Tài liệu Đề tài Lý luận chung về nhân cách con người trong cơ chế thị trường: Chương I : Nội dung nghiên cứu
I.Lý luận chung về nhân cách con người trong cơ chế thị trường.
1) Cơ sở lý luận:
A/ Nhân cách là gì?
Nghiên cứu về nhân cách và tính quy luật của sự hình thành nhân cách chúng ta thấy rằng:con người khi mới sinh ra chưa phải là một nhân cách,ở đó nó chỉ mang tiềm năng của một con người,của moọt cá nhân hình thành lên một nhân cách.còn nhân cách chỉ được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động xã hội,trong mối quan hệ nhiều chiều giữa cá nhân với gia đình và xã hội.
Vậy nhân cách là gì?
Nhân cách được hiểu toàn diện là đạo đức và tài năng, năng lực thể chất và năng lực tinh thần.Đó là sự thống nhất giữa mặy cá nhân với mặt xã hội ở trong mỗi con người-cá nhân-cụ thể là phẩm chất,xu hướng,khă năng,phong tháI,hành vi…bên trong,riêng biệt của mỗi cá nhân nói lên sự khác nhau giữa cá nhân này với cá nhân khác”không có nhân cách nào hoàn toàn giống nhân cách nào”.Nhân cách được hình thành và phát triển phụ vào 3 yếu tố:
Thứ nhất:Nhân cách...
14 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1118 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Lý luận chung về nhân cách con người trong cơ chế thị trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I : Nội dung nghiên cứu
I.Lý luận chung về nhân cách con người trong cơ chế thị trường.
1) Cơ sở lý luận:
A/ Nhân cách là gì?
Nghiên cứu về nhân cách và tính quy luật của sự hình thành nhân cách chúng ta thấy rằng:con người khi mới sinh ra chưa phải là một nhân cách,ở đó nó chỉ mang tiềm năng của một con người,của moọt cá nhân hình thành lên một nhân cách.còn nhân cách chỉ được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động xã hội,trong mối quan hệ nhiều chiều giữa cá nhân với gia đình và xã hội.
Vậy nhân cách là gì?
Nhân cách được hiểu toàn diện là đạo đức và tài năng, năng lực thể chất và năng lực tinh thần.Đó là sự thống nhất giữa mặy cá nhân với mặt xã hội ở trong mỗi con người-cá nhân-cụ thể là phẩm chất,xu hướng,khă năng,phong tháI,hành vi…bên trong,riêng biệt của mỗi cá nhân nói lên sự khác nhau giữa cá nhân này với cá nhân khác”không có nhân cách nào hoàn toàn giống nhân cách nào”.Nhân cách được hình thành và phát triển phụ vào 3 yếu tố:
Thứ nhất:Nhân cách phảidựa trên tiền đề sinh học và tư chất di truyền học.
Thứ hai:Môi trường xã hội là yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách.Đó là môi trường gia đình,trường học và xã hội,môi trường này có thể tác độnh trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc hình thành và phát triển nhân cách.Quan hệ giữa cá nhân và môi trường xã hội là quan hệ biện chứng.
Thứ ba: Hạt nhân của nhân cách là thế giới quan cá nhân bao gồm toàn bộ quan điểm,ly luận,niềm tin…
B/ Cơ chế thị trường là gì?
Thị trường là sản phẩm của sự phát triển kinh tế-xã hội.Vậy cơ chế thị trường là cơ cấu,chế độ.hình thức xã hội của các tổ chức và hoạt độnh kinh tế,tronh đó các mối quan hệ giữa con người với con người được biểu hiện thông qua việc mua bán trao đổi.Trong lịch sử phát triển sản xuất vật chất,thị trường (theo đúng nghĩa của từ đó) thực sự phát triển cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Từ sản xuất tự cung tự cấp,vật trao đổi vật,sang sản xuất hàng hoá là một bước tiến cuả văn minh nhân loại-bước tiến của thị trường.chính sự đổi mới nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường đã làm thay đổi môi trường xã hội là nguyên nhân hình thành nhân cách mới của con người .sự hình thành nhân cách mới này được thể hiện theo hai hướng tốt và không tốt .Vì vậy trong nền kinh tế thị trường hiện nay chúng ta cần phảI kết hợp cả 2 yếu tố “đức “và “tài” để hình thành một nhân cách thích hợp như Bác Hồ đã nói :”có đức mà khôngcó tài thì làm việc gì cũng khó;có tài mà không có đức là kẻ vô dụng”.
Thấy được sự ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường dến nhân cách của mỗi cá nhân,Đảng và Nhà nước ta đã có những nhận định và chủ trương kịp thời ,như văn kiện hội ghị lần thứ V Ban Chấp Hành TW khoá VIII của Đảng đã nhấn mạnh :”Từ nay đến năm 2000 chúng ta đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng tư tưởng,đạo đức lối sống lành mạnh trong xã hội trước hết trong các tổ chức Đảng và bộ máy Nhà nước ,trong các đoàn thể quần chúng và trong từng gia đình .phải tạo cho được sự chuyển biến mạnh mẽ về tư tưởng đạo đức lối sống – một lĩnh vực then chốt trong đời sống văn hoá dân tộc”.Đồng chí Đỗ Mười cũng từng khẳng định :”trong khi chăm lo phát triển kinh tế ,coi đó là nhiệm vụ trung tâm,chúng ta nhận thức sâu sắc vấn đề này :độnh lực tạo ra sự phồn vinh và phát triển lâu dàI của quốc gia không chỉ đơn thuần là vấn đề đầu tư công nghệ tiên tiến và tai nguyên thiên giàu có mặc dù đIều đó là quan trọng mà chủ yếu là trí tuệ con người do khả năng sáng tạo của toàn dân được hình thành từ truyền thống văn hoá Việt Nam.Đó là kho tàng trí thức tâm hồn,đạo lý ,tính cách,lối sống,trình độ thẩm mỹ của từng người và cộng đồng dân tộc”.
2) Cơ sở thực tiễn:
A/cơ chế thị trường trõngã hội chủ nghĩa .Nền sản xuất từ tự cung tự cấp vật trao đổi vật sang sản xuất hàng hoá là một bước tiến của văn minh nhân loại .Nền kinh tế thị trường trong xã hội tư bản chủ nghĩa và trong xã hội XHCN có những yếu tố chung và khong chung.yếu tố chung là chúng đều sản xuất hàng hoá và tuân theo quy luật giá trị,cùng lấy lợi ích cạnh tranh làm động lực của sự phát triển.Song thị trường TBCN và thị trườngXHCN lại có những yếu tốkhông chung quy định sự khác về chất giuữa hai loại thị trường. Thị trường TBCN chịu tác động tất yếu của chính trị tư sảnvà gắn bó với nó là kiểu quản lý kinh doanh TBCN,dẫn đến sự khác nhau căn bản cả từ điểm xuất phát đến mục tiêu cuối cùng của nền sản xuất.Thị trường XHCN chịu sự sự tác động tất yếu của chính trị vô sản và gắn với nó kiểu sản xuất kinh doanh mhằm phát triển sản xuất mà xã hội không có”đối cực “giàu - nghèo –tiên đề của sưh đối cực của giai cấp và xã hội.
Do môi trường xã hội là chủ yếu quyết định sự hình thành và phat triển nhân cách nên nhân cách con người trong cơ chế thị trường XHCN cũng căn bản khác với nhân cách con trong cơ chế thị trường TBCN.
B/kinh tế thị trường là yếu tố khách quan trong quá trình vận động và phát triển kinh tế ở Việt Nam.
Từ nhiều năm nay,nền kinh tế Việt Nam phát triển rất chậm,thậm chí có chiều hướng đình trệ nguy hiểm không đáp ứng đủ nhu cầu ngay càng đa dạng của xã hội bởi lẽ việc quản lý kinh tế được xác định bằng cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.Với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp thì Nhà nước không cho phép tồn tai thành phần kinh tế tư nhân,Từ sau đại hội Đảng lần thứ VI Đảng ta đã thừa nhận những sai lầm khuyết điểm và rút ra những bàI học kinh nhgiệm và định hướng cho nền kinh tế nước ta phát triển theo nền kinh tế nhiều thành phần.Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII một lần nữa đã khẳng định :”Để phát huy tiềm năng to lớn của nền kinh tế thị trường phải tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp ,chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý đIều tiết của nhà nước bằng pháp luật,kế hoạch,chính sáchvà các cộng cụ khác .Kinh tế thi trường ở Việt Nam tồn tại là một tất yếu khách quan ,bởi lẽ :sự phân công lao động xã hội với tư cách cơ sở của trao đổi chẳng nhưng không mất đi mà trái lại nó còn được phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu,sự phân công lao đỗngã hội không chỉ bó hẹp trong pham vi quốc gia mà nó đã vượt ra phạm vi quốc tế.
Nền kinh tế thị trường tạo ra động lực môứi dể phát huy năng lực sáng tạo.khia thác mọi nguồn lực ,thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.Nhưng nó cũng không tránh khỏi những khuyết tật vốn có của nó :Thất nghiệp ,lạm phát,khủng hoảng,sự phân hoa giàu nghèo…Chính vì vậy việc hình thành và phát triển nhân cách con người trong cơchế thị trường ở nước ta đang là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
C/Việc hình thành nhân cách con trong cơ chế thị trường:
Sự chuyển biến nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường sẽ dẫn đến những tác động lớn bao trùm lên mọi lĩnh vực của đời sống xã hoọi trong đó có lĩnh vực đạo đức,nhân cách con người.Cónhiều ý kiến khác nhau về sựảnh hưởng của nền kinh tế thị trường đến nhân cách con người .Và có thể được chia làm 3 loại ý kiến :loại thứ nhất chỏằng quan niệm đạo đức của xã hội ta đã bị mất định hướng hoặc là đang khủng hoảng.loại thứ hai cho rằng ,có biến động thái quá,có suy thoái,có tha hoá,có bi kịch .Loại thứ ba cho rằng xu hướng tiến bộ ,tích cực .
Loại ý kiến thứ nhất xuất phát từ một thực tế khách quan là các hiện tượng tiêu cực xuất hiện càng nhiều trong đời sôngs xã hội như:tham nhũng,hối lộ,lãng phí của công và các tệ nạn xã hội phát triển .nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp bị xói mòn,nhiều giá trị mới chưa được kiểm nghiệm đã được đề cao quá đáng,như “tính năng động “,”sự khôn ngoan”.”tính sáng tạo cá nhân”…Bên cạnh đó nhiều giá trị cũ đã tỏ ra lạc hậu vẫn được duy trì như thước đo”phẩm chất”của con người .trong cuộc sống đời thường người ta vẫn đòi hỏi một sự hy sinh vô điều kiện,một sự tận tụy quên mình như trong cuộc chiến tranh trước đây.Tất cả các yếu tố tạonen một thực trạng phức tạp của các giá trị đạo đức,dẫn đến một cái nhìn rất tiêu cực ở mọtt bộ phận cán bộ và nhân dân ta.
Loại ý kiến thứ hai chỉ ra xu hướng biến động tháI quá của các giá trị đạo đức hiện nay.Từ chỗ cả trong các giá trị chính trị,xã hội sang coi trọng các giá trị vật chất kinh tế,Từ chỗ con người tập thể con người xã hội làm mẫu mực sang coi trọng con người cánhân,thận chí là cá nhân ích kỷ,cá nhân chủ nghĩa.Từ chỗ lấy lý tưởng ,đạo đức làm mẫu chuyển sang coi nhẹ đạo đức phẩm chất ,coi trọng giá trị thực dụng,tôn sùng đồng tiền.coi đồng tiền là trên hết.Lấy đồng tiền là thước đo giá trị con người thayc ho giá trị truyền thống .Tiền thâm nhập vào nhiều mối quan hệ đạo đức xã hội ,thậm chí trở thành nguyên tắc sử thế và tiêu chuẩn hành vi của khong ít người .
Loại ý kiến thứ ba chỉ ra một xu hướng biến động giá trị có tính tích cực trong đời ssóng xã hội ta hiện nay.Người ta thừa nhận có sự thay đổi các giá trị từ anh hùng,dũng cảm hy sinh trong chiến tranh sang năng động sáng tạo và nhạy bén trong sản xuất kinh doanh.Tiêu biểu là những con người biết làm giàu cho mình và cho đất nước Trong đời sống xã hội ,các giá trị đạo đức đang được xắp xếp lại ,từ chỗ coi các giá trị tinh thần là trọng ,sang đề cao các giá trị tinh thần và các giá trị vật chất .Trong đó các giá trị được kết hợp hài hoà với nhau,vừa tôn trọng giá trị cộng đồng vừa tôn trọng giá trị cá nhân.Điều đó thể hiện trong chính sách của Đảng và nhà nước là khuyết khích làm giàu cho cá nhân và xã hội,nhưng không quên xoá đói giảm nghèo và không quên quan tâm đến những đối tượng được hưởng chính sách xã hội.
Như vậy ,vấn đề đạo đức và xã hội đang diễn ra phức tạp có sự đấu tranh giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu ,giữa cái thiện và cái ác ,giữa hai lối sống :ssống có ý tưởng lành mạnh,trung thực,thuỷ chung,với lối sống thực dụng ,dối trá ,ích kỷ ,ăn bám chạy theo đồng tiền .Những khía cạnh tiêu cực có cái đang phát huy tác dụng,có cái đang ở dạng khả năng.Đạo đức mới phải đấu tranh với các hệ thống đạo đức khác ,vừa phải đấu tranh tự đổi mới ,tự khẳng định mình trong điều kiện mới .Đó là tình huống đặt ra đối với nhân cách đạo đức hiện nay.
D/Sự thống nhất biện chứng giữa lợi ích và lợi ích xã hội trong cơ chế thị trường XHCN:
Sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội là nhân tố qui định nhân cách đạo đức sâu nhất ,là đặc điểm nổi bật của mối quan hệ giữa xã hội trong XHCN.
CNXH tạo đIều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cá nhân .Anghen viết:”Việc chuyển tư liệu sản xuất thành sở hữu xã hội”và”nhờ sự sản xuất có tính chất xã hội,khă năng đảm bảo cho mọi thành viên của xã hội một đời sống không những hoàn toàn đầy đủ về phương tiện vật chất và ngày càng thêm lên ,mà còn đảm bảo cho họ được phát triển tự do,đầy đủ và vận dụng được tự do,đầy đủ các năng khiếu về thể lực và trí tuệ của họ “.Đồng thời ,xã hội lại có những yêu cầu nhất định đối với cá nhân giao trách nhiệm cho mỗi cá nhân .Cá nhân thực hiện tốt nghĩa vụ của mình thì CNXH càng được củng cố và phát triển và bảo vệ vững chắc .Ngược lại CNXH càng được củng cố và phất triển thì quyền tự do ,các năng khiếu về thể lực và trí lực của cá nhân đuợc đảm bảo .Đó là mối quan hệ thống nhất khách quan trong XHCN có mặt khách quan và chủ quan.
Mặt khách quan được thể hiện ở trình độ đạy được của nền sản xuất xã hội ở mức độ tăng năng suất lao dộng xã hội cho phép thoả mãn những nhu cầu hợp lý ngày càng tăng lên của mọi thành viên trong xã hội.
Mặt chủ quan được biểu hiện ở khả năng nhận thức và vận dụng qui luật về sự kết hợp giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội –một động lực phát triển của XHCN.
Quá trình kết hợp lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội đòi hỏi phải có sự lãnh đạo ,tổ chức và quản lý một cách khoa học của Đảnh và nhà nước XHCN.Mọi trường hợp viện cớ có vẻ chính dáng về sự quan tâm đén lợi ích cá nhân ,làm mai một hoặc thui chột tài năng cá nhân ;hoặc ngược lại đề cao quá đáng lợi ích cá nhân ,hoặc chỉ biết lợi ích cá nhân ,còn lợi ích xã hội bị che lấp hoặc bị coi nhẹ đều gây những hậu quả xã hội tiêu cực,trở ngại cho sự phát triển của xã hội .
Kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội không còn mâu thuẫn nhất định .trong khi lựa chọn để giảI quyết một vấn đề gì có liên quan đến lợi ích cá nhân thì phảI đặt nó vào trong bối cảnh thực tế của xã hội của nền kinh tế hàng hoá.
II . Thực trạng của vấn đề
Những tác động của cơ chế thị trường đến ngân cách con người
A/Theo hướng tích cực:
Kinh tế thị trưòng đề cao trách nhiệm cá nhân,nhất là trách nhiệm về mặt vật chất của người cán bộ quản lý.nói đến trách nhiệm của người cán bộ quản lý.Nói đến trách nhiệm của người cán bộ quản lý trước hết là nói đến trách nhiệm cá nhân của họ.ĐIều đó biểu hiện ở trách nhiệm đối với công việc được giao phó .Tinh thần trách nhiệm của người cán bộ quản lý phải được biểu hiệnở hiệu quả của công tác quản lý ,các hanh động quản lý,của các quyết định quản lý .Hiệu quả (mà trước hết là hiệu quả về mặt vật chất)trong nền kinh tế thị trường được biểu hiện ra một cachs rõ ràng,được cân,đong ,đo, đếm một cách khách quan hơn.Từ đó một mặt khắc phục được xem xét,đánh giá tinh thần trách nhiệm của người cán bộ quản lý một cách chung chung trừu tượng ; mặt khác làm cho ‘đức” và”tài”,trong đó “đức” là gốc.Nhưng có “đức” mà không có “tài”,không có đủ năng lực đIều hành công việc,hoặc không phấn đấu nâng cao năng lực để đáp ứng nhu cầu của công việc thì sớm muộn cũng bị kinh tế thị trường đào thải .kinh tế thị trường làm cho động cơ và hiệu quả quản lý gắn liền với nhau,thống nhất với nhau.
Kinh tế thị trường là kinh tế “mở”.Tính đa dạng và đa phương hoá cao của nó đã có tác dụng đẩy lùi sự níu kéo,tính trì trệ với bản chất bảo thủ của cơ chế tập trung quan liêu .Đây là những tác động không phảI như “cú hích”từ bên ngoài mà là những yếu tố “nội lực”làm chuyển biến toàn bộ nền kinh tế sống động .Đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý kinh tế sống động,kéo theo sự năng đông tư duy của các chủ thể lao động .
Kinh tế thị trường là điều kiện kích thích tăng năng suất lao động không ngừng .Sự tìm tòi sáng tạo sáng tạo của cá nhân trong sản xuất luôn được khuyến khích .Đây là nhân tố tích cực mà cơ chế quan liêu bao cấp còn bị kìm hãm .Nói một cách khác ,cơ chếthị trường là cơ sở để phát triển tính năng động của cá nhân ,lợi ích cá nhân được kích thích ,được đảm bảo.Do vậy trong cơ chế thị trường con người tự vươn lên tìm tòi sáng tạo trong lao động sản xuất để sản phẩm ngày càng được nâng cao cả về chất lượng và số lượng.
Cơ chế thị trường tạo điều kiện cần thiết cho con người vươn lên,đòi hỏi mỗi người phải học tập ,rèn luyện bản thân ,rèn luyện tay nghề để có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường.Ngược lại
,nền kinh tế thị trường cũng rất nghiêm khắc đào thảI những sự trì trệ,bảo thủ,sự lạc hậu,lỗi thời của những con người và những sản phẩm kinh tế kém mang tính chất cổ hủ cả về nội dung cũng như hình thức.
Những thành tựu mà chúng ta dạt được trong công cuộc đổi mới là:hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ,xoá bỏ về cơ bản cơ chế tập trung quan liêu bao cấp,bước đầu chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước,giả tốc đọ lạm phát ,tâưng nhanh xuất khẩu và có bước phát triển mới về nền kinh tế đối ngoại,khởi động tiến hành dân chủ hoá ,giữ vữngđược cuộc sống vật chất.Còn đứng về phương diện đạo đức xã hội, sự ảnh hưởng tích cực của nền kinh tế thị trường là từng bước hình thành nhân cách tự chủ,tự lập trong con người,rèn luyện con người ý thức lao động,sáng tạo.Đó là những phẩm chất đạo đức về nghĩa vụ,ý chí,lòng dũng cảm,tính nguyên tắc nà khiêm tốn ở mỗi con người trong đời sống xã hội.
B/Theo hướng tiêu cực
Đứng về góc độ đạo đức xã hội,nền kinh tế thị trường tuy được định hướng XHCN vẫn có những mặt tiêu cực không thể tránh khỏi.Khi đất nước chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường có sự quản lý,điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN, đã kéo theo những biến đổi tương ứng của ý thức xã hội ,trong đó có ý thức đạo đức.Nhiều quan niệm đạo đức khác nhau với nhau những qui phạm đạo đức khác nhau xuất hiện,tồn tại đan xen cùng với đạo đức XHCN.Trong thời gian ngắn của sự chuyển đổi kinh tế – xã hội đó,đạo đức XHCN – có thể nói –có lúc đã không giữ được vị trí chủ đạo trong xã hội.
Khi nói đến mặt tráI của nền kinh tế thị trường C.Mac đã chỉ ra rằng :”Đó là một thứ tự do mậu dịch không có lương tâm”,nó làm cho quan hệ giữa con người “Chìm ngập trong băng goá của sự tính toán lợi kỷ” bởi vì “ngoài quan hệ lợi hại trần truồng,ngoài sự giap dịch tiền mặt lạnh lùng vô tình sẽ chẳng còn mối liên hệ nào khác”.
Kinh tế thị trường có những mặt mâu thuẫn với bản chất tốt đẹp của CNXH.Nền kinh tế thị trường lấy lợi ích (nhấn mạnh lợi ích kinh tế ,coi trọng lợi ích cá nhân) làm động lực của sự phat triển .Nhân tố này tự bộc lộ hai mặt.Mặt tích cực là khơi dậy tính sáng tạo của tư duy .Để thực thi lợi ích,mỗi cá nhân và tập thể phải trăn trở tìm tòi chủ động trong tư duy,năng động đổi mới cách làm ăn nhằm đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh.Đây là quá trình khơi lên nguồn lợi ích một chất men kích thích làm khá nhiều cán bộ quản lý kinh tế và một số cán bộ khác”lao vào”bất chấp thủ đoạn,bất chấp pháp luật,bất chấp lương tâm.Nhu cầu càng lớn thì sự hấp thụ của chủ thể đối với lợi ích càng lớn,do đó động cơ tư tưởng thúc đẩy hành động của con người ngày càng mạnh mẽ.Diều này rất đúng với nhận xét của T.J.Dunning mà C.Mac đã đẫn lạI trong”Tư bản”: “Với một lợi nhuận thích đáng thì tư bản trở nên can đảm.Được đảm bảo 10% lợi nhuận thì người ta có thể dùng tư bản vào đâu cũng được ,được 100% thì nó hoạt bát hẳn lên,được 50% thì nó lên thật sự táo bạo,được 300% thì không còn tội ác nào là nó không dám phạm dù có nguy cơ bị treo cổ”.Nhận xét trên đây không chỉ đúng với động cơ hành động của nhà tư bản mà còn đúng với cả động cơ hành động của con người nói chung . C.Mac cũng đãnhận xét: “Tất cả cái gì mà con người đấu tranh để dành lấy đều dính liền với lợi ích của họ”.
Kinh tế thị trường đề cao qúa mức tự do cá nhân làm nảy sinh chủ nghĩa cá nhân,chủ nghĩa lợi kỷ cực đoan,chủ nghĩa cá nhân với triết lý “Sống chết mặc bay”mâu thuẫn với chủ nghĩa tập thể,là kẻ thù của chủ nghĩa tập thể.
Chính chủ nghĩa các nhân,chủ nghĩa lợi kỷ cực đoan đẩy người cán bộ quản lý rơI vào tình trạng tha hoá bản chất,là môi trường thuận lợi làm nảy sinh và phát triển những hiện tượng lợi dụng chức quyền ngày càng trần trọng.Nó còn là mảnh đất của chủ nghĩa thực dụng vô đạo đức.
Cơ chế thị trường làm cho con người trở nên sùng bái đồng tiền quá mức.lấy đồng tiền làm thước đo quan hệ đạo đức giữa người với người,làm tha hoá phong cách ,lối sống của người cán bộ của người cán bộ ,nô lệ của đồng tiền là giá trị chân thực duy nhất để đo giá trị của bản thân và của người khác.
Như vậy,kinh tế thị trường cùng với những tác động tích cực còn có những tác dộng tiêu cực tới sự phát triển nhân cách ,cá tính con người con một cách phiến diện vì hoạt động của con người bị định hướng vào mục yiêu làm giàu bất chính . Tính thực dụng sẽ cản trở thậm chí loạI trừ những giá trị văn hoá ,giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc.Tất cả những đIều này sẽ dần dần làm cho nhiều giá trị văn hoá nói chung,giá trị đạo đức của dân tộc nói riêng bị phai nhạt,bị phá huỷ.
2)vai trò của chủ thể xã hội –cá nhân trong việc định hướng nhân cách
Sự chuyển đổi hệ tư tưởng dẫn tới sự chuyển đổi hệ giá trị xã hội và giá trị con người :con người từ phục tùn chuyển sang tự chủ,sáng tạo;từ dựa trên tình nghĩa chuyển sang dựa trên lý trí và đân chủ ;từ tìm cách hoà đồng chuyển sang tôn trọng cả cá tính và bản lĩnh riêng…Các chuẩn mực con người mới đòi hỏi khôn chỉ phát triển từng mặt rieng lẻ mà phảI là cá nhân phát triển hàI hoà thể chất,tinh thần ,trí tuệ ,thẩm mỹ,…khắc phục lối sống thụ động,hạn hẹp làm cơ sở hình thành lối sống tích cực ,phát triển ý thức ,luôn vươn lên làm chủ và xây dựng cuộc sống mới,xuất hiện những nhân cách mới.
Xã hôihoá chính là một quá trình nhờ đó nền văn hoá nhân loại được truyền bá từ thế hệ này sang thế hệ khác .Đó là quá trình gián tiếp học hỏi,qua cá nhân có thể phát triển bản chất xã hội và có khả năng tham gia vào đời sống xã hội.Mối quan hệ diễn ra suốt chu trình của con người .Mỗi giai đoạn của cuộc sống có đặc điểm ,có những bước chuyển quá độ hoặc những khủng hoảng cần vượt qua .Còn nhân cách con người được hiểu một cách toàn diện là tài đức ,là sự thống nhất giữa mặt cá nhân và mặt xã hội của mỗi con người cụ thể là thái độ ứng sử của con người trước hiện tượng.Bằng sự hoạt động của bản thân,dưới sự hướng dẫn ,giáo dục của thế hệ trước,của các quan hệ xã hội,tập thể ,nhóm ,con người hình thành và phát triển hoàn thiện nhân cách con người .Đó là kết quả phối hợp nhịp nhàng giữa sức mạnh sáng tạo cá nhân với tinh thần đoàn kết bền vững của cả cộng đồng.
III . GiảI pháp
Để khắc phục những mâu thuẫn của sự hình thành và phát triển nhân cách trong cơ chế thị trường chúng ta cần phải áp dụng một số biện pháp quan trọng:
Thống nhất giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội,chú trọng đầu tư phát triển con người nhất là đầu tư cho giáo dục,nâng cao dân chí,phải làm tốt việc quản lý lĩnh vực tư tưởng .Cụ thể là phảI xây dựng cho được ở người một thế giới quan khoa học,một ý thức đạo đức mới.Sự hình thành nhân cách bị qui định bởi tổng thể những điều kiện kinh tế-xã hội và bởi một hệ thống giáo dục do chính những điều kiện kinh tế-xã hội đó qui định.Tuy vậy,để xây dựng nhân cách đạo đức,trước hết cần phảI tính đến những nhân tố cơ bản qui định sự hình thành và phát triển nhân cách đạo đức để từ đó có những biện pháp khả thi sau:
1)Thực hiện cơ chế thị trường là thừa nhận tính hợp lý của việc teo đuổi lợi ích cá nhân.Vì con người luôn luôn theo đuổi lợi ích cá nhân nên khi họ vươn tới những giá trị đạo đức cao cả thì buộc họ từ bỏ việc theo đuổi lợi ích cá nhân.Sự tách rời giữa đạo đức và lợi ích khiến cho sự hoạy động đạo đức của nhân cách bị hạn chế – con người hướng vào suy tư đạo đức nhiều hơn là hành vi đạo đức thực tế.Ngày nay,cơ chế thị trường làm biến đổi tính chất của việc giải quyếtquan hệ lợi ích giữa cá nhân và lợi ích giữa cá nhân và lợi ích xã hội.Một trong những đặc đIểm tiêu biểu cho co chế thị trường là chỗ mục tiêu của việc tham gia hoạt đoọng thị trường là mhằm thoả mãn tốiđa lợi ích cá nhân,kích thích tính tích cực hoạt động của nhân cách .Việc tham gia tích cực vào hoạt động kinh tế –xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường sẽ làm cho những năng lực nhân cách phát triển .Đến lượt mình sự phát triển nhân cách độc lập chính là đIều kiện cho sự phát triển những năng lực đạo đức của con người.
Con người vừa là mục tiêu ,vừa là động lực của sự phát triển kinh tế – xã hội.Với tư cách là mục tiêu ,sự phát triển của con người phải là thước đo của những chính sách kinh tế và xã hội theo định hướng “Tất cả vì con người”.Tuy nhiên,cơ chế thị trường với sự khuyến khích lợi cá nhân ,tự nó đã chứa bao khả năng và trên thực tế đã dẫnđến sự phát triển nhân cách rõ rệt nhất.Đó là sự chênh lệch giữa một bên là trí tuệ,sự khôn ngoan,những năng lực thực tiễn bên kia là sự xuống cấp của ý thức công dân,trách nhiệm và tình cảm đạo đức …Bởi vậy để khắc phục nghịch lý của sự phát triển nhân cách ,tạo điều kiện cho nhân cách đạo đức phát triển ,việc hoàn thiện cơ chế thị trường có sự điều tiết theo định hướng XHCN là tất yếu và cần thiết .
2) Sự phát triển nhân cách đạo đức ,xét đến cùng phải được thể hiện trong những hành vi đạo đức thực tế .Hành vi đạo đức là hành vi được thể hiện bởi sự điều tiết của ý thức đạo đức mà trong đó các chuẩn mựcđạo đức giữ vai trò trung tâm.Với tính cách là quá trình cải biến sâu sắc sự nghiệp CNH-HĐH đất nước đòi hỏi và tất yếu sẽ sản sinh ra một hệ chuẩn mưch đạo đức mới thích ứng với cơ chế thị trường và những điều kiệcủa xã hội hiện đại .Việc xác lập hệ chuẩn mực đạo đức mới cần phải tuân nguyên tắc về tính kế thừa lịch sử ,phảI là sưh tiếp tục và vượt qua truyền thống .Điều đó càng được khẳng định trong văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII:”trong đIều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế phải đặc biệt quan tâm giữ gìn va nâng cao bản sắc văn hoá Việt Nam,kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức,tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc,đấu tranh chống sự thâm nhập của các loạI văn hoá độc hạI,những khuynh hướng sùng ngoại ,lai căng ,mất gốc .Khắc phục tâm lý sùng báI đồng tiền ,bất chấp đạo lý ,coi thường các giá trị nhân văn”.
3)Cùng với sự tăng lên của sản xuất hàng hoá ,khối lượng tiền và uy lực của đồng tiền cung tăng lên.Đồng tiền vốn có giá trị nhiều mặt của nó cho cả các cá nhân và cho sự phát triển kinh tế – xã hội trong mọi thời đạI .Tiền là vậtvô tri vô giác nhưng khi được thần thánh hoá và được coi là giá trị duy nhất thì sẽ biến thành tai hoạ ,trở thành lực lượng thống trị làm tha hoá con người.Và một khi uy lực của đồng tiền càng lớn thì khả năng phá hoại những mối quan hệ tinh thần đạo đức giữa người và người càng mạnh.Như vậy,đổi mới ,mở cửa lĩnh vực đạo đức với tính cách là một trong những nội dung hạt nhân của đời sống tinh thần trở thành vấn đề “điểm nóng”mà coi nhẹ chức năng xã hội của nó ,định kiến vô lý với nó,không ủng hộ việc làm giàu chính đáng trong khi vấn vương và bằng lòng với cái nghèo thanh bạch. Chính vì vậy vậy Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định vấn đề này trong văn kiện đạI hội Đảng toàn quốc :”kinh tế thị trường có những mặt tiêu cực mâu thuẫn với bản chất của CNXH. Đó là xu thế phân hoá giàu nghèo quá mức,là tâm lý sùng bái đồng tiền mà chà đạp lên đạo đức ,nhân phẩm …Đi vào kinh tế thị trường phảI kiên quyết đấu tranh,khắc phục.hạn chế tối đa những khuynh hướng tiêu cực đó.
Sự tồn tại của con người bao giờ cũng gắn liền với sự tồn tại những nhu cầu của họ.Độ chênh nhau giữa nhu cầu sống của mọi người với khả năng hiện thực hiện của xã hội là mâu thuẫn này làm nảy sinh những vấn đề công bằng xã hội hoặc bất công xã hội.Công bằng xã hội là phương thức đúng đắn nhất để làm thoả mãn một cách hợp lý những nhu của tầng lớp xã hôI và các cá nhân xuất phát từ khả năng hiện thực của những điều kiện xã hội nhất định.ở nước ta hiện nay công bằng xã hội không có nghĩa là một sự phân phối đồng đều mà là tạo cơ hội đồng đề cho mọi người phát huy hết khả năng của mình.
Nhân cách khi hình thành một cách tự nhiên thì bao giờ cung chưa hoàn thiện .vì vậy giáo dục và giáo dục đào tạo là một trong những phương thức giải pháp quan trọng nhất,trực tiếp quyết định sự hình thành ,phát triển nhân cách đạo đức.
Giáo dục nói chung có vai trò to lớn đối với sự phát triển phương diện đạo đức của nhân cachs .Giáo dục thực chất là quá trình chuyển văn hoá xã hội thành văn hoá cá nhân,biến những năng lực nhân tính đã được đối tượng hoá như là tài sản của xã hội thánhức mạnh bên trong của mỗi con người.Sự phát triển toàn diện đó sẽ là cơ sở cho sự phát triển đạo đức của nhân cách.
Giáo dục đạo đức trực tiếp biến các nguyên tắc,các chuẩn mực đạo đức xã hội thành niềm tin,nhu cầu và động cơ bên trong mỗi con người nghĩa là sức mạnh đạo đức của nhân cách.Trong đIều kiện hiện nay,khi cơ chế thị trường chưa hoàn thiện ,khi các giá trị và phản giá trị đạo đức còn đan xen lẫn nhau thì giáo đạo đức càng trở nên cấp thiết .Giáo dục đạo đức sẽ góp phần tích cực vào việc khắc phục tình trạng tự phát trong lĩnh vực đạo đức.Cũng như giáo dục nói chung ,giáo dục đoạ đức đòi hỏi được tiến hành mộtcách đồng bộ ,có hệ thống với những hình thức thích hợp cho các đối tượng,các lứa tuổi,các lĩnh vực hoạy độngkhác nhau của con người .NgoàI những yêu cầu chung,những loại hình giáo dục khác,giáo dục đoạ đức chỉ thực sự có hiệu quả khi nó bao chứa trong mình sự thống nhất của hai phương diện:phương diện truyền đạt và phương diện nêu gương.Phương diện truyền đạt phảI cung cấp cho đối tượng giáo dục những hiểu biết cần thiết về đạo đức,các nguyên tắc ,chuẩn mực đạo đức trong các lĩnh vực hoạt động cụ thể của đối tượng giáo dục.một sự hiểu biết đầy đủ và cần thiết như vậy sẽ tạo cơ sở cho hoạt đọng đạo đức.
Phương diện nêu gương phảI tác động vào ý thức con người bằng chính nhữg tấm gương người toót việc tốt .Những tấm gương này chính là diện thân của các giá trị, các chuẩn mực đạo đức.Nhờ thế chúng có sức mạnh to lớn trong việc biến các kiến thức mà con người thu nhận được qua truyền đạt thàn suức mạnh đạo đức bên trong nhân cách.Trong điều kiện hiện nay,những biểu hiện tiêu cực rong đời sống xã hội đang là một vấn đề nhức nhối trên bình diện đạo đức,thì hiệu quả của giáo dục đạo đức bằng phương pháp nêu gương có ý nghĩa.Tạo ra thật nhiều những tấm gương đạo đức là những tấm gương biết giải quyết một cách hài hoà quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội,tạo râ một phong trào nơi gương đạo đức chính là hiệu quả cho giáo dục đạo đức.
Như vậy vấn đề đao đức xã hội hiện nay đang diễn ra phức tạp,đấu tranh giữa cáI tiến bộ và cáI lạc hậu,giữa cái thiện và cái ác,giữa hai lối sống: Lố sống co lý tưởng,lành mạnh ,trung thực,sống bằng lao động của mình,có ý thức chăm lo cho lợi ích tập thể,với lối sống thực dụng,dối trá ích kỷ,ăn bám chạy theo đồng tiền …Những cái đang phát huỷ tác dụng (khía canh tiêu cực ),có cái đang ở dạng khả năng .Đạo đức mới vừa phảI đấu tranh vớicác hệ thống đạo đức khác,vừa phảI đấu tranh tự đổi mới,tự khẳng định mình trong điều kiện mới.Đó là tình huống mà công cuộc đổi mới đặt ra cho đạo đức,đòi hỏi công tác giáo dục phải được tăng cường để góp phần tích cực vào quá trình đổi mới.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,cùng với việc chủ động tự giác từng bước xây dựng và tạo lập những kết cấu xã hội,những thể chế phù hợp để có một nền kinh tté thị trường phát triển lành mạnh – kinh tế thị trường theo định hướng XHCN- phải tăng cường công tác giáo dục về những phẩm chất đạo đức cơ bản,đó là sự hình thành về lý tưởng ,niềm tin vào CNXH,gắn liền với quá trình đấu tranh cách mạng có như vậy chúng ta mới phát huy được những tác động tích cực và ngăn chặn ,hạn chế ttối đa nhwngx ảnh hưởng tiêu cực của thị truờng .
Chương II : Kết luận
Kinh tế thị trường là môi trường kinh tế thuận lợi cho việc xác lập địa vị chủ thể của cá nhân,phát huy năng lực cá nhân,hình thành tính tích cựctự giác của cá nhân nhười lao động,giảI phóng cá nhân hoạt động kinh tế phụ thuộc vào kế hoạch đoọc đáo,lôi cuốn họ vào thị trường trao đổi và trở thành chủ thể của sự vận hành kinh tế.Chúng ta chủ động chuyển sang nền kinh tế thị trưòng,mở cửa giao lưu với bên ngoài,và đó là một trong những định hướng cơ bản để đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn,lạc hậu .Muốn thế thì chúng ta phải chủ động tiếp thu cái mới ,chúng ta đừng vội quay lưng lại với cội rễ của mình,đừng từ bỏ những gì mà ông cha .Chúng ta đã tạo dụng nên. Bởi vì “đi vào kinh tế thị trường ,hiện đại hoá đất nước mà xa rời giá trị truyền thống sẽlàm mất bản sắc dân tộc,đánh mất bản thân mình,trở thành cái bóng mờ của người khác ,của dân tộc khác”.
Kinh tế thị trường làm biến đổi những chuẩn mực đánh giá năng lực và phẩm chất con người .Bản chất của kinh tế là cạnh tranh ,năng động và sáng tạo không ngừng .Nó đòi hỏi mỗi người phải nỗ lực,độc lập và sáng tạo trong hoạt động của mình để cóthể vượt lên thực tại,đứng vững và khẳng định mình trong mọi thử thách.
Như vậy trong điều kiện nền kinh tế thị trường,cái thiện đã được bổ sung những cái mới cả vế nội hàm và ngoại diện của nó,cái thiện mang ý nghĩa thiết thực cụ thể.
Song cơ chế thị trường luôn tác động hai mặt tích cực,cả tiêu cực đến nhân cách con người. Nó làm cho con người thoát khỏi sự rằng buộc chậm chạp của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp,nhưng nó cũng làm suy thoái nhân cách của không ít những người bị vòng xoáy của lợi ích,ma lực của đồng tiền cuốn đi mà quên tất cả .
Nền kinh tế thị trương nước ta hiện nay ,mặc dù có những mặt,những yếu tố làm chúng ta chưa yên tâm,chưa hàI lòng,song nó đã có những đóng góp vào sự phát triển đất nước,kích thích sự năng động của con người và toàn bộ xã hội .Bởi vậy cùng với những thắng lợi bước đầu của cuộc công cuộc đổi mới ,chúng ta càng cảm thấy rằng việc vận dụng cơ chế thị trường để từ thực tiễn của cuộc sống,từ yêu cầu tất yếu khách quan ,tất yếu của sự phát triển đất nước.
Như vậy con người muốn tồn tại trong cơ chế thị trường phải tập trung đầy đủ cả “đức”và “tài”.
Việt Nam là nước đang trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN nên có thể rút ra cho mình uf kinh nghiệm thực tế của các nước khác về giảI quyết mối quan hệ giữa kinh tế và xây dựng các quan hệ xã hội lành mạnh…Về mặt này ,có thể nói rằng chúng ta vẫn còn chưa muộn,nếu có phương hướng và giải pháp đúng đắn,đảm bảo tạodựng nền kinh tế thị trường,đẩy mạnh CNH-HĐH theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
TàI liệu tham khảo
Sách triết học Mác-Lênin tập II.
Về kinh tế thị trường-Đinh Nguyên Khiêm- Tạp chí nghiên cứu trao đổi.
Sự biến đổi thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức-Nguyễn Thế Liệt-Nguyễn Chí Mỹ.
Giáo dục đạo đức với việc hình thành và phát triển nhân cách trong giai đoạn hiện nay-Trần Sĩ Phán-Giáo dục lý luận số 1/1999.
Kinh tế thị trường trong sự nghiệp phát triển đất nước-Nguyễn Hữu vượng-tạp chí triết học số 4/1999.
Về một số giảI pháp xây dựng nhân cách đạo đức hiện nay-Nguyễn văn phúc-Tạp chí triết hcọ số 4/1999.
Vấn đề bảo vệ các giá trị đạo đức truyền thống trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam – Lê Thị tuyết Ba – Tạp chí triết học số 1/1999.
Vấn đề thừa kế và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta – Nguyễn văn lý – Tạp chí triết học số 2/1999.
ĐảgCộng sản việt nam – Văn kiện hội nghị lần thứ V Ban Chấp Hành TW ,Khoá VIII
Mục lục
Chương I. Nội dung nghiên cứu
I. Lý luận chung về nguyên tắc con người trong cơ chế thị trường
1. Cơ sở lý luận
2. Cơ sở thực tiễn
II. Thực trạng của vấn đề
1. Những tác động của cơ chế thị trường đến nhân cách con người
2. Vai trò của chủ thể xã hội– cá nhân trong việc định hướng nhân cách
III. Giải pháp
CHương II. Kết luận
Tài liệu tham khảo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 60248.DOC