Tài liệu Đề tài Lý luận chung về tín dụng Ngân hàng và kế toán cho vay trong hệ thống Ngân hàng: Lời mở đầu
Với một nền kinh tế đang ngày càng phát triển không ngừng và cùng hội nhập với nền kinh tế thế giới thì đòi hỏi mỗi một thành phần trong xã hội phải cố gắng để khơi dậy được những tiềm năng, những nguồn lực cùng tham gia vào mọi hoạt động làm sao để tiến kịp các nước trên thế giới thoát khỏi được cảnh trì trệ, chậm phát triển. Hoà cùng nhịp đập của nền kinh tế thì ngành Ngân hàng cũng góp một phần không nhỏ đến sự tồn tại và phát triển của xã hội trong đó có hoạt động kinh doanh Ngân hàng.
Làm thế nào để đạt hiệu quả cao trong kinh doanh, nhất là kinh doanh tiền tệ, luôn là vấn đề đặt ra cho mọi nhà lãnh đạo Ngân hàng. Không một Ngân hàng nào lại muốn mình tồn tại trong tình trạng thua lỗ. Hoạt động kinh doanh là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của các NHTM. Nó có ảnh hưởng tích cực đến nền kinh tế quốc dân, đến sự tồn tại và phát triển của bản thân mỗi NHTM. Trong đó nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ tài sản có của Ngân hà...
88 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1127 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Lý luận chung về tín dụng Ngân hàng và kế toán cho vay trong hệ thống Ngân hàng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Với một nền kinh tế đang ngày càng phát triển không ngừng và cùng hội nhập với nền kinh tế thế giới thì đòi hỏi mỗi một thành phần trong xã hội phải cố gắng để khơi dậy được những tiềm năng, những nguồn lực cùng tham gia vào mọi hoạt động làm sao để tiến kịp các nước trên thế giới thoát khỏi được cảnh trì trệ, chậm phát triển. Hoà cùng nhịp đập của nền kinh tế thì ngành Ngân hàng cũng góp một phần không nhỏ đến sự tồn tại và phát triển của xã hội trong đó có hoạt động kinh doanh Ngân hàng.
Làm thế nào để đạt hiệu quả cao trong kinh doanh, nhất là kinh doanh tiền tệ, luôn là vấn đề đặt ra cho mọi nhà lãnh đạo Ngân hàng. Không một Ngân hàng nào lại muốn mình tồn tại trong tình trạng thua lỗ. Hoạt động kinh doanh là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của các NHTM. Nó có ảnh hưởng tích cực đến nền kinh tế quốc dân, đến sự tồn tại và phát triển của bản thân mỗi NHTM. Trong đó nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ tài sản có của Ngân hàng. Đây là nguồn vốn huy động chủ yếu của khách hàng nên Ngân hàng phải có trách nhiệm sử dụng nó có hiệu quả. Vì như chúng ta đã biết lợi nhuận thu được qua hoạt động này thường chiếm từ 80% -> 90% lợi nhuận thu được của Ngân hàng.
Là một đơn vị không thể thiếu trong hệ thống NHNo & PTNT VN. Từ khi thành lập đến nay SGDI NHNo & PTNT đã tập trung vốn cho vay theo những mục tiêu kinh tế lớn của đất nước góp một phần không nhỏ vào thành tích chung của toàn hệ thống.
Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của nghiệp vụ tín dụng và tính pháp lý cao của các khoản vay nên kế toán cho vay tại SGDI cũng rất phức tạp và một số bất cập ít nhiều có ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng tín dụng. Từ đó đòi hỏi phải có biện pháp trong kế toán cho vay thì mới có thể nâng cao được chất lượng tín dụng và chất lượng nghiệp vụ kế toán.
Nhận thức được tầm quan trọng và mức độ phức tạp của kế toán cho vay, trong thời gian thực tập tại SGDI em đã chọn đề tài : Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả nghiệp vụ kế toán cho vay tại SGDI làm đề tài khoá luận tốt nghiệp. Đề tài được kết cấu gồm 3 chương như sau:
Chương I: Lý luận chung về tín dụng Ngân hàng và kế toán cho vay trong hệ thống Ngân hàng.
Chương II: Thực trạng kế toán cho vay tại SGDI Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện kế toán cho vay tại SGDI Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Kế toán cho vay là lĩnh vực rất phức tạp, nguồn tài liệu tham khảo không nhiều và khả năng có hạn, khoá luận không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô, các anh chị phòng kế toán để khoá luận tốt nghiệp được hoàn thiện hơn.
Khoá luận được hoàn thành với sự giúp đỡ của cô giáo Nguyễn Hương Giang. Giáo viên Khoa Kế toán - Kiểm toán, các anh chị phòng kế toán nơi em đã thực tập.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 4 năm 2003
Chương I
lý luận chung về tín dụng Ngân hàng và kế toán
cho vay trong hệ thống Ngân hàng
1.1. Tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
1.1.1. Sự ra đời của tín dụng Ngân hàng.
Không chỉ đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường hàng hoá mà ở thời kỳ quan liêu bao cấp cũng vậy, nhu cầu của con người ngày càng đòi hỏi mình phải được thoả mãn nhiều hơn nữa, nhưng mình lại không thể thoả mãn nhiều hơn nữa, nhưng mình lại không thể thoả mãn trong khi đó lại có một số người có thể đáp ứng được nhu cầu của mình. Bắt buộc người có nhu cầu đó phải tìm đến người có thể đáp ứng yêu cầu đó, tất nhiên sau này sẽ trả cả gốc và lãi. Quan hệ như vậy gọi là quan hệ tín dụng, có nghĩa là vay mượn lẫn nhau trên cơ sở trả gốc và lãi.
Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về tín dụng nhưng chung quy lại thì nó đều thể hiện hai nội dung chính sau đây:
Thứ nhất: Người sở hữu một số tiền hoặc hàng hoá chuyển giao cho người khác sử dụng trong một khoảng thời gian nhất đinhj.
Thứ hai: Người sử dụng cam kết hoàn trả số tiền hoặc hàng hoá đó cho người sở hữu với một giá trị lớn hơn khi đến hạn. Và ta co thể định nghĩa tín dụng một cách đầy đủ như sau: tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Qua đó ta có thể thấy được bản chất của tín dụng là như thế nào, nó chính là quan hệ tin tưởng giữa người đi vay như thế nào, nó chính là quan hệ tin tưởng giữa người đi vay và người cho vay thông qua sự vận động của giá trị. Quan hệ tín dụng có những đặc trưng sau:
Một: Là quan hệ đảm bảo tính hoàn trả giá trị mang tính chất tạm thời.
Hai: Là đảm bảo tính hoàn trả về thời gian và giá trị.
Ba: Là quan hệ tín dụng được xây dựng trên cơ sở tin tưởng giữa người đi vay và người cho vay.
Nguyên nhân khách quan của sự tồn tại và phát triển của quan hệ tín dụng là mâu thuẫn vốn có của quá trình tái sản xuất xã hội, đó là: cùng một lúc có chủ thể kinh tế khác lại có nhu cầu cần bổ sung vốn. Nếu tình trạng này không được giải quyết quá trình sản xuất có thể bị ngưng trệ ở chủ thể này trong khi vốn đang nằm im ở các chủ thể khác. Kết quả là nguồn lực của xã hội không được sử dụng một cách có hiệu quả nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất tiến hành liên tục. Nhưng thực tế hai chủ thể kinh tế này khó có thể phù hợp được với nhau về quy mô, về thời gian nhàn rỗi và thời gian sử dụng vốn hoặc cũng có thể phù hợp được thì phải tốn kém chi phí tìm kiếm, nên để thoả mãn được nhu cầu của cả hai chủ thể này thì cần thiết phải có một người thứ ba đứng ra tập trung được tất cả số vốn của những người tạm thời thừa, đầu tư kiếm lãi. Trên cơ sở số vốn tập trung được phân phối cho những người cần vốn để sử dụng dưới hình thức cho vay. Người đó không ai khác chính là các tổ chức tín dụng trong đó chủ yếu là các Ngân hàng thương mại. Việc các Ngân hàng thương mại tập trung vốn dưới hình thức huy động và phân phối dưới hình thức cho vay gọi là tín dụng Ngân hàng.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động tín dụng không ngừng phát triển và hoàn thiện trở thành hình thức tín dụng Ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường Ngân hàng là trung gian tín dụng giữa tiết kiệm và đầu tư, giữa người đi vay và người cho vay.
Sự ra đời của tín dụng Ngân hàng có tác động qui định đến sự phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển góp phần đưa đất nước mình ngày càng phát triển và tiến kịp các nước trên thế giới.
1.1.2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng.
Với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt của nền kinh tế thị trường trong nước và Quốc tế đòi hỏi nền sản xuất hàng hoá phải phát triển mạnh mẽ để thâm nhập được vào thị trường Quốc tế. Song để cho quá trình sản xuất được mở rộng và ngày càng hoàn thiện hơn phải nói đến vai trò của tín dụng Ngân hàng. Nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự sống còn của nền kinh tế. Và như chúng ta đã biết bản chất của tín dụng Ngân hàng là đi vay để cho vay. Nên nó không những có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế mà còn có vai trò đặc biệt quan trọng đối với bản thân Ngân hàng.
Thứ nhất: nói đến vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế.
a. Tín dụng Ngân hàng đáp ứng yêu cầu vốn cho nền kinh tế.
Tín dụng Ngân hàng là trung gian điều hoà quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế, hoạt động tín dụng đã thông dòng cho vốn chảy từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn.
ở các doanh nghiệp, trong quá trình sản xuất kinh doanh. Việc thừa vốn hay thiếu vốn tạm thời là chuyện bình thường, thông thường người có vốn và người cần vốn không biết nhau, không cùng thời gian và không có điều kiện gặp nhau. Chính vì vậy việc phân phối lại vốn tín dụng của Ngân hàng đã góp phần cung ứng vốn và tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được tiến hành một cách đều đặn và phát triển, ngoài ra tín dụng còn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư nó là động lực kích thích tiết kiệm nói chung và tiết kiệm vốn nói riêng, đồng thời là phương tiến đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển.
Mặt khác trong nền kinh tế hàng hoá, tín dụng là một trong những nguồn hình thành vốn cố định và nhất là vốn lưu động trong các doanh nghiệp.
Vì vậy tín dụng góp phần đưa vật tư hàng hoá vào sản xuất tạo ra nhứng hàng hoá mới thúc đẩy ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ vào quá trình sản xuất xã hội. Đồng thời tín dụng Ngân hàng còn góp phần sắp xếp và tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội.
b. Tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Tín dụng Ngân hàng đáp ứng về cơ bản nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp tiến hành tái sản xuất và mở rộng sản xuất. Khi mà các doanh nghiệp đó muốn tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường, muốn vậy phải đổi mới công nghệ, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại, tìm kiếm môi trường kinh doanh mới, đồng thời quan hệ tín dụng ngữa Ngân hàng với các doanh nghiệp có sự ràng buộc trách nhiệm vay trả, do đó buộc các doanh nghiệp phải quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn của mình sao cho vừa làm ăn có lãi vừa có khả năng hoàn trả vốn và lãi cho Ngân hàng. Hay nói cách khác Ngân hàng đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
c. Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy các ngành kinh tế chiến lược mũi nhọn.
Một trong các hoạt động quan trọng của Ngân hàng là tập trung huy động mọi nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng nằm ngoài quá trình sản xuất kinh doanh, phân tán ở mọi thành phần kinh tế như nằm trong dân cư, các doanh nghiệp, các tổ chức , cơ quan Nhà nước để từ đó phân phối lại vốn vay đối với các thành phần kinh tế, rải đều cho mọi chủ thể kinh tế có nhu cầu. Tuy nhiên quá trình đầu tư tín dụng không phải rải đều cho mọi chủ thể kinh tế có nhu cầu mà việc đầu tư được thực hiện một cách tập trung có mục đích chủ yếu cho các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có hiệu quả. Đầu tư tập trung là một quá trình tất yếu, đảm bảo thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hạn chế rủi ro.
Trong điều kiện nước ta là một nước nông nghiệp, trình độ kỹ thuật còn thấp, sản xuất trong nước đang cố gắng đáp ứng đủ nhu cầu cần thiết cho xã hội. Do đó nông nghiệp được coi là mặt trận hàng đầu làm cơ sở để phát triển công nghiệp. Chính vì vậy Nhà nước cần phải tập trung đầu tư vốn để phát triển nông nghiệp để tạo điều kiện phát triển các ngành kinh tế khác phát triển. Bên cạnh đó phải tập trung đầu tư cho các ngành kinh tế mũi nhọn bởi vì việc phát triển các ngành này sẽ tạo cơ sở để tăng nguồn thu ngoại tệ cho Nhà nước.
d. Tín dụng Ngân hàng góp phần điều triết khối lượng tiền trong lưu thông và chống lạm phát.
Nền kinh tế hàng hoá luôn chuyển động theo hai chiều hướng phát triển theo nhịp độ tăng trưởng hoặc giảm sút theo quy luật lạm phát, cả hai trường hợp đó đều ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng.
Khi Nhà nước hoạch định một chiến lược kinh tế đúng đắn đều phải sử dụng phát huy tối đa vai trò và ưu thế của công cụ tài chính tiền tệ tín dụng Ngân hàng trên các phương diện thì chiến lược kinh tế mới trở thành hiện thực. Chúng ta không thể dùng hình thức huy động vốn bằng việc phát hành tiền. Vì như vậy sẽ dẫn đến khối lượng tiền tệ tăng lên trong lưu thông gây nên lạm phát ảnh hưởng trực tiếp đến gía cả và đời sống xã hội. Như vậy, để thu hút được nguồn vốn đủ lớn để đầu tư vào công trình trọng điểm do chiến lược kinh tế đề ra thì hình thức huy động vốn bằng nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng có ý nghĩa vô cùng to lớn. Với hình thức này không làm tăng thêm khối lượng lưu thông nên không ảnh hưởng đến lưu thông tiền tệ, giá cả.
Như vậy, tín dụng không chỉ là đòn bẩy kinh tế mà còn là công cụ để Nhà nước điều tiết sản xuất, điều chỉnh chiến lược kinh tế, phân công lao động xã hội.
e. Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài, là cầu nối cho việc giao lưu kinh tế và là phương tiện thắt chặt mối quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới.
Mỗi một quốc gia muốn có một nền kinh tế phát triển thì phải quan hệ với nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế đóng trước kia bây giờ đã nhường chỗ cho nền kinh tế mở phát triển. Một quốc gia được gọi là phát triển thì trước hết phải có nền kinh tế chính trị ổn định, có vị thế trên thị trường Quốc tế. Tín dụng Ngân hàng trở thành một trong những phương tiện nối liền kinh tế các nước với nhau, bằng các hoạt động tín dụng Quốc tế như các hoạt động tín dụng giữa các Chính phủ, giữa các tổ chức, cá nhân. Sự phát triển ngày càng cao trong hoạt động kinh tế ngoại thương và một số thành viên tham dự hoạt động ngày càng lớn, làm cho nhu cầu về hoạt động tài chính càng trở nên cấp thiết. Vì vậy, việc tạo điều kiện thuận lợi về tài chính là một công cụ cạnh tranh có hiệu quả bên cạnh các yếu tố cạnh tranh khác như giá cả, chất lượng sản phẩm, dịch vụ thương mại. Hoạt động thương mại ngày càng phát triển thì các hình thức thanh toán trải qua Ngân hàng ngày càng đa dạng. Quản lý kinh tế đối ngoại hoạt động tín dụng thuận lợi bao nhiêu thì mối quan hệ thương mại càng được mở rộng.
Thứ hai: là nói đến vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với bản thân Ngân hàng.
Tín dụng là hoạt động chủ yếu của Ngân hàng. Vì như chúng ta biết bản chất của tín dụng Ngân hàng là đi vay để cho vay, một mặt đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho nền sản xuất xã hội, mặt khác đây là nghiệp vụ thu lợi nhuận lớn nhất cho Ngân hàng. Kết quả kinh doanh Ngân hàng tốt hay xấu phụ thuộc vào kết quả hoạt động tín dụng Ngân hàng. Do vậy khi tiến hành cấp tín dụng cho khách hàng cần phải cân nhắc kỹ lưỡng từ giai đoạn xét duyệt cho vay đến giai đoạn thanh lý hợp đồng tín dụng nhằm đảm bảo an toàn cho Ngân hàng.
Tín dụng Ngân hàng có vai trò qui định đến sự tồn tại của một Ngân hàng từ việc huy động vốn đến việc khi thông sử dụng vốn đó một cách hiệu quả nhất.
Nói tóm lại, tín dụng Ngân hàng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với bản thân Ngân hàng nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung.
1.1.3. Các phương thức cho vay.
Tổ chức tín dụng thoả thuận với khách hàng vay việc áp dụng các phương thức cho vay.
- Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký hợp đồng tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
- Cho vay theo dự án đầu tư: Tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
- Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng, trong đó: Có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác. Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo qui định của quy chế này và quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành.
- Cho vay trả góp: Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay.
- Cho vay theo hạn mực tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.
- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng:
Tổ chức tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng. Khi cho vay phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng và khách hàng phải tuân theo các qui định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà tổ chức tín dụng thoả thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng phù hợp với các qui định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
- Các phương thức cho vay khác mà pháp luật không cấm, phù hợp với qui định tại quy chế này và điều kiện hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng và đặc điểm của khách hàng vay. Tuỳ vào đặc điểm của mỗi khách hàng vay vốn và tuỳ vào khả năng đáp ứng nhu cầu của Ngân hàng mà mỗi khách hàng và Ngân hàng lực chọn một phương thức cho vay. Nhưng hiện nay các Ngân hàng áp dụng phổ biến nhất vẫn là hai phương thức cho vay đó là cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức tín dụng. Sau đây em xin đi sâu vào hai phương thức cho vay này.
1.1.3.1. Phương thức cho vay từng lần.
Cho vay từng lần là hình thức cho vay mà mỗi lần vay vốn, khách hàng và tổ chức tín dụng làm thủ tục vay vốn cần thiết và ký hợp đồng tín dụng.
Đối tượng áp dụng cho phương thức cho vay từng lần là:
- áp dụng đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên.
- áp dụng đối với khách hàng có vòng quay vốn lưu động thấp hoặc ít tín nhiệm với Ngân hàng.
- áp dụng cho vay đối với cá thể.
Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn, khách hàng phải gửi đến cho Ngân hàng hồ sơ tín dụng gồm: Đơn xin vay, những tài liệu thuyết minh cho đơn xin vay: Hồ sơ pháp lý, phương án sản xuất kinh doanh, tài liệu về thế chấp cầm cố tài sản.
Sau khi nhận được hồ sơ vay vốn cán bộ tín dụng tiến hành khảo sát, thu thập và phân tích thông tin, để đánh giá những mặt sau:
+ Tư cách và điều kiện của người vay vốn.
+ Tính hợp pháp hợp lệ của các loại giấy tờ trong hồ sơ xin vay.
+ Tiềm năng tài chính của khách hàng.
+ Mục đích vay vốn và hiệu quả kinh tế của việc sử dụng vốn vay, khả năng trả nợ Ngân hàng khi đến hạn.
+ Tài sản thế chấp, cầm cố.
Hay nói cách khác là cán bộ tín dụng sẽ tiến hành thẩm định, nếu thấy khả thi thì xét duyệt mức cho vay (căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng và nguồn vốn của Ngân hàng, mức vốn tự có của khách hàng). Sau đó trình giám đốc ký duyệt để biết được có cho khách hàng vay hay không. Sau khi đã đi đến quyết định Ngân hàng phải thông báo cho khách hàng biết.
Những đơn xin vay đã được Giám đốc Ngân hàng phê duyệt sẽ được chuyển cho cán bộ tín dụng để cán bộ tín dụng hướng dẫn khách hàng lập hợp đồng tín dụng nhận nợ. Sau đó đơn xin vay và hợp đồng tín dụng vay tiền được cán bộ tín dụng chuyển cho bộ phận kế toán để cán bộ kế toán tiến hành phát tiền vay. Tuỳ theo mục đích của việc sử dụng vốn vay, trên cơ sở các nhu cầu hợp lý của khách hàng thì Ngân hàng có thể cho vay chuyển khoản để trả thẳng vào tài khoản thư tín dụng, séc bảo chi, cho vay tiền mặt.
Thời hạn cho vay của mỗi lần vay được xác định trên cơ sở thoả thuận giữa Ngân hàng và khách hàng. Sự thoả thuận này căn cứ vào nhu cầu vốn của khách hàng trong bao lâu, đặc điểm của ngành nghề kinh doanh, tính chất nguồn vốn của Ngân hàng. Sau khi thoả thuận xong về thời hạn cho vay thì cán bộ tín dụng ghi vào hợp đồng tín dụng vay tiền. Hầu hết các món vay đều được Ngân hàng phân kỳ hạn nợ và quyết định mức trả nợ mỗi lần. Tuy nhiên đối với các món vay mà khách hàng không có thu nhập thường xuyên hoặc thời hạn vay của khách hàng quá ngắn thì Ngân hàng không phân kỳ hạn nợ mà ghi trên hợp đồng là thời hạn trả nợ cuối cùng.
Trong suốt quá trình khách hàng sử dụng vốn vay Ngân hàng phải kiểm tra thường xuyên xem khách hàng sử dụng đúng mục đích không. Thông thường trước ngày đến hạn trả lãi cũng như trả gốc, cán bộ Ngân hàng phải lập và gửi thông báo về khoản nợ đến hạn cho khách hàng biết và chuẩn bị trả tiền. Khách hàng có thể trả trực tiếp bằng tiền mặt cho Ngân hàng hoặc là lập uỷ nhiệm chi đề nghị Ngân hàng trích tài khoản tiền gửi thanh toán của họ để thu nợ. Còn nếu khách hàng không trả nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng sẽ tự động trích tiền từ tài khoản tiền gửi của khách hàng để thu nợ. Số tiền khách hàng không trả cho Ngân hàng sẽ tự động trích tiền từ tài khoản tiền gửi của khách hàng để thu nợ. Số tiền khách hàng không trả cho Ngân hàng thì tuỳ vào từng thời hạn nợ và tuỳ vào từng nguyên nhân mà Ngân hàng có thể cho gia hạn nợ hoặc là chuyển sang nợ quá hạn. Vì những lý do khách quan muốn gia hạn nợ cũng phải làm đơn xin gia hạn nợ trước khi khoản muốn vay đến hạn.
Phương thức cho vay từng lần hiện đang được các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam áp dụng rộng rãi nhưng không phải vì thế mà nó không có nhược điểm bên cạnh ưu điểm.
+ Nhược điểm:
- Thủ tục rườm rà, phức tạp, gây khó khăn cho người vay.
- Có những doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn thường xuyên hoặc tuỳ thuộc vào đặc điểm ngành nghề kinh doanh mà doanh nghiệp có nhu cầu vốn trong khi đó phương thức này không đáp ứng được.
- Nếu đối tượng vay vốn có vòng quay nhanh từ doanh nghiệp sẽ sử dụng món vay đó vào nhiều mục đích mà Ngân hàng không kiểm soát được điều này nên tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau ảnh hưởng đến việc thu hồi nợ, ảnh hưởng đến nguồn vốn Ngân hàng.
+ Ưu điểm:
- Phương thức cho vay này rất linh hoạt trong quá trình sử dụng vốn của Ngân hàng.
- Ngân hàng có thể kiểm tra chặt chẽ được từng món vay, tính được hiệu quả kinh tế của từng đối tượng cho vay. Từ đó đảm bảo được an toàn vốn cho Ngân hàng. Giúp Ngân hàng hoạt động kinh doanh ngày càng hiệu quả và tạo được uy tín cao trong lòng khách hàng.
1.1.3.2. Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng.
Cho vay theo hạn mức tín dụng là phương thức cho vay mà Ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức cho vay nhất định duy trì trong thời gian nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Đối tượng áp dụng đối với phương thức cho vay này là:
+ Các doanh nghiệp mà trong quá trình hoạt động kinh doanh họ thường xuyên có nhu cầu vay trả.
+ Khách hàng có quan hệ tín dụng thường xuyên với Ngân hàng.
+ Khách hàng có tốc độ luân chuyển vốn tín dụng nhanh khi khách hàng lần đầu có nhu cầu vay vốn Ngân hàng, thì khách hàng phải làm đơn xin vay vốn gửi đến Ngân hàng kèm với kế hoạch vay vốn nhưng chú ý rằng kế hoạch vay vốn này phải được lập dựa trên kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch tài chính của họ, sau đó gửi đến nhmf trước kỳ kế hoạch để Ngân hàng xem xét và tính toán cho vay đối với khách hàng. Tuy nhiên có thể xét duyệt được đòi hỏi trong kế hoạch vay vốn mà khách hàng lập gửi cho Ngân hàng phải xác định rõ nhu cầu vay trong quý. Yếu tố này được xác định bằng công thức sau:
Nhu cầu vay vốn
Nhu cầu sản xuất kinh doanh
Vốn lưu động
=
-
Quý kế hoạch
Doanh bình quân quý kế hoạch
Tự có và tự huy động
Trong đó:
+ Nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh bình quân quý kế hoạch và nhu cầu vốn cần thiết để phục vụ cho mọi nhu cầu trong sản xuất kinh doanh từ khâu vật tư hàng hoá nguyên vật liệu cho đến khâu tiêu thụ sản phẩm.
+ Vốn lưu động tự có và tự huy động: Đó là vốn lưu động do Ngân sách cấp, vốn tự bổ sung, vốn liên doanh, các khoản tạm thời sử dụng như các loại quỹ, các khoản nộp nhưng chưa nộp, lãi chưa phân phối, các khoản vay của cán bộ công nhân viên…
Sau khi nhận được các kế hoạch vay vốn do doanh nghiệp gửi đến Ngân hàng, cán bộ tín dụng tiến hành thẩm định lại để xác định nhu cầu vốn vay đó sao cho chính xác, hợp lý. Mặt khác Ngân hàng tự cân đối nguồn vốn của mình xem xét nguồn vốn Ngân hàng có thể phân bổ cho doanh nghiệp là bao nhiêu. Trên cơ sở nhu cầu vốn vay và khả năng nguồn vốn của Ngân hàng có thể đáp ứng thì khách hàng cùng n hf thoả thuận với nhau về hạn mức tín dụng.
Sau khi xác định được hạn mức cho vay thì Ngân hàng và khách hàng xác định thời hạn cho vay theo kế hoạch. Thời hạn cho vay theo hạn mức trung và dài hạn là số ngày của một vòng luân chuyển vốn vay. Thời hạn cho vay được xác định theo công thức sau:
TCV =
90
Số vòng quay vốn vay
Trong đó:
Thời hạn cho vay là TCV
Số vòng quay vốn vay TCV
Ttđ KH =
Doanh số trả nợ kế hoạch
Dư nợ bình quân kế hoạch quý
Sau khi đã xác định được hạn mức tín dụng và thời hạn cho vay Ngân hàng và khách hàng ký kết hợp đồng tín dụng cho quý kế hoạch. Khi đã ký kết hợp đồng tín dụng xong, Ngân hàng mở một tài khoản cho vay theo hạn mức tín dụng mang tên doanh nghiệp đó. Hàng ngày khi có phát sinh các khoản chi trả tiền mua vật tư, hàng hoá thanh toán các chi phí sản xuất và lưu thông, dịch vụ… mà trên tài khoản tiền gửi không còn tiền thì doanh nghiệp có thể xuất trình cho Ngân hàng các hồ sơ xin vay vốn sau đây:
+ Bảng kê giấy tờ thanh toán xin vay vốn (séc, uỷ nhiệm chi….) và xuất trình các chứng từ hoá đơn kèm theo (nếu có).
+ Hợp đồng mua bán vật tư, hàng hoá (nếu có).
Ngân hàng phải xem xét kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của chứng từ, xem xét mục đích, đối tượng và tính hợp lý của việc xin vay để quyết định số tiền vay phát ra. Phải chú ý là số tiền Ngân hàng giải quyết cho vay từng lần nằm trong phạm vi hạn mức tín dụng được duyệt. Nó được xác định theo công thức sau:
Mức cho vay
Hạn mức tín
Dư nợ thực tế trước
=
-
còn lại
dụng quý
khi cho vay
Khi phát tiền vay, Ngân hàng qui định hướng sử dụng tiền vay dựa trên nguồn gốc phát sinh của các khoản phải trả. Nếu khoản tiền vay là để thanh toán các khoản nợ của những người cung cấp không có tài khoản tiền gửi ở Ngân hàng thì số tiền cho vay được phát ra bằng tiền mặt.
Nếu tiền vay là để thanh toán các khoản nợ vật tư hàng hoá, nhận cung cấp dịch vụ… đối với những đơn vị có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng thì Ngân hàng sẽ chuyển thẳng số tiền cho vay cho đơn vị thụ hưởng.
Thu nợ thì khác với phương thức cho vay từng lần, phương thức này yêu cầu khi nào doanh nghiệp có thu nhập thì toàn bộ số tiền thu bán hàng và các khoản thu khác thuộc vốn lưu động, doanh nghiệp thông thường phải nộp trực tiếp vào tài khoản cho vay theo hạn mức tín dụng để trả nợ vào hàng ngày trong quý.
Nhưng ưu và nhược điểm của phương thức này.
+ Ưu điểm:
- Thủ tục cho vay đơn giản, đáp ứng nhanh chóng, kịp thời các nhu cầu về vốn vay cho khách hàng, đồng thời có thể vay gộp chung nhiều đối tượng. Vì thế, phương thức cho vay này rất thuận lợi cho khách hàng có nhu cầu vốn thường xuyên.
- Phương thức này tiết kiệm vốn tối đa cho người vay vì khi mua nguyên vật liệu hàng hoá thì người vay, khi bán được hàng hoá thì ghi thẳng vào bên có để trả nợ không phải vừa vay vừa đọng tiền gửi như cho vay từng lần.
- Ngân hàng dễ nắm tình hình đơn vị vay vì doanh số cho vay thể hiện doanh số mua vào, doanh số thu nợ thể hiện doanh số bán ra. Từ đó biết được hoạt động kinh doanh và khả năng tài chính của khách hàng.
+ Nhược điểm:
- Do Ngân hàng và khách hàng cùng thoả thuận hạn mức tín dụng duy trì trong thời hạn nhất định nên Ngân hàng luôn phải duy trì một số vốn nhất định để sẵn sàng giải ngân cho người vay làm cho Ngân hàng bị ứ đọng vốn sử dụng.
- Về phía khách hàng cũng không muốn Ngân hàng quản lý các khoản thu nhập của mình. Đặc biệt trong trường hợp khách hàng dùng hai tài khoản: Tài khoản cho vay theo hạn mức và tài khoản tiền gửi thanh toán mà trả nợ theo phương pháp trực tiếp. Nếu khách hàng có nhu cầu sử dụng một phần thu nhập vào mục đích tạm thời, khách hàng phải thoả thuận với Ngân hàng lúc này lại rườm rà phức tạp. Điều này không những gây khó khăn cho khách hàng mà còn gây phiền hà cho Ngân hàng.
Mỗi một phương thức thì đều có những ưu nhược điểm riêng của nó nhưng hiện nay các Ngân hàng vẫn thường áp dụng phương thức cho vay từng lần. Coi đây là biện pháp tối ưu để đảm bảo an toàn vốn và tạo thế chủ động cho mình. Cả hai phương thức cho vay này còn nhiều điểm chưa phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ của các tổ chức kinh tế thậm chí còn mang nặng tính nguyên tắc cứng nhắc như áp dụng một phương thức cho vay mối đối tượng. Do đó tất yếu ảnh hưởng dây chuyền không tốt cho hoạt động tín dụng nói riêng cũng như hoạt động của Ngân hàng nói chung. Vì thế cần bổ sung một số điểm của để hoàn thiện hoặc tìm ra một phương thức thanh toán mới phù hợp với tình hình thực tế của nền kinh tế hấp dẫn khách hàng, đảm bảo án toàn vốn cho Ngân hàng, trên cơ sở đó tăng nhanh vòng quay vốn và thu nhập cho Ngân hàng.
Mỗi một phương thức thì đều có những ưu nhược điểm riêng của nó nhưng hiện nay các Ngân hàng vẫn thường áp dụng phương thức cho vay từng lần. Coi đây là biện pháp tối ưu để đảm bảo an toàn vốn và tạo chủ động cho mình. Cả hai phương thức cho vay này còn nhiều điểm chưa phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ của các tổ chức kinh tế, thậm chí còn mang nặng tính nguyên tắc cứng nhắc như áp dụng một phương thức cho vay mọi đối tượng. Do đó tất yếu ảnh hưởng dây chuyền không tốt cho hoạt động tín dụng nói riêng cũng như hoạt động của Ngân hàng nói chung. Vì thế cần bổ sung một số điểm yếu để hoàn thiện hoặc tìm ra một phương thức thanh toán mới phù hợp với tình hình thực tế của nền kinh tế hấp dẫn khách hàng, đảm bảo an toàn vốn cho Ngân hàng, trên cơ sở đó tăng nhanh vòng quay vốn và thu nhập cho Ngân hàng.
1.2. Tổng quan về kế toán cho vay.
1.2.1. Một số nét chung về kế toán Ngân hàng.
Xã hội loài người ngày càng phát triển kéo theo hoạt động sản xuất ngày càng tăng, một số vấn đề quan tâm hàng đầu đặt ra cho con người là làm sao để đạt được lợi nhuận tối đa có nghĩa là hiệu quả đạt cao trong khi đó thì chi phí bỏ ra là ít. Muốn đạt được điều đó, quá trình sản xuất cần phải được định hướng và tổ chức thực hiện theo những định hướng đã định. Từ đó xuất hiện nhu cầu tất yếu phải thực hiện chức năng quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh. Và để tiến hành hoạt động quản lý cần phải có thông tin, trong đó quan sát, đo lường, thanh toán và ghi chép các hoạt động là một phương pháp đó chính là hạch toán kế toán. Vậy có thể nói: “Hạch toán kế toán là việc quan sát, đo lường, tính toán, ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Nhằm thực hiện chức năng phản ánh và giám sát các hoạt động kinh tế”. Như vậy có thể kết luận rằng sự ra đời của hạch toán nói chung và hạch toán kế toán nói riêng là một tất yếu khách quan, do nhu cầu của sản xuất và quản lý đòi hỏi.
Như chúng ta đã biết, kế toán Ngân hàng là khoa học và cũng là nghệ thuật ghi chép, phân loại, tổng hợp và giải thích các nghiệp vụ tác động đến tình hình tài chính của các Ngân hàng bằng thước đo tiền tệ, nhằm cung cấp thông tin về tình hình và kết quả hoạt động của Ngân hàng, làm cơ sở cho việc ra quyết định kinh tế liên quan đến mục tiêu quản lý kinh doanh và đánh giá hoạt động của Ngân hàng. Thông thường, kế toán được xác định theo đối tượng phục vụ chủ yếu của nó là:
+ Các quản trị viên của Ngân hàng: Các quản trị viên của Ngân hàng sử dụng thông tin tài chính do kế toán cung cấp nhằm mục tiêu chủ yếu là giúp cho việc hình thành các quyết định bên trong Ngân hàng, do đó những thông tin này mang tính chất nội bộ, và vì vậy các báo cáo của kế toán có thể không cần phải tuân thủ hoàn toàn các nguyên tắc kế toán đã được thừa nhận.
+ Các nhà đầu tư, cơ quan tài chính, cơ quan luật pháp, thị trường chứng khoán và một số chủ thể khác bên ngoài Ngân hàng.
Trong nền sản xuất xã hội, Ngân hàng cũng được xác định là ngành kinh tế tổng hợp và bảo quản một lượng tài sản rất lớn của bản thân Ngân hàng cũng như toàn xã hội gửi tại Ngân hàng. Để quản lý tốt khối lượng tài sản này ngành Ngân hàng dùng công cụ kế toán để ghi chép, phản ánh toàn bộ số tài sản trong quá trình hoạt động theo chức năng nhiệm vụ của mình.
Ngân hàng cũng như bất kỳ một doanh nghiệp nào khác nhau mang tính chất sống còn. ở kế toán là nơi phản ánh tất cả các số liệu liên quan đến hoạt động của Ngân hàng mang lại hiệu quả co đòi hỏi người quản lý phải nhận thức được vai trò của kế toán.
1.2.1.1. Vai trò, nhiệm vụ của kế toán Ngân hàng.
Kế toán là công cụ quan trọng để quản lý nền kinh tế vì nó có tác dụng to lớn trong việc kiểm tra việc thực hiện các chủ tiêu kế hoạch, việc sử dụng vốn, tiền tệ, bảo vệ an toàn tài sản, củng cố và tăng cường chế độ hạch toán kinh tế.
Kế toán Ngân hàng là một bộ phận trong hệ thống kế toán của nền kinh tế nên nó cũng phát huy vai trò của kế toán nói chung. Tuy nhiên, xuất phát từ những đặc điểm của hoạt động Ngân hàng nên vai trò của kế toán Ngân hàng có khác với vai trò kế toán của các ngành khác: vai trò của kế toán Ngân hàng ở những điểm sau:
+ Đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo, quản trị Ngân hàng: Hạch toán kế toán cung cấp cho các nhà Ngân hàng biết được tình hình kinh tế, tài chính, sự biến động trong quá trình sử dụng vốn, huy động vốn, phản ánh và giám sát một cách liên tục, toàn diện và có hệ thống các loại tài khoản phản ánh nguồn vốn có việc sử dụng vốn trong Ngân hàng. Từ thông tin mà kế toán Ngân hàng cung cấp giúp cho người quản lý đề ra những quyết định điều hành, chỉ đạo kịp thời, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh. Trên cơ sở đó đề ra các mục tiêu, chiến lược phát triển.
+ Cung cấp thông tin tổng hợp để phục vụ quản lý nền kinh tế. Kế toán Ngân hàng có quan hệ mật thiết với hoạt động của nền kinh tế. Mọi hoạt động về kinh tế, tài chính của doanh nghiệp đều được phản ánh thông qua các tài khoản mở tại Ngân hàng. Vì vậy số liệu ghi chép của kế toán Ngân hàng vừa phản ánh được hoạt động nghiệp vụ của ngành và phản ánh được các hoạt động của các ngành khác về tình hình kinh tế, tài chính, sự biến động của vật tư , lao động, tiền vốn, thu nhập, chi phí, lợi nhuận… Từ đó các đơn vị có đầy đủ thông tin để đề ra các quyết định điều hành kịp thời, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh. Mặt khác các cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tài chính. Do khả năng phản ánh một cách tổng hợp nên kế toán Ngân hàng đã giúp Đảng và Nhà nước nắm được tình hình hoạt động của nền kinh tế, từ đó đề ra được phương hướng phát triển kinh tế một cách sát thực và đúng đắn.
+ Bảo vệ an toàn tài sản.
Ngoài việc bảo vệ an toàn tài sản cho bản thân Ngân hàng thì Ngân hàng còn phải bảo vệ tài sản của khách hàng gửi tại Ngân hàng. Do đó kế toán Ngân hàng phải ghi chép, kiểm soát một cách chặt chẽ mọi loại tài sản để tránh mất mát về mặt số lượng và nâng cao hiệu quả của mọi tài sản về mặt sử dụng. Mặt khác kế toán Ngân hàng có một số chứng từ rất lớn, rất đa rạng đáp ứng nhu cầu của các mối quan hệ trong nền kinh tế thị trường. Để làm được điều này. Phải tổ chức quy trình luân chuyển chứng từ sao cho có khoa học, có như vậy thì mới đảm bảo an toàn tài sản cho Ngân hàng và khách hàng để phát huy vai trò của mình, kế toán Ngân hàng có các nhiệm vụ sau:
+ Ghi chép, phản ánh đầy đủ, chính xác, kịp thời mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh thuộc về hoạt động nguồn vốn và sử dụng vốn Ngân hàng theo đúng pháp lệnh kế toán thống kê của Nhà nước. Và theo thể lệ của kế toán hiện hành, trên cơ sở đó để đảm bảo an toàn tài sản (vốn) của bản thân Ngân hàng và của khách hàng, của xã hội được bảo quản tại Ngân hàng.
1.2.1.2. Vai trò nhiệm vụ của kế toán cho vay.
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó Ngân hàng giao cho khh một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Và có thể nói đây là nghiệp vụ cung ứng khối lượng vốn lớn cho nền kinh tế để đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, mặt khác là nghiệp vụ sinh lời lớn nhất của các Ngân hàng thương mại.
Kế toán cho vay là công việc tính toán, ghi chép một cách đầy đủ chính xác các khoản thu nợ, thu lãi, theo dõi dư nợ tín dụng Ngân hàng. Trên cơ sở đó bảo vệ an toàn vốn cho vay của Ngân hàng và cung cấp các thông tin cần thiết cho việc quản lý và điều hành hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
Do tính chất phức tạp của nghiệp vụ tín dụng và tính pháp lý cao của các khoản vay nên kế toán cho vay làm nhiệm vụ ghi chép, phản ánh toàn bộ các khoản cho vay cũng trở nên phong phú, phức tạp. Trong quá trình tổ chức hạch toán đòi hỏi phải rất khoa học và chính xác. Một mặt phải tuân thủ các nguyên tắc, chế độ của nghiệp vụ kế toán, mặt khác phải đảm bảo các quy định của chế độ tín dụng.
Trong toàn bộ nghiệp vụ kế toán của Ngân hàng thị nghiệp vụ kế toán cho vay có vị trí rất quan trọng vì nó quản lý một bộ phận tài sản rất lớn của mỗi Ngân hàng. Cho nên vai trò của kế toán cho vay cũng gop một phần không nhỏ vào sự thành công của nghiệp vụ tín dụng nói riêng và của cả Ngân hàng nói chung. Sau đây là một số vai trò cơ bản của kế toán cho vay.
+ Kế toán cho vay giữ một vị trí quan trọng trong toàn bộ nghiệp vụ kế toán của Ngân hàng, nó được xác định là nghiệp vụ kế toán phức tạp bở lẽ trong bảng câu đối cho thấy hoạt động cho vay chiếm phần lớn trong tổng tài sản có của Ngân hàng nghĩa kế toán cho vay tham gia vào quá trình sử dụng vốn hoạt động cơ bản của Ngân hàng.
+ Nghiệp vụ tín dụng là nghiệp cơ bản, quan trọng và là nghiệp vụ hàng đầu của các Ngân hàng thương mại. Để cho nghiệp vụ này có hiệu quả, năng suất và chất lượng thì công tác kế toán cho vay góp phần không nhỏ qua việc phản ánh một cách rõ ràng, chính xác các nghiệp vụ cho vay, đối tượng khách hàng vay, thời hạn cho vay và phản ánh rõ ràng chất lượng tín dụng để bảo vệ tốt hơn nguồn vốn của Ngân hàng.
+ Kế toán cho vay phục vụ đắc lực trong công việc chỉ đạo chấp hành chính xác tín dụng tiền tệ của Đảng và Nhà nước trong nền kinh tế thị trường với cơ chế tín dụng hiện nay, cụ thể là Ngân hàng là cơ quan chuyên môn được giao nhiệm vụ tổ chức thực hiện triển khai áp dụng khung lãi suất mà Ngân hàng Nhà nước đưa ra tạo điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế chủ động về vốn phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Việc thực hiện tốt công tác tín dụng để tín dụng thực sự trở thành đòn bẩy kinh tế cũng như giám đốc bằng tiền với toàn bộ hoạt động tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế quốc dân.
+ Kế toán cho vay tạo điều kiện cho các đơn vị, tổ chức kinh tế nhận và hoàn trả vốn nhanh chóng, kịp thời, chính xác trên cơ sở đó để phát triển sản xuất kinh doanh. Và mở rộng lưu thông hàng hoá.
+ Kế toán cho vay phản ánh tình hình đầu tư vốn vào các ngành kinh tế quốc doanh, các thành phần kinh tế. Thông qua kế toán cho vay có thể biết được phân vị phương hướng đầu tư, hiệu quả đầu tư của Ngân hàng vào các thành phần kinh tế đó.
+ Kế toán cho vay theo dõi hiệu quả sử dụng vốn vay của từng đơn vị, khách hàng, qua đó tăng cường khuyến khích hoặc hạn chế cho vay.
Để phát huy tốt các vai trò trên của mình, ngoài việc phải thực hiện các nhiệm vụ của kế toán Ngân hàng nói chung, kế toán cho vay còn phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
+ Kiểm soát chặt chẽ hồ sơ chứng từ cho vay để đảm bảo đầy đủ tính pháp lý của khoản vay, bảo đảm cho vay phù hợp với thể lệ chế độ tín dụng nhằm bảo đảm an toàn tài sản vốn cho vay, bảo đảm khả năng thu hồi đầy đủ cả vốn lẫn lãi. Đây là một nhiệm vụ quan trọng của kế toán Ngân hàng. Ví dụ: Ngân hàng không kiểm soát chứng từ cho vay chặt chẽ, giá trị tài sản của khách hàng thấp nhưng cho vay cao vượt quá giá trị tài sản của khách hàng sẽ dẫn đến rủi ro lớn.
+ Phản ánh kịp thời đầy đủ chính xác mọi nghiệp vụ cho vay, thu nợ đối với từng đơn vị khách hàng. Quản lý hồ sơ cho vay, theo dõi chặt chẽ kỳ hạn nợ để thu hồi nợ kịp thời khi nơn đến kỳ hạn thu, hạch toán thu nợ, chuyển nợ quá hạn kịp thời để tránh thất thoát vốn, bảo vệ tài sản của Ngân hàng đồng thời có tác động tích cực tới đơn vị khách hàng trong quan hệ tín dụng với khách hàng. Đồng thời kế toán cho vay phải tính, hạch toán thu lãi cho vay kịp thời chính xác.
+ Giám sát tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng thông qua hoạt động của tài khoản tiền gửi và tài khoản tiền vay. Phát hiện kịp thời những hợp đồng kinh tế không lành mạnh của khách hàng trên cơ sở đó tham mưu cho cán bộ tín dụng để có biện pháp xử lý kịp thời.
+ Phân loại tổng hợp số liệu về nghiệp vụ tín dụng để cung cấp thông tin kịp thời cần thiết cho lãnh đạo giúp lãnh đaoj Ngân hàng có kế hoạch phương hướng đầu tư tín dụng một cách có hiệu quả.
Tóm lại, kế toán cho vay phản ánh tình hình đầu tư vốn vào các ngành kinh tế quốc dân, các thành phần kinh tế các khu vực kinh tế nên thông qua số liệu kế toán cho vay có thể biết được phạm vi, phương hướng đầu tư, hiệu quả đầu tư của tổ chức tín dụng. Mặt khác thông qua số liệu cho vay có thể biết được những khách hàng có tài chính tốt, sản xuất kinh doanh tốt, uy tín tốt, đồng thời cũng phản ánh được những khách hàng sản xuất kinh doanh kém, tình hình tài chính kém từ đó có định hướng khuyến khích cho vay và hạn chế cho vay đối với khách hàng cụ thể.
1.2.2. Chứng từ và tài khoản phản ánh nghiệp vụ cho vay.
1.2.2.1. Chứng từ phản ánh nghiệp vụ cho vay.
Chứng từ kế toán Ngân hàng là văn bản, vật mang tin chứng minh về mặt pháp lý việc phát sinh và thực sự hoàn thành một nghiệp vụ kinh tế làm căn cứ để hạch toán vào các loại sổ sách kế toán Ngân hàng.
Chứng từ dùng trong kế toán cho vay là những loại giấy tờ có giá trị về mặt pháp lý để xác định số tiền Ngân hàng cho người vay vay và người vay nhận nợ với Ngân hàng nên từ khâu lập đến khâu kiểm soát, tổ chức bảo quản phải đảm bảo đúng chế độ. Khi thực hiện kế toán máy thì không dùng chứng từ điện tử thay thế mà vẫn phải dùng chứng từ giấy.
Chứng từ kế toán cho vay chia làm hai loại đó là chứng từ gốc và chứng từ ghi sổ.
+ Chứng từ gốc: là chứng từ có giá trị ly trong quan hệ tín dụng xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên đi vay và cho vay. Chứng từ gốc bao gồm:
- Giấy đề nghị vay vốn
- Hợp đồng tín dụng
- Biên bản phản ánh tài sản thế chấp, cầm cố, phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh…
- Một số loại giấy tờ khác theo quy chế cho vay.
+ Chứng từ ghi sổ: là chứng từ làm thủ tục kế toán, là căn cứ được lập trên cơ sở chứng từ gốc. Chứng từ ghi sổ gồm:
- Nếu cho vay bằng tiền mặt: Dùng giấy xin lĩnh tiền mặt.
- Nếu cho vay bằng chuyển khoản (tiền vay chuyển thẳng vào tài khoản của người cung cấp) thì dùng các chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt như uỷ nhiệm chi, thẻ thanh toán.
- Trường hợp Ngân hàng chủ động trích tài khoản tiền gửi của người vay để thu nợ, thu lãi thì dùng phiếu chuyển khoản và bảng kê tính lãi hàng tháng. Cần lưu ý rằng, đối với phương thức tín dụng theo hạn mức tín dụng, khi cho vay không phải khế ước vay tiền mà chỉ phải ký kết hợp đồng tín dụng thì tính chất pháp lý của khoản cho vay thể hiện ngay trên các chứng từ phát tiền vay như séc lĩnh tiền mặ, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu cũng như hàng tháng tiến hành đối chiếu xác nhận nợ theo số dư các tài khoản cho vay theo hạn mức tín dụng trên cơ sở hạch toán chi tiết.
1.2.2.2. Tài khoản sử dụng.
Tài khoản phản ánh nghiệp vụ cho vay thuộc tài sản có của Ngân hàng, nó dùng để ghi chép, phả ánh toàn bộ số tiền cho vay của Ngân hàng đối với người đi vay, đồng thời cũng ghi chép, phản ánh số tiền người vay trả nợ Ngân hàng theo những kỳ hạn nhất định.
a. Tài khoản nội bảng.
+ Tài khoản cho vay phản ánh nợ trong hạn bằng VND ngoại tệ.
Khách hàng vay vốn Ngân hàng có thể trong thời gian ngắn hoặc cũng có thể trung và dài hạn. Do vậy, tài khoản cho vay trong hạn được bố trí thành tài khoản cho vay ngắn hạn, tài khoản cho vay trung và dài hạn. Để quản lý đồng tiền cho vay các tài khoản cho vay được bố trí thành tài khoản cho vay bằng đồng Việt Nam và tài khoản cho vay bằng ngoại tệ.
Bao gồm các tài khoản:
- Tài khoản 2111: Cho vay ngắn hạn bằng VND
- Tài khoản 2121: Cho vay trung hạn bằng VND
- Tài khoản 2131: Cho vay dài hạn bằng VND.
Tất cả các tài khoản cho vay đều được mở chi tiết cho các tổ chức cá nhân có quan hệ tín dụng với Ngân hàng.
Kết cấu của các tài khoản cho vay:
Bên nợ: - Số tiền cho vay
Bên có: - Số tiền thu nợ
- Số tiền chuyển nợ quá hạn.
Số dư nợ: phản ánh số tiền người vay còn nợ Ngân hàng.
+ Tài khoản phản ánh nợ quá hạn.
Dùng để theo dõi nợ quá hạn của người vay. Để theo dõi các mức độ của nợ quá hạn, tài khoản nợ quá hạn được bố trí:
- Tài khoản 2112: nợ quá hạn đến 180 ngày có khả năng thu hồi.
- Tài khoản 2113: nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày có khả năng thu hồi.
- Tài khoản 2118: nợ khó đòi.
Kết cấu của tài khoản nợ quá hạn:
Bên nợ : - Số tiền chuyển nợ quá hạn.
Bên có: - Số tiền thu nợ quá hạn.
- Số tiền chuyển sang tài khoản nợ quá hạn cao hơn.
Dư nợ: Phản ánh số dư nợ quá hạn chưa trả.
+ Nhóm tài khoản lãi cộng dồn dự thu: 217.
Kết cấu của tài khoản:
Bên nợ: - Phản ánh số tiền lãi cộng dồn dự thu.
Bên có: - Phản ánh số tiền lãi mà Ngân hàng thu được.
- Số tiền lãi đến kỳ mà Ngân hàng không thu được phải chuyển sang tài khoản lãi chưa thu được.
Dư nợ: Phản ánh số lãi mà NHTM còn phải thu nhưng chưa thu được.
Tài khoản này mở chi tiết theo từng khách hàng vay. Cũng như hạch toán tài khoản lãi cộng dồn dự trả thì người ta căn cứ vào bảng tính lãi hàng tháng để hạch toán mà không quan tâm đến việc có thu được hay không.
+ Tài khoản dự phòng phải thu khó đòi (219).
Tài khoản này dùng để phản ánh việc lập dự phòng và xử lý quỹ dự phòng khi có rủi ro vào cuối niên độ kế toán khoản dự phòng này được hạch toán từ chi phí theo qui định của Ngân hàng Nhà nước.
Kết cấu tài khoản:
Bên có: - Phả ánh số tiền trích lập dự phòng theo qui định.
Bên nợ: - Phản ánh các khoản nợ phải thu khó đòi, không thu được phải xử lý xoá nợ.
- Kết chuyển số chênh lệch về dự phòng phải thu khó đòi đã lập không sử dụng còn lại ở cuối niên độ kế toán.
Dư có: - Phản ánh số dự phòng phải thu khó đòi còn lại ở cuối kỳ.
Hạch toán chi tiết: Mở một tài khoản chi tiết duy nhất. Theo qui định số 488 NHNN ban hành 08/02/1999 về phân loại tài sản có để trích lập dự phòng rủi ro.
- Nhóm tỷ lệ trích 0%:
* Khoản vay chưa đến hạn trả nợ (kể cả khoản vay được gia hạn nợ).
* Những khoản tiền chiết khấu, tái chiết khấu các GTCG ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán.
* Những khoản cho thuê tài chính nhưng chưa đến hạn trả tiền thuê.
- Nhóm tỷ lệ trích lập 20 %.
* Những khoản cho vay có đảm bảo và đã hạch toán vào tài khoản nợ quá hạn 180 ngày.
* Những khoản cho vay không có đảm bảo và đã quá hạn trong 90 ngày.
* Những khoản chiết khấu, tái chiết khấu các GTCG ngắn hạn và đã quá hạn thanh toán dưới 30 ngày.
* Số tiền trả cho người được bảo lãnh chưa thu hồi được trong thời gian dưới 30 ngày.
* Những khoản cho thuê tài chính mà bên thuê không trả được tiền thuê trong thời gian dưới 180 ngày.
- Nhóm tỷ lệ trích 50 %: Nội dung giống như nhóm 2.
* Những khoản cho vay có đảm bảo và đã hạch toán vào tài khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến dưới 360 ngày.
* Những khoản cho vay không có đảm bảo và đã quá hạn từ 90 đến 180 ngày.
* Những khoản chiết khấu, tái chiết khấu các GTCG ngắn hạn và đã từ 30 đến 90 ngày.
* Số tiền trả cho người được bảo lãnh chưa thu hồi được trong thời gian từ 30 đến 90 ngày.
* Những khoản cho thuê tài chính mà bên thuê không trả được tiền thuê trong thời gian từ 181 ngày đến 360 ngày.
- Nhóm tỷ lệ trích 100%: Nội dung giống như nhóm 2 nhưng khác về thời hạn. Tất cả đều từ 360 ngày trở lên.
b. Các tài khoản ngoại bảng.
+ Tài khoản 94: Lãi cho vay chưa thu được.
Tài khoản này dùng để phản ánh số lãi cho vay đã được tính toán nhưng người vay không có khả năng thanh toán.
- Tài khoản 941: Lãi cho vay chưa thu được = VND.
- Tài khoản 942: Lãi cho vay chưa thu được = ngoại tệ.
Kết cấu của tài khoản:
Bên nhập: Phản ánh số lãi chưa thu được
Bên xuất: Phản ánh số lãi đã thu được.
Số còn lại phản ánh số lãi chưa thu được đến một thời điểm nào đó.
Kế toán mở sổ theo dõi chi tiết cho từng khách hàng.
+ Tài khoản 97: “Nợ khó đòi chờ xử lý”
Tài khoản này dùng để hạch toán các khoản nợ bị tổn thất và đã đáp dùng quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp và trong thời gian theo dõi để tiếp tục thu hồi dần. Thời gian theo dõi trên tài khoản này theo qui định của NHNN hết thời gian qui định. Nếu không thu được tài khoản này sẽ bị huỷ bỏ.
Tài khoản 971: Nợ bị tổn thất đang trong thời gian theo dõi.
Bên nhập: Phản ánh nợ tổn thất đã được xử lý bù đắp và đã chuyển sang thu đã ngoại bang theo qui định.
Bên xuất: Nợ tổn thất đã thu hồi được.
Nợ bị tổn thất hết thời hạn theo dõi.
Số còn lại: Nợ tổn thất đã được bù đắp nhưng vẫn tiếp tục theo dõi.
Mở tài khoản chi tiết cho từng khách hàng.
+ Tài khoản 994: “Tài sản thế chấp, cầm cố của khách hàng” Tài khoản này dùng để phản ánh các tài khoản thế chấp, cầm cố của các tổ chức cá nhân vay vốn tín dụng theo chế độ cho vay qui định.
Tài khoản này có kết cấu:
Bên nhập: Giá trị tài sản thế chấp, cầm cố giao cho tổ chức tín dụng quản lý để đảm bảo nợ vay.
Bên xuất: Giá trị tài sản thế chấp cầm cố được đem phát mại để trả nợ vay tổ chức tín dụng.
Số còn lại: Phản ánh giá trị tài sản thế chấp cầm cố tổ chức tín dụng đang quản lý.
+ Tài khoản 995:
Bên nhập: Giá trị tài sản tổ chức tín dụng tạm giữ chờ xử lý.
Bên xuất: Giá trị tài sản tổ chức tổ chức tạm giữ đã được xử lý.
Số còn lại: Phản ánh giá trị tài sản của công thức, cá nhân vay vốn đang được tổ chức tín dụng tạm giữ chờ xử lý do thiếu đảm bảo nợ vay tổ chức tín dụng.
+ Tài khoản 996: Các giấy tờ có giá củ khách hàng đưa cầm có kết cấu của tài khoản này giống 994.
1.2.3. Quy trình kế toán cho vay.
1.2.3.1. Quy trình kế toán cho vay, thu nợ, thu lãi theo phương thức cho vay từng lần.
+ Kế toán giai đoạn cho vay.
Hồ sơ cho vay sau khi đã được cán bộ tín dụng thẩm định và Giám đốc Ngân hàng qui định cho vay sẽ được chuyển xuống kế toán cho vay kiểm soát lại và hướng dẫn khách hàng làm thủ tục nhận tiền vay.
- Giải ngân một lần hạn mức cho vay: Khách hàng sẽ lập các chứng từ kế toán thích hợp. Theo nguyên tắc cho vay có mục đích. Căn cứ vào chứng từ kế toán hạch toán.
Nợ: Tài khoản cho vay thông thường.
Có: Tài khoản thích hợp.
* Tài khoản tiền mặt tại quỹ (nếu cho vay bằng tiền mặt).
* Tài khoản gửi của người thụ hưởng (nếu cho vay bằng chuyển khoản).
Đối với khoản cho vay có tài sản thế chấp cầm cố thì kế toán căn cứ vào các chứng từ có giá trị pháp lý của tài sản cầm cố để ghi nhập vào tài khoản bằng 994 “Tài khoản thế chấp, cầm cố của khách hàng”.
Giấy đề nghị vay vốn, hợp đồng tín dụng, giấy nhận nợ lập mỗi loại 02 bản trả cho khách hàng 01 bản, bản còn lại sẽ được kế toán cho vay lưu giữ để theo dõi thu nợ. Kế toán sẽ theo dõi sắp xếp hồ sơ của khách hàng theo trật tự kỳ hạn trả nợ.
Cuối định kỳ kế toán cho vay tiến hành sao kê số dư các hợp đồng tín dụng để đối chiếu với số dư các tài khoản cho vay, để phát hiện chênh lệch nếu có. Nếu có chênh lệch phải tìm hiểu để điều chỉnh sao tổng dư nợ bằng tổng các khoản vay tương ứng.
- Giải ngân nhiều lần:
Thì kế toán căn cứ vào các chứng từ nhận tiền vay của khách hàng sau khi kiểm soát thì thực hiện việc hạch toán.
+ Kế toán giai đoạn phát tiền vay:
Hàng tháng căn cứ vào bảng kê tính lãi để hạch toán:
Nợ: Tài khoản lãi cộng dồn dự thu.
Có: Tài khoản thu lãi cho vay.
Nếu khách hàng trả gốc cộng lãi khi đến hạn và Ngân hàng adu hạch toán lãi cộng dồn dự thu.
Còn nếu khách hàng trả lãi từng tháng thì hạch toán:
Nợ: Tài khoản tiền mặt tại quỹ, tài khoản được chỉ định.
Có: Tài khoản thu lãi cho vay.
+ Kế toán giai đoạn thu nợ:
Trước ngày đến hạn thì kế toán phải thông báo cho cán bộ tín dụng và để gửi thông báo cho khách hàng chuẩn bị trả nợ.
Đến hạn thì khách hàng phải chủ động trả nợ Ngân hàng cả gốc và lãi. Nếu khách hàng không chủ động thì Ngân hàng có quyền trích trên tài khoản tiền gửi của khách hàng để thu nợ… Trường hợp trên tài khoản tiền gửi của khách hàng không đủ số dư, khoản cho vay không được gia hạn thêm thì kế toán lập chứng từ để chuyển nợ quá hạn.
Có 2 cách thu nợ:
Cách 1: Đến kỳ hạn khách hàng trả cả gốc và lãi, Ngân hàng hạch toán dự thu.
Nợ: Tài khoản tiền gửi của khách hàng, tài khoản thích hợp: G + L.
Có: Tài khoản cho vay: G
Có: Tài khoản lãi cộng dồn dự thu: L
Cách 2: Nếu Ngân hàng đã thu từng tháng.
Nợ: Tài khoản tiền gửi của khách hàng, tài khoản thích hợp: G
Có: Tài khoản cho vay: G
+ Kế toán chuyển nợ quá hạn:
Đến hạn trả nợ nếu khách hàng không có khả năng trả nợ và cũng không được Ngân hàng gia hạn nợ. Kế toán lập phiếu chuyển khoản để chuyển nợ quá hạn.
- Về nội bảng:
Chuyển gốc:
Nợ: Tài khoản nợ quá hạn dưới 180 ngày.
Có: Tài khoản cho vay tương ứng.
Nếu Ngân hàng đã hạch toán dự thu rồi thì phải tái thu.
Nợ: Tiền lãi cho vay: L
Có: Tài khoản lãi vay đã dự thu tiền vay: L
Nếu khách hàng đã trả lãi từng tháng khi chuyển nợ quá hạn chỉ chuyển gốc.
Sau khi chuyển nợ quá hạn kế toán cho vay và cán bộ tín dụng phải tìm các biện pháp để tiến hành thu nợ.
Sau khi chuyển nợ quá hạn kế toán cho vay và cán bộ tín dụng phải tìm các biện pháp để tiến hành thu nợ.
Lãi suất áp dụng trong thời gian quá hạn. Hạch toán và tài khoản nợ quá hạn bằng 150% lãi cho vay loại tương ứng.
Hàng tháng căn cứ vào phân loại tài sản có để trích lập dự phòng phải thu khó đòi.
Nợ: Chi phí.
Có: Dự phòng phải thu khó đòi số tiền tính được.
Nếu không thu được trong vòng 360 ngày thì kế toán cho vay lập chứng từ chuyển sang nợ quá hạn cao hơn.
Còn nếu khách hàng có tiền trả nợ: Hạch toán.
Nợ tài khoản thích hợp.
Có tài khoản nợ quá hạn tương ứng: Gốc.
Có tài khoản thu lãi cho vay: L + L’
Xuất 94 “lãi chưa thu được”.
Trường hợp khách hàng không có khả năng trả nợ thì hết thời hạn qui định thì Ngân hàng phải chuyển sang nợ không có khả năng thu hồi. các Chi nhánh Ngân hàng làm tờ trình để xử lý.
Xử lý các tài sản cầm cố thế chấp nếu có. Nếu giá trị sau khi xiết nợ lớn hơn giá trị gốc cộng lãi thì hạch toán thu gốc và lãi bình thường, phần thừa sẽ trả cho khách hàng. Còn nếu tài sản sau khi xiết nợ không đủ để thanh toán gốc cộng lãi thì sẽ làm tờ trình để xin được sử dụng dự trữ phải thu khó đòi để xoá nợ. Sau khi thực hiện xoá nợ thì kế toán nhập ngoại bảng tài khoản 971. Nợ bị tổn thất đang trong thời gian theo dõi.
Trường hợp sau khi đã xử lý xoá nợ mà vẫn thu được nợ thì Ngân hàng sẽ lập phiếu và hạch toán vào thu khác và suất 971. Hết thời hạn theo dõi trên tài khoản 971 theo qui định thì kế toán cũng làm thủ tục xuất 971.
1.2.3.2. Quy trình kế toán cho vay, thu nợ, thu lãi đối với phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng.
+ Kế toán giai đoạn cho vay:
Theo phương thức cho vay này căn cứ để phát tiền là hạn mức tín dụng mà Ngân hàng và khách hàng đã thoả thuận trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng tín dụng. Như vậy mỗi lần rút tiền vay khách hàng chỉ cần đặt giấy nhận nợ kèm chứng từ xin vay phù hợp với mục đích sử dụng vốn vay. Do đó trách nhiệm của kế toán cho vay không được vượt hạn mức tín dụng đã ký trong hợp đồng.
Sau khi đã kiểm soát trích hợp lệ, hợp pháp của chứng từ xin vay và đối chiếu với hạn mức tín dụng nếu đủ điều kiện thì kế toán căn cứ vào chứng từ để hạch toán và giải ngân.
Nợ: Tài khoản cho vay theo hạn mức.
Có: Tài khoản thích hợp.
Nếu cho vay có thể thế chấp thì lần đầu tiên phát tiền vay kế toán cho vay phải làm thủ tục.
Nhập tài khoản ngoại bảng: “Tài khoản thế chấp, cầm cố”.
+ Kế toán giai đoạn thu nợ, thu lãi:
Trong phương thức cho vay theo hạn mức việc trả nợ của khách hàng dựa trên cơ sở vòng quay vốn tín dụng hoặc có thể trả nợ hàng tháng theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Người vay phải nộp tiền bán hàng cũng như khoản thu nhập khác vào bên có của tài khoản cho vay để trả nợ Ngân hàng. Nếu hết tháng người vay không hoàn thành kế hoạch trả nợ và không được xem xét để chuyển sang thu tiếp ở tháng kế tiếp thì kế toán cung cấp số tiền còn nợ đó sang tài khoản nợ quá hạn và áp dụng lãi suất nợ quá hạn.
Khi thu nợ gốc: Hạch toán thu nợ gốc theo số tiền bán hàng của người vay nộp vào Ngân hàng.
Nợ: Tài khoản thích hợp.
Có: Tài khoản cho vay theo hạn mức.
Về nguyên tắc Ngân hàng chỉ thu nợ trong phạm vi số tiền mà Ngân hàng đã cho vay nên đối với đơn vị vay theo hai tài khoản thì Ngân hàng chỉ thu nợ trong phạm vi thu nợ của tài khoản cho vay này thì số tiền bán hàng của đơn vị nộp và được ghi có tài khoản thanh toán. Khi tài khoản vốn lưu động dư có tức là đơn vị gửi vốn lưu động vào Ngân hàng, lúc này Ngân hàng sẽ tính và trả lãi cho đơn vị theo lãi suất tiền gửi phù hợp.
Tính và thu lãi:
Đối với khách hàng vay 2 tài khoản thì việc thu lãi được tiến hành tháng theo phương pháp trích số, có thể thu từ tài khoản tiền gửi thanh toán hoặc bằng tiền mặt và được hạch toán như sau:
Nợ: Tài khoản tiền gửi thanh toán hoặc tài khoản tiền mặt.
Có: Tài khoản thu nhập của Ngân hàng.
+ Kế toán chuyển nợ quá hạn: Hết kỳ hạn nợ người vay chưa hoàn thành kế hoạch trả nợ Ngân hàng và cũng không được xem xét để chuyển sang thu tiếp ở kỳ tiếp theo, kế toán sẽ làm thủ tục chuyển số tiền còn nợ sang tài khoản nợ quá hạn đến 180 ngày.
Nợ: Tài khoản nợ quá hạn đến 180 ngày.
Có: Tài khoản cho vay của người vay.
Khi đã chuyển sang nợ quá hạn đến 180 ngày. Ngân hàng phản bàn bạc với người vay để tính mọi biện pháp có tiền trả nợ Ngân hàng trường hợp sau 180 ngày người vay không có khả năng trả nợ thì kế toán lập phiếu chuyển khoản để chuyển sang tài khoản nợ quá hạn ở cấp cao hơn.
Nợ: tài khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày.
Có: Tài khoản nợ quá hạn đến 180 ngày.
Đối với nợ khó đòi thì xử lý theo hai trường hợp.
Nếu đã chuyển sang nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày khi có quyết định giám đốc chuyển sang nợ khó đòi thì kế toán làm thủ tục để hạch toán.
Nợ: Tài khoản nợ khó đòi.
Có: Tài khoản nợ quá hạn từ 180 ngày đến 360 ngày.
Nếu chưa chuyển sang nợ quá hạn thì không phải chuyển sang tài khoản nợ qúa hạn mà chuyển thẳng vào tài khoản nợ khó đòi.
Nợ: Tài khoản nợ khó đòi.
Có: Tài khoản cho vay.
Hợp đồng cùng một số loại giấy tờ khác của nợ quá hạn được lưu riêng trong hồ sơ nợ quá hạn của người vay.
Chương II
Thực trạng kế toán cho vay tại SGDI Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
2.1. Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của SGDI Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
2.1.1. Vài nét về sự ra đời và phát triển của SGDI Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Với xu hướng đổi mới nền kinh tế đất nước yêu cầu thiết lập SGDI tại Hà Nội làm nhiệm vụ điều hoà vốn và trực tiếp hoạt động kinh doanh trên một số lĩnh vực như tiền tệ và tín dụng, bão lãnh vay vốn nước ngoài, kinh doanh ngoại tệ. Vì vậy 06/3/1991 SGDI Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam ra đời theo quyết định 15/NHNo & PTNT tại số 4 - Phạm Ngọc Thạch - Đống Đa - Hà Nội. Là một đơn vị trực thuộc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam nhưng lại được hạch toán độc lập, có bản báo cáo riêng và phải chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình. Có thể nói ngay từ ngày đầu mới thành lập hoạt động của Ngân hàng chủ yếu là huy động vốn và cho vay. Còn các dịch vụ khác phục vụ khách hàng đang còn ít, sơ sài lạc hậu. Mặc dù nằm trên địa bàn Hà Nội là nơi có đông dân cư thu nhập cao nhưng kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng không tiến triển do không thu hút được khách hàng về với Ngân hàng mình, một mặt là họ đã quen với các Ngân hàng bạn, mặt khác là chất lượng dịch vụ chưa tốt, chưa có chế độ khuyến khích, ưu tiên khách hàng nhất là khách hàng truyền thống. Bên cạnh các khó khăn trên thì Ngân hàng có những thuận lợi đó là cơ sở vật chất khang trang lại nằm ở trung tâm thành phố Hà Nội là nơi có nhiều công ty, doanh nghiệp hoạt động thêm vào đó lại được sự ủng hộ nhiệt tình của Ngân hàng Nhà nước của ban lãnh đạo nên lãnh đạo và cán bộ công nhân viên SGDI đã cố gắng khắc phục khó khăn , trước mặt vươn lên thành một đơn vị tiên tiến như ngày hôm nay, và trở thành thành viên của thanh toán liên hàng, là đơn vị tổ chức thanh toán bù trừ. Bây giờ không chỉ là huy động vốn và cho vay nữa mà số lượng dịch vụ Ngân hàng cung cấp cho khách hàng rất đa dạng phong phú cho chất lượng cao đáp ứng tốt nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Hoạt động của SGDI từ khi thành lập đến nay ngoài việc thực hiện chức năng chung của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam còn thực hiện chức năng theo uỷ quyền trực tiếp kinh doanh đa năng trên địa bàn Hà Nội đó là:
+ Huy động vốn: Khai thác và nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài bằng VND và ngoại tệ, phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu kỳ phiếu Ngân hàng và thực hiện các hình thức huy động vốn khác theo qui định của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ, uỷ thác của Chính phủ, chính quyền địa phương và các tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài nước khi Tổng Giám đốc cho phép.
+ Cho vay: Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng VND và ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế, cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn bằng Việt Nam đồng đối với cá nhân và hộ giao dịch thuộc mọi thành phần kinh tế.
+ Kinh doanh ngoại hối: Huy động vốn, cho vay, mua bán ngoại tệ, thanh toán Quốc tế và các dịch vụ khác về ngoại hội theo chính sách quản lý ngoại hối của Chính phủ, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
+ Đầu tư dưới nhiều hình thức: Hùn vốn, mua cổ phần, liên doanh với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế. Ngoài các chức năng và nhiệm vụ chính trên thì SGDI còn thực hiện nhiều chức năng, nhiệm vụ khác nữa.
Tính đến nay thì SGDI mới hoạt động được 12 năm, với một thời gian không phải là quá dài nhưng SGDI đã đạt được những kết quả đáng kể như là: Cung cấp một khối lượng vốn lớn cho nền kinh tế, tạo được uy tín và hình ảnh đẹp về Ngân hàng mình trong lòng khách hàng và nhất là tạo được một vị trí vững chắc hay nói cách khác là tạo được một chỗ đứng trên thị trường. Có thể nói rằng SGDI đã góp một phần không nhỏ vào phát triển kinh tế đất nước và trở thành một thành viên không thể thiết được trong hệ thống Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
2.1.2. Những tác động của kinh tế xã hội đến tình hình hoạt động kinh doanh của SGDI Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Nằm trên địa bàn Hà Nội là nơi có dân cư đông đúc đó là hơn 3 triệu dân và có hơn 70 % Tổng Công ty 90, 91 đóng trụ sở như: Dầu khí, Bưu điện, Dệt may… và hàng loạt các doanh nghiệp đa sở hữu. Mặt khác Hà Nội là nơi có sự cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng đòi hỏi SGDI phải chú ý đến sự tăng trưởng kinh tế của cả nước cũng như của Hà Nội, bở vì nó đều có tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của SGDI. Cụ thể: Năm 2002. Kinh tế thủ đô Hà Nội phát triển ổn định, GDP đạt mức tăng trưởng 10,2%, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 24,3%, kim ngạch xuất khẩu tăng 7,3%, kim ngạch nhập khẩu tăng 7,9%, thu ngân sách vượt 9,5%, tổng đầu tư trên GDP chiếm 17,07% trong đó trên 80% là vốn trong nước tăng 13,4% so với năm 2001.
Các hoạt động đầu tư, sản xuất phát triển đã tạo một cơ sở thuận lợi cho tăng trưởng tín dụng huy động vốn của các tổ chức tín dụng trên địa bàn, thêm vào đó là cơ chế chính sách của ngành Ngân hàng được hoàn thiện theo hướng đồng bộ. Các quy chế cho vay, đảm bảo tiền vay, giao dịch bảo đảm, điều hành lãi suất… cũng từng bước được hoàn thiện theo hướng thông thoáng, phù hợp với thông lệ Quốc tế và tình hình thực tế của đất nước đã tạo điều kiện tốt cho khách hàng tiếp cận với hoạt động tín dụng tiền tệ, dịch vụ Ngân hàng. Bên cạnh đó thì Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương chính sách giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh và hoạt động tài chính, tiền tệ.
Tuy nhiên SGDI cũng gặp phải những khó khăn đó là: có hơn 50 tổ chức tín dụng hoạt động, nhiều Chi nhánh Ngân hàng thương mại trong nước cũng như ngoài nước có công nghệ tiên tiến đã tạo nên sự cạnh tranh gay gắt khiến bản thân SGDI càng phải nỗ lực vươn lên. Mặt khác thì tình hình kinh tế thế giới vẫn trì trệ, thiệt hại do thiên tai bão lụt những năm trước đây chưa khắc phục được, lãi suất ngoại tệ giảm, chênh lệch lãi suất bị thu hẹp. Tất cả những vấn đề nêu trên đều tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của SGDI.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy của SGDI Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh, công tác tổ chức cán bộ tại s đã kịp thời triển khai giải quyết những vấn đề cơ bản. Dưới sự điều hành và chỉ đạo của Ban Giám đốc đến năm 2002 là 185 cán bộ được bố trí sắp xếp với mô hình hoạt động gồm 9 phòng ban chức năng: Phòng kế hoạch kinh doanh, Phòng kế toán, ngân quỹ, Phòng kiểm tra, kiểm soát nội bộ, Phòng tổ chức cán bộ và đào tạo, Phòng vi tính, Phòng thanh toán Quốc tế, Phòng hành chính, Phòng chăm sóc khách hàng.
Mô hình tổng quát về cơ cấu tổ chức của SGDI Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam như sau:
Giám đốc
Các Phó Giám đốc
Phòng KHKD
Phòng kế toán
Phòng ngân quỹ
Phòng KTKS
nội bộ
Phòng
TCCB & ĐT
Phòng vi tính
Phòng hành chính
Phòng chăm sóc khách hàng
Các đơn vị trực thuộc
- Chi nhánh
- Phòng giao dịch
- Quỹ tiết kiệm
* Ban Giám đốc:
- Giám đốc phụ trách chung.
- Ba phó giám đốc.
+ Một phó giám đốc phụ trách kinh doanh.
+ Một phó giám đốc phụ trách thanh toán Quốc tế.
+ Một phó giám đốc phụ trách kế toán ngân quỹ.
* Đơn vị trực thuộc.
- Một quỹ tiết kiệm trung tâm với nguồn vốn 1600 tỷ đồng.
- Ba Chi nhánh:
+ Chi nhánh chợ Mơ với nguồn vốn 200 tỷ đồng.
+ Chi nhánh Trung Yên với nguồn vốn 150 tỷ đồng.
+ Chi nhánh Tây Sơn với nguồn vốn 80 tỷ đồng.
- Bốn phòng giao dịch và một điểm giao dịch.
+ Phòng giao dịch Bảo Ngân.
+ Phòng giao dịch Nguyễn Khuyến.
+ Phòng giao dịch Lê Văn Hưu.
+ Phòng giao dịch Định Công.
Tính đến 31/12/2002 tổng cán bộ công chức tại SGDI là 185 người trong đó số cán bộ có trình độ trên đại học chiếm 3,5% có trình độ đại học chiếm 68,5% và có trình độ cao đẳng chiếm 28%. Các phòng ban đã được qui định chức năng nhiệm vụ cụ thể:
- Phòng kế hoạch kinh doanh: Chịu trách nhiệm nghiên cứu xây dựng chiến lược khách hàng, thẩm định và đề xuất cho vay dự án tín dụng, vừa hiệu quả vừa an toàn, thường xuyên phân loại dư nợ, phân tích nợ quá hạn, tìm nguyên nhân giúp lãnh đạo chỉ đạo kiểm tra hoạt động tín dụng.
- Phòng kế toán: Thực hiện hạch toán kế toán các nghiệp vụ huy động vốn, cho vay và các nghiệp vụ kinh doanh khác của SGDI theo qui định của Ngân hàng nông nghiệp, thực hiện công tác thanh toán, xây dựng kế hoạch tài chính, quyết toán thu chi theo chế độ khoán tài chính, tổng hợp, lưu giữ hồ sơ, tài liệu về hạch toán kinh tế chấp hành chế độ báo cáo kế toán, thống kê theo qui định…
- Phòng ngân quỹ: Thực hiện các nghiệp vụ thu chi tiền mặt, vận chuyển tiền trên đường đi và quản lý an toàn kho quỹ. Thực hiện dịch vụ két sắt, nghiệp vụ nhận, cất giữ giấy tờ gía trị bằng tiền và các tài sản quý cho khách hàng, chế độ báo cáo kho quỹ theo qui định…
- Phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ: Phòng này có nhiệm vụ kiểm tra tất cả các mặt hàng hoạt động của đơn vị mình để xem đã thực hiện đúng theo qui định chưa, phát hiện gian lận, sai sót… để từ đó tìm ra nguyên nhân giải quyết giúp cho hoạt động lành mạnh, chính xác.
- Phòng tổ chức cán bộ và đào tạo: Đây là một phòng hết sức quan trọng vì nó chịu trách nhiệm phân bổ cán bộ hợp lý giữa các phòng ban để làm sao vừa gọn nhẹ lại hiệu quả cao. Mặt khác tổ chức đào tạo những cán bộ có nghiệp vụ còn non yếu, đưa vào các khoá học bổ ích giúp cho sự hiểu biết của cán bộ ngày càng được nâng cao.
- Phòng thanh toán Quốc tế: Mở và theo dõi thư bảo lãnh, thư tín dụng theo lệnh của Ban Giám đốc, thực hiện các nghiệp vụ thanh toán Quốc tế trực tiếp tại SGDI, thi nghiệp vụ chiết khấu tái chiết khấu bộ chứng từ, chấp hành chế độ báo cáo theo qui định.
- Phòng hành chính: Thực hiện công tác văn thư, hành chính, thực hiện tuyên truyền, tiếp thị, lễ tân, tiếp khách, xây dựng cơ quan văn minh lịch sự…
- Phòng vi tính: Tổ chức lập trình các chương trình ứng dụng tin học vào các nghiệp vụ của Ngân hàng, nối mạng để cập nhật thông tin từ phía khách hàng…
- Phòng chăm sóc khách hàng: Tiếp thu những ý kiến của khách hàng từ đó đưa ra các chính sách đáp ứng nhu cầu thiết yếu của khách hàng, đưa ra chế độ đối với từng loại khách hàng để từ đó khuyến khích khách hàng đến với SGDI nhiều hơn với tâm lý thoải mái hơn.
Nhờ có bộ máy bố trí hợp lý, gọn nhẹ, đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ cao nhất là sự quản lý điều hành giỏi giang của ban lãnh đạo, SGDI luôn đạt được những thành công đáng kể. Đến nay đã tạo được một thị phần đáng kể trên địa bàn, xây dựng mối quan hệ gắn bó với khách hàng truyền thống, tạo cơ sở vững chắc cho Ngân hàng phát huy sức mạnh tổng hợp, tạo niềm tin cho khách hàng.
2.1.4. Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của SGDI.
2.1.4.1. Hoạt động nguồn vốn.
Như chúng ta đã biết vốn có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Bởi vậy huy động các nguồn vốn khác nhau trong xã hội là điều kiện kiên quyết của các Ngân hàng để từ đó làm cơ sở tổ chức mọi hoạt động kinh doanh. Vốn quyết định đến quy mô hoạt động của Ngân hàng nói chung và quy mô cho vay nói riêng. Bất kỳ một Ngân hàng nào cũng vậy có nguồn vốn lớn thì thoả mãn tối đa nhu cầu vốn của khách hàng trên thị trường mà vẫn có đủ dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả thường xuyên. Điều đó sẽ góp phần tạo hình ảnh tốt đẹp của Ngân hàng trong lòng khách hàng và góp phần giữ uy tín cho Ngân hàng trên thị trường.
Mặt khác nguồn vốn của Ngân hàng dồi dào sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng cạnh tranh được với các Ngân hàng thương mại khác trên thị trường và đặc biệt là cạnh tranh với sự phát triển nhanh của thị trường tài chính. Muốn đứng vững trên thị trường nhất thiết phải có nguồn vốn dồi dào và đa dạng để một mặt thu được lợi nhuận cao, mặt khác tạo điều kiện giữ vững giá trị đồng tiền, đảm bảo cho quá trình lưu thông tiền tệ được diễn ra liên tục và ổn định.
ý thức được tầm quan trọng của nguồn vốn ngay từ ngày đầu mới thành lập đến nay SGDI NHNo & PTNT Việt Nam luôn luôn coi trọng công tác huy động vốn, coi đây là nhiệm vụ hàng đầu quyết định đến sự sống còn của SGDI. Nằm trên địa bàn Hà Nội là nơi tập trung dân cư có thu nhập cao, có các Chi nhánh, công ty SGDI luôn chủ động sát tình hình cung cầu vốn trên thị trường, tích cực vận động khích lệ mọi khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế có tiền nhà rỗi gửi vào Ngân hàng nhằm tăng cường nguồn vốn đầu tư thông qua nhiều hình thức huy động vốn khác nhau như: Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, huy động tiền gửi của dân cư và tiền gửi của các tổ chức kinh tế … với nhiều thời hạn khác nhau, lãi suất huy động luôn thay đổi linh hoạt một cách nhịp nhàng và hấp dẫn. Hiện nay SGDI không những huy động tiền gửi tiết kiệm trong giờ làm việc mà còn huy động vào lúc chiều tối tranh thủ mọi thời gian làm sao huy động được càng nhiều càng tốt. Bên cạnh đó thì SGDI còn mở thêm nhiều Chi nhánh, điểm giao dịch đó thì SGDI còn mở thêm nhiều Chi nhánh, điểm giao dịch để huy động tối đa mọi nguồn vốn trong dân cư ở khắp mọi nơi, mặt khác không ngừng nâng cao chất lượng, uy tín đối với khách hàng để từ đó khách hàng tin tưởng và Ngân hàng nhiều hơn.
Với những hoạt động trên, trong những năm qua SGDI Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam đã thu được những kết quả dáng khích lệ.
Tình hình huy động vốn của SGDI được thể hiện dưới bảng sau:
Bảng 1: Cơ cấu nguồn vốn huy động nội tệ, ngoại tệ năm 2001, 2002.
(Đơn vị: triệu đồng).
Năm
30/12/2001
31/12/2002
Chỉ tiêu
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
% so với
năm 2001.
1. Nguồn nội tệ.
+ TG không kỳ hạn
+ TG có kỳ hạn
2. Nguồn ngoại tệ.
+ TG không kỳ hạn
+ TG có kỳ hạn.
1494112
966752
527360
5550545
37758
517287
73
65
35
27
7
93
4154062
2564533
1589529
587799
28973
558826
88
61,7
38,5
12
5
95
178
165
201
5,9
- 23,2
8,03
Tổng nguồn vốn huy động nội ngoại tệ.
2049157
100
4741861
100
131
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 2001, 2002.
Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy ngay được rằng tổng nguồn vốn huy động nội tệ và ngoại tệ quy đổi tăng nhanh qua các năm từ 2049157 triệu đồng năm 2001 lên 4741861 triệu đồng năm 2002. Tốc độ tăng trưởng năm 2002 tăng 131%. So với năm 2001. Trong đó nguồn vốn nội tệ chiếm phần lớn 73% năm 2001 và 88% năm 2002, trong nguồn vốn nội tệ thì tiền gửi không kỳ hạn chiếm tỷ trọng khá lớn 65% năm 2001 và 61,7% năm 2002. Nhưng ta cũng có thể nhận thấy rằng tiền gửi không kỳ hạn có tỷ trọng giảm dần điều này chứng tỏ việc huy động vốn tiền có kỳ hạn tăng lên đó là 35% năm 2001 và 38,3% năm 2002. Còn nguồn vốn ngoại tệ thì chiếm phần nhỏ nhưng nó lại tăng đến công tác huy động ngoại tệ, trong đó thì tiền gửi có kỳ hạn chiếm đa số chứng tỏ Ngân hàng đã có những biện pháp khuyến khích khách hàng gửi có kỳ hạn điều này có một ý nghĩa rất lớn đối với Ngân hàng.
Nhìn chung thì SGDI đã chú trọng đến huy động nguồn vốn trung và dài hạn, khuyến khích các tổ chức kinh tế gửi tiền có kỳ hạn nên nguồn vốn trung và dài hạn tăng đáng kể so với những năm trước, nhưng so với tổng nguồn vốn huy động thì tỷ trọng chiếm còn ít, không lớn lắm. Do vậy SGDI cần có biện pháp khác nữa để huy động được càng nhiều vốn có kỳ hạn càng tốt. Bởi vì như ta đã biết nguồn vốn trung và dài hạn là nguồn vốn ổn định có thể giúp Ngân hàng yên tâm sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau như: đầu tư, cho vay… Bên cạnh đó thì cũng cần có biện pháp nhằm nâng cao việc huy động ngoại tệ góp phần vào việc kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng thêm sôi động và đa dạng.
Tóm lại, tốc độ và quy mô tăng trưởng nguồn vốn đạt khá tốt, cơ cấu nguồn vốn huy động tương đối hợp lý. Để đạt được những kết quả đó thì SGDI cũng đã áp dụng nhiều biện pháp trong năm 2002 như:
+ SGDI đã đa dạng hoá các phương thức huy động kết hợp với sử dụng linh hoạt công cụ lãi suất vào các thời gian kể cả chiều tối, SGDI còn tranh thủ mở thêm Chi nhánh, điểm giao dịch để có thể huy động nguồn vốn mọi nơi có như vậy mới đáp ứng tốt nhu cầu vốn cho nền kinh tế, giữ vững và đảm bảo ổn định về nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh.
+ Trả lãi huy động linh hoạt, phù hợp với thực tế, trả lãi trước, trả lãi sau, trả lãi bậc thang.
+ Ưu đãi giảm phí thanh toán đối với khách hàng truyền thống.
+ Thường xuyên bám sats khách hàng có nguồn vốn lớn, có chính sách ưu đãi để giữ nguồn.
+ SGDI đã chú trọng đến huy động nguồn vốn trung và dài hạn khuyến khích các tổ chức kinh tế gửi tiền có kỳ hạn, nên vốn huy động trung và dài hạn tăng đáng kể so với những năm trước.
Với nguồn vốn huy động được SGDI đã đáp ứng một phần vốn đáng kể cho sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế trên địa bàn, góp phần điều hoà vốn cho các Chi nhánh khác đầu tư thực hiện chương trình phát triển kinh tế của đất nước, đặc biệt là đầu tư cho phát triển nông nghiệp và nông thôn.
2.1.4.2. Hoạt động sử dụng vốn.
Đặc trưng của hoạt động kinh doanh Ngân hàng là đi vay để cho vay. Cho nên với số vốn huy động được này Ngân hàng phải làm thế nào để thu được lợi nhuận cao, hay nói cách khác là làm thế nào để số vốn này đạt hiệu quả. Bởi vì như chúng ta đã biết khi huy động số vốn này, Ngân hàng phải chịu một mức lãi suất và đến khi hết hạn thì phải trả lãi cho họ. Do đó để khỏi thiệt hại. Ngân hàng phải tìm mọi cách cho vay hoặc đầu tư ngay số tài sản này vào những dịch vụ sinh lời và số lãi thu được này, Ngân hàng sẽ dùng trả lãi cho số vốn huy động và thanh toán các chi phí trong hoạt động, phần còn lại là lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng chiếm từ 80% đến 90% lợi nhuận của Ngân hàng. Do vậy điều cấp thiết là phải nâng cao hoạt động tín dụng cả về quy mô lẫn chất lượng.
Từ khi được thành lập đến nay SGDI luôn cố gắng để thực hiện mục tiêu kinh doanh đề ra và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Theo báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2001, 2002 của SGDI thì tổng dư nợ như sau:
Bảng 2: Dư nợ năm 2001, 2001.
(Đơn vị: triệu đồng).
Năm
31/12/2001
31/12/2002
Chỉ tiêu
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
% so với
năm 2001.
A. Dư nợ TCTK
B. Dư nợ TCTK
1. Dư nợ nội tệ thông thường.
2. Dư nợ ngoại tệ
500445
464496
438344
26152
52
48
94
8
492.105
688474
624746
63728
42
58
91
9
- 1,67
48,2
42,5
143,6
Tổng dư nợ
2049157
100
1180579
100
22,34
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 2001, 2002.
Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy rằng tổng dư nợ rất nhỏ so với số vốn huy động được, điều này cũng dễ hiểu thôi, bởi vì SGDI nghiệp vụ chính là huy động vốn để điều chuyển vốn cho các Chi nhánh nên cho vay chiếm rất ít. Mặc dù vậy tổng dư nợ cũng tăng theo qua các năm đó là từ 964941 triệu đồng năm 2001 lên tời 1180579 năm 2002. Trong đó dư nợ tổ chức tín dụng giảm 1,67% so với năm 2001. Do vậy dư nợ tổ chức kinh tế tăng 48,2%. Như vậy là SGDI đã tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế vay góp phần vào việc phát triển sản xuất nền hàng hoá. Mặt khác trong tổng dư nợ tổ chức kinh tế thì dư nợ nội tệ chiếm chủ yếu 94% năm 2001 và 91% năm 2002. Còn dư nợ ngoại tệ tuy chiếm tỷ trọng ít nhưng nó lại liên tục tăng qua các năm, năm 2001 mới chỉ là 26152 mà năm 2002 đã lên tới 63728. Điều này chứng tỏ SGDI đã tăng cường mở rộng quy mô tín dụng bằng ngoại tệ. Và biện pháp để nâng dư nợ ngoại tệ là phục vụ tốt các dự án có nhu cầu ngoại tệ của các công ty 90, 91, cho vay bằng ngoại tệ.
Để xem xét tình hình sử dụng vốn trong thời gian qua ta xem xét bảng sau:
Bảng 3: Cơ cấu dư nợ theo thời gian trong năm 2001, 2002.
(Đơn vị: triệu đồng).
Năm
31/12/2001
31/12/2002
Chỉ tiêu
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
% so với
năm 2001.
1. Cho vay ngắn hạn.
2. Cho vay dài hạn.
428728
35768
92,29
7,71
578398
110076
84,01
15,99
34,91
207,74
Tổng dư nợ TCKT
2049157
100
688474
100
48,21
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 2001, 2002.
Qua bảng số liệu trên ta thấy trong tổng dư nợ tổ chức kinh tế thì cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao cụ thể 92,29% năm 2001. Và 84,01% năm 2002. Còn cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ, điều này cũng dễ hiểu vì số vốn huy động được từ trung và dài hạn là rất ít, do vậy cho vay ít là điều bình thường. Như vậy là chưa hợp lý SGDI cần chú trọng huy động nhiều vốn trung và dài hạn nữa để từ đó cho vay đối với các công trình mang tính lâu dài ổn định góp phần mở rộng quy mô cho vay.
Bên cạnh đó thì SGDI Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam cũng có những biện pháp thích hợp trong việc cho vay đối với từng thành phần kinh tế. SGDI đã kết hợp hài hoà giữa việc thực hiện chiến lược lợi nhuận của SGDI với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới. Cơ cấu cho vay đối với từng thành phần kinh tế được áp dụng một cách linh hoạt tạo động lực phát triển cho kinh tế thủ đô, điều này được thể hiện trong cơ cấu cho vay đối với từng thành phần kinh tế như sau:
Bảng 4: Dự nợ theo thành phần kinh tế trong năm 2001, 2002.
(Đơn vị: triệu đồng).
Năm
31/12/2001
31/12/2002
Chỉ tiêu
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
% so với
năm 2001.
1. Cho vay DNNN
2. Cho vay DN ngoài quốc doanh.
437842
26654
94,26
5,74
612785
75689
89
11
39,95
183,96
Tổng dư nợ TCKT
464496
100
688474
100
48,21
ơ
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 2001, 2002.
Cũng như các Ngân hàng thương mại khác SGDI Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam tập trung đầu tư tín dụng chủ yếu vào các doanh nghiệp Nhà nước sản xuất kinh doanh có hiệu quả trong cơ chế thị trường. Chính vì vậy mà tỷ trọng cho vay đối với doanh nghiệp quốc doanh cao hơn nhiều so với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Do đó khoản lợi nhuận mà SGDI thu được từ nghiệp vụ tín dụng cũng phần lớn từ cho vay các doanh nghiệp Nhà nước. Ngoài ra thì SGDI cũng đã và đang tăng dần tỷ trọng vốn tín dụng cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nhằm thúc đâỷ loại hình này hoạt động có hiệu quả.
Trong thời gian qua SGDI không những chú ý đến mở rộng quy mô tín dụng mà còn đặc biệt quan tâm đến chất lượng tín dụng nhằm ổn định kinh doanh và không ngừng tăng hiệu quả hoạt động. Chất lượng tín dụng thể hiện ở nợ quá hạn và được chứng minh qua bảng sau:
Bảng 5: Dư nợ quá hạn trong năm 2001, 2002.
(Đơn vị: triệu đồng).
Năm
31/12/2001
31/12/2002
Chỉ tiêu
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
% so với
năm 2001.
Dư nợ quá hạn
22676
2,3%
23916
2,0
5,4%
Tổng dư nợ
964941
1180579
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 2001, 2002.
Qua bảng số liệu trên ta thấy được rằng nợ quá hạn giảm dần qua các năm và chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng dư nợ. Cụ thể 2,3% năm 2001 và 2,0% năm 2002. Ta có thể nói rằng SGDI đã quan tâm đến chất lượng hoạt động tín dụng do vậy nợ quá hạn giảm.
Để đạt được những kết quả như trên không phải tự nhiên mà có mà là có sự quan tâm của Đảng và Ngân hàng Nhà nước đó là Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã ban hành mới, bổ sung nhiều cơ chế, chính sách có liên quan đến công tác cho vay như: cơ chế bảo đảm tiền vay, chính sách, quy chế cho vay, cơ chế điều hành lãi suất tín dụng, quy chế đồng tài trợ… tạo môi trường pháp lý quan trọng cho việc mở rộng và nâng cao hiệu quả đầu tư. Đặc biệt qua nhiều lần thay đổi cơ chế lãi suất và hiện nay thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận đối với cả bằng đồng Việt Nam và cho vay bằng ngoại tệ đã có tác dụng to lớn đối với hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Ngoài ra SGDI đa có nhiều biện pháp tích cực đẩy mạnh cho vay đối với các loại hình doanh nghiệp, chú trọng triển khai các phương thức và đối tượng cho vay: Đồng tài trợ, cho vay tiêu dùng. Thường xuyên phối hợp các ban ngành để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quan hệ vay vốn Ngân hàng và khách hàng đặc biệt là các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn Hà Nội. Mở rộng tín dụng đi đôi với đảm bảo an toàn hiệu quả nên hiệu quả vốn tín dụng Ngân hàng có tác dụng tích cực đối với sản xuất kinh doanh, đã chủ động tiếp cận, tư vấn cho các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp xây dựng dự án sản xuất kinh doanh, tạo thuận lợi về thủ tục cho vay và đầu tư để các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với vốn đầu tư Ngân hàng.
Chủ động tìm hiểu và tiếp cận với khách hàng, củng cố khách hàng truyền thống và chủ động thu hút thêm khách hàng mới có chính sách ưu đãi lãi suất đối với khách hàng có tiềm lực tài chính có uy tín trong quan hệ tín dụng và khách hàng vay vốn sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu có nguồn thu ngoại tệ… nhờ đó mà tốc độ tăng dư nợ đạt khá, chất lượng tín dụng ngày một nâng cao được thể hiện trong quá trình thao tác nghiệp vụ.
- Thẩm định hồ sơ, kiểm tra trước, trong, sau khi giải ngân.
- Thực hiện nghiêm túc phân tích, phân loại tín dụng, xử lý nợ.
- Thường xuyên thực hiện việc kiểm tra phân tích nợ quá hạn, đánh giá thực chất nợ xấu để trích dự phòng rủi ro và đảm bảo thực hiện lành mạnh hoá tài chính.
- Bên cạnh công tác thu nợ xấu, hoạt động tín dụng đã phân tích đánh giá và khả năng phát triển kinh doanh và tình hình tài chính của khách hàng, coi trọng việc thẩm định, chú trọng đến phương án vay vốn của khách hàng trên cơ sở đó đưa ra quyết định đầu tư phù hợp với cơ chế tín dụng và khả năng quản lý không chỉ công việc khách hàng vay mà còn đối với cả cán bộ tín dụng.
2.1.4.3. Công tác kế toán thanh toán.
Mặc dù số lượng thanh toán viên còn hạn chế nhưng SGDI đã thực hiện tốt công tác thanh toán với khách hàng, bên cạnh đó thì Ngân hàng cũng đã ký hợp đồng dịch vụ chi trả lương cho CBCNV của các doanh nghiệp, dịch vụ thu chi tiền mặt tại nhà, dịch vụ chuyển tiền… Nhờ đó mà số lượng khách hàng mở tài khoản tại SGDI ngày càng nhiều và tính đến 31/12/2002 thì có hơn 5000 tài khoản.
Thực hiện hạch toán đầy đủ, kịp thời, đúng chế độ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, phục vụ khách hàng tiện lợi, an toàn với phong cách thái độ phục vụ lịch sự, nhanh nhạy nên đã tăng uy tín cho SGDI và kéo được nhiều khách hàng đến giao dịch tại SGDI.
Luôn đảm bảo thanh toán liên hàng đi đến và đối chiếu liên hàng kịp thời, cập nhật thanh toán bù trừ.
Công tác ứng dụng công nghệ tin học và thanh toán, kế toán thực hiện tốt góp phần hạch toán, thanh toán nhanh chóng, chính sách, nâng cao năng suất lao động, giảm thiếu thời gian làm thêm giờ.
2.1.4.4. Công tác ngân quỹ.
Với tinh thần trách nhiệm và chất lượng phục vụ khách hàng ngày càng tăng, có uy tín thể hiện ở thu chi tiền mặt, ngân phiếu trong năm qua tăng trưởng cả về lượng và chất. Cụ thể:
- Tổng thu tiền mặt trong năm: 4252 tỷ đồng so với năm 2001 tăng 1568 tỷ đồng (+58%).
- Tổng chi trong năm 4254 tỷ đồng tăng so với năm 2001 là 1574 tỷ đồng (+59%).
Năm 2002 lượng thu chi tiền mặt đều tăng là do SGDI nhận dịch vụ chi trả tiền lương cho một số doanh nghiệp qua hình thức tài khoản cá nhân.
2.1.4.5. Công tác thanh toán Quốc tế.
Năm 2002, tỷ giá giữa VND và USD trên thị trường có nhiều biến động theo chiều hướng tăng liên tục. SGDI đã bám sát diễn biến tỷ giá trên thị trường để điều hành nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ. Được sự chỉ đạo sát sao của Ban Giám đốc SGDI về kế hoạch triển khai cũng như xử lý tình huống một cách linh hoạt, chủ động, kết quả năm 2002 đạt được.
- Tổng doanh số mua vào: 112 triệu USD so với năm 2001 tăng 77 triệu USD (+20%).
- Tổng doanh số bán ra: 115 triệu USD so với năm 2001 tăng 76 triệu USD (+195%).
- Doanh số thanh toán hàng xuất: 1 triệu USD so với năm 2001 giảm 2 triệu USD (- 66%).
- Doanh số thanh toán hàng nhập: 11 triệu USD so với năm 2001 tăng 69 triệu USD (+164%).
2.1.4.6. Kết quả hoạt động kinh doanh.
Trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh, SGDI đã không ngừng phấn đấu và luôn luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch được giao. Nhờ đó mà kết quả kinh doanh của SGDI không ngừng được nâng cao. Điều này thể hiện rõ trong bảng sau:
Bảng 6: Kết quả hoạt động kinh doanh của SGDI năm 2001, 2002.
(Đơn vị: triệu đồng).
Năm
31/12/2001
31/12/2002
Chỉ tiêu
Số tiền
Số tiền
% so với
năm 2001.
1. Tổng thu
2. Tổng chi
160819
128489
244891
193981
52,28
50,9
3. Quỹ thu nhập
32330
50910
57,46
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 2001, 2002
Qua bảng số liệu trên ta thấy quỹ thu nhập không ngừng được tăng lên qua các năm. Nếu như năm 2001 quỹ thu nhập là 32330 triệu đồng thì đến năm 2002 số tiền này đã tăng thêm 18580 triệu đồng với tốc độ tăng là 57,46% so với năm 2001. Trong đó tốc độ tăng của tổng thu là 52,28% so với năm 2001 còn tốc độ tăng của tổng chi là 50,9% so với năm 2001.
Tất cả những điều trên đã tạo cho SGDI một thế đứng vững chắc trong cơ chế thị trường, nâng cao sức cạnh tranh của SGDI, SGDI đã tạo được một ấn tượng tốt, một hình ảnh đẹp cho khách hàng, nhờ đó mà khách hàng của SGDI ngày đa dạng, phong phú. Tuy nhiên để có thể hoà mình vào dòng chảy của cơ chế thị trường, bám sát định hướng chiến lược hoạt động kinh doanh của toàn hệ thống cũng như trong toàn bộ nền kinh tế, để đứng vững trong cạnh tranh thì SGDI cần phải có những chiến lược linh hoạt cả về nguồn vốn cũng như dư nợ và chất lượng tín dụng, cả thu nghiệp vụ trong đó quan trọng nhất là thu lãi cho vay và thu dịch vụ Ngân hàng, cần thiết phải có một sự chỉ đạo sáng suốt của ban lãnh đạo Ngân hàng cũng như sự cố gắng nỗ lực không ngừng của cán bộ, phòng ban trong thời gian tới.
2.2. Thực trạng kế toán cho vay tại SGDI NHNo & PTNT Việt Nam
Quá trình đổi mới từ cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước trong những năm qua đã đặt ra yêu cầu cấp bách phải đổi mới hệ thống công cụ quản lý, trong đó kế toán là một công cụ quan trọng nó có vai trò tích cực công việc quản trị nguồn vốn, sử dụng vốn và việc điều hành hoạt động kinh doanh tiền tệ đáng tin cậy để Ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ, kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các Ngân hàng thương mại. Chính vì vậy, việc đổi mới và hoàn thiện công tác kế toán Ngân hàng để thích nghi yêu cầu và nội dung của quá trình đổi mới cơ chế quản trị Ngân hàng là một vấn đề thực sự bức xúc và cấp thiết.
Việc áp dụng chính thức hệ thống kế toán mới trong tất cả các tổ chức tín dụng ở Việt Nam từ cuối năm 1998 là bằng chứng khẳng định tầm quan trọng của công tác trong công tác quản trị Ngân hàng. hệ thống kế toán Ngân hàng mới, về nội dung và yêu cầu, đã có những thay đổi đã góp phần tích cực đáp ứng được nhu cầu của các nhà quản trị Ngân hàng dưới dạng thông tin kế toán tài chính trong quá trình hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Tuy nhiên trong nghiệp vụ rất phức tạp mà để triển khai được một cách tốt nhất hoạt động tín dụng thì không thể không tổ chức tốt thủ tục về kế toán cho vay, bởi đây là mảng hoạt động chính của Ngân hàng, là đầu môío quan trọng có thể cung cấp mảng thông tin kế toán quản trị cho nhà lãnh đạo Ngân hàng một cách tốt và hữu hiệu nhất.
Tại SGDI Ngân hàng NHNo & PTNT Việt Nam, hiện nay đang áp dụng QĐ số 06/QĐ - HĐQT về việc cho vay đối với khách hàng, theo đó SGDI đã sử dụng vốn một cách linh hoạt theo thành phần kinh tế, theo từng đối tượng theo các phương thức cho vay phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng trên địa bàn. Tại đây bộ phận kế toán cho vay cũng phát huy hết những khả năng của mình góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh và đảm bảo an toàn vốn cho Ngân hàng và khách hàng. Phản ánh chính xác kịp thời, đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong quá trình cho vay, đồng thời quản lý hồ sơ vay vốn của khách hàng một cách chặt chẽ. Để hiểu rõ hơn về công tác kế toán cho vay ta sẽ đi sâu vào quá trình hạch toán kế toán cho vay tại SGDI NHNo & PTNT Việt Nam.
2.2.1. Thủ tục hồ sơ trong kế toán cho vay.
Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn, sẽ tiến hành làm đợ xin vay vốn kèm theo các hợp đồng kinh tế liên quan và phương án trả nợ cùng một số tài liệu khác như Báo cáo kết quả kinh doanh… Cán bộ tín dụng sau khi tiếp nhận hồ sơ sẽ tiến hành thẩm định tính chính sách và khả thi của hồ sơ xin vay, ghi rõ ý kiếm vào tờ trình và trình lên cấp trên. Sau khi thấy điều kiện vay vốn của khách hàng là khả thi, trưởng phòng tín dụng và cán bộ tín dụng ghi rõ ý kiến thẩm định vào báo cáo trình giám đốc quyết định. Giám đốc SGDI căn cứ vào báo cáo thẩm định do phòng tín dụng trình quyết định hạn mức và lãi suất cho vay và giao cho khách hàng để ký hợp đồng… Sau đó cán bộ tín dụng chuyển cho cán bộ kế toán cho vay toàn bộ hồ sơ vay vốn gồm: hợp đồng tín dụng, giấy đề nghị vay vốn, dự án sản xuất kinh doanh, hồ sơ đảm bảo tiền vay…
Khi cán bộ kế toán cho vay nhận được hồ sơ pháp lý và hồ sơ vay vốn (gọi chung là bồ hồ sơ cho vay) từ cán bộ tín dụng chuyển đến, kế toán cho vay phải chịu trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát trước khi phát tiền vay. Quy trình này được thực hiện tại SGDI NHNo & PTNT Việt Nam như sau:
- Kiểm nhận hồ sơ cho vay, đối chiếu đúng đủ theo danh mục hồ sơ cho vay, có ghi cụ thể từng loại giấy (cái nào là bản gốc, cái nào là bản sao), kế toán cho vay có trách nhiệm kiểm soát và quản lý theo qui định cho vay hiện hành.
- Kiểm soát tính hợp lệ, hợp pháp của bộ hồ sơ cho vay:
+ Phải theo đúng mẫu đã ban hành tại các qui định cho vay của NHNo & PTNT.
+ Sự khớp đúng giữa các yếu tố trên hợp đồng tín dụng với các giấy tờ khác trong bộ hồ sơ cho vay như: tên khách hàng vay vốn, số tiền cho vay (bằng số, bằng chữ), thời gian cho vay, lãi suất, kỳ hạn trả nợ.
+ Hợp đồng tín dụng phải có đầy đủ chữ ký và dấu theo quyết định, chữ ký và dấu của khách hàng vay vốn, khách hàng có đăng ký mẫu dấu, chữ ký. Tất cả các chữ ký phải đúng với mẫu đăng ký. Sau khi kiểm nhận, kiểm tra bộ hồ sơ cho vay đầy đủ, hợp lệ, hợp pháp kế toán cho vay ký nhận trên bảng kê giao nhận hồ sơ cho vay của cán bộ tín dụng chuyển đến.
+ Kiểm tra sự khớp đúng các thông tin và dữ liệu trên máy vi tính với bộ hồ sơ cho vay.
2.2.2. Nghiệp vụ kế toán giai đoạn phát tiền vay.
Sau khi kiểm tra bộ hồ sơ không có vấn đề gì thì kế toán căn cứ vào số tiền cho vay đã ký duyệt lập chứng từ giaỉ ngân theo quy trình trực tiếp trên máy vi tính hoặc hướng dẫn khách hàng lập chứng từ nhận tiền vay thích hợp. Căn cứ vào chứng từ kế toán hạch toán.
Nợ: Tài khoản cho vay thích hợp.
Có: Tài khoản tiền mặt (nếu cho vay bằng chuyển khoản).
Sau đó giao một liên hợp đồng tín dụng kiêm khế ước vay tiền cho khách hàng, một liên kèm các chứng từ khác trong bộ hồ sơ vay vốn lưu tại bộ phận kế toán cho vay để thu nợ, thu lãi…
Trường hợp khách hàng nhận tiền vay nhiều lần trên một hợp đồng tín dụng thì kể từ lần giải ngân thứ hai trở đi trước khi lập chứng từ giải ngân kế toán cho vay phải kiểm tra đối chiếu tổng số tiền giải ngân các đợt không vượt qúa số tiền cho vay đã ký kết trên hợp đồng tín dụng.
Nếu người nhận tiền vay không phải là người đứng tên trên hợp đồng tín dụng thì phải có giấy uỷ quyền hợp pháp của người đứng tên trên hợp đồng tín dụng.
Trong năm 2002 tại SGDI tuy khối lượng công việc của kế toán cho vay hàng tháng tương đối lớn nhưng đều được thực hiện kịp thời, chính xác, mỗi nghiệp vụ kinh tế phát sinh đều được cập nhật.
2.2.3. Kế toán nghiệp vụ thu nợ, thu lãi.
* Thu nợ:
Trước kỳ hạn nợ kế toán cho vay căn cứ vào kỳ hạn nợ trên hợp đồng tín dụng lập giấy báo đến hạn và gửi cho bộ phận tín dụng chuyên quản để đôn đốc nợ đến hạn và gửi cho khách hàng. Khi đến ngày trả nợ khách hàng trực tiếp đến SGDI để nộp tiền hoặc cán bộ kế toán sẽ trích từ tài khoản tiền gửi của khách hàng để thu nợ.
Cách hạch toán như sau:
- Nếu trả bằng tiền mặt.
Nợ: Tài khoản tiền mặt (phần gốc).
Có: Tài khoản cho vay của khách hàng (phần gốc).
- Nếu trả bằng chuyển khoản:
Nợ: Tài khoản tiền gửi của người vay (phần gốc).
Có: Tài khoản cho vay của người vay (phần gốc).
Đồng thời ghi vào phụ lục hợp đồng tín dụng số tiền đã thu, ngày, tháng, năm rút số dư, ký vào nơi qui định và lấy chữ ký xác nhận của khách hàng.
Nếu khách hàng trả hết nợ, kế toán tiến hành tất toán khế ước và lưu cùng nhật ký chứng từ, được bảo đảm lâu dài theo chế độ Nhà nước qui định nhằm phục vụ cho công tác kiểm tra, kiểm soát mọi hoạt động của đơn vị. Đối với những khách hàng có tài sản thế chấp, cầm cố thì ngoài bút toán trên mỗi lần tất toán hết nợ kế toán ghi xuất tài khoản ngoại bảng: “tài sản thế chấp, cầm cố”.
Nếu khách hàng không chủ động trích tài khoản tiền gửi, nộp tiền mặt… trả nợ cho Ngân hàng thì kế toán sẽ tự động trích tài khoản của khách hàng hoặc gửi giấy báo nhờ thu để trả nợ.
Như ta đã biết, mặc dù trong công tác thẩm định cán bộ tín dụng đã tiến hành đánh giá rất kỹ trước khi tiến hành cho vay và trong khi sử dụng vốn vay cũng vậy nhưng có phải như thế là thu được nợ đâu. Đây là một vê rất nan giải không chỉ với SGDI mà còn đối với tất cả các Ngân hàng khác, nguyên nhân có thể do khách quan đưa lại nhưng cũng có thể do từ phía bản thân khách hàng như: làm ăn thua lỗ hoặc cố ý chầy lười trong công tác trả nợ.
Ta có thể thấy được tình hình thu nợ của SGDI qua bảng sau:
Bảng 7: Tình hình thu nợ của SGDI qua 2 năm 2001, 2002.
(Đơn vị: triệu đồng).
Năm
31/12/2001
31/12/2002
Chỉ tiêu
Số tiền
Số tiền
% so với
năm 2001.
1. Doanh số cho vay.
2. Doanh số thu nợ.
1310.000
1250.000
2117807
1893822
61,7
51,5
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 2001, 2002.
Qua bảng số liệu trên ta có thể nhận thấy rằng nợ chưa thu được còn nhiề, điều này ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Mặc dù đã kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay nhưng vẫn xẩy ra tình trạng nợ chưa thu được. SGDI cần tìm nguyên nhân để sớm giải quyết vấn đề.
* Thu lãi:
Lãi cho vay là nguồn thu nhập lớn nhất của Ngân hàng, vừa để nuôi sống bộ máy hoạt động Ngân hàng và hoàn thành nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước, với khách hàng gửi vốn vào Ngân hàng. Do vậy việc tính và hạch toán thu lãi tiền vay một cách chính xác, đầy đủ, nhanh chóng sẽ giúp cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng được thực hiện trôi chảy, đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, cá nhân một cách nhanh chóng giúp học tận dụng được thời cơ trong kinh doanh.
Tại SGDI Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam thực hiện thu lãi được tiến hành theo các kỳ hạn khác nhau (hàng tháng, hàng quý). Có hai phương thức tính lãi được áp dụng tại SGDI và người vay vốn. Mức lãi suất và cách trả lãi được ghi trên hợp đồng tín dụng.
- Kế toán thu lãi theo món: Thu lãi theo món là số tiền lãi thu cùng gốc khi người vay trả nợ Ngân hàng theo kỳ hạn nợ. Tuy nhiên, thực hiện nguyên tắc tính dồn tích thì hàng tháng Ngân hàng vẫn tính lãi để hạch toán vào tài khoản “tiền lãi tính dồn dự thu”, khi người vay trả nợ gốc và lãi sẽ tất toán tài khoản này.
Công thức tính lãi theo món:
Số tiền lãi = số tiền vay (gốc) x lãi suất cho vay x thời hạn vay.
Trong đó:
+ Số tiền vay: là số tiền người vay nhận nợ với Ngân hàng ghi trên hợp đồng tín dụng và hoàn trả Ngân hàng một lần khi đến hạn trả.
+ Lãi suất: Theo khung lãi suất do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước qui định, hoặc mức lãi suất cụ thể của Tổng Giám đốc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.Công bố cho từng loại cho vay hoặc theo sự thoả thuận giữa sở giao dịch I và người vay ghi trên hợp đồng tín dụng.
+ Thời hạn tính: Căn cứ vào thời gian thực tế khi người vay nhận nợ với Ngân hàng đến khi trả nợ Ngân hàng.
Hạch toán thu lãi cho vay: Hàng tháng kế toán tiến hành thu lãi của tháng đó để hạch toán vào tài khoản dự thu.
Nợ: Tài khoản tiền lãi tính cộng dồn dự thu.
Có: Tài khoản thu nhập - thu lãi cho vay.
Khi khách hàng vay trả lãi Ngân hàng hạch toán:
Nợ: Tài khoản tiền mặt (nếu trả bằng tiền mặt).
Hoặc tài khoản tiền gửi (nếu trả bằng chuyển khoản).
Có: Tài khoản tiền lãi tính cộng dồn dự thu.
Trường hợp số lãi phải thu đã hạch toán vào tài khoản “tiền lãi tính cộng dồn dự thu” đối với những khoản cho vay trung hạn nhưng người vay không thanh toán được đúng hạn ghi trong hợp đồng tín dụng thì sau 90 ngày kể từ ngày đến hạn ghi trong hợp đồng tín dụng, hoặc chưa đến 90 ngày nhưng khoản vay đã chuyển sang nợ quá hạn, nợ khó đòi thì kế toán lập phiếu chuyển khoản để ghi giảm thu số tiền đó.
Nợ: Tài khoản thu nhập - thu lãi cho vay.
Có: Tài khoản tiền lãi cộng dồn dự thu.
Đồng thời hạch toán ngoại bảng:
Ghi nhận tài khoản: “lãi cho vay chưa thu được”.
Sau khi hạch toán ngoại bảng kế toán phối hợp với tín dụng đôn đốc người vay tiếp tục trả lãi Ngân hàng. Khi người vay trả lãi kế toán căn cứ chứng từ hạch toán.
Nợ: Tài khoản tiền mặt (nếu trả bằng tiền mặt).
Hoặc tài khoản tiền gửi (nếu trả bằng chuyển khoản).
Có: Tài khoản cho vay.
Ghi xuất ngoại bảng “lãi cho vay chưa thu được”.
- Kế toán thu lãi theo tích số: Thu lãi theo tích số là việc thu lãi hàng tháng dựa trên số dư bình quân ngày trong tháng của tài khoản cho vay.
Được tính theo công thức sau:
Tiền lãi = tổng tích số x lãi suất.
Trong đó:
+ Tổng tích số: là tổng số dư của các ngày thực tế của kỳ tính lãi.
+ Lãi suất: lãi suất tháng /30 ngày.
Sau khi tính lãi kế toán lập phiếu thu tiền (nộp bằng tiền mặt) hoặc lập phiếu chuyển khoản (nếu bằng chuyển khoản) kế toán hạch toán.
Nợ: Tài khoản tiền mặt (nếu trả bằng tiền mặt).
Hoặc tài khoản đơn vị vay (nếu trả bằng chuyển khoản).
Có: Tài khoản thu lãi của Ngân hàng.
Đồng thời kế toán ghi vào phụ lục hợp đồng tín dụng số tiền thu lãi, ngày, tháng, năm và nhập dữ liệu vào máy. Phiếu thu lãi hay phiếu chuyển khoản thu lãi được lập thành hai liên, 01 phiếu tính lãi làm chứng từ hạch toán, 01 liên làm giấy biên nhận chuyển trả cho người vay khi thu lãi xong khi đã trả hết nợ gốc và lãi kế toán cho vay phải kiểm tra lại số tiền lãi đã thu trên hợp đồng tín dụng đảm bảo tổng số tiền lãi phải thu bằng số tiền lãi thực thu:
Việc tính lãi theo phương pháp tích số và tính lãi theo món vay có giá trị nhỏ số lãi thu từng tháng là rất ít. Từ đó, khối lượng công việc của kế toán cho vay, chi phí giấy tờ in, hồ sơ theo dõi nhiều. Về phía khách hàng phải chịu đi lại làm thủ tục giấy tờ mất nhiều thời gian không cần thiết. Do đó sẽ không thuận lợi cho cả Ngân hàng và khách hàng.
Trong thực tế, thì việc tất toán hết các phiếu tính lãi không dễ dàng đối với kế toán cho vay. và đôi khi việc tất toán này không được thực hiện với một số khách hàng, đặc biệt là đối với các khách hàng vay vốn của SGDI dưới các hình thức cầm cố, thế chấp (những khách hàng này không có tài khoản tiền gửi tại SGDI và thường là những người trả lãi chậm, không đúng hạn qui định của SGDI).
Với những khách hàng có uy tín có tài khoản tại SGDI và có đủ số dư trên tài khoản tiền gửi thì cán bộ kế toán chỉ việc trích tài khoản tiền gửi thanh toán để thu lãi, nếu không có đủ số dư trên tài khoản thì cán bộ kế toán sẽ hạch toán số tiền đó vào tài khoản lãi chưa thu.
Bình thường nếu khách hàng thực hiện trả lãi đầy đủ cho SGDI thì không có vấn đề gì. Nhưng trên thực tế thì việc thu lãi của SGDI thường gặp nhiều khó khăn. Có rất nhiều trường hợp khách hàng có thái độ chầy ỳ trong công việc trả lãi đều đặn hàng tháng vì một lý do nào đó có thể là chưa kết thúc chu kỳ sản xuất kinh doanh, khách hàng chưa thu được tiền về nên việc trả lãi bị trễ. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp sản xuất theo mùa vụ thì việc thu lãi hàng tháng là rất kho, trong trường hợp này cán bộ kế toán hạch toán vào tài khoản “lãi chưa thu”.
Trong Điều 20 thể lệ tín dụng ngắn hạn có qui định “nếu đơn vị vay chưa trả được lãi khi đến hạn thì Ngân hàng tính và hạch toán vào tài khoản ngoại bảng để thu dần, không nhập lãi vào gốc”.
Thực hiện qui định trên SGDI đã tiến hành thu nợ, thu lãi như sau: Nếu khách hàng có nợ trên tài khoản ngoại bảng “lãi chưa thu” và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 20391.DOC