Đề tài Lỗ doanh nghiệp liên doanh: nguyên nhân và giải pháp

Tài liệu Đề tài Lỗ doanh nghiệp liên doanh: nguyên nhân và giải pháp: Lời nói đầu Doanh nghiệp liên doanh-một hình thức đầu tư trực tiếp nớc ngoài chủ yếu ở nước ta trong thời gian qua đạt được nhiều thành tựu to lớn. Nó đã góp nguồn vốn quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế đất nước, góp phần mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế thông qua đó góp phần mở rộng thị trường của Việt Nam. Đồng thời, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn góp phần quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH;HĐH đất nước , tạo ra hàng vạn lao động trực tiếp lẫn gián tiếp, góp phần thay đổi bộ mặt đất nước... Tuy nhiên, cũng trong thời gian qua hàng loạt các doanh nghiệp liên doanh tuyên bố bị thua lỗ, kéo dài triền miên, kể cả các liên doanh có tiềm lực tài chính mạnh như liên doanh CoCa-CoLa NgọcHồi,Chương Dương, liên doanh ABB...cũng bị lỗ nặng. Kinh doanh trong cơ chế thị trường vấn đề lỗ,lãi là chuyện bình thường, nó có thể xảy ra ở bất cứ loại hình doanh nghiệp nào dù đó là doanh nghiệp có quy mô lớn hay quy mô bé, doanh nghiệp FDI hay doanh nghiệp nội...

doc33 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1131 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Lỗ doanh nghiệp liên doanh: nguyên nhân và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Doanh nghiệp liên doanh-một hình thức đầu tư trực tiếp nớc ngoài chủ yếu ở nước ta trong thời gian qua đạt được nhiều thành tựu to lớn. Nó đã góp nguồn vốn quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế đất nước, góp phần mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế thông qua đó góp phần mở rộng thị trường của Việt Nam. Đồng thời, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn góp phần quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH;HĐH đất nước , tạo ra hàng vạn lao động trực tiếp lẫn gián tiếp, góp phần thay đổi bộ mặt đất nước... Tuy nhiên, cũng trong thời gian qua hàng loạt các doanh nghiệp liên doanh tuyên bố bị thua lỗ, kéo dài triền miên, kể cả các liên doanh có tiềm lực tài chính mạnh như liên doanh CoCa-CoLa NgọcHồi,Chương Dương, liên doanh ABB...cũng bị lỗ nặng. Kinh doanh trong cơ chế thị trường vấn đề lỗ,lãi là chuyện bình thường, nó có thể xảy ra ở bất cứ loại hình doanh nghiệp nào dù đó là doanh nghiệp có quy mô lớn hay quy mô bé, doanh nghiệp FDI hay doanh nghiệp nội địa,doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp Nhà Nước...Nhưng để cho bị lỗ nhiều năm kéo dài triền miên lại là chuyện không bình thường,cần phải tìm ra nguyên nhân để hạn chế mức thấp nhất lỗ doanh nghiệp. Vấn đề lỗ doanh nghiệp liên doanh được Nhà Nước đặc biệt quan tâm và với mong muốn tìm vấn đề trên.Em đã quyết định lựa chọn đề án môn học với đề tài “ Lỗ Doanh nghiệp liên doanh: Nguyên Nhân và Giải Pháp”. Nội dung được chia làm ba chương như sau: ChươngI: Những vấn đề chung. ChươngII: Nguyên nhân. ChươngIII: Giải pháp. Cuối cùng em xin chân thành biết ơn các thầy cô trongkhoavàđặcbiệt dưới sự hướng hẫn tận tình của thầy giáo Ths Bùi Huy Nhượng đã giúp em hoàn thành đề án môn học của mình. Do sự hiểu biết có hạn nên khi thực hiện khó có thẻ tránh khỏi thiếu sót. Em tha thiết mong sự góp ý phê bình của thầy cô và bạn bè để lần sau hoàn thiện tốt hơn. Chương I Những vấn đề chung I. Khái niệm và đặc trưng của doanh nghiệp liên doanh. 1. Khái niệm. Xí nghiệp liên doanh là mội hình thức tổ chức các mối quan hệ giữa các bên tham gia mang quốc tịch khác nhau trên cơ sở cùng sở hữu chung về vốn góp, cùng tham gia quản lý, cùng phân phối lợi nhuận, cùng chia sẻ rủi ro để tiến hành các hoạt động sản xuất, tiêu thụ, nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu chiển khai theo các điều khoản đực ghi trong hợp đồng liên doanh ký kết giữa các bên tham gia. 2. Đặc trưng của doanh nghiệp liên doanh. 2.1 Đặc trưng vè kinh tế. Xí nghiệp liên doanh là môt thực thể kinh doanh đọc lập, đươc thành lập dựa trên những sự khác biệt của các bên tham gia: sự khác biệt về cuốc tịch ,sự khác biệt về hệ thống pháp luật, sự khác biệt trong hẹ thống quản lý ,sự khác biệt về những tiêu chuẩn của hệ thống tài chính, sự khác biệt về công nghệ và những khác biệt về cá mức văn hoá. Do đó sự tồn tại của nó phải được dựa trên cơ sở phối hợp lỗ lự của các bên tham gia và thể hiên ở chỗ: Cùng sở hữu về vốn góp : các bên tham gia có thể igóp vốn bằng tiền mặt, máy móc thiết bị, chi tiết, phụ tùng,đất ddai nhà xưởng, quyền sử dụng mặt nươc, mặt biển, các dịch vụ xây dựng , sản xuất, phục vụ các bằng phát minh, sáng chế...Ngoài ra các bên còn đóng góp khả năng, kinh nghiệm uy tín công ty hoặc nhãn hiệu hàng hoá ... Cùng tham gia quản lý : các bên tham gia cùng phối hợp xây dựng bộ máy quản lý hoạt động kinh doanh, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý hoạt động liên doanh, đội ngũ công nhân và nhân viên phục vụ, đồng thời tạo ra môi trường hoạt động nội bộ liên doanh thích hợp với điều kiện của nước sở tại. Cùng phân phối lợi nhuận : các bên tham gia liên doanh cùng tiến hành phân phối các khoản lợi ích thu được từ doanh nghiệp theo những điều khoản được thoả thuận giữa các bên. Thông thường lợi nhuận của liên doanh phân phối giữa các bên căn cứ vào tỷ lệ tài sản đóng góp vào liên doanh. Cùng chia xẻ rủi ro ,mạo hiểm: quá trình hoạt động của liên doanh thường gặp phải những mrủi do quá trình thiết kế liên doanh không chu dáo, do những biên động của thị trường, do cạnh tranh hoặc những nguyên nhân bất ngờ khác. Thiệt hại này do các bên tham gia chịu. 2.2 Đặc trưng về pháp lý Một liên doanh là một hình thức pháp lý thông nhất, hoạt động theo luật pháp của nước của nước sở tại. Xí nghiệp liên doanh có tư cách pháp nhân. Quyền lợi của các bên tham gia liên doanh đươc ghi trong hợp đồng liên doanh . Doanh nghiệp liên doanh được thành lập dưới dạng công ty TNHHhoặc CTCP, đôi khi nó còn được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm vô hạn hoặc các hiệp hội hữu hạn.Mỗi bên tham gia liên doanh đều có tư cách pháp lý riêng-chịu trách nhiệm pháp lý với bên kia và tư cách pháp lý chung-chịu trách nhiệm với toàn thể liên doanh.Nừu hợp đồng liên doanh là điều kiện cần để hình thành nên doanh nghiệp liên doanh thì điều lệ hoatj động của doanh nghiệp liên doanh là điều kiện đủ để đảm bảo tính chỉnh thể, tính độc lập của thực thể pháp lý này,nó cũng là cơ sở để phân biệt thực thể kinh doanh này với thực thể kinh doanh khác. Như vậy, hợp đồng liên doanh và điều lệ doanh nghiệp là hai văn bản pháp lý cơ bản quy định về mặt pháp lý của doanh nghiệp liên doanh, mỗi loại văn bản đóng một vai trò nhất định trong việc hình thành tính pháp lý của doanh nghiệp liên doanh II Quá trình hình thành và phát triển của xí nghiệp liên doanh của xí nghiệp liên doanh . Các liên doanh quốc tế được hình thành và phát triển cùng với lịch sử phát triển của các quan hệ thương mại và ddaau8f tư quốc tế. Lúc đầu quá trình buôn bán diễn ra một cách tự nhiên giữa các nước, sau đó dần dần thúc đẩy sự ra đời của dòng đầu tư quốc tế. Đầu tư quốc tế phát triển thúc đẩy quá trình buôn bán quốc tế. Nhiều nhà máy xí nghiệp của nước này được xây dựng ở nước khác hoặc nước này đi vay vốn của nước khác để tiến hành các hoạt động kinh doanh, sản xuất nhằm thu lợi ở nước ngoài. Hoạt động đầu tư quốc tế ban đầu chỉ nhằm tìm kiếm lợi ích bổ xung, diễn ra hoàn toàn có tính chất tự nhiên, dần dần trở thành dòng vận động chính của quá trình hợp tác giữa các công ty hoặc các nước khác nhau. Nguồn gốc của sự vận động này là sự phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, sự mở rộng cả về mức độ và phạm vi của quá trình phân công lao động quốc tế. Phân công lao động quốc tế - một quy luật có tính chất tự nhiên - thể hiện sự tập chung chuyên môn hoá sự sản xuất và cung cấp sản phẩm và dịch vụ vào một nước nhất định dựa trên ưu thế của nước đó về điều kiện tự nhiên, kinh tế, khoa học - công nghệ, chính trị - xã hội để đáp ứng nhu cầu của các nước khác thông qua trao đổi quốc tế, đã phá vỡ tính chất tách biệt của nền kinh tế từng nước, làm tăng sự liên hệ phụ lẫn nhau giữa nền kinh tế của các nước. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ làm thay đổi căn bản hệ thống tư liệu sản xuất - vừa là tiền đề, vừa là điều kiện thúc đẩy phân công lao động quốc tế và dòng đầu tư quốc tế. Sự phân công lao động quốc tế, khi đạt đến một trình độ nhất định, mỗi quốc gia hoặc một xí nghiệp chỉ tập trung vào các sản phẩm và dịch vụ mũi nhọn thì sự liên hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng càng lớn. Các quá trình sản xuất dan kết, thâm nhập lẫn nhau không chỉ nền kinh tế của các nước, mà còn giữa các xí nghiệp, công ty với nhau, hình thành những thực tế kinh doanh hợp nhất giữa các bên. Những thực tế kinh doanh này là mầm mống vật chất đầu tiên cuaar các liên doanh quốc tế. Như vậy liên doanh quốc tế xuất hiện là kết quả tất nhiên của sự vận động của dòng đầu tư quốc tế với nguồn gốc bên trong là sự phát triển của sự phân công lao động quốc tế. Lô - gich của sự ra đời liên doanh được thể hiện ở sơ đồ sau: Lô - gich của sự liên doanh quốc tế.Liên doanh quốc tế (xí nghiệp liên doanh) Hợp tác liên kết kinh tế quốc dân Các mối quan hệ kinh tế quốc tế Các mối quan hệ kinh tế Các mối liên hệ phổ biến III Kinh nghiệm thành lập và quản lý doanh nghiệp liên doanh ở một số nước Châu á. 1 Tại Đài Loan. 1.1 Về hình thức đầu tư. Theo luật công ty của Đài Loan thì có bốn hình thức pháp lý đối với các xí nghiệp liên doanh là: Công ty trách nhiệm vô hạn (được thành lập từ hai hay nhiều cổ đông phải chịu vô hạn đối với các nghĩa vụ của công ty). Công ty trách nhiệm hữu hạn ( có từ năm đến hai mươi cổ đông chịu trách nhiệm đối với các nghĩa vụ của công ty theo mức vốn đông góp);Công ty có cổ đông tham gia hữu hạn và vô hạn (được thành lập từ một hoặc một số cổ đông có trách nhiệm vô hạn và một hoặc một số cổ đông có trách nhiệm hữu hạn , các cổ đông có trách nhiệm hữu hạn chỉ chịu phần vốn góp của mình ); Công ty có số cổ phần hữu hạn ( có từ bảy cổ đông trở lên , vốn của công ty được chia thành các cổ phần và mỗi cổ đông chịu trách nhiệm trong phạm vi cổ phần của mình ). 1.2 Quy định về tỷ lệ góp vốn. Theo luật của Đài Loan, một công ty không thể là một cổ đông có trách nhiệm hữu hạn trong liên doanh với tổng số vốn đầu tư không vượt quá 40% số vốn của liên doanh. Lượng vốn tối thiểu để thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn là :500.000NT$( tương đương với 65.000USD0vaf công ty có số cổ phần hữu hạn là:1.000.000NT$. Nếu công ty tham gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu thì số vốn tối thiểu phải là 5.000.000NT$ đối với cả hai loại. 2.Tại Thái Lan 2.1 Quy định về hình thức liên doanh và quy định về góp vốn. Theo luật kinh doanh nước ngoài và các bộ luật khác như Bộ luật đất đai, hầu hết các xí ngiệp liên doanh ở Thái Lan đều do các đối tác Thái Lan sở hữu đa số.Một số xí nghiệp liên doanh là một hình thức hợp tác giưa hai hoặc nhiều bên để thực hiện các hoạt động thương mại. Nó có thể là một quan hệ bạn hàng hay một công ty tránh nhiệm hữu hạn hoặc một hình thức phi công ty. Nếu là hình thức phi công ty một liên doanh thường được hình thành trên cơ sở một hợp đồng tư nhân, không đăng ký giữa hai bên. Thông thường các bên đều đóng góp vốn, một bên góp công nghệ và bí quyết còn bên kia đóng góp các điều kiện sản xuất và kinh nghiệm về maketinh. Vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân được chia thành các cổ phần có giá trị ngang nhau. Mỗi cổ phần có giá trị 5 Baht. 2.2 Vấn đề tài chính thuế. Có nhiều loại thuế áp dụng đối với các xí nghiệp liên doanh ở Thái Lan được quy định trong hai đạo luật quan trọng là đạo luật về thu nhập và đạo luật về thuế gía trị gia tăng. Theo đạo luật về thu nhập, các loại thuế áp dụng đối với các xí nghiệp liên doanh gồm có thuế thu nhập, thuế kinh doanh ,thuế đánh vào lợi nhuận chuyển về nước, lệ phí chứng thư,thuế thu nhập cá nhân. Đối với thuế thu nhập công ty ( thuế lợi tức ) tỷ lệ thuế áp dụng là 35% Để khuyến khính các công ty lieen doanh tham gia tích cực vào thị trường chứng khoán, nếu công ty có đăng ký danh sách tại thị trường chứng khoán Thái Lan thì tỷ lệ thuế này là 305. Các phương pháp khấu hao “ gia tốc “ được áp dụng đối vơí các loại máy móc, thiết bị sử dụng trong liên doanh thuế kinh doanh - thuế đánh vào tổng doanh thu - thuế đánh vào tổng doanh thu của liên doanh hiện áp dụng ở các mức từ 0,1% đến 50%. Các hàng hoá xuất khẩu được miễn giảm thuế kinh doanh. Đối với thuế đánh vào lợi nhuận chuyển về nước được chia làm 3 mức: 15%, 20%, và 25%. Các loại lệ phí chứng thư áp dụng cho hoạt động chuyển nhượng các cổ phiếu ( 0,1% giá trị danh ngiã của cổ phiếu chuyển nhượng ), hoạt động vay nợ 0,05% giá trị khoản nợ vay với mức vay tối thiểu là 10.000 Bath hoặc thuế công nhân (tỷ lệ 0,1%). Thuế thu nhập cá nhân áp dụng đối với các loại cá nhân kinh doanh ở Thái Lan, tỷ lệ từ 5% đến 50%. Từ tháng 1/1992, thuế kinh doanh được thay bằng thuế giá trị gia tăng (VAT). Tỷ lệ thuế tối thiểu là 10% nhưng chính phủ Thái Lan sẽ còn giảm mức thuế này xuống còn 7%. Các xí nghiệp liên doanh sẽ có trách nhiệm đăng ký nộp thuế với Cục thuế trong vòng 30 ngày kể từ ngày bắt đầu hoạt động. 2.3 Môi trường pháp lý. Thủ tục thành lập các xí nghiệp liên doanh ở Thái Lan nói chung khá đơn giản.Một xí nghiệp liên doanh có thể được xét duyệt và được cấp giấy phép hoạt động trong vòng 30 ngày. Hội đồng đầu tư của thái lan là cơ quan quản lý việc thành lập các xí ngiệp liên doanh ở Thái Lan 3.Tại Hàn Quốc 3.1 Hình thức đầu tư và quy định về thể lệ góp vốn. Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài được ban hành vào năm 1960 nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Cho đền nay, luật đã sửa đổi một số lần theo hướng khuyến khích thành lập các xí nghiệp liên doanh, quy định 5 hình thức tổ chức xí nghiệp liên doanh với nước ngoài là công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn, công ty trách nhiệm vô hạn, công ty có số thành viên trách nhiệm hữu hạn và vô hạn và hình thức tổ chức quan hệ bán hàng. Theo bộ luật thương mại, những vấn đề cơ bản của pháp luật đầu tư nước ngoài vào Hàn Quốc được quy định theo đạo luật thu thu hút vốn đầu tư nước ngoài và chỉ có bốn hình thức tổ chức đầu mới hình thành một pháp nhân độc lập. Bốn loại hình tổ chức công ty này khác nhau ở tính chất hữu hạn hoạc vô hạn trách nhiệm của các thành viên về các khoản nợ hoặc các nghĩa vụ của các công ty. Trách nhiệm của từng cổ đông trong công ty cổ phần giới hạn trong cổ phần của công ty. Tương tự, trách nhiệm của từng thành viên trong công ty trách nhiệm hữu hạn giới hạn trong phần đóng góp của họ trong công ty. Mặc dù có những đặc điểm giống nhau nhưng công ty cổ phần nói chung được xem là hình thức tổ chức thích hợp nhất với thực thể kinh doanh có quy mô lớn trong công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ thích hợp với loại hình quy mô nhỏ. ngoài ra còn có sự khác nhau ở số lượng tối thiểu các thành viên, khả năng chuyển nhượng cổ phần hoặc cổ phiếu, cơ cấu quản lý và quá trình ra quyết định. Hai loại hình công ty trách nhiệm vô hạn và công ty có số thành viên hữu hạn và vô hạn có số thanhf viên trách nhiệm vô hạn nhưng không yêu cầu số vốn ban đầu phải được đóng góp đầy đủ trong thời gian thành lập liên doanh. Loại hình doanh nghiệp liên doanh thứ năm chỉ là một quan hệ bạn hàng ít được sử dụng ở Hàn Quốc. Các đối tác nước ngoài chỉ có thể tham gia vào quan hệ bạn hàng với tỷ lệ góp vốn tối đa là 50%. 3.2 Về cơ cấu tổ chức. Việc hình thành cơ cấu hội đồng quản trị trong các liên doanh dưới hình thức cổ phần ít nhất là ba thành viên. Các thành viên được lựa chọn bằng cách bỏ phiếu theo nguyên tắc đa số trong cuộc họp toàn thể các cổ đông. Nhiệm kỳ của hội đồng quản trị thông thường không quá 3 năm giám đốc công ty nước ngoài có thể tham gia làm giám đốc công ty của Hàn Quốc. 3.3 Vấn đề về thuế. Để khuyến khích các xí nghiệp liên doanh thành lập toà án ở Hàn Quốc do dự án sử dụng công nghệ tiên tiến,Chinhsw phủ Hàn Quốc áp dụng các biện pháp miễn và giảm thuế : Thuế lợi tức được giảm đối với phần tài sản của bên nước ngoài trtrong các xí nghiệp liên doanh trong năm thuế đầu tiên kể từ khi công ty bắt đầu kinh doanh hoặc giảm thuế trong 3 năm tiếp theo và giảm 50% đối với phần tài sản của nhà đầu tư nước ngoài trong 2 năm tiếp theo. Thuế thu nhập cổ phần đối với các nhà đầu tư nước ngoài của xí nghiệp liên doanh có đủ điều kiện được giảm 50% trong thời gian liên doanh. Các loại thuế liên quan đến tài sản dược giảm 50% đối với phần tài sản nhà đầu tư nưóc ngoài trong thời gian giảm thuế lợi tức.Đối với các tài sản của nhà đầu tư nước ngoài đã có từ trước khi thành lập nghiệp liên doanh ở Hàn Quốc thì mức thuế này sẽ áp dụng trong thời gian 5 năm đầu kể từ khi ngày đưa tài sản vào liên doanh . Các loại thuế hàng hoá tư bản nhập khẩu được giảm 50% trong những trường hợp nhất định nếu xí nghiệp liên doanh có đủ những điều kiên theo luật quy định. Việc ưu đãi về thuế cũng được áp dụng đối với các dự án liên doanh sử dụng công nghệ cao trên cơ sở danh mục các ngành công nghiệp chi tiết được Bộ tài chính Hàn Quốc quy định. Trong trường hợp xí nghiệp liên doanh tăng vốn bằng lợi nhuận thu được thì các khoản thuế trước đó sẽ được hoàn lại cho liên doanh kể từ ngày đăng ký tại tào án.Nếu liên doanh phát hành thêm cổ phiếu mới thì việc khuyến khích về thuế cũng sẽ được thực hiện giống như các cổ phiếu ban đầu. Chương II. Nguyên nhân I. Nguyên nhân khách quan. 1.Cung vượt quá cầu. Tuy nước ta có thị trường tiềm năng lớn với số dân gần 80 triệu người song nhu cầu có khả năng thanh toán không cao, số dân có thu nhập cao chưa nhiều, chưa ổn định. Hàng loạt các liên doanh ra đời cùng một số ngành với số vốn đầu tư lớn đã dẫn tới dư thừa năng lực sản xuất. Máy móc, thiết bị không được sử dụng hết công suất lại chịu sức ép của hao mòn vô hình làm tăng giá thành sản phẩm. Tình trạng này đang xảy ra ở một số ngành sản xuất quan trọng như mía đường, xi măng, thép cán, ô tô, xe máy, xe đạp, điện dân dụng, chất tảy rửa... Đây là hậu quả cấp giấy phép đầu tư ồ ạt, gây ra phát triển kinh tế “quá nóng” trong thời kỳ đầu. Em xin đưa ra dẫn chứng sau về ngành công nghiệp sản xuất ô tô ở Việt Nam, ta sẽ thấy sự điêu đứng của các liên doanh trong ngành sản xuất này. Năm 1991, ngành sản xuất, lắp ráp xe ô tô ở Việt Nam có một liên doanh là Mêkông Auto, đến nay đã có 14 liên doanh được cấp giấy phép, trong đó 11 liên doanh đã đi vào sản xuất và đã có sản phẩm trên thị trường. Công suất thiết kế của các công ty tối thiểu là 10 ngàn xe/ năm. Trong khi đó, mức tiêu thụ ô tô các loại trong cả nước hiện nay (kể cả xe mới và xe đã qua sử dụng nhập khẩu) chỉ khoảng 20 ngàn chiếc/ năm. Năm 1997, lượng xe nhập khẩu nguyên chiếc( phần lớn là xe đã qua sử dụng đã chiếm tới 14 ngàn chiếc). Các nhà sản xuất ô tô trong nước phải chia nhau “ chiếc bánh’’ thị trường khoảng gần 6 ngàn chiếc. Chính tình trạng cấp giấp phép liên doanh sản xuất ô tô ồ ạt, lượng xe nhập khẩu nguyên chiếc quá lớn đang làm điêu đứng ngành công nghiệp ô tô Việt Nam. Thực tế cho thấy, trong năm 1997 và quý I/1998 tất cả các liên doanh lắp ráp ô tô tại Việt Nam đều bị lỗ. Ngay cả xí nghiệp liên doanh sản xuất ô tô Hoà Bình( VMC) - đơn vị dẫn đầu về số lượng ô tô bán ra tại thị trường Việt Nam đều phải “ co’’lại, hoạt động cầm chừng. Theo ông Onishi – tổng giám đốc Mêkông Auto thì “để tồn tại các liên doanh phải tìm cách ăn thị phần của nhau” Một thực tế mà chung cùng cảnh quả trong các liên doanh khách sạn. Điều này cũng dễ hiểu, khi phòng thừa thì khách tha hồ lựa chọn và nguy hại hơn các khách sạn đang đi vào con đường phá giá chứ không phải hạ giá để khuyến mại. Qua số liệu khảo sát của Tổng cục du lịch, hiện nay hầu hết các khách sạn đều phải giảm giá phòng từ 50% - 70% so với giá khung tính thuế. Các cơ sở khách sạn cho thuê thì tìm đủ mọi cách để cạnh tranh nhau, còn khách trọ thì thay đổi liên tục chỗ thuê liên tục, làm cho tình hình kinh doanh khách sạn trở nên bất còn là vấn đề nhức nhối cho toàn nền kinh tế. Buôn lậu hàng thành phẩm, hoặc nhập linh kiện với thuế suất thấp về lắp ráp hoàn chỉnh tung ra thị trường đã làm ứ đọng sản phẩm, giảm doanh thu các doanh nghiệp liên doanh. Sự tiếp tay của một số cán bộ biến chất trong ngành hải quan, quản lý thị trường càng làm cho vấn đề trở nên nghiêm trọng. Hàng giả tồn tại ngày một tinh vi và phức tạp. Loại hàng nào bán chạy có lợi nhuận cao, lập tức bị bọn trục lợi bất chính tìm cách làm hàng g t trong những nguyên nhân chủ yếu nhất dẫn đến một loạt các doanh nghiệp liên doanh thời gian qua bị thua lỗ. Để làm rõ vấn đề này em xin trình bày các nội dung sau: 1.1. Hiểu bản chất “chuyển giá” là gì? “Định giá chuyển giao” là gì? và sự khác biệt giữa hai khái niệm này như thế nào? 1.2. Thực trạng “chuyển giá” trong các doanh nghiệp liên doanh tại Việt Nam. Các công ty đa quốc gia theo đuổi chiến lược toàn cầu, mở rộng hoạt động của mình trên khắp thế giới, do đó, một sản phẩm có thể bao gồm nhiều bộ phận được sản xuất ở nhiều nước khác nhau và các sản phẩm hoàn thành sẽ được bán rộng rãi khắp toàn cầu. Vấn đề này là phát sinh các nghiệp vụ nội bộ công ty rất phức tạp. Giá mà tại đó hàng hoá hay dịch vụ được chuyển giao gọi là giá chuyển giao. Mặc dù là giá hình thành trong nội bộ (tức là dựa trên cơ sở “có quen biết”) nhưng thông thường, luật pháp quốc tế đòi hỏi giá chuyển giao này phải được đánh giá theo tiêu chuẩn giá thị trường có nghĩa là nó được thực hiện như với những doanh nghiệp khác không có liên kết trên thị trường. Như vậy, khi thực hiện một ngiệp vụ chuyển giao qua lại giữa các công ty trong môt công ty đa quốc gia, trước hết nảy sinh nhu cầu là phải tính toán giá chuyền giao. Theo thuật ngữ chuyên môn, công việc này được gọi là định nghĩa chuyển giao(transfer pricing). Khi các công ty đa quốc gia xác định giá chuyển giao trong nội bộ cao hơn hay thấp hơn giá thị trường thì xảy ra hiện tượng chuẩn giá. Xét trên khía cạnh thuế, chuyển giá là một hành vi nhằm làm giảm đi số lợi tức, thu nhập mà các công ty con thực tế phải kê khai với cơ quan thuế Việt Nam để trốn và tránh thuế. Nhìn bề ngoài, hiện tượng chuyển giá ở Việt Nam được nhận dạng qua một số dấu hiệu rõ nét sau đây: + Đối với các yếu tố đầu vào, một số doanh nghiệp FDI thực hiện kê khai tăng giá đối với tài sản góp vốn, chi phí nguyên, vật liệu, chi phí gián tiếp... + Đối với các yếu tố đầu ra, một số doanh ngiệp FDI kê khai giá hàng xuất bán thấp hơn giá thực tế. Để thực hiện mục đích của mình, các công ty đa quốc gia có thể tính giá các ngiêp vụ chuyển giao thấp hơn hoặc cao hơn giá thị trường. Các nghiệp vụ chuyển giao này có thể thực hiện dưới hai hình thức: + Chuyển giao giữa công ty mẹ với một công ty con và ngược lại. + Chuyển giao giữa c ác công ty con có quan hệ liên kết với nhau. Như vậy, và thực chất hai khái niệm “ định giá chuyển giao’’ và “ chuyển giá’’ là không đồng nhất với nhau, mặc dù, xét về một khía cạnh nào đó, chúng có những nội dung giống nhau, bởi lẽ: “ định giá chuyển giao’’ là một khái niệm về các khía cạnh tích cực của một chính sách định giá chuyển giao của các công ty đa quốc gia thực hiện đối với nước chủ nhà và với chính quốc. Còn “ chuyển giá là một hoạt động chủ quan của các công ty đa quốc gia nhằm tối thiểu hoá số thuế phải nộp thông qua việc xác định giá trị các ngiệp vụ chuyển giao trong nội bộ công ty đa quốc gia không đúng với giá thị trường. 1.2. Phần này em trình bày các nhà đầu tư nước ngoài trong các liên doanh “nâng giá’’ đầu vào như chi phí sản xuất kinh doanh và chi phí khác như thế nào? Thứ nhất, với chi phi sản xuất kinh doanh. Chi phí sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp liên doanh bao gồm: chi phí vật tư, nguyên liệu đưa vào sản xuất và chi phí về khấu hao tài sản cố định. Về chi phí vật tư, nguyên liệu. Theo qui định hiện hành, các doanh nghiệp liên doanh được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ khi thu nhập chịu thuế các chi phí về nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, năng lượng, hàng hoá (gọi chung là chi phí vật tư, nguyên liệu) liên quan đến doanh thu và thu nhập chịu thuế trong kỳ. Mức chi phí được xác định dựa vào định mức tiêu hao vật tư hợp lý và giá thực tế vật tư xuất kho. Về chi phí khấu hao tài sản cố định. Một vấn đề bức xúc đặt ra trong quản lý chi phí khấu hao TSCĐ của các doanh nghiệp liên doanh đó là việc kiểm soát, xác định giá trị (nguyên giá) đích thực của máy móc thiết bị góp vốn liên doanh của bên nước ngoài. Điều 9, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 quy định. Giá trị phần vốn góp của mỗi bên trong doanh nghiệp liên doanh được xác định trên cơ sở giá trị thị trường tại thời điểm góp vốn. Giá trị thuết bị, máy móc dùng để góp vốn phải được tổ chức giám định độc lập cấp chứng chỉ, trong trường hợp cần thiết cơ quan quản lý nhà nước và đầu tư nước ngoài có quyền chỉ định tổ chức giám định để giám định lại giá trị các khoản vốn góp của các bên, Tuy vậy, đã 13 năm qua, kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài đến nay, chưa có cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền nào đứng ra ban hành những phương pháp và chuẩn mực làm căn cứ định giá, giám định và tái giám định giá trị và chất lượng tài sản cố định hữu hình, cũng như khung giá chuyển giao công nghệ ( tài sản cố định vô hình). Do đó, trong thời gian qua đã có không ít trường hợp các công ty quản lý nhà nước đối với đầu tư nước ngoài lúng túng, khó sử trước kết quả giám định và tái giám định khác nhau đối với cùng một dây truyền máy móc - thiết bị góp vốn liên doanh của nước ngoài hoặc đối với các hợp động chuyển giao công nghệ. Ai đúng, ai không đúng, đều không có chuẩn mực mà phán quyết. Đây chính là kẽ hở lớn nhất trong công tác quản lý nhà nước mà không ít nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng để khai tăng, khai không đúng giá trị máy móc thiết bị, công nghệ dùng góp vốn liên doanh, gây thiệt hại đến lợi ích của doanh nghiệp Việt Nam.Dẫn chứng sau đây sẽ minh hoạ cho điều đó: Máy móc, thiết bị nhập về hoặc ở dạng đơn lẻ hay đồng bộ, mới hoặc đã qua sử dụng, theo tổng kết chung được khai với giá cao hơn thực tế từ 20 - 30. Đối với vật tư, linh kiện nhập về thường xuyên cho sản xuất, giá cả cũng luôn ở mức cao do phía nước ngoài trực tiếp đặt mua. Một số loại vật tư chất lượng kém, thậm chí sắp hết hạn sử dụng vẫn được nhập với giá cao để rồi phải thanh lý phần lớn, tăng chi phí không đáng cho sản xuất. Chẳng hạn, Khách sạn liên doanh giữa Sài Gòn Tourist và tập đoàn Vina Group đã quyết định quyết toán trị giá thiết bị, vật tư của tập đoàn Vina Group đưa vào liên doanh 4,34 triệu USD, nhưng sau đó một công ty giám định quốc tế giám định lại thì giá thiết bị vật tư chỉ còn 2,9 triệu USD. Sau khi nhà nước uỷ nhiệm cho công ty kiểm toán SGS giám định thí điểm 12 đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài góp vốn liên doanh thì có tới 6 đơn vị có chênh lệch về giá buôn thiết bị, cao hơn giá trị thực 14 triệu USD. Bộ công nghiệp khảo sát thí điểm ở 42 liên doanh đã thấy phía Việt Nam thiệt hại tới 50 triệu USD. Sau khi khảo sát ở 42 doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài Bộ Lao động – Thương binh và xã hội đã phát hiện 76% máy móc thiết bị thuộc thế hệ 50 – 60, trên 70% máy móc đã hết khấu hao, gần 50% thiết bị là loại tân trang, thậm chí có máy xeo giấy sản xuất từ năm 1905, nồi hơi chế tạo từ năm 1927. Thứ hai, về chi phí khác bao gồm: Như chi phí về quản lý, tiếp thị, quảng cáo,khuyến mại ,tiền lương người nước ngoài... Về chi phí quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại là một nội dung của chi phí tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, làm một bộ phận chi phí kinh doanh cần thiết và không thể thiếu được đối với các doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường. Theo luật thuế thu nhập doanh nghiệp, các chi phí quảng cáo tiếp thị, khuyến mại liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh và các khoản chi phí khác được khống chế tối đa không quá 7% tổng số chi phí (riêng đối với hoạt động thương nghiệp, tổng số chi phí để xác định mức khống chế không bao gồm giá mua vào của hàng hoá bán ra) trong thời gian qua, nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã liên tục kiến nghị đề nghị bỏ mức khống chế đối với các chi phí quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại với lý do việc khống chế các chi phí này sẽ làm cho họ mất đi cơ hội tiêu thụ hàng hoá, mở rộng thị trường nhất là đối với những sản phẩm dịch vụ mới (?) Theo em cho rằng, việc giới hạn các chi phí được chấp nhận khi xác định thu nhập chịu thuế của các doanh nghiệp là vấn đề bình thường trong cơ chế, chính sách quản lý chi phí sản xuất kinh doanh của Việt Nam cũng như các nước có nền kinh tế thị trường khác. Chúng ta không phủ nhận quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp liên doanh, trong đó các doanh nghiệp liên doanh có quyền được định đoạt các chi phí cần thiết có lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, chúng ta không thể chấp nhận việc một số doanh nghiệp đã lạm dụng quyền tự chủ đó để tiến hành cạnh tranh không lành mạnh, thực hiện các chiến dịch quảng cáo kéo dài với qui mô lớn, thực hiện khuyến mại tràn lan, thậm chí tới mức bán phá giá sản phẩm gây lỗ nặng cho doanh nghiệp, gây khó khăn cho đối tác bên Việt Nam, làm tổn hại đến nguồn thu ngân sách nhà nước, nhưng lại tăng được thị phần trong nước cho công ty mẹ, do loại được các đối thủ cạnh tranh yếu hơn về tiềm lực tài chính ra khỏi thị trường Việt Nam. Có thể dẫn ra một số trường hợp tiêu biểu sau: Liên doanh P&G Việt Nam (là liên doanh giữa công ty Phương Đông thuộc Tổng công ty hoá chất Việt Nam và công ty PROCTER & GAMBLEAR EAST) chuyên sản xuất chất tẩy rửa tổng hợp. Liên doanh này có số vốn đầu tư ban đầu là 37 triệu USD chỉ sau 2 năm hoạt động, liên doanh đã bị lỗ tới 28 triệu USD. Điều đáng nói ở đây là chi phí quảng cáo của liên doanh chiếm tới 31,2% giá thành sản phẩm. Hay công ty Coca- Cola Chương Dương là liên doanh giữa tổng công ty nước giải khát Chương Dương và Coca – Cola Indochina, với tổng số vốn đầu tư là 48,7 triệu đô la, vốn pháp định là 20,7 triệu USD. Liên doanh này mới đi vào hoạt động từ tháng 9/ 1995, nhưng đến 16/4/1998/ tức là chỉ qua hơn hai năm hoạt động đã lỗ tổng cộng 151 tỷ đồng. Chi phí tiếp thị của liên doanh Côca- Côla Chương Dương bằng 8,47% tổng chi phí và bằng 9,63% so với tổng doanh thu bán hàng. Côca- Côla Chương Dương đã xâm chiếm thị phần của các đối thủ bằng con đường bán phá giá. Đặc biệt, trong hai tháng 3 và tháng 4 /1998 Côca – Côla đã phá giá tới mức kỷ lục: 30%. Theo em việc khống chế các chi phí quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại chung cho tất cả các loại hình doanh ngiệp, không tinh đến ngành nghề- sản phẩm kinh doanh đều ở mức 7% tổng chi phí là chưa thất hợp lý; nhất là đối với các doanh nghiệp liên doanh, để thực hiện các nghiệp quảng cáo trên các phương tiện đại chúng ( đài phát thanh, truyền hình, báo chí...) họ phải chịu mức giá cao hơn từ 3 –5 lần so với các doanh nghiệp trong nước. THIếU Chương III Giải pháp I Biện pháp chống chuyển giá 1. Phương pháp giá tự do có thể so sánh được (Comparable Uncontrolled Price Method- CUP) Phương pháp này được sử dụng thay cho phương pháp so sánh giá thị trường tự do theo thông tư 74TC/TCT. Thực ra “so sánh giá thị trường tự do” chỉ là một nguyên tắc hàng đầu trong định giá chuyển giao chứ không thể xem là một phương pháp thực thụ. Nội dung của phương pháp CUP là so sánh giá cả phải trả cho các hàng hoá, dịch vụ được chuyển giao trong một nghiệp vụ chuyển giao có kiểm soát với giá cả phải trả cho các hàng hoá, dịch vụ chuyển giao trong một nghiệp vụ chuyển giao tự do có thể so sánh được. Phương pháp này được thể hiện thông qua việc so sánh: + Doanh số bán của một công ty cho bên không liên kết. + Hoặc doanh số bán ra của một bên không liên kết cho một thành viên của công ty. + Hoặc doanh số bán giữa các bên không có liên hệ gì với nhau. Việc so sánh trên nhằm thực hiện nguyên tắc giá thị trường (tức là dữa trên quan hệ không quen biết) trong các nghiêph vụ chuyển giao. Khi thực hiện phương pháp cần lưu ý: Nếu không có sự khác biệt dữa các nghiệp vụ chuyển giao so sánh được, việc so sánh có thể diễn ra đơn giản và thuận lợi. Nêu có sự khác biệt không lớn lắm dữa các nghiệp cụ chuyển giao của bên có liên kết với nhau với bên không liên kết, có thể làm ảnh hưởng đến giá cả giao dịch như: chất lượng hàng hoá, nhạn hiệu hàng hoá, điều kiện giao hàng, thời hạn chuyển giao, quan hệ thanh toán, có thể thực hiện phương pháp “CUP được điều chỉnh”. Phương pháp CUP có điều chỉnh sẽ không thực hiện được khi có những sự khác biệt trong các nghiệp vụ chuyển giaodữa các bên liên kết và không liên kết mf điều chỉnh rấtkhó thực hiện được. Những sự khác biệt đó bao gồm: khác biệt về chất lượng sản phẩm, khác biệt thị trường về mặt địa lý, khác biệt về cấp độ thị trường, khác biệt về số lượng vàloại tài sản vô hình liên quan đến việc bán hàng. Khi sử dụng phương pháp này, chúng ta có thể phát hiện được những chi phí phát sinh bất hợp lý thông qua so sánh các doanh nghiệp t tương tự trong những nghiệp vụ chuyển giao có thể so sánh được. Ví dụ, khi xem xét giá vốn hàng bán và chi phí về giá nguyên vật liệu của liên doanh sản xuất nước giải khát A tại TP Hồ Chí Minh chúng ta thấy : giá vốn hàng hoá bán ra chiếm tỷ lệ 64,72% trên doanh thu và chi phí về nguyên vật liệu chiếm tỷ lệ 52,42% trên doanh thu. Nêu so sánh với công ty nước giải khát I.B.C, một đơn vị cùng ngành nghề và quy mô sản xuất thì tỷ lệ giá vốn hàng hoá trên doanh thu là 51,1% và tỷ lệ về chi phí nguyên, vật liệu là 46,93% trên doanh thu, rõ ràng các khoản chi phí của công ty A đã có vấn đề cần phải kiểm tra lại. Tương tự, chi phí về quảng cáo của công ty A là 7,94% trên giá bán thì công ty IBC chi phí về quảng cáo là 4,94%. Điều này cho thấy, công ty A đã sử dụng chiến thuật dành thị trường sản phẩm nên sặn sàng nâng cao khoản phí quảng cáo tiếp thị lên vàlàm lỗ thêm cho liên doanh. Nếu cơ quan thuế sử dụng phương pháp so sánh với công ty IBC thì có thể ngăn chặn khoản chi làm “ngèo” liên doanh này. 2. Phương pháp bán lại ( Pesale Price Method) Đây là một phương pháp để xác định giá thị trường của nghiệp vụ chuyển giao bằng cách lấy gía bán thực tế trừ bớt đi một khoản chiết khấu thích ứng cho người bán lại. Về thực chất phương pháp này xây dựng trên cơ sở phương pháp tỷ trọng suất lợi nhuận của Mỹ và có một vài nét tương đồng với phương pháp sử dụng giá bán để xác định gía mua theo Thông tư 74 TC/T. Phương pháp này sử dụng thích hợp đối với ngành thương nghiệp với nghiệp vụmua đi bán lại các sản phẩm hàng hoá. Để thực hiện phương pháp này, chúng ta phân biêt hai chủ thể một bên công ty sản xuất (A) bán sản phẩm của mình, một bên là công ty thương mại (B) chuyên mua những sản phẩm đó và bán lại trên thị trường. Khoản chiết khấu thích ứng này là tổng số lợi nhuận thu được biểu hiện giới dạng tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu mà công ty thương mại (B) nhận được khi thực hiện một nghiệp vụ chuyển giao tự do trong một thị trường thích ứng. Khi thực hiện phương pháp này cần lưu ý phải đáp ứng những điều kiện sau: + Các công ty hoặc ngưòi mua sản phẩm của công ty (B) không có quan hệ liên kết với công ty(B). Nếu tồn tại mối quan hệ liên kết ở đây thì việc xác định doanh số sẽ không mang tính khách quan. + Nghiệp vụ của công ty (B) phải có liên quan với nghiệp vụ chuyển giao cần xác địng gía thị trường ( nghiệp vụ chuyển giao trong nội bộ công ty) Trường hợp không tồn tại nghiệp vụ này, có thẻ dữa trên khoản chiết khấu có nguồn gốc từ doanh thu của công ty (B)trong một thị trường tương tự. Giữa nghiệp vụ chuyển giao được xem trong nội bộ công ty và nghiệp vụ chuyển giao có thể so sánh được có thể nhiều sai biệt do sự vận động của nền kinh tế như: sự biến đổi lãi suất, tình trạng kinh tế suy thoái hay phát triển bột phát. Nếu có sự khác biệt xây ra giữa nghiệp vụ chuyển giao có liên kết và nghiệp vụ chuyển giao không liên kết có thể so sánh được thì cần phải có những biện pháp điều chỉnh khoản chiết khấu này. Ví dụ : Một công ty Mỹ chuyên sản xuất dụng cụ ytế. Công ty này tiến hành bán sản phẩm của mình cho một số đại lý ở Việt Nam. Để xác định giá mua vào đối với các sản phẩm mà các đại lý Việt Nam đã nhận của công ty mẹ, cơ quan thuế Việt Nam sẽ xác định: - Giá bán các dụng cụ y tế cho nhưng cửa hàng độc lập với công ty (đặt tại Việt Nam) - Tỷ suát lợi nhuận trên doanh thu bình quân của nganh dụng cụ y tê là 18%. Tuy nhiên, do những dụng cụ y tế mà công ty trên cung cấp là loại đặc biệt, tác dụng điều trị đặc thù nên tỷ suất lợi nhuận dự kiến sẹ tăng thêm 3% so với dụng cụ y tế thông thườn. Do đó có thể xác định tỷ suất lợi nhuận trên doanh thhu của các cửa hàng độc lập là 21% để làm cơ sở xác định giá mua vào. 3. Phương pháp phí cộng thêm ( Cost Plu Method) Phương pháp này đựoc sử dụng để xác địng giá thị trường trên cơ sở công thêm một khoan nâng giá (mark- up) thích hợp vào chi phí sản xuất. Phương pháp này thường được áp dụng đối với cơ sở sản xuất theo hợp đồng gia công học các cơ sở dịch vụ. Các khoản phí cộng thêm bao gồm : chi phí giao hàng trong kỳ, các chi phí quản lý chung. Một điểm thuận lợi của phương pháp này là khi xác định khả năng áp dụng trong một trường hợp sản xuất theo hợp đồng thì điều quan trọng cần nhấn mạnh là hình thức chuyển giao theo các hợp đồng chuyển giao có thể so sánh được không cần phải có sự tương tự như các hàng hoá chuyển giao trong nội bộ công ty. Ví dụ: Một công ty chuyên sản xuất mặt hàng trang trí nội thất(HG) điều hành toàn bộ hoạt động nghiên cứu và triển khai sản xuất tại Đài Loan. Sau khi sản xuất qua khâu chế biến thành gỗ ôcan, sẹ được chuyển giao đến một chi nhánh tại Việt Nam. Tại đây, gỗ ôcan sẽ được gia công thành sản phẩm trang trí nội thất như bàn, ghế , giường, tủ…và được chuyển ngược về Đài Loan. Trong trường hựop này, công ty Việt Nam là một công ty chuyên sản xuất theo hợp đồng, thực hiện các hoạt động sản xuất có tính chất giới hạn, không làm công việc điều độ sản xuất, không mua nguyên vật liệu và cũng không chịu rủi ro về vật liệu cung ứng và thị trường tiêu thụ. Sản phẩm trang trí nội thất sẽ mang nhạn hiệu của công ty Đài Loan HG hoàn toàn không có tên của công ty Việt Nam. Do công ty Đài Loan chỉ thực hiện hợp đồng sản xuất với một công ty ở Việt Nam nên không có thể thực hiện được phương pháp CUP để xác định chuyển giao trong nội bộ công ty này. Tuy nhiên, do công ty con ở Việt Nam không chỉ thực hiện nhiệm vụ gia công cho công ty mẹ ở Đài Loan mà còn có thể gia công cho sản xuất cho các công ty không liên kết khác những mặt hàng trang trí nội thất tưng tự do đó khoản nâng gía mà công ty Việt Nam khi làm dịch vụ cho công ty không liên quan khác sẽ là những thông tin có thể so sánh được dùng để áp dụng phương pháp giá trị phí cộng thêm khi định giá cho nghiệp vụ chuyển giao của công ty Đài Loan có liên kết. Khi sử dụng phương pháp này cần lưu ý đến các vấn đề sau: - Nếu công ty con chỉ thực hiện hợp đồng cho công ty mẹ ở chính quốc mà không gia công cho một công ty khác không liên kết, lúc đó khoản nâng giá sẽ dữa trên cơ sở loại hình hoạt động gia công tương tự của công ty khác trên thị trường. - Cần phải quan tâm đến năng lực sản xuất công nghệ, khối lượng sản xuất … trong khi xác định khoản chi phí tăng thêm, đặc biệt là yếu tố năng lực sản xuất (công suất hoạt động) - Nếu công ty con không dành hết toàn bộ công suất hoạt động cho một khách hàng duy nhất (ở đây là công ty mẹ) thì vấn đè không sử dụng hết công suất không phải thuộc trách nhiệm của công ty mẹ, do đó không thể đưa hết toàn bộ chi phí gián tiếp vào khoản nâng giá. - Nếu công ty con sản xuất theo hợp đồng dành hết toàn bộ công suất, công ty mẹ vẫn phải chấp nhận toàn bộ chi phí này dù họ có sử dụng hay không. II Giải pháp cổ phần hoá doanh nghiệp liên doanh. 1 Cơ sở giải pháp. Công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài là hình thức đầu tư phổ biến trên thế giới. Từ năm 1995Trung Quốc đã ban hành quy định tạm thời về hình thức công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài và cho phép cổ phân hoá một số doanh nghiệp FDI đang hoạt động. Hiện nay ở Việt Nam, các doanh nghiệp trong nước đã được thành lập theo hình thức công ty cổ phần. Trên thực tế, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đang là một trong những khu vực mạnh nhất xét theo các liêu chí về tính liên tục và ổn định của tăng trưởng, khả năng tài chính, nghiệp vụ kinh doanh,... Một số doanh nghiệp FDI cũng có nguyện vọng tiến hành cổ phần hoá và chuyển sang hình thức doanh nghiệp cổ phần. Việc cho phép nhà đầu tư nước ngoài được thành lập doanh nghiệp cổ phần là giải pháp cần thiết để tạo thêm kênh huy động vốn, đa dạng háo các hình thức đầu tư, mở ra khả năng cho các doanh nghiệp và cá nhân trong nước mua lại cổ phần của các doanh nghiệp FDI, tiến tới thống nhất mặt bằng pháp lý giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tao thêm hàng hoá cho thị trường chứng khoán Việt Nam đang còn trong giai đoạn sơ khai, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào thị trường chứng khoán bên ngoài Việt Nam để thu huý thêm vốn đầu tư nước ngoài. Cổ phần hoá doanh nghiệp FDI tạo điều kiện cho người lao động Việt Nam trong các doanh nghiệp này có cổ phần, được làm chủ thức sự, cải thiện mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động, tạo điều kiện thúc đẩy doanh nghiệp FDI kinh doanh có hiệu quả, nâng cao thu nhập cho người lao động, và góp phần vào sự tăng trưởng chung của đất nước. Cổ phần hoá còn tạo điều kiện để các doanh nghiệp FDI cải tạo cơ cấu tài chính, tăng tỷ lệ huy động vốn từ cổ đông, giảm tỷ lệ vốn vay ngân hàng, linh hoạt và tự do hơn trong việc lưu chuyển vốn giữa các cổ đông. Mở rộng quy mô sản xuất mà không bị ràng buộc bởi các điều kiện hết sức chặt chẽ khi vay vốn ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác. 2 Một số vấn đề pháp lý khi tiến hành cổ phần hoá doanh ngiệp FDI Cổ phần hoá doanh nghiệp FDI sẽ làm thay đổi số lượng chủ sở hữu doanh nghiệp, thay đổi tỷ lệ giữa vốn pháp định và vốn vay của doanh nghiệp. Tổ chức, cá nhân mua cổ phần của doanh nghiệp FDI được coi là góp vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Quyền sở hữu và mọi quyền hợp pháp khác của tổ chức, cá nhân mua cổ phần của doanh nghiệp FDI được bảo hộ theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Đây là vấn đề hết sức mới mẻ, chưa được quy định và hướng dẫn trong các văn bản pháp luật hiện hành. Dó đó, cần tiến hành làm thí điểm theo một tiến trình hợp lý, kịp thời có biện pháp điều chỉnh nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Trước mắt cần sử lý một số vấn đề để tạo hành lang pháp lý cho việc triển khai thực hiện thi điểm Thứ nhất, khắc phục những mâu thuẫn giữa luật đầu tư nước ngoài và một số văn bản pháp luật khác. Luật doanh nghiệp đã quy định cụ thể về công ty cổ phần. Tuy nhiên, luật này cũng như luật khuyến khích đầu tư trong nước chưa cho phép nhà đầu tư nước ngoài thành lập doanh nghiệp cổ phần mà chỉ được mua cổ phần với mức không quá 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp Việt Nam. Trong khi đó, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam lại quy định: phần góp vốn của bên nước ngoài hoặc các bên nước ngoài vào vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh không dưới 30% vốn pháp định. Do đó cần có quy định rõ ràng để phân biệt doanh nghiệp cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp cổ phần hoạt động theo luật doanh nghiệp. Theo đó, doanh ngiệp cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài, tổng giá trị cổ phần do các cổ đông nước ngoài nắm giữ không dưới 30 vốn điều lệ của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài được hưởng các quyền lợi và thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của luật đầu tư nước ngoài. Mỗi cổ đông chịu trách nhiệm trong phạm vi cổ phần mình nắm giữ được tự do chuyển nhượng cổ phần. Theo luật đầu tư nước ngoài, thời hạn hoạt động của doanh nghiệp FDI không quá 50 năm, trường hợp đặc biệt, căn cứ quy định của uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ quyết định thời hạn dài hơn nhưng tối đa không quá 70 năm. Điều này ảnh hưởng tới sự tồn tại của doanh nghiệp cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài, vì giá trị cổ phần của doanh nghiệp sẽ bị giảm dần khi thời hạn hoạt động ngày càng bị rút ngắn. Dó đó, để tạo điều kiện cổ phần hoá doanh nghiệp FDI cần xem xét và bãi bỏ quy định về thời hạn hoạt động đối với doanh nghiệp cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài. Thứ hai, xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp FDI khi cổ phần hoá. Tài sản của doanh nghiệp FDI được hình thành từ vốn góp của chủ đầu tư(vốn pháp định) và vốn vay. Theo luật đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp không được giảm vốn pháp định trong quá trình hoạt động. Thực tế, khi kinh doanh có lãi, một số doanh nghiệp đã sử dụng một phần hoặc toàn bộ lợi nhuận để tái đầu tư mở rộng sản xuất. V ho doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá không phải nộp thêm tiền thuê đất. Nếu doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá phải chuyển sang thuê đất, thì giá tương đương với giá trị quyền sử dụng đất trong thời gian từ khi doanh nghiệp liên doanh cổ phần. Giá trị này nhỏ hơn vốn góp mà bên Việt Nam đăng ký tại giấy phép đầu tư. Trong trường hợp đó, hoặc là bên Việt Nam phải huy động các nguồn vốn khác để bù vào phần giá trị quyền sử dụng đất bị hụt đi do cổ phần hoá hoặc Nhà nước phải cho phép định tương ứng với phần giảm giá trị quyền sử dụng đất của bên Việt Nam. Thứ ba, giá trị cổ phần và điều kiện niêm yết trên thị trường chứng khoán đối với doanh nghiệp FDI. Theo các văn bản hiện hành về cổ phần hoá, giá trị cổ phần xác định trên cơ sở đồng Việt Nam. Nghị định 48/1998/NĐ - CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán chỉ cho phép doanh nghiệp phải phát hành chứng khoán ghi bằng đồng Việt Nam. Các doanh nghiệp FDI liên quan nhiều đến kinh doanh quốc tế, hạch toán phụ thuộc vào công ty mẹ, nguồn thu bằng ngoại tệ lớn và già trị tài sản hầu hết đều được xác định bằng đô la Mỹ. Do đó, cần xem xét cho phép doanh nghiệp FDI được lựa chọn giá trị cổ phần và phát hành cổ phiếu của doanh nghiệp trên cơ sở đô la Mỹ hoặc đồng Việt Nam. Việc cho phép doanh nghiệp FDI phát hành cổ phiếu ghi bằng đôla Mỹ làm cho hàng hoá trên thị trường chứng khoán trong nước trở lên phong phú, đa dạng hơn, thu hút được sự quan tâm đầu tư của ngưòi nước ngoài đang làm việc tại Việt Nam ,Việt kiều và người Việt Nam có ngoại tệ hợp pháp.Đồng thời, tạo điều kiện cho doanh nghiệp FDI huy động vốn từ các cổ đông nước ngoài thông qua phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng khoán bên ngoài Việt Nam sau Sự tham gia của các doanh nghiệp FDI vào thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ là tác nhân làm tăng tính hấp daanxcuar thị trường này.Khi lựa chọn đầu tư nhiều người sẽ thích mua cổ phiếu của doanh nghiệp FDI hownmua cổ phiếu cuarcacs doanh nghiệp trong nước vì các doanh nghiệpFDI thường có tiềm lực về tài chính và chuyên nghiệp hơn trong kinh doanh.Do đó,cần khuyến khích doanh nghiệp FDI sau khi cổ phần hoá niêm yết thị trường chứng khoán Việt Nam nếu đáp ứng các điều kiện quy định tại Nghị định 48/1998/NĐ-CPngày 11 tháng 7 năm 1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Tuy vậy, phải có quy định điều kiện doanh nghiệp cổ phần FDI được phát hành cổ phiếu và niêm yết trên thị trường nước ngoài.Việc cho phép doanh nghiệp cổ phần có FDI được niêm yết trên thị trường chứng khoán nước ngoài là cần thiết không chỉ nhằm huy động các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài mà còn tạo ra sự thông thoáng cho môi trường Việt Nam. Thứ tư, quyền lợi của người lao động Việt Nam trong doanh nghiệp FDI được cổ phần hoá. Việc cổ phần hoá phải đảm bảo duy trì hoạt động của doanh nghiệp và việc làm của người lao động .Người lao đọng trong doanh nghiệp FDI nhìn chung có thu nhập tương đối cao nên có khả năng mua cổ phần của doanh nghiệp .Để tạo điều kiện cho người lao động Việt Nam có cổ phần trong doanh nghiệp FDI, cần có quy định về việc khuyến khích doanh nghiệp bán cổ phần cho người lao động như phân chia lợi nhuận cho người lao động để mua cổ phần, trích một lượng cổ hần ưu đãi dành cho người lao động, áp dụng giá bán ưu đãi và chế độ khấu trừ dần vào lương hàng tháng khi bán cổ phần cho người lao động Việt Nam trong doanh nghiệp. Trường hợp người lao động chưa được mua cổ phiếu ngay, doanh nghiệp dành cho họ quyền ưu đãi tiện mua cổ phần của doanh nghiệp trong tương lai. Doanh nghiệp cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài phải tiêp tục thực hiện những cam kết trong hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể đã được ký kết trước do đó cho tới khi hết hạn, nếu có thay đổi phải có sự thoả thuận động ý của người lao động. Tóm lại, cổ phần hoá doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một nhu cầu tất yếu khách quan trong quá trình hội nhập quốc tế của nước ta. Để có thể cổ phần hoá doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cần phải sửa đổi, điều chỉnh, bổ sung một số quy định về vấn đề này trong luật đầu tư nước ngoài. Một khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh sẽ tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư thực hiện chương trinhf cổ phần hoá vốn đầu tư của họ, đồng thời đảm bảo an toàn cho hoạt động của thị trường chứng khoán. Trước mắt, Chính phủ cần ban hành một quy chế tạm thời về cổ phần hoá doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, với hiệu lực pháp lý đủ sức tháo gỡ các vướng mắc nêu trên, tạo hành lang pháp lý cho các cơ quan chức năng và doanh nghiệp thực hiện thí điểm. Như vậy doanh nghiệp FDI khi thí điểm cổ phần hoá phải tuân thủ quy định của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Quy chế tạm thời về cổ phần hoá doanh nghiệp FDI là Nghị định 48/1998/NĐ - CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay, cần sớm triển khai tiến hành thí điểm việc cổ phần hoá một số doanh nghiệp FDI hoạt động kinh doanh có lãi trong một số lĩnh vực để rút kinh nghiệm điều chỉnh chính sách trước khi thực hiện đại trà. 3. Giải pháp khác. 3.1 Nâng cao chất lượng thu hút đầu tư. chúng ta phải phân tích kỹ hiện trạng, tính toán tổng quy hoặch chung và tuwnhf lĩnh vực để cấp giấy phép.Thời gian qua,chất lượng khâu quy hoặch tính toán quá kém,dẫn tới việc cấp giấy phép đầu tư cho một số ngành hàng, lĩnh vực quá nhu cầu, gây lãng phí, thiệt hại cho đất nước,làm cho các nhà đầu tư nước ngoài mất đi niềm tin.Chúng ta có khuyeensskhichsđầu tư, song không phải bằng mọi giá. Sắp tới cần căn cứ vào phương hướng kế hoặch , chiến lược của nước ta trong 5-10 năm tới để xây dựng một quy hoặch tổng thể thu hút đầu tư nước ngoài, trên cơ sở đó các ngành, bộ,phuwong xây dựng chi tiết cho ngành,bộ,địa phương của mình. Quy hoạch phải khoa học và hợp lý, sao cho phát huy được nội lực và gắn với tiến trình hội nhập, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế, kết hợp giải quyets của an ninh quốc phòng. Cần sớm công bố các quy hoạch phát triển của từng ngành, từng vùng, từng địa phương ... 3.2 Nâng cao chất lượng cán bộ trong điều hành trong liên doanh. Không ít trường hợp cán bộ của ta hoặc không nắm rõ, hoặc làm ngơ trước những sai phạm của đối tác nước ngoài. Cần chấm dứt hiện tượng doanh nghiệp Việt Nam nào có đất đưa vào liên doanh là đương nhiên được cử cán bộ sang nắm giữ các vị trí chủ chốt dành cho phía Việt Nam. Ngay cả khi cán bộ đó thiếu kiến thức về chuyên ngành mà liên doanh yêu cầu, thiếu kinh nghiệm về ngoại ngữ. Đối với những cán bộ làm trong các liên doanh hoặc cho đi đào tạo tại chức bổ sung, hoặc được thay thế. Với liên doanh mới cần lập hội đồng thi tuyển cán bộ về quản lý cán bộ nhà nước chuyen môn và ngoại ngữ ( Tương tự như thi công chức). ở từng cương vị của mình, nếu để xảy ra hiện tượng lỗ giả không báo cáo cấp trên phía Việt Nam , cán bộ đó sẽ bị xử lý kỷ luật, thuyên chuyển công tác. Đối với nước ta hiện nay, những cán bộ làm việc tại các liên doanh,ghoawcj các cơ quan liên quan đến đầu tư nước ngoài đạt các yêu cầu như : Tinh thông nghiệp vụ về đầu tư quốc tế, am hiểu về thị trường và tập quán, thông lệ quốc tế,những cán bộ này không phải là thiếu song lại chưa được dùng đúng chỗ. 3.3 Nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước đối với doanh nghiệp liên doanh nói riêng, doanh nghiệp FDI nói chung. Các bộ, các ngành và địa phương phải thực sự phới hợp với nhau chặt chẽ hơn nữa, đặc biệt trong bước chuẩn bị thu hút đầu tư để “ một cửa, một dấu” trở thành hiện thực. ở đây, Bộ kế hoạch và đầu tư chính là nhạc trưởng. Để làm được việc này, cần phải xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, tỉnh trong việc quản lý hoạt dộng đầu tư nước ngoài theo đúng thẩm quyền, trách nhiệm của mình.Triệt để và kiên quyết trong việc quy định rõ ràng, minh bạch các thủ tục hành chính ở mọi khâu mọi cấp, công khai các quy trình, thời hạn , trách nhiệm xử lý các thủ tục hành chính, thường xuyen gặp gỡ, đối thoại với các nhà đầu tư nước ngoài.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc74281.DOC