Tài liệu Đề tài Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về kinh tế thị trường và sự vận dụng của nó ở Việt Nam để xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: A. Đặt vấn đề
Sau hơn 10 năm đổi mới toàn diện, Việt Nam đã vượt qua nhiều thử thách gay go. Mặc dù có rất nhiều những khó khăn, trở ngại trong những hoàn cảnh hết sức phức tạp nhưng Đảng và nhân dân Việt Nam không những đã đứng vững được mà còn vươn lên đạt được những thắng lợi nổi bật trên nhiều mặt. Những thắng lợi đó đã đưa Việt Nam ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, cơ bản hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị các tiền đề cho phép đất nước chuyển sang thời kỳ mới. Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Nguyên nhân cơ bản đưa đến thắng lợi đó chính là Đảng và Nhà nước Việt Nam đã kiên quyết chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây chính là một bước ngoặt quan trọng thể hiện một quyết định sáng suốt của Đảng và Nhà nước ta, làm thay đổi mọi mặt đời sống xã hội của đất nước.
Nhìn lại trước những năm đổi mới ta có thể...
31 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1056 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về kinh tế thị trường và sự vận dụng của nó ở Việt Nam để xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. Đặt vấn đề
Sau hơn 10 năm đổi mới toàn diện, Việt Nam đã vượt qua nhiều thử thách gay go. Mặc dù có rất nhiều những khó khăn, trở ngại trong những hoàn cảnh hết sức phức tạp nhưng Đảng và nhân dân Việt Nam không những đã đứng vững được mà còn vươn lên đạt được những thắng lợi nổi bật trên nhiều mặt. Những thắng lợi đó đã đưa Việt Nam ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, cơ bản hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị các tiền đề cho phép đất nước chuyển sang thời kỳ mới. Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Nguyên nhân cơ bản đưa đến thắng lợi đó chính là Đảng và Nhà nước Việt Nam đã kiên quyết chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây chính là một bước ngoặt quan trọng thể hiện một quyết định sáng suốt của Đảng và Nhà nước ta, làm thay đổi mọi mặt đời sống xã hội của đất nước.
Nhìn lại trước những năm đổi mới ta có thể thấy, suốt một thời gian dài các nước XHCN (trong đó có nước ta) đã không nhận thức đúng vai trò của sản xuất hàng hoá, của kinh tế thị trường, đã đồng nhất hình thức sở hữu với hình thức tổ chức kinh tế và thành phần kinh tế, coi nhẹ, thậm chí phủ nhận quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, coi nhẹ quy luật cung - cầu, chỉ nhìn thấy mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, phủ nhận quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Do đó đối lập kinh tế hàng hoá và thị trường với kinh tế kế hoạch hoá, cho thị trường là phạm trù riêng của chủ nghĩa tư bản cho nên chúng ta chỉ thừa nhận sự tồn tại của sản xuất hàng hoá trong khuôn khổ “thi đua xã hội chủ nghĩa”, tách rời một cách siêu hình sản xuất hàng hoá với thị trường. Bởi vậy chúng ta không tạo được động lực để phát triển sản xuất, vô tình hạn chế việc ứng dụng những tiến bộ của khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, năng suất lao động tăng chậm, gây rối loạn và ách tắc trong lĩnh vực phân phối, lưu thông, làm cho nền kinh tế rơi vào tình trạng kém năng động, trì trệ.
Như vậy từ việc nghiên cứu trên cho ta thấy kết quả của công cuộc đổi mới đã chứng minh cho vai trò của sản xuất hàng hoá, của kinh tế thị trường trong sự nghiệp xây dựng đất nước ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tuy vậy do ảnh hưởng của những quan niệm trước đây về một chủ nghĩa xã hội không có kinh tế hàng hoá, không có quan hệ thị trường và bản thân kinh tế thị trường lại có tính 2 mặt của nó nên trong thực tế việc nhận thức đúng vai trò của kinh tế thị trường với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta cần được làm rõ.
Mặt khác kinh tế thị trường ở nước ta ở giai đoạn sơ khai, sự vận động của nền kinh tế thị trường còn mang nhiều yếu tố tự phát, cơ chế thị trường còn thiếu đồng bộ, mang nhiều yếu tố tự phát, rối loạn, cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường còn thô sơ,... nghĩa là chưa đạt đến trình độ kinh tế thị trường hiện đại. Nên việc nghiên cứu về mặt lý luận và rút kinh nghiệm từ thực tiễn để phát triển hoàn thiện kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là cần thiết.
Từ việc nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về kinh tế thị trường chúng ta sẽ có cái nhìn tổng quát hơn về vai trò cũng như hạn chế của kinh tế thị trường để từ đó soi rọi vào vấn đề cấp bách hiện nay của nước ta trong công cuộc đổi mới của nước ta đang đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Chính vì vậy em quyết định chọn đề tài: “Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về kinh tế thị trường và sự vận dụng của nó ở Việt Nam để xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN”.
Trong bài viết này do phạm vi hiểu biết của em có hạn nên bài viết có thể có những sai sót. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy giáo và các bạn để bài viết được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự dạy dỗ chỉ bảo hướng dẫn tận tình của thầy giáo Phạm Thành qua những bài giảng trên lớp đã giúp em có được những hiểu biết để hoàn thành bài viết này.
B. Nội dung
I. Lý luận của chủ nghĩa mác - lênin về kinh tế thị trường.
1. Kinh tế thị trường - các giai đoạn hình thành và phát triển của nó.
a. Kinh tế thị trường:
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ xã hội hoá cao. Nó là hình thức, phương thức vận hành kinh tế, trong đó các quy luật của thị trường chi phối việc phân bổ các tài nguyên; qui định: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai?
Đây là 1 kiểu tổ chức kinh tế hình thành và phát triển do những đòi hỏi khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất. Nó là phương thức sinh hoạt kinh tế của sự phát triển, trong đó quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều gắn với thị trường, được thực hiện thông qua thị trường, vì vậy trong nền kinh tế thị trường các yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất, kể cả sản phẩm từ chất xám đều là đối tượng mua bán trên thị trường nên nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế tiền tệ hoá cao.
Kinh tế thị trường là 1 kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, vì vậy kinh tế thị trường không chỉ là 1 công nghệ kỹ thuật mà còn là quan hệ xã hội, nó không chỉ bao hàm yếu tố lực lượng sản xuất mà còn quan hệ sản xuất. Kinh tế thị trường gồm nhiều hình thức sở hữu mà trong đó nó phụ thuộc vào chế độ sở hữu thống trị. Vì vậy không có kinh tế thị trường chung chung, thuần tuý, trừu tượng tách khỏi các hình thái kinh tế xã hội, tách rời chế độ xã hội.
Trong các chế độ xã hội khác nhau, kinh tế thị trường mang tính chất xã hội khác nhau, có những hậu quả khác nhau. Tác động tích cực và tiêu cực của kinh tế thị trường đến đâu còn phụ thuộc vào chế độ xã hội, vai trò của Nhà nước, vào chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Tác động của kinh tế thị trường phải thông qua cơ chế thị trường vì nó là cơ chế vận hành khách quan của kinh tế thị trường. Cơ chế dựa trên các quan hệ cơ bản như quan hệ hàng hoá - thị trường, quan hệ cung - cầu; dựa trên các quy luật của thị trường như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ.
b. Các giai đoạn hình thành và phát triển của kinh tế thị trường:
Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Nó hình thành và phát triển qua 3 giai đoạn: Kinh tế tự nhiên, kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường.
b1. Quá trình chuyển từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hoá.
b.1.1. Khái niệm về kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hoá:
b.1.1.1. Kinh tế tự nhiên: là 1 hình thức tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm sản xuất ra nhằm mục đích tiêu dùng ngay trong những đơn vị sản xuất ra nó như là: thị tộc, công xã, hộ gia đình, trang trại,...
Do đó kinh tế tự nhiên là 1 nền kinh tế hiện vật, khép kín, sản xuất nhỏ, phân tán, phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Nó tồn tại và thống trị trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tuy không giữ địa vị thống trị nhưng vẫn còn tồn tại trong xã hội tư bản chủ nghĩa cho đến ngày nay.
b.1.1.2. Kinh tế hàng hoá: là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm làm ra nhằm mục đích trao đổi, mua bán trên thị trường.
Như vậy, kinh tế hàng hoá là 1 nền kinh tế mở, các quan hệ hầu hết được thể hiện dưới hình thái giá trị.
Kinh tế hàng hoá xuất hiện từ cuối chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã, tồn tại trong chế độ chiếm hữu nô lệ và phong kiến đó là sản xuất hàng hoá giản đơn. Đến chủ nghĩa tư bản sản xuất hàng hoá trở thành phổ biến và thống trị trong nền kinh tế mà còn phát triển lên giai đoạn cao hơn đó là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Đến chủ nghĩa xã hội vẫn còn sản xuất hàng hoá. Đó là sản xuất hàng hoá lớn XHCN hay còn gọi là nền kinh tế thị trường XHCN.
Vậy sản xuất hàng hoá là 1 phạm trù lịch sử.
So với kinh tế tự nhiên, kinh tế hàng hoá có những ưu thế sau đây:
Một là, trong kinh tế hàng hoá do sự phát triển của phân công lao động xã hội cho nên sản xuất được chuyên môn hoá ngày càng cao, thị trường ngày càng mở rộng. Điều đó tạo điều kiện phát huy lợi thế so sánh của mỗi vùng, mỗi đơn vị sản xuất, thúc đẩy việc cải tiến công cụ lao động, nâng cao trình độ kỹ thuật, mở rộng phạm vi sản xuất; thúc đẩy sản xuất phát triển.
Hai là, trong kinh tế hàng hoá, mục đích của sản xuất không phải là để tiêu dùng cho chính bản thân người sản xuất mà là để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Chính nhu cầu ngày càng tăng của thị trường đã làm hình thành động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của sản xuất hàng hoá. Người tiêu dùng được cọi là “thượng đế”, được quyền tự do lựa chọn những hàng hoá phù hợp với nhu cầu có khả năng thanh toán và thị thiếu của mình trên cơ sở căn cứ vào chất lượng và giá cả của hàng hoá. Nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao thì sản xuất phải mở rộng cả về chiều rộng và chiều sâu.
Ba là, trong kinh tế hàng hoá, cạnh tranh ngày càng gay gắt. Yêu cầu của cạnh tranh đòi hỏi những đơn vị sản xuất hàng hoá phải thường xuyên quan tâm tới bằng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm,... để thu được lợi nhuận ngày càng nhiều hơn. Cạnh tranh, chạy theo lợi nhuận siêu ngạch đã làm cho lực lượng sản xuất có những bước tiến bộ dài.
Bốn là, trong kinh tế hàng hoá, do sản xuất xã hội ngày càng phát triển, quan hệ hàng hoá tiền tệ ngày càng mở rộng, cho nên sản phẩm hàng hoá ngày càng phong phú và đa dạng, giao lưu kinh tế và văn hoá giữa các vùng, các địa phương và các quốc gia ngày càng phát triển. Đời sống vật chất, tinh thần và văn hoá của dân cư ngày càng được nâng cao.
b.1.2. Những tiền đề của quá trình chuyển từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hoá.
Sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hoá là quá trình kinh tế khách quan. Nó bắt đầu khi kinh tế tự nhiên phát triển đến trình độ làm xuất hiện những tiền đề của kinh tế hàng hoá. Trong lịch sử, những quan hệ hiện vật, tự nhiên và quan hệ hàng hoá - tiền tệ tồn tại đan xen và mâu thuẫn với nhau. Sự xuất hiện của kinh tế hàng hoá cũng chính là sự xuất hiện những tiền đề phủ định kinh tế tự nhiên và khẳng định kinh tế hàng hoá. Mỗi bước phát triển của kinh tế hàng hoá là một bước đẩy lùi kinh tế tự nhiên. Như vậy, trong quá trình vận động và phát triển, kinh tế hàng hoá đã phủ định dần kinh tế tự nhiên và khẳng định mình là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội độc lập.
Quá trình xuất hiện, vận động và phát triển của kinh tế hàng hoá diễn ra với sự tác động mạnh mẽ của những tiền đề sau đây:
- Phân công lao động xã hội
- Sự độc lập tương đối về kinh tế giữa những người sản xuất
- Lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ
- Hệ thống thông tin và giao thông vận tải
Phân công lao động xã hội đã tạo ra những ngành, nghề sản xuất khác nhau. Do phân công lao động xã hội cho nên mỗi người chuyên làm một việc trong một ngành với một nghề nhất định và chuyên sản xuất ra một hoặc một số sản phẩm nhất định. Nhưng nhu cầu tiêu dùng của họ lại cần nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thoả mãn nhu cầu của mình, những người sản xuất phải nương tựa vào nhau, trao đổi sản phẩm cho nhau. Phân công lao động xã hội làm nảy sinh những quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất với nhau.
Trong điều kiện tư hữu về tư liệu sản xuất, những người sản xuất độc lập với nhau và có lợi ích kinh tế khác nhau.
Do có phân công lao động xã hội và sự độc lập tương đối về kinh tế giữa những người sản xuất, cho nên quan hệ giữa những người sản xuất là quan hệ mâu thuẫn: họ vừa liên hệ, phụ thuộc vào nhau vừa độc lập với nhau. Giải quyết mối quan hệ mâu thuẫn này tất yếu đòi hỏi phải có quan hệ trao đổi dựa trên cơ sở giá trị, nghĩa là dựa trên cơ sở trao đổi ngang giá.
Khi trao đổi trở thành tập quán và là một mục đích của sản xuất thì sản xuất hàng hoá ra đời.
Phân công lao động xã hội phát triển thì quan hệ trao đổi cũng được mở rộng và ngày càng phức tạp. Phân công lao động xã hội làm xuất hiện thủ công nghiệp và tách nó khỏi ngành nông nghiệp, làm hình thành xu hướng công nghiệp thành thị dần dần tách khỏi nông nghiệp nông thôn.
Phân công lao động xã hội phát triển cũng dẫn tới sự ra đời của ngành thương nghiệp. Khi thương nghiệp ra đời, quan hệ trao đổi có sắc thái mới: người sản xuất và người tiêu dùng quan hệ với nhau qua người thứ ba là thương nhân. Việc mở rộng phạm vi xã hội hoá sản xuất đồng thời cũng kéo theo việc chuyên môn hoá ngành nghề. Người sản xuất chuyển sản xuất, còn lưu thông hàng hoá đã có thương nhân đảm nhận. Thông qua hoạt động mua bán của mình, thương nhân đã thực hiện vai trò nói liền sản xuất với sản xuất và sản xuất với tiêu dùng. Qua đó khơi dậy những nhu cầu mới đối với sản xuất và hướng sản xuất phục vụ nhu cầu của thị trường. Thương nghiệp phát triển, làm cho sản xuất và lưu thông hàng hoá cùng với lưu thông tiền tệ được phát triển nhanh chóng. Điều này dẫn tới sự mở rộng quan hệ trao đổi giữa các vùng, đồng thời liên kết những người sản xuất với nhau, cuốn hút họ vào quỹ đạo của kinh tế hàng hoá.
Quan hệ trao đổi được mở rộng và phát triển đòi hỏi hệ thống giao thông vận tải cũng phải mở rộng và phát triển. Đây là điều kiện vật chất làm tăng thêm các phương tiện trao đổi, mở rộng thị trường. Sự phát triển và hoàn thiện của hệ thống giao thông vận tải có vai trò thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển cao hơn. Điều này dẫn tới sự ra đời của các hoạt động dịch vụ, chế biến,... làm cho dân cư chịu sự chi phối của những quy luật phổ biến của sản xuất và lưu thông hàng hoá.
b.2. Bước chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường.
b2.1. Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá.
Kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường chỉ khác nhau về trình độ phát triển. Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá phát triển, điều đó có nghĩa là phạm trù hàng hoá, phạm trù tiền tệ và thị trường được phát triển và được mở rộng. Hàng hoá không chỉ bao gồm những sản phẩm đầu ra của sản xuất mà còn bao hàm cả các yếu tố đầu vào của sản xuất. Dung lượng thị trường và cơ cấu thị trường được mở rộng và hoàn thiện. Mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều được tiền tệ hoá. Khi đó người ta gọi kinh tế hàng hoá là kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá cũng đã trải qua 3 giai đoạn phát triển.
Giai đoạn thứ nhất: là giai đoạn chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường (còn gọi là kinh tế thị trường sơ khai).
Giai đoạn thứ hai: là giai đoạn phát triển kinh tế thị trường tự do.
Đặc trưng của giai đoạn này là sự phát triển kinh tế diễn ra theo tinh thần tự do, Nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh tế.
Giai đoạn thứ ba: là giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại. Đặc trưng của giai đoạn này là Nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường thông qua việc xây dựng các hình thức sở hữu Nhà nước, các chương trình khuyến khích đầu tư và tiêu dùng, cùng với việc sử dụng các công cụ kinh tế như: tài chính, tín dụng, tiền tệ,... để điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô, sự phối hợp giữa Chính phủ và thị trường trong 1 nền kinh tế hỗn hợp nhằm đảm bảo sự phát triển có hiệu quả của những nước có mức tăng trưởng kinh tế nhanh.
b.2.2. Những điều kiện hình thành kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường được hình thành với những điều kiện sau đây:
Một là, sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động và thị trường sức lao động. Trước hết cần khẳng định sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động là một tiến bộ lịch sử. Người lao động được tự do, anh ta có quyền làm chủ khả năng lao động của mình và là chủ thể bình đẳng trong việc thương lượng với người khác. Chủ nghĩa tư bản đã thực hiện được bước tiến bộ lịch sử đó trong khuôn khổ lợi dụng tính chất đặc biệt của hàng hoá sức lao động để phục vụ túi tiền của các nhà tư bản. Vì vậy đã làm nảy sinh mâu thuẫn giữa tư bản với lao động làm thuê. Trong điều kiện lịch sử mới - thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa chủ nghĩa - không phải mọi người có sức lao động đem bán đều là những người vô sản. Do sự chi phối lợi ích kinh tế và của chi phí cơ hội, những người lao động vẫn có thể bán sức lao động của mình cho người khác nếu như họ cảm thấy việc làm này có lợi hơn so với việc tổ chức quá trình sản xuất.
Trong lịch sử, sự hoạt động của quy luật giá trị đã từng dẫn tới sự phân hoá những người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo. Sự phân hoá này diễn ra chậm chạp, cho nên cần phải có bạo lực của Nhà nước để thúc đẩy sự phân hoá này diễn ra được nhanh hơn. Chính sự phân hoá những người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo tới một giới hạn nhất định đã làm nảy sinh hàng hoá lao động và thị trường sức lao động.
Sự xuất hiện hàng hoá sức lao động dẫn tới sự hình thành kinh tế thị trường là vì:
- Kinh tế thị trường là nền kinh tế phát triển. Nó có năng suất lao động cao. Ngoài những sản phẩm cần thiết còn có những sản phẩm thặng dư. Chính sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động đã phản ánh điều đó. Hàng hoá sức lao động là hàng hoá đặc biệt. Tính chất đặc biệt của nó được thể hiện tập trung ở thuộc tính giá trị sử dụng của nó. - Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động. Sở dĩ như vậy là vì: do kỹ thuật sản xuất phát triển cho nên năng suất lao động của người công nhân đã cao, ngày lao động của người công nhân được chia thành hai phần, phần thời gian lao động cần thiết và phần thời gian lao động thặng dư. Chỉ đến một giới hạn nhất định trong sự phát triển của lực lượng sản xuất - khi kỹ thuật sản xuất phát triển, năng suất lao động xã hội được nâng cao thì sức lao động của người ta mới có thể trở thành đối tượng của quan hệ mua bán. Sự xuất hiện hàng hoá - sức lao động phản ánh giai đoạn sản xuất đã phát triển trong đó năng suất lao động đã cao.
- Nhờ có sự xuất hiện của hàng hoá lao động và thị trường sức lao động mà tiền không chỉ đơn thuần là phương tiện lưu thông mà còn trở thành phương tiện làm tăng giá trị, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Với sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động dẫn tới sự hình thành thị trường các yếu tố sản xuất một cách hoàn chỉnh. Kinh tế thị trường ra đời.
Hai là, phải tích luỹ được một số tiền nhất định và số tiền đó phải trở thành vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm mục đích có lợi nhuận. Lý luận kinh tế của trường phái trọng thương đã phản ánh rõ điều kiện tiền đề này.
Ba là, kinh tế thị trường là kinh tế tiền tệ, cho nên vai trò của tiền tệ vô cùng quan trọng. Để hình thành được nền kinh tế thị trường cần phải có hệ thống tài chính, tín dụng, ngân hàng tương đối phát triển. Không thể có được kinh tế thị trường nếu như hệ thống tài chính, ngân hàng còn quá yếu ớt, hệ thống quan hệ tín dụng còn quá giản đơn không đáp ứng được nhu cầu về vốn cho sản xuất và kinh doanh.
Bốn là, sự hình thành nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có một hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối phát triển, trên cơ sở đó mới bảo đảm cho lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ được thuận lợi dễ dàng, mới tăng được phương tiện vật chất nhằm mở rộng quan hệ trao đổi.
Năm là, tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước. Đối với nước ta, đây là điều kiện có tính then chốt để hình thành nền kinh tế thị trường. Nhà nước đã tạo ra môi trường và hành lang cho thị trường phát triển lành mạnh. Đồng thời Nhà nước sử dụng những biện pháp hành chính cần htiết để phát huy những ưu thế và hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường. Nhà nước thực hiện chính sách phân phối và điều tiết theo nguyên tắc kết hợp công bằng xã hội với hiệu quả kinh tế xã hội. Nhà nước còn thực hiện sự điều tiết nhằm xử lý hài hoà quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
Với tác động của tất cả các tiền đề trên, nền kinh tế thị trường được xã hội hoá cao, các quan hệ kinh tế mang hình thái phổ biến là quan hệ hàng hoá - tiền tệ và nó được tiền tệ hoá. Các quy luật của kinh tế thị trường được phát huy tác dụng một cách đầy đủ.
c. Đặc trưng chung của kinh tế thị trường.
Chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là yêu cầu khách quan, nhằm phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Quá trình đó phù hợp với xu thế của thời đại và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân ta.
Qua trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN tất yếu đòi hỏi phải nghiên cứu những đặc trưng của mô hình kinh tế hướng tới.
Trên thế giới đã có nhiều quốc gia phát triển nền kinh tế của mình theo mô hình kinh tế thị trường. Chẳng hạn, mô hình kinh tế thị trường - xã hội của Cộng hoà Liên bang Đức, kinh tế thị trường của Thuỵ Điển, kinh tế thị trường mang màu sắc Trung Quốc,... Nếu gác lại những đặc điểm riêng, cá biệt của những mô hình kể trên, chỉ tính đến những đặc trưng chung nhất, vốn có của kinh tế thị trường, có thể nêu những đặc điểm mang tính phổ biến như sau:
Một là, tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất và kinh doanh của mình. Các chủ thể kinh tế được tự do liên kết, liên doanh, tự do tổ chức quá trình sản xuất theo luật định. Đây là đặc trưng rất quan trọng của kinh tế thị trường. Đặc trưng này xuất phát từ những điều kiện khách quan của việc tồn tại nền kinh tế hàng hoá. Đồng thời cũng là biểu hiện và là yêu cầu nội tại của kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá không bao dung hành vi bao cấp. Nó đối lập với bao cấp và đồng nghĩa với tự chủ, năng động.
Hai là, trên thị trường hàng hoá rất phong phú. Người ta tự do mua, bán hàng hoá. Trong đó người mua chọn người bán. Người bán tìm người mua. Họ gặp nhau ở giá cả thị trường. Đặc trưng này phản ánh tính ưu việt hơn hẳn của kinh tế thị trường so với kinh tế tự nhiên.
Sự đa dạng phong phú về số lượng và chủng loại những hàng hoá trên thị trường, một mặt phản ánh trình độ cao của năng suất lao động xã hội, mặt khác cũng nói lên mức độ phát triển của quan hệ trao đổi, trình độ của phân công lao động xã hội và sự phát triển của thị trường. Những ưu thế trên của kinh tế thị trường phản ánh trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ, tựu chung phản ánh trình độ cao của lực lượng sản xuất xã hội. Vì vậy, nói đến kinh tế thị trường là nói đến một nền kinh tế phát triển cao.
Ba là, giá cả được hình thành ngay trên thị trường. Giá cả thị trường vừa là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường, vừa chịu sự tác động của quan hệ cạnh tranh và quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ. Trên cơ sở giá trị thị trường, giá cả là kết quả của sự thương lượng và thoả thuận giữa người mua và người bán. Đặc trưng này phản ánh yêu cầu của quy luật lưu thông hàng hoá. Trong quá trình trao đổi mua bán hàng hoá, người bán luôn luôn muốn bán với giá cao, người mua lại luôn muốn mua với giá thấp. Đối với người bán, giá cả phải đáp ứng nhu cầu bù đắp được chi phí và co doanh lợi. Chi phí sản xuất là giới hạn dưới, là phần cứng của giá cả, còn doanh lợi càng nhiều càng tốt. Đối với người mua, giá cả phải phù hợp lợi ích giới hạn của họ. Giá cả thị trường dung hoà được cả lợi ích của người mua lẫn lợi ích của người bán. Tất nhiên, trong cuộc “giằng co” giữa người mua và người bán để hình thành giá cả thị trường, lợi thế sẽ nghiêng về phía người bán, nếu như cung ít, cầu nhiều và ngược lại, lợi thế sẽ nghiêng về phía người mua nếu như cung nhiều, cầu ít.
Bốn là: cạnh tranh là tất yếu của kinh tế thị trường. Nó tồn tại trên cơ sở những đơn vị sản xuất hàng hoá độc lập và khác nhau về lợi ích kinh tế. Theo yêu cầu của quy luật giá trị, tất cả các đơn vị sản xuất hàng hoá đều phải sản xuất và kinh doanh trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong điều kiện đó, muốn có nhiều lợi nhuận các đơn vị sản xuất và kinh doanh phải đua nhau cải tiến kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động cá biệt, giảm hao phí lao động cá biệt nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh diễn ra một cách phổ biến trong cả lĩnh vực sản xuất và trong cả lĩnh vực lưu thông. Cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất bao gồm: cạnh tranh nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành với nhau. Cạnh tranh trong lĩnh vực lưu thông bao gồm: cạnh tranh giữa những người tham gia trao đổi hàng hoá và dịch vụ trên thị trường (người bán với những người bán, người mua với những người mua). Hình thức và những biện pháp của cạnh tranh có thể rất phong phú nhưng động lực và mục đích cuối cùng của cạnh tranh chính là lợi nhuận.
Năm là, kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở. Nó rất đa dạng, phức tạp và được điều hành bởi hệ thống tiền tệ và hệ thống luật pháp của Nhà nước.
Mỗi đặc trưng trên đây phản ánh một khía cạnh của mô hình kinh tế thị trường. Tổng hợp cả 5 đặc trưng sẽ giúp chúng ta hình dung được khái quát cấu trúc của mô hình này.
2. Các nhân tố của kinh tế thị trường.
a. Hàng hoá và tiền tệ.
a.1. Hàng hoá và hai thuộc tính của hàng hoá:
a.1.1. Hàng hoá: là sản phẩm của lao động mà trước hết nó có thể thoả mãn được nhu cầu nào đó của con người và sau nữa nó được sản xuất ra nhằm mục đích trao đổi mua bán.
a.1.2. Hai thuộc tính của hàng hoá: hàng hoá có 2 thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị (hay giá trị trao đổi).
Giá trị sử dụng của hàng hoá: là công dụng của vật phẩm mà có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người. Giá trị sử dụng của hàng hoá là do thuộc tính tự nhiên của hàng hoá qui định; vì vậy, nó là một phạm trù vĩnh viễn. Giá trị sử dụng của hàng hoá có đặc điểm là: giá trị sử dụng ở đây không phải là cho người sản xuất trực tiếp ra nó mà là cho người khác, cho xã hội. Giá trị sử dụng đến tay người khác - người tiêu dùng phải thông qua mua - bán. Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng đồng thời là vật mang giá trị trao đổi.
Giá trị hàng hoá: Muốn hiểu giá trị phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi được biểu hiện là quan hệ tỷ lệ về số lượng trao đổi lẫn nhau giữa các giá trị sử dụng khác nhau. Hai hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau có thể trao đổi được với nhau theo một tỷ lệ nhất định, vì chúng đều là sản phẩm của lao động, có cùng cơ sở là sự hao phí sức lao động của con người. Lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá là giá trị của hàng hoá.
Như vậy, giá trị là cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị.
Giá trị của hàng hoá là biểu hiện mối quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá và nó là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền kinh tế hàng hoá.
Lượng giá trị của hàng hoá được xác định như thế nào? Nếu giá trị của hàng hoá là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá, thì lượng giá trị của hàng hoá là số lượng lao động xã hội hao phí để sản xuất ra hàng hoá (bao gồm thời gian lao động sống và thời gian lao động vật hoá - thể hiện ở tư liệu sản xuất), nó được đo bằng đơn vị đo của thời gian như giờ, ngày, tuần, quý, tháng,...
Trong điều kiện sản xuất tư nhân thì mỗi người sản xuất có hao phí lao động cá biệt sẽ tạo thành giá trị cá biệt của hàng hoá. Nhưng trên thị trường không thể dựa vào giá trị cá biệt của hàng hoá để trao đổi, mà phải dựa vào giá trị xã hội của hàng hoá.
Giá trị xã hội của hàng hoá được tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá quyết định. Đó là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá trong điều kiện sản xuất trung bình của xã hội: kỹ thuật trung bình, cường độ lao động hao phí trung bình; kỹ năng, kỹ sảo trung bình,... thông thường, thời gian lao động xã hội cần thiết gắn sát với thời gian lao động cá biệt của người sản xuất hàng hoá nào đó mà có khả năng cung ứng được đa số loại hàng hoá trên thị trường.
Có những yếu tố nào ảnh hưởng tới lượng giá trị của hàng hoá? Thời gian hao phí lao động xã hội cần thiết của 1 hàng hoá không phải là 1 đại lượng cố định mà nó thay đổi, vì nó phụ thuộc vào 2 yếu tố là: năng suất lao động và cường độ lao động.
Năng suất lao động: là hiệu quả có ích của lao động sản xuất vật chất của con người, nó được đo bằng số lượng sản phẩm làm ra trong 1 đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian hao phí để làm ra 1 đơn vị sản phẩm.
W = ; W =
Với:
Q : là số lượng sản phẩm
T : đơn vị thời gian
t : lượng thời gian hao phí cho 1 đơn vị sản phẩm
q : sản phẩm
Trong quá trình lao động sản xuất con người luôn có xu hướng nâng cao hiệu quả sản xuất của mình tức là tăng năng suất lao động, tăng năng suất lao động được thể hiện ở chỗ: tăng số lượng sản phẩm, làm ra trong 1 đơn vị thời gian hoặc giảm thời gian lao động hao phí để làm ra 1 đơn vị sản phẩm so với trước. Như vậy thực chất của tăng năng suất lao động là tiết kiệm thời gian lao động. Giá trị hàng hoá thay đổi tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Còn năng suất lao động lại phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật của người lao động, mức độ trang bị kỹ thuật cho người lao động và phụ thuộc vào phương pháp tổ chức lao động, cũng như các điều kiện tự nhiên.
Cần phân biệt giữa tăng năng suất lao động với tăng cường độ lao động. Tăng cường độ lao động giống như kéo dài thời gian lao động, nó làm cho số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong 1 đơn vị thời gian tăng lên nhưng hao phí sức lao động cũng tăng lên cùng tỉ lệ và do đó giá trị của 1 hàng hoá không thay đổi.
Ngoài 2 yếu tố là năng suất lao động và cường độ lao động ở trên thì lượng giá trị của hàng hoá còn chịu ảnh hưởng của 2 yếu tố là lao động giản đơn và lao động phức tạp.
Tham gia vào sản xuất hàng hoá với nhiều loại lao động khác nhau nhưng người ta khái quát thành 2 trình độ là lao động giản đơn và lao động phức tạp.
Lao động giản đơn là lao động sản xuất vật chất của con người, không cần phải đào tạo chuyên môn, mà ai có sức lao động cũng có thể làm được. Còn lao động phức tạp là lao động phải có chuyên môn, có đào tạo mới làm được.
Trong cùng một thời gian thì lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Trong quá trình trao đổi hàng hoá thì mọi lao động phức tạp đều được quy thành lao động giản đơn trung bình của xã hội.
a.1.3. Tính 2 mặt của lao động sản xuất hàng hoá.
Hàng hoá có 2 thuộc tính trên bởi vì lao động sản xuất hàng hoá có tính chất 2 mặt là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
Lao động cụ thể: là lao động sản xuất vật chất của con người, nó được tồn tại dưới hình thức nghề nghiệp chuyên môn nhất định, lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của vật phẩm, các lao động cụ thể khác nhau về chất, mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, phương pháp riêng, đối tượng và kết quả riêng.
Lao động cụ thể là 1 phạm trù vĩnh viễn, nó gắn liền với lao động sản xuất vật chất của con người.
Lao động trừu tượng: là lao động hao phí của người sản xuất hàng hoá nói chung về sức thần kinh, cơ bắp, thể lực và trí lực, nếu như gạt bỏ tính muôn màu muôn vẻ của các hình thức cụ thể của lao động. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hoá nên nó là 1 phạm trù lịch sử.
Tuy nhiên, cần chú ý là không phải có 2 thứ lao động kết tinh trong hàng hoá mà chỉ là lao động của người sản xuất hàng hoá có tính 2 mặt mà thôi.
Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn thì tính 2 mặt của lao động sản xuất hàng hoá là sự biểu hiện của mâu thuẫn lao động tư nhân và lao động xã hội của những người sản xuất hàng hoá. Đó chính là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá giản đơn.
a.2. Tiền tệ.
a.2.1. Nguồn gốc và bản chất của tiền tệ.
Giá trị của hàng hoá rất trừu tượng, nó chỉ được bộc lộ qua giá trị trao đổi, giá trị của hàng hoá được biểu hiện bằng tiền thì được gọi là giá cả của nó. Tiền tệ xuất hiện là kết quả của quá trình lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hoá, của các hình thức giá trị hàng hoá.
Hình thái đầu tiên của giá trị là hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên, khi số hàng hoá trao đổi còn rất ít và diễn ra hoàn toàn ngẫu nhiên. ở hình thái này, hàng hoá thứ nhất biểu hiện giá trị của nó ở hàng hoá thứ 2, còn hàng hoá thứ 2 đóng vai trò là vật ngang giá.
Khi mà số lượng hàng hoá trao đổi trên thị trường có nhiều hơn thì một hàng hoá có thể trao đổi với nhiều hàng hoá khác. Đó là hình thái giá trị mở rộng hay phát triển.
Khi sản xuất hàng hoà phát triển hơn nữa, trao đổi hàng hoá trở nên thường xuyên rộng rãi hơn, thì có 1 hàng hoá tách ra làm vật ngang giá chung. Đó chính là hình thái chung của giá trị. Vật ngang giá chung có thể trao đổi trực tiếp với một hàng hoá bất kỳ. Vật ngang giá trở thành môi giới, thành phương tiện trao đổi lúc đầu ở mỗi địa phương, hoặc mỗi dân tộc thường có những sản phẩm khác nhau làm vật ngang giá chung, nhưng khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển hơn nữa, thị trường được mở rộng thì vai trò vật ngang giá chung dần dần được cố định ở vàng và bạc thì hình thái tiền tệ của giá trị ra đời.
Khi tiền tệ ra đời thì thế giới hàng hoá phân làm 2 cực đối lập; một phía là các hàng hoá thông thường, một phía là hàng hoá đóng vai trò là tiền tệ làm vật ngang giá chung thống nhất.
Như vậy, tiền tệ là đại biểu cho hao phí lao động xã hội, biểu hiện quan hệ sản xuất xã hội, là 1 hàng hoá đặc biệt mà ngày nay nó được sử dụng làm 1 công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước ở trong nền kinh tế thị trường hiện đại. Tiền tệ là 1 phạm trù lịch sử.
a.2.2. Chức năng của tiền tệ - Quy luật lưu thông tiền tệ - Lạm phát.
* Chức năng của tiền tệ:
- Chức năng thước đo giá trị: giá trị của mỗi hàng hoá được thể hiện bằng 1 số lượng tiền tệ nhất định. Tiền tệ có thể làm thước đo giá trị vì bản thân nó cũng là 1 hàng hoá, cũng có giá trị như các hàng hoá khác.
Giá trị của hàng hoá biểu hiện bằng tiền là giá cả. Như vậy, giá trị là cơ sở của giá cả. Giá cả hàng hoá thay đổi lên xuống xoay quanh giá trị, nhưng tổng giá cả thì luôn bằng tổng số giá trị hàng hoá.
- Phương tiện lưu thông: đây là chức năng thứ 2 của tiền tệ, với chức năng này thì tiền tệ làm môi giới trong trao đổi hàng hoá và đó phải là tiền mặt. Khi tiền tệ làm phương tiện lưu thông thì việc trao đổi hàng hoá vận động theo công thức H - T - H.
- Phương tiện cất trữ: tiền rút ra khỏi lưu thông thì làm chức năng cất trữ và khi lưu thông cần nó lại đưa vào lưu thông, nhưng làm chức năng này phải là tiền vàng hoặc các kim loại quý hoặc đá quý.
- Chức năng phương tiện thanh toán: sản xuất hàng hoá và lưu thông hàng hoá phát triển làm xuất hiện hiện tượng mua bán chịu do đó tiền còn làm chức năng thanh toán. Với chức năng này phát triển sẽ làm tăng thêm sự phụ thuộc giữa những người sản xuất hàng hoá.
- Chức năng tiền tệ thế giới: việc buôn bán giữa các nước xuất hiện thì tiền tệ còn làm chức năng thanh toán quốc tế. Làm chức năng này phải là tiền thật, tức là vàng.
Các chức năng trên của tiền tệ biểu hiện rõ nét bản chất của nó, chúng có quan hệ mật thiết với nhau và ra đời theo trình độ phát triển của kinh tế hàng hoá.
* Quy luật lưu thông tiền tệ.
Để thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, ở mỗi thời kỳ cần có một số tiền nhất định, số lượng tiền này được xác định bằng quy luật lưu thông tiền tệ. Quy luật này được xác định như sau:
=
Đây là quy luật lưu thông của tiền vàng.
* Lạm phát:
Quy luật lưu thông tiền tệ nói trên là quy luật của tiền vàng. Trong điều kiện lưu thông tiền giấy lại khác. Vì tiền giấy không làm chức năng phương tiện cất giữ được, nên khi số lượng tiền giấy đưa vào lưu thông quá mức cần thiết sẽ dẫn đến lạm phát.
Lạm phát là 1 hiện tượng chung của nền kinh tế hàng hoá.
Lạm phát biểu hiện rõ rệt ở sự tăng lên của giá cả hàng hoá và dịch vụ. Lạm phát dẫn đến phân phối lại các nguồn thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và giảm tiền lương thực tế của những người sống bằng lương và hưởng trợ cấp xã hội bằng tiền.
Căn cứ tốc độ tăng của giá cả mà người ta chia lạm phát thành 3 loại:
Tăng dưới 10% gọi là lạm phát vừa phải.
Tăng dưới 100% gọi là lạm phát phi mã.
Tăng từ 100% trở lên được gọi là siêu lạm phát.
Hiện nay, lạm phát đã trở thành 1 căn bệnh của nền kinh tế thị trường hiện đại.
b. Thị trường và cạnh tranh.
b.1. Thị trường.
b.1.1. Khái niệm:
Sản xuất hàng hoá gắn liền với thị trường. Thị trường là lĩnh vực trao đổi, mua bán mà ở đó các chủ thể kinh tế cạnh tranh với nhau để xác định giá cả hàng hoá, giá cả dịch vụ và sản lượng.
Nói đến thị trường trước hết là nói đến các nhân tố cơ bản cấu thành thị trường đó là hàng và tiền, người mua và người bán. Từ đó hình thành các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, mua - bán, cung - cầu và giá cả hàng hoá.
Nói đến thị trường là nói tới tự do kinh doanh, tự do mua bán, thuận mua vừa bán, tự do giao dịch, quan hệ giữa các chủ thể kinh tế bình đẳng.
Ngoài ra thì mỗi một loại hàng hoá lại có thị trường riêng của nó: thị trường gạo, thị trường muối, thị trường vải,... Sở dĩ như vậy là vì: hành vi trao đổi trở nên rất thường xuyên, quy mô và phạm vi trao đổi ngày càng mở rộng. Mọi hàng hoá phải qua trao đổi thì mới đến tay người tiêu dùng.
b.1.2. Vai trò và chức năng của thị trường.
- Thừa nhận công dụng xã hội của sản phầm và lao động đã chi phí để sản xuất ra nó; xác định mức độ giá trị của hàng hoá được thực hiện. Sản xuất hàng hoá là việc riêng của từng người có tính chất độc lập tương đối với người sản xuất khác. Khi sản phẩm bán được, nghĩa là công dụng của nó được xã hội thừa nhận. Điều đó cũng có nghĩa là chi phí để sản xuất ra hàng hoá cũng được thừa nhận và giá trị của hàng hoá được thực hiện. Ngược lại, nếu hàng hoá không bán được nghĩa là hoặc do công dụng của hàng hoá không được thừa nhận (do chất lượng kém, mẫu mã không thích hợp, cung lớn hơn cầu,...) hoặc là do chi phí sản xuất lớn hơn mức trung bình của xã hội nên không được xã hội thừa nhận.
- Bình tuyển tự nhiên những người sản xuất hàng hoá: trên thị trường, người sản xuất biết được các đối thủ cạnh tranh của họ và để giành được ưu thế cạnh tranh, họ phải cải tiến chất lượng, giảm chi phí sản xuất, tăng cường chữ “tín” với khách hàng, để họ có thể tồn tại.
- Chức năng cung cấp thông tin: thị trường nó cung cấp thông tin cho người sản xuất và người tiêu dùng. Thị trường chỉ rõ những biến động về nhu cầu xã hội, số lượng, giá cả, cơ cấu và xu hướng thay đổi của nhu cầu các loại hàng hoá và dịch vụ. Đó là những thông tin cực kỳ quan trọng đối với những người sản xuất hàng hoá, giúp họ điều chỉnh sản xuất cho phù hợp với quan hệ cung - cầu, thay đổi quy cách, mẫu mã cho phù hợp nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng.
- Là đòn bẩy kích thích và hạn chế sản xuất và tiêu dùng trên thị trường, mọi hàng hoá đều bán và mua theo giá cả thị trường.
Cạnh tranh và cung - cầu làm cho giá cả thị trường biến đổi. Thông qua sự biến đổi đó, thị trường có tác dụng kích thích và hạn chế sản xuất đối với người sản xuất, kích thích và hạn chế tiêu dùng đối với người tiêu dùng.
b.1.3. Phân loại thị trường:
Sự hình thành, phát triển của thị trường gắn liền với sự hình thành, phát triển của sản xuất, lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ. Thị trường có vai trò to lớn thúc đẩy sự phát triển, mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hoá. Trong lịch sử đã xuất hiện nhiều cách phân loại thị trường khác nhau. Chẳng hạn, dựa vào các hình thức lưu thông hàng hoá, người ta phân loại thị trường: thị trường cung ứng vật tư kỹ thuật, thị trường hàng tiêu dùng. Dựa vào quan hệ sở hữu, người ta chia thị trường thành thị trường có tổ chức và thị trường tự do.
Sự phân chia thị trường như trên đã tồn tại thời gian khá dài ở nước ta. Nó có nhiều nhược điểm và hạn chế. Một mặt nó phản ánh nhận thức không đúng về nền kinh tế XHCN, mặt khác nó cũng phản ánh trình độ phát triển thấp của nền kinh tế hàng hoá và trạng thái bao cấp trong nền kinh tế. Hiện nay nước ta đang phát triển nền kinh tế hàng hoá nên việc nghiên cứu thị trường và phân loại thị trường có ý nghĩa quan trọng.
Có thể phân loại thị trường như sau:
Một là, thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ. ở thị trường này người ta múa bán những tư liệu sinh hoạt như lương thực, thực phẩm, vải vóc, quần áo và các phương tiện sinh hoạt gia đình,... Ngoài những hàng hoá hữu hình, còn có những hàng hoá hữu hình được coi là dịch vụ như: sửa chữa, may vá, cắt tóc,... Hoạt động dịch vụ ngày càng phát triển và nó đem lại thu nhập ngày càng lớn. Nhìn chung, ở thị trường hàng hoá và dịch vụ người ta mua bán những sản phẩm là kết quả của sản xuất, nên thị trường này còn được gọi tắt là thị trường “đầu ra”.
Hai là, thị trường các yếu tố sản xuất. Trên thị trường này người ta mua bán các yếu tố cần thiết cho quá trình sản xuất như: các loại nguyên vật liệu, thiết bị máy móc, sức lao động,... thị trường này, được gọi là thị trường “đầu vào”.
Sự phân chia thị trường thành 2 loại trên là dựa vào chủng loại hàng hoá đưa ra trao đổi trên thị trường, dựa vào sự phát triển của phạm trù hàng hoá. Hàng hoá mở rộng ra đến đâu thì thị trường cũng mở rộng ra tới đó.
Ngoài ra nếu dựa vào trình độ phân công lao động thì có thị trường địa phương, thị trường khu vực và thị trường toàn quốc, thị trường thế giới.
b.2. Cạnh tranh.
b.2.1. Khái niệm:
Cạnh tranh kinh tế là sự đấu tranh, sự ganh đua giữa các nhà sản xuất hàng hoá với nhau nhằm giành ưu thế có lợi cho mình trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, để có thể thu được nhiều lãi. Cơ sở của cạnh tranh kinh tế đó là sự khác biệt về lợi ích hay nói cách khác là sự tư hữu về tư liệu sản xuất tạo ra. Cạnh tranh kinh tế là 1 xu hướng mang tính quy luật của nền kinh tế hàng hoá.
b.2.2. Vai trò và chức năng của cạnh tranh:
- Nó kích thích việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất. Đó là vai trò tích cực của cạnh tranh trong nền sản xuất hàng hoá. Nó buộc những người sản xuất thường xuyên động não, tích cực nhạy bén, năng động, phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, ứng dụng kỹ thuật công nghệ mới, phương pháp tổ chức quản lý có hiệu quả, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, đào tạo nâng cao trình độ cho người lao động,...
- Nó có tác dụng tiết kiệm chi phí sản xuất và đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất, đời sống:
Để tiêu thụ được nhiều, nhanh các sản phẩm người ta phải nghiên cứu thị trường, thị hiếu, sở thích người tiêu dùng. Do đó cạnh tranh không chỉ kích thích tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất mà còn cải tiến chất lượng, hình thức hàng hoá, làm cho sản xuất gắn liền với tiêu dùng, phục vụ cho nhu cầu của xã hội tốt hơn.
Tóm lại, quy luật cạnh tranh có tác dụng bình tuyển tự nhiên những cái tiến bộ và đào thải cái lạc hậu để thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển.
Bên cạnh những mặt tích cực thì cạnh tranh cũng đồng thời để lại những hiệu quả tiêu cực. Đó là phân hoá những người sản xuất hàng hoá, làm phá sản những người sản xuất gặp khó khăn do trình độ công nghệ thấp, ít vốn, gặp rủi ro,... vào những hoàn cảnh, điều kiện không thuận lợi. Mặt khác, trong cạnh tranh người ta dùng rất nhiều thủ đoạn, có những thủ đoạn kinh tế nhưng cũng có những thủ đoạn bằng bạo lực,..
b.2.3. Các hình thức cạnh tranh:
C.Mác đã nghiên cứu chủ nghĩa tư bản ở trong giai đoạn tự do cạnh tranh, ông đã nêu ra 2 loại cạnh tranh là: cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành với nhau. Còn các nhà kinh tế học tư sản thì lại phân cạnh tranh thành: cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo.
c. Cơ chế thị trường.
c.1. Khái niệm:
Nói tới cơ chế thị trường là nói tới bộ máy tự điều tiết quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, điều tiết sự vận động của nền kinh tế thị trường.
Hiện nay đã có nhiều định nghĩa về cơ chế thị trường, nói chung thì cơ chế thị trường là những nhân tố, những quan hệ, những công cụ,... mà Nhà nước sử dụng để tác động đến nền kinh tế hàng hoá, làm cho nó vận động theo những quy luật vốn có của nó để đạt được những mục tiêu xác định.
Nói đến cơ chế thị trường là trước hết phải nói đến thị trường. Đó là lĩnh vực mà người mua và người bán tác động lẫn nhau để xác định giá cả và sản lượng của hàng hoá và dịch vụ nhằm giải quyết 3 vấn đề là: cái gì? bằng cách nào? cho ai? ở trên thị trường.
Nói đến cơ chế thị trường là phải nói tới 2 mặt cơ bản của nó là: cung - cầu và giá cả của hàng hoá.
Nói đến cơ chế thị trường là phải nói tới lợi nhuận. Vì nó là động lực thúc đẩy các chủ thể kinh tế tham gia vào thị trường, cho nên ở trong nền kinh tế thị trường phải lấy lỗ, lãi để tính toán.
Nói đến cơ chế thị trường là nói tới các quy luật kinh tế khách quan tác động đến nền kinh tế thị trường như: quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật cung - cầu,... Trong đó quy luật giá trị là quy luật căn bản nhất.
c.2. Hai mặt cơ bản của cơ chế thị trường và sự vận động của cơ chế thị trường.
Trong nền kinh tế hàng hoá thì sức cung là đại biểu cho người sản xuất, còn sức cầu là đại biểu cho người tiêu dùng.
Giữa cung - cầu và giá cả thị trường - hai mặt cơ bản của cơ chế thị trường, chúng có quan hệ với nhau. Đó chính là nội dung của quy luật cung - cầu về hàng hoá.
Sự vận động của cơ chế thị trường được thể hiện qua sự hoạt động của quy luật cung - cầu như sau:
- Sức cầu: nhu cầu của con người có nhiều nhưng chỉ có những nhu cầu có khả năng thanh toán mới trở thành sức cầu. Như vậy, sức cầu là biểu hiện nhu cầu về hàng hoá với 1 giá cả nhất định.
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới sức cầu như: thu nhập bằng tiền của tầng lớp dân cư, tập quán tiêu dùng của họ, giá cả,... nhưng trong đó giá cả là quan trọng nhất. Bởi vì với 1 sức cầu nhất định nhưng nếu giá cả của hàng hoá giảm xuống so với trước thì sẽ đẩy nhanh hành vi mua bán, còn nếu giá cả tăng lên thì sẽ hạn chế sức cầu về hàng hoá đó.
Quan hệ giữa sức cầu và giá cả được thể hiện bằng biểu đồ sau:
P
O
Q
D
Hình 1: Đường cầu
P
O
Q
S
Hình 1: Đường cung
- Sức cung: là đại biểu cho người sản xuất. Tức là số lượng hàng hoá đã, đang và sẽ được cung cấp cho thị trường với 1 giá cả nhất định.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới sức cung như: quy mô sản xuất, chi phí sản xuất, giá cả,... Trong đó giá cả là quan trọng nhất, bởi vì với 1 lượng hàng hoá cung cấp nhất định, nếu giá cả tăng lên so với trước thì sẽ làm cho sức cung tăng lên và ngược lại. Tuy nhiên điều này còn phụ thuộc vào điều kiện sản xuất của từng mặt hàng.
Quan hệ giữa sức cung và giá cả được biểu hiện bằng đồ thị ở Hình 2.
- Cung-cầu và giá cả thị trường:
Giữa cung - cầu và giá cả thị trường có mối quan hệ với nhau. Giá cả thị trường là giá bán hàng hoá ở trên thị trường. Người bán muốn bán với giá cao, người mua thì trả giá thấp.
Giá cả thị trường chính là giá cả thoả thuận giữa người mua và người bán hay còn được gọi là giá cả trung bình. ở điểm giá cả trung bình thì sản lượng hàng hoá bán ra bằng sản lượng hàng hoá mua vào.
Mối quan hệ giữa cung - cầu và giá cả thị trường được biểu hiện bằng đồ thị sau:
P
O
Q
D
Hình 3
S
M
P0
Q0
Như vậy: giữa cung - cầu và giá cả thị trường có quan hệ tác động qua lại lẫn nhau hình thành nên quy luật cung - cầu về hàng hoá. Sự hoạt động của quy luật này làm tăng dung lượng của thị trường đồng thời quy luật cung - cầu này điều tiết sản xuất hàng hoá và lưu thông hàng hoá.
c.3. Những ưu và nhược điểm của cơ chế thị trường:
c.3.1. Cơ chế thị trường có những ưu thế sau đây:
Trước hết cơ chế thị trường kích thích việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng năng suất lao động, nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất. Bởi vì, kinh tế thị trường lấy lợi nhuận siêu ngạch làm động lực hoạt động. Động lực này đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường xuyên hạ thấp chi phí lao động cá biệt xuống thấp hơn chi phí lao động xã hội cần thiết. Điều này đòi hỏi phải nâng cao năng suất lao động trên cơ sở áp dụng những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật công nghệ.
Hai là, cơ chế thị trường có tính năng động và khả năng thích nghi nhanh chóng với những điều kiện về kinh tế - xã hội, với cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện nay, với xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá,... Sở dĩ như vậy là vì: trong kinh tế thị trường tồn tại 1 nguyên tắc ai đưa ra thị trường 1 loại hàng hoá mới và đưa ra sớm nhất sẽ thu được lợi nhuận nhiều nhất. Điều đó tất yếu đòi hỏi phải năng động thường xuyên và đổi mới thường xuyên.
Ba là, trong nền kinh tế thị trường hàng hoá rất phong phú đa dạng. Do vậy, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thoả mãn ngày càng tốt hơn những nhu cầu vật chất, văn hoá và sự phát triển toàn diện của mọi thành viên trong xã hội.
c.3.2. Cơ chế thị trường cũng có những nhược điểm mà bản thân nó tự giải quyết được.
Trước hết phải nói tới những căn bệnh gắn liền với sự hoạt động của cơ chế thị trường đó là: khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, lạm phát,... Do kinh tế thị trường hoạt động theo chu kỳ.
Khủng hoảng sản xuất “thừa” là căn bệnh cố hữu của nền kinh tế thị trường phát triển. ở đây, do mức cung hàng hoá vượt quá mức cầu có khả năng thanh toán, cho nên dẫn đến tình trạng “dư thừa hàng hoá” nguyên nhân của tình trạng này là do mâu thuẫn của phương thức sản xuất TBCN. Mâu thuẫn này thể hiện ở tính kế hoạch cao độ trong từng doanh nghiệp với tính vô Chính phủ trên toàn bộ nền sản xuất xã hội. Xu hướng mở rộng sản xuất vô hạn mâu thuẫn với sức mua có hạn của quần chúng. Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Gắn liền với khủng hoảng kinh tế là nạn thất nghiệp của người lao động. Đó là căn bệnh nan giải của nền kinh tế thị trường.
Thứ hai, dù kinh tế thị trường hoạt động hoàn hảo đến đâu, hiệu quả kinh tế dù có cao nhưng nó gây ra sự bất công, gây phân hoá giàu nghèo, tạo ra sự phân hoá giai cấp, do đó nó cũng làm tăng thêm mẫu thuẫn giai cấp,...
Thứ ba, các doanh nghiệp do chạy theo lợi nhuận cho nên gây ô nhiễm môi trường, làm mất cân bằng sinh thái,...
Tóm lại, cơ chế thị trường có tác động điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá, chi phối sự vận động của kinh tế thị trường. Nhưng sự điều tiết của nó cũng mang tính chất mù quáng. Hơn nữa các chủ thể tham gia thị trường hoạt động vì lợi ích riêng của mình, cho nên sự vận động của cơ chế thị trường tất yếu dẫn tới những mâu thuẫn và xung đột. Có người giàu lên và có người lại nghèo đi. Cạnh tranh khó tránh được lường gạt, phá sản, thất nghiệp,...
Tất cả các điều này gây nên tình trạng không bình thường trong quan hệ kinh tế và dẫn tới sự mất ổn định của xã hội. Vì vậy, xã hội đòi hỏi phải có sự kiểm tra, điều tiết, định hướng một cách có ý thức đối với sự vận động của cơ chế thị trường. Đó là những lý do cần thiết phải thiết lập vai trò quản lý của Nhà nước ở tất cả các nước có nền kinh tế thị trường.
ở nước ta sự quản lý của Nhà nước nhằm hướng tới sự ổn định về kinh tế - xã hội, sự công bằng và hiệu quả cũng như làm cho nền kinh tế ngày càng tăng trưởng và phát triển với tốc độ cao.
3. Quan điểm của Mác - Lênin về kinh tế thị trường trong CNXH.
a. Quan điểm của Mác - Ăngghen.
Mác và Ăngghen khi phân tích mâu thuẫn của sản xuất hàng hoá đã dự kiến, đến chủ nghĩa cộng sản khi dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, lao động mang tính chất xã hội trực tiếp thì không còn tồn tại sản xuất hàng hoá.
Nhưng theo 2 ông thì phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa lại phát triển qua 2 giai đoạn: giai đoạn chủ nghĩa xã hội và giai đoạn cộng sản chủ nghĩa. Trong giai đoạn chủ nghĩa xã hội còn mang nặng dấu ấn của xã hội cũ - tư bản chủ nghĩa, còn phân phối theo lao động cho nên còn tồn tại sản xuất hàng hoá. Chính C.Mác đã viết: “CNXH là một xã hội vừa thoát thai từ xã hội TBCN, do đó là một xã hội, về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần, còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó lọt lòng ra “thì tất yếu còn tồn tại sản xuất hàng hoá” (1) C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, Tập 19, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995, Tr33
b. Quan điểm của Lênin.
V.I.Lênin, trước cách mạn tháng mười, ông cho rằng trong chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế hàng hoá sẽ bị xoá bỏ “để tổ chức nền sản xuất không có những nhà kinh doanh”. Sau cách mạng tháng mười Nga thành công, Lênin đã đề ra kế hoạch xây dựng CNXH nhưng chưa thực hiện được vì nước Nga bước vào nội chiến.
Trong giai đoạn này Nhà nước Xô Viết đã thực hiện chính sách cộng sản thời chiến nên quan hệ hàng hoá, tiền tệ, quan hệ thị trường không được thừa nhận chính thức. Thế nhưng đến mùa xuân năm 1921, khi nội chiến kết thúc, trước những nhiệm vụ nặng nề của việc khôi phục nền kinh tế, khắc phục những hậu quả của chính sách cộng sản thời chiến, Lênin và Đảng Bônsêvích Nga đã quyết định thực hiện chính sách kinh tế mới (Nep) mà nội dung chủ yếu là thừa nhận kinh tế hàng hoá, thừa nhận tự do buôn bán, cho phép tồn tại đến một thời hạn nhất định thành phần kinh tế tư bản tư nhân, sử dụng các hình thức kinh tế quá độ, xem chủ nghĩa tư bản Nhà nước và hợp tác xã như là những chiếc cầu nhỏ lên chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, chính Lênin, khi căn cứ vào điểm xuất phát từ trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội còn thấp ở nước Nga lúc bắt đầu quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã đề ra mô hình chủ nghĩa xã hội có vai trò của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường.
II. Sự vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về kinh tế thị trường vào Việt Nam để xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
1. Thực trạng kinh tế Việt Nam để chúng ta phải chuyển sang phát triển kinh tế thị trường là tất yếu khách quan.
Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước XHCN, đất nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Với sự nỗ lực của nhân dân ta lại có thêm sự giúp đỡ tận tình của các nước XHCN khác, mô hình kế hoạch hoá đã phát huy được những tính ưu việt của nó. Từ 1 nền kinh tế lạc hậu và phân tán bằng công cụ kế hoạch Nhà nước đã tập trung vào tay mình một lực lượng vật chất quan trọng về đất đai, tài sản và tiền bạc để ổn định và phát triển kinh tế.
Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời kỳ đầu thực hiện ở nước ta tỏ ra phù hợp, nó tạo ra những bước chuyển biến quan trọng về mặt kinh tế - xã hội. Đồng thời nó cũng thích hợp với nền kinh tế thời chiến và đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Nó đã cho phép Đảng và Nhà nước ta huy động ở mức cao nhất sức người và sức của cho tiền tuyến.
Nhưng sau ngày giải phóng miền Nam bức tranh mới về hiện trạng kinh tế - xã hội đa thay đổi. Trong một nền kinh tế cùng tồn tại cả 3 loại hình kinh tế tự túc, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hoá.
Đó là một thực tế khách quan tồn tại sau năm 1975 ở nước ta, nhưng chúng ta vẫn tiếp tục chủ trương xây dựng nền kinh tế chỉ huy như ở miền Bắc trước đây. Các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý kinh tế cũ vao điều kiện nền kinh tế đã thay đổi nên đã xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực. Do chủ quan cứng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý kinh tế mà chúng ta đã không quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên sản xuất của đất nước, trái lại đã dẫn tới việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng các nguồn tài nguyên đó. Tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả, Nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những sự việc đó đã gây nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế gặp nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt nặng nề, thu nhập từ nền kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu như không có vốn đầu tư chủ yếu dựa vào vay và viện trợ của nước ngoài. Đến cuối những năm 80, giá cả leo thang, khủng hoảng kinh tế đi kèm với lạm phát cao làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút, thậm chí một số địa phương nạn đói đang rình rập. Nguyên nhân sâu xa về sự suy thoái nền kinh tế ở nước ta là do ta đã dập khuôn một mô hình kinh tế chưa thích hợp và kém hiệu quả. Những sai lầm cơ bản là:
- Ta đã thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất trên một quy mô lớn trong điều kiện chưa cho phép. Điều này đã dẫn đến một bộ phận tài sản vô chủ đã không sử dụng có hiệu quả nguồn lực rất khan hiếm của đất nước trong khi dân số ngày càng một gia tăng.
- Thực hiện phân phối theo lao động cũng trong điều kiện chưa cho phép. Khi tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình thức vừa phân phối bình quân vừa phân phối lại một cách gián tiếp đã làm mất động lực của sự phát triển.
- Việc quản lý kinh tế của Nhà nước lại sử dụng các công cụ hành chính, mệnh lệnh theo kiểu thời chiến đã không phù hợp với yêu cầu tự do lựa chọn của người sản xuất và người tiêu dùng nên đã không kích thích được sự sáng tạo của hàng triệu người lao động.
Trước sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng, viện trợ của nước ngoài lại giảm sút đã đặt nền kinh tế nước ta tới sự bức bách phải đổi mới.
Tại Đại hội VI của Đảng đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN: “Quá trình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình chuyển hoá nền kinh tế còn nhiều tính chất tự cấp, tự túc thành nền kinh tế hàng hoá,... việc sử dụng đầy đủ quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân là một tất yếu khách quan,... việc sử dụng quan hệ hàng hoá tiền tệ đòi hỏi sản xuất phải gắn với thị trường” (1) Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lấn thứ VI - NXB Sự thật, Hà Nội 1987
Thế nhưng điều đáng lưu ý là tại Đại hội VI, mặc dù đã sử dụng thuật ngữ “thị trường” song trong các văn kiện, Đảng ta vẫn chưa sử dụng khái niệm “kinh tế thị trường” và “cơ chế thị trường” như hiện nay chúng ta đang sử dụng mà phải đến Hội nghị TW 6 (khoá VI, 3/1989) và đến Đại hội VII (6/1991), trên cơ sở nhận thức sâu hơn về tình hình đất nước, Đảng ta mới có điều kiện nói rõ và nhấn mạnh: “Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là hoàn toàn cần thiết để giải phóng và phát huy được các tiềm năng sản xuất của xã hội” (1) Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII - NXB Sự thật, Hà Nội - 1991, Tr55
Đến Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khoá VII, 1/1994) đã tiếp tục phát triển, cụ thể hoá các quan điểm, tư tưởng của Đảng về phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những giải pháp thiết thực mà Hội nghị chỉ ra đã đẩy nhanh việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, tạo động lực và môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế hoạt động, các loại hình doanh nghiệp phát triển mạnh và có hiệu quả, góp phần xây dựng đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Đến Đại hội lần thứ VIII (6/1996) trên cơ sở kế thừa những đường lối, chủ trương đúng đắn về việc sử dụng kinh tế thị trường do các Đại hội trước đề ra, Đảng ta đã xác định rõ hơn vai trò của kinh tế thị trường: “Cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước theo con đường XHCN” (2) Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII-NXB Chính trị quốc gia, HN 1996, Tr26
Như vậy, phải trải qua một quá trình đổi mới nhất định, những quan điểm về vai trò của cơ chế thị trường mới có cơ sở thực tiễn để được khẳng định. Kinh tế thị trường không đồng nhất với kinh tế tư bản chủ nghĩa, không phải là thành quả riêng của chủ nghĩa tư bản. Kinh tế thị trường đã từng xuất hiện khá sớm trước khi có chủ nghĩa tư bản và là thành quả văn minh chung của loài người. Việc chuyển đất nước ta sang vận hành theo cơ chế thị trường không đơn thuần chỉ là quá trình cấu trúc lại nền sản xuất xã hội với sự đổi mới cơ cấu sở hữu tư liệu sản xuất, cơ cấu sử dụng nhân lực, lao động,... mà còn là sự đổi mới nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của nền kinh tế - xã hội như cơ chế quản lý kinh tế xã hội, hệ thống giáo dục và đào tạo cán bộ, các thiết chế và chính sách xã hội,...
Đây là bước tiến hết sức quan trọng trong việc đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta. Quan điểm này xuất phát từ tình hình kinh tế - xã hội ở nước ta, từ nguyện vọng chính đáng của nhân dân ta, trên cơ sở vận dụng mô hình của Lênin về một chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế hàng hoá.
Xem xét dưới góc độ khoa học chúng ta thấy rằng việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường là đúng đắn.
Nó phù hợp với thực tế của nước ta, phù hợp với các quy luật kinh tế và với xu thế của thời đại. Bởi vì:
Thứ nhất, nếu chúng ta không thay đổi cơ chế kinh tế mà vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ tám mươi đã chỉ rõ việc thực hiện cơ chế cũ cho dù chúng ta đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế cũ, nhưng hiệu quả của nền kinh tế xã hội đạt mức rất thấp, sản xuất không đáp ứng nổi tiêu dùng của xã hội, tích luỹ hầu như không có, đôi khi còn ăn lạm cả vào vốn vay của nước ngoài.
Thứ hai, do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc do nó chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn ngắn và chỉ có tác dụng phát triển nền kinh tế theo chiều rộng, nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại quá dài do đó nó không những không còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng suất chất lượng và hiệu quả sản xuất.
Thứ ba, xét về sự tồn tại thực tế ở nước ta những nhân tố của kinh tế thị trường vẫn còn. Vấn đề này có nhiều ý kiến khác nhau. Nhưng nhiều ý kiến cho là thị trường ở nước ta là thị trường mới hình thành còn non yếu và còn là thị trường sơ khai. Thực tế kinh tế thị trường đã hình thành và phát triển đạt được những mức phát triển khác nhau ở hầu hết các đô thị và các vùng đồng bằng ven biển. Nhưng thị trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ, còn thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường lao động, thị trường vốn, và thị trường đất đai và về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ can thiệp của Nhà nước còn rất thấp.
Thứ tư, xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hội nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, nước ta còn tồn tại kinh tế đối ngoại, còn tham gia vào sự phân công hiệp tác quốc tế. Mặt khác nếu nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, giao lưu về hàng hoá, dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài sẽ làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường thế giới, tương quan giá cả các loại hàng hoá trong nước sẽ tương quan gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hoá quốc tế.
Thứ năm, xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể tách rời phát triển và hội nhập quốc tế, sự cạnh tranh giữa các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất không còn là dân số đông, vũ khí nhiều, quân đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích của các chính sách của các quốc gia là tạo ra được nhiều của cải vật chất trong quốc gia của mình là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, thất nghiệp thấp. Tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu, vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín và duy trì sức mạnh của các Đảng cầm quyền.
2. Đặc điểm kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
a. Tiềm năng và hạn chế.
a.1. Tiềm năng:
Nước ta có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế hàng hoá:
Thứ nhất: Chúng ta có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, vị trí địa lý thuận lợi.
Thứ hai: Ta có sức lao động dồi dào, trình độ văn hoá, trình độ về chuyên môn so với nhiều nước đang phát triển thì nước ta ở mức trung bình.
Thứ ba: Chúng ta có đường lối đổi mới đúng đắn.
Tuy nhiên cũng có những hạn chế.
a.2. Những hạn chế:
- Tuy nước ta là nước nông nghiệp nhưng bình quân ruộng đất canh tác theo đầu người thấp.
- Nền kinh tế kém phát triển, còn mang nặng dấu ấn của kinh tế tự nhiên, còn chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, thị trường chưa phát triển và chưa đồng bộ, thu nhập quốc dân theo đầu người thấp, sức mua còn hạn chế,...
- Kết cấu hạ tầng cơ sở còn kém phát triển,...
Mặc dù vậy tiềm năng của chúng ta vẫn là những yếu tố cơ bản.
2. Đặc điểm kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Xuất phát từ những điều kiện trong nước và thế giới, từ những tiềm năng và những mặt hạn chế Đảng ta đã đưa ra mô hình của sự phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt Nam là: phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và định hướng XHCN.
Kinh tế thị trường ở Việt Nam sẽ được phát triển theo định hướng XHCN. Đó là sự định hướng của một xã hội mà sự hùng mạnh của nó nhờ vào sự giàu có và hạnh phúc của nhân dân, xã hội không còn chế độ người bóc lột người, dựa trên cơ sở “Nhân dân lao động làm chủ, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân” (1) Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH - NXB Sự thật, 1991, Tr12
. Xã hội có nền kinh tế phát triển cao trên cơ sở khoa học, công nghệ và lực lượng sản xuất hiện đại.
Định hướng XHCN nêu trên không chỉ phản ánh nguyện vọng và lý tưởng của Đảng ta, Nhà nước và nhân dân ta, mà còn phản ánh xu thế phát triển khách quan của thời đại cũng như quy luật tiến hoá của lịch sử.
Hiện nay tình hình thế giới đã và đang biến đổi phức tạp trong nhiều thập kỷ vừa qua, các nước tư bản chủ nghĩa đã lợi dụng những thành tựu của cách mạng khoa học, công nghệ, tranh thủ sự mở rộng và phát triển kinh tế của mình. Họ ra sức điều chỉnh để thích nghi, nên đã đưa lại sự tăng trưởng kinh tế cao và có sự cải thiện nhất định về mặt xã hội. Song điều đó cũng cho thấy những tiền đề về kinh tế và xã hội cho một xã hội tương lai đang được chuẩn bị sẵn trong lòng CNTB.
Lịch sử phát triển của CNTB đã cho thấy khi hình thành những yếu tố khẳng định quan hệ sản xuất TBCN thì cũng đồng thời xuất hiện những yếu tố tự phủ định nó. Sự tác động này không có tính nhất thời, mà là cả một quá trình. CNTB không phải là hình thái kinh tế - xã hội vĩnh viễn. Theo quy luật tiến hoá và lý luận về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác thì sớm hay muộn CNTB cũng phải nhường chỗ cho một xã hội văn minh hơn, đó là CNXH. Đúng như văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII, Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH. Đó là quy luật tiến hoá của lịch sử” (1) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996, Tr26
Do đó định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta là cần thiết và khách quan.
Tuy vậy, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta cũng có tính chất chung của nền kinh tế: nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh; có chủ thể kinh tế có tính độc lập, tự chủ để có quyền ra những quyết định phi tập trung hoá, thị trường có vai trò quyết định phân phối các nguồn lực kinh tế; giá cả do thị trường quyết định, Nhà nước thực hiện điều tiết vĩ mô để giảm bớt những “thất bại của thị trường”.
Nhưng như ta đã nói ở trên, bất cứ nền kinh tế thị trường nào cũng hoạt động trong những điều kiện lịch sử - xã hội của một nước nhất định, nên nó bị chi phối bởi điều kiện lịch sử và đặc biệt là chế độ xã hội của nước đó, và do đó có những đặc điểm riêng phân biệt với nền kinh tế thị trường của các nước khác.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam có những đặc trưng sau đây:
Thứ nhất, nền kinh tế dựa trên cơ sở cơ cấu đa dạng về hình thức sở hữu, trong đó sở hữu Nhà nước làm chủ đạo. Do đó nền kinh tế gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Trong nền kinh tế thị trường nước ta tồn tại 3 loại hình sở hữu cơ bản là: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Từ 3 loại hình sở hữu đó hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh. Do đó không chỉ ra sức phát triển các thành phần kinh tế thuộc chế độ công hữu, mà còn phải khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế thuộc sở hữu tư nhân để hình thành nền kinh tế thị trường rộng lớn bao gồm các đơn vị kinh tế thuộc chế độ công hữu, các đơn vị kinh tế tư doanh, các hình thức hợp tác liên doanh giữa trong và ngoài nước, các hình thức đan xen và thâm nhập vào nhau giữa các thành phần kinh tế đều có thể tham gia vào thị trường với tư cách là 1 chủ thể thị trường bình đẳng.
Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Việc xác định kinh tế Nhà nước giữa vai trò chủ đạo là sự khác biệt có tính chất bản chất giữa kinh tế thị trường định hướng XHCN với kinh tế thị trường các nước khác. Mặt khác, mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng với nó, kinh tế Nhà nước, nói đúng ra là kinh tế dựa trên chế độ công hữu bao gồm kinh tế Nhà nước và kinh tế hợp tác, tạo cơ sở kinh tế cho chế độ xã hội mới - XHCN.
Thứ hai, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập: phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh, và phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội, trong đó phân phối theo kết quả lao động giữ vai trò nòng cốt, đi đôi với chính sách điều tiết thu nhập một cách hợp lý. Chúng ta không coi bất bình đẳng xã hội như là một trật tự tự nhiên, là điều kiện của sự tăng trưởng kinh tế, mà thực hiện mỗi bước tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội.
Như đã biết, mỗi chế độ xã hội có một chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ phân phối do quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là quan hệ sở hữu quyết định. Phân phối có liên quan đến chế độ xã hội, đến chính trị. Dưới CNTB, phân phối theo nguyên tắc giá trị: đối với người lao động theo giá trị sức lao động, còn đối với nhà tư bản theo giá trị của tư bản. Như vậy thu nhập của người lao động chỉ giới hạn ở giá trị sức lao động mà thôi. Chủ nghĩa xã hội có đặc trưng riêng về sở hữu, do đó chế độ phân phối cũng có những đặc trưng riêng của CNXH.
Thu nhập của người lao động không phải chỉ giới hạn ở giá trị sức lao động, mà nó còn phải vượt qua đại lượng đó, nó phụ thuộc chủ yếu vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta gồm nhiều thành phần kinh tế. Vì vậy, cần thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập. Chỉ có như vậy mới khai thác được khả năng của cơ chế kinh tế nhiều thành phần, huy động được mọi nguồn lực của đất nước vào phát triển kinh tế.
Thứ ba, cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Điều đó có nghĩa là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta vận động theo những quy luật kinh tế nội tại của thị trường nói chung, thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực kinh tế. Sự quản lý của Nhà nước nhằm hạn chế những “thất bại của thị trường”, thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân thị trường không làm được. Vì vậy nền kinh tế thị trường ở nước ta không phải kinh tế thị trường tự do, thả nổi mà là nền kinh tế có định hướng mục tiêu XHCN. Sự phát triển kinh tế thị trường được xem là phương thức, con đường thực hiện mục tiêu của CNXH: dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hết sức quan trọng. Sự quản lý của Nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng có hiệu quả, đặc biệt là bảo đảm sự công bằng và tiến bộ xã hội.
Thứ tư, nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế mở, hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực, thị trường trong nước gắn với thị trường thế giới, thực hiện những thông lệ trong quan hệ kinh tế quốc tế, nhưng vẫn giữ được độc lập chủ quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Thực ra, đây không phải là đặc trưng riêng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mà là xu hướng chung của nền kinh tế thế giới hiện nay. Trong điều kiện hiện nay chỉ có mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế thế giới và khu vực mới thu hút được vốn, kỹ thuật - công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực hiện phát triển kinh tế thị trường theo kiểu rút ngắn. Thực hiện mở cửa kinh tế theo hướng đa phương hoá và đa dạng hoá hình thức kinh tế đối ngoại, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm mà trong nước sản xuất có hiệu quả.
3. Điều kiện và giải pháp để phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Để thực hiện thành công phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN chúng ta cần có các điều kiện và giải pháp sau:
Một là, đa dạng hoá các loại hình sở hữu: nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường. Vì vậy ta phải đa dạng hoá các loại hình sở hữu. Đối với sở hữu Nhà nước ta phải tiến hành cổ phần hoá, thực chất của cổ phần hoá là nhằm giải quyết vấn đề sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối kết quả của cổ phần hoá sẽ hình thành nên các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế vốn 100% của Nhà nước hoặc có doanh nghiệp Nhà nước nắm cổ phiếu khống chế (51%), có doanh nghiệp Nhà nước chỉ là cổ đông,... Như vậy, chúng ta đã củng cố và phát triển khu vực kinh tế Nhà nước, ngoài ra chúng ta còn phải đổi mới công nghệ, đổi mới cơ chế quản lý để khu vực kinh tế Nhà nước thực sự giữ vai trò chủ đạo, thực hiện đa dạng hoá các hình thức của kinh tế hợp tác, phát triển kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ, phát triển kinh tế tư bản tư nhân, phát triển kinh tế tư bản Nhà nước. Như vậy sẽ hình thành ra sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp và sở hữu cá thể phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Hai là, đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển.
Phân công lao động xã hội là cơ sở của kinh tế hàng hoá, đến lượt nó kinh tế hàng hoá phát triển lại gián tiếp thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển. Muốn thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển thì phải tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá để một mặt trang bị kỹ thuật và công nghệ mới thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Ba là, phát triển đồng bộ các loại thị trường.
Thị trường là phạm trù kinh tế gắn liền với nền kinh tế hàng hoá, có sản xuất hàng hoá là phải có thị trường. Do nước ta đi từ 1 nền sản xuất nhỏ, ảnh hưởng nặng nề của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung nên thị trường ở nước ta còn kém phát triển và chưa đồng bộ. Vì vậy đòi hỏi chúng ta phải phát triển đồng bộ các loại thị trường như: thị trường sức lao động, thị trường tư liệu sản xuất, thị trường vốn - tiền tệ - tài chính - chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ,... không những phát triển thị trường trong nước mà còn cả với thị trường nước ngoài, và các loại thị trường trên phải cân đối với nhau.
Bốn là, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo môi trường về pháp lý.
Đối với nước ta do hệ thống pháp luật chưa đồng bộ. Vì vậy chúng ta phải xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, có như vậy mới tạo ra hành lang pháp lý. Hệ thống pháp luật của nước ta phải phù hợp với phong tục và tập quán của pháp luật quốc tế.
Năm là, phát triển kết cấu hạ tầng về kinh tế - xã hội theo hướng hiện đại. Đối với nước ta do đi từ sản xuất nhỏ lại bị chiến tranh kéo dài cho nên kết cấu hạ tầng thấp kém. Vì vậy chúng ta phải phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng về kinh tế - xã hội theo hướng hiện đại mà trước hết là về giao thông vận tải, về thông tin liên lạc, năng lượng và nhân lực,...
Sáu là, đổi mới vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước, cải cách thủ tục hành chính quốc gia. Xây dựng cơ chế và chính sách kinh tế trên cơ sở đổi mới về kinh tế, từng bước đổi mới về chính trị cho phù hợp cho nên chúng ta phải đổi mới vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước. Bởi vì bản chất của Nhà nước sẽ định hướng nền kinh tế hàng hoá theo CNXH ở nước ta, nhưng phải bảo đảm giữ vững và tăng cường bản chất Nhà nước XHCN ở nước ta: Nhà nước của dân, do dân, vì dân, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của phát triển thị trường theo định hướng XHCN.
Đổi mới công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước, đặc biệt là thông qua chính sách phân phối thu nhập để đạt được sự tiến bộ và công bằng xã hội, chuyển dịch cơ chế nhanh sang cơ chế thị trường và đổi mới chính sách kinh tế cho thích hợp.
C. Kết luận
Như vậy, trong đề án này em đã trình bày lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về kinh tế thị trường và sự vận dụng của nó vào phát triển kinh tế theo định hướng XHCN ở Việt Nam.
Qua đó chúng ta thấy rằng kinh tế thị trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà nó là một phương tiện để chúng ta đạt tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội nhanh hơn. Thật ra, kinh tế thị trường nó là thể chế vận hành, nó có thể thực hiện dưới chủ nghĩa tư bản cũng như dưới chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá, mà kinh tế hàng hoá đã từng tồn tại trước CNTB, những điều kiện ra đời và tồn tại của kinh tế hàng hoá, và cả trình độ phát triển của kinh tế hàng hoá là do sự phát triển của lực lượng sản xuất tạo ra. Còn bản chất của CNTB là bóc lột lao động làm thuê và bần cùng họ. Kinh tế hàng hoá không phải là do CNTB tạo ra mà là thành tựu văn minh chung mà loai người đã đạt được trong quá trình phát triển sản xuất của mình. Hơn nữa, thực tiễn lịch sử thế giới đã thấy, ở các nước có điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau, nền kinh tế thị trường cũng có những mô hình cụ thể khác nhau, tức là không có mô hình kinh tế thị trường chung cho mọi nước và theo C.Mác sản xuất và trao đổi hàng hoá là “1 nét chung cho những hình thái kinh tế - xã hội hết sức khác nhau” (1) C.Mác - Tư bản, NXB Sự thật, Hà Nội 1984, tập 1, Q1, phần 1, Tr221
, tức là kinh tế hàng hoá tồn trại trong nhiều hình thái kinh tế - xã hội, chứ không phải riêng của CNTB. Vì vậy không thể cho là xây dựng kinh tế thị trường là đồng nghĩa với việc phát triển CNTB.
Như vậy từ sự hiểu biết đúng đắn về lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về kinh tế thị trường để vận dụng vào hoàn cảnh thực tế của Việt Nam chúng ta càng thấy rõ sự đúng đắn đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Việc Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN là 1 chủ trương hoàn toàn đúng đắn, một sự lựa chọn có căn cứ khoa học phù hợp với thực trạng nền kinh tế nước ta. Mặt khác chúng ta cũng biết rằng kinh tế thị trường cũng có những mặt hạn chế của nó nên cần có sự quản lý của Nhà nước và kinh tế thị trường cũng không phải là mục tiêu của chúng ta mà nó là phương tiện để chúng ta tiến lên CNXH.
Bản thân em - là 1 sinh viên kinh tế - qua việc làm đề án này đã giúp em hiểu biết sâu hơn về đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và điều đó cũng thôi thúc em phải luôn học hỏi, tìm tòi, rèn đức luyện tài để có đủ kiến thức sau này ra trường có thể trở thành 1 nhà kinh tế có đủ trình độ để góp phần xây dựng đất nước Việt Nam giàu đẹp hơn, văn minh hơn,...
Một lần nữa em thực sự cảm ơn thầy giáo Phạm Thành đã cung cấp phần lớn kiến thức và phương pháp luận để em hoàn thành đề án này.
Các sách tham khảo
1. C.Mác và Ph.Ăngghen:
- C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập; Tập 1: Tư bản Q1, Phần 1, Tr221 - NXB Sự thật, Hà Nội 1984
- C.Mác và Ăngghen toàn tập, Tập 25: Tư bản Q1, Chương 29-34, 39-42; 48, 49, 51, Tr645-678 - NXB Sự thật, Hà Nội 1994
2. V.I.Lênin:
- Kinh tế Chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản, Toàn tập, Tập 36 - NXB Tiến bộ Mátxcơva, Tiếng Việt 1978.
- Bàn về thuế lương thực, toàn tập, tập 43, NXB Tiến bộ Mátxcơva, Tiếng Việt 1978.
3. Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam:
- Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ V, VI, VII, VIII và các Nghị quyết TW có liên quan.
- Văn kiện Đại hội đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII.
- Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH - NXB Sự thật, 1991, Tr12
4. Một số tài liệu tham khảo khác:
- Giáo dục kinh tế - Chính trị học Mác - Lênin của trường ĐH KTQD Hà nội - NXB Giáo dục, 1996
- Tạp chí Nghiên cứu - Trao đổi; số 18 (9-1999), số 18 (9-1998); số 4 (2-2000)
- Tạp chí Triết học số 4 (110) tháng 8 - 1999
- Tạp chí Nghiên cứu - Phát triển số 92 - 1998
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50663.DOC