Tài liệu Đề tài Liệt phân kỳ - Vũ Bích Thủy: 93
LIỆT PHÂN KỲ
Lucious Lim MD.1999, Clinical Strabismus Management,
Rosenbauum Santiago, chapter 11, 159-162.
VŨ BÍCH THUỶ
Bệnh viện Mắt Trung ương
Liệt phân kỳ là một rối loạn vận
nhãn ít gặp và hiếm trên thực tế lâm
sàng. Triệu chứng điển hình là ở người
già thấy song thị xuất hiện đột ngột.
Song thị xuất hiện khi nhìn xa nhưng
biến mất khi nhìn gần.
Cơ chế hoạt động phân kỳ còn nhiều
điểm đáng bàn cãi. Nghiên cứu điện cơ
cho thấy có mối liên quan giữa hoạt động
phân kỳ với những xung hoạt động của cơ
trực ngoài (LR). Sự tồn tại và vị trí của
trung tâm phân kỳ đến nay vẫn còn đang
được nghiên cứu, nhưng nó đã được thừa
nhận là có ở một số nơi và chủ yếu ở não
giữa và cầu não, nơi mà chứa trung tâm chi
phối vận nhãn, chéo lớn và nhân dây dạng.
Nghiên cứu trên chỉ cho thấy tế bào phân
kỳ nằm ở vùng tạo lưới của não giữa ngay
vùng lưng và ngoài của nhân vận nhãn.
Jampolsky lý giải rằng có sự tồn tại
của trung tâm phân kỳ và không cho r...
4 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 276 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Liệt phân kỳ - Vũ Bích Thủy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
93
LIỆT PHÂN KỲ
Lucious Lim MD.1999, Clinical Strabismus Management,
Rosenbauum Santiago, chapter 11, 159-162.
VŨ BÍCH THUỶ
Bệnh viện Mắt Trung ương
Liệt phân kỳ là một rối loạn vận
nhãn ít gặp và hiếm trên thực tế lâm
sàng. Triệu chứng điển hình là ở người
già thấy song thị xuất hiện đột ngột.
Song thị xuất hiện khi nhìn xa nhưng
biến mất khi nhìn gần.
Cơ chế hoạt động phân kỳ còn nhiều
điểm đáng bàn cãi. Nghiên cứu điện cơ
cho thấy có mối liên quan giữa hoạt động
phân kỳ với những xung hoạt động của cơ
trực ngoài (LR). Sự tồn tại và vị trí của
trung tâm phân kỳ đến nay vẫn còn đang
được nghiên cứu, nhưng nó đã được thừa
nhận là có ở một số nơi và chủ yếu ở não
giữa và cầu não, nơi mà chứa trung tâm chi
phối vận nhãn, chéo lớn và nhân dây dạng.
Nghiên cứu trên chỉ cho thấy tế bào phân
kỳ nằm ở vùng tạo lưới của não giữa ngay
vùng lưng và ngoài của nhân vận nhãn.
Jampolsky lý giải rằng có sự tồn tại
của trung tâm phân kỳ và không cho rằng
liệt phân kỳ là một biểu hiện lâm sàng.
Ông cho rằng nếu liệt trung tâm phân kỳ
thì bệnh nhân sẽ không có khả năng phân
kỳ và như vậy chức năng hợp thị - phân
kỳ sẽ được chứng minh ở tất cả bệnh
nhân được gọi là liệt phân kỳ bằng cách
kích thích những chức năng chưa bao giờ
được sử dụng sau khi sự hợp thị đã được
hồi phục bằng cách điều chỉnh lăng kính
đầy đủ.
Đặc điểm lâm sàng:
Những triệu chứng và dấu hiệu lâm
sàng được Parinaud miêu tả năm 1883 và
được Duane giải thích kỹ năm 1899.
Bielschowsky tóm tắt thành những tiêu
chuẩn chẩn đoán sau: (1) song thị đồng
danh (homonymous) khi nhìn xa (10-20
inches); (2) độ lác ổn định khi nhìn ra
ngoài; (3) hết lác (orthopia) và hợp thị khi
nhìn gần và (4) vận nhãn một mắt
(duction) hoặc hai mắt (vertion) tốt.
Tăng áp lực nội sọ, u nội sọ, chấn
thương vùng đầu và những tổn thương
mạch ở hệ thần kinh trung ương là những
rối loạn thần kinh có thể phối hợp với liệt
phân kỳ. Trong y văn đã báo cáo một ca
sau uống Diazepam bị liệt phân kỳ. Một
số trường hợp song thị biến mất khi
nguyên sinh bệnh được giải quyết. Liệt
phân kỳ đã là dấu hiệu đầu tiên của một
bệnh nhân liệt vận nhãn
(ophthalmoplegia) với hội chứng Miller-
Fisher. Liệt phân kỳ cũng có thể là một
dấu hiệu độc lập và là biểu hiện của một
khiếm khuyết thần kinh ở những người
lớn tuổi khoẻ mạnh. Trong một nghiên
cứu theo dõi lâu dài trên 8 bệnh nhân của
94
Krohel và cộng sự không cho thấy có dấu
hiệu thần kinh nào xuất hiện thêm ngoài
liệt phân kỳ mặc dù song thị vẫn tồn tại.
Chẩn đoán:
Thăm khám lâm sàng:
Đo độ lác đặc biệt lưu ý ở vị trí liếc
ra ngoài để đánh giá mức độ lác không
ổn định. Thường bệnh nhân có độ lác
trong nhỏ, ổn định, thường khoảng 12-
15PD, có thể gặp lác đến 30DP mặc dù
hiếm. Khi nhìn gần thường không lác
hoặc có độ lác nhỏ. Khi đánh giá vận
nhãn cần lưu ý vận nhãn ngang. Vận
nhãn ngang và đứng bình thường trong
liệt phân kỳ những lại hạn chế trong liệt
dây VI là một bệnh có thể nhầm với phân
kỳ.
Việc đánh giá chức năng của dây VI
là cần thiết giúp cho việc chẩn đoán chính
xác có liệt phân kỳ hay không. Bedrossian
đã giới thiệu đồ thị trường định thị chính
xác để bộc lộ sự hạn chế tối thiểu vận
nhãn ra ngoài và tìm kiếm rung giật nhãn
cầu khi nhìn ra ngoài tối đa để phát hiện
vi liệt dây TK VI trên lâm sàng.
Một liên quan quan trọng nhất là
liệu liệt phân kỳ mới xuất hiện có phải là
một biểu hiện biệt lập không. Những
bệnh nhân như vậy cần phải được khám
xét về chuyên khoa thần kinh để phát
hiện những trường hợp tăng áp lực nội sọ
và XQ não để phát hiện ra bất kỳ tổn thư-
ơng thần kinh trung ương. Nếu việc
khám xét không tìm ra bất thường gì thì
phải theo dõi định kỳ thường xuyên.
Những bệnh nhân có bất thường khu trú
hoặc những triệu chứng ngày càng phát
triển cần phải thăm khám có hệ thống
toàn bộ hệ thần kinh.
Các xét nghiệm:
Test đánh giá hoạt động điện cơ
(horizontal saccadic velocity) bằng cách
sử dụng điện nhãn cầu để đánh giá chức
năng cơ trực ngoài (có hình ảnh minh
hoạ). Điện cơ giảm khi nhìn ra ngoài ở
một bệnh nhân tăng áp lực nội sọ được
một số tác giả xem là những triệu chứng
kinh điển để phản ánh dây TK VI tối
thiểu. Đỉnh điểm của điện cơ khi nhìn ra
ngoài bình thường, cho thấy chức năng
của cơ trực ngoài không được sửa chữa,
đã được thống kê ở bệnh nhân liệt phân
kỳ biệt lập.
Chẩn đoán phân biệt:
Đại đa số các tác giả cho rằng liệt
phân kỳ là một biểu hiện lâm sàng hoàn
toàn khác với liệt dây VI.
Biểu hiện lâm sàng Liệt phân kỳ Liệt hai dây VI
Lác trong Không thay đổi Lác tăng khi liếc ra ngoài
Vận nhãn Tốt Hạn chế nhìn ngoài
Điện cơ khi nhìn ra ngoài Bình thường Giảm
95
Rung giật nhãn cầu có góc
hãm (Endpoint nystamus)
Không Có khi mắt nhìn ra ngoài
Độ lác nhìn xa so với gần Khi nhìn xa lác nhiều hơn
Độ lác
khi nhìn xa và gần nhau
Tuy nhiên Jampolsky cho rằng
liệt phân kỳ đồng nghĩa với liệt dây VI
hai bên và việc đánh giá cẩn thận sẽ cho
thấy loạn dưỡng cơ trực ngoài và biên độ
hợp thị phân kỳ. Một số rối loạn thần
kinh đôi khi phối hợp với liệt phân kỳ đã
đợc biết là nguyên nhân gây liệt cơ trực
ngoài. Tăng áp lực nội sọ là một nguyên
nhân hay gặp nhất. Liệt dây thần kinh
dạng (liệt dây TKVI) có thể giống với
liệt phân kỳ. Bielshowsky đã quan sát
một số ca liệt trực ngoài một hoặc hai
bên với những triệu chứng điển hình
những ca mà sau đó phát triển những
bệnh cảnh mà không thể phân biệt được
với liệt phân kỳ. Mức độ lác ngoài không
đồng nhất lúc đầu về sau trở thành lác
ngoài đồng nhất. Một số ca biểu hiện liệt
dây VI lành tính lúc đầu với các triệu
chứng liệt phân kỳ cũng đã được báo
cáo.
Hai hình thái khác của lác trong
đồng nhất mắc phải ở người lớn cần phải
được xem xét trong chẩn đoán phân biệt
với liệt phân kỳ: lác trong bù trừ và lác
trong bù trừ định thị một mắt. Trong lác
trong bù trừ, cơ chế hợp thị mà ban đầu
kiểm soát được độ lác sẽ giảm tác dụng
đến mức độ lác ẩn sẽ trở thành lác hiện.
Khi thăm khám cẩn thận sẽ thấy độ lác
khi nhìn xa và độ lác khi nhìn gần như
nhau, điều này khác hẳn với liệt phân kỳ.
Một số xét nghiệm đặc biệt cần phải
được tiến hành và đảm bảo cho việc đo
chính xác như đo biên độ điều tiết khi
nhìn gần. Những bệnh nhân lác trong
định thị một mắt có bù trừ cần tiến hành
nghiên cứu một số xét nghiệm đặc biệt
về cảm thụ và vận động thường có trong
hội chứng định thị một mắt sẽ phân biệt
được nó với liệt phân kỳ.
Điều trị:
Điều trị nội khoa:
Điều trị song thị bằng lăng kính
trước khi đề xuất đến việc điều trị bằng
phẫu thuật. Lăng kính đặc biệt có lợi
trong những trường hợp có độ lác nhỏ.
Tuy nhiên do sự khác nhau về độ lác khi
nhìn xa và khi nhìn gần nên số kính cho
nhìn xa và gần có khác nhau. Lăng kính
chỉ cần thiết để điều chỉnh độ lác nhìn
xa. Lăng kính Fresnel có thể gọt cho phù
hợp với phần trên (nhìn xa) của kính hai
tròng.
Việc tập luyện là phương pháp
phối hợp để điều trị rối loạn phân kỳ. Kết
quả điều trị tập luyện là làm tăng biên độ
hợp thị phân kỳ và hạn chế độ lác hiện và
giảm các triệu chứng chủ quan. Cần thiết
phải luyện tập lại khi có triệu chứng tái
phát. Vì kết quả điều trị bằng lăng kính
và phẫu thuật rất khả quan nên việc tập
96
luyện ít cần đến và kết quả lâu dài cũng
ít được đề cập.
Phẫu thuật:
Phẫu thuật được đặt ra khi liệu
pháp điều trị bằng lăng kính không hiệu
quả. Sự can thiệp bằng phẫu thuật đối với
loại lác này rất có hiệu quả. Đầu tiên cắt
cân của một hoặc hai cơ trực trong được
tiến hành nhưng việc làm yếu các cơ quy
tụ để điều trị liệt phân kỳ có thực sự
thích hợp hay không vẫn đang được đặt
câu hỏi. Người ta đã tranh cãi là sẽ có lý
hơn nếu ta rút ngắn hoặc tiến cơ trực
ngoài. Trong điều trị liệt phân kỳ có tính
logic là làm khoẻ cơ phân kỳ. Rút ngắn
cơ trực ngoài cũng có tác dụng giải quyết
độ lác nhìn xa hơn độ lác nhìn gần.
Rút ngắn cơ trực ngoài một hoặc
hai bên đã được báo cáo là có hiệu quả
trong điều trị lác trong khi nhìn xa từ 8
đến 30D lăng kính. Khi rút ngắn cơ trực
ngoài 5 đến 6mm sẽ giải quyết độ lác
nhìn xa 8 đến 18D lăng kính một cách an
toàn. Một số bệnh nhân cần sử dụng lăng
kính số thấp để tránh song thị trong thời
kỳ hậu phẫu.
Tác giả đã tiến hành rút ngắn hai
cơ trực ngoài với kỹ thuật chỉnh chỉ trên
5 bệnh nhân có độ lác trong khi nhìn xa
từ 16 đến 30D lăng kính. Kỹ thuật chỉnh
chỉ tạo cơ hội tốt cho việc điều chỉnh độ
lác ngày trong giai đoạn hậu phẫu. Mục
đích của phẫu thuật là giải quyết hết độ
lác hoặc còn lác ngoài nhỏ (5 đến 7PD),
độ lác này bệnh nhân có thể dễ dàng hợp
thị được. Hiệu quả rút ngắn cơ trực ngoài
sẽ kém tác dụng dần theo thời gian. Bởi
vậy chỉnh già hay non một chút biểu hiện
trong thời kỳ hậu phẫu có thể điều chỉnh
bằng kính Fresnel cho tới bệnh nhân có
thể chấp nhận được.
Hoover và cộng sự đã điều chỉnh
độ lác trong khi nhìn xa 12 đến 20PD ở 6
bệnh nhân liệt phân kỳ bằng cách rút ngắn
một cơ trực ngoài 6 đến 8mm sau khi tiêm
tê cạnh và hậu nhãn cầu. Gây tê tại chỗ là
một cách lựa chọn thay thế và phù hợp
hơn cho những bệnh nhân cao tuổi có
nguy cơ cao khi dùng thuốc.
Kết luận:
Liệt phân kỳ là một hình thái lác
điều trị phẫu thuật rất thành công. Các
phẫu thuật viên có thể miễn cưỡng bắt
đầu bằng các phương pháp điều trị cuối
cùng bởi vì tuổi bệnh nhân, nguy cơ sử
dụng thuốc hay độ lác trong nhỏ (12 đến
15D). Dù sao rút ngắn cơ trực ngoài là
phương pháp tương đối đơn giản và chỉ
cần gây tê ngắn. Gây tê tại chỗ đã thay
thế cho việc gây mê toàn thân. Gây tê
cạnh nhãn cầu và dưới Tenon tránh được
những rủi ro như khi tiêm hậu nhãn cầu
hai bên. Dùng kỹ thuật chỉnh chỉ sẽ giảm
được tỉ lệ chỉnh non hoặc già quá.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_liet_phan_ky_vu_bich_thuy.pdf