Đề tài Lạm phát ở nước ta giai đoạn 2007

Tài liệu Đề tài Lạm phát ở nước ta giai đoạn 2007: Phần 1 : mở đầu Phần 2 : nội dung Chương 1 : Lý thuyết lam phát Các quan niệm về lạm phát Trương phái lưu thông tiền tệ 1.1.2 Trường phái cầu kéo Trường phái lạm phát và giá cả 1.1.4 Trương phái K.Marx 1.2 Phân loại lạm phát 1.2.1 Căn cứ vào định lượng gồm: 1.2.2Căn cứ vào định tính : 1.3Nguyên nhân lạm phát 1.3.1 Lạm phát do cầu kéo : 1.3.2 Lạm phát do chi phí đẩy : 1.3.3 Lạm phát do cung tiền tệ tăng cao và liên tục 1.3.4 Các nguyên nhân khác 1.4 Tác động của lạm phát 1.4.1 Lạm phát không dự kiến được Lạm phát dự kiến được Chính sách và biện pháp trong thòi kì lam phát 1.5.1 Biện pháp đối phó với lạm phát 1.5.1.1Những biện pháp tình thế 1.5.1.2Những biện pháp chiến lược 1.5.2Chính sách lạm phát 1.5.3 Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế 1.5.4 Lạm phát theo mục tiêu 1.5.4.1Giới thiệu lạm phát mục tiêu (LPMT) Đặc điểm của lạm phát mục tiêu Quy trình thực hiện LPMT Chương 2 : Lạm phát ở Việt Nam Sơ lược lịch sử lạm phát ở Việt Nam: Diễn bi...

doc57 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1055 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Lạm phát ở nước ta giai đoạn 2007, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 1 : mở đầu Phần 2 : nội dung Chương 1 : Lý thuyết lam phát Các quan niệm về lạm phát Trương phái lưu thông tiền tệ 1.1.2 Trường phái cầu kéo Trường phái lạm phát và giá cả 1.1.4 Trương phái K.Marx 1.2 Phân loại lạm phát 1.2.1 Căn cứ vào định lượng gồm: 1.2.2Căn cứ vào định tính : 1.3Nguyên nhân lạm phát 1.3.1 Lạm phát do cầu kéo : 1.3.2 Lạm phát do chi phí đẩy : 1.3.3 Lạm phát do cung tiền tệ tăng cao và liên tục 1.3.4 Các nguyên nhân khác 1.4 Tác động của lạm phát 1.4.1 Lạm phát không dự kiến được Lạm phát dự kiến được Chính sách và biện pháp trong thòi kì lam phát 1.5.1 Biện pháp đối phó với lạm phát 1.5.1.1Những biện pháp tình thế 1.5.1.2Những biện pháp chiến lược 1.5.2Chính sách lạm phát 1.5.3 Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế 1.5.4 Lạm phát theo mục tiêu 1.5.4.1Giới thiệu lạm phát mục tiêu (LPMT) Đặc điểm của lạm phát mục tiêu Quy trình thực hiện LPMT Chương 2 : Lạm phát ở Việt Nam Sơ lược lịch sử lạm phát ở Việt Nam: Diễn biến 2.1.1.1Giai đoạn những năm trước Đổi mới 1986: Giai đoạn lạm phát sau Đổi mới 1986 đến nay: Nguyên nhân 2.1.2.1.Nguyên nhân khách quan. 2.1.2.2 Nguyên nhân chủ quan: 2.1.3 Phương hướng giải quyết Lạm Phát ở Việt Nam giai đoạn 2007-2009 Diễn biến 2.2.2 Nguyên nhân 2.2.2.1 Lạm phát tiền tệ 2.2.2.2 Lạm phát cầu kéo 2.2.2.3 Lạm phát chi phí đẩy 2.2.2.4 Nguyên nhân khác 2.2.3. Tác động của lạm phát: 2.2.3.1 Tác động đến tình hình kinh tế: Tác động đến tình hình xã hội: 2.2.4 Giai pháp 2.2.4.1 Năm 2007 2.2.4.2 Năm 2008 Năm 2009 2.2.5 Đánh giá giải pháp 2.2.5.1 Năm 2007 2.2.5.2 Năm 2008 2.2.5.3 Năm 2009 Phần 3 : Kết luận Phần 1 : mở đầu Trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam, lạm phát nổi lên là một vấn đề đáng quan tâm về tác động của nó đối với sự nghiệp phát triển kinh tế. Lạm phát là một trong những chỉ tiêu đánh giá trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia nhưng cũng là một trong những trở ngại lớn nhất trong công cuộc phát triển đất nước. Lạm phát được coi như là một căn bệnh thế kỷ của nền kinh tế thị trường. Càng ngày, cùng với sự phát triển đa dạng phong phú của nền kinh tế thì nguyên nhân dẫ đến lạm phát cũng ngày càng trở nên phức tạp hơn.Đối với nước ta, trong sự nghiệp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước, cơ chế mới sẽ là môi trường thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế theo xu hướng hiện đại, chắc lọc thừa kế những thành tựu và khắc phục những tồn tại đã qua. Trong đó, lạm pháp nổi lên như là mộtvấn đề hết sức nghiêm trọng. Vì vậy, việc nguyên cứu về lạm phát, tìm hiểu nguyên nhân và các biện pháp chống lạm phát là hết sức cần thiết và có vai trò to lớn góp phần vào sự nghiệp phát triển của đất nước. Từ năm 1976 đến nay, Việt Nam trải qua hai giai đoạn phát triển chính được đánh dấu bằng mốc khởi đầu đổi mới năm 1986 : nền kinh tế chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong cả hai giai đoạn này, lạm phát luôn là mọt vấn đề được quan tâm hang đầu trong các chính sách và chến lược phát triển, nhất là trong những thời điểm lạm phát dâng cao như nửa cuối thập niên 1970 – nửa đầu thập niên 1980 và lại nổi lên từ năm 2007 cho đến nay. Lạm phát ở nước ta giai đoạn 2007 cho đến nay có tác động sâu rộng đến các lĩnh vực của đời sống xã hội. Với sự điều hành quản lý của nhà nước đã phần nào ngăn chặn, khắc phục nhưng tác động của lạm phát, tình hình ngày càng được ổn định. Tuy nhiên, lạm phát vẫn chưa thật sự được đẩy lùi mà còn có nguy cơ quay trở lại, diễn biến một cách phức tạp. Vì thế, việc tìm hiểu lạm phát trong thời gian qua về nguyên nhân, diễn biến, tác động, giải pháp… sẽ giúp ta có một cái nhìn tổn quan hơn, đúc kết được kinh ngiệm để xây dựng chiến lược phát triển đất nước trong thời gian sắp tới. Phần 2 : nội dung Chương 1 : Lý thuyết lam phát Các quan niệm về lạm phát Đối với vấn đề lạm phát có rất nhiều trường phái với nhiều cách tiếp cận khác nhau và mỗi trường phái đều có những lý luận khác nhau : Trương phái lưu thông tiền tệ Theo trường phái lạm phát "lưu thông tiền tệ" (đại diện là Miltơn Priedman) họ cho rằng lạm phát tiền tệ là đưa nhiều tiền thừa vào lưu thông làm cho giá cả hàng hoá tăng lên. Chúng ta đều biết rằng không phải bất cứ số lượng tiền nào tăng lên trong lưu thông với nhịp điệu nhanh hơn sản xuất cũng đều là lạm phát, nếu như nhà nước không giảm bớt nội dung vàng hoặc giá trị tượng trưng trong đồng tiền để bù đắp cho bội chi ngân sách. K.Mazx đã chỉ ra rằng ý nghĩ về lạm phát của học thuyết này là quá đơn giản. Những người theo học thuyết này đã dùng logic hình thức để kết hợp một cách máy móc hiện tượng tăng số lượng tiền với hiện tượng tăng giá để rút ra bản chất kinh tế của lạm phát. 1.1.2 Trường phái cầu kéo Trường phái lạm phát do cầu kéo mà đại diện là J.Keynes cho rằng. Lạm phát là "cầu dư thừa tổng quát cho phát hành tiền ra quá mức sản xuất trong thời kỳ toàn dụng dẫn đến mức giá chung tăng. Chúng ta nhận thức được rằng nói lạm phát là "cầu dư thừa tổng quát" là không chính xác, vì trong giai đoạn khủng hoảng ở thời kỳ CNTB phát triển mặc dù có khủng hoảng sản xuất thừa mà không có lạm phát. Còn ở Việt Nam trong năm 1991 có tình trạng cung lớn hơn cầu mà vẫn có lạm phát giá cả và lạm phát tiền tệ. Tuy Keynes đã tiến sâu hơn trường phái lạm phát lưu thông tiền tệ là không lấy hiện tượng bề ngoài, không coi điều kiện của lạm phát là nguyên nhân của lạm phát nhưng lại mắc sai lầm về mặt logíc là đem kết quả của lạm phát quy vào bản chất của lạm phát. Khái niệm của Keynes vẫn chưa nên được đúng bản chất kinh tế - xã hội của lạm phát. Trường phái lạm phát và giá cả Trường phái lạm phát giá cả họ cho rằng lạm phát là sự tăng giá. Thực chất lạm phát chỉ là một trong nhiều nguyên nhân của tăng giá. Có những thời kỳ giá mà không có lạm phát như: thời kỳ "cách mạng giá cả" ở thế kỷ XVI ở châu Âu, thời kỳ hưng thịnh của một chu kỳ sản xuất, những năm mất mùa... tăng giá chỉ là hệ quả là một tín hiệu dễ thấy của lạm phát nhưng có lúc tăng giá lại trở thành nguyên nhân của lạm phát. Lạm phát xảy ra là do tăng nhiều cái chứ không phải chỉ đơn thuần do tăng giá. Vì vậy quan điểm của trường phái này đã lẫn lộn giữa hiện tượng và bản chất, làm cho người ta dễ ngộ nhận giữa tăng giá và lạm phát. 1.1.4 Trương phái K.Marx K.Marx đã cho rằng "lạm phát là sự tràn đầy các kênh, các luồng lưu thông những tờ giấy bạc thừa làm cho giá cả (mức giá) tăng vọt và việc phân phối lại sản phẩm xã hội giữa các giai cấp trong dân cư có lợi cho giai cấp tư sản. Ở đây Marx đã đứng trên góc độ giai cấp để nhìn nhận lạm phát, dẫn tới người ta có thể hiểu lạm phát là do nhà nước do giai cấp tư bản, để bóc lột một lần nữa giai cấp vô sản. Quan điểm này có thể xếp vào quan điểm lạm phát "lưu thông tiền tệ" song định nghĩa này hoàn hảo hơn vì nó đề cấp tới bản chất kinh tế - xã hội của lạm phát. Tuy nhiên nó có nhược điểm là cho rằng lạm phát chỉ là phạm trù kinh tế của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và chưa nêu được ảnh hưởng của lạm phát trên phạm vi quốc tế. Trên đây là các quan điểm của các trường phái kinh tế học chính. Nói chung các quan điểm đều chưa hoàn chỉnh, nhưng đã nêu được một số mặt của hai thuộc tính cơ bản của lạm phát. Bàn lạm phát là vấn đề rộng và để định nghĩa được nó đòi hỏi phải có sự đầu tư sâu và kỹ càng. Chúng ta có thể dễ chấp nhận quan điểm của trường phái giá cả, (ở nước ta và nhiều nước quan niệm này tương đối phổ biến). Sở dĩ như vậy là vì thế kỷ XX là thế kỷ lạm phát, lạm phát hầu như diễn ra ở tuyệt đại bộ phận các nước mà sự tăng giá lại là tín hiệu nhạy bén, dễ thấy của lạm phát. Như vậy chúng ta sẽ hiểu đơn giản là "lạm phát là sự tăng giá kéo dài, là sự thừa các đồng tiền trong lưu thông, là việc nhà nước phát hành thêm tiền nhằm bù đắp bội chi ngân sách". Hay lạm phát là chính sách đặc biệt nhanh chóng và tối đa nhất trong các hình thức phân phối lại giá trị vật chất xã hội mà giai cấp cầm quyền sử dụng để đáp ứng nhu cầu chi tiêu. Nhưng nói chung lạm phát là một hiện tượng của các nền kinh tế thị trường 1.2 Phân loại lạm phát 1.2.1 Căn cứ vào định lượng gồm: * Lạm phát vừa phải :Còn gọi là lạm phát một con số ,có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm .Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kì này nền kinh tế hoạt động một cách bình thường ,đời sống của người lao động ổn định .Sự ổn định đó được biểu hiện : Giá cả tăng chậm ,lãi xuất tiền gửi không cao ,không xảy ra tình trạng mua bán và tích trữ hàng hoá với số lượng lớn … Có thể nói đây là mứ clạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được ,những tác động của nó là không đáng kể *Lạm phát phi mã : lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 con số 1 năm . Ở mức 2 con số thấp :11,12% thì nói chung các tác động tiêu cực không đáng kể và nền kinh tế vẫn có thể chấp nhận được. Nhưng khi tăng đến hai chữ số cao thì lạm phát sẽ làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng ,gây biến động lớn về kinh tế ,các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá ,vàng bạc ,bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi xuất bình thường .Như vậy lạm phát sẽ làm ảnh hưởng xấu đến sản xuất và thu nhập vì những tác động tiêu cực của nó không nhỏ .Bên cạnh đó lạm phát phi mã còn là mối đe doạ đối với sự ổn định của nền kinh tế * Siêu lạm phát : 3 con số một năm xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ rất nhanh ,tỷ lệ lạm phát cao .Tốc độ và tỷ lệ siêu lạm phát vượt xa lạm phát phi mã ,nó như một căn bệnh chết người ,tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng ,giá cả tăng nhanh và không ổn định ,tiền luơng thục tế của người lao động bị giảm mạnh ,tiền tệ mất giá nhanh chóng ,thông tin không còn chính xác ,các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động sản xuất khin doanh lâm vào tình trạng rối loạn ,mất phương hướng .Tóm lại ,siêu lạm phát làm cho đời sống và nền kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng .Tuy nhiên siêu lạm phát rất ít xảy ra . 1.2.2Căn cứ vào định tính : * Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng . - Lạm phát cân bằng : Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao động ,tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp .Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và dến nền kinh tế nói chung. -Lạm phát không cân bằng :Tăng không tương ứng với thu nhập của người lao động.Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra . *Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường - Lạm phát dự đoán trước : là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời kì tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn .Loại lạm phát này có thể dự đoán trước được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo.Về mặt tâm lý ,người dân đã quen với tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước.Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống ,đến kinh tế . - Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất hiện .Loại lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý ,đời sống người dân vì họ chưa kịp thích nghi .Từ đó mà loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế và niềm tin của nhân dân vào chính quyền có phần giảm sút . Đối với các nước đang phát triển lạm phát thường kéo dài , do đó các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại với tỷ lệ khác nhau : lạm phát kinh liên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới 50% một năm ,lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài hơn 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 50% và siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm . 1.3Nguyên nhân lạm phát 1.3.1 Lạm phát do cầu kéo : Đây chính là sự mất cân đối trong quan hệ cung – cầu. Nguyên nhân chính là do tổng cầu tăng quá nhanh trong khi tổng cung không tăng hoặc tăng không kịp , hay nói cách khác là nền king tế đã vượt qua mức sản lượng tiềm năng của nó . Lúc này thì đồng tiền cầu sẽ vượt quá mức cung hàng hóa có giới hạn và sẽ làm cho chúng tăng giá . Trong nền kinh tế thị trường thì lao động cũng là một dịch vụ , trong thời gian đó thị trường lao động trở nên khan hiếm nên tăng lương cũng là một phần của quá trình lạm phát . Khi nền kinh tế đạt tới hoặc vượt qua mức sản lượng tiềm năng , việc tăng mức cầu dẫn tới lạm phát do cầu kéo . Vì tổng mức chi đối với C + I + G tăng , chi tiêu tăng lên trong khi có một mức cung hạn chế về sản lượng thực tế , phần lớn tổng mức chi cao hơn dẫn đến giá cả cao hơn . Do đó chính mức cầu cao hơn kéo giá lên cao hơn , đó là lạm phát do cầu kéo 1.3.2 Lạm phát do chi phí đẩy : Hình thức của lạm phát do chi phí đẩy phat sinh từ phía cung ,do chi phí sản xuất cao hơn đã được chuyển sang người tiêu dùng .Điều này chỉ có thể đạt trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả với giá cao hơn .Ví dụ : Nếu tiền lương chiếm một phần đáng kể trong chi phí sản xuất và dịch vụ và nếu tiền lương tăng nhanh hơn năng suất lao động thì tổng chi phí sản xuất sẽ tăng lên .Nếu nhà sản xuất có thể chuyển việc tăng chi phí này cho người tiêu dùng thì giá bán sẽ tăng lên ,công nhân và các công đoàn sẽ yêu cầu tiền lương cao hơn trước đẻ phù hợp với chi phí sinh hoạt tăng lên điều đó tạo vòng xoáy lượng giá . Một yếu tố chi phí khác là giá cả nguyên nhiên vật liệu tăng do tỷ giá tăng hoặc khả năng khả thác hạn chế.Một ví dụ điển hình cho thấy giá cả nguyên nhiên vật liệu là giá dầu thô tăng .Trong năm 1972-1974 hầu như giá dầu quốc tế tăng 5 lần dẫn đến lạm phát tăng từ 4,6% đến 13,5% bình quân trên qoàn thế giới .Ngoài ra sự suy sụp của giá dầu (1980) làm cho lạm phát giảm xuống mức thấp chưa từng thấy . Bên cạnh đó giá cả nhập khẩu cao hơn được chuyển cho người tiêu dùng nội địa cũng là một yếu tố gây lên lạm phát .Nhập khẩu càng trở lên đắt đỏ khi đồng nội tệ yếu đi hợac mất giá so với đồng tiền khác 1.3.3 Lạm phát do cung tiền tệ tăng cao và liên tục Theo quan điểm của các nhà kinh tế học thuộc phía tiền tệ ,khi cung tiền tệ tăng lên kéo dài làm cho mức giá tăng lên kéo dài và gây ra lạm phát .Có thể thấy ngưỡng tăng cung tiền để gây lạm phát là nền kinh tế toàn dụng .Khi nền kinh tế chưa toàn dụng thì nguồn nguyên nhiên vật liệu còn nhiều ,chưa khai thác nhiều .Có nhiều nhà máy xí nghiệp bị đóng cửa chưa đi vào hoạt động .Do đó nhân viên nhàn rỗi lớn và tỷ lệ thất nghiệp cao … Trong trường hợp này ,khi tăng cung tiền thì dẫn đến lãi suất giảm đến một mức độ nào đó ,các nhà đầu tư thấy rằng có thể có lãi và đầu tư tăng nhiều.từ đó các nhà máy ,xí nghiệp mở cửa để sản xuất ,kinh doanh .Lúc này nguyên nhiên vật liệu bắt đầu được khai thác ,người lao động có việc làm và sản lượng tăng lên . Ở nền kinh tế toàn dụng ,các nhà máy ,xí nghiệp được hoạt động hết công suất ,nguồn nguyên nhiên vật liệu được khai thác tối đa .Khi đó lực lượng lao động được sử dụng một cách triệt để và làm sản lượng tăng lên rất nhiều.Tuy nhiên tình hình sẽ dẫn đến một vài kênh tắc nghẽn trong lưu thông .Chẳng hạn khi các nhà máy ,xí nghiệp hoạt động hết công suất sẽ dẫn đến thiếu năng lượng ,thiếu lao động ,nguyên vật liệu dần bị han hiếm …Vai trò của chính phủ và các nhà quản lý phải xác định được kênh lưu thông nào bị tắc nghẽn và tìm cách khơi thông nó .Nếu không sẽ gây ra lạm phát.Lúc đó sản lượng không tăng mà giá cả tăng nhiều thì lạm phát tất yếu sẽ xảy ra . Trong việc chống lạm phát các Ngân hàng trung ương luôn giảm sút việc cung tiền . Trường hợp tăng cung tiền có thể đạt được bằng hai cách : Ngân hàng trung ương in nhiều tiền hơn (khi lãi xuất thấp và điều kiện kinh doanh tốt ) hoặc các ngân hàng thương mại có thẻ tăng tín dụng .Trong cả hai trường hợp sẵn có lượng tiền nhiều hơn cho dân cư và chi phí .Về mặt trung và dài hạn ,điều đó dẫn đến cầu và hàng hoá và dịch vụ tăng .Nếu cung không tăng tương ứng với cầu thì việc dư cầu sẽ được bù đắp bằng việc tăng giá.Tuy nhiên giá cả sẽ không tăng ngay nhưng nó sẽ tăng sau đó 2-3 năm .In tiền để trợ cấp cho chi tiêu công cộng sẽ dẫn đến lạm phát nghiêm trọng .Ví dụ năm 1966-1967 ,chính phủ Mỹ đã sử dụng việc tăng tiền để trả cho những chi phí leo thang của cuộc chiến tranh taị Việt Nam ,lạm phát tăng từ 3%(năm 1967) đến 6% (năm 1970). Xét trong dài hạn lãi xuất thực tế (i) và sản lượng thực tế (Y) đạt mức cân bằng ,nghĩa là (i) và (Y) ổn định .Mức cầu tiền thực tế không đổi nên M/P cũng không đổi .Suy ra khi lượng tiền danh nghĩa (M) tăng lên thì giá cả sẽ tăng lên với tỷ lệ tương ứng .Vậy lạm phát là một hiện tượng tiền tệ .Đây cũng chính là lý do tại sao Ngân hàng Trung ương rất chú trọng đến nguyên nhân này. 1.3.4 Các nguyên nhân khác Ngoài các nguyên nhân chủ yếu đã đề cập ở trên ,một số các nguyên nhân khác cũng gây ra lạm phát .Thứ nhất có thể kể đến là tâm lý của dân cư .Khi người dân không tin tưởng vào đồng tiền của Nhà nước ,họ sẽ không giữ tiền mà đẩy vào lưu thông bằng việc mua hàng hoá dự trữ hoặc đầu tư vào một lĩnh lực kinh doanh nào đó … Như thế cầu sẽ tăng lên mà cung cấp không đáp ứng được cân bằng cung cầu trên thị trường hang hoá không còn nữa và tiếp tục đẩy giá lên cao ,từ đó lạm phát sẽ xảy ra .Có thể thấy giá cả tăng lên làm tiêu dùng tăng ,cứ như vậy sẽ gây ra xoáy ốc lạm phát.Thứ hai thâm hụt ngân sách cũng có thể là một nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng tiền tệ và gây ra lạm phát cao. Khi chính phủ lâm vào tình trạng thâm hụt ngân sách thì có thể khắc phục bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ để vay vốn từ người dân nhằm bù đắp phần thiếu hụt .Biện pháp này không làm ảnh hưởng đến cơ số tiền và do vậy mà làm tăng mức cung ứng tiền tệ và không gây ra lạm phát .Tuy nhiên khi sự thâm hụt trầm trọng và kéo dài thì chính phủ phải áp dụng biện pháp in tiền.Việc phát hành tiền sẽ ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ làm tăng mức cung ứng tiền ,đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng thêm tỷ lệ lạm phát .Tuy nhiên,đối với các nước đang phát triển ,việc phát hành trái phiếu chính phủ gặp nhiều khó khăn vì nguồn vốn trên thị trường còn hạn chế .Biện pháp in tiền được coi là có hiệu quả nhất .Vì thế mà khi thâm hụt ngân sách càng nhiều và càng kéo dài thì tiền tệ sẽ tăng theo và tỷ lệ gây lạm phát càng lớn. Còn đối với những quốc gia có nền kinh tế phát triển thì việc phát hành trái phiếu có lợi hơn.Nhưng việc phát hành này kéo dài sẽ làm cầu về vốn sẽ tăng và lãi xuất tăng cao hơn .Lúc này để giảm lãi xuất trên thị trưòng Ngân hàng Trung ương lại phải mua vào các trái phiếu đó .Như thế mức cung tiền lại tăng lên và dễ gây lạm phát. Tóm lại , nếu như thâm hụt ngân sách kéo dài thì trong mọi trường hợp vẫn làm tăng cung tiền và lạm phát xảy ra là một điều chắc chắn. Một nguyên nhân nữa có thể gây ra lạm phát là tỷ giá hối đoái .Khi tỷ giá tăng đồng bản tệ sẽ bị mất giá Khi đó tâm lý những người sản xuất trong nước muốn đẩy giá hàng lên tương ứng với mức tăng tỷ giá hối đoái .Mặt khac khi tỷ giá hối đoái tăng ,chi phí cho các nguyên vật liệu ,hàng hoá nhập khẩu sẽ tăng lên .Do đó giá cả của các hàng hoá này tăng lên cao.Đây chính là lạm phát do chi phí đẩy Bên cạnh đó các nguyên nhân liên quan đến chính sách của nhà nước ,chính sách thuế ,chính sách cơ cấu kinh tế không hợp lý ,mất cân đối cũng xảy ra lạm phát. 1.4 Tác động của lạm phát 1.4.1 Lạm phát không dự kiến được *Tác động đến lĩnh vực sản xuất -Tiêu cực : tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm cho giá đầu vào và giá đầu ra biến động không ngừng gây ra sự mất ổn định đối với nhà sản xuất. Sự mất giá của đồng tiền làm cho nghiệp vụ kế toán không còn chính xác nữa. Những doanh nghiệp có tỷ xuất lợi nhuận thấp sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn. -Tích cực : khi lạm phát xảy ra với một tỷ lệ chấp nhận được thì sẽ có lợi cho nền kinh tế. Lãi xuất giảm khuyến khích doanh nghiệp gia tăng vốn đầu tư để mở rộng sản xuất. Đồng thời cũng khuyến khích tiêu dùng làm cho hàng hóa được bán chạy hơn. Do đó, lúc này lạm phát sẽ có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế. *Tác động đến lĩnh vực lưu thông Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ, tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hóa, làm mất cân đối quan hệ cung cầu trên thị trường. Đồng thời do đồng tiền đang bị mất giá nên không ai muốn giữ tiền. Tiền nhanh chóng bị đẩy ra kênh lưu thông. Do có nhiều người tham gia vào lưu thông nên lĩnh vực này trỏ nên hỗn loạn, tốc độ lưu thông tiền tăng vọt và điều này càng thúc đẩy lạm phát gia tăng. *Tác động đến lĩnh vực tiền tệ, tín dụng Lạm phát làm cho quan hệ thương mại, tín dụng, ngân hàng bị thu hẹp. Lượng tiền gửi vào ngân hàng giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với việc giảm sút quá nhanh của đồng tiền, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm những các nhân, doanh nghiệp đang có lượng tiền nhàn rỗi trong tay. Ngân hàng gặp khó khăn trong viêc huy động vốn, hệ thông ngân hàng phải luôn cố gắng duy trì mức lãi suất ổn định. Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát. Khi tỷ lệ lạm phát cao, muốn lãi suất thực tế ổn định thì lãi suất danh nghĩa phải tăng lên cùng với tỷ lệ lạm phát. Trong khi đó, người đi vay là những người có lợi từ sự mất giá của đồng tiền. Do vậy hoạt động của hệ thống ngân hang không còn bình thường nữa, chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế. *Tác động đến cán cân ngân sách – chính sách tài chính của nhà nước Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hóa. Khi lạm phát xảy ra thì những thộng tin trong xã hội bị phả hủy do biến động của giá cả và làm cho thị trường bị rối loạn. Khi đó khó cố thể phân biệt được doanh nghiệp làm ăn tốt hay kém. Đồng thời làm cho nhà nước thiếu vốn, giảm các nguồn thu. Do đó, các khoản chuyển nhượng, trợ cấp, phúc lợi xã hội hay các khoản đầu tư của nhà nước trong các ngành nghề, lĩnh vực đều bị cắt giảm. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiên và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện. *Tác động làm phân phối lại của cải trong xã hội Lạm phát có xu hướng phân phối lại của cải từ những người có tài sản với lãi suất danh nghĩa cố định sang tay những người có những khoản nợ với lãi suất danh nghĩa cố định. Lạm phát dự kiến được Trong trường hợp lạm phát dự kiến được, ta có thể chủ đông ứng phó. Tuy nhiên, nó vẫn gây ra nhứng tổn thất nhất định. Lạm phát làm thay đổi giá một cách không mong muốn. * Khi lạm phát xảy ra, một số doanh nghiệp tăng giá, bên cạnh đó cũng có một số doanh nghiệp không tăng giá do không muỗn phát sinh thêm một số chi phí khi tăng giá. Do vậy có một sự chênh lệch giứa các doanh nghiệp tăng giá và các doanh nghiệp không tăng giá. Do nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa trên giá tương đối nên lạm phát đã dẫn tới tình trạng kém hiệu quả xét trên gốc độ vi mô. *Lạm phát còn gây ra sự nhầm lẫn bất tiện. Đồng tiền được sử dụng để làm thước đo giá trị. Khi có lạm phát, thước đo này bị co giãn. Vì thế gây khó khăn cho quá trình ra quyết định của cá nhân, tổ chức. *Đồng thời, lạm phát còn làm phát sinh các chi phí như in ấn, phát hành bảng giá, bảng quảng cáo mới… Chính sách và biện pháp trong thòi kì lam phát 1.5.1 Biện pháp đối phó với lạm phát 1.5.1.1Những biện pháp tình thế *Chính sách đóng băng tiền tệ : giảm lượng tiền trong nền kinh tế bằng cách ngưng phát hành tiền vào kênh lưu thông. Đồng thời, dừng các nghiệp vụ làm tăng lượng cung ứng tiền tệ như dừng các nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu đối với các tổ chức tín dụng,dừng việc mua vào các chứng khoán ngắn hạn, không phát hành tiền bù đắp bội chi ngân sách. Bên cạch đó còn có các biện pháp làm giảm lượng tiền cung ứng như ngân hàng trung ương bán ra các chứng khoán ngắn hạn, bán ngoại tệ , phát hành các công cụ nợ của chính phủ để vay tiền trong nền kinh tế để bù đắp cho thâm hụt ngân sách, tăng lãi suất tiền gửi *Thi hành chính sách thắt chặt tài chính như tạm hoãn nhứng khoản chi không cần thiết, cân đối lại ngân sách và cắt giảm chi tiêu đến mức có thể. *Tăng lượng hàng hóa tiêu dùng để cân đối với lượng tiền trong lưu thông bằng cách khuyến khích tự do mậu dịch, giảm thuế quan… *Đi vay hoặc xin viện trợ từ nước ngoài *Cải cách tiền tệ. Đây là biện pháp cuối cùng khi các biện pháp kia không hiệu quả. 1.5.1.2Những biện pháp chiến lược *Biện pháp chiến lược hàng đầu để ổn định tiền tệ trong nền kinh tế là thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa và mở rộng lưu thông hàng hóa vì khi nền sản xuất phát triển sẽ tạo tiền đề vững chắc cho sự ổn đinh tiền tệ. *Kiện toàn bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế quản lý hành chính. Đây là biện pháp nhằm giảm thiểu khoản thâm hụt ngân sách nhà nước. *Tăng cường công tác quản lý điều hành nhà nước trên cơ sở tăng các khoản thu một cách hợp lý, chống thất thu đặc biệt là thất thu về thuế, nâng cao hiệu quả của các khoản chi ngân sách. 1.5.2Chính sách lạm phát 1.5.3 Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế Trong thời gian gần đây một số nhà kinh tế cho rằng tỷ lệ lạm phát của Việt Nam bằng tốc độ tăng trưởng là tốt cho sự phát triển kinh tế. Phải chăng đó là lạm phát tối ưu cho tăng trưởng kinh tế? Giữa lạm phát và tăng trưởng thường có mối quan hệ nhất định. Tuy nhiên mức độ gắn kết như thế nào vẫn còn là vấn đề tranh cãi. Đó là hai mặt của xã hội, là hai vấn đề trong nền kinh tế. Có thể coi lạm phát là kẻ thù của tăng trưởng kinh tế nhưng nó là hai vấn đề luôn tồn tại song song với nhau. Cố định lạm phát ở mức thấp là môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi để khuyến khích tiết kiệm, mở rộng đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Một số nghiên cứu cho thấy, lạm phát tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế khi nó vượt qua một ngưỡng nhất định. Và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế là mối quan hệ phi tuyến tính. Nghiên cứu gần đây nhất của M.Khan và A.Senchadji (năm 2005), các tác giả đã sử dụng kỹ thuật phân tích hiện đại nhất để kiểm định mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng. Một lần nữa kết quả cho thấy giữa chúng có mối tương quan dương và trên mức đó lạm phát gây ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng. Một phát hiện rất có hiệu quả của các tác giả là mức ngưỡng đó khác nhau ở các nước khác nhau. Ở các nước công nghiệp, mức ngưỡng này rất thấp khoảng 1- 3%; còn ở các nước đang phát triển mức đó vào khoảng 7 – 11%. Dựa trên cơ sở lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế, diễn biến lạm phát và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua, nhiều nhà kinh tế cho rằng mức lạm phát tối ưu của nền kinh tế Việt Nam là ở mức 5 – 7%. Thực tế trên cả lý thuyết và cả thực tiễn đều cho thấy mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế đều biểu diễn bằng hình chữ “U” ngược. Điều đó hàm ý rằng tồn tại một phạm vi lạm phát an toàn khi mà lạm phát và tăng trưởng quan hệ cùng chiều. Trong trường hợp đó lạm phát là cái giá phải trả của tăng trưởng kinh tế. Nới lỏng chính sách tài khóa và tiền tệ có xu hướng tăng lạm phát, mặt khác sẽ có tác dụng khuyến khích đầu tư, mở rộng tổng cầu và do vậy cho phép sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực hiện có và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhiều nước dã sử dụng chính sách này để tăng trưởng kinh tế. Đây là giải pháp thúc đẩy nhanh nhưng kém bền vững, nó còn được gọi là giải pháp tăng trưởng “ bong bóng” . Lạm phát quá cao chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Các nước phát triển chọn giải pháp tăng trưởng kinh tế thực chất, đó là dựa trên cơ sở lạm phát ở mức thấp. Trong nền kinh tế thị trường, lạm phát ổn định thì hiệu quả của việc dự báo được nâng cao. Điều đó giúp các nhà đầu tư có thể xây dựng các phương án đầu tư hiệu quả, còn đối với người tiêu dùng thì yên tâm chi tiêu, không phải cân nhắc các mặt hàng khác thay thế do giá tăng. Tất cả các điều đó góp phần vào tăng trưởng thực chất. Tuy nhiên cũng phải hiểu rằng lạm phát ổn định chỉ là điều kiện đủ cho tăng trưởng kinh tế còn điều kiện cần phải là vấn đề của chính phủ trong việc phát triển nguồn lực, vốn, công nghệ kỹ thuật… 1.5.4 Lạm phát theo mục tiêu 1.5.4.1Giới thiệu lạm phát mục tiêu (LPMT) Tại nhiều nước lạm phát được coi là vấn đề kinh tế - xã hội rất nghiêm trọng. Một khi nền kinh tế có lạm phát ở mức cao độ sẽ làm giảm tiết kiệm, sụp đổ đầu tư, các nguồn vuốn trong nước sẽ chạy ra nước ngoài. Lạm phát còn làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế, mất khả năng thực hiện những kế hoạch dài hạn và tạo nên sự căng thẳng quốc gia. Trên thế giới có nhiều nước lấy khối lượng tiền (M2 hay M3) hoặc tỷ giá làm mục tiêu trung gian để điều hành Chính sách tiền tệ (CSTT) của quốc gia. Tuy nhiên sang những năm 90, nhiều nước công nghiệp phát triển đã phá lệ truyền thống trong việc xây dựng các mục tiêu trung gian tương tự mà tập trung tâm điểm vào chỉ số lạm phát. Cách tiếp cận mới này tập trung vào việc kiểm soát lạm phát và được gọi là lạm phát mục tiêu, một cơ chế điều hành CSTT tương đối mới. Đi đầu áp dụng là ở Niu – Dilân ( năm 1990). Vậy tại sao phải áp dụng LPMT? Thực tế chỉ ra rằng việc mau chóng đạt được 1 vài mục tiêu ( tạo thêm việc làm hoặc tăng trưởng kinh tế…) với sự trợ giúp của CSTT mở rộng sẽ không tránh khỏi lạm phát gia tăng dẫn đến việc xung đột nguyên tắc ổn định giá. Từ đó nhận ra rằng đạt được ổn định giả mới là yếu tố tiên quyết thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hay nói cách khác mục tiêu cơ bản nhất của CSTT là ổn định giả cả, bên cạnh đó tập trung vào các mục tiêu kinh tế khác như tạo thêm việc làm, tạo sự nhịp nhàng giữa lao động sản xuất và việc làm trong ngắn hạn… nhưng không được xung đột với nguyên tắc cơ bản nhất là ổn định giá cả. Theo lời của nhà kinh tế học nổi tiếng F.Mishkin: “ Tập trung phát triển sức mạnh kinh tế sẽ đến sau khi thực hiện các phương pháp kiềm chế lạm phát, đối với các nước tiến hành kế hoạch hóa lạm phát… có thể kết luận rằng lạm phát mục tiêu sẽ củng cố quá trình phát triển kinh tế và thêm vào đó kiềm chế được lạm phát” Ưu việc cơ bản nhất của LPMT là nó không bị can thiệp bởi các chỉ số kinh tế vĩ mô khác như các mục tiêu trung gian truyền thống (M2, M3, tỷ giá). Một điểm khác biệt nữa so với các cơ chế điều hành khác là nó tạo cho NHTW một sự tự do và linh hoạt trong việc điều hành CSTT. Đặc điểm của lạm phát mục tiêu Lạm phát mục tiêu có thể được miêu tả như một cơ chế điều hành CSTT dựa trên nền tảng việc sử dụng việc dự báo lạm phát làm mục tiêu trung gian. Ngân hàng trung ương (NHTW) sẽ dự báo xu hướng lạm phát năm tới để đưa ra chỉ số lạm phát mục tiêu ( là một con số cụ thể hay một khoảng biên độ) cho năm kế hoạch mà không có trách nhiệm thực hiện bất kỳ một mục tiêu nào khác. Trong giới hạn của mình, NHTW có thể sử dụng bất kỳ công cụ nào để chỉ đạt một mục tiêu duy nhất là chỉ số lạm phát mục tiêu. Tuy nhiên không phải bất kỳ nước nào cũng có thể thực hiện được LPMT. Kinh nhiệm từ các nước áp dụng LPMT đã chỉ ra sự cần thiết phải có những điều kiện tối thiểu để áp dụng lạm phát mục tiêu trong điều hành CSTT là: Lạm phát chỉ có thể áp dụng ở những nước mà ở đó có thể đảm bảo được lạm phát ở mức thấp không chỉ trên hình thức mà cả trên thực tế. NHTW cần có một mức độc lập tương đối để thực thi CSTT. Mắc dù trên thực tế không có một NHTW nào có thể hoàn toàn dộc lập khỏi sự ảnh hưởng của chính phủ. Để thực hiện yêu cầu này, quốc gia cần từ bỏ nguyên tắc “ngân sách chi phối” cũng như các vấn đề thuộc chính sách tài khóa không được gây bất cứ ảnh hưởng nào đến CSTT và các thị trường tài chính trong nước phải có đủ độ sâu để “nuốt chửng” các đợt phát hành nợ của chính phủ. Chính phủ phải có cơ sở nguồn thu rộng rãi và không đưa vào hệ thống nguồn thu bù đắp của chính phủ là nguồn thu từ in tiền. NHTW phải có khả năng thực hiện lạm phát mục tiêu và không có trách nhiệm với bất kỳ mục tiêu khác như: tiền lương, mức thất nghiệp hay tỉ giá.. Lạm phát mục tiêu cũng có một số nhược điểm khi việc áp cụng không thỏa mãn một số điều kiện của nó: Khi năng lực điều tiết của CSTT không cao sẽ đẩy NHTW vào vòng lẩn quẩn trong việc lựa chọn ưu tiên giữa các cơ chế điều hành (tỷ giá, lạm phát và khối lượng tiền) của CSTT. Khi áp dụng LPMT , NHTW sẽ phải chịu trách nhiệm chính thức trong việc thực hiện CSTT để đạt được chỉ số mục tiêu dựa trên dự báo chỉ số lạm phát do chính phủ đưa ra. Khi đó dự báo lạm phát được xem như là mục tiêu trung gian của CSTT, vì vậy không ít người đã không đề cập đến lạm phát mục tiêu mà chỉ nói đến dự báo lạm phát mục tiêu. Quy trình thực hiện LPMT Quy trình của LPMT khá đơn giản, bản chất của nó bao gồm: NHTW dự đoán xu hướng lạm phát năm sau, dự báo này được so với chỉ số mục tiêu mà NHTW mong muốn đạt được, khoảng cách chênh lệch giữa chỉ số dự báo và chỉ số mục tiêu sẽ nói lên mức độ mà CSTT cần điều chỉnh. Tuy nhiên trên thực tế vẫn đề kỹ thuật thực hiện quy trình này khá phức tạp và khác nhau ở các nước. Vấn đề kỹ thuật bao gồm: *Công bố mục tiêu lạm phát Khi tiếp cận với vấn đề công bố chỉ số lạm phát mục tiêu, có sự khác nhau rõ rệt giữa các quốc gia. Chỉ số lạm phát mục tiêu có thể do NHTW tự mình công bố như ở Phần Lan, Thụy Điển, Tây Ban Nha… cũng có thể là do thỏa thuận giữa NHTW và Bộ tài chính như ở Canada… Ở đâu tính độc lập của NHTW càng cao thì ở đó NHTW càng phải chịu trách nhiệm quản trị cơ chế lạm phát mục tiêu. Công bố lạm phát dự báo duy nhất sẽ giúp cho dư luận hiểu được sự mong muốn thực hiện được CSTT. Nếu không sẽ làm cho xã hội hiểu lầm về tính minh bạch của chính sách. *Xác định chỉ số lạm phát mục tiêu Tầm nhìn mục tiêu: Tầm nhìn mục tiêu chính là quãng thời gian mà quốc gia đó có thể đạt được và duy trì kế hoạch mục tiêu đã đề ra. Việc xác định tầm nhìn mục tiêu phụ thuộc rất nhiều vào tỷ lệ lạm phát tại thời điểm bắt đầu thực hiện cơ chế LPMT. Chỉ số giá cả: Hầu hết các nước áp dụng LPMT đều dùng CPI làm công cụ nền tảng. Bởi CPI có những lợi thế riêng như : tính quãng bá rộng rãi đối với xã hội, được công bố và tính toán thường xuyên. Khả năng áp dụng LPMT ở các nước đang phát triển và ở ViệtNam *Ở những nước đang phát triển Một câu hỏi đặt ra là ở các nước đang phát triển có nên áp cụng lạm phát mục tiêu không? Bởi ở các nước đang phát triển có những điểm giống và khác nhau riêng biệt, đặc biệt là trong CSTT và thị trường vốn. Một mặt chúng giống nhau ở: cải tổ thị trường vốn, mở cửa tham gia vào thị trường vốn quốc tế, nâng cao tác dụng công cụ gián tếp của CSTT… Nhưng chúng khác nhau rõ rệt về các chỉ số như: tỷ lệ lãi suất, mức độ phát triển của thị trường vốn nội địa… Do đó rất khó khăn trong việc đánh giá khả năng áp dụng LPMT, thậm chí không thể phân nhóm một cách thỏa đáng đối với các nước đang phát triển. Như đã nói ở phần trên, những điều kiện cần thiết để áp dụng LPMT là tính độc lập với ngân sách và trách nhiệm bắt buộc của NHTW đối với các chỉ tiêu khác. Đây là các vấn đề mà hiện tại các nước đang phát triển gặp phải. Ngoài ra khi xem xét khả năng áp dụng ở các nước đang phát triển những trở ngại cơ bản nhất là thu nhập của chính phủ dựa vào nguồn in tiền, thị trường tài chính trong nước yếu kém và hệ thống ngân hàng không ổn định. Dựa vào nguồn in tiền: chú trọng nguồn thu từ in tiền là một bằng chứng đơn giản và rõ ràng nhất của ngân sách chi phối khi chính phủ không đủ khả năng nâng cao và mở rộng cơ sở nguồn thu của mình. Đối với các nước đang phát triển, việc thường xuyên sử dụng in tiền làm nguồn thu chính là nguyên nhân biến dạng cấu trúc hệ thống thuế…Tuy nhiên thông thường không điều gì có thể giới hạn được chính phủ sử dụng in tiền nhất là trong giai đoạn khủng hoảng. Thị trường tài chính: Thị trường tài chính yếu kém cũng có thể là một minh chứng cho việc ngân sách chi phối. Ở các nước đang phát triển Ngân hàng thường bị buộc trách nhiệm vào việc phát hành giấy tờ có giá trị của chính phủ. Hệ thống ngân hàng: Một vấn đề khó khăn nữa trong việc áp dụng LPMT tại các nước đang phát triển là hệ thống ngân hàng dễ đổ vỡ. Củng cố khu vực ngân hàng cũng có thể dẫn đến xung đột nguyên tắc ổn định giá cả. Để nâng cao tính thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, điều thường xảy ra ở các nước đang trong giai đoạn chuyển đổi việc rót vốn làm tăng tổng tiền cung ứng ngoài kế hoạch và cuối cùng sẽ phá tan kế hoạch duy trì giá cả ổn định của NHTW. Ở những nước mà thị trường tài chính hoạt động tương đối tốt, lạm phát tương đối vừa phải và không có tình trạng ngân sách chi phối thì sự độc lập của CSTT phụ thuộc chủ yếu chế độ tỷ giá hối đoái và khả năng dịch chuyển của các luồng vốn. Hiện nay hầu hết các nước bao gồm các nước đang phát triển lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý. Nhưng chế độ tỷ giá linh hoạt không làm các cơ quan quản lý đánh giá thấp hơn tầm quan trọng đối với mục tiêu tỷ giá hoặc chấm dứt việc sử dụng tỷ giá như một công cụ của CSTT. Điều này dẫn đến gánh nặng cho CSTT, bởi như một trong những tiền đề của việc áp dụng LPMT là ưu tiên mục tiêu lạm phát hơn các mục tiêu chính sách khác. Hay chỉ tiêu lạm phát phải chiếm ưu thế hơn tất cả các mục tiêu còn lại của CSTT. Do đó duy trì tỷ giá hối đoái sẽ xung đột với nguyên tắc lạm phát mục tiêu. Do đó cần phải xem xét rất thận trọng khả năng áp dụng lạm phát mục tiêu tại các nước đang phát triển hoặc có nền kinh tế chuyển đổi. Khả năng áp dụng cơ chế này chỉ có thể xảy ra ở các nước hội đủ các điều kiện hoặc trong trường hợp cần có sự thay đổi do tình trang quá thất vọng của CSTT hiện tại. * Ở Việt Nam Chúng ta không thể không thừa nhận những đóng góp của chính sách tiền tệ trong việc đẩy lùi và kiềm chế lạm phát trong thời gian qua. Các công cụ của CSTT dần dần được hoàn chỉnh. Tuy nhiên do CSTT của Việt Nam theo đuổi đa mục tiêu nên việc thực hiện mục tiêu chính - ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát còn khiến chúng ta phải suy nghĩ nhiều. Để có thể đưa ra giải đáp cho việc Viêt Nam có thể áp dụng LPMT không chúng ta nên so sánh những tiêu chí cơ bản áp dụng của LPMT với hiện trạng của nền kinh tế Việt Nam. Hiện tại NHTW Việt Nam chưa có sự độc lập hoàn toàn trong việc điều hành quản lý, mục tiêu lạm phát bị ràng buộc trong mối tương quan với cân đối ngân sách nhà nước và mức tăng trưởng kinh tế, tài chính trong nước còn non yếu, hệ thống ngân hàng chưa thật vững chắc, công việc xây dựng chỉ số lạm phát cơ bản còn hạn chế. Mặt khác Việt Nam có nền kinh tế chuyển đổi và đang phát triển chúng ta có nên đánh đổi giữa tăng trưởng kinh tế và LPMT hay không? Ngoài ra, đầu vào sản xuất hàng hóa trong nước chủ yếu có nguồn gốc từ nước ngoài, với giá thế giới thất thường như hiện nay thì chúng ta càng nên thận trọng. NHTW chỉ có thể thực thi LPMT trong điều kiện có một sự độc lập tương đối, một nền sản xuất nội địa vững chắc, lạm phát dao động ở mức hợp lý, cơ sở nguồn thu của ngân sách được mở rộng và hệ thống tài chính – ngân hàng phát triển. Chương 2 : Lạm phát ở Việt Nam Sơ lược lịch sử lạm phát ở Việt Nam: 2.1.1 Diễn biến Biểu đồ lịch sử lạm phát ở Việt Nam (1986-2002) Biểu đồ lạm phát ở Việt Nam (1999-2004) ( Nguồn: Đề tài nghiên cứu “lạm phát trường hợp Việt Nam” của tác giả Hoài Bảo) Quá trình lạm phát ở Việt Nam có thể chia ra làm hai giai đoạn lớn: những năm trước Đổi mới 1986 và từ 1986 đến nay. 2.1.1.1Giai đoạn những năm trước Đổi mới 1986: * Giai đoạn 1980 về trước: Từ năm 1980 trở về trước, lạm phát đã tồn tại nhưng không công khai, các nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam không sử dụng khái niệm lạm phát mà chỉ sử dụng các cụm từ “chênh lệch giữa thu và chi, giữa hàng và tiền”, “thị trường vật giá không ổn định...”. Hay nói cách khác, lạm phát trong giai đoạn này là “lạm phát ngầm”. Do cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước có vai trò định giá cho hầu hết các sản phẩm và dịch vụ lưu thông trên thị trường. + Thời kỳ 1938-1945: Ngân hàng Đông Dương cấu kết với chính quyền thực dân Pháp đã lạm phát đồng tiền Đông Dương để vơ vét của cải nhân dân Việt Nam nhằm đem về Pháp đóng góp cho cuộc chiến tranh chống phát xít Đức. Hậu quả nặng nề của lạm phát là nhân dân Việt Nam phải chịu giá sinh hoạt từ năm 1939-1945 bình quân là 25 lần. + Thời kỳ 1946-1954 : chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo đã phát hành đồng tài chính thay cho đồng Đông Dương và sau đó là đồng ngân hàng thay cho sức người, sức của toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm đánh đuổi quân xâm lược Pháp, kết quả giải phóng hoàn toàn nửa đất nước. + Thời kỳ 1955-1965 : chính phủ tay sai Mỹ ở miền Nam Việt Nam liên tục lạm phát đồng tiền miền Nam để bù lại cuộc chiến tranh chống lại phong trào giải phóng dân tộc ở miền Nam. Mặc dù chính phủ Mỹ đổ vào miền Nam một khối lượng hàng viện trợ khổng lồ với giá trị hàng trăm tỉ đô la nhưng cũng không thể bù đắp được chi phí bỏ ra. + Thời kỳ 1965-1975 : ở miền Bắc Việt Nam, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà tiến hành một cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, chống chiến tranh phá hoại của Mỹ tại miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Chính phủ đã phát hành số tiền lớn (gấp 3 lần tiền lưa thông của năm 1965 ở miền Bắc) để huy động lực lượng toàn dân đánh thắng quân xâm lược. Nhưng nhờ có sự viện trợ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN anh em nên chúng ta đã hạn chế được lạm phát trong thời gian này. + Thời kỳ 1976-1980: sau khi thống nhất đất nước, chúng ta thiếu nhiều kinh nghiệm trong thời bình nên duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp toàn diện, không mở rộng sản xuất. XHCN không tiến hành hạch toán kinh doanh nên đã tự gây cho mình nhiều khó khăn, sản xuất không đủ tiêu dùng, ngân sách không đủ chi tiêu, lạm phát tiền giấy liên tục và bùng nổ dữ dội với tỷ lệ lên tới 3 con số. * Giai đoạn 1981-1985: Lạm phát thời kỳ này diễn ra trong điều kiện bắt đầu có những cải cách quan trọng trong nhiều lĩnh vực của cơ chế kinh tế. Lạm phát đã diễn ra trên quy mô cả nước. Giá cả hàng hoá tăng với tốc độ phi mã: Chỉ số giá bán lẻ năm 1985 tăng 13,97 lần so với năm 1980.Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) từ 1981-1985 lần lượt tăng là: 70%, 95%, 50%, 65% và 92%. Không có giải pháp tổng thể nào được đưa ra trong một thời gian dài cho đến khi xảy ra cuộc đổi tiền vào năm 1985. Có lẽ có quan niệm cho rằng đổi tiền sẽ khôi phục lại giá trị đồng bạc Việt Nam và lạm phát sẽ chấm dứt nên Chính phủ mới có qui định “Sức mua của đồng tiền mới bằng 10 lần sức mua của đồng tiền cũ” (Quyết định 01/HĐBT-TĐ ngày 13/9/1985). Nhưng sau đổi tiền, CPI năm 1985 tăng đến 92%. Cải cách 1981-1992 và 1985 không giúp lạm phát giảm mà còn trở thành tác nhân trực tiếp của lạm phát sau đó Giai đoạn lạm phát sau Đổi mới 1986 đến nay: * Siêu lạm phát 1986-1988: Tiếp tục hậu quả từ quy định về sức mua đồng tiền mới năm 1985, năm 1986 CPI tăng lên đến 775%, nền kinh tế bước vào thời kỳ lạm phát dữ dội với tỉ lệ tăng ba chữ số kéo dài trong 2 năm tiếp theo. Chỉ số giá bán lẻ năm 1988 tăng 181,48 lần so với năm 1985. Lạm phát trong giai đoạn này có năm đặc trưng cơ bản: 1. Lạm phát ba con số kéo dài 2 năm liên tục, được mở rộng bằng cuộc cải cách lớn về giá và lương cùng việc đổi tiền. 2. Thời kỳ này ảnh hưởng giá cả trong quan hệ xuất nhập khẩu tuy có nhẹ hơn thời kỳ 1981-1985 song vẫn bất lợi cho cán cân thanh toán của Việt Nam. 5. Tính chất công khai của lạm phát được bộc lộ rõ rệt hơn bất cứ giai đoạn nào trước đó. Hệ quả siêu lạm phát nghiêm trọng trong 2 năm là rất nặng nề. * Giai đoạn kiềm chế và đẩy lùi lạm phát cao (1989-1994): Sau một thập kỷ lạm phát cao liên tục, nền kinh tế rơi vào khủng hoảng kéo dài nhưng đến năm 1989 đã chuyển sang một giai đoạn mới của lạm phát được đặc trưng bởi sự hạ sốt lạm phát và đến năm 1994 triển vọng bước qua thời kỳ kiểm soát lạm phát một con số là khả năng thực hiện được. Trong giai đoạn này, lạm phát giảm nhanh và giảm dần song song với tiến trình đổi mới kinh tế, chuyển hẳn và chuyển toàn diện sang kinh tế thị trường. * Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam từ 1995 – 2006: Theo định hướng chung, nền kinh tế Việt Nam (nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, xóa bỏ hoàn toàn chế độ quan liêu bao cấp) trong những năm này tiếp tục trên đà phát triển và mục tiêu đặt ra là kiểm soát chặt chẽ sự lạm phát. Từ năm 1995 đến năm 2006, mức lạm phát của nước ta luôn ở một con số. Trong giai đoạn này, nền kinh tế vì thế đã thoát khỏi khủng hoảng và phát triển khá bền vững. Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Lạm phát 12,7% 4,5% 3,6% 9,2% 0,1% 0,06% 0,8% 4,0% 3,0% 9,5% 8,5% 6,6% *Giai đoạn khủng hoảng kinh tế 2007 - 2009: Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, cộng với những nguyên nhân chủ quan bên trong, lạm phát đã trở lại, chỉ số lạm phát đã tăng lên hai con số. Dấu hiệu lạm phát cao đã bắt đầu xuất hiện từ tháng 06 năm 2007 khi CPI tháng 06 tăng đột biến xấp xỉ 1%, và tỉ lệ lạm phát tăng tới 12,6% so với tháng 12 năm 2006 và đến năm 2008, mức tăng CPI lên tới 19,89% so với tháng 12 năm 2007. Giai đoạn lạm phát 2007-2009 đã ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế - chính trị - xã hội Việt Nam. Nguyên nhân 2.1.2.1.Nguyên nhân khách quan. Do nền kinh tế của nước ta vốn lạc hậu, lại gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề do hai cuộc chiến tranh chống Pháp-Mỹ để lại .Những hậu quả của cuộc chiến tranh này thật nặng nề, đòi hỏi phải có nguồn chi to lớn để hàn gắn các vết thương, hồi phục nền kinh tế ..Ngay sau đó Việt Nam lại phải tham gia vào cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam và phía Bắc.Và dù không có chiến tranh biên giới thì sự nhòm ngó đe doạ từ bên ngoài luôn buộc nhà nước Việt Nam phải chi phí cho việc bảo vệ đất nước. 2.1.2.2 Nguyên nhân chủ quan: Một là, lạm phát xuất hiện trong nền kinh tế mà thành phần kinh tế nhà nước chiếm tỉ trọng rất lớn: vốn cố định trong những năm 80 chiếm 85 - 87%, cán bộ kỹ sư - kỹ thuật chiếm 95%. Trong tay thành phần kinh tế nhà nước có nguồn tài nguyên to lớn, nhưng sử dụng kém hiệu quả. Đại bộ phận các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ. Doanh nghiệp nhà nước nhận các khoản trợ cấp từ ngân sách nhà nước gấp 3 lần các khoản doanh nghiệp nhà nước nộp cho ngân sách nhà nước. Các khoản trợ cấp này cao hơn số bội chi ngân sách nhà nước. Đây là một trong những nguyên nhân sâu xa và cơ bản dẫn đến lạm phát. Hai là, chính sách đổi tiền tăng giá là một trong những chính sách phá giá đồng tiền. Từ đầu những năm 1980 đến nay, Nhà nước ta đã ba lần tổng điều chỉnh giá với mức quá lớn, không đồng bộ. Nhà nước Trung ương không điều hành nổi cơ chế giá ở tầm vĩ mô, buộc phải chấp nhận cơ chế giá trượt trong thu mua nông sản, thực phẩm và bù giá vào lương. Nhiều ngành, địa phương đã tự điều chỉnh giá để kiềm chế sự chênh lệch giá. Điều này đã gây ách tắc, rối loạn thị trường và tăng bội chi ngân sách. Ba là, lạm phát xuất hiện trong nền kinh tế mà độc quyền Nhà nước và cơ chế tập trung bao cấp, quan liêu mệnh lệnh thống trị, Nhà nước không chỉ nắm trong tay độc quyền lãnh đạo chính trị, quản lý và kiểm soát nền kinh tế nói chung (độc quyền này là cần thiết) mà còn độc quyền sản xuất, kinh doanh trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân. V.I.Lênin đã xác định, một trong những đặc trưng kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc là tập trung sản xuất và tư bản đến trình độ phát triển cao dẫn đến độc quyền và nó có vai trò nhất định trong đời sống kinh tế. Độc quyền kinh tế; một mặt, thúc đẩy phát triển chủ nghĩa tư bản đương thời; mặt khác, nó kiềm hãm phát minh, sáng kiến, cạnh tranh. Sự phát triển của lực lượng sản xuất của nước ta trong những năm 70, 80 chưa đạt đến trình độ độc quyền kinh tế. Trong điều kiện đó, độc quyền nhà nước là độc quyền phi kinh tế vì nó không dựa trên cơ sở kinh tế. Trong thời gian dài tồn tại cơ chế tập trung bao cấp, quan liêu mệnh lệnh đã khuyến khích cấp dưới chờ cấp trên phân phối vật tư, lao động và tiền vốn, thiếu tính toán hiệu quả kinh tế. Tình hình trên làm cho hoạt động của nền kinh tế kém hiệu quả, dẫn đến lạm phát. Bốn là, cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư không hợp lý làm cho sản xuất chậm phát triểm trong khi dân số tăng nhanh, gây mất cân đối trên nhiều mặt , sản xuất chậm phát triển thu nhập quốc dân trong nước chỉ đảm bảo 80-90%quỹ tiêu dùng xã hộị Trong tình hình ấy tài chính - tín dụng có tài giỏi đến mấy cũng không thể phân phối và phân phối lại vượt quá mức số của cải trong nước làm ra cộng với số vay nợ, viện trợ hạn chế của nước ngoài. Sự phân phối và phân phối lại thông qua tài chính - tín dụng tuy có những yếu kém nhất định nhưng không phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra lạm phát mà là hệ quả của cơ cấu đầu tư , cơ cấu kinh tế không hợp lý với sự duy trì bộ máy hành chính cồng kềnh và cơ cấu quản lý kinh tế kém năng lực. Năm là, lạm phát xuất hiện ở một nước, mà nền kinh tế phụ thuộc khá nhiều vào nước ngoài. Thu về xuất khẩu không đủ trang trải cho chi phí nhập khẩu. Để bù đắp chi phí nhập khẩu phải vay nợ nước ngoài. Tỉ trọng vay nợ nước ngoài so với chi bằng ngoại tệ vào các năm 1981 - 1985 là 52%, năm 1986 là 65% và năm 1989 là 39%. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước đều dựa vào vay nợ, viện trợ của nước ngoài, thiếu nó thì doanh nghiệp nhà nước không thể hoạt động bình thường. Sự viện trợ của nước ngoài giảm dần dẫn đến bội chi ngân sách nhà nước tăng dần và tạo điều kiện cho lạm phát phi mã. Sáu là, việc buông lỏng quản lý ngoại thương, ngoại hối cũng gây ra những tác hại lớn cho ngân sách nhà nước và lưu thông tiền tệ. Trong hoạt động xuất nhập khẩu đã phát sinh hiện tượng tranh mua, địa phương này treo giá cao để thu hút hàng của địa phương khác.Việc đẩy giá mua của hàng nội địa ảnh hưởng đến giá cả trong nước. Trên thị trường có sự tranh bán, nhiều mặt hàng xuất khẩu của ta bị ép giá gây thiệt hạI đến lợi ích quốc gia.Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm chỉ chiếm 30% tổng kim ngạch nhập khẩu.Mỗi năm ngân sách nhà nước phảI bù lỗ xuất nhập khẩu. Những chính sách trên đã làm cho nguồn thu ngày càng cạn kiệt , ngân sách nhà nước ngày càng thiếu hụt, lạm phát ngày càng gia tăng. 2.1.3 Phương hướng giải quyết * Tập trung đầu tư sức mạnh sản xuất trên cơ sở sắp xếp lại các ngành sản xuất và bố trí lại cơ cấu đầu tư, cơ cấu tiêu dùng. Để thúc đẩy nền kinh tế phát triển , tạo ra nhiều loại hàng hoá cho xã hội, cần áp dụng hàng loạt các chủ trương chính sách giải phóng sức lao động, khai thác mọi khả năng, tiềm năng, khuyến khích các tầng lớp dân cư, các thành phần kinh tế phát triển sản xuất. Thực hiện 3 chương trình về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Trên cơ sở phát huy ưu thế trong nước, mạnh dạn mở rộng mối quan hệ kinh tế với các nước, sử dụng ưu thế về kỹ thuật của nền kinh tế hàng hoá thế giới để khắc phục tình trạng kém phát triển của nước ta. *Phấn đấu giảm mức hụt ngân sách. Bộ tài chính cần thông báo chính xác mức chênh lệch thu chi ngân sách. Tách các khoản vay của nhà nước ra khỏi ngân sách và chuyển thành các nguồn vốn đi vay , nếu ngân sách vay thì cũng phải trả lãi. Ngân sách có bốn nguồn thu: huy động trong nước, vay nước ngoài, vay dân, vay ngân hàng. Trước mắt vay nợ nước ngoài khó khăn do đó cần hướng vào các nguồn thu trong nước để tăng thu Chủ yếu là tăng thu thuế, thực hiện đánh thuế VAT, thuế vốn, thuế thu nhập … Kiểm kê tài sản, bất động sản, ấn định giá đất, giá nhà để bán và cho thuê, tăng nguồn thu nhập cho ngân sách. *Giảm chi: Rà soát lại các nguồn chi, thực hiện một chính sách chi tiêu nghiêm ngặt. Có thể cắt giảm một tỉ lệ nhất định các khoản chi tiêu chưa thật cần thiết của các cơ quan nhà nước, kiểm soát chặt chẽ các khoản chi của các cơ quan này, đồng thời có các biện pháp dự phòng nhằm đối phó với những khoản chi tiêu ngân sách đột biến lớn có khả năng dẫn tới lạm phát. *Chấm dứt hoàn toàn việc phát hành tiền để cứu vớt các xí nghiệp quốc doanh dưới bất kì hình thức nào.Thực hiện chính sách tiết kiệm gắn liền với chống tham ô lãng phí ngay từ các cơ quan nhà nước. *Tăng cường chức năng quản lý vĩ mô của ngân hàng nhà nước. Sử dụng hiệu quả cá công cụ như : lãi suất, tỉ giá, kiểm soát chặt chẽ việc phát hành trái phiếu, công trái, nâng cao hiệu suất kinh tế của vốn tín dụng. *Chủ động điều tiết giá cung, cầu và cải tiến chế độ tiền lương. Lạm Phát ở Việt Nam giai đoạn 2007-2009 Trong những năm gần đây, Việt Nam gây ấn tượng bởi tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục. Tuy nhiên theo lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế thì Việt Nam đang phải chịu tác động từ chính thành công quá lớn và quá nhanh chóng của mình. Cái giá phải trả cho tốc độ tăng trưởng cao là mất ổn định kinh tế vĩ mô ít nhất là trong trung hạn. Điều này được thấy rõ nhất thông qua lạm phát và tình hình kinh tế nước ta năm 2008. Năm 2008 đã đi vào lịch sử kinh tế Việt Nam như một năm đầy biến động và sóng gió trên tất cả các thị trường. Từ thị trường trong nước đến thị trường nước ngoài, từ thị trường hàng hóa dịch vụ thông thường, cao cấp đến thị trường tài chính và thị trường bất động sản. Nhìn lại chặng đường một năm giúp ta rút ra nhiều bài học quí giá cho những chặng đường phát triển tiếp theo. Diễn biến *Giai đoạn lạm phát tăng nhanh ( 3 quí đầu năm) Dấu hiệu lạm phát đã xuất hiện từ tháng 6 năm 2007 khi CPI tháng 6 tăng vọt lên 1%, trái hẳn với thông lệ giá cả hơn một thập kỉ qua. Tín hiệu này đã được ghi nhận và xử lý kịp thời. Tuy nhiên do không phân tích đúng nguyên nhân của lạm phát, thêm vào đó việc triển khai thực hiện không nghiêm túc nên mặc dù tăng trưởng kinh tế cả năm 2007 ở mức cao trên 8.5%, song lạm phát cũng ở mức kỷ lục 12.63%. Nửa đầu năm 2008, lạm phát liên tục leo thang và vượt qua mọi qui luật đã hình thành hàng chục năm nay, buộc Việt Nam phải điều chỉnh chính sách từ ưu tiên tăng trưởng kinh tế sang kiềm chế lạm phát. Trong bối cảnh lạm phát quá cao, kết quả tăng trưởng đã mất đi khá nhiều ý nghĩa. Nhất là đối với các tầng lớp nghèo dễ bị tổn thương, thu nhập chủ yếu trông chờ vào đồng lương. Khi vật giá leo thang số tiền mỗi người có được dường như là nhiều hơn do doanh thu bán hàng, thu nhập hoặc tiền lương khá hơn trước. Nhưng thực chất họ lại mua ít hàng hóa và dịch vụ hơn vì sức mua của đồng tiền đã giảm. Nếu không nhận diện đúng và có những biện pháp thích hợp thì nguy cơ phải đối mặt với lạm phát phi mã gây bất ổn kinh tế xã hội là điều khó tránh khỏi. Chỉ sau 6 tháng, Tổng cục thống kê công bố công bố chỉ số CPI đã lên tới 26.8% so với tháng 6 năm 2007 và 18.44% so với cuối năm 2007. Riêng nhóm hàng lương thực thực phẩm tăng tương ứng tới 74.3% và gần 60%. Điều này đã phá vỡ mọi dự tính của chúng ta về kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Càng nghiêm trọng hơn khi Việt Nam là một nước nông nghiệp với hơn 60% dân số và lực lượng lao động là nông dân. Sự phụ thuộc của nền kinh tế nói chung và của giá cả thị trường nói riêng vào những biến động trong khu vực sản xuất lương thực thực phẩm của nước ta còn rất lớn, mặc dù tỷ trọng của nông nghiệp trong GDP giảm xuống chỉ còn 20%. Thông thường những tháng gần tết giá cả tăng nhanh. Nhưng năm 2008 đặc biệt hơn vì qua tết Mậu tý mà giá cả vẫn ở mức cao trái ngược với qui luật vận động của giá cả trong thời gian gần đây. Sau hơn 1 thập kỉ từ năm 1992, “bóng ma” lạm phát dường như đang quay trở lại và đe dọa những thành quả kinh tế xã hội mà nước ta đạt được. Trong những tháng đầu năm vật giá leo thang từng tháng. Giá cả tăng liên tục đã đẩy mức lạm phát tháng sau cao hơn tháng trước. So với tháng 12 (2007), CPI tháng 1 (2008) tăng 2.4%, sang tháng 2 tăng vọt lên 6%, tháng 3 là 9.2%. Đến tháng 4 chỉ số CPI đã lên tới 2 con số (11.6%) và tháng 5 lại tăng đột ngột tới 16%. Đỉnh điểm lạm phát đã đến mức 3.91% vào tháng 5 (2008), trùng với thời điểm giá gạo trên thị trường quốc tế ở mức 1000 USD/ tấn, khủng hoảng lương thực đã trở thành mối đe dọa toàn cầu. Ngay cả ở một cường quốc xuất khẩu gạo như Việt Nam mà tin đồn thiếu gạo đã làm rất nhiều người dân hoang mang, lo lắng sẽ quay về nạn đói khủng khiếp năm 1945. Còn các cơ quan chức năng nhà nước do dự báo sai lệch nên yêu cầu các doanh nghiệp ngừng xuất khẩu mặc dù giá lúa gạo đang rất cao. Bên cạnh đó tốc độ tăng trưởng kinh tế bắt đầu suy giảm trong khi tỷ lệ đầu tư vẫn ở mức cao. GDP nửa đầu năm chỉ tăng 6.5% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn nhiều so với mức tăng cùng kỳ một số năm gấn đây. Xuất hiện những cơn “sốt ảo” USD, vàng, gạo, thép, vật liệu xây dựng,…Thâm hụt thương mại tăng vọt (gần 50% tổng kim ngạch xuất khẩu). Thị trường chứng khoán thiết lập đáy mới chỉ bằng khoảng ¼ đỉnh cao nhất là 1173 điểm, đánh mất toàn bộ điểm tích lũy được 3 năm qua. Giá vàng có thời điểm lên đến xấp xỉ 20 triệu VND/ lượng, tỷ giá hối đoái trên thị trường đã từng vượt mốc 19000 VND/ USD…. Nền kinh tế Việt Nam cuối tháng 5 đầu tháng 6 mấp mé bờ vực khủng hoảng với những “bong bóng” khổng lồ chực chờ nổ tung trên thị trường tài chính tiền tệ, thị trường tín dụng ngân hàng, thị trường bất động sản. Các tháng 6,7,8 chỉ số CPI đã lên cao chóng mặt lần lượt là 18.4%, 19.8% và 21.7%. Chỉ sau 3 quý đầu năm, CPI đã vượt mức 20%, đạt được mức kỷ lục từ 17 năm qua. Điều đó cũng góp phần đẩy nhanh tốc độ mất giá của đồng tiền: sau 3 năm (tính đến tháng 9/ 2008) đồng tiền đã mất giá 48.5% so với kỳ gốc 2005. *Giai đoạn giảm lạm phát (3 tháng cuối năm) Sang tháng 10,11,12 liên tiếp 3 tháng giá nhiều loại hàng hóa đã chững lại và giảm xuống. CPI cũng giảm, tốc độ tăng trưởng kinh tế tháng âm: -0.19 (tháng 10), -0.76 (tháng 11), -0.66 (tháng 12). Tỷ lệ lạm phát từ 21.9% vào thời điểm tháng 9 chỉ còn 19.89% so với tháng 12 (2007), làm dịu bớt cơn lạm phát của Việt Nam. Nguyên nhân là do những tháng đầu năm giá mặt hàng lương thực, thực phẩm tăng nhanh; hàng phi lương thực thực phẩm mặc dù chậm nhưng vẫn tăng giá. Đến cuối năm hàng lương thực thực phẩm dường như không tăng nữa và đồ thị là một đường nằm ngang. Trong khi đó giá hàng hóa phi lương thực thực phẩm giảm nhanh nên tốc độ tăng giá chung giảm xuống. Bên cạnh đó là nhờ những biện pháp kiềm chế lạm phát của chính phủ đã phát huy tác dụng chẳng hạn như Nghị quyết số 10/2008/ NQ- CP ngày 17/4/2008 về các biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững với 8 nhóm giải pháp….. Chúng ta đã chủ trương đúng khi giảm tốc độ tăng trưởng và tập trung vào chống lạm phát. Thành công nhờ hệ thống chống lạm phát bảo đảm tính trọn gói, sát với nguyên nhân. Đặc biệt chúng ta có sức mạnh khi tập hợp, huy động cả hệ thống chính trị, cả dân tộc và các doanh nghiệp tham gia chống lạm phát. 2.2.2 Nguyên nhân Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007-2009 là sự tác động của tổ hợp ba dạng lạm phát: lạm phát tiền tệ , lạm phát cầu kéo và lạm phát chi phí đẩy. 2.2.2.1 Lạm phát tiền tệ Tăng trưởng tín dụng trong nước được mở rộng quá mức từ 2005 đến năm 2007 và kéo dài sang nhiều tháng đầu năm 2008 làm cho việc cấp tín dụng cho các hoạt động đầu cơ chứng khoán, đầu cơ bất động sản còn dễ dàng hơn cấp tín dụng cho các dự án đầu tư hoạt động sản xuất kinh doanh. Chỉ trong 3 năm từ năm 2005 đến năm 2007, cung tiền tăng 135% nhưng GDP chỉ tăng 27%, tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng năm 2007 tăng gấp đôi so với năm 2006. Tính đến 31/12/2007, tổng phương tiện thanh toán tăng 46,7% so với 31/12/2006. Tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế năm 2007 tăng 57,53% so với năm 2006. Nguyên nhân dẫn đến tốc độ tăng trưởng tín dụng là do tổng lượng ngoại tệ ròng chảy vào nền kinh tế tăng mạnh. Các nguồn vốn ngoại ( đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài , ODA, kiều hối ) tràn vào khá lớn từ năm 2007 và tăng đột biến ngay từ đầu năm 2008. Để duy trì tỷ giá USD, ngân hàng nhà nước đã tăng dự trữ ngoại hối từ 11,5 tỷ USD (năm 2006 ) lên 21,6 tỷ USD (năm 2007) và đẩy một lượng tiền lớn ra thị trường. Trong khi đó, một mặt khả năng tiêu hóa nội địa còn thấp kém, năng lực sản xuất trong nước không theo kịp làm xảy ra tình trạng dư thừa tiền trong lưu thông. Mặt khác, công tác điều hành của nhà nước không theo kịp nhịp độ, không thu hồi kịp thời lượng thiền tung ra mua ngoại tệ dự trữ khi các dòng ngoại tệ tràn vào đã làm cho các nghiệp vụ thị trường mở không đủ khả năng trung hòa các “ phản ứng phụ” của dòng ngoại tệ. Trong lưu thông, cung tiền qua mức cần thiết trong khi cung đứng yên thì tất yếu dẫn đến lạm phát. Nếu phản ứng không kịp, để kéo dài sẽ sinh ra lạm phát cao, điều đó không thể tránh khỏi. 2.2.2.2 Lạm phát cầu kéo Do lượng tiền cung ứng vào lưu thông quá nhiều, quan hệ-tiền- hàng mất cân dối nghiêm trọng. Điều đáng chú ý là chính sách tài chính và chính sách tiền tệ được nới lỏng từ nhiều năm trước và tiếp tục được nới lỏng trong quý đầu năm 2008. Tổng đầu tư của xã hội năm 2007 là 493,6 nghìn tỷ đồng, cao hơn 77% so với năm 2006, tổng chi ngân sách nhà nước đạt 399,3 nghìn tỷ đồng, vượt khoảng 11,7% so với dự toán. Bội chi ngân sách nhà nước 56,5 nghìn tỷ đồng, bắng 4,95% GDP. Thâm hụt cán cân thương mại là 14,12 tỷ USD, bằng 29% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng 2,5 lần so với năm 2006. Điều đó dẫn đến cả chi tiêu công và tư đều tăng làm tăng nhu cầu trong khi nền cung không tiến kịp dẫn đến cầu lớn hơn cung kéo giá cả tăng, gây ra lạm phát cầu kéo.Không chỉ thế, nền kinh tế vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập liên quan đến hạ tầng kinh tế, xã hội và pháp luật đã làm gia tăng áp lực lạm phát. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận việc gia tăng đầu tư của nhà nước vào các lĩnh vực đã góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tạo đà phát triển bền vững trong dài hạn. 2.2.2.3 Lạm phát chi phí đẩy Trước hết, việc tăng lương, tăng giá xăng dầu, điện nước, vận tải… đều xuất phát từ phía người bán ( do chiếm vị tri độc quyền, do liên kết, thao túng giá, do thiếu trách nhiệm với chính phủ và xã hội… ) và nhiều khi còn được cộng hưởng với việc điều hành, quản lý giá chưa hiệu quả của nhà nước. Sự hợp lực của hai yếu tố này đã tạo lực đẩy chi phí sản xuất kinh doanh tăng cao làm tăng giá bán hàng hóa, dịch vụ. Nền kinh tế nước ta phải đối mặt với tình trạng nhập siêu hơn 20 năm nay do hiệu quả cũng như năng suất lao động thấp, khả năng tiêu hóa các luồng vốn lớn từ bên ngoài còn kém…. Tình trạng nhập siêu còn nghiêm trọng hơn vào đầu năm 2008, từ đó tạo điều kiện cho lạm phát chi phí đẩy bùng phát. Nền kinh tế bị phụ thuộc vào bên ngoài, nhập siêu quá lớn sẽ làm loạn giá cả trong nước, nhất là khi gía cả trên thị trường thể giới biến động mạnh. Điều này đặt biệt rõ khi giá dầu thô và nhiều nguyên vật liệu chính, sắt thép, phân bón, xăng dầu… trên thị trường thế giới tăng đột biến đầu năm 2008 và sau đó giảm mạnh từ quý IV-2008 đã làm cho giá cả trong nước biến động theo một cách thất thường. Gía dầu lửa đã tăng từ 53,4 USD/thùng tháng 1/2007 lên 89,4 USD/ thùng tháng 12/2007 và đạt đỉnh mới 125,96 USD /thùng vào ngày 9/5/2008. 2.2.2.4 Nguyên nhân khác Ngoài ra, lạm phát ở nước ta còn xuất phát từ một số nguyên nhân sau Tâm lý dám đông bị kích động bởi các tin đồn thất thiệt và tình trạng đầu cơ trục lợi. Thêm vào đó, thiên tai, dịch bệnh lây lan đã đẩy giá lương thực, thực phẩm tăng cao, gây náo loạn thị trường. Thậm chí có cả nguyên nhân đã tích tụ từ lâu do đầu tư kém hiệu quả ( hệ số ICOR tăng ), cuối cùng thể hiện ở chênh lệch tăng trưởng GDP và tăng cung tiền đã ngày một giãn rộng trong vòng 3 năm qua. Trong khoảng thời gian 2 năm rưỡi, tính từ đầu năm 2005 cho đến tháng 6/2006, GDP tăng 25% trong khi mức cung tiền mặt cho lưu thông và tiền gửi ngân hàng đã tăng đến 110 %. 2.2.3. Tác động của lạm phát: 2.2.3.1 Tác động đến tình hình kinh tế: * Lĩnh vực tiền tệ, tín dụng: Đối với các Ngân hàng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, lạm phát tăng cao, sức mua đồng tiền giảm xuống, đã ảnh hưởng xấu đến hoạt động huy động vốn, cho vay, đầu tư và thực hiện các dịch vụ ngân hàng. - Đối với hoạt động huy động vốn: do lạm phát tăng cao, việc huy động vốn của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn, hoặc không muốn vốn từ ngân hàng mình chạy sang các ngân hàng khác, thì phải nâng lãi suất huy động sát với diễn biến của thị trường vốn. Một cuộc chạy đua lãi suất huy động ngoài mong đợi tại hầu hết các ngân hàng (17% – 18%/năm cho kỳ hạn tuần hoặc tháng), luôn tạo ra mặt bằng lãi suất huy động mới, rồi lại tiếp tục cạnh tranh đẩy lãi suất huy động lên, có ngân hàng đưa lãi suất huy động gần sát lãi suất tín dụng, kinh doanh ngân hàng lỗ lớn nhưng vẫn thực hiện, gây ảnh hưởng bất ổn cho cả hệ thống ngân hàng thương mại. - Lạm phát tăng cao, Ngân hàng Nhà nước phải thực hiện thắt chặt tiền tệ để giảm khối lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh vẫn rất lớn, các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng cho một số ít khách hàng với những hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có hiệu quả, với mức độ rủi ro cho phép. Mặt khác, do lãi suất huy động tăng cao, thì lãi suất cho vay cũng cao, điều này đã làm xấu đi về môi trường đầu tư của ngân hàng, rủi ro đạo đức sẽ xuất hiện. - Tính thanh khoản của các ngân hàng bị ảnh hưởng, rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá xảy ra do sức mua của đồng Việt Nam giảm, giá vàng và ngoại tệ tăng cao, việc huy động vốn có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên thật sự khó khăn đối với mỗi ngân hàng, trong khi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn đối với các khách hàng rất lớn, vì vậy việc dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn trong thời gian qua tại mỗi ngân hàng là không nhỏ. - Do lạm phát cao, không ít doanh nghiệp, người dân thực hiện giao dịch hàng hóa, thanh toán trực tiếp cho nhau bằng tiền mặt, nhưng lại khan hiếm tiền mặt. Theo điều tra của Ngân hàng thế giới (WB), ở Việt Nam có khoảng 35% lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng, trên 50% giao dịch không qua ngân hàng, trong đó trên 90% dân cư không thanh toán qua ngân hàng. Khối lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng lớn, Ngân hàng Nhà nước gặp khó khăn trong việc kiểm soát chu chuyển của luồng tiền này, các Ngân hàng thương mại cũng khó khăn trong việc phát triển các dịch vụ phi tín dụng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Như vậy lạm phát tăng cao đã làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường vốn, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các NHTM. Sự không ổn định của giá cả, bao gồm cả giá vốn, đã làm suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư và dân chúng, gây khó khăn cho sự lựa chọn các quyết định của khách hàng cũng như các thể chế tài chính – tín dụng. * Lĩnh vực sản xuất: Lạm phát tăng cao đã làm giá đầu vào và đầu ra của các nguyên vật liệu, sản phẩm biến động không ngừng tạo nên sự mất ổn định trong thị trường, gây khó khăn không nhỏ đối với các Doanh nghiệp Việt Nam. Hơn nữa giá cả tăng cao sẽ làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong tổng số gần 350.000 doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay, khoảng 95% là Doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa, khoảng 20% doanh nghiệp khó có thể tiếp tục hoạt động. Ngoài nhóm này, 60% thành viên hiệp hội đang chịu tác động của khó khăn kinh tế, nên sản xuất sút kém. Lạm phát đang làm các công ty không kiểm soát được chi phí, mất thị trường và không đủ vốn để duy trì sản xuất. 20% còn lại là các công ty chịu ít ảnh hưởng và vẫn trụ vững do trước nay ít phải nhờ đến nguồn vốn vay và được các lãnh đạo có kinh nghiệm dẫn dắt. Số liệu điều tra của Viện Phát triển doanh nghiệp thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho thấy, ngay cả trong điều kiện lạm phát, trên 90% doanh nghiệp nhỏ và vừa ngoài quốc doanh vẫn có nhu cầu vay vốn. Tuy nhiên, chỉ hơn 10% được vay 100% theo nhu cầu. Như vậy 80% doanh nghiệp nhỏ và vừa đang đứng trước nguy cơ phá sản. Vốn tiền thiếu, nhiều doanh nghiệp thực hiện mua chịu, bán chịu, công nợ thanh toán tăng, thoát ly ngoài hoạt động. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhìn chung thấp hơn so với năm 2007, tốc độ tăng trưởng của các thành phần GDP cũng giảm so với năm trước. Đặc biệt, tốc độ tăng tích lũy tài sản cố định đã giảm mạnh từ 24% xuống chỉ còn 4%. Trong khi đó, tỉ trọng hàng tồn kho đã tăng lên 5% so với tổng GDP, cao hơn mức thông thường của các năm trước khoảng 2%. Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 2008 Toàn nền kinh tế 7,8% 8,4% 8,2% 8.5% 6,3% Nông nghiệp 4,4% 4,0% 3,4% 3,4% 4,1% Công nghiệp 10,6% 10,6% 10,2% 10,2% 8,2% Xây dựng 9,0% 10,8% 11,1% 12,0% 0,0% Dịch vụ 1,3% 8,5% 8,3% 8,7% 7,2% Tăng trưởng GDP của Việt Nam qua các năm (%) * Lĩnh vực lưu thông: Lạm phát tăng cao đến 23% làm giảm giá trị đồng tiền trong nước. Lạm phát cao khuyến khích các hoạt động đầu tư mang tính đầu cơ trục lợi hơn là đầu tư vào các hoạt động sản xuất (ví dụ: khi có lạm phát, nếu ngân hàng không tăng lãi suất tiền gửãi thì dân chúng sẽ không gửi tiền ở ngân hàng mà tìm cách đầu cơ vào đất đai khiến giá cả đất đai tăng cao...). Chính những hoạt động đầu cơ này lại càng làm cho thị trường trở nên khan hiếm hàng hóa, dẫn đến mất cân bằng cung-cầu. Năm 2007, giá lương thực-thực phẩm trên thị trường Việt Nam tăng cao đạt mức 18,9%, cao hơn nhiều so với mức lạm phát 12,63%, trong đó nhóm lương thực tăng 15,5% và thực phẩm tăng 21,16%. Những mặt hàng như thiết bị và đồ dùng gia đình tăng giá 8,36% so với năm 2007, giá mặt hàng may mặc tăng 9,81%, đặc biệt trong lĩnh vực nhà ở và vật liệu xây dựng, giá tăng lên đến 22,39% so với năm 2007. Tình hình này làm cho sức tiêu thụ hàng hóa trong nước có dấu hiệu yếu dần. Đối với những mặt hàng chịu ảnh hưởng lớn của yếu tố tâm lý như chứng khoán và bất động sản thì giá cả của chúng lại giảm xuống rõ rệt. Xét thị trường chứng khoán năm 2008: Liên tục những phiên giảm giá của thị trường trong những tháng đầu năm 2008. Trong quý II năm 2008 thị trường chứng khoán vừa khép lại một tuần giảm mạnh cả về điểm số, giá chứng khoán và khối lượng giao dịch. Tại sàn Tp.HCM, chỉ còn 3,5 triệu đơn vị, bằng phân nửa khối lượng những phiên gần đây và có giá trị 148 tỷ đồng. Chỉ số VN-Index qua phiên này chính thức về mốc 500 điểm, giảm 7,61 điểm, còn 500,33 điểm. HASTC-Index chỉ còn 154,23 điểm, giảm 3,19 điểm.  Đúng như dự đoán, thị trường chứng khoán đã xuống mức “đáy” 366 điểm vào ngày 20/6. Biểu đồ: Chỉ số VN - Index từ tháng 3 đến tháng 9/2008 2.2.3.2 Tác động đến tình hình xã hội: Lạm phát tăng cao không chỉ khiến cho người nông thôn gặp khó khăn mà ngay cả những hộ gia đình ở thành thị với mức lương eo hẹp cũng phải điêu đứng. Thống kê của quốc tế thì trên cả nước ta, tỉ lệ nghèo hóa hay tái nghèo hóa vào khoảng 50%. Nghiên cứu thực nghiệm cho thấy: Người giàu thường có kiến thức và điều kiện tiếp cận với các công cụ tài chính để có thể tự bảo vệ họ trước tác động của lạm phát. Người nghèo thường có tỷ lệ tiền mặt trong tổng tài sản cao (do không có điều kiện chuyển đổi thu nhập thành các khoản đầu tư có thể bù đắp chi phí gây ra do trượt giá) nên phải chịu tác động của lạm phát lớn hơn; phụ thuộc nhiều hơn vào những nguồn thu nhập định trước như tiền lương, phúc lợi và trợ cấp xã hội… những nguồn thu nhập thường không được tính trượt giá một cách đầy đủ và kịp thời, hay thậm chí không được tính trượt giá Do đó, lạm phát làm giảm thu nhập và tiền công thực tế của người nghèo và góp phần làm tăng tỷ lệ thất nghiệp , khi lạm phát cao lại làm xói mòn lợi nhuận của doanh nghiệp và giảm động cơ đầu tư. Một khi đầu tư giảm thì tỷ lệ thất nghiệp tăng lên và điều đó làm giảm chất lượng cuộc sống của người dân. Ba nhóm người bị tác động mạnh bởi lạm phát: Những người về hưu: Do đồng lương hưu tương đối ổn định và chỉ được điều chỉnh tăng lên đôi chút sau khi giá cả hàng hóa tăng gấp nhiều lần nên với những đồng lương thực tế ít ỏi những người về hưu thường gặp rất nhiều khó khăn khi lạm phát tăng cao. Những người gửi tiết kiệm bằng tiền: Khi lạm phát tăng cao, giá trị của đồng tiền ngày càng giảm, mọi người cố gắng tiêu thụ càng nhanh số tiền mình có càng tốt, hoặc đổi nó sang ngoại tệ hay vàng, … những thứ có giá trị cất giữ lâu hơn. Còn đối với những người gửi tiết kiệm bằng tiền, nhất là gửi dài hạn thì đồng tiền mất giá là một thiệt hại lớn đối với tài sản tiền của họ. Người nghèo: Đây chính là đối tượng bị ảnh hưởng nặng nề nhất trong cuộc lạm phát tăng cao do giá tăng, lương thực tế giảm xuống, tỉ lệ thất nghiệp tăng cao… Trong khi các chính sách hỗ trợ của Chính phủ thì chưa sâu rộng để có thể hỗ trợ giúp đỡ người nghèo tự thoát khỏi khó khăn. Giai pháp 2.2.4.1 Năm 2007 Trong bối cảnh lạm phát đặc biệt tăng nhanh vào tháng 6 năm 2007 ( chỉ số giá CPI vọt lên mức xấp xỉ 1% , trái với thông lệ giá cả hơn một thập kỷ qua ) . Tín hiệu về lạm phát này đã được chính phủ thu nhận kịp thời và xử lý thông qua các chỉ thị : * Ngày 01/8/2008 Thủ tướng chính phủ ban hành chỉ thị số 18/2007/CT-TTg về một số biện pháp cấp bách kiềm chế tốc độ tăng hị trường. Thủ tướng yêu cầu: rà soát các chính sách điều hành tiền tệ để có biện pháp thích hợp kiểm soát được mức tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và mức huy động tín dụng; thực hiện các biện pháp nghiệp vụ thị trường mở để điều tiết lượng tiền trong lưu thông ở mức hợp lý; giữ bình ổn tỷ giá hối đoái, các lãi suất chủ đạo của đồng tiền Việt Nam, không để xảy ra những đột biến trên thị trường tiền tệ… Rà soát, tập trung vốn đầu tư cho các dự án quan trọng; kiên quyết thực hiện việc điều chỉnh vốn của các công trình triển khai chậm (chưa mang lại hiệu quả ngay) cho các dự án có nhu cầu cấp thiết cần sớm đưa vào sử dụng và phát huy hiệu quả cao. Phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan tháo gỡ kịp thời những vướng mắc về cơ chế, chính sách để đầy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, trái phiếu chính phủ, tín dụng nhà nước và nguồn vốn ODA, nhất là giải ngân các công trình đầu tư thuộc lĩnh vực giao thông vận tải và nông nghiệp; thực hiện việc ứng vốn cho các dự án đang vướng mắc về thủ tục thanh toán theo tiến độ thực hiện… Tiếp tục triển khai thực hiện các giải pháp tăng cường quản lý, giám sát hoạt động của thị trường chứng khoán và điều hòa cung cầu chứng khoán, tạo điều kiện để thị trường chứng khoán phát triển ổn định, bền vững; chọn những công ty có uy tín để phát hành cổ phiếu thu hút tiền lưu thông cho sản xuất… Tăng cường công tác quản lý thị trường, chống gian lận thương mại; kiểm tra chất lượng hàng hóa theo tiêu chuẩn đã công bố gắn với kiểm tra niêm yết giá, đăng ký giá và bán hàng theo giá niêm yết… * Ngày 31/10, Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 23/2007/CT-TTg về tăng cường thực hiện các giải pháp điều hành giá cả, bình ổn thị trường trong những tháng cuối năm 2007 và phục vụ Tết Nguyên đán Mậu Tý 2008. Thủ tướng Chính phủ chỉ thị các Bộ, ngành phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các hiệp hội ngành hàng tiếp tục thực hiện quyết liệt các giải pháp điều hành giữ vững các cân đối kinh tế vĩ mô, kiên quyết thực hiện các giải pháp tại Chỉ thị số 18/2007/CT-TTg ngày 01 tháng 9 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp cấp bách kiềm chế tốc độ tăng giá thị trường. Tiếp tục tổ chức thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, nhất là tiết kiệm trong tiêu dùng (điện, xăng, dầu), tiết kiệm trong chi phí sản xuất kinh doanh và trong xây dựng cơ bản; tiết kiệm trong tổ chức hội nghị, tổng kết cuối năm, gặp mặt đón mừng năm mới. Thủ tướng chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục thực hiện đồng bộ, hài hoà các giải pháp rút tiền từ lưu thông về, cơ cấu lại tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bán ra có kỳ hạn ngắn, mua ngoại tệ ở mức độ thích hợp nhằm tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán ở mức hợp lý, không để tăng giá hoặc mất giá quá mức đồng tiền Việt Nam. Bộ Tài chính tiếp tục triển khai kế hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ năm 2007, 2008 để tham gia hút bớt tiền về, đồng thời phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các Bộ, ngành thực hiện các biện pháp đẩy mạnh giải ngân cho các dự án đầu tư của Nhà nước để tăng cường khả năng hấp thụ vốn cho nền kinh tế. Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng, Bộ Y tế và địa phương tăng cường kiểm tra, kiểm soát và quản lý giá các mặt hàng có xu hướng tăng cao như: xăng dầu, bất động sản, thuốc chữa bệnh, sắt thép, gas; chỉ đạo các địa phương đẩy mạnh việc kiểm soát quản lý giá, không để tình trạng độc quyền doanh nghiệp về giá, định giá bất hợp lý, đầu cơ nâng giá, không thực hiện niêm yết giá; kiên quyết xử lý nghiêm, kịp thời theo quy định những vi phạm về Pháp lệnh Giá. Thủ tướng cũng yêu cầu các Bộ, ngành và ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có kế hoạch chuẩn bị đủ lượng hàng hóa cần thiết với giá ổn định để phục vụ nhu cầu của nhân dân đón Tết Nguyên đán Mậu Tý vui vẻ, an toàn và tiết kiệm. Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo.các cơ quan thông tin đại chúng phối hợp với các Bộ, cơ quan thực hiện tốt công tác tuyên truyền để các doanh nghiệp và người tiêu dùng hiểu rõ và đồng thuận với các biện pháp điều hành thị trường giá cả của Nhà nước, từ đó ngăn ngừa tác động tâm lý đẩy giá lên cao Nhưng các chính sách kinh tế này có vẻ vẫn chưa giải quyết tận gốc được lạm phát và lạm phát vẫn chưa được kiềm chế và đang diễn biến ở mức cao 2.2.4.2 Năm 2008 Trong bối cảnh nền kinh tế tiếp tục lạm phát ở mức cao , ngân hàng nhà nước ( NHNN ) đã tích cực thực hiện việc rút bớt tiền ra khỏi nền kinh tế thông qua các công cụ như : tăng thêm 1% tỉ lệ dự trữ bắt buộc ( Quyết định số 187/QĐ-NHNN ) ngày 16/1 /2008 ; phát hành tín phiếu NHNN bắt buộc 20.300 tỷ đồng kỳ hạn 1 năm , lãi suất 7,8% /năm ( quyết định số 364/ QĐ – NHNN ) ngày 13/2/2008 . Đặc biệt NHNN đã điều hành linh hoạt các mức lãi suất chỉ đạo và đổi mới cơ chế điều hành lãi suất , có cả kết hợp biện pháp trực tiếp là quy định trần lãi theo công điện số 2 để ổn định nhanh thị trường tiền tệ bị xáo động bởi cuộc chạy đua lãi suất . Và chính phủ đã có một quyết định khá dứt khoát khi ban hành Nghị quyết số 10/2008/ NQ-CP ngày 17/4/2008 về các biện pháp kiềm chế lạm phát , ổn định kinh tế vĩ mô , bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững với 8 nhóm giải phát : Thắt chặt tiền tệ Thắt chặt tài khóa thông qua rà soát cắt giảm đầu tư Nhà Nước Tăng cung Giảm nhập siêu Thúc đẩy tiết kiệm Tăng cường quản lý thị trường giá cả Hỗ trợ các chương trình an sinh xã hội Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền nhằm ổn định tâm lý xã hội và hạn chế kỳ vọng của lạm phát Thắt chặt chính sách tiền tệ Chính phủ đã chọn chính sách tiền tệ làm trọng tâm cho việc kiềm chế lạm phát , cụ thể như sau : Trong tháng 5/2008 nhu cầu ảo về USD tăng cao do yếu tố tâm lý và hành vi đầu cơ khiến giá USD/VND trên thị trường tự do tăng đột biến có lúc lên đến 19000VND/USD . NHNN đã chủ động điều hành linh hoạt tỷ giá : biên độ tỷ giá VND/USD được nới lỏng ± 0.5% à± 0.75%à ± 1%à± 2% à± 3% đồng thời cũng can thiệp mua bán trên thị trường ngoại hối để ổn định tỷ giá và đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho các nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu ( xăng dầu , thuốc chữa bệnh , phân bón ,…..) ; công bố mức dự trữ ngoại hối 20,7 tỷ USD , can thiệp trên thị trường ngoại hối , ban hành quy chế bna2 thu đổi ngoại tệ , giám sát chặt chẽ hoạt động kinh doanh ngoại tệ , cấm thu phí giao dịch , cấm các TCTD không được giao dịch USD thông qua đồng tiền thứ 3 , phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra xử lý các hoạt động đầu cơ nhằm bình ổn thị trường ngoại hối Từ tháng 10/2008 nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng ( TCTD ) giảm lãi suất cho vay , duy trì tăng trưởng kinh tế , ngân hàng nhà nước đã điều chỉnh giảm 1% tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND và giảm 2% đối với tiền gửi bằng ngoại tệ ( Quyết định số 2560/QĐ-NHNN ngày 3/11/2008 ) , đồng thời cho phép các TCTD được sử dụng tín phiếu bắt buộc để tham gia giao dịch trong các nghiệp vụ tái cấp vốn , thị trường mở và được rút trước hạn yêu cầu Ngày 20/11/2008 , NHNN tiếp tục điều chỉnh giảm 2% tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND của các TCTD ( Quyết định số 2811/QĐ-NHNN ) Khi thị trường tiền tệ có dấu hiệu tích cực NHNN đã dỡ bỏ lãi suất trần huy động NVD và thay cơ chế điều hành lãi suất cơ bản , theo đó các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh bằng VND đối với khách hàng không quá 150% của lãi suất NHNN công bố . Tại thời điểm thực hiện cơ chế lãi suất mới , lãi suất cơ bản được ấn định ở mức 12% và sau đó được điều chỉnh lên 14% ( ngày 11/6) , theo đó các mức lãi suất điều hành của NHNN như lãi suất chiết khấu , lãi suất tái cấp vốn cũng tăng lên ( lãi suất tái cấp vốn tăng 13%-15% /năm ,lãi suất chiết khấu tăng từ 11%-13% ) . Đồng thời để bảo đảm thi hành nghiêm túc cơ chế điều hành lãi suất cơ bản , ngày 10/6/2008 thống đốc ngân hàng nhà nước ban hành văn bản số 5158/NHNN-CSTT yêu cầu các TCTD không được thu phí liên quan đến hoạt động cho vay . Trước xu hướng tăng chậm của chỉ số giá tiêu dùng , đặc biệt là -0.19 % vào tháng 10 và 0,76% trong tháng 11 , nhằm hạn chế tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu , bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô tạo điều kiện cho các TCTD giảm lãi suất cho vay , duy trì tăng trưởng bền vững , NHNN đã ba lần giảm lãi suất từ 14%-13%-12% -11% /năm , lãi suất tái cấp vốn từ 15%-14%-13%-12% /năm , lãi suất chiết khấu từ 13%-12%-11%-10%/năm . Đồng thời NHNN ban hành Công văn số 10259/NHNN-CSTT ngày 20/11/2008 về việc thực hiện biện pháp tín dụng và lãi suất ; trong đó NHNN yêu cầu các TCTD : Điều chỉnh lãi suất kinh doanh VND phù hợp với quy định của NHNN , bảo đảm khả năng huy động vốn , hoạt động kinh doanh an toàn hiệu quả Tập trung vốn tín dụng cho các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và nông thôn , xuất nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu , doanh nghiệp vừa và nhỏ ,các dự án đầu tư sản xuất , kinh doanh và kể cả các dự án đầu tư bất động sản khả thi , có hiệu quả và có khả năng trả nợ đúng hạn Chủ động thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn hiệu quả hoạt động kinh doanh Bên cạnh đó NHNN đã tăng cường kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán , theo đó chỉ đạo các TCTD điều chỉnh kế hoạch kinh doanh phù hợp với chủ trương kiềm chế lạm phát của chính phủ , kiểm soát chặt chẽ lĩnh vực cho vay có rủi ro cao như cho vay đầu tư , kinh doanh chứng khoán , cho vay đầu tư , kinh doanh bất động sản . Tập trung hỗ trợ các lĩnh vực quan trọng để duy trì sự ổn định và tăng trưởng kinh tế , đặc biệt là xuất khẩu , nông nghiệp , nông thôn . Bên cạnh chính sách tiền tệ , chính phủ còn có gắng giảm nhập siêu và tăng cường tuyên truyền tiết kiệm , hỗ trợ an sinh xã hội ,……… Tiết kiệm chi thường xuyên gần 3 nghìn tỷ đồng Các ngành, các cấp, các doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện nghiêm chỉ đạo của Chính phủ về tiết kiệm 10% chi thường xuyên trong năm 2008 (trừ các khoản liên quan đến người lao động). Đến nay, theo báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương sẽ tiết kiệm được khoảng 2.700 tỷ đồng, bằng 25% tổng dự phòng ngân sách Nhà nước 2008, trong đó các Bộ, ngành tiết kiệm được khoảng 700 tỷ đồng, các địa phương tiết kiệm khoảng 2 nghìn tỷ đồng. Số tiền tiết kiệm này được bổ sung vào nguồn thực hiện chính sách an sinh xã hội; phòng, chống, khắc phục thiên tai, dịch bệnh và các nhiệm vụ cấp bách khác. Báo cáo kiểm điểm sự chỉ đạo, điều hành 6 tháng đầu năm và chương trình công tác 6 tháng cuối năm 2008 của Chính phủ do Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Nguyễn Xuân Phúc trình bày cho thấy, chi phí cho hội họp đã được tiết giảm, công tác ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ đã có bước phát triển mới và phát huy tác dụng. Hệ thống thư điện tử công vụ của Chính phủ đã được các thành viên Chính phủ, lãnh đạo các Bộ, địa phương sử dụng hiệu quả trong quan hệ công tác, trao đổi thông tin, báo cáo phục vụ cho hoạt động chỉ đạo, điều hành. Thủ tướng, Phó Thủ tướng Chính phủ, lãnh đạo các Bộ đã thực hiện thành công nhiều cuộc hội nghị, giao ban truyền hình trực tuyến qua mạng, góp phần nâng cao hiệu quả chỉ đạo, điều hành và tiết kiệm ngân sách nhà nước. Đình hoãn, giãn tiến độ gần 2 nghìn dự án, công trình Việc rà soát lại các công trình, dự án, danh mục dự án đầu tư sử dụng vốn từ nguồn ngân sách nhà nước cần phải đình hoãn hoặc giãn tiến độ cũng được các Bộ, ngành, địa phương triển khai nghiêm túc. Theo đó, tổng số công trình, dự án đình hoãn, ngừng triển khai thực hiện và giãn tiến độ thực hiện trong kế hoạch năm 2008 là 1.736 dự án, với tổng số vốn là 5.625 tỷ đồng. Trong đó, tổng số dự án điều chỉnh giảm của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước là 290 dự án với tổng số vốn là 4.775 tỷ đồng. Kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, giảm nhập siêu Bộ Công Thương và Bộ Tài chính đã tích cực rà soát các thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động xuất khẩu, đặc biệt là thủ tục hải quan, thuế... Triển khai nghiên cứu xây dựng các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp phù hợp với cam kết quốc tế để giảm nhập siêu. Về điều hành xuất khẩu, các Bộ, ngành chức năng đã thực hiện các chính sách để tăng tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó tiếp tục xuất khẩu gạo nhằm bảo đảm an ninh lương thực và bình ổn giá gạo thế giới. Căn cứ vào khả năng cân đối thực tế và bảo đảm an ninh lương thực trong nước, năm nay nước ta có thể xuất khẩu gạo từ 4 đến 4,5 triệu tấn. Do tác động trực tiếp của một số chính sách hạn chế nhập khẩu như tăng thuế nhập khẩu ô tô, linh kiện ô tô...; kiểm soát chặt nguồn ngoại tệ cho nhập khẩu nên nhập khẩu đang có xu hướng giảm dần, đặc biệt là nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu (quý I/2008 nhập siêu bằng 62,7% kim ngạch xuất khẩu, quý II bằng 39,2%, riêng tháng 6 bằng 23,6% kim ngạch xuất khẩu). Đẩy mạnh sản xuất và bảo đảm cân đối cung cầu Việc khắc phục hậu quả thiên tai và dịch bệnh đã được thực hiện tích cực để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp. Thời gian qua, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thực hiện tốt các chính sách khôi phục sản xuất lúa Đông Xuân năm 2007-2008 và chăn nuôi trâu, bò bị thiệt hại do ảnh hưởng của đợt rét đậm, rét hại. Các Bộ, ngành địa phương đã tích cực tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về thủ tục hành chính đối với việc phát triển sản xuất kinh doanh. Qua việc thực hiện các giải pháp trên, các hoạt động sản xuất kinh doanh được duy trì tốt, giá các mặt hàng trọng yếu trên thị trường về cơ bản được bình ổn, đặc biệt là kịp thời hạ nhiệt giá gạo và xi măng; cơ bản bảo đảm cung - cầu các mặt hàng trên thị trường; góp phần đưa GDP đạt mức tăng trưởng khá trong 6 tháng đầu năm (6,5%) trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn. Cấp hơn 7.300 tỷ đồng thực hiện chính sách an sinh xã hội Trong thời gian qua, các Bộ, ngành, địa phương đã khẩn trương, tích cực, kịp thời giải quyết tình trạng thiếu đói, hỗ trợ sản xuất, sinh hoạt và đời sống cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, khó khăn; giữ ổn định mức thu học phí, viện phí; tiếp tục cho sinh viên, học sinh đại học, cao đẳng, học nghề có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn để học tập; tăng mức hỗ trợ mua bảo hiểm y tế cho người nghèo; bảo đảm cung - cầu những mặt hàng thiết yếu phục vụ nhân dân. Đến nay, ngân sách Trung ương đã cấp hơn 7.300 tỷ đồng để thực hiện các chính sách an sinh xã hội. Kết quả đạt được trong kiềm chế lạm phát năm 2008 -Lạm phát đã có xu hướng giảm dần ,ngoại trừ tháng 5 tăng 3,91% do cú sốc giá gạo vào tháng 4 năm 2008 . Chúng ta có thể thấy sự giảm CPI qua hình XXX , chỉ số giá CPI vào những tháng cuối năm ở mức thấp , đặc biệt chỉ số GDP âm vào hai tháng 10 : - 0.19 % và tháng 11 : ---0.76 % -Tổng phương tiện thanh toán và tín dụng được kiểm soát phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát ; 10 tháng đầu năm tổng phương tiện thanh toán tăng 9,48% bằng ¼ chu kỳ năm ngoái , tốc độ tăng tín dụng chậm dần ( 10 tháng tăng tăng gần 18% so với năm 2007 ) từ đó tác động kiềm chế tăng tổng cầu và tiêu dùng -Tỷ giá VND so với USD trên thị trường liên ngân hàng tăng với mức độ hợp lý , vào ngày 28/11/ năm 2008 : 16.483 VND/USD , tăng 2,76% so với đầu năm , phù hợp với cung cầu ngoại tệ , yêu cầu kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô , cùng với cơ chế hỗ trợ vay vốn và mua bán ngoại tệ đối với xuất khẩu cho phép thanh toán bằng ngoại tệ của doanh nghiệp chế xuất , kiểm soát cho vay bằng ngoại tệ để nhập khầu và can thiệp bán ngoại tệ tập trung cho nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu , góp phần bình ổn thị trường ngoại hối và giảm đáng kể nhập siêu . -Lãi suất có xu hướng giảm , sau các động thái hạ các mức lãi suất chủ đạo của NHNN , hiện nay lãi suất huy động và cho vay của các TCTD đã giảm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn dễ dàng hơn Nhập siêu đã có xu hướng cải thiện trong những tháng cuối năm : Mức nhập siêu giảm mạnh từ mức bình quân 2,4 tỷ USD /tháng trong 6 tháng đầu năm 2008 xuống trên trung bình 500 triệu USD / tháng từ tháng 7 đến cuối năm . -Luồng vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam tiếp tục tăng mạnh : vốn FDI tiếp tục tăng , chỉ tính riêng 10 tháng đầu năm 2008 , FDI đăng ký đạt 58,3 tỷ USD gấp 5 lần so với cùng kỳ năm 2007 , vốn thực hiện đạt gần 9,1 tỷ USD . Đây cũng là một vấn đề có tính hai mặt , nếu năng lực sản xuất trong nước yếu kém , không có khả năng hấp thụ hết lượng vốn thì nó cũng sẽ là một tác nhân gây ra lạm phát. 2.2.4.3 Năm 2009 Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm nghiêm trọng vào cuối 2008 đầu 2009 , và lúc này tình hình lạm phát cơ bản đã được kiềm chế , ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng kinh tế được đặt lên . Chính phủ bắt đầu các chính sách “ nới lỏng tiền tệ “ , NHNN liên tục giảm lãi suất và tỷ lệ dự trữ bắt buộc . Từ đầu năm 2/2009 ngành thuế tập trung xủ lý việc giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2009 , giãn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời hạn 9 tháng đối với thuế thu nhập doanh nghiệp từ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ , cụ thể thuế thu nhập doanh nghiệp của các doanh nghiệp vừa và nhỏ giãn nộp lên đến 9900 tỷ đồng . Ngoài ra chính phủ còn chủ trương giảm 50% thuế giá trị gia tăng cho 19 nhóm hàng dịch vụ . Chính phủ đưa ra gói kích cầu với tổng trị giá 160 nghìn tỷ đồng , ngày 23/1/2009 chính phủ đã ban hành quyết định 131/QĐ-TTg về hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức , cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất , theo đó mức lãi suất hỗ trợ cho các doanh nghiệp và người cho vay là 4%/năm , với thời hạn tối đa là 8 tháng , bắt đầu từ 1/2/2009 . Dự kiến ngân sách nhà nước chi ra khoảng 17000 tỷ đồng , tương đương khoảng 1 tỷ USD cho giải pháp kích cầu này , và các gói khác như gói tăng đầu tư công hơn 90 nghìn tỷ đồng , gói bổ sung an sinh xã hội gần 10 nghìn tỷ đồng . Xét về tỷ lệ gói kích cầu với GDP các gói kích cầu của Việt Nam thuộc hàng cao so với thế giới . Như vậy một lượng tiền lớn được bơm vào nền kinh tế . Sau một thời gian triển khai thực hiện, các giải pháp này đã có những tác động tích cực đến ổn định kinh tế vĩ mô: Sự mất cân đối vĩ mô của nền kinh tế biểu hiện qua các chỉ số vĩ mô trong quý I/2008: Tốc độ tăng trưởng quý I chỉ tăng 7,4%, thấp hơn mức tăng 7,8% của cùng kỳ năm 2007; nhập khẩu tăng 62,5%, gần gấp đôi mức tăng của cùng kỳ năm 2007, nguyên nhân xuất phát cả về giá và lượng. Trong khi xuất khẩu chỉ tăng 22,7% - tăng cao hơn mức tăng của cùng kỳ 2007 nhưng thấp hơn nhiều so với mức tăng của nhập khẩu dẫn đến nhập siêu tăng gấp 3,5 lần so với mức nhập siêu của quý I/2007 và bằng 56,5% giá trị xuất khẩu hàng hóa; CPI tháng 3/08 tăng 2,99% so với tháng trước, cao hơn nhiều so với mức tăng của tháng cùng kỳ các năm trước (T3/2004: 0,8%; T3/2005: 0,1%; T3/2006: -0,5%; T3/2007: -0,22%), so với đầu năm tăng 9,19%, so với cùng kỳ tăng 19,39% ; thị trường tiền tệ có những biểu hiện thiếu ổn định, như thiếu thanh khoản, cạnh tranh lãi suất gia tăng; thị trường chứng khoán tụt dốc mạnh mẽ, chỉ số chứng khoán đang từ mức trên 1000 điểm của cuối năm 2007, chỉ còn 516 điểm vào cuối tháng 3/2008...; Sau khi các giải pháp chống lạm phát được thực hiện quyết liệt, thì tình hình lạm phát đã giảm dần, đến hết quý I/2009 lạm phát chỉ còn 11,25% so với cùng kỳ, thấp hơn nhiều so với mức 19,39% của quý I/2008. Song tăng trưởng kinh tế quý I/2009 lại có biểu hiện suy giảm mạnh (chỉ đạt 3,9%, xuất khẩu tăng 2,4% ...,). Và tình hình kinh tế trong những quý đầu đã có dấu hiệu khả quan hơn, tăng trưởng kinh tế quý II đã tăng cao hơn quý I, đạt mức 4,5%, 6 tháng đạt 3,9%; giá trị sản xuất nông, lâm, nghiệp, thủy sản tương ứng tăng 0,9%, 3,9% và 2,5%. Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, giá trị sản xuất kể từ tháng 2/2009, tháng sau cao hơn tháng trước (tháng 3 tăng 2,5%, tháng 4 tăng 5,6%, tháng 5 tăng 7,2%, tháng 6 tăng 8,2%); 7 tháng nhập siêu chỉ có 3,4 tỷ USD, thấp hơn rất nhiều so với cùng kỳ năm ngoái; dự kiến cả năm nhập siêu dưới 10 tỷ USD, chiếm khoảng 16 - 16,5% giá trị xuất khẩu. Trong khi đó, các luồng vốn vào mặc dù có suy giảm, song FDI đăng ký 6 tháng đầu năm vẫn đạt 10 tỷ USD và đã giải ngân được gần 5 tỷ USD; kiều hối cũng giảm không đáng kể; đặc biệt gần 2 tháng liên tục FII vào ròng, theo dõi một ngày 7 - 8 triệu USD; thị trường tín dụng không lâm vào tình trạng “đóng băng” như các nước mà đã sôi động, thị trường chứng khoán tuy chưa thực sự ổn định nhưng đã khởi sắc... Đây là tín hiệu rất tích cực cho thị trường. Riêng trong lĩnh vực ngân hàng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã triển khai , đề xuất những giải pháp để xử lý những diễn biến không thuận chiều của thị trường: chính sách tiền tệ, tỷ giá được điều hành linh hoạt không những vừa đảm bảo mục tiêu chống suy giảm kinh tế, kiềm chế lạm phát mà còn phải thực hiện mục tiêu ổn định thị trường tài chính, hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến sự bất ổn của thị trường tài chính Việt Nam. Đặc biệt là dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam có chiều hướng suy giảm qua các kênh đầu tư trực tiếp, gián tiếp, kiều hối, gây áp lực lên giá Việt Nam và căng thẳng về cung ngoại tệ. Trước những tín hiệu như vậy, NHNN đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, một mặt để chấn chỉnh kỷ luật thị trường ngoại hối do một thời gian dài buông lỏng, nên đã hạn chế được tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ gây căng thẳng giả tạo về nguồn ngoại tệ; đồng thời, xử lý linh hoạt, hài hòa mối quan hệ giữa lãi suất ngoại tệ và lãi suất VND để giảm sức ép về cầu mua ngoại tệ, tăng nhu cầu vay vốn bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp. Hơn nữa, NHNN đã lường trước được những tác động tiêu cực của gói giải pháp kích cầu, khi mà tín dụng ngân hàng có xu hướng tăng mạnh, Thống đốc NHNN đã chỉ đạo sát sao, đưa ra những giải pháp ứng phó kịp thời để ngăn chặn nguy cơ đó, như tăng cường thanh tra giám sát chất lượng cho vay hỗ trợ lãi suất; chỉ đạo các tổ chức tín dụng không hạ thấp điều kiện vay vốn, có kế hoạch tăng trưởng tín dụng ở mức hợp lý, đảm bảo hiệu quả cao, siết chặt hơn nữa kỷ luật tài chính. Kết quả trong những quý đầu năm , lãi suất ngoại tệ trên thị trường đã được các ngân hàng thương mại (NHTM) đưa xuống khá thấp so với thời gian trước. Lãi suất thấp một mặt kích thích nhu cầu vay ngoại tệ. Thể hiện rõ nhất là nếu như đến tháng 5, dư nợ cho vay ngoại tệ giảm 9,55% (so với cuối năm 2008), thì đến cuối tháng đã 7 tăng trở lại (tháng 7 tăng 1,2% so với tháng 6) và so với cuối năm 2008 chỉ còn giảm 2,32%. Mặt khác, lãi suất ngoại tệ thấp cũng khiến nhiều người dân, thay vì găm giữ ngoại tệ đã bán ngoại tệ lấy nội tệ gửi tiết kiệm. Hiện tượng găm giữ ngoại tệ của doanh nghiệp cũng đã giảm khá nhiều. Theo dõi những ngày qua, lượng ngoại tệ các doanh nghiệp đã bán khá nhiều. Điều đó cho thấy, các giải pháp đồng thời của NHNN đã phát huy tác dụng. Nhưng đó chỉ là những hiệu quả tạm thời và những tác dụng phụ của các gói kích cầu bắt đầu biểu hiện và nguy cơ lạm phát có thể quay trở lại ,và đặc biệt là chỉ số lạm phát tăng cao trở lại vào tháng 6/2009 với tỷ lệ 3,94% so với tháng 3/2009 và vào ngày 1.12 tại buổi họp báo thông báo nội dung phiên họp thường kỳ của Chính phủ, ngày 1.12, ông Nguyễn Xuân Phúc, chủ nhiệm văn phòng Chính phủ cho biết, Thủ tướng đã kết luận, quyết định 131/QĐ-TTg (hỗ trợ lãi suất cho vay ngắn hạn) dự định ban đầu sẽ thực hiện đến 31.3.2010 với mức hỗ trợ 2%, sẽ phải chấm dứt hiệu lực ngay vào 31.12.2009. Nguyên nhân do Chính phủ cho rằng, nó không còn phù hợp trước những diễn biến mới của nền kinh tế: tăng trưởng, dư nợ tín dụng lên cao. Riêng hai chính sách là quyết định 443 QĐ-TTg (hỗ trợ lãi suất cho vay dài hạn) và quyết định 497/QĐ-TTg (hỗ trợ lãi suất cho nông dân vay vốn mua máy móc phục vụ nông nghiệp và vật tư xây dựng nhà ở) sẽ tiếp tục duy trì thực hiện đến hết năm sau. Chính phủ tiếp tục cho phép thực hiện bảo lãnh cho vay với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành tập trung thực hiện mục tiêu: đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, không để tình trạng lạm phát trở lại, linh hoạt trong điều hành chính sách tỷ giá. Bộ Công thương cần tập trung đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu, xây dựng hàng rào kỹ thuật, nhưng không vi phạm quy định của WTO; ngân hàng Nhà nước quản lý việc kinh doanh các sàn vàng và quản lý ngoại tệ tốt hơn.  Đánh giá giải pháp 2.2.5.1 Năm 2007 Ngoài một số nguyên như thiên tai, đầu tư tràn lan một số công trình công không hiệu quả, nguyên nhân chính gây lạm phát cao tại Việt Nam là do bất cập trong định hướng chính sách đối ứng, cụ thể là chính sách tỷ giá, chính sách tài khóa . Trong tình hình lạm phát tăng nhanh giữa năm 2007 , chính phủ đã bỏ ra 1000 tỷ đồng để giảm thuế đối với hàng trăm mặt hàng , nhưng do không xác định đúng được nguyên nhân của lạm phát nên rõ rang giải pháp này không có tác dụng , và kết quả là giá cả vẫn leo thang vào những tháng tiếp theo Định hướng chính sách tỷ giá không phù hợp so với biến động của kinh tế thế giới dẫn đến kết quả là: (1) Lượng cung tiền tăng đột biến; (2) Chi phí cho sản xuất trong nước tăng cao. Đây là hai nguyên nhân chủ yếu dẫn tới lạm phát cao tại Việt Nam. - Giữ tỷ giá cứng nhắc với USD dẫn đến cung tiền tăng mạnh Kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế trẻ, được đánh giá có nhiều tiềm năng và triển vọng về cơ hội đầu tư, do vậy, sau khi gia nhập WTO, lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng đột biến (chỉ tính riêng năm 2007, đã tới 20 tỉ USD). Theo các nguyên tắc về kinh tế vĩ mô khi luồng vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam tăng, đồng Việt Nam (VND) sẽ lên giá để tạo ra điểm cân bằng. Tuy nhiên, với chiến lược phát triển dựa vào xuất khẩu, NHNN Việt Nam phát hành VND mua lại lượng ngoại tệ này với mục đích kìm tỉ giá của VND với đô la Mỹ (USD) thấp hơn điểm cân bằng nhằm nâng cao tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu về giá cả. Giữ VND yếu có thể coi là một hình thức trợ giá cho hàng xuất khẩu và phát huy ở trong những điều kiện kinh tế thế giới nhất định. Tuy nhiên, mặt trái thứ nhất của chính sách này là do phải tung VND ra mua lại lượng ngoại tệ chảy vào, lượng cung tiền của Việt Nam từ năm 2005 đến cuối năm , tăng tổng cộng 135%. Đây là mức tăng rất lớn, mặc dù NHNN đã có nỗ lực hút lại một phần cung tiền. -Giữ tỷ giá với USD đang mất giá mạnh trên toàn cầu khiến chi phí cho sản xuất trong nước tăng Trong vài năm gần đây, do thâm hụt thương mại khổng lồ, USD của Mỹ đã mất giá so với những đồng ngoại tệ mạnh khác. Cộng thêm vào đó, cuộc khủng hoảng tín dụng nhà đất tại Mỹ vào cuối năm 2007 khiến nền kinh tế này bước vào giai đoạn suy thoái, đẩy USD mất giá nhiều hơn nữa, giá xăng dầu tính theo USD tăng mạnh. Chỉ tính từ năm 2006 đến 2007 , USD đã mất giá trung bình khoảng 15% so với các đồng ngoại tệ mạnh khác như Euro, Yên Nhật, Bảng Anh, và Nhân dân tệ Trung Quốc. ( Hình 1 ) Tuy nhiên, tỷ giá của VND trong thời gian này hầu như không biến đổi so với USD (tính đến cuối tháng 2/2008, chỉ tăng 0,24% so với 2006). Do đó, qua việc neo tỉ giá, VND cũng giảm trung bình 15% so với các ngoại tệ mạnh khác. Chính sách VND yếu mặc dù có thể thúc đẩy xuất khẩu, nhưng đồng thời lại góp phần “nhập khẩu lạm phát” vào Việt Nam. Lí do là sản xuất tại Việt Nam hiện nay phụ thuộc rất lớn vào các nguyên vật liệu nhập khẩu như xăng dầu, xi măng, sắt thép, máy móc… Sự mất giá của USD hay nói cách khác là sự tăng giá thành của các mặt hàng nhập khẩu thiết yếu cho sản xuất tính bằng VND dưới chế độ tỷ giá neo là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chi phí sản xuất trong nước tăng, kéo theo giá cả hàng hóa tăng theo. Chi phí cho sản xuất tăng cao, lượng cung tiền lớn, do vậy, lạm phát cao là không tránh khỏi. Việc VND mất giá so với các ngoại tệ khác góp phần đáng kể vào việc tăng giá thành của hàng nhập khẩu, khiến cán cân thương mại bị thâm hụt lớn. Hình 1: Tăng giá của các ngoại tệ mạnh so với USD từ năm 2006 (Nguồn: Datastream) 2.2.5.2 Năm 2008 Như chúng ta đã biết từ tình hình lạm phát, nửa đầu năm 2008, tỉ lệ lạm phát luôn giữ ở mức rất cao nhưng cho đến những tháng cuối năm thì chỉ số giá tiêu dùng cũng như lạm phát đã có dấu hiệu hạ nhiệt. Biểu hiện cụ thể nhất là chỉ số CPI tháng 10, 11, 12-2008 là âm. Những tín hiệu này cho thấy các giải pháp của Chính phủ đã thành công bước đầu trong việc ngăn chặn đà tăng của…lạm..phát. Chúng ta sẽ xét đến hiệu quả của từng giải pháp trong gói giải pháp đã được đưa ra Đầu tiên, biện pháp được nhắc đến nhiều nhất là biện pháp thực hiện

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docktvm_bai_hoan_chinh_4168.doc
Tài liệu liên quan