủ của hàng hóa (C+v+m). So với các nhà kinh tế học tư sản cổ điển Anh, cấu thành giá trị của Mác đầy đủ hơn, đúng đắn hơn. Trong phạm trù năng suất lao động, Mác đã giải thích tăng năng suất lao động là tăng hiệu quả có ích của lao động tức làm tăng số lượng sản phẩm sản xuất trong một đơn vị thời gian hoặc rút ngắn thời gian để sản xuất một đơn vị sản phẩm. Tăng năng suất lao động làm cho giá trị sử dụng của của cải tăng nhưng lượng giá trị tạo ra trong thời gian đó không đổi nên giá trị của một đơn vị sản phẩm giảm. Đó là do hai mặt của lao động có sự vận động ngược chiều nhau, khối lượng của của cải vật chất ngày càng tăng lên đi liền với khối lượng giá trị của nó giảm xuống hay không thay đổi mà năng suất lao động thuộc phạm trù lao động cụ thể. Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa là cơ sở để Mác phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến, chỉ rõ tư bản khả biến là nguồn gốc thực sự tạo ra giá trị thặng dư (m). Thật vậy, tư bản bất biến là bộ phận của tư bản sản xuất, nó tham gia vào quá trình sản xuất, tồn tại dưới hình thái là tư liệu sản xuất, trong quá trình sản xuất không thay đổi về lượng. Tư bản khả biến là bộ phận của tư bản sản xuất ứng ra để mua sức lao động, ký hiệu là v. Trong quá trình sản xuất từ một lượng tư bản bất biến trở thành một lượng tư bản khả biến tăng thêm là v+m. Mác đã căn cứ vào tính hai mặt của lao động để phân chia hai loại tư bản này. Xét lao động cụ thể: trong quá trình sản xuất, lao động cụ thể đã bảo tồn, di chuyển bộ phận tư bản của nhà tư bản ứng ra mua tư liệu sản xuất. Xét lao động trừu tượng: trong quá trình sản xuất lao động trừu tượng đã tạo ra giá trị mới (v+m). Vì vậy, bộ phận tư bản ứng ra để mua sức lao động (v) trong quá trình lao động nó đã tạo ra (v+m). Trong hai bộ phận tư bản rõ ràng tư bản khả biến là nguồn gốc thực sự tạo ra giá trị thặng dư. Vai trò hai mặt của lao động trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư được thể hiện: lao động cụ thể của người công nhân đã bảo tồn, di chuyển giá trị của tư liệu sản xuất vào sản phẩm mới. Lao động trừu tượng của người công nhân tạo ra giá trị mới, trong đó có một bộ phận bằng với giá trị của sức lao động (v) nhà tư bản dùng để trả lương cho công nhân để tái sản xuất ra sức lao động, một bộ phận dôi ra ngoài giá trị sức lao động (m) bị nhà tư bản chiếm không. Trong phạm trù tái sản xuất, dựa vào tính hai mặt của lao động, Mác đã sửa chữa giáo điều của A. Smith, vạch rõ rằng toàn bộ sản phẩm xã hội chia ra làm ba bộ phận: c+v+m theo giá trị của nó. Điều này các nhà kinh tế học trước Mác như A. Smith và D. Ricardo chưa làm được. Sở dĩ như vậy vì trong cơ cấu giá trị hàng hóa, lao động cụ thể đã bảo tồn, chuyển dịch C , còn lao động trừu tượng tạo ra lượng giá trị mới (v+m). Kết luận Qua phát triển lý luận giá trị lao động cho thấy Mác đã có công lớn trong việc khắc phục những hạn chế về lý luận giá trị của các nhà kinh tế trước ông. Hoàn thiện những khái niệm giá trị sử dụng, giá trị trao đổi, thực thể giá trị, khái niệm thời gian lao động xã hội cần thiết với tư cách là thước đo quyết định lượng giá trị hàng hóa và khẳng định năng suất lao động là nhân tố ảnh hưởng đến lượng một hàng hóa, hoàn thiện lý luận tiền tệ, tìm ra quy luật lưu thông tiền tệ và quy luật giá trị là lực lượng khách quan chi phối sự vận động của hàng hóa và tiền tệ. Tóm lại, nhờ phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, Mác đã giải quyết được một loạt vấn đề kinh tế mà các nhà kinh tế học trước đây chưa giải thích được. Học thuyết của ông đã hoàn chỉnh, sắc bén và phát triển đến đỉnh cao nhất trong khoa kinh tế chính trị từ trước đến nay. Học thuyết của Mác là một phát kiến vĩ đại nhất ở thế kỷ 19.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50647.DOC
Tài liệu liên quan