Tài liệu Đề tài Lý luận chung về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp: Lời nói đầu.
Theo đánh giá của Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX về định hướng phát triển các thành phần và các vùng kinh tế ở nước ta 2001 – 2010, Đảng ta khẳng định cần tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế; tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và một số cơ sở công nghiệp quan trọng. Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, đi đầu ứng dụng tiến bộ KHCN, nêu gương về năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật. Phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những ngành sản xuất và dịch vụ quan trọng, xây dựng các công ty nhà nước đủ mạnh để làm nòng cốt trong những tập đoàn kinh tế lớn, có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Với vị trí của các doanh nghiệp đang ngày càng được khẳng định trong nền kinh...
62 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1292 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Lý luận chung về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu.
Theo đánh giá của Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX về định hướng phát triển các thành phần và các vùng kinh tế ở nước ta 2001 – 2010, Đảng ta khẳng định cần tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế; tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và một số cơ sở công nghiệp quan trọng. Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, đi đầu ứng dụng tiến bộ KHCN, nêu gương về năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật. Phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những ngành sản xuất và dịch vụ quan trọng, xây dựng các công ty nhà nước đủ mạnh để làm nòng cốt trong những tập đoàn kinh tế lớn, có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Với vị trí của các doanh nghiệp đang ngày càng được khẳng định trong nền kinh tế quốc dân, mà đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước thì nội dung đầu tư phát triển đã trở thành 1 vấn đề cần phải quan tâm hàng đầu. Trong thời gian qua đầu tư phát triển trong doanh nghiệp đã đạt được những kết quả to lớn, đã đưa nền kinh tế tiến thêm những bước thêm vững chắc hơn trên con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên công tác thực hiện đầu tư phát triển có hiệu quả hay không cũng vẫn tồn tại nhiều vướng mắc trong các doanh nghiệp. Vì vậy, trong khuôn khổ buổi thảo luận ngày hôm nay chúng tôi xin được đưa ra những nhìn nhận về nội dung cơ bản của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp và những đánh giá tình hình đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước hiện nay. Từ đó chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp nhằm để nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển trong doanh nghiệp cho phù hợp với tình hình phát triển của đất nước ta hiện nay.
Nội dung.
Chương 1: Lý luận chung về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp.
I _ Các vấn đề cơ bản của đầu tư phát triển trong nền kinh tế nói chung và trong doanh nghiệp nói riêng.
Các khái niệm.
1.1 Đầu tư , đầu tư phát triển.
Đầu tư theo nghĩa chung nhất là sự bỏ ra hay sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm đạt các kết quả ,thực hiện được các mục tiêu nhất định trong tương lai.
Tuy nhiên đứng dưới các góc độ khác nhau thì nó cụ thể như sau:
-Theo quan điểm tài chính : Đầu tư là một chuỗi các hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn sinh lời.
-Theo góc độ tiêu dùng : Đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại để thu về một mức độ tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai.
Để có thể hiểu rõ bản chất của hoạt động đầu tư chúng ta cần làm rõ những yếu tố như :Nguồn lực đầu tư,hoạt động đầu tư , đối tượng của hoạt động đầu tư .
-Nguồn lực đầu tư:Theo nghĩa hẹp được hiểu là bao gồm tiền vốn ,còn theo nghĩa rộng nó bao gồm vốn bằng tiền , đất đai,máy móc,lao động.
Mục tiêu của hoạt động đầu tư :bao gồm những lợi ích về mặt tài chính gắn liền với doanh nghiệpchủ đầu tư ;những lợi ích về mặt kinh tế và những lợi ích về mặt xã hội mà do hoạt động đầu tư tạo nên.
Đối tượng của hoạt động đầu tư : Đầu tư vào tài sản hữư hình (tài sản vật chất), đầu tư vào tài sản vô hình (nghiên cứu và phát triển,dịch vuh,quảng cáo, thương hiệu), đầu tư vào tài sản sản xuất hay đầu tư vào tài sản lâu bền.
1.2; Đầu tư phát triển .
-Khái niệm: Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng cácc nguồn lực tài chính,nguồn lực vật chất,nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng ,sửa chữa nhà cửa và kiến trúc hạ tầng,mua sắm trang thiét bị và lắp đặt chúng trên nền bệ và,bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực,thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhăm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế-xã hội,tạo ra việc làm và nâng cao đời ssống của mọi thành viên trong xã hội.
Đầu tư phát triển làm gian tăng tài sản cho nền kinh tế mà không phải là sự chu chuyển giữa đơn vị này sang đơn vị kia của nền kinh tế.
1.3;Vốn đầu tư:Căn cứ theo nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng:Vốn đầu tư được hiểu là tiền tích lũy của xã hội của các cơ sở sản xuất,kinh doanh dịch vụ là tiền tiết kiệm của dân cư và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở sẵn có và tạo ra tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội.
1.4; Nguồn vốn đầu tư: Là thuật ngữ dung để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và của xã hội.Nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
2;Vai trò của ĐTPT.
2.1; Trên gác độ vĩ mô
2.1.1. Đầu tư là nhân tố quan trọng tác động đên tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Về mặt lý luận,hầu hết các tư tưởng,mô hình và lý thuyêt về tăng trưởng kinh tế đều trực tiếp hoặc gián thiếp thừa nhận đầu tư và việc tích luỹ vốn cho đầu tư là một nhân tố quan trọng cho việc gia tăng năng lực sản xuất,cung ứng dịch vụ cho nền kinh tế.Từ các nhà kinh tế học cổ đỉên như Adam smith trong cúôn “của cải của các dân tộc” đã cho rằng vốn đầu tư là yếu tố qưuyết địng chủ yếu của số lao động hữư dụng và hiệu quả .V iệc gia tăng quy mô vốn đầu tư sẽ góp phân quan trọng ttrong việc gia tăng sản lượng quốc gia và sản lượng bình quân mỗi lao động.Theo mô hình của Harrod-domar,mức tăng trưởng của nền kinhtế phụ thuộc trực tiếp vào mức gia tăng vốn đầu tư thuần.
g =∆Y/Y =∆Y/y*∆K/∆K=∆Y/∆K*∆K/Y=1/ICOR*I/Y
Từ đó cỏ thể suy ra:
∆Y=1/ICOR*I
Trong đó :
∆Y :mức gia tăng sản lượng
∆K:Mức gai tăng vốn đầu tư
I:Mức đầu tư thuần
K:Tổng quy mô vốn của nền kinh tế
Y:Tổng sản lượng của nền kinh tế
ICOR:Là hệ số gia tăng vốn-sản lượng.
Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng thể hiện cũng rất rõ nét trong tiến trình đổi mới của nền kinh tế nước ta thời gian qua.Với chính sách đổi mới,các nguồn vốn đầu tư cả trong nước và nưứoc ngoài ngày càng được đa dạng hoá và gia tăng về quy mô,tốc độ tăng truởng của nền kinhtế đạt được cũng rất thoả đáng.Cuộc sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận dân cư ngày cang được cải thiện
2.1.1; Đầu tư tác động đến chuyển dich cơ cấu kinh t ế.
Đầu tư có tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua nhuqngx chính sách tác động đến cơ cấu đầu tư.Trong điều hành chính sách đầu tư,nhà nước có thể can thiệp trực tếp như thưc hiện chính sách phân bổ vốn,kế hoạch hoá,xây dựng cơ chế quản lý đầu tư hoặc điều tiết gián tiếp qua các công cụ chính sách như thuế.tín dụng,lãi xuất để xác lập và định hướng một cơ cấu đầu tư dẫn dắt sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngày càng hợp lý hơn.
Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy nếu có chính sách đầu tue hợp lý sẽ tạo đà cho sự tăng trưởng và chuyển dioch cơ cấu kinh tế .Tỷ trọng phân bổ vôn cho các ngành khác nhau sẽ mang lại kết quả và hiệu quả khác nhau.Vốn đầu tư cũng như tỷ trọng vốn đầu tư cho các ngành và các vùng kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến sự chuyển dịcg cơ cấu kinh tế ngành,cơ cấu kinh t ế vùng và cũng đồng thời ảnh hưởng đến tốc đọ tăng trưởng chuing của cả nền kinh t ế.Không những thế, giữa dầu tư và tăng trưởng kinhtế cũng như dịch chuyển cơ cấu kinh tế có mối quan hệ khăng khít vớid nhau.Việc đầu tư vốn nhằm mục đích mang lại hiệu quả kinh tế cao,tăng trưởng nhanh trtên phạm vi toàn bộ nền kinh tế cũng sẽ dẫn đến hình thành cơ cấu đầu tư hợp lý.Ngựoc lại tăng trưởng kinh tế cao kết hợp với việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư hợp lý sẽ tạo nguồn vốn đầu tư dồi dào, định hướng đầu tư vào các ngành hiệu quả hơn.
2.1.3; Đầu tư tác động làm tăng năng lực khoa học công nghê của đất nưứoc
Đầu tư và đặc biệt là ĐTPT trực tiếp tạo mới và cải tạo chất lượng và năng lục sản xuất,phục vụ của nền kinhtế và các đơn vị cơ sở.Chính vì vậy, đâu tư cũng là điều kiện tiên quyết cho quá trình đổi mới và nâng cao năng lực công nghệ của quốc gia theo cơ cấu kĩ thuệt của đầu tư,trong giai đoạn vừa qua,tỷ trọng giá trị máy móc thiết bị trong tổng vốn đầu tư của VN chiếm khoảng 28%(xây duẹng chiếm khaỏng 57%)
Cơ cấu này chưa phản ánh đúng yêu cầu CNH-HĐH,tuy nhiên nó cũng là con ssố không nhỏ tạo ra năng lực công nghê cho toàn bộ nền kinh tế. Đối với đầu tư nứoc ngoài,hoạt động của doanh nghiệp FDI thường gắn với các chương trình chuyển gioa công nghệ trong đó nước nhận vốn cũng có thể là điểm đến của một số công nghệ và phương thức dản xuất mới. Đối với chi đầu tư của nhà nươc cho nghiên cứu khoa học và phát triên công nghệ mới mặc dù vẫn còn nhỏ về quy mô,thấp về tỷ trọng (giai đoạn 2001-2005là 7,6 nghìn tỷ đồng chiếm 0.9% vốn đầu tư toàn xã hội) nhưng ở đây cũng là một ttrong những biểu hiệ n của đầu tư và ở mức độ nhận định nó cũng có tạo ra và tăng cường năng lực khoa học công nghệ nước ta (đạt được những thành tựu nhất định trong lĩnh vực nông nghiệp: giống mới, công nghệ ren…)
2.1.4; Đầu tư vừa tác động đến tông cung vừa tác động đến tổng cầu của nền kinh tế.
Đầu tư (i)là một trong những bộ phận quan ttrọng của tổng cầu (AD=C+I+G-M).Vì vậy khi quy mô đầu tư thay đổi cũng sẽ xó tác động trực tiếp đến quy mô tổng cầu.Tuy nhiên tác động của đầu tu đến tổng ccầu là ngắn hạn.Khi tông cung chưa kịp thay đổi,sự tăng lên của đầu tư sẽ làm cho tổng cầu tăng kéo theo sự gia tăng của sản lượng và giá cả các yếu tố đầu vào.Trong dìa hạn khi các thành qủa của dầu tư đã được huy động và phát huy tác dụng,năng lực sản xuất và cung ưúng dịch vụ gia tăng thì tông cung cũng sẽ tăng lên.Khi đó sản lượng tiềm năng sẽ tăng và đạt mức cân bằng ttrong khi giá cả của sản phẩm sẽ có xu hướng đi xuống.Sản lượng tăng ttrong khi giá cả giảm sẽ kchs thích tiêu dùng và hoạt động sản xcuất cung ứng dịch vụ của nền kinh tế.
2.2;Trên góc độ vi mô
Trên goc độ vi mô thì đầu tư là nhân tố quyết định sự ra đời,tồn tại và phát triển của các cơ sở sản xuát cung ưng dịch vụ và của cả các dơn vị vô vị lợi. Để tạo dựng cơ sở vật chất ,kỹ thuật cho sự ra đời của bất kì cơ sở đơn vị sản xuất và cung ứng dịch vụ nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng,cấu trúc hạ tầng,mua săm.lắp đặt máy móc thiêt bị tiến hành các công tác xây dựn cơ bản khác và thuẹc hiện các chi phí gắn liền với hoạt động trong một chu ki chua các cơ sở vật chất kỹ thuât vừa được tạo ra. Đây chính là biểu hiện cụ thể của hoạt động đầu tư đối với các đơn vị đang hoạt động,khi cơ sở vật chất kyc thuật của các cơ sở này hao mòn hư hỏng ccần phải tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới cac cơ sở vật chất kỹ thuật đã hư hỏng hao mònnày hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triên khoa học kỹ thwtj và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội.phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho cac trang thiết bị cũ đã lôic thời. Đó chính là hoạt động đầu tư.
3) Nguồn hình thành và cách phân chia vốn đầu tư phát triển:
Vốn đầu tư là một nguồn lực quan trọng cho hoạt động đầu tư .Đứng trên góc độ vĩ mô ,nguồn hình thành vốn đầu tư phát triển bao gồm nguồn vốn trong nước va nguồn vốn nước ngoài .
Nguồn vốn đầu tư trong nước được hình thành từ phần tích lũy của nội bộ nền kinh tế .Nguồn vốn trong nước bao gồm nguồn vốn nhà nước và nguồn vốn khu vực dân doanh:
a,Nguồn vốn trong nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước,nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước.Đầy là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn và có ý nghĩa quan trọng cho họat động đầu tư phát triển kinh tế Việt Nam thời gian qua.
_Nguồn vốn ngân sách nhà nuớc :Đây là nguồn đầu tư chủ yếu,quyết định sự phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã hội.Là nền tảng để thực hiện CNH-HĐH đất nước.Nhà nước của bất kỳ quốc gia nào cũng quan tâm đến hoạt động đầu tư này.Đặc biệt là ở các nước đang phát triển như nước ta là yếu tố vật chất có ỹ nghĩa quyết định để thực hiện tốt nhất các chủ trương,chính sách phát triển KTXH của đất nước.Ở VN đây là điều kiện vật chất để ổn định và củng cố chế độ chính trị ,nâng cao hiệu lực,hiệu quả quản lý nhà nước cũng như không ngừng cải thiện đời sống nhân dân.
Vốn ngân sách đầu tư hiện nay chia làm hai loại:
-Vốn ngân sách TW dung để đầu tư xây dựng các dự án(trồng rừng đầu nguồn,rừng phòng hộ,các công trình chủ yếu của nền kinh tế…)
-Vốn ngân sách nhà nước hỗ trợ cho các địa phương đầu tư vào những vấn đề quan trọng của địa phương.
Trong những năm gần đây,quy mo vốn đầu tư nhà nước không ngừng gia tăng nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau.Trong những năm 2001-2004 đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn chiếm khoảng 25%,công nghiệp 7,9,GTVT và bưu chính viễn thông28,7%.
Tuy nhiên nguồn vốn này có một số hạn chế như hiệu quả sử dụng thấp tỷ lệ thất thoát cao,vốn đầu tư thường giàn trải,không trọng tâm trọng điểm,hệ thống các cơ quan quản lý vốn ngân sách chồng chéo,chức nang không rõ giữa quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh.Do vậy chúng ta cần có một số giải pháp như làm thế nào để tăng nền kinh tế cao và liên tục,tận thu chống thất thu thuế,phân bổ NS cho chi đầu tư và chi thường xuyên cho hợp lý
-Nguồn vốn tín dụngđầu tư phát triển :
Tín dụng đầu tư là quan hệ tín dụng trong đó nhà nước là người đi vay để đảm bảo các khảon chi của ngân sách đồng thời nhà nước cũng là người cho vay để đảm bảo các chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế.Là nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước .Ngoài ra nó còn có tác dụng khuyến khích các doanh nghiệp quan tâm hơn đến hiệu quả đầu tư vì với cơ chế tín dụng các doanh nghiệp vay vốn phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay.Do có yếu tố ưu đãi nên khuyến khích các DN đầu tư theo định hướng của nhà nước
Trong những năm gần dây đã sử dụng nguồn vốn này hỗ trợ cho các chương trình đầu tư lớn.Đầu tư cho các dự án thuộc các ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 51,6%,vào các ngành nông lâm thủy sản chiếm 16,2%,GTVT chiếm 28,8%,các dự án khác chiếm 4,2%.Qúa trình này góp phần tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HDH.
-Nguồn vốn tự huy động của các DNNN:Là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế,các DNNN vẫn nắm giữ một khối lượng vốn nhà nước khá lớn.Trong những năm 2001-2004 vốn này chiếm 32,3% so với tổng vốn đầu tư nhà nước,trong đó chủ yếu là vốn khấu hao cơ bản của các doanh nghiệp,trích lợi nhuận sau thuế cho ĐTPT và một phần vay từ các tổ chức tín dụng.Nguồn vốn đầu tư cho doanh nghiệp dùng để đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm
Theo đánh giá nguồn vốn nguồn vốn khu vực nhà nước trong nhiều năm nay chiếm tỷ trọng trên 56,6%tổng số vốn đầt tư
b,-Nguồn vốn từ khu vực tư nhân.
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư,phần tích lũy của các doanh nghiệp dân doanh,của hợp tác xã.Theo đánh giá sơ bộ khu vực kinh tế ngaòi nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà chưa được huy động triệt để.Việc phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu của một số ngân hàng thương mại quốc doanh cho thấy chỉ trong thời gian ngắn đã huy động được hàng ngàn tỷ đồng và hàng chục tỷ đồng từ khu vực dân cư.Cụ thể năm 2004 đạt 69,5 tỷ đồng ,ngoài ra tính đến cuối năm 2004 tổng số doanh nghiệp dân doanh đăng kí hoạt động lên tới 160000 doanh nghiệp với xấp xỉ qui mô vốn là 140-150 nghìn tỷ đồng .
-Vốn của hộ gia đình:Là phần thu nhập của hộ gia đình không bị tiêu dùng được tiết kiệm để đầu tư và tiền tích luỹ từ các hoạt động kinh doanh mà không phải là công ty.
c,-Thị trường vốn:
Là nơi diễn ra các hoạt động mua,bán chứng khoán và các giấy ghi nợ trung hạn và dài hạn.Đây không phải là các sự việc mua đi bán lại hay chuyển đổi các giấy tờ có giá từ tay của một chủ thể này sang tay một chủ thể khác một cách đơn thuần nếu nhìn nhận từ bên ngoài.Về thực chất,đây là quá trình vận động tư bản ở hình thái tiền tệ -là quá trình chuyển tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.Thị trường vốn mà cốt lõi là thị trường chứng khoán như một trung tâm thu gom mọi nguồn tiết kiệm của từng hộ dân cư,thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp,các tổ chức tài chính,chính phủ TW và chính quyền địa phương tạo ra một nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tế.Đây được coi là một lợi thế mà không một phương thức huy động nào có thể làm được.Gần đây việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp ra công chúng đã huy động được một nguồn vốn đáng kể.Kênh huy động này ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia.Tính đến cuối tháng 11-2005 tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp đạt trên 2000 tỷ đồng.Trong đó hầu hết hầu hết các dơn vị phát hành đều là những tổn công ty lớn như tổng công ty dầu khí phát hành 300 tỷ đồng,xây dựng song đà 200 tỷ đồng,điện lực VN 200 tỷ đồng công nghiệp tàu thủy VN 1000tỷ đồng.
2.2:-Nguồn vốn đầu tư nước ngoài:
Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là dòng lưu chuyển vốn quốc tế đó là quá trình chuyển giao nguồn lựuc tài chính giữa các quốc gia trên thế giới .Theo tính chất lưư chuyển của vốn ,có thể phân loại các nguồn vốn nước ngoài chính như sau:
-Tài trợ phát triển chính thức ODF:nguồn vốn này bao gồm viện trợ phát triển chính thức ODA và các hình thức tái trợ phát triển khác .Dòng vốn này phải qua chính phủ quốc gia tiếp nhận hoặc được bảo lãnh chính thức,dòng vốn phải đáp ứng cho đầu tư phát triển,duy trì và tạo mới để đảm bảo sự hoạt động của nền kinh tế và các cơ sở,nó không bao hàm các nguồn vốn mang tính chất nhân đạo như cứu nạn thiên tai…mà nó mang tính chất dài hạn,trong đó ODA chiếm phần lớn trong ODF .
Nguồn vốn ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển.So với các hình thức tài trợ khác ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn vốn ODF nào khác .Nguồn vốn này thường lớn nên có tác dụng nhanh và mạnh đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu kinh tế xã hội của nước nhận đầu tư.Tuy nhiên tiếp nhận vốn này thường gắn với sự trả giá về mặt chính trị và tình trạng nợ nần chồng chất nếu sử dụng không hiệu qủa vốn vay và nếu thực hiện không nghiêm ngặt việc trả nợ vay.
Thời gian qua,việc thu hút ODA phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH ở VN đã diễn ra trong bối cảnh trong nước và quốc tế có nhiều thuận lợi.Kể từ năm 1993 cho đến hết năm 2000 VN đã tổ chức được 8 hội nghị các nhà tài trợ với tổng số vốn cam kết là 17,54 tỷ usd.Với quy mô tài trợ khác nhau,hiện nay VN có45 đối tác hợp tác phat triển song phương và hơn 350 tổ chức quốc tế và phi chính phủ đang hoạt động.
Mặc dù có tính ưu đãi cao song sự ưu đãi của loại vốn này thường đi kềm với các điều kiện ràng buộc tương đối khắt khe(tính hiệu quả của dự án ,thủ tục chuyển giao vốn và thị trường…)Vì vậy chúng ta cần xem xét kỹ khi tiếp nhận viện trợ và cần có nghệ thuật thỏa thuận để có thể nhận vốn ,vừa bảo tồn được các mụa tiêu có tính nguyên tắc.
-Nguồn vốn tín dụng từ các NHTM: Điều kiện huy động loại vốn này không dễ dàng như nguồn vốn ODA .Tuy nhiên nó lại có ưu điểm rõ ràng là không gắn liền với các ràng buộc về chính trị xã hội.Mặc dù vậy thủ tục vay tương đối khắt khe,thời gian trả nợ nghiêm ngặt,mức lãi xuất cao là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo.
Do được đánh giá là mức lãi xuất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh ngân hàng ,nguồn vốn tín dụng của các NHTM thường được sự dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu và thường là ngắn hạn.Một bộ phận của nguồn vốn này có thể dung để đầu tư phát triển.Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài,đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sang sủa.Đối với VN việc tiếp cận với các nguồn vốn này vẫn còn khá hạn chế.
-Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI).Đây là nguồn vốn quan trọng cho đâu tư và phát triểnb không chỉ đối với các nước nghèo mà cả đối với các nước phát triển.Nguồn vốn này khác cơ bản với các nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận.Thay vì nhận lãi xuất trên vốn đầu tư,nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả.Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên nó có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới,đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về kỹ thuật,công nghiệp hay cần nhiều vốn.Vì thế nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình CNH,chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở nước nhận đầu tư.Do vậy để sử dụng hiệu quả vốn đầu FDI tùy thuộc chủ yếu vào cách thức huy động và quản lý sử dụng nó tại nước tiếp nhận đầu tư chứ không phải ở ý đồ của người đầu tư.
Không những là nguồn bổ sung vốn quan trọng,nguồn vốn FDI còn đóng góp vào bù dắp thâm hụt tài khoản vãng lai và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.Theo đánh giá,tỷ trọng đóng góp của vốn đầu tư trực tiếp nứớc ngoài vào GDP có xu hướng tăng dần qua các năm.Năm 1992 la 2% htì năm 1996 là 7,9% và đến năm 1999 là 10,3%.Bên cạnh đó nó còn đóng góp vào ngân sách một phần đáng kể .Đặc biệt nó góp phần tích cực vào việc hoàn chỉnh ngày càng đầy đủ và tốt hơn hệ thống cơ sở hạ tầng giao thong vận tải,bưu chính viễn thông …dần dần hình thành khu công nghiệp,khu chế xuất,khu công nghiệp cao góp phần thực hiện CNH-HDH và đô thị hóa các khu vực phát triển,hình thành các khu dân cư mới,tạo việc làm cho ngừoi lao động tại các địa phương.
-Thị trường vốn quốc tế: Với xu hướng toàn cầu hóa ,mối lien kết ngày càng tăng của của các thị trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc gia đã tạo ra vẻ đa dạng của các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu.Thực tế cho thấy,mặc dù tất cả các nguồn vốn đều có sự gia tăng về khối lượng nhưng luồng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán có mức tăng nhanh hơn các luồng vốn khác.
Đây là phần tích luỹ từ các đối tượng kinh tế ở nước ngoài được chính phủ và DN Việt Nam huy động trong hoạt động đầu tư phát triển của mình thông qua hình thức phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty(ra nước ngoài hoặc phát hành trên nội bộ VN nhưng cho phép người nưosc ngoài mua).
Đối với VN,đây là một hình thức huy động vốn vốn khá mới mẻ và còn phức tạp.Tuy nhiên nguồn vốn này có thể huy động với số lượng lớn trong thời gian dài để đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế mà không bị ràng buộc về điều kiện tín dụng,tạo cho VN tiếp cận với thị trường vốn quốc tế… bên cạnh đó hệ số tín nhiệm của VN thấp nen nếu phát hành thì trái phiếu của VN sẽ chịu lãi xuất ở mức cao và viêt nam vẫn còn qúa ít kinh nghiệm trong lĩnh vực này.
Bởi vậy đối với hình thức huy động này chúng ta cần phải nghiên cứu,lựa chọn loại hình trái phiếu phát hành,thời gian đáo hạn thị trường phát hành và nhà bao tiêu phù hợp với điều kiện của VN .
2.2,Sự phân chia sử dụng vốn đầu tư phát triển:Để tạo thuận lợi cho quản lý việc sử dụng vốn đầu tư nhằm đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao,có thể phân chia vốn đầu tư thành các khoản mục sau:
-Trên giác độ quản lý vĩ mô vvốn đầu tư được phân thành 4 khoản mục lớn như sau:
+Những chi phí tạo ra tài sản cố định(mà sự biểu hiện bằng tiền là vốn cố định).
+Những chi phí tạo ra tài sản lưu động (mà sự biểu hiện bằng tiềnlà vốn lưu động) và các chi phí thường xuyêngắn với một chu kỳ hoạt động của tài sản cố định vừa được tạo ra.
+Những chi phí chuẩn bị đầu tưchiếm khoảng 0,3-15%vốn đầu tư.
+Chi phí dự phòng.
-Trên giác độ quản lý vi mô tại các cơ sở,những khoản mục trên đây lại được tách thành những khoản chi tiết hơn:
+Những chi phí tạo ra tài sản cố định bao gồm:
.Chi phí ban đầu cho đất đai.
.Chi phí xây dựng,sửa chữa nhà cửa ,cấu trúc hạ tầng.
.Chi phí mua sắm,lắp đặt thiết bị ,dụng cụ mua sắm phương tiện vạn chuyển
.Chi phí khác.
+Những chi phí tạo ra tài sản lưu động bao gồm :
.Chi phí nằm trong giai đoạn sản xuất như chi phí mua nguyên vật liệu,trả luơng người lao động,chi phí điện nước …
.Chi phí nằm trong giai đoạn lưu thông gồm có sản phẩm dở dang tồn kho,hàng hóa bán chịu,vốn bằng tiền.
+Chi phí chuản bị đầu tư bao gồm chi phí nghiên cứucơ hội đầu tư,chi phí nghiên cưu tiền khả thi,chi phí nghiên cứu khả thi và thẩm định dự án đầu tư.
+Chi phí dự phòng.
+Biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn: Qua phân tích trên ta thấy tăng số lượng vốn là rất quan trọng nhưng thường có giới hạn về nguồn còn nâng cao hiệu quả đầu tư quan trọng hơn nhiều vì vừa hết ít vốn vừa gần như không có giới hạn.
Để nâng cao hiệu quả đầu tư trên cơ sở giảm suất đầu tư xuống là nhiệm vụ rất khó khăn bởi.Muốn vậy ,cần có giải pháp quyết liệt ở tất cả các khâu của quá trình đầu tư và đặc biệt quan tâm đến khu vực vốn đầu tư nhà nước.
Trước hết ở khâu quy hoạch chúng ta phải quy hoạch đồng bộ,phải kết hợp quy hoạch theo ngành và theo cùng lãnh thổ tránh trùng chéo,dàn trải,đồng thời phải có tầm nhìn để tránh việc vay vốn đầu tư xây dựng đưa vào hoạt động chưa được mấy năm,chưa trả đựợc nợ đã phải di chuyển khỏi khu vực đông dân hoặc không gần nguồn nguyên liệu ...
Khắc phục tình trạng công trình dự án chưa có kế hoạch,thiết kế chưa được duyệt,chưa có vốn đã thi công gây ra nợ đọng triền mien,rồi cũng lại đến tay nhà nước!Ngay cả nguồn huy động trái phiếu các địa phương cũng phải thiết kế trả nợ,tránh dồn vào ngân sách trung ương.
Khắc phục tình trạng thất thoát trong đầu tư xây dựng hiện đang ở mức rất lơn mà báo chí,chính phủ.quốc hội đac đề cập rất nhiều.Khắc phục tình trạng khép kín để đảm bảo tính minh bạch công khai.
Khắc phục tình trạng thi công kéo dài làm cho công trình vừa chậm đi vào hoạt động,vừa lỡ thời cơ,trong khi lãi chồng lên vốn vay.
Giảm thiểu chi phí giải phóng mặt bằng hiện đang quá lớn,ở những công trình còn lớn hơn cả vốn đầu tư cho công trình chính.
Một điều quan trọng hàng đầu là đổi mới cơ chế đầu tư,chuyển việc cấp phát vốn ngân sách sang tín dụng,giảm thiểu tín dụng ưu đãi để giảm thiểu cơ chế “xin-cho”,vì đây là kẽ hở cho thất thoát,tham nhũng.
Đặc điểm của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp.
Đầu tư phát triển: là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính,nguồn lực vật chất.nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng ,sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng ,mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ,bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực ,thực hện chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực mới cho nền kinh tế -xã hội,tạo ra việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội .
Đầu tư phát triển có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia ,là một lĩnh vực hoạt động nhằm tạo ra và duy trì sự hoạt động của các cơ sở vật chất ,kỹ thuật của nền kinh tế.Đối với cơ sở sản xuất ,kinh doanh dịch vụ ,hoạt động đầu tư là một bộ phận trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tăng thêm cơ sở vật chất kỹ thuật mới ,duy trì sự hoạt động của cơ sở vật chất ,kỹ thuật hiện có.và vì thế ,là điều kiện để phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ của các doanh nghiệp.
Hoạt động đầu tư phát triển có các đặc điểm khác biệt với các loại hình đầu tư khác ,đó là:
a, Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn và để nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư.Đây là cái giá phải trả khá lớn của hoạt động đầu tư phát triển
Bởi trong suốt quá trình đầu tư nó vẫn nằm dưới dạng các công trình dở dang .Do vốn lớn nên các nhà đầu tư cần phải cân nhắc lựa chọn đầu tư vào đâu cho có hiệu quả cao nhất,phải nghiên cứu thị trường…
Vốn lớn nằm khê đọng trong suốt quá trình đầu tư nên ảnh hưởng đến chi phí sử dụng ,quản lý vốn (thời gian,chi phí ,kết quả,chất lượng) và khả năng cạnh tranh trên thị trường nếu vốn nằm khê đọng quá dài thì sẽ bỏ lỡ thời cơ và cơ hội cạnh tranh.
b,Hoạt động đầu tư phát triển mang tính chất lâu dài :
-Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khia các thành quả của nó phát huy tác dụng thường kéo dài trong nhiều năm tháng.Nó phụ thuộc vào giai đoạn thực hiện đầu tư.
-Thời gian vận hành các kết quả đầu tư cho đến khi thu hồi đủ vốn hoặn thanh lý tài sản cũng kéo dài .Điều này chịu tác động của cung cầu thị trường ,của các yếu tố đầu vào hay đầu ra của dự án.
-Thời gian thực hiện đầu tư dài còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố không dự đoán ảnh hưởng đến quá trình thực hiện :môi trường ,điều kiện tự nhiên .pháp lý.kinh tế ,chính trị.Điều này có thể thany đổi kết quả và hiệu quả của đầu tư.
c,Hơn nữa thời gian của hoạt động đầu tư phát triển kéo dài nên mang tính rủi ro cao.Vì vậy cần phải phân tích kỹ để loại trừ hạn chế tới mức thấp nhất các rủi ro như:-Trong trường hợp rủi ro nhất thì hiệu quả của dự án là bao nhiêu;những rủi ro nào có thể xảy ra nhất.
-Trong trường hợp thuận lợi nhất thì hiệu quả đạt được bao nhiêu để bù lại trong trường hợp rủi ro.
Tuy nhiên đối với những yéu tố rủi ro bất định ,bất khả kháng thì chúng ta phải chấp nhận
d,Các thành quả của các hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm,có khi hang năm ,hang ngàn năm và thậm chí tồn tại vĩnh viễn như các công trình nổi tiếng thế giới (Kim tự tháp cổ Aicập,Nhà thờ La Mã ở Rôm,Vạn lý thường thành ở Trung Quốc,Ăngcovat của Cămpuchia…)Điều này nói lên giá trị lớn của các thành quả hoạt động đầu tư phát triển .
e,Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên.
Do đó các điều kiện về địa lý ,địa hình tại đó có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư.
Thí dụ :qui mô đầu tư để xây dựng nhà máy sang tuyển than ở khu vực có mỏ than tùy thuộc rất nhiều vào trữ lượng của mỏ than.Nếu trữ lượng than của mỏ ít thì qui mô của nhà máy cũng không nên lớn để đảm bảo cho nhà máy hang năm hoạt động hết công suất với số năm tồn tại của nhà máy theo dự kiến trong dự án.
Vì thế cần có chủ trương đầu tư ,quyết định đầu tư đúng đắn và đầu tư phải theo quy hoạch ,kế hoạch ,cần phải có cơ sở khoa học để lựa chọn địa điệm thực hiện dự án để có thể khai thác tối đa lợi thế của địa diểm mà doanh nghiệp hoạt động trên đó.Nếu công trình không tiến hành cẩn thận có thể ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế không chỉ một hai năm mà lâu dài.
e, Để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao đòi hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị .
Sự chuẩn bị này đựoc thể hiện trong việc soạn thảo các dự án đầu tư(lập dự án đầu tư)có nghĩa là phải thực hiện đầu tư theo dự án dược soạn thảo với chất lượng tốt.Đó là quá trình thực hiện đầu tư và quá trình vận hành khai thác .
-Qúa trình thực hiện đầu tư ảnh hưởng đến việc lựa chọn địa điểm ,đến giá thành chi phí xây dựng (giá đất) như chọn những nơi địa hình bằng phẳng sẽ giảm đựoc chi phí san bằng ..
-Qúa trình vận hành khai thác ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn cao nếu địa lý thuận lợi.Phải cân đối giữa giá thành xây dựng công trình ,chi ohí vận chuyển và chi phí cung cấp sản phẩm với khả năng tiêu thụ yếu tố đầu ra.
-Ngoài ra việc lựa chọn địa điểm còn ảnh hưởng đến dân cư,địa bàn,môi trường sống .
5;Phân biệt ĐTPT với các loại hình đầu tư khác.
Từ sự phân tích trên đây ,xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư mang lại chúng ta có thể phân biệt các loại đầu tư sau đây:
a, Đầu tư tài chính:là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư bỏ tiền ra để cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi xuất định trước hoặc cổ tức tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị sử dụng vốn.
Đặc điểm của đầu tư tài chính :
+Làm tăng tài sản tài chính của chủ đầu tư.tái sản đó là tiền,cổ phiếu mà sau thơì gian kinh doanh sẽ thu được tiền.
+Không trực tiếp làm tăng tài sản hữư hình của nền kinh tế.
+Hiện tượng đầu tư đựoc xem là hiện tượng đầu tu chuyển dịch cụ thể làm chuyển quyền sở hữu và chuyển quyền sử dụng .
+Đầu tư tài chính là một kênh huy động vốn rất quan trọng của ĐTPT.
b., Đầu tư thương mại: Là loại đầu tư trong đó chủ đầu tư bỏ tiền ra để mua hàng sau đó bán lại với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận.
Đặc điểm của đầu tư thương mại:
+Không trực tiếp tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (Trừ hoạt động ngoại thương).Và thương mại làm tăng giá trị của tài sản.
+Trong đầu tư thương mại có sự chuyển giao quyền sở hữu.
+Đầu tư thương mai làm tăng tài sản tài chính của chủ đầu tư.
+Đầu tư thương mại là điều kiện quan trọng và là cầu nối để thúc đẩy ĐTPT.
Kết luận: Qua tìm hiểu những dặc điểm và nội dung của đầu tư thương mại và đầu tư tài chính ta thấy được điểm khacs nhau cơ bản và quan trọng của hai loại hình đầu tư này với ĐTPT, đó là chỉ có ĐTPT mới trực tiếp làm tăng tài sản cho nền kinh tế quốc dân.
II- Các vấn đề cơ bản về doanh nghiệp nhà nước:
1) Đặc điểm của DNNN trong nền kinh tế thị thường.
-Hoạt động kém hiệu quả của các DNNN.
DNNN là các cơ sở kinh doanh do nhà nứoc sở hữư hoàn toàn hoặc một phần.Quyền sở hữu thuộc về nhà nước là dặc trưng cơ bản nhất ,phân biệt DNNN với các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân. Đặc trưng này quy định sự kiểm soát của chính phủ bao gômd quyền chủ đạo và quyền can thiệp vào hoạt động kinh doanh.
Do vậy,người quản lý DNNN không có quyền linh hoạt đối phó với những điều kiện thay đổi của thị trướng so vơi doanh nghiệp tư nhân.Cụ thể:Bị chính phủ yêu cầu phải mua hàng hoá sản xuất trong nước,do vậy làm tăng chí phí đầu vào,do công viên chức trong nhà nước nhân số,luôn ổn định cố định nên khó có khả năng thay thế đầu vào về nguồn lao động của mình cho phù hợp với hoàn cảnh bên ngoài.
Mặt khác do quyền sở hữu thuộc về nhà nước ,là tổ cức không rõ ràng của nhiệm vụ được giao cho các DNNN,trong khi các công ty của khu vực tư nhân lấy lợi nhuận làm mục đích bao trùm thì các DNNN phải hướng vào các mục tiêu khác nhằm đảm bảo lợi ích xã hội, đôi khi không làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Có thể là các DNNN buộc phải thoả mãn yêu cầu tiêu dùng trong nước với giá ưu đãi ,phải đáp ứng các tiêu chuẩn dịch vụ nào đó ở bất kỳ đâu do nhà nước yêu cầu,cũng có thể bị yêu cầu chỉ được vay vốn từ một số định chế cho vay nào đó hoặc từ những nguồn cho vay trong nước nào đó.Do đó cũng có thể phải đầu tư phù hợp với kế hoạch quốc gia hoặc phải hy sinh lợi nhuận để thực hiện những mục tiêu xã hội.
Bên cạnh đó,sự kiểm soát lỏng lẻo trong khu vực DNNN do sở hữu nhà nước (đôi lúc mang nghĩa vô chủ),vì thế mỗi công nhân,người lao động thường không có mối liên hệ lợi ích đối với DNNN,vì không thấy sự ảnh hưởng nhiều vì thế không có cá nhân nào thấy cần phải có sự giám sát, điều hành,quản lý.
2) Sự cần thiết của DNNN trong nền kinh tế thị trường .
Theo sự phân tích trên,DNNN gần như hoạt động kém hiệu quả so với hoạt động của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường.Tuy vậy ,nó vẫn tồn tại và vận động,phát triển trong nền kinh tế.
Ngoài lý do tạo cho chính phủ “một quả đấm mạnh” để giả quyết các vấn đề kinh tế xã hội to lớn trong những giai đoạn dặc biệt như cạnh tranh,khủng hoảng kinh tế…sự tồn tại và phát triển các DNNN chủ yếu còn do các mục tiêu phi thương mại của chính phủ nhằm điều tiết đời sống kinh tế xã hội . Đó là mục tiêu ngăn chặn ngăn chặn độc quyền của khu vực tư nhân trong một ngành công nghiệp nào đó có khả năng gây thiêt hại chung cho xã hội. Đó là mục tiêu phân phối lại thu nhập quốc dân,tạo công ăn việc làm và cung cấp hàng hoá cho những thiệt hại kinh tế.
Sản xuất những hàng hoá và dịch vụ mà sản phẩm của chúng được tiêu dùng mang tính xã hội không thương mại hoá như giao thông đường thuỷ,những công thình kiến trúc mang tính lịch sử,bảo vệ phong cảnh thiên nhiên…Những sản phẩm náy được coi là thuộc về cộng đồng ,chính phủ phải chi phí đảm bảo giao thông đường thuỷ,bảo tồn các di tích lịch sử và phong canh thiên nhiên,khu vực tư nhân không thể cung cấp vì nó không có quyền sở hữu chúng ,vì vậy DNNN phải đảm nhiệm.
Chính phủ phải luôn có trách nhiệm trước những ngành thuộc kết cấu hạ tầng ,tạo cơ sở cho sự phát triển toàn bộ nền kinh tếb trong đó có khu vực tư nhân,sản xuất những hàng hoá này đòi hỏi cũng lớn,vốn thu hồi chậm nên không hấp dânc các khu vực tư nhân.Chính vì phái đảm nhận việc cung cấp những loại hàng hoá này nên thu nhập tài chính của DNNN thường được đánh giá thấp hơn thu nhập thực tế,vì không tính đến những lợi ích bên ngoài doanh nghiệp.
3) Cơ chế kích thích các DNNN .
So với doanh nghiệp tư nhân,DNNN nhiều khi là gánh nặng đối với một nền kinh tế thị thường,vì một mặt chúng sử dụng các nguồn lực một các kém hiệu qủa,gây lãng phí cho đất nước,và mặt khác,chúng rút cạn ngân sách của chính phủ dẫn đến những hậu qủa xấu nhiều mặt đối với kinh tế vĩ mô.
Về cơ chế kích thích để nâng cao hiệu quả của các DNNN:
-Trong các doanh nghiệp tư nhân với mục tiêu ưư tiên là lợi nhuận dài hạn thì việc tìm ra được cơ chế kích thích không có bằng trong DNNN.Lợi nhuận cao thường gắn với lợi ích,thành tích mà cán bộ quản lý,công nhân được hưởng.Bởi vậy do cạnh tranh khốc liwtj và quyền lợi được hưởng trực tiêp do lợi nhuận đem lại khiến cho doanh nghiệp tư nhân coi đó là cơ chế kích thich trực thiếp và có hiệu quả.
Song, đối với DNNN thì cơ chế kích thích đấy đoi khi không rã ràng so với doanh nghiệp tư nhân.Bởi do,ngoài mục tiêu lợi nhuận thì những mục tiêu phi thương mại,mục tiêu xã hội làm cho DNNN xác định coe chế kích thích trực tiếp là gì? Vd: một DNNN có thể có mục tiêu kép là làm ra lợi nhuận cao nhất, đồng thời làị bảo đảm số việclàm cao nhất.Mặt khác,cơ chể canh tranh giữa các DNNN không khốc liệt như giữa khu vực tư nhân.Do đó hạn chế tính sáng tạo trách nhiệm của các nhà quản lý,làm cho họ ỉ lại,thụ động.kém năng lực quản lý.
Bên cạnh đó do quyền sở hữư trong doanh nghiệp nằm trong tay họ(họ chỉ nắm quyền quản lý mà thôi) cho nên việc làm giàu cho bản thân các nhà quản lý không hấp dẫn so với tham vọng chính trị của họ.Do đó cơ chế kích thích của DNNN còn hạn chế rất nhiều.
4) Chế độ trách nhiệm.
Chế độ trách nhiệm của DNNN ít nhất gồm hai khâu:
Thứ nhất: là sự phân quyền và trách nhiệm giữa các ngành của chính phủ có thẩm quyền . đối với DNNN (sự phân quyền).
Thứ hai: Đó là hệ thống thông tin tỏng hệ thống tồn tại mỗi thành viên phải có trách nhiệm báo cáo một cách độc lập và thích hợp,chính xác.
Hệ thống trách nhiệm bao gồm 3 loại thành phần:
-Ban quản trị của DNNN-những người chuyên điều hành hạot động của doanh nghiệp.là những người am hiểu những vấn đề và những yêu cầu của sự điều hành trongkhu vực riêng của họ.
-Là chính phủ-quyết định các mục tiêu dài hạn và mục tiêu phi thương mại.
Thứ 3:là quốc hội-đại diện cho quyền lợi của công nhân quyết định toứi hậu về ngân sách và chi ngân sách.
Do vây,3 hệ thống này hoạt động theo đúng quyền hạn,trách nhiệm của nó,tránh sự hoạt động quá quyền hạn và bộ phận của nó.Hoạt động do quyền hạn chồng chéo đẫn đến sự rối loạn trong điều hành.
III- Nội dung của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp.
1 _ Đầu tư vào hàng dự trữ và tạo ra tài sản cố định.
Hàng dự trữ
Ta thường có thể nói một cách đơn giản hàng dự trữ của doanh nghiệp bao gồm tồn kho nguyên vật liệu, bán thành phẩm và thành phẩm. Tuy nhiên trên thực tế để nghiên cứu kỹ về vấn đề này cần phải tiếp cận nó ở những góc độ khác nhau và đặt trong những mối quan hệ cụ thể.
Nguyên nhân cần thiết phải đầu tư vào dự trữ:
Xuất phát từ vai trò của hàng dự trữ đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, ta có thể nó được sử dụng để đảm bảo sự ổn định cho sản xuất vcà đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Vì vậy đàu tư vào hàng dự trữ lag việc không thể thiếu đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp: Dựa trên cơ sở lý luận, vai trò của hàng dự trữ có bốn mặt chủ yếu, biểu hiện cụ thể ở bốn loại hàng tồn kho cơ bản:
- Quay vòng tồn kho: mỗi khi sản xuất và đặt hàng là một lần đặt ra số lượng lô nhất định, mà không phải là mỗi lần một lô, kiểu tồn kho được hình thành từ tính chu kỳ của số lượng lô được gọi là quay vòng tồn kho.
- Lượng tồ kho dự phòng: hay còn gọi là lượng tồn kho bảo hiểm, là lượng tồn kho nhất định mà nhà sản xuất chuẩn bị để ứng phó với tính không ổn định của nhu cầu và tính không ổn định của cung ứng, nhằm tránh sự tổn thất do thiếu hàng gây nên. Nếu như nhà sản xuất có thể dự toán được về sự thay đổi về nhu cầu trong tương lai hoặc có thể xác định được số lượng và thời gian hàng tương ứng, thì không cần phải thiết lập lượng tồn kho dự phòng. Số lượng tồn kho dự phòng ngoài việc chịu ảnh hưởng của sự bất ổn định về nhu cầu và cung ứng, còn liên quan đến việc doanh nghiệp hy vọng đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng. Đây là nhân tố xem xét chính khi đưa ra quyết sách cề lượng tồn kho dự phòng.
- Tồn kho vận chuyển: là sự tồn kho giữa hai đơn vị công tác hoặc hai tổ chức tiêu thụ gần nhau, bao gồm lượng tồn kho trong quá trình vận chuyển và lượng tồn kho tạm dừng giữa hai nơi. Tồn kho vận chuyển được quyết định bởi số lượng lô vận chuyển và thời gian vận chuyển.
- Lượng tồn kho dự định theo thời kỳ: do đặc điểm mang tính thời vụ của nhu cầu hoặc tính thời vụ của việc mua sắm, nên doanh nghiệp buộc phải sản xuất, tích trữ và bán hàng vào mùa bán ế đẻ duy trì và tăng cường phục vụ khách hàng vào mùa bán hàng chạy, hoặc tăng cường lượng tồn kho của mùa thu hoạch , ví dụ như nông sản, để dự trù sản xuất cho cả năm còn gọi là tồn kho theo thời kỳ. Sự cần thiết của tồn kho theo thời kỳ ngoài nguyên nhân về mùa vụ còn xuất phát từ việc bảo đảm sự ổn định cho sản xuất. Do vậy, nguyên nhân quyết định lượng tôn kho dự định theo thời kỳ, ngoài chi phí mang tính cơ hội của việc khan hàng hết hàng, còn phải xét đến chi phí tăng thêm khi sản xuất ổn định (chi phí khấu hao, khi thiết bị sản xuất ngừng nghỉ, lương công nhân rảnh rỗi và các chi phí phát sinh khác…).
Dựa trên cơ sở thực tiễn, vai trò của hàng dự trữ được biểu hiện trong mối quan hệ giữa việc khống chế lượng hàng dự trữ trong kho và hai loại nhu cầu: nhu cầu độc lập và nhu cầu phụ thuộc:
-Nhucầu độc lập: là nhucầu do thị trường quyết định .Ví dụ như : nhucầu đối với các thành phẩm như xe ô tô, máy giặt gia dụng và linh kiện dễ hỏng nhưu tấm phanh xe, vòng đệm cao su. Những nhu cầu này lúc nào thì sẽ nảy sinh? mỗi lần bao nhiêu? Không theo kế hoạch sắp xếp của doanh nghiệp, nó được gọi là nhu cầu độc lập. Tuy nhiên với phạm vi xao động và xu hướng thay đổi nhất định trong một khoảng thời gian cùng những đặc trưng thay đổi, nhu cầu này có thể dự đoán thông qua những số liệu lịch sử và các nhân tố tương quan khác.
- Nhu cầu phụ thuộc:Là nhu cầu do nhu cầu của sản phẩm cuối cùng hoặc hạng mục khác quyết định, nó có thể đoán trước và có thể khống chế được. Ví dụ như: với một số lượng máy giặt cần sản xuất cho trước, thì số lượng nhu cầu của nguyên vật liệu hoặc linh kiện như thùng giặt, máy định giời, động cơ điện, hoàn toàn có thể được quyết định căn cứ vào linh kiện, vì vậy nó được gọi là nhu cầu phụ thuộc.
Tóm lại: Nhu cầu xuất phát từ bên ngoài doanh nghiệp hay từ thị trường là nhu cầu độc lập, còn gọi là nhu cầu khách hàng, những nhu cầu này nảy sinh từ yêu cầu sản xuất bên trong doanh nghiệp gội là nhu cầu phụ thuộc, hay còn gọi là nhu cầu sản xuất. Nhu cầu độc lập có tính tuỳ cơ ứng biến cho nên chỉ có thể dựa trên dự đoán để tính toán. Nhu cầu phụ thuộc có tính xá định, đặc trưng thay đổi theo thời gian đã được biết trước, vì vậy không cần dự đoán mà chỉ cần xác định theo kế hoạch sản xuất. Đáp ứng sự khác nhau về mặt tính tồn kho của hai loại nhu cầu. Tức là do tính chất tuỳ cơ của nhu cầu độc lập mà ta cần phải thiết lập lượng tồn kho dự phòng nhằm tránh tổn thất do thiếu hàng. Do tính xác định của nhu cầu phụ thuộc, về mặt lý thuyết thì không cần thiết lập lượng tồn kho dự phòng, hơn nữa lý tưởng nhất là tất cả những lượng tồn kho sản xuất đều nên ơe dạng bán thành phẩm. Chính sự khác nhau này đã quy định số lượng từng loại hàng dự trữ ở những thời điểm khác nhau của chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời khẳng định lại vai trò rất quan trọng của hàng dự trữ và vấn đề khống chế hàng dự trữ trong việc quay vòng vốn, tiết kiệm chi phí, ổn định sản xuất và đáp ứng nhu cầu luôn biến đổi của khách hàng.
Đầu tư vào hàng dự trữ có thể có thể được phân thành 2 loại chi phí chủ yếu sau:
- Chi phí bảo tồn hàng được tạo bởi:
+ Chi phí cơ hội sử dụng vốn: thông thường được xác định dựa trên tỷ lệ lãi suất đầu tư, trong tình huống đơn giản hoá, có thể sử dụng tỷ lệ lãi suất với kỳ hạn tương ứng để thay thế.
+ Chi phí bảo hiểm và chi phí hao mòn cơ sở hạ tầng kho bãi…
+ Chi phí mất mát, hư hỏng và không có hiệu quả của hàng tồn. Chi phí về mặt này sữ có sự chênh lệch rất lớn dựa trên tính chất khác nhau của hàng tồn, ví dụ như lỗi của hàng điện tử tương đối cao, mà chi phí tổn thất của thực phẩm lại còn cao hơn.
Do chi phí cơ hội của vốn và chi phí hỏng hóc, mất hiệu quả luôn chiếm đa số tỷ lệ của phí bảo tồn. Vi vậy các doanh nghiệp thường theo thói quen, đem chi phí bảo tồn thể hiện là hình thức tỷ lệ thuận với giá cả mua bán của đơn vị hàng tồn.
- Chi phí đặt hàng:
Là chi phí bình quân để xử lý nghiệp vụ đặt hàng, bao gồm các tư liệu kỹ thuật sản phẩm cần thiết như sổ ghi chép, thông tin, phán đoán và lương nhân viên đặt hàng, đặc điểm của nó là không liên quan đến số lượng hangf đặt. Trên lĩnh vực sản xuất,chi phí này là chi phí chuẩn bị sản xuất và điển hình máy móc khi thay đổi linh kiện và tác nghiệp, gọi là chi phí chuyển đổi tác nghiệp và chi phí lắp đặt.
- Chi phí thiếu hàng:
Là những tổn thất do thiếu hàng gây nên. Từ góc độ bán hàng nếu thiếu hàng cung cấp, khách hàng sẽ chuyển sang đặt hàng của doanh nghiệp khác, và hơn nữa, uy tín của doanh nghiệp cũng bị tổn hại nghiêm trọng. Từ góc độ sản xuất, trong quá trình sản xuất, thiếu hàng dẫn đến việc ngừng sản xuất đợi nguyên liệu, ứ đọng bán thành phẩm, kéo dài thời gian giao hàng và dẫn đến ngưng ca…chi phí của nó được tính lần lượt với ảnh hưởng của hoạt động tương ứng.
Tài sản cố định:
Nghị định số 199/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 3/12/2004 về quy chế quản lý tài chính của công ty Nhà nước và quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp khác có quy định, tài sản của công ty Nhà nước bao gồm: tài sản cố định (tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vô hình, các khoản đầu tư tài chính dài hạn, chi phí xây dựng cơ bản dở dang và các khoản ký cược, ký quỹ dài hạn); tài sản lưu động (tiền, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu, hàng tồn kho, tài sản lưu động khác và chi sự nghiệp) mà công ty Nhà nước có quyền chiếm hữu sử dụng và định đoạt theo quy định của pháp luật.
Như vậy có thể thấy tài sản cố định hữu hình là một trong những tài sản quan trọng bậc nhất của doanh nghiệp. Nó là những tư liệu lao động có thời hạn sử dụng tương đối dài và có giá trị lớn. Trong quá trình sản xuất kinh doanh hình thái vật chất của tài sản cố định hầu như không thay đổi, còn giá trị giảm dần trong suốt thời gian tồn tại, do cả hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình.
Phân loại tài sản cố định :
Nhà cửa và vật kiến trúc: Gồm nhà xưởng kho bãi, văn phòng và các công trình có cùng mục đích. Chúng tạo ra không gian sản xuất, vận hành quản lý và lưu trữ hàng hoá hoặc nguyên vật liệu. Là tài sản cố định có thời gian khấu hao khá dài, có thể lên đến 30, 50 năm.
Máy móc thiết bị công nghệ : Bao gồm tất cả máy móc thiết bị, hệ thống dây chuyền. Là bộ phận tài sản cố định hữu hình có hàm lượng khoa học công nghệ cao và có sự đổi mới nhanh chóng. Hiện nay những dây chuyền hiện đại được khấu hao chỉ trong vòng từ 2 đến 4 năm.
Phương tiện vận tải : Ngoài chi phí ban đầu chi phí vận hành, chi phí nhiên liệu xăng dầu chiếm một tỷ trọng đáng kể và cần được tính đến trong quá trình vận hành.
Các công cụ, dụng cụ quản lý, thiết bị đo lường và kiểm định. Đây là các máy móc có giá trị không lớn nhưng được khấu hao trong thời gian dài. Các máy móc văn phòng như máy vi tính, máy in… đã giúp làm tăng năng xuất và hiệu quả quản lý. Đồng thời một hệ thống đo lường và kiểm định hiện đại và chính xác sẽ giúp doanh nghiệp tạo nên những sản phẩm có chất lượng và độ tin cậy cao.
Vai trò của tài sản cố định hữu hình:
- Là một trong những cơ sở đầu tiên được hình thành trong quá trình từ thời điểm doanh nghiệp bắt đầu đi vào sản xuất kinh doanh. Bất kỳ doanh nghiệp nào khi bắt đầu đi vào hoạt động cũng đều phải trải qua các giai đoạn tiền đề sau:
Chi phí ban đầu về đất đai: tiền thuê đất, mua đất, đền bù giải phóng mặt bằng.
Chi phí xây dựng, lắp đặt nhà xưởng công trình, hạ tầng cơ sở.
Chi phí mua sắm máy móc phương tiện vận tải.
Chi phí mua sắm máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất.
Cùng với các chi phí khác, các chi phí cho tài sản cố định hữu hình thực sự trở thành một trong những yếu tố không thể thiếu được trong quá trình hình thành, vận hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Một khi hệ thống nhà xưởng, văn phòng và vật kiến trúc không đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động quản lý, sẽ gây ra một sự cản trở rất lớn tới sự thành công của doanh nghiệp. Do đặc điểm được sử dụng trong một thời gian dài nên tầm quan trọng của hệ thống nhà xưởng lại càng lớn, cần phải tính toán một cách kỹ lưỡng để tránh gây ra những hậu quả lâu dài.
- Đầu tư vào máy móc thiết bị công nghệ lại là một trong những hoạt động cần chú ý hàng đầu. Nhất là trong thời đại khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ và thay đổi nhanh chóng như hiện nay. Một dây chuyền công nghệ sản xuất thích hợp với các công nghệ mới đạt được các hiệu quả sẽ giúp doanh nghiệp đạt được sản lượng lớn với giá thành thấp và chiếm lĩnh được thị trường.
- Hệ thống phương tiện vận tải cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong rất nhiều doanh nghiệp, nó quyết định đến doanh số bán hàng, khả năng đáp ứng kịp thời các nhu cầu thị trường, đặc biệt với các doanh nghiệp kinh doanh thương mại. Do đó các doanh nghiệp không những cần thiết phải chú trọng hoạt động đầu tư cho hệ thống phương tiện giao thông vận tải mà còn phải chú trọng vấn đề bảo hiểm tài sản, đặc biệt đối với cả các loại hình phương tiện vận tải đường thuỷ như tàu thuỷ xà lam cũng như đối với các phương tiện cơ giới đường bộ thường xuyên phải đối mặt với các rủi ro khác.
2. Nội dung đầu tư phát triển cho tài sản cố định hữu hình của doanh nghiệp.
2.1Vốn đầu tư xây dựng cơ bản:
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản là toàn bộ chi phí bỏ ra để đạt được mục đích đầu tư, bao gồm:
chi phí cho việc khảo sát quy hoạch công trình chuẩn bị đầu tư
chi phí thiết kế và xây dựng
chi phí mua sắm lắp đặt thiết bị
các chi phí khác được ghi trong tổng dự toán
và chi phí dự phòng( bằng 10 % tổng dự toán).
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản có thể chia ra theo các mục sau:
a. Chi phí xây dựng và lắp đặt bao gồm:
Chi phí phá huỷ tháo dỡ các vật kiến trúc cũ.
Chi phí san lấp mặt bằng xây dựng.
Chi phí xây dựng công trình tạm, công trình phụ trợ phục vụ thi công.
Chi phí xây dựng các hạng mục công trình như làm mới mở rộng cải tạo và khôi phục các công trình xây dựng.
Chi phí lắp đặt thiết bị bao gồm việc lắp đặt trang thiết bị vật dụng, các hoạt động thăm dò phục vụ cho hoạt động lắp đặt đó.
Các chi phí di chuyển thiết bị thi công và vật liệu, lực lượng xây dựng.
b. Chi phí mua sắm thiết bị máy móc bao gồm:
Chi phí mua sắm thiết bị công nghệ và các trang thiết bị khác phục vụ sản xuất, làm việc, sinh hoạt.
Chi phí vận chuyển từ cảng hoặc nơi mua đến công trình, chi phí lưu kho lưu bãi chi phí bảo quản bảo dưỡng tại kho chi phí gia công sửa chữa chi phí kiểm tra thiết bị máy móc khi tiến hành lắp đặt.
Các loại thuế và phí bảo hiểm thiết bị công trình cần thiết.
c. Chi phí liên quan đén đất đai:
Tiền thuê đất, hoặc tiền chuyển quyền sử dụng đất.
Chi phí đền bù và tổ chức thực hiên trong quá trinh đền bù.
2.2 Mua sắm tài sản cố định khác dùng cho hoạt động sản xuất.
Doanh nghiệp cần ý thức được tầm quan trọng của việc mua sắm và đổi mới trang thiết bị theo hướng hiện đại, nhập các máy móc thiết bị hoặc mua trong nước các loại máy trong nước đã sản xúât được với giá cả và công nghệ phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp cũng như điều kiện khí hậu, từng bước tăng tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm công nghệ.
Chi phí này bao gồm:
Chi phí cho thiết bị máy móc cần lắp toàn bộ hoặc từng bộ phận trên nền máy cố định.
Chi phí cho thiết bị không cần lắp đặt trên nền máy cố định.
Chi phí cho các máy móc thiết bị dụng cụ phục vụ cho quá trình quản lý, kinh doanh, báo cáo tổng hợp.
3. Vốn đầu tư sửa chữa lớn tài sản cố định bao gồm:
Chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định: sửa chữa các tài sản hư hỏng sau một thời gian sử dụng mà cần vốn lớn.
Chi phí nâng cấp tài sản cố định: Nâng cấp các tài sản cố định cho phù hợp với sự biến động của khoa học công nghệ, giúp cải tiến sản phẩm tăng năng xuất để hạ giá thành, tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp cả trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như trong hoạt động quản lý.
2 _ Đầu tư vào nghiên cứu đổi mới và phát triển KHCN_KT.
Theo quan điểm hiện đại, có thể hiểu: đầu tư đổi mới công nghệ và phát triển KHKT là hình thức của ĐTPT nhằm hiện đại hoádây chuyền công nghệ và trang thiết bị cũng như trình độ nhân lực, tăng năng lực sản xuất kinh doanh cũng như cải tiến đổi mới sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, đây cũng là hoạt động đầu tư vào lĩnh vực phần mềm của công nghệ như thông tin, thương hiệu và thể chế doanh nghiệp.
Về ĐTPT phần cứng của KHKT_CN ở doanh nghiệp có nghĩa là hoạt động ĐTPT những dây chuyền máy móc, trang thiết bị hiện đại. Trước tiên là đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để tiếp nhận dây chuyền máy móc thiết bị mới. Hai là thực hiện đầu tư vào việc nhập khẩu dây chuyền sản xuất phù hợp. Ba là thực hiện việc tiếp nhận công nghệ của dây chuyền máy móc trang thiết bị.Bốn là thực hiện việc nghiên cứu triển khai để có thể sản xuất dây chuyền máy móc dựa vào công nghệ được tiếp nhận.
Về ĐTPT phần mềm của KHKT_CN ở doanh nghiệp có nghĩa là hoạt động ĐTPT nguồn nhân lực, phát triển công nghệ bao gồm thương hiệu, bí quyết kinh doanh, uy tín…và phát triển cơ cấu thể chế tổ chức.
Về công nghệ cần tiến hành nội dung như sau: thứ nhất là doanh nghiệp có thể mua công nghệ theo các cách khác nhau đó là:
Mua đứt công nghệ tức là công nghệ thuộc quyền sở hữu độc quyền của doanh nghiệp, doanh nghiệp là người duy nhất có quyền quyết định về công nghệ đó. Từ đó doanh nghiệp có khả năng sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ hiệu quả nhất, tốt nhất, tạo lợi thế cạnh tranh cao nhất cho doanh nghiệp. Tuy nhiên trong thực tế các doanh nghiệp nước ta hiện nay thực thi điều này là rất khó, mặt khác việc mua đứt công nghệ thường gặp rủi ro lớn vì chưa hẳn công nghệ là tốt nhất. Nếu trong tương lai doanh nghiệp chưa kịp khấu hao hết công nghệ thì đã xuất hiện công nghệ mới tốt hơn…chính vì thế mà người ta thường chỉ mua đứt những công nghệ ít biến động, sản xuất hàng hoá đặc biệt, hay với công nghệ xuất hiện lần đầu trong một loại sản phẩm dịch vụ cấp thiết, nhu cầu thị trường là rất lớn.
Mua quyền sử dụng công nghệ: doanh nghiệp thường áp dụng hình thức này bởi hình thức này có ít rủi ro hơn và tốn ít chi phí hơn. Tuy nhiên doanh nghiệp phải chấp nhận đối thủ của mình cũng sở hữu công nghệ như mình và sức ép cạnh tranh là rất lớn. Nhưng ít ra nó cũng giúp cho doanh nghiệp có những lợi thế hơn so với những sản phẩm không có công nghệ đó hoặc lợi thế giá thành do công nghệ giúp khai thác tối đa những nguồn lực mà đối thủ không có.
Và ngoài ra doanh nghiệp còn có thể đầu tư vào nghiên cứu phát minh ra công nghệ mới hay có sự cải tiến trong việc sử dụng hay tăng năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
Về nhân lực cần tiến hành những nội dung cụ thể như dân chủ hoá KHKT_CN, xây dựng một chiến lược tổng thể rõ ràng nhằm phát triển thị trường lao lao động theo hướng đẩy mạnh tính hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho lao động tự do dịch chuyển, hỗ trợ lao động có chuyên môn kĩ thuật cao. Bên cạnh đó là những hoạt động ĐTPT nguồn nhân lực như mở lớp đào tạo nhân lực, cử người đi học ở các quốc gia phát triển…
Về cơ cấu tổ chức và thể chế doanh nghiệp để phục vụ cho phát triển KHCN cũng cần tiến hành theo những nội dung như: đổi mới chính sách ưu đãi với các hoạt động nghiên cứu và đổi mới công nghệ, đổi mới cơ chế trích khấu hao TSCĐ và cơ chế trích lập quỹ ĐTPT của doanh nghiệp…
Hoạt động ĐTPT KHKT_CN cũng là một hoạt động đầu tư phát triển. Do đó, hoạt động này có những đặc điểm sau đây: về nguồn vốn ĐTPT KHCN đồi hỏi 1 số vốn lớn. Từ hoạt động ĐTPT máy móc thiết bị hiện đại, đến việc ĐTPT nguồn nhân lực thông qua đào tạo …đều đòi hỏi khối lượng vốn lớn. Do đó, về nguồn huy động vốn có thể là rất đa dạng, việc ĐTPT KHCN không chỉ huy động nguồn vốn nội lực mà còn có thể huy động từ bên ngoài như ODA hay FDI. Từ đó đòi hỏi doanh nghiệp phải sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất. Về thời gian thì ĐTPT KHCN có thời gian thực hiện lâu dài và thời gian vận hành kết quả lâu dài. Về kết quả của hoạt động đầu tư vào KHCN là những tài sản có giá trị lớn như những công trình khoa học, trang thiết bị tiên tiến hay trình độ nguồn nhân lực.
3 _ Đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là các hoạt động để duy trì và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tổ chức, là điều kiện quyết định để doanh nghiệp có thể đứng vững và dành thắng lợi trong môi trường cạnh tranh. Do đó trong các doanh nghiệp, công tác đào tạo và phát triển cần phải được thực hiện một cách có tổ chức và có kế hoạch.
Phát triển nguồn nhân lực (theo nghĩa rộng) là tổng thể các hoạt động học tập có tổ chức được tiến hành trong những khoảng thời gian nhất định để nhằm tạo ra sự thay đổi hành vi nghề nghiệp của người lao động.
Trước hết, phát triển nguồn nhân lực chính là toàn bộ những hoạt động học tập được tổ chức bởi doanh nghiệp, do doanh nghiệp cung cấp cho người lao động. Các hoạt động đó có thể được cung cấp trong vài giờ, vài ngày hoặc thậm chí vài năm, tuỳ thuộc vào mục tiêu hcọ tập, và nhằm tạo sự thay đổi hành vi nghề nghiệp cho người lao động theo hướng đi lên, tức là nhằm nâng cao khả năng và trình độ nghề nghiệp cho họ. Như vậy, xét về nội dung phát triển nhân lực bao gồm các hoạt động là: giáo dục, đào tạo và phát triển.
Giáo dục được hiểu là các hoạt động hcọ tập để chuẩn bị cho con người bước vào 1 nghề nghiệp hoặc chuyển sang 1 nghề nghiệp mới thích hợp hơn trong tương lai.
Đào tạo (hay còn được gọi là đào tạo kỹ năng) được hiểu là các hoạt động học tập nhằm giúp cho người lao động có thể thực hiện có hiệu quả hơn chức năng, nhiệm vụ của mình. Đó chính là quá trình học tập làm cho người lao động nắm vững hơn về công việc của mình, là những hoạt động để thực hiện nhiệm vụ lao động có hiệu quả hơn.
Phát triển là các hoạt động học tập vượt ra khỏi phạm vi công việc trước mắt của người lao động, nhằm mở ra cho họ những công việc mới dựa trên cơ sở những định hướng tương lai của doanh nghiệp.
Các lý do chủ yếu để doanh nghiệp tiến hành phát triển nguồn nhân lực, đó là:
+ Để đáp ứng yêu cầu của việc tổ chức hay nói cách khác là để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
+ Để đáp ứng nhu cầu học tập và phát triển của người lao động trong doanh nghiệp.
+ Đào tạo và phát triển là những giải pháp có tính chiến lược tạo ra lới thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Khi doanh nghiệp đầu tư phát triển nguồn nhân lực thì doanh nghiệp đã mang lại cho mình nhiều lợi ích trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình như:
+ Nâng cao năng suất lao động, hiệu quả thực hiện công việc.
+ Nâng cao chất lượng của việc thực hiện công việc.
+ Giảm bớt sự giám sát vị người lao động được đào tạo có khả năng tự giám sát.
+ Nâng cao tính ổn định và năng động của tổ chức.
+ Duy trì và nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực.
+ Tạo điều kiện cho áp dụng tiến bộ kĩ thuật và quản lý vào doanh nghiệp.
+ Tạo ra lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
+ Ngoài ra, đối với người lao động thì phát triển nguồn nhân lực thể hiện ở chỗ: tạo ra được sự gắn bó giữa người lao động và doanh nghiệp, tạo ra tính chuyên nghiệp của người lao động, tạo ra sự thích ứng giữa người lao động và công việc hiện tại cũng như tương lai, đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng phát triển của người lao động, và tạo cho người lao động có cách nhìn cách tư duy mới trong công việc của họ là cơ sở để phát huy tính sáng tạo của người lao động trong công việc.
Chính vì những lý do trên mà các doanh nghiệp hiện nay đã chú trọng vào phát triển nguồn nhân lực, coi hoạt động đầu tư phát triển nguồn nhân lực như là một hoạt động thường xuyên và quan trọng của doanh nghiệp.
Ở nước ta thì hầu hết các doanh nghiệp để phát triển nguồn nhân lực mới chỉ sử dụng các biện pháp như: Tìm kiếm lao động đầu vào có chất lượng cao; Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động trong doanh nghiệp; Và nâng cao điều kiện làm việc cho người lao động. Tuy nhiên trong các hình thức trên thì hình thức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động được áp dụng nhiều trong các doanh nghiệp nhà nước, còn hình thức lựa chọn lao động đầu vào chất lượng cao được sử dụng nhiều trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
4 _ Đầu tư vào hoạt động Marketing và tài sản vô hình khác.
- Đầu tư vào hoạt động Marketing:
Doanh nghiệp muốn cạnh tranh thắng lợi thì marketing được nhiều người cho rằng là chức năng then chốt của thành công của doanh nghiệp: nhờ có marketing dự báo nhu cầu tiêu thụ sản phẩm, dự tính các hành động cho doanh nghiệp, hỗ trợ bán hàng thông qua quảng cáo, khuyến mại,…Muốn vậy đòi hỏi phải:
+ Xác định rõ hướng đi: doanh nghiệp phải suy tính kỹ trước khi quyết định có nên đối đầu trực tiếp với doanh nghiệp lớn hay không, nếu cảm thấy không có đủ nội lực thì chuyển hướng khác.
+ Xác định thời gian đi: nếu doanh nghiệp đã xác định được hướng đi và nếu không phạm sai lầm nào về kế hoạch tiếp thị cộng với một chút may mắn thì doanh nghiệp sẽ có được một mảng thị phần,
+ Phạm vi triển khai: doanh nghiệp nên lựa chọn phương án triển khai trên phạm vi nào thì cần phải cân nhắc rõ ràng.
+ Hiểu người tiêu dùng: Tiến hành nghiên cứu thị trường để am hiểu sâu sắc người tiêu dùng, để thiết kế sản phẩm phù hợp với họ, và khác biệt với đối thủ.
+ Hệ thống phân phối mạnh
+ Bao bì bắt mắt và hoàn hảo
+ Chất lượng sản phẩm hoàn hảo
+ Can đảm và kiên trì
- Đầu tư và tài sản vô hình: tài sản vô hình bao gồm:
+ Tài sản trí tuệ
+ Các yếu tố vô hình của sản nghiệp thương mại
+ R & D
+ Nguồn nhân lực
+ Các yếu tố khác.
Chương 2: Đánh giá thực trạng tình hình đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam.
I _ Đánh giá chung tình hình đầu tư phát triển thời gian gần đây.
1) Thành tựu đạt được:
Thứ nhất: Nguồn vốn huy động cho hoạt động đầu tư tăng lên đáng kể. Không chỉ những nguồn lực trong nước được khơi thông mà chúng ta đã chú ý khai thác cả những nguồn lực bên ngoài. Vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp đáng kể vào công cuộc CNH-HĐH đất nước.Trong những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX tốc độ tăng vốn đầu tư : 28%-29% /năm. Đặc biệt năm 1993 tăng đến 46% /năm. Tỷ trọng vốn đầu tư trên GDP tăng đều qua các năm:
Năm
đầu tư so với GDP(%)
tốc độ tăng trưởng kinh tế(%)
1991
15.22
6
1992
21.4
8.6
1993
29.5
8.1
1994
30.4
8.8
1995
28.4
9.5
1996
28.45
9.3
1997
28.7
8.2
1998
26.1
5.8
1999
25.4
4
2000
28.1
5
2001
31
6.68
Thứ hai: hoạt động đầu tư góp phần cho tăng trưởng và phát triển đất nước. Cùng với quy mô đầu tư huy động được, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta cũng tăng đều qua các năm (qua bảng số liệu trên cho chúng ta thấy được điều đó)
Thứ ba: hoạt động đầu tư góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Tỷ trọng vốn đầu tư trong nông nghiệp giảm dần, ngược lại tỷ trọng vốn đầu tư trong công nghiệp và xây dựng tăng lên đáng kể:
thời kỳ
Nông nghiệp(%)
Công nghiệp và xây dựng(%)
dịch vụ(%)
1986-1990
13.4
25.7
60.9
1991-1995
8.7
41.8
51.7
1996-1997
8.5
40.2
52.3
Tương ứng với nguồn vốn đầu tư trên, cơ cấu kinh tế nước ta trong những năm qua cũng có sự chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH
Năm
Nông nghiệp
Công nghiệp và xây dựng
Dịch vụ
1995
27.18
28.76
44.16
1996
27.76
29.73
42.51
1997
25.77
32.06
42.15
1998
24.78
32.49
41.73
1999
25.43
34.49
40.08
2000
24.53
36.73
38.74
2001
23
38
39
Thứ tư: Hoạt động đầu tư góp phần nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ cho đất nước. Thông qua hoạt động của đầu tư nước ngoài, cho phép Việt Nam tiếp xúc với những thành tựu khoa học tiên tiến trên thế giới. Đồng thời, các ngành mới hình thành như:Công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ gen…và trong quá trinh tiễp xúc và làm việc với nước ngoài chúng ta cũng học hỏi được nhiều kinh nghiệm làm việc và tổ chức quản lý…
Thứ năm: tăng cường hợp tác quốc tế, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế…Bên cạnh đó, năng lực nhiều ngành kinh tế tăng lên đáng kể, nhất là năng lực sản xuất của các ngành công nghiệp, năng lực tưới tiêu thuỷ lợi, năng lực ngành giao thông vận tải. Riêng trong năm 2004, số các dự án hoàn thành đưa vào sử dụng cao hơn so với những năm trước đây. Tổng số công trình, dự án hoàn thành trong năm 2004 khoảng 3640 dự án, trong đó cá bộ ngành trung ương khoảng 980 công trình, dự án; các tỉnh thành phố khoảng 2660 dự án. Cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng đã có nhiều đổi mới, thực hiện phân cấp, giao quyền và tạo chư động cho các bộ, ngành, địa phương trong việc quyết định chủ trương và phê duyện dự án đầu tư và bố trí vốn đẩu tư cụ thể cho các công trỉnh, dự án không phân biệt dự án nhóm A,B,C.
2) Những mặt còn hạn chế trong những năm gần đây:
Chất lượng của một số dự án quy hoạch chưa cao, chưa có tầm nhìn xa, quy hoạch chưa phù hợp với cơ chế thị trường, chưa theo kịp với quá trình thay đổi của các yếu tố khách quan. Các dự báo tác động của yếu tố bên ngoài như thị trường thế giới, tiến bộ công nghệ, sự cạnh tranh của các quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm… nên tính định hướng cho doanh nghiệp còn hạn chế. Tính cục bộ, xu hướng khép kín trong quy hoạch đã gây nên sự lãng phí các nguồn lực do sự phát triển chồng chéo dư thừa công suất… hoặc tạo ra độc quyền trong ngành, sử dụng quy hoạch để cản trở thành phần kinh tế khác tham gia. Quy hoạch thường xuyên chưa được cập nhập, bổ xung và điều chỉnh kịp thời, do đó có một số quy hoạch tỏ ra lạc hậu với tình hình thực tế, không đáp ứng nhu cầu, không đủ căn cứ để xây dựng kế hoạch.
Tình trạng đầu tư dàn trải chưa được khắc phục có hiêu quả. Trong những năm qua mặc dù đã có nhưng tiến bộ nêu trên nhưng tình trạng trong bố trí kế hoạch đầu tư bằng nguồn ngân sách các bộ, ngành và các tỉnh, thành phố vẫn chưa được khắc phục triệt để. Tình trạng này được tích tụ từ nhiều năm trước đây, gây lãng phí lớn dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp. Một số bộ ngành địa phương vẫn chưa chấp hành đúng quy định về quản lý đầu tư và xây dưng, bố trí vốn cho một số công trình, dự án chưa đủ thủ tục về đầu tư.
Tình hình thất thoát lãng phí còn lớn dẫn đến hậu quả đầu tư chưa cao đang là vấn đề bức xúc. Hiện tại vì chưa thể kiểm toán, thanh tra đánh giá toàn bộ các dự án đầu tư xây dựng nên chưa thể khẳng định con số thất thoát mà dư luận xưa nay đề cập tuy nhiên kết quả thanh tra cho thấy số sai phạm về tài chính chiếm 14-19% tổng vốn đầu tư được thanh tra, kiểm tra. Trong tổng số vốn bị phát hiện nói trên số vốn kiến nghị thu hồi chiếm 5-7% tổng số vốn được thanh tra. Qua các kết quả kiểm tra như trên ta thấy việc quản lý vốn, đặc biệt là nguồn vốn ngân sách , còn rất yếu kém, thiếu sót dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả. Mặt khác cũng cho thấy khi thanh tra nhà nước tiến hành thanh tra thì số sai phạm bị phát hiện nhiều hơn khi tự các bộ ngành, tỉnh thành phồ thanh tra chính mình.
Hiệu quả sủ dụng vốn đầu tư chưa cao nhất là vốn ngân sách nhà nước. Cơ cấu đầu tư còn nhiều điểm chưa hợp lý
Việc giải ngân chậm, nhất là các dự án sử dụng nguồn vốn trái phiếu chính phủ, công trái giáo dục đã làm chậm đưa các công trình đi vào sử dụng. Mới chỉ chú ý đến đầu tư nhằm phát triển năng lực sản xuất mà chuă chú ý đến đầu ra sản xuất, công nghệ sử dụng, cơ sở hạ tầng…dẫn đến sản phẩm chất lượng còn thấp, khả năng cạnh tranh chưa cao.
Sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển, vốn nhà nước kém hiệu quả, cơ chế quản lý không chặt chẽ dẫn đến tình trạng nợ nần, kém hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước.
Tình hình nợ khối lượng các công trình xây dựng cơ bản hoàn thành do chưa có vốn thanh toándiễn ra ở một số bộ, địa phương đang là vấn đề bức xúc
II _ Tình hình đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước.
1 _ Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam hiện nay:
+ Doanh nghiệp nhà nước có vị trí rất quan trọng, góp phần để khu vực kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là động lực thúc đẩy sự phân bổ lại dân cư theo hướng công nghiệp hoá, hình thành các trung tâm kinh tế, văn hoá, đô thị mới, trang bị lại kỹ thuật, đổi mới công nghệ cho toàn bộ cho nền kinh tế quốc dân, đào tạo bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề và tạo thêm điều kiện hạ tầng cho quá trình phát triển. Việc liên tục đổi mới hệ thống chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước nói riêng và kinh tế nhà nước nói chung bước đầu đã giúp hình thành đòn bẩy thu hút và khuyến khích các thành phần kinh tế khác liên doanh với doanh nghiệp nhà nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế.
+ Doanh nghiệp nhà nước là công cụ vật chất để nhà nước điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Doanh nghiệp nhà nước đã và đang chiếm vị trí quan trọng trong nhiều ngành kinh tế chủ chốt, bảo đảm các điều kiện cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã hội ngày càng một tốt hơn; cung ứng hàng hoá, vật tư, năng lượng, chủ yếu cho sản xuất và đời sống. Doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò quyết định trong việc cung cấp những sản phẩm trọng yếu cho nền kinh tế quốc dân, như điện, sắt thép, xi măng, phân bón, xăng dầu,… đồng thời là một trong các lực lượng chủ lực thực hiện các chính sách XH thông qua các doanh nghiệp công ích.
Sự phát triển cảu doanh nghiệp nhà nước trong các ngành hạ tầng như giao thông, năng lượng, Bưu chính viễn thông, dịch vụ,… đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Mặc dù giảm mạnh về số lượng doanh nghiệp và phần tài trợ của nhà nước, doanh nghiệp nhà nước vẫn đạt được nhiều tiến bộ trong việc bảo đảm hầu hết yêu cầu sản phẩm và dịch vụ công ích, các điều kiện giao thông, điện, nước, thông tin, vật tư, hàng hoá cho xuất khẩu và thị trường trong nướ, đóng góp cho NSNN.
+ Doanh nghiệp nhà nước đang đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính sách XH và ổn định chính trị - xã hội, định hướng công bằng, văn minh, góp phần cùng với khu vực kinh tế khác giải quyết các vấn đề việc làm, thu nhập cho người lao động, xoá đói giảm nghèo, páht triển văn hoá giáo dục, y tế làm cơ sở và nền tảng cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
+ Doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng khá cao về xuất nhập khẩu. Tốc độ tăng kim ngạch xuất nhập khẩu bình quân hàng năm đạt 20%. Doanh nghiệp nhà nước là đầu mối xuất khẩu hầu hết các mặt hàng quan trọng như dầu thô, than, gạo, hàng may mặc. Đồng thời, doanh nghiệp nhà nước cũng chiếm trên 98% tổng số dự án liên doanh với nước ngoài, đã góp phần tạo ra nguồn thu đáng kể từ khu vực.
+ Khu vực doanh nghiệp nhà nước chiếm vị trí quan trọng trong các nguồn thu của NSNN. Mặt khác các khoản tài trợ trực tiếp và gián tiếp từ ngân sách cho các DNNN đã làm cho phần đóng góp thực của DNNN vào ngân sách tăng lên.
+ Tổng công ty nhà nước đã thể hiện được vai trò nòng cốt, chủ lực trong nền kinh tế, hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, duy trì tỷ lệ tăng trưởng tương đối cao, hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách, ổn định việc làm cho người lao động, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên và tích cực tham gia vào các chính sách XH. Đồng thời huy động nguồn lực nội bộ trong toàn bộ tổng công ty kết hợp với các nguồn vốn khác để điều hoà thực hiện các chương trình đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, tăng khả năng sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh, khai thác thị trường trong nước và mở rộng thị trường nước ngoài.
2 _ Đánh giá tình hình đầu tư phát triển trong khu vực kinh tế nhà nước.
2.1 _ Tạo ra tài sản cố định.
Vốn đầu tư cho tài sản cố định của các doanh nghiệp nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong các thành phần kinh tế. Trong năm 2005, Giá trị tài sản cố định khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 15,9%/năm.
Bên cạnh những thành tựu mà các doanh nghiệp nhà nước đã đạt được trong hoạt động đầu tư, vẫn còn đó những tiêu cực mà chúng ta cần phải nhắc tới như tình trạng thất thoát lãng phí và sự thiếu hiệu quả trong việc sử dụng vốn đầu tư phát triển tài sản cố định.
Tiền đầu tư bị thất thoát ở mọi giai đoạn đầu tư và diễn ra nổi lên theo một số dạng sau đây: Nâng giá; Khai khống khối lượng; Bớt vật tư,tráo vật tư…Các hoạt động này diễn ra với nhiều thủ đoạn gian dối, tinh vi như: hối lộ quan chức, cán bộ; lợi dụng những sơ hở trong các quy định quản lý; mua bán hoá đơn chứng từ, lập hoá đơn chứng từ giả; tráo đổi vật tư, thiết bị đưa vào công trình; lập các công ty “ma”; liên kết giữa các nhà thầu; làm rối các thủ tục, quy trình triển khai quản lý; thiếu minh bạch, dân chủ trong quản lý dự án; phối hợp chặt chẽ, thông đồng giữa những kẻ có liên quan.
Trong đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB), mọi việc làm tăng chi phí đầu tư so với mức cần thiết dẫn đến làm giảm hiệu quả vốn đầu tư được coi là sự lãng phí.
Lãng phí diễn ra nổi lên ở một số dạng sau đây: Dự án được đầu tư khi chưa thực sự cần thiết phải đầu tư; Dự án được đầu tư với quy mô, công suất không phù hợp so với nhu cầu; Dự án được đầu tư với yêu cầu kỹ thuật và mỹ thuật không phù hợp so với nhu cầu; Dự án được đầu tư ở địa điểm và thời điểm không hợp lý; Thiết bị và công trình của dư án có chất lượng thấp làm giảm tuổi thọ của dự án; Tiến độ dự án bị kéo dài; Một số chi phí chung, chi phí khác, chi phí thiết bị, lao động và vật tư cao hơn thực tế; Một số khoản chi phí trong dự án được chi chưa tiết kiệm.
Các thực trạng nhức nhối trên đã đến lúc cần được loại bỏ để có thể nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn vào hoạt động đầu tư phát triển tài sản cố định hữu hình.
2.2 _ Về đầu tư vào nghiên cứu đổi mới, phát triển KHCN _ KT.
Hiện nay, trong những năm đổi mới cơ chế quản lý theo hướng thị trường có sự quản lý của nhà nước, các DNNN có cơ hội đổi mới công nghệ, lựa chọn hình thức đầu tư công nghệ mới, phần quan trọng vào sự tăng trưởng của sản xuất, cạnh tranh và trụ vững trong cạnh tranh với sản phẩm và dịch vụ của nước ngoài ở một số lĩnh vực.
Sự đổi mới công nghệ này có quan hệ không chỉ với máy móc thiết bị mà còn cả phương pháp tổ chức quản lý sản xuất, kỹ năng trình độ nghề nghiệp của người lao động…
Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng hoạt động đổi mới công nghệ trong các DNNN cho đến nay chưa phải là rộng khắp và có chiều sâu. Năng lực cạnh tranh dựa trên công nghệ còn yếu, tỷ lệ máy móc, thiết bị hiện đại, tiên tiến trong các DNNN còn thấp. Theo ước tính thì có khoảng 80 – 90% công nghệ hiện đại đang sử dụng tại nước ta là nhập ngoại. Nhìn chung công nghệ nước ta còn thua kém xa so với trình độ thế giới và khu vực. Nguyên nhân của nó đó là các doanh nghiệp ở nước ta diễn ra chủ yếu dưới 2 hình thức đó là: thứ nhất là thông qua liên doanh, tiếp cận chuyển giao công nghệ mới. Thứ hai là tự đầu tư mới công nghệ.
Trong tình hình đất nước còn yếu kém về nhiều mặt hiện nay ở nước ta thì chuyển giao công nghệ, nhập công nghệ thông qua con đường đầu tư nước ngoài là chủ yếu. Và định hướng này sẽ tiếp tục được thực hiện và nó đã và đang mang lại nhiều thành quả to lớn và rõ ràng trong nâng cao trình độ công nghệ cho các doanh nghiệp mà chủ yếu là DNNN. Tuy nhiên:
Việc chuyển giao công nghệ chưa phải là loại tiên tiến bởi: từ phía chuyển giao công nghệ các đối tác vì mục tiêu tìm kiếm lợi nhuậncao, nhanh nên ít chịu chuyển giao công nghệ hiện đại tiên tiến. Từ phía nhận chuyển giao công nghệ là các DNNN thường có tâm lý ỷ lại, trông chờ vào nhà nước, trình độ hiểu biết về công nghệ mới còn rất hạn chế, động lực trục lợi cá nhân, thiếu đội ngũ cán bộ chuyên môn, thụ động trong tìm kiếm công nghệ và trong đàm phán, thiếu định hướng chiến lược lâu dài về sản xuất kinh doanh; Và mặt khác cũng do môi trường kinh tế xã hội còn chưa thật phù hợp và hấp dẫn, bộ máy quản lý nhà nước còn yếu kém, bất cập đối với chuyển giao công nghệ, thiếu hệ thống mạng lưới thông tin về công nghệ và các dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp nói chung và cả DNNN, Và năng lực nghiên cứu và phát triển KHCN của đất nước còn nhiều yếu kém, chưa đủ nội lực cần thiết để làm cơ sở cho việc tiếp thu và phát triển các công nghệ nhập trog điều kiện cụ thể.
Chưa có thiết kế tổng thể về đổi mới công nghệ với những bước đi cụ thể và lộ trình đổi mới công nghệ: sự thiếu hụt này bao gồm từ định hướng chiến lược với những ưu tiên trong đổi mới công nghệ cho tới việc xây dựng khung chính sách, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp đổi mới công nghệ.
Những công nghệ được chuyển giao đổi mới trong thời gian qua chưa tạo được động lực thúc đẩy cần thiết cho việc tiếp tục nâng cao năng lực công nghệ và tự đổi mới công nghệ: Những chuyển giao đỏi mới về công nghệ cho đến nay chủ yếu trong lĩnh vực lắp ráp, gia công, chế biến. Nhũng chuyển giao công nghệ thời gian qua còn dừng lại ở khâu tiếp nhận, vận hành, chứ chưa tạo được mối liên hệ chặt chẽ với các cơ quan nghiên cứu và triển khai công nghệ để nghiên cứu thích nghi, cải tiến công nghệ. Công nghệ được chuyển giao chủ yếu do nước ngoài giới thiệu, các doanh nghiệp nói chung và các DNNN nói riêng đa phần là bị động và thụ động.
Năng lực nội sinh của các DNNN còn yếu chưa đủ khả năng tự quyết định trong đổi mới công nghệ: năng lực nắm bắt và cập nhật cũng như xử lý thông tin có liên quan đến công nghệ mới còn hạn chế, nó ảnh hưởng tiêu cực và lâu dài đến không chỉ định hướng phát triển trong doanh nghiệp mà trong nhiều trường hợp còn cả tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Năng lực lựa chọn và quyết định về đổi mới công nghệ còn rất hạn chế, năng lực đàm phán trong hoạt động công nghệ còn yếu.
Sự thiếu tiến bộ, thiếu hoàn chỉnh của cơ sở hạ tầng kinh tế cho hoạt động chuyển giao công nghệ: hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém không chỉ làm nản lòng các nhà đầu tư chuyển giao công nghệ và đổi mới công nghệ, mà còn làm cho hoạt động đổi mới công nghệ, công nghệ được đổi mới vừa bị hạn chế phát huy tác dụng vừa phân bổ không đều giữa các vùng lãnh thổ.Hệ thống dịch vụ hỗ trợ cho đổi mới công nghệ còn yếu kém, thiếu vắng nhiều.
2.3 _ Về đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
Một trong những biện pháp mà các doanh nghiệp thường làm là tuyển chọn lao động đầu vào có chất lượng cao, đặc biệt là đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đối với DNNN khi tuyển chọn thì dựa vào bằng cấp, học vị trong hồ sơ xin việc, còn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì họ dựa vào năng lực thể hiện thông qua cuộc thi thi tuyển chọn mà họ tổ chức từ đó họ đánh giá khả năng của ai là phù hợp với công việc của doanh nghiệp đặt ra.
Ta thấy rằng nếu so sánh giữa năng lực với bằng cấp thì năng lực là yếu tố quyết định giúp cho doanh nghiệp phát triển.
Hiện nay, ở nước ta bắt đầu xuất hiện hình thức thuê người quản lý như giám đốc vào làm trong các doanh nghiệp. Tuy nhiên nó chỉ mới phổ biến ở các doanh nghiệp nước ngoài; còn đối với DNNN thì còn mới mẻ, còn là chủ đề bàn bạc thảo luận. Nếu được chính phủ chấp nhận thì có thể hi vọng vào sự phát triển mạnh mẽ của DNNN. Việc thuê này là một biện pháp hiệu quả song rất tốn kém.
Việc tuyển chọn này có thể giúp doanh nghiệp lựa chọn được những nhân viên có năng lực phù hợp với công việc đặt ra song nó rất tốn kém bởi chi phí phải bỏ ra để tổ chức thi, việc lựa chọn những người có kinh nghiệm gặp khó khăn…
Ngoài việc tuyển chọn thì hình thức đào tạo và đào tạo lại thường được sử dụng ở các DNNN: tính đến năm 2003 thì tổng số cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng là 1,213 triều lượt. Các hình thức đào tạo rất phong phú, đa dạng như tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức, tập huấn, gửi đi học nước ngoài…trong 3 năm từ 2002 đến 2005 thành phố HCM đã có kế hoạch đưa 1000 kỹ sư đi làm việc tại Bắc Mỹ, trong đó chủ yếu là Mỹ và Canada. Các kỹ sư này sau khi trở về Việt Nam đã trở thành lực lượng nòng cốt XD và phát triển công nghệ phần mềm…Nhìn chung doanh nghiệp đã dùng nhiều hình thức khác nhau để hỗ trợ nhân viên nâng cao trình độ, kỹ năng, kiến thức…trong đó phổ biến nhất vẫn là biện pháp trả lương cho nhân viên trong thời gian đi học. Phần lớn các DNNN đều thực hiện các chương trình đào tạo khác nhau, chi phí đào tạo khoảng 1 – 3% quỹ lương. So với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì DNNN hỗ trợ cho nhân viên đi học là nhiều hơn, 66,7% doanh nghiệp trả toàn bộ học phí cho nhân viên được cử đi đào tạo, còn 33,3% là doanh nghiệp tổ chức các khoá đào tạo và trả lương trong thời gian đi học. Còn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì 50% tổ chức các khoá đào tạo và trả lương trong thời gian đi học, còn 50% thì trả toàn bộ và 1 phần học phí…Để tiết kiệm chi phí đào tạo thì một số doanh nghiệp đã áp dụng hình thức đào tạo trực tiếp bằng cách cử nhân viên có kinh nghiêm giảng dạy cho các nhân viên ít kinh nghiệm hơn hoặc là tiến hành theo phương pháp vừa học vừa làm. Hình thức này không chỉ tíêt kiệm được chi phí đào tạo cho doanh nghiệp mà còn giúp doanh nghiệp có những lao động phù hợp với điều kiện sản xuất của doanh nghiệp.
Việc tổ chức đào tạo và đào tạo lại đã nâng cao được trình độ của nhân viên phù hợp với công việc của doanh nghiệp, mặt khác nó còn giúp cho lao động nâng cao được tiền lương của mình…Đối với các DNNN thì việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý sẽ giúp DNNN phát triển bền vững và giữ vững được vị trí chủ đạo và định hướng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước. Tuy nhiên hình thức này vẫn còn có sự trùng lặp, còn nặng về lý thuyết trong khi yếu tố kỹ năng tác nghiệp, thực hành còn yếu, mặt khác một số DNNN đào tạo lao động nhằm tiêu hết quỹ tiền đào tạo bởi vậy mà hiệu quả đào tạo chưa cao.
Bên cạnh việc lực chọn và đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ, nhân viên, lao động thì môi trường làm việc và các điều kiện khuyến khích người lao động làm trong DNNN ngày càng được thông thoáng. Gần đây Chính phủ đã cho phép các DNNN được phép chi trả lương cho cán bộ công chức cao hơn tiền lương chung (nghị định 114/2002/NĐCP). Điều này đã tạo cho các DNNN chủ động hơn trong việc khuyến khích người lao động làm việc có hiệu quả hơn. Thêm vào đó theo chế độ lương mới nếu cán bộ công chức làm việc thêm trong ngày lễ thì sẽ được tăng 300% tiền lương. Ngoài ra nều có thành tích xuất sắc sẽ được tăng lương trước thời hạn 1 năm, ngược lại nếu không hoàn thành nhiệm vụ hay bị kỷ luật sẽ kéo theo 1 năm không được tăng lương…Bên cạnh đó môi trường làm việc trong DNNN đạt mức độ an toàn tương đối cao trừ các Doanh nghiệp sản xuất. Việc trả lương đúng thời hạn và trả đủ lương cũng khuyến khích tinh thần làm việc của người lao động bởi chính nó đã đáp ứng mục đích của họ. Bộ lao động thương binh xã hội đã cho giảm tuổi nghỉ hưu của công nhân khai thác hầm mỏ xuống 50 tuổi là được nghỉ hưu…Nhìn chung thì môi trường làm việc trong DNNN đang ngày càng được quân tâm và có nhiều chế độ khuyến khích, ưu đãi hơn cho người lao động.
2.4 _ Đầu tư vào tài sản trí tuệ.
Hiện nay đầu tư vào tài sản trí tuệ bao gồm một số lĩnh vực:
Thứ nhất là đầu tư cho các phát minh sáng chế, các giải pháp hữu ích. Đó là hợat động đầu tư trong đó nhà đầu tư bỏ tiền và tri thức để ứng dụng hiệu quả trong thực tế. Sự sáng tạo của sản phẩm thể hiện sự đột phá so với trình độ kỹ thuật chung do đó tạo ra giá trị mới rất lớn, tồn tại lâu dài và tạo ra sức cạnh tranh cap của sản phẩm. Hoạt động đầu tư này được thực hiện dưới 2 phương thức: tự đầu tư nghiên cứu đê tạo ra các sáng chế giải pháp hữu ích hoặc mua lại công nghệ kèm với sáng chế và giải pháp hữu ích.
Nói chung xu hướng của các doanh nghiệp là thường mua công nghệ đi kèm với chuyển giao các sáng chế và giải pháp hữu ích, còn việc tự nghiên cứu chủ yếu được thực hiện ở quy mô quốc gia, trong các viện nghiên cứu, trung tâm khoa học hay các trường đại học. Do đó đối với hoạt động đầu tư này doanh nghiệp chưa có sự đầu tư đúng mức và chủ động.
Thứ hai là đầu tư vào bản quyền và các quyền cận kề trong lĩnh vực in ấn, giải trí, phát thanh truyền hình. Thực chất của hoạt động này là việc xây dựng và thực hiện và các quyền sở hữu tác phẩm, văn chương, nghệ thuật khoa học. Giá trị của nó được biểu hiện khi bán quyền sở hữu này cho người khác. Nói chung hoạt động đầu tư này đòi hỏi nhiều thời gian và chất xám và nó thường được đề cập đến với tư cách cá nhân hơn là các tổ chức doanh nghiệp.
Thứ ba là đầu tư nhãn hiệu thương mại, tên gọi xuất xứ hàng hoá. Đây không phải là hoạt động trực tiếp mà nó là kết quả của một loạt các yếu tố được đầu tư từ tài sản hữu hình như chất lượng sản phẩm, đặc tính nổi trội của sản phẩm. Do đó đây là một hoạt động đầu tư tốn rất nhiều thời gian và công sức, kết quả của nó là sự tổng hợp của các yếu tố. Một nhãn hiệu như cocacola, bưởi năm roi…chỉ có thể được công chúng biết đến và tin cậy khi nó tạo được ấn tượng tốt trong lòng khách hàng.
2.5 _ Đầu tư vào thương hiệu.
Một trong những từ xuất hiện nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng trong những năm gần đây là thương hiệu. Thương hiệu đã trở thành mối quan tâm không chỉ của doanh nghiệp mà còn cả của nhà quản lý và dư luận XH. Hiện nay khái niệm thương hiệu chưa có khái niệm thống nhất nhưng nó được khẳng định là TSVH của doanh nghiệp. Thương hiệu chắc chắn không chỉ dành cho các nhà kinh doanh hàng hoá tiêu dùng. Một nhà kinh doanh, một doanh nghiệp cho dù đang kinh doanh ở lĩnh vực nào thì cũng cần phải xây dựng thương hiệu cho mình. Hàng trăm tỷ đô la đang đổ ra trên thế giới mỗi năm đầu tư cho thương hiệu có cả những doanh nghiệp sản xuất từ cây kim sợi chỉ cho tới những doanh nghiệp sản xuất máy bay. Một khoản đầu tư cho thương hiệu hiệu quả là điều nên làm cho dù có thể đánh đổi bởi lợi nhuận.
Bản chất của thương hiệu là nhãn hiệu được thương mại hoá. Thương hiệu bao gồm: biểu tượng của công ty , biểu tượng, khẩu hiệu, tông màu, địa chỉ liên lạc và kể cả mùi vị đặc trưng…có nhiều loại đầu tư vào thương hiệu như đầu tư vào thương hiệu: doanh nghiệp,gia đình, cá nhân, tập đoàn, và nhà nước.
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm tăng tính hiệu quả của đầu tư phát triển trong DNNN.
I _ Đối với Chính phủ.
1. Đẩy mạnh công tác xắp xếp doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
- Trước hết cần phân loại, xác định rõ hai khu vực doanh nghiệp nhà nước: kinh doanh và công ích. Việc phân loại này dựa trên quy định của Luât doanh nghiệp nhà nước.Với các doanh nghiệp công ích chúng ta tiến hành:
+ chuyển sang chế độ khoán dịch vụ công ích thay cho chế độ bao cấp doanh nghiệp công ích.
+ Xã hội hoá các dịch vụ công ích thông qua các hình thức đấu thầu dịch vụ công ích, cho thuê doanh nghiệp công ích.
+ Tách phần kinh doanh của doanh nghiệp công ích để bớt phụ thuộc vào trợ cấp từ ngân sách nhà nước.
- Đối với các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh ta phân loại căn cứ vào các tiêu chí tầm quan trọng của ngành nghề, lĩnh vực hoạt động, từ đó đưa ra các biện pháp cần thiết về tổ chức lại quy mô xác định tỷ lệ và tính chất cổ phần nhà nước, cho phép độc quyền hay khuyến khích cạnh tranh…Căn cứ vào các tiêu chí trên, các doanh nghiệp này đã được phân thành bốn nhóm:
+ Các doanh nghiệp nhà nước cần giữ hình thức 100% vốn.
Đây là các doanh nghiệp đặc biệt quan trọng để đảm bảo tính chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước ở những lĩnh vực cần thiết hay các doanh nghiệp đảm bảo nhu cầu phát triển sản xuất và nâng cao đời sống vật chất tinh thần của đồng bào các dân tộc miền núi và vùng sâu,vùng xa.
+ Các doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước nắm cổ phần chi phối.
Đây là các doanh nghiệp có vai trò khá quan trọng trong việc đảm bảo vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước, hoạt động trong các lĩnh vực tạo ra các cơ sở cần thiết cho sự vận hành của nền kinh tế như khai thác khoáng sản, vận tải hàng không, đường sắt, bưu chính viễn thông, kinh doanh xăng dầu…
+ Các doanh nghiệp cổ phần hoá toàn bộ hoặc một phần.
Đây là các doanh nghiệp không có tầm quan trọng đặc biệt đang hoạt động có lãi hoặc có triển vọng có lãi. Chúng ta sẽ tiến hành cổ phần hoá tuỳ sức mua của cán bộ công nhân viên và thị trường vốn, có thể cổ phần hoá toàn bộ hoặc một phần.
+ Các doanh nghiệp giao, bán, khoán và cho thuê.
Đây là các doanh nghiệp nhà nước không quan trọng có vốn dưới 1 tỷ đồng hoặc làm ăn yếu kém kéo dài mà nhà nước không cần phải nắm giữ, doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng thua lỗ kéo dài trên 2 năm liên tục mà nhà nước cũng không cần phải nắm giữ.
Với các doanh nghiệp này ta cổ phần hoá toàn bộ hoặc nếu không cổ phần hoá được thì tiến hành một trong các hình thức giao, bán, khoán và cho thuê.Với các doanh nghiệp yếu kém, không cần thiết tồn tại độc lập thì có thể sáp nhập vào các doanh nghiệp khác hoặc giải thể, phá sản.
- Để thực hiện sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh, song song với việc thực hiện các phương án trên ta cần thực hiện đồng bộ các giải pháp kèm theo như sau:
+ Củng cố đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý các tổng công ty.
+ Kết hợp sắp xếp lại với đầu tư mới hoặc cải tạo hiện đại hoá các doanh nghiệp nhà nước cần thiết.
+ Các cơ quan có trách nhiệm chỉ đạo đổi mới kinh tế và các Bộ ngành địa phương cần quán triệt nhận thức về các giải pháp sắp xếp doanh nghiệp nhà nước, thực hiện đồng bộ các biện pháp sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước.
+ Tổ chức tuyên truyền vận động rộng rãi trong công chúng để nhận được các ý kiến xây dựng về đổi mới doanh nghiệp nhà nước, mặt khác hiểu rõ chính sách của nhà nước, hăng hái mua cổ phần, qua đó đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá.
+ Hình thành đồng bộ các loại thị trường, phát triển thị trường vốn (đặc biệt là thị trường chứng khoán), phổ biến các phương thức định giá doanh nghiệp, cải tiến thủ tục hành chính liên quan.
+ Hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô. Cần làm lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, ổn định tiền tệ kiềm chế lạm phát nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống ngân hàng.
+ Điều chỉnh và hoàn thiện hệ thống luật pháp về kinh tế thị trường. Ban hành pháp lệnh về chống độc quyền, hạn chế các hoạt động đầu cơ, bán phá giá, lừa đảo làm ảnh hưởng không tốt đến sự vận hành của thị trường. Tạo các hành lang pháp lý thuận lợi cho việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước.
+ Xây dựng chương trình tổng thể quốc gia về cổ phần hoá. Xác định tổng số doanh nghiệp cần tiến hành cổ phần hoá của cả nước, của từng địa phương từng bộ ngành. Xác định lộ trình cổ phần hoá cụ thể cho từng ngành, từng địa phương, từng doanh nghiệp trong một lộ trình tổng thể của cả nước.
Quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước bước đầu đã gặp phải nhiều khó khăn.Một trong những khó khăn chủ yếu là tiến độ cổ phần hoá còn khá chậm so với đòi hỏi của thực tiễn và so với tiến độ đặt ra. Theo một nguồn tin từ Tổng cục Thống kê, trong năm 2005, cả nước sẽ phải cổ phần hoá 724 doanh nghiệp mà trong 8 tháng đầu năm mới hoàn thành cổ phần hoá được 99 doanh nghiệp, đạt 15% so với yêu cầu. Nguyên nhân chính là do các bộ ngành địa phương chưa tích cực triển khai sắp xếp doanh nghiệp nhà nước, trông chờ vào Thủ tướng Chính phủ phê duyệt bổ xung phương án sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp.
Tuy nhiên bước đầu quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã có được nhiều thành công nhất định, tạo được tiếng vang lớn trên thị trường vốn. Tháng 2/2005 đã tiến hành cổ phần hóa Công ty Sữa Việt Nam (Vinamilk), Nhà nước giữ 80% vốn điều lệ của công ty, 20% còn lại được bán cho cán bộ nhân viên công ty và các cổ đông bên ngoài. Cuộc đấu giá cổ phần Vinamilk đã mang lại lợi nhuận cao cho Nhà nước, đem về cho Nhà nước gần 400 tỷ đồng. Thành công của việc đấu giá cổ phần Vinamilk còn khẳng định hiệu quả chủ trương của Chính phủ. Theo đó, đấu giá thông qua sàn giao dịch, hình thức mua bán công khai và công bằng, mang lại giá trị lợi nhuận nhiều hơn việc bán theo hình thức thông thường hoặc đấu giá không qua sàn mà lâu nay vẫn bị chỉ trích là thiếu minh bạch, chỉ phục vụ lợi ích một số ít nhà đầu tư hoặc thành viên trong DN cổ phần hóa.
Nhìn chung, các doanh nghiệp sau khi được cổ phần hoá đều có những bước chuyển biến tích cực, thích ứng được với cơ chế thị trường; trình độ quản lý và thiết bị công nghệ có nhiều tiến bộ, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đồng vốn được bảo toàn và tăng thêm... Hầu hết các doanh nghiệp khi cổ phần hoá, trách nhiệm và sự đóng góp công sức của người lao động được nâng lên, công tác điều hành quản lý ngày càng chặt chẽ và hợp lý hơn nên đã giảm được chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Bởi vậy, kết quả sản xuất kinh doanh của các công ty đều có lãi và khắc phục được tình trạng hiệu quả sản xuất không cao, thậm chí bị lỗ khi còn là doanh nghiệp nhà nước. Các công ty cổ phần hoạt động theo Luật doanh nghiệp, vai trò của Hội đồng quản trị đã được nâng lên và đã chủ động được kế hoạch sản xuất kinh doanh nên nhanh nhạy hơn trong việc tìm kiếm đối tác và thị trường mới…. Nhờ đó, việc sản xuất kinh doanh của hầu hết các công ty đều có mức tăng trưởng cao hơn so với bình quân 3 năm trước khi cổ phần hoá.
2. Các giải pháp về cơ chế quản lý, cơ chế đầu tư và tài chính. Hình thành cơ chế sử dụng vốn có hiệu quả.
- Các doanh nghiệp nhà nước hiện nay vẫn chưa định hình rõ cơ chế quản lý, hoạt động theo cơ chế mang nặng tính bao cấp xin cho, được hưởng các ưu đãi của nhà nước dẫn đến ỷ lại, kém hiệu quả. Các giải pháp về cơ chế quản lý nhằm mục đích đưa các doanh nghiệp nhà nước trở lại hoạt động theo chế độ hạch toán, cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp khác mà vẫn đảm bảo tốt vị trí vai trò của mình. Nhà nước phải giám sát kiểm tra đánh giá được tình hình kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp. Cần tạo ra cơ chế thúc đẩy cạnh tranh đi đôi với minh bạch về tài chính. Cần có cơ chế thưởng phạt và quy trách nhiệm rõ ràng, nhất là đối với người đứng đầu cơ quan tổ chức.
- Với cơ chế đầu tư và tài chính, cần kiên quyết xoá bỏ cơ chế xin cho trong quan hệ tài chính giữa nhà nước,cơ quan chủ quản với doanh nghiệp nhà nước. Đưa hoạt động đầu tư chuyển sang hình thức quỹ đầu tư hoặc công ty đầu tư tài chính của nhà nước. Đây là các thiết chế tài chính công chịu trách nhiệm đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước, bảo toàn vốn, điều phối vốn theo kiểu các công ty đầu tư tài chính (holding company). Đưa vào hoạt động các công ty tài chính chuyên xử lý nợ (factoring company), nâng cao hiệu lực của toà án kinh tế, chấm dứt tình trạng nợ khó đòi. Tháng 2/2004, công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng (DATC) thuộc Bộ Tài chính chính thức ra mắt, trở thành công ty đầu tiên có quy mô quốc gia có nhiệm vụ mua các khoản nợ và tài sản tồn đọng của DN (bao gồm cả tài sản và quyền sử dụng đất ) bằng các hình thức thoả thuận trực tiếp, đấu giá hoặc theo chỉ định.
- Tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp nhà nước được huy động vốn từ nhiều nguồn. Doanh nghiệp nhà nước tự chịu trách nhiệm sử dụng hiệu quả và trả nợ vốn vay. Mở rộng và đa dạng hoá các hình thức thuê mua tài chính.
- Cần phân cấp và xác lập quyền sở hữu của nhà nước với doanh nghiệp, phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp nhà nước. Việc này sẽ bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
3. Đầu tư mũi nhọn trong từng ngành ,hình thành các tập đoàn kinh tế.
- Báo cáo của Bộ Tài chính về tình hình quản lý tài chính đầu tư xây dựng cơ bản qua 6 tháng đầu năm 2005 đã nhận định :” Việc bố trí vốn đầu tư phân tán, dàn trải là tồn tại lặp đi lặp lại nhiều năm nay trong công tác xây dựng kế hoạch đầu tư ở cả trung ương và địa phương, gây lãng phí lớn, làm hiệu quả đầu tư thấp, nhưng chậm được khắc phục.”
Hiện nay,tình trạng vi phạm thủ tục đầu tư thể hiện ngay trong khâu bố trí kế hoạch năm vẫn còn khá phổ biến. Một số Bộ, ngành chưa chấp hành nghiêm túc các quy định về thời hạn phân bổ kế hoạch và giao kế hoạch cho chủ đầu tư. Chất lượng hồ sơ chuẩn bị không đảm bảo. Số lượng và trình độ cán bộ không phù hợp. Nhiều dự án dở dang không đưa vào sử dụng được. Tình hình này đã gây ra tình trạng lãng phí nợ đọng nghiêm trọng, đôi khi còn dẫn đến tệ tham nhũng đã trở thành bệnh kinh niên của nền kinh tế nước ta. Để giải quyết vấn đề này, bộ trưởng bộ kế hoạch đầu tư Võ Hồng Phúc đã nêu ra ý kiến “tôi tán đồng với ý kiến là đưa ra cơ chế giám sát việc lên kế hoạch dự án cho các HĐND và UBND để quyết định trong mỗi kỳ họp Quốc hội. Có như vậy mới xử lý được đầu tư dàn trải, chứ như trước đây là không kiểm soát được mà trách nhiệm cũng không thuộc về ai. Có vấn đề vi phạm là phải quyết tâm xử lý luôn”.
- Để tăng tính hiệu quả của đầu tư trong doanh nghiệp nhà nước, tăng tính cạnh tranh trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đòi hỏi phải tiến tới xây dựng củng cố các tổng công ty theo hướng hình thành các tập đoàn kinh tế.
+ Các tổng công ty phải có cơ cấu mềm dẻo, thành lập trên cơ sở có các doanh nghiệp nhà nước nòng cốt. Cần có quy hoạch cụ thể tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp gia nhập tổng công ty.
+ Các tổng công ty phải có tiềm lực tài chính mạnh,dần trở thành các tập đoàn kinh doanh mạnh tham gia cạnh tranh quốc tế. Đa dạng hoá sản xuất kinh doanh, tạo nên các tổng công ty đa ngành, đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường và hạn chế rủi ro trong đầu tư.
+ Phân định rõ ràng quyền sở hữu và quyền quản lý trong các tổng công ty. Quy định rõ về trách nhiệm và thẩm quyền của mỗi tổ chức. Cần nâng cao vai trò chủ sở hữu của Hội đồng quản trị. Thực hiện công ty hoá các doanh nghiệp nhà nước.
4. Thúc đẩy liên kết hỗ trợ giữa các doanh nghiệp nhà nước với các thành phần kinh tế khác kể cả kinh tế tư nhân và nước ngoài.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Phải đổi mới căn bản tổ chức quản lý và nâng cao hiệu quả khu vực doanh nghiệp nhà nước…phát triển các hình thức liên doanh liên kết trực tiếp giữa các doanh nghiệp nhà nước với nhau, giữa kinh tế nhà nước với kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản tư nhân, cá thể và các công ty nước ngoài”.Những vấn đề trên vẫn còn giữ nguyên giá trị và tính thời sự cấp bách. Hơn bao giờ hết càng cần phải nâng cao hiệu quả trong tổ chức hoạt động và liên kết phối hợp hoạt động với các khu vực khác.
5. Bồi dưỡng phát triển các nguồn nhân lực, đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý.
Hiện nay vấn đề nhân lực nhất là nhân lực trình độ cao đang là vấn đề cấp thiết đối với các doanh nghiệp nhà nước. Cần tạo lập hình thành quỹ phát triển nguồn nhân lực. Chú trọng đào tạo cho các nhà quản lý đầy đủ các kỹ năng như kỹ năng chuyên môn, kỹ năng chiến lược, kỹ năng quan hệ…Chú trọng đào tạo đội ngũ kế cận, và tạo môi trường thuận tiện cho việc phát triển.
II _ Đối với doanh nghiệp.
1 _ Vấn đề lao động và việc làm trong DNNN.
Vấn đề lao động và việc làm có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của lộ trình đổi mới và phát triển DNNN.
Các DNNN phải tiến hành rà soát định mức, định biên lao động để xác định số lượng lao động hợp lý theo nguyên tắc “có việc – có người”, đảm bảo gời công, ngày công, thu nhập theo luật định. Chấm dứt việc tiếp nhận lao động, thuê mướn nhân công thời vụ một cách tuỳ tiện làm cho năng suất lao động thấp, tỷ lệ thiếu việc, chờ việc cao. Tăng cường giám sát việc thực hiện quỹ tiền lương và tuyển dụng lao động của DNNN…
Hướng giải quyết cho các đối tượng làm việc trong các doanh nghiệp:
- Số lượng có tên trong danh sách làm việc ở doanh nghiệp thành viên nhưng do không có việc làm nên đã tự tìm được việc làm ở nơi khác hoặc chưa tìm được việc làm mà chưa được hưởng các chế độ mất việc do pháp luật quy định thì được hưởng trợ cấp mất việc làm, sử dụng chi phí đào tạo, hỗ trợ BHXH cho những người còn chưa đủ 5 năm nữa mới đến tuổi nghỉ hưu.
- Số lao động sẽ mất việc do doanh nghiệp giải thể, phá sản khi thực sắp xếp thì được trả trợ cấp nửa tháng lương cho 1 năm làm việc theo quy định tại Bộ luật lao động, đồng thời được Nhà nước hỗ trợ thêm nữar tháng lương cho 1 năm làm việc.
- Số lao động dôi dư khi thực hiện hình thức chuyển đổi sở hữu, sáp nhập thì sử dụng Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá DNNN để tổ chức đào tạo, đào tạo lại để có thể tiếp tục làm việc tại các doanh nghiệp đó hoặc tìm việc làm mới, có cơ chế để doanh nghiệp có điều kiện xuất khẩu số lao động này…
Nguồn tiền để giải quyết chính sách cho số lao động dôi dư và không có việc làm thì ngoài phần lấy từ quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, còn được hỗ trợ thêm từ ngân sách và các nguồn tài chính có thể khác.
Tổ chức các chương trình hỗ trợ việc làm theo hướng tập trung vào việc tư vấn tìm việc làm, tự đứng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA271.doc