Đề tài Lạm phát và các giải pháp phòng chống lạm phát trong nền kinh tế thị trường

Tài liệu Đề tài Lạm phát và các giải pháp phòng chống lạm phát trong nền kinh tế thị trường: LỜI NÓI ĐẦU Như chúng ta đã biết, lạm phát là một hiện tượng có trong tất cả các nền kinh tế . Không một nền kinh tế nào tồn tại mà không xảy ra lạm phát . Lạm phát cao sẽ dẫn đến những hậu quả rất nghiêm trọng đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung cũng như đối với các ngành , lĩnh vực nói riêng. Tuy nhiên, lạm phát không hoàn toàn xấu, thực tế đã chứng minh có các nền kinh tế giữ được lạm phát ở mức vừa phải lại thúc đẩy nền kinh tế đó phát triển hơn. Chính vì thế, lạm phát đã và đang là một trong những vấn đề kinh tế vĩ mô thu hút được sự quan tâm lớn , không chỉ của các nhà chính trị mà còn của các nhà kinh tế và của đông đảo nhân dân. Vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề về lạm phát trong nền kinh tế thị trường là tất yếu, khách quan, phù hợp sự phát triển của xã hội. Chỉ có nghiên cứu về lạm phát, chúng ta mới có thể nắm được bản chất, nguyên nhân dẫn đến lạm phát, từ đó mới có thể đưa ra được những giải pháp phòng chống được sự leo thang của lạm phát. Chính vì ý nghĩa đó nê...

docx22 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1093 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Lạm phát và các giải pháp phòng chống lạm phát trong nền kinh tế thị trường, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Như chúng ta đã biết, lạm phát là một hiện tượng có trong tất cả các nền kinh tế . Không một nền kinh tế nào tồn tại mà không xảy ra lạm phát . Lạm phát cao sẽ dẫn đến những hậu quả rất nghiêm trọng đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung cũng như đối với các ngành , lĩnh vực nói riêng. Tuy nhiên, lạm phát không hoàn toàn xấu, thực tế đã chứng minh có các nền kinh tế giữ được lạm phát ở mức vừa phải lại thúc đẩy nền kinh tế đó phát triển hơn. Chính vì thế, lạm phát đã và đang là một trong những vấn đề kinh tế vĩ mô thu hút được sự quan tâm lớn , không chỉ của các nhà chính trị mà còn của các nhà kinh tế và của đông đảo nhân dân. Vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề về lạm phát trong nền kinh tế thị trường là tất yếu, khách quan, phù hợp sự phát triển của xã hội. Chỉ có nghiên cứu về lạm phát, chúng ta mới có thể nắm được bản chất, nguyên nhân dẫn đến lạm phát, từ đó mới có thể đưa ra được những giải pháp phòng chống được sự leo thang của lạm phát. Chính vì ý nghĩa đó nên em đã chọn đề tài: "Lạm phát và các giải pháp phòng chống lạm phát trong nền kinh tế thị trường” làm đề tài nghiên cứu trong đề án của mình. Trong khuôn khổ bài viết có hạn, em chỉ xin trình bày những vấn đề cơ bản về bản chất, nguyên nhân, hậu quả, giải pháp phòng chống lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua. Mặc dù đã rất cố gắng để hoàn thành đề án, song bài viết khó có thể tránh khỏi những sai sót, rất mong thầy cô giáo góp ý, bổ sung để bài viết của em trở lên hoàn chỉnh hơn. Cuối cùng, em xin chân thành cám ơn PGS. TS Nguyễn Hữu Tài đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề án này. PHẦN NỘI DUNG A.Cơ sở lý thuyết 1. Bản chất của lạm phát. 1.1 Các quan điểm về lạm phát. Có thể thấy rằng, trên thế giới hiên nay có rất nhiều công trình của các nhà kinh tế nghiên cứu về lạm phát. Trong mỗi công trình, tác giả lại đưa ra những quan điểm khác nhau về lạm phát: Theo Các Mác: lạm phát là sự tràn đầy các kênh, luồng lưu thông những tờ giấy bạc thừa, dẫn đến giá cả tăng vọt. Ông cho rằng, lạm phát là bạn đường của chủ nghĩa tư bản, ngoài việc bóc lột người lao động bằng giá trị thặng dư, chủ nghĩa tư bản còn gây ra lạm phát để bóc lột người lao động một lần nũa, do lạm phát làm tiền lương thực tế của người lao động giảm xuống. Như vậy, Mác cho rằng, bản chất của lạm phát là vấn đề giai cấp mà nguyên nhân là do Nhà nước tạo ra nhằm động cơ bóc lột. Vì thế theo ông, muốn thủ tiêu lạm phát thì phải thủ tiêu Nhà nước. Nhà kinh tế học tân cổ điển Samuelson thì cho rằng: lạm phát biểu thị một sự tăng lển trong mức giá cả chung. Theo ông : “lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi phí tăng – giá bánh mì, xăng dầu, xe ô tô tăng; tiền lương,giá đất, tiền thuê tư liệu sản xuất tăng”. Theo Milton Friedman : “Lạm phát luôn luôn và bao giờ cũng là một hiện tượng tiền tệ”. Tức là ông cho rằng lạm phát là hiện tượng kinh tế xã hội của tất cả các nước có sử dụng tiền tệ hiện đại. Hiên tượng đó được thể hiện thông qua sự gia tăng của mặt bằng giá cả. Còn theo Keynes , lạm phát là một hiện tượng tự nhiên vốn có của nền kinh tế, nó mang tính thường xuyên, vận động mang tính chu kỳ. Như vậy theo ông bản chất của lạm phát chính là một vấn đề kinh tế, không phải là vấn đề chính trị, do đó để có chính sách chống lạm phát phải nghiên cứu từ giác độ kinh tế. Như vậy mặc dù có nhiều điểm khác nhau về lạm phát , song chung quy lại các quan điểm đều khẳng định , bản chất của lạm phát chính là sự gia tăng mức giá chung của nền kinh tế. Phân loại lạm phát Tuỳ theo các tiêu thức khác nhau mà ta có thể phân chia lạm phát ra làm các loại khác nhau. *) Căn cứ về mặt định lượng có thể chia lạm phát ra làm 3 loại: Lạm phát một con số mỗi năm: Đây là loại lạm phát xảy ra khi giá cả tăng chậm và tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm. Đây là mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được, với mức lạm phát này, những tác động kém hiệu quả của nó là không đáng kể. Lạm phát hai con số mỗi năm: Khi tỷ lệ tăng, giá đã bắt đầu tăng đến hai chữ số mỗi năm. ở mức lạm phát hai chữ số thấp (10%, 11%, 12%/năm) , nói chug những tác động tiêu cực của nó không đáng kể, vẫn có thể chấp nhận được. Nhưng khi tỷ lệ tăng lên quá cao, lạm phát sẽ trở thành mối đe doạ đối với sự ổn định kinh tế, là kẻ thù của sản xuất và thu nhập bởi những tác động tiêu cưc của nó. Siêu lạm phát (hay còn gọi là lạm phát ba con số): Gọi nó là siêu lạm phát bởi lẽ tỷ lạm phát là rất cao và tốc độ tăng rất nhanh. Với siêu lạm phát, những tác động tiêu cực của nó đến đời sống xã hội và nền kinh tế sẽ trở nên rất nghiêm trọng, kinh tế suy xụp một cách nhanh chóng, thu nhập thực tế cua người lao động giảm mạnh. Tiêu biểu nhất của siêu lạm phát trong lịch sử là lạm phát ở Đức, giai đoạn 1922-1923: Trong vòng hai năm, kể từ tháng 11/1921 đến tháng 11/1923, giá cả hàng hoá bình quân ở Đức tăng 1500 tỷ lần so với mức trước năm 1914. Điều đó có nghĩa tương đương với việc một con tem mua vào năm 1914 có giá 10 đồng DM, thì đến năm 1923 con tem ấy có giá là 15 000 tỷ đồng DM. Việt Nam cũng đã từng rơi vào tình trạng siêu lạm phát, đó là vào giai đoạn năm 1986-1988, khi đó đỉnh cao nhất của Việt Nam là lạm phát lên tới 487,2% năm 1986. Tuy tình trạng siêu lạm phát không phải là phổ biến, song nếu xảy ra thì nền kinh tế sẽ suy sụp một cách nhanh chóng vì sản xuất không chịu hoạt động hoặc chỉ hoạt động cầm chừng . Bởi lẽ, họ càng hoạt động sản xuất nhiều thì sẽ càng bị lỗ nhiều do giá vật tư lên nhanh. *) Căn cứ vào mặt định tính có thể chia lạm phát thành lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng, hoặc là lạm phát dự đoán trước hoặc lạm phát bất thường. Lạm phát cân bằng: Khi lạm phát tăng thì thu nhập tăng tương ứng, do đó lạm phát không ảnh hưởng tới đời sống của người lao động. Lạm phát không cân bằng: Tỷ lệ lạm phát tăng không tương ứng với thu nhập, vì thế sẽ ảnh hưởng tới đời sống người lao động. Trên thực tế, lạm phát không cân bằng thường hay xảy ra nhất. Để hiểu rõ hơn về hai loại lạm phát này, chúng ta đi vào ví dụ sau : Giả sử rằng vào tháng 5 năm 1992, một công nhân Việt Nam với mức lương trung bình 400 000VND/tháng, trường hợp xem xét giá gạo là giá cả đại diện cho các loại giá khác trên thị trường với giá gạo là 2000VND/kg. Như vậy,một tháng lương người đó mua được 200kg gạo. Giả định tiếp, đúng một tháng sau, giá gạo bị lạm phát 2%. Như vậy, qua một tháng giá gạo đã tăng lên thành : ( 2000VND/kg x 2% ) + 2000VND/kg = 2040VND/kg. Có 3 tình huống: Thứ nhất, nếu sau một tháng đó lương của người công nhân vẫn không tăng , vẫn 400 000VND/tháng thì anh ta chỉ có thể mua được 196.08 kg gạo. Do đó vô hình chung ,lạm phát đã làm mất của anh ta gân 4 kg gạo . Rõ ràng anh ta trở lên nghèo hơn một chút so với tháng trước đó. Thứ hai, có thể Nhà nước tiên liệu trước được tình hình lạm phát nên quyết định tăng lương công nhân trong tháng 6 . Cho rằng hoặc vô tình nhoăc đôi khi được tính trước , tỷ lệ lương bình quân tăng 2% một tháng. Khi đó, lương tháng 6 của công nhân sẽ là 400 000 x (1 + 2%) = 408 000 VND. Lương này sẽ mua được 200 kg gạo ( với giá 2040 VND/kg). Có thể thấy mưc sống của người công nhân không có gì thay đổi so với tháng trước, lương vẫn đủ đảm bảo cho anh ta mua được ngần ấy hàng hoá. Anh ta không giàu hơn cũng chẳng nghèo đi so vói tháng trước bởi tuy lương tăng lên được 8000 VND thì giá cả cũng tăng lên vừa đủ phần tăng lương này. Thứ ba, Nhà nước tăng lương công nhân hơi mạnh tay lên đến 107.1% so với mức lương cũ. Khi ấy: Lương của công nhân trong tháng 6 là: 400 000 x 107.1% = 428 400 VND/tháng. Số gạo mà toàn bộ lương này mua được là: 428 400 : 2040 = 210kg Rõ ràng là anh công nhân sẽ sung sướng hơn vì lương của anh ta mua được nhiêù gạo hơn so với tháng trước. Như vậy có thể thấy trường hợp thứ hai được gọi lạm phát cân bằng. Hai trường hợp thứ nhất và thứ ba là lạm phát không cân bằng. Cân bằng ở đây là cân bằng so với thu nhập. Do đó, có thể hiểu rằng lạm phát được gọi là cân bằng khi nó tăng tương ứng với thu nhập . Ngược lại khi nó tăng không tương ứng với thu nhập được gọi là lạm phát không cân bằng. Lạm phát dự đoán trước và lạm phát bất thường: Khi lạm phát xảy ra liên tục trong một khoảng thời gian dài ( ví dụ trong 10 năm), tâm lý và sự chờ đợi của nhân dân đã trở thành quán tính, người ta đã sống quen dần với lạm phát. Năm thứ 11, hoặc năm thứ 12 trở đi, việc nền kinh tế sẽ có lạm phát là chuyện bình thường và gần như được dự đoán trước. Người ta gọi đây là lạm phát dự đoán trước. Cũng có khi người ta có thể nhìn thấy trước về lạm phát và tin rằng nó sẽ xảy ra bởi các nguyên nhân của nó đã bộc lộ đầy đủ và rõ ràng. Trong trường hợp đó người ta cũng đoán trước được và không bất ngờ khi lạm phát xảy ra. Nhưng nếu lạm phát bùng ra bất thình lình mà trước đó không hề có và cũng chẳng có dấu hiệu báo trước. Chẳng hạn nền kinh tế đang quen với lạm phát thấp , bỗng nhiên lạm phát vọt lên cao . Khi đó người ta gọi đó là lạm phát bất thường. Lạm phát bất thường dễ gây sốc cho cuộc sống và mọi người bởi vì họ chưa chuẩn bị về mặt tâm lý và tiêu dùng để phù hợp với việc tăng giá đột ngột. 2. Nguyên nhân của lạm phát Sau khi đã hiểu về bản chất của lạm phát là như thế nào thì đặt ra cho chúng ta câu hỏi tại sao lại có lạm phát ? Nguyên nhân gì đã sinh ra lạm phát ? Trên thực tế thì lạm phát ở các nước khác nhau ,xãy ra ở những thời kì khác nhau là do những nguyên nhân khác nhau ..Tuy nhiên không vì thế mà lạm phát không có những nguyên nhân cụ thể ,..bằng việc tổng hợp ở nhiều nước trên thế giới và qua nhiều thời kì ,giai đoạn phát triển khác nhau của các nền kinh tế thì theo các nhà kinh tế học hiện đại nguyên nhân của lạm phát được xuất hiện từ ba nhóm chủ yếu sau : Đó là nhóm do cơ cấu , do tăng trưởng tiền tệ và do thâm hụt ngân sách nhà nước ….. Cụ thể chúng ta sẽ đi vào từng nguyên nhân một sinh ra hiện tượng lạm phát : Thứ nhất : Nguyên nhân do cơ cấu . Trong nhóm nguyên nhân gây ra lạm phát này chúng ta sẽ đi vào hai nguyên nhân đó là hiện tượng Cầu kéo và hiện tượng chi phí đẩy Hiện tượng Cầu kéo :lạm phát do cầu kéo thực chất là do sự mất cân đối giữa tông cung và tổng cầu hàng hóa dịch vụ trong nền kinh tế ,do những cú sốc về cầu diễn ra đột ngột AS1 P2 AS2 P1 AD2 AD1 0 Q1 Q2 Q3 Q Xét một nền kinh tế đang ở mức tiềm năng Q1 tại đó mức giá chung của nền kinh tế là tại P1 đột nhiên nền kinh tế phải chịu ảnh hưởng của một cú sốc cầu ,có thể là trong nước hay quốc tế (Ví dụ : như chiến lược phát triển kinh tế của một nước chẳng hạn làm cho cầu đầu tư tăng lên một cách đột biến ,làm đường tổng cầu của nền kinh tế dịch sang phải (từ AD1 sang AD2 ) ,sau một thời gian làm cho mức cân bằng của nền kinh tế chuyển sang một trạng thái mới ( được giả thiết là nền kinh tế đang ở mức toàn dụng nhân công do đó không có sự thay đổi của tổng cung đường tổng cung không thay đổi ) ,tại đó mức sản lượng của nền kinh tế tăng lên mức Q2 ( Q2 lớn hơn Q1) và mức giá chung của nền kinh tế lên đến mức P2( P2 lớn hơn P1)…Nhưng mà trong thực tế thì khi cầu tăng sẽ làm cho cung tăng một lượng chút ít ,sự gia tăng của cung nhỏ hơn rất nhiều so với sự gia tăng của cầu do những giới hạn về nguồn lực, con người (Gía tăng làm các hãng tăng cường sản xuất để thu lợi nhuận lớn hơn làm cho đường tổng cung của nền kinh tế dịch chuyển sang phải ( từ AS1 sang AS2 ) .. lạm phát do cầu kéo sẽ làm mức sản lượng của nền kinh tế tăng lên và mức giá chung của nền kinh tế cũng tăng lên theo đó ……Đây là theo kinh tế học của Keynes về phân tích tổng cung ,tổng cầu ( AD-AS ). Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao hơn tổng cung, người ta có cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải tăng lên để đáp ứng. Do đó có lạm phát. Hiện tượng chi phí đẩy : Chi phí của sản xuất là yếu tố cấu thành nên giá cả hàng hóa cho nên sự biến động của chi phí sản xuất là nguyên nhân thứ hai có thể gây ra lạm phát,..các nhân tố có thể ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí sản xuất là : Nguyên vật liệu (do tính chất khan hiếm của NVL ,được khai thác trong tự nhiên nên khi trữ lượng giảm xuống sẽ làm giá cả của nó tăng lên ). Thứ hai là chi phí để mua sức lao động .Thứ ba là chi phí vốn ( hiện nay chi phí huy động vốn ngày một cao hơn ) . Ngoài ra thì doanh nghiệp còn bị rất nhiều áp lực từ phía nhà nước có thể làm giá sản phẩm tăng cao (như phí và thuế thu nhập..) Các chi phí sản xuất này khi tăng trong cả nền kinh tế sẽ làm cho mặt bằng giá cả của hàng hóa sẽ tăng cao gây nên lạm phát :Khi các yếu tố chi phí trên tăng lên ,làm cho tại mỗi mức giá lượng cung sẽ giảm xuống làm đường tổng cung của nền kinh tế dịch chuyển sang phải (AS1 lên AS2 -hình trên ) tại điểm cân bằng mới của nền kinh tế , sản lượng giảm từ Q1 xuống Q2 và mức giá tăng từ P1 lên P2 nền kinh tế rơi vào vừa suy thoái vừa lạm phát .. ( Mức giá) P AS2 P2 P1 AS1 sản lượng 0 Q2 Q1 Q Ví dụ : Năm 1973 , 1978 OPEC nâng giá dầu mỏ ,năm 1990-1991 khủng hoảng vịnh persian ,cả ba lần giá cả hàng hóa bình quân ở hầu hết các nước trên thế giới đều tăng Trên đây chúng ta đã tìm hiểu nguyên nhân thứ nhất của lạm phát đó là lạm phát do cơ cấu (cầu kéo và chi phí đẩy ) ,tiếp theo chúng ta sẽ tìm hiểu nguyên nhân thứ hai sinh ra lạm phát đó là nguyên nhân do nguyên nhân từ phía tiền tệ . Nguyên nhân thứ hai : Nguyên nhân tăng trưởng tiền tệ . Khi có nền kinh tế có sự tăng trưởng tiền tê một cách quá mức và kéo dài thì cũng gây nên hiện tượng lạm phát ( khi Y tăng 1% thì lượng tiền cung ứng cần thiết cho lưu thông hàng hóa chỉ cần tăng nhỏ hơn 1% ,nhưng trong thực tế khi Y tăng lên 1% thi lượng cung tiền thực tế thường tăng với một mức độ lớn hơn 1% đây chính là tăng quá mức và quá trình này kéo dài thì sẽ gây nên lạm phát do tăng trưởng tiền tệ ) : Nếu gọi Ms là mức cung tiền danh nghĩa P là giá cả bình quân và L là mức cung tiền thực tế thì : Ls= ( Ms / P ) Gọi M1 là nhu cầu về tiền danh nghĩa thì Ld sẽ là nhu cầu về tiền thực tế ,với : Ld = ( Md / P ) Milton Friedman đặt tên cho các khái niệm này vào thập niên 50 của thế kỉ trước .Và nhu cầu tiền thực tế trong nền kinh tế Ld được xác định bởi công thức : Ld = Md / P =a.Y^b Thị trường tiền tệ chỉ quân bình khi lượng cung về tiền thực tế là tương đương với lượng cầu tiền thực tế . nghĩa là : Ls = Ld + a.Y^b . Vì a và b theo Friedman – là những hắng số khá ổn định về mặt dài hạn ,nên thị trường chỉ cân bằng nếu Ls và Ld tăng gần tương đương với mức tăng của Y . Do vậy khả năng ngược lại là khi Y cố định về mặt ngắn hạn ,sự tăng cung tiền tệ Ms sẽ chỉ có thể được cân đối nếu có sự tăng tương ứng của cầu tiền tệ danh nghĩa Md. Vì thị trường tiền tệ luôn luôn có xu hướng quay về cân bằng ở vị trí mà : Ms / P = Md / p = a.Y^b Nếu Y không đổi ,a và b không đổi ,thì Ms chỉ tăng nếu một trong ba trường hợp sau xảy ra : - Md phải tăng tương ứng để tạo thế cân bằng P phải tăng Md và P cùng tăng Vì Md là cố đinh vào những lúc Ms tăng đột ngột cho nên chỉ có trường hợp 2 xãy ra là một cách phổ biến nhất :giá cả phải tăng để tạo thế cân bằng trên thị trường tiền tệ Về mặt thực tế khi cung ứng tiền danh nghĩa tăng một tỷ lệ là ∆Ms , nó sẽ gây ra lạm phát với tỷ lệ chính thức là bằng tỷ lệ tăng của cung ứng tiền danh nghĩa trừ đi tỷ lệ tăng của nhu cầu tiền danh nghĩa chia cho tổng của 1 cộng với tỷ lệ tăng trong nhu cầu tiền về danh nghĩa Rõ ràng dù nhu cầu tiền danh nghĩa có tăng hay không thì mọi sự tăng lên của cung ứng tiền tệ danh nghĩa – về mặt ngắn hạn –đều nhanh chóng gây nên lạm phát … Đây là một nguyên nhân khá phổ biến gây nên hiện tượng lạm phát ở các quốc gia trên thế giới Nguyên nhân thứ ba : Bội chi ngân sách nhà nước (Nguyên nhân từ phía chính phủ ) . Đây là một nguyên nhân mà chúng ta thường đã thấy rất nhiều trong lịch sử của các nước mà làm cho mức lạm phát của các nước có thể lên rất cao .Đó là nguyên nhân chủ quan từ phía chính phủ bằng cách chi tiêu quá mức của mình chính phủ đôi khi đã làm cho nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát nghiêm trọng điển hình là cuộc lạm phát ở Đức (1921-1923 ) …. Nhu cầu chi tiêu của chính phủ là rất lớn ,cho rất nhiều đối tượng khác nhau trong nền kinh tế : chi tiêu để kích cầu ,thực hiện các chính sách ,rồi các khoản chi mua thường xuyên thường có quy mô rất lớn ..để đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu của mình thì có rất nhiều con đường khác nhau và chính phủ có thể lựa chọn trong đó có các con đường chủ yếu là : tăng thuế , phát hành các chứng khoán nhà nước ( trái phiếu chính phủ…), do nắm đặc quyền trong tay về tài chính nên có một cách dễ dàng và nhanh chóng mà có thể tài trợ một cách dễ dàng cho ngân sách đó là phát hành thêm tiền mặt để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình , tuy nhiên chỉ trong trường hợp ngân sách nhà nước bị thâm hụt nhiều thì khả năng phát hành tiền để đáp ứng cho chi tiêu mới xảy ra .Trong thực tế về ngân sách của các nước trên thế giới rât hiếm khi có thặng dư (nếu có thì chỉ có trong rất ngắn hạn ,tạm thời và thặng dư thường rất nhỏ ) ,mà tình trạng chung của ngân sách các nước là luôn luôn lâm vào tình trạng thâm hut lớn Dưới đây là tình hình thu chi ngân sách việt nam qua các năm Năm 2000 2001 2002 2003 Tổng thu 90749 103888 123860 152274 Tổng chi 108961 129773 148208 181183 Thâm hụt 18212 25885 24348 28909 Chúng ta đã thấy được phần nào về tình hình thu chi của việt nam trong những năm gần đây..để tài trợ cho thâm hụt ngân sách thì chính phủ có thể tăng thuế hoặc phát hành trái phiếu chính phủ ,nhưng cách thứ nhất có thể làm giảm sản lượng của nền kinh tế , hai cách này chỉ có hiệu quả trong dài hạn , độ trễ dài ..do đó cách dễ dàng nhất là phát hành thêm tiền để chi tiêu cách này vừa có thể đáp ứng nhu cầu chi tiêu tức thời của chính phủ một cách nhanh chóng và với chi phí thực hiện là thấp nhất .. Do vậy một nguyên nhân nữa mà thường xuyên gây nên lạm phát ở các nước đó là in tiền để chi tiêu của chính phủ…đây cũng là một nguyên nhân khá phổ biến ở các nước trên thế giới Ngoài ra trong thực tế có rất nhiều nhà kinh tế đứng trên những góc độ khác nhau họ quan niệm có những nguyên nhân khác nhau gây nên lạm phát ,nhưng một cách cơ bản mà nói thì những nguyên nhân nêu trên là những nguyên nhân chủ yếu và phổ biến trong thực tế . 3. Hậu quả của lạm phát Trong phần này, chúng ta sẽ đi sâu , phân tích những tác động do lạm phát gây ra đối với mọi mặt cuả đời sống xã hội. Xuất phát từ thực tế diễn biến lạm phát của các nước trên thế giới, các nhà kinh tế cho rằng lạm phát cao và triền miên có ảnh hưởng xấu đến mọi mặt của đời sống xã hội, kinh tế cũng như chính trị của một quốc gia. Ta xem xét hậu quả của lạm phát trên các khía cạnh sau: Đối với đời sống xã hội Trong trường hợp thu nhập danh nghĩa không đổi, lạm phát cao sẽ làm cho thu nhập thưc tế của người lao động không ngừng giảm xuống, làm cho đời sống của họ trở nên khó khăn hơn. Với mức lương 500 000VND một tháng hiện nay, người lao động có thể mua được 2 tạ gạo (với giá gạo là 2500VND/kg). Vào năm sau , nếu vẫn số lượng hàng tháng như hiện nay mà tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế tăng thêm 20% so với năm trước. Khi đó giá gạo sẽ tăng lên là 3000 VND/kg. Do đó số tiền lương công nhân trong một tháng chỉ có thể mua được 1.67 tạ gạo. Như vậy lạm phát không chỉ làm giảm gía trị thực của những tài sản không có lãi (tức tiền mặt ) mà nó còn làm hao mòn của những tài sản có lãi ,tức là làm giảm thu nhập thực từ các khoản lãi ,các khoản lợi tức . Khi lạm phát tăng cao ,những người đi vay sẽ tăng lãi suất danh nghĩa để bù vào tỷ lệ lạm phát tăng cao ,điều đó làm cho số tiền thuế thu nhập mà người có tiền cho vay phải nộp tăng cao (mặc dù thuế suất không đổi ) kết quả làm thu nhập ròng ,thu nhập thực mà người cho vay nhận được giảm đi . Hơn nữa lạm phát tăng cao cũng gây ra các tệ nạn xã hội ,nó phân phối lại một cách bất hợp lý giữa các chủ thể khác nhau của nền kinh tế .Trong quan hệ kinh tế giữa người đi vay và người cho vay khi lạm phát tăng cao người cho vay sẽ là người chịu thiệt ,và người đi vay sẽ là người được lợi điều đó tạo nên sự phân phối thu nhập không bình đẳng giữa người đi vay và người cho vay .Hơn thế nữa nó còn thúc đẩy những người kinh doanh tăng cường thu hút tiền vay để đầu cơ kiếm lời .Do vậy càng tăng thêm nhu cầu tiền vay trong nền kinh tế đẩy lãi suất lên cao .Mặt khác lạm phát tăng cao còn khiến cho những người thừa tiền và giầu có đầu cơ tích góp hàng hoá làm mất cân đối quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường làm giá cả hàng hoá tăng cao . Điều đó làm cho những ngưòi dân nghèo ngày trở nên khó khăn hơn ,họ thậm chí không mua nổi những hàng hoá thiết yếu vì giá cả quá cao chính vì thế khoảng cách về mức sống giữa người giầu . Đối vơí nền kinh tế : Khi lạm phát mới bắt đầu sản lượng nền kinh tế tăng nhanh đột biến do giá cả hàng hoá tăng . Bởi lẽ, khi giá hàng hoá tăng làm cho doanh thu bán hàng của các doanh nghiêp tăng. Vì thế, các doanh nghiệp tiếp tục mở rộng sản xuất làm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên giảm xuống. Đó chỉ là phản ứng trong ngắn hạn bởi lẽ ngay sau đó sản lượng bắt đầu giảm xuống do việc tích trữ hàng hoá của các nhà đầu cơ. Chính vì thế càng đẩy giá cả lên cao, làm cho lạm phát càng leo thang,tốc độ biến động giá cả lúc này là rất lớn. Khi nền kinh tế đang trong tình trạng lạm phát thì lãi suất trong nền kinh tế cũng thay đổi theo ,lãi suất tăng lên nhanh chóng vì : để giữ cho tài sản nợ và có hiệu quả không đổi thì hệ thống ngân hàng luôn cố gắng giữ cho lãi suất thực tế ổn định nhưng vì : Lãi suất thực tế = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát . Nên nếu muốn cho lãi suất thực tế không đổi thì lãi suất danh nghĩa phải tăng cùng với tỷ lệ lạm phát . khi các ngân hàng tăng lãi suất danh nghĩa theo lạm phát hậu quả mà nền kinh tế phải gánh là sự suy thoái và thất nghiệp ..Lãi suất tăng làm cho cầu về đầu tư giảm ,đầu tư giảm ...... Mặt khác trong khi lạm phát đang diễn ra thì các doanh nghiệp trong nền kinh tế cần rất nhiều tiền để quay vòng ,tích trữ hàng hóa ,nên tình trạng các doanh nghiệp đến các ngân hàng rút tiền để chuyển vốn sang dạng phi tài chính ( vàng hoặc ngoại tệ mạnh … ) và đến ngân hàng để vay tiền ,điều đó cũng làm cho lãi suất tăng lên ắt đầu tư sẽ giảm tính rủi ro trong nền kinh tế tăng lên .. Đối với lưu thông hàng hoá tiền tệ Lạm phát ở mức độ cao làm cho lưu thông hàng hoá, tiền tệ bị ách tắc. Hàng hoá tích trữ nhiều hình thành cầu giả tạo làm giá cả tăng vọt ở chu kỳ tiếp, đẩy lạm phát chu kỳ sau cao hơn so với chu kỳ trước. Đối với những nước có nền kinh tế tiền mặt như Việt Nam thì càng lạm phát lại càng thiếu tiền. Đối với kinh tế đối ngoại Lạm phát cao làm cho hình ảnh, uy tín đất nước bị suy giảm, từ đó dẫn đến những khó khăn trong các quan hệ thương mại quôc tế. Chính vì vậy, luồng vốn đầu tư từ nước ngoài vào sẽ giảm, chi phí cho việc sử dụng tăng lên, đất nước phải đối mặt với gánh nặng nợ nước ngoài gia tăng. 3. Một số giải pháp phòng chống lạm phát Do lạm phát tăng cao và kéo dài đã gây ra những hậu quả lớn trong đời sống của nhân dân lao động và cho tăng trưởng kinh tế , Chính phủ các quốc gia cần có những biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa và khắc phục lạm phát. Sau đây, chúng ta sẽ đi vào các biện pháp cụ thể được sử dụng để phòng chống lạm phát : a. Đông kết giá cả : Đây là biện pháp mà Nhà nước ký hợp đồng với các doanh nghiệp, ngân hàng, các tổ chức kinh tế đê các tổ chức đó không tăng giá cả, không tăng lãi suất, không tăng lương nhằm kiềm chế lạm phát. Đương nhiên , Nhà nước phải tạo ra các ưu đãi cho các doanh nghiệp, ngân hàng, tổ chức kinh tế đó. Vì thế, đây chỉ là biên pháp mang tính chất tạm thời chứ không phải là biện pháp phòng chống lâu dài. b. Thắt chặt tiền tệ : Đây là biện pháp rất có hiệu quả bởi nó tác động mạnh mẽ tới tình hình lạm phát thông qua việc điều tiết giá cả của nền kinh tế. Chẳng hạn, việc tăng tỷ lệ dự trữ bắ buộc làm giảm khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại, từ đó làm đầu tư giảm dẫn đến tổng cầu giảm, vì thế làm cho mức giá chung của nền kinh tế giảm xuống. Việc tăng lãi suất chiết khấu làm cho lãi suất ngân hàng tăng lên, điều đó cũng làm đầu tư giảm và đẩy mức giá chung của nền kinh tế giảm xuống. Hoặc Ngân hàng trung ương có thể bán trái phiếu chính phủ cho các ngân hàng thương mại, điều đó làm giảm lượng tiền trong lưu thông, góp phần khắc phục được lạm phát c. Thắt chặt ngân sách Nhà nước: Tăng thuế Giảm chi tiêu ngân sách Nhà nước Ba biện pháp trên đây chỉ mang tính chất tức thời, chỉ sử dụng trong ngắn hạn, còn muôn phòng chống lạm phát trong lâu dài thì ta phải cải cách nền kinh tế bởi lẽ bản chất của lạm phát chính là sự mất cân đối của nền kinh tế. Cải cách kinh tế : Đây là biện pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Việc cải cách nền kinh tế nó bao gồm đồng bộ các giải pháp, điển hình như : Thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hoá và mở rộng lưu thôn hàng hoá. Đây là giải pháp chiến lược hàng đầu để hạn chế lạm phát, duy trì sự ổn định tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân. Sản xuất trong nước ngày càng phát triển, quỹ hàng hoá được tạo ra ngày càng tăng về số lượng và đa dạng về chủng loại, tạo tiền đề vững chắc nhất cho sự ổn định tiền tệ. Bên cạnh đó, Chính phủ cần phải chú trọng phát triển các ngành, các hoạt động làm tăng thu ngoại tệ như xuất khẩu hàng hoá, du lịch, dịch vụ … Kiện toàn bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế quản lý hành chính, trên cơ sở đó để góp phần giảm bội chi ngân sách Nhà nước. Tăng cường công tác quản lý điều hành ngân sách Nhà nước trên cơ sỏ tăng các khoản thu cho ngân sách một cách hợp lý, chống thất thu, lãng phí. B. Tình hình lạm phát ở Việt Nam Việt Nam, nói đến lạm phát cũng là một trong nhũng nước có tỷ lệ lạm phát cao trong lịch sử , đặc biệt trong giai đoạn đổi mới 1986 – 1988, lạm phát ở Việt Nam lên tới ba con số : Năm 1986 1987 1988 Tỷ lệ lạm phát ( % ) 487,2 301,3 308,2 Trong giai đoạn này nền tuy công cuộc đổi mới đã đạt được những kết quả đáng khích lệ song nền kinh tế Việt Nam vẫn đang trong tình trạng khủng hoảng: kinh tế chậm phát triển, không ổn định, hàng hoá sản xuất ra không bán được, hàng hoá tồn đọng, nhiều cơ sở sản xuất phải thu hẹp hoặc ngừng sản xuất, tài chính doanh nghiệp rối ren, lạm phát lên đến mức kỷ lục, cao nhất là năm 1986 với tỷ lệ lạm phát là 487,2%. Vì thế mà người ta gọi đây là thời kỳ siêu lạm phát. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng siêu lạm phát này, trong đó nguyên nhân từ tiền tệ và tín dụng là nguyên nhân quan trọng mang tính quyết định. Tác nhân quan trọng gây ra lạm phát chính là việc tăng cung ứng tiền tệ. Khi cung ứng tiền tệ tăng do Ngân hàng trung ương phát hành thêm tiền làm cho tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế tăng trong khi hàng hoá và dịch vụ không có sự tăng lên tương thích. Điều đó làm cho tổng cung tiền lớn hơn so với tổng cầu tiền dẫn đén giá cả tăng gây ra hiên tượng lạm phát. Ở Việt Nam thời kỳ này , chính do việc đổi tiền và phát hành thêm tiền tệ quá nhiều đã làm cho mức cung ứng tiền tệ tăng vọt, tín dụng tăng trưởng nóng đảy giá cả lên cao, gây ra lạm phát cao lên tới ba con số.Trong giai đoạn này Việt Nam đã phát hành thêm tiền vào lưu thông với một số lượng lớn : Năm 1986 phát hành thêm 55,4 tỷ đồng, đến năm 1988 phát hành thêm tiếp 83,3 tỷ đồng. Chính sự phát hành quá nhiêù tiền này đã góp phần đẩy lạm phát leo thang trong thời kỳ này. Không những thế sự tăng trưởng rất nóng cuả tín dụng Viêt Nam trong thời kỳ này cũng là nguyên nhân rất quan trọng đẩy lạm phát lên cao. Năm 1986 tín dụng cho vay nền kinh tế tăng 1897,4 % so với năm 1976, tăng 1362,5% so với năm 1980 và tăng 325,7% so với năm1985. Sở dĩ tín dụng tăng nhanh trong thời kỳ này là do cho đến năm 1988 Việt Nam vẫn chưa thể kiểm soát được lượng tiền cung ứng ở mức độ mong muốn do hệ thống ngân hàng lúc này la hệ thống ngân hàng một cấp. Cho nên việc phát hành tiền không mang tính hợp lý mà căn cứ rheo yêu cầu chi tiêu trong nước ( bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước )và ở các địa phương ( cấp vốn cho các dự án theo yêu cầu của địa phương ). Ngoài ra , lạm phát thời kỳ này còn do môt số nguyên nhân khác nữa góp phần đẩy lạm phát lên cao. Để đối phó với tình trạng này, Chính phủ ta đã sử dụng đồng bộ các giải pháp như : Thu hẹp tín dụng Nâng cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc Tăng thu cho ngân sách đi đôi với việc chống thất thoát , tham nhũng lãng phí Cải cách hệ thống ngân hàng thành hệ thống ngân hàng hai cấp Thay đổi chính sách đối ngoại với các nước trên thế giới… Nhờ đó, trong giai đoạn tiếp theo lạm phát đã bắt đầu giảm xuống. Dưới đây là số liệu thống kê tỷ lệ lạm phát của Việt Nam qua các năm từ 1990 – 1995 : Năm 1990 1991 1992 1993 1994 1995 Tỷ lệ lạm phát ( % ) 67,1 67,5 17,5 5,2 14.4 12,7 Gần đây, giai đoạn 2004 – 2005, lạm phát ở Việt Nam có dấu hiệu tăng cao trở lại. Tình hình giá cả trong nước và quốc tế có những biến động phức tạp : giá hàng tiêu dùng tăng liên tục, đặc biệt là giá lương thực thực phẩm tăng cao nhất; giá một số mặt hàng khác như thép, dầu thô, cũng tăng mạnh do giá cả trên thị trường thế giới tăng. Từ đó đẩy mức giá chung của nền kinh tế tăng gây ra lạm phát thời kỳ này. Mặc dù lạm phát ngay sau đó đã dược khắc phục song với một nền kinh tế thị trường còn non nớt, bất ổn như Việt Nam thì sự khắc phục đó chỉ là tạm thời. Chúng ta cần phải kiểm soát được lạm phát và duy trì nó ở một tỷ lệ thích hợp vừa phải. Để có thể duy trì tỷ lệ lạm phát ở môt mức độ thích hợp chúng ta cần tiếp tục đổi mới hệ thống tài chính, ngày càng kiện toàn bộ máy quản lý hành chính Nhà nước, không ngừng nâng cao hệ thống thông tin trong nước và quốc tế… Có như vậy ta mới có cơ sở để có thể giữ được lạm phát ở một tỷ lệ thích hợp. KẾT LUẬN Phải thừa nhận rằng, lạm phát và các giải pháp phòng chống lạm pháp luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong nền kinh tế thị trường bởi những tác động của nó gây ra đối với mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội cũng như chính trị của một quốc gia. Lạm phát cao không những làm cho thu nhập thực tế của người lao động giảm xuống, làm cho đời sống của họ trở nên khó khăn hơn mà nó còn làm cho nền kinh tế bị suy thoái, thất nghiệp gia tăng , đất nước rơi vào khủng hoảng. Vì thế việc nắm được nguyên nhân dẫn đến lạm phát là hết sức quan trọng để có thể đưa ra những biện pháp khắc phục lạm phát hợp lý, có hiệu quả. Hiểu được vấn đề đó, Việt Nam đã thành công trong việc khống chế và từng bước đẩy lùi lạm phát, đưa lạm phát từ ba con số xuống một con số trong thời kỳ đổi mới. Nhờ đó mà Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và từng bước đi vào ổn định, phát triển. Như vậy việc kiêm soát được lạm phát có ý nghĩa rất lớn trong việc quản lý vĩ mô nền kinh tế. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ Tạp chí kinh tế Tiền và hoạt động ngân hàng Lê Vinh Danh Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính F. Mishkin Lạm phát hành trình và các giải pháp phòng chống

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxDA33.docx
Tài liệu liên quan