Tài liệu Đề tài Lãi suất và tự do hoá lãi suất: mở đầu.
Lãi suất là một phạm trù kinh tế quan trọng được đề cập trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế từ tiết kiệm, đầu tư, kiểm soát lạm... Nhà nước sử dụng lãi suất làm công cụ của chính sách tiền tệ điều tiết các quan hệ kinh tế nhằm mục tiêu tăng trưởng phát triển. Do tầm quan trọng và cách thức tác động vào lãi suất của nhà nước hình thành nên nhiều quan điểm, xu hướngkhác nhau về lãi suất và điều hành lãi suất. Trong tập chuyên đề này sẽ tập trung vào phân tích hai định hương cơ bản của chính sách điều hành lãi suất là kiểm soát lãi suất và tự do hoá lãi suất. Kiểm soát lãi suất và cố gắng duy trì một cơ chế ấn định lã suất áp đặt vào thị trường. Đây là cong cụ mang tính hành chính.Tự do hoá lãi suất đề cao sự ưu việt của cơ chế thị trường trong việc hình thành lãi suất. Các công cụ phục phụ cho quà trình tiến tư do hoá cũng được đề cập tới ở mức độ nhất định.
Để tiếp tục cải cách chính sách lãi suất hướng tới mục tiêu lãi suất dựa trên cơ sở thị trường, chuyên đề phân tích...
45 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1132 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Lãi suất và tự do hoá lãi suất, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở đầu.
Lãi suất là một phạm trù kinh tế quan trọng được đề cập trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế từ tiết kiệm, đầu tư, kiểm soát lạm... Nhà nước sử dụng lãi suất làm công cụ của chính sách tiền tệ điều tiết các quan hệ kinh tế nhằm mục tiêu tăng trưởng phát triển. Do tầm quan trọng và cách thức tác động vào lãi suất của nhà nước hình thành nên nhiều quan điểm, xu hướngkhác nhau về lãi suất và điều hành lãi suất. Trong tập chuyên đề này sẽ tập trung vào phân tích hai định hương cơ bản của chính sách điều hành lãi suất là kiểm soát lãi suất và tự do hoá lãi suất. Kiểm soát lãi suất và cố gắng duy trì một cơ chế ấn định lã suất áp đặt vào thị trường. Đây là cong cụ mang tính hành chính.Tự do hoá lãi suất đề cao sự ưu việt của cơ chế thị trường trong việc hình thành lãi suất. Các công cụ phục phụ cho quà trình tiến tư do hoá cũng được đề cập tới ở mức độ nhất định.
Để tiếp tục cải cách chính sách lãi suất hướng tới mục tiêu lãi suất dựa trên cơ sở thị trường, chuyên đề phân tích thực trạng điều hành chính sách lãi suất thời gian qua ở Việt Nam. Việc phân tích sẽ đúc rút ra những ưu nhược điểm nhằm thực hiện triệt để hơn linh hoạt hơn vai trò của ngân hàng nhà nước và từ việc nghiên cứu thực trạng để đề ra những biện pháp hữu hiệu đẩy nhanh hơn quá trình hoà nhập của Việt Nam với mặt bằng lãi suất thế giới và theo thông lệ quốc tế.
Tôi mong muốn rằng, tập đề án này sẽ mang lại những hữu ích trong quá trình học tập và có thể góp phần nhỏ bé vào quá trình hoạch định chính sách, xây dựng các quy chế vận hành quản lý lãi suất của ngân hàng nhà nước ngày một tốt hơn.
chương i
lãi suất và tự do hoá lãi suất.
Lãi suất
Những khãi niệm về lãi suất
Lãi suất là giá của vốn, chi phí phải trả cho việc thuê vốn.
Trong nền kinh tế luôn có những chủ thể tạm thời dư thừa vốn, cùng lúc đó có những người có cơ hội đầu tư sinh lợi, cần vốn song lại thiếu vốn, thị trường tài chính ra đời làm thông suốt quá trình chuyển vốn từ người thừa vốn sang người cần vốn, các chủ thể qua quan hệ vay mượn tín dụng hoặc mua bán các công cụ nợ đều đạt được mục đích của mình; người thừa vốn vừa bảo đảm được vốn vừa thu được lợi, người thiếu vốn vừa dược đáp ứng đủ cho đàu tư. Từ thị trường đó, lãi suất được hình thành như giá cả của một loại hàng hoá(ở đây là vốn), nó là chi phí mà người đi vay phải trả cho người cho vay để được quyền sử dụng vốn, nó vận động tuân theo quy luật cung cầu, xác định trên cơ sở cân bằng giữa nhu cầu về vốn vá cung về vốn trên thị trường.
Như vậy, lãi suất chính là tín hiệu thị trường tham gia vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và phân bổ nguồn vốn một cách hợp lý.
ở trên là khái niệm lãi suất theo nguyên tắc thị trường, song lãi suất còn được hiểu là công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ của mỗi quốc gia, nó do ngân hàng trung ương - cơ quan thay mặt nhà nước thực thi chính sách tài chính tiền tệ - nắm giữ, và sử dụng nhằm điều chỉnh và can thiệp vào thị trường giúp hạn chế và khắc phục những yếu kém của nền kinh tế.
Ngoài ra khái niệm lãi suất như là chi phí cơ hội của việc giữ tiền cũng tương đối phổ biến.
Trong đời sống hàng ngày chúng ta cũng gặp rất nhiều loại lãi suất khác nhau như lãi suất các chứng khoán, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất danh nghĩa-lãi suất thực, lãi suất trần-sàn. Sự phân biệt các loại lãi suất này dựa trên sự liên quan đến vai trò công cụ của chính sách tiền tệ, chỉ số lạm phát hoặc kỳ hạn và rủi ro của mỗi loại chứng khoán. Tuy nhiên một điều quan trọng là hầu hết các loại lãi suất này đều diễn biến theo nhau. Vì vậy, nếu không ghi cụ thể gì khác thì thuật ngữ lãi suất đề cập trong tập chuyên đề này mang ý nghĩa phổ quát chung.
Cơ chế xác định lãi suất
Từ những khái niệm trên về lãi suất, ta có thể mô hình hoá những yếu tố tham gia vào việc hình thành nên lãi suất trong nền kinh tế.
NHTƯ
Tài chính gián tiếp
(NHTM)
Lãi suất
Tài chính trực tiếp
Lãi suất
Người đi vay
Người cho vay
NHTƯ
NHTM
Người cho vay
Người đi vay
Lãi suất
Dựa vào mô hình chúng ta thấy có hai nhóm lực lượng tham gia vào việc xác định lãi suất.
Những yếu tố thuộc lực lượng thị trường.
Thành phần thuộc nhóm này gồm :
* Người cho vay : những người dư thừa vốn.
* Người đi vay: những người cần vốn để kinh doanh, tiêu dùng.
* Các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính trung gian: những chủ thể tham gia vào thị trường tài chính, hoạt động tín dụng, huy động vốn để cho vay nhằm mục đích kinh doanh thu lợi nhuận. Họ có những vai trò, vị trí, lợi thế mà tài chính trực tiếp không có được.
Những thành phần này tham gia vào việc xác dịnh lãi suất tuân theo theo quy luật thị trường. Khi nhu cầu về vốn được đáp ứng bằng cung về vốn ở mức toàn dụng vốn thì lãi suất cân bằng được hình thành. Những biến động của các biến số kinh tế vĩ mô sẽ ảnh hưởng đến hành vi của các thành phần này, thay đổi cung cầu về vốn và lãi suất cân bằng được điều chỉnh cho phù hợp.
Lãi
suất Cung về vốn
Lscb
Cầu về vốn
Vốn
Nhóm yếu tố thuộc chính sách tiền tệ :
Thành phần: Duy nhất là NHTƯ. Cơ quan có nhiệm vụ phát hành tiền, quản lý hành chính hệ thống ngân hàng, vai trò người cho vay cuối cùng, xây dựng chính sách tiền tệ. Nó tác động đến lãi suất bằng các công cụ mang tính quyền lực nhà nước hoặc các công cụ mang tính thị trường.
NHTƯ sử dụng công cụ lãi suất để tác động vào lượng tiền cung ứng và các biến số kinh tế vĩ mô khác nhằm đạtđược các mục tiêu của chính sách tiền tệ:
* ổn định tiền tệ.
* Tạo việc làm.
* Tăng trưởng kinh tế.
Cách sử dụng công cụ lãi suất phụ thuộc vào chính sách điều hành lãi suất của NHTƯ ở mỗi giai đoạn khác nhau của nền kinh tế. Xây dựng chính sách lãi suất đúng đắn nhằm hướng dẫn phân bổ hợp lí nguồn vốn, huy động được tất cả các nguồn lực tiềm năng trong nền kinh tế, kích thích đầu tư, phù hợp tỷ giá và tạo thuận lợi cho hoạt động ngoại thương, mang lại đà phát triển vững mạnh cho nền kinh tế là một yêu cầu bức thiết luôn được đặt ra cho mỗi quốc gia cũng như các nhà hoạch định chính sách của nó.
Các học thuyết , nhgiên cứu về cơ chế điều hành lãi suất chỉ ra rằng, NHTƯcó thể trực tiếp hoặc gián tiếp tác động (qua hệ thốngNHTM) lên lãi suất.
Cơ chế tác động trực tiếp: NHTƯ sử dụng lãi suất với vai trò là một công cụ trực tiếp của chiính sách tiền tệ. NHTƯ với hành động mang tính chủ quan áp đặt một khung lãi suất, chênh lệch lãi suất tiền gửi- tiền vay hoặc trần- sàn lãi suất và buộc các tổ chức tín dụng phải tuân theo. Công cụ này mang tính cưỡng bức với sự đảm bảo bằng quyền lực nhà nước, đặc trưng của cơ chế kiểm soát lãi suất .
Cơ chế tác động gián tiếp: NHTƯ sử dụng công cụ gián tiếp- mang tính thị trường- của chính sách tiền tệ để tác động đến lãi suất thông qua hành vi của hệ thống ngân hàng.
Các công cụ đó là:
Dự trữ bắt buộc: dự trữ bắt buộc là công cụ của chính sách tiền tệ. Các ngân hàng thương mại được yêu cầu phải giữ lại một tỉ lệ phần trăm các khoản tiền gửi của họ dưới dạng dự trữ hoặc là bằng tiền mặt tại quỹ hoặc là bằng tiền gửi tại quỹ dự trữ của NHTƯ. Sự thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc có tác động mạnh mẽ lên khả năng cho vay của các tổ chức tín dụng và cho cả hệ thống tài chính.
Thí dụ, khi NHTƯmuốn kiềm chế lạm phát, họ có thể nâng tỉ lệ dự trữ bắt buộc, hạn chế khả năng mở rộng tín dụng ủa cá tổ chức tín dụng và buộc các ngân hàng thương mại phải nâng lãi suất cho vay. Ngược lại,khi NHTƯ muốn đẩy mạnh tăng trưởng, họ giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc do đó các tổ chức tín dụng có thể mở rộng tín dụng và hạ lãi suất cho vay.
Lãi suất tái chiết khấu: Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất NHTƯ cho các tổ chức tín dụng vay trên cơ sở những chứng từ có giá của ngân hàng thương mại. Đây là lãi suất phạt đối với ngân hàng thương mại khi thiếu hụt khả năng thanh toán. NHTƯ thông qua lãi suất tía chiết khấu tác động vào lãi suất thị trường.
Thí dụ, việc NHTƯ nâng lãi suất tái chiết khấu buộc các ngân hàng thương mại phải tăng dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán. Đồng thời ngân hàng thương mại cũng phải tăng lãi suất cho vay để bù đắp những chi phí cho những khoản tăng thêm dự trữ, do vậy mà lãi suất thị trường tăng lên. Ngược lại, việc giảm lãi suất tái chiết khấu của NHTƯ cho phép các ngân hàng thương mại giảm dự trữ và hạ lãi suất cho vay, do đó mà hạ lãi suất thị trường.
- Nghiệp vụ thị trường mở: nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua bán chứng khoán (thường là chứng khoán nhà nước) trên thị trường tiền tệ ngắn hạn. NHTƯ muốn đẩy mạnh tăng trưởng, mở rộng tín dụng, bằng cách mua vào các chứng khoán có giá làm cho cung về tiền tệ tăng lên, dẫn tới làm giảm lãi suất. Ngược lại, khi NHTƯ muốn thu hẹp tín dụng bằng cách bán ra các chứng khoán có giá làm cho cung tiền tệ giảm xuống dẫn tới tăng lãi suất trên thị trường tiền tệ.
Hợp đồng mua lại: hợp đồng mua lại là hợp đồng bán những chứng khoán, trong đó người bán cam kết sẽ mua lại chứng khoán này vào một thời điểm trong tương lai với mức giá được xác định trước trong hợp đồng. Như vậy, thực chất hợp đồng mua bán lại là hợp đồng cho vay có thế chấp, trong đó chứng khoán đóng vai trò thế chấp. Khi mua thế chấp (tức cho vay), NHTƯ bơm tiền vào thị trường tài chính và do vậy làm giảm lãi suất ngắn hạn. Khi bán thế chấp từ tài khoản của mình NHTƯ rút tiền ra khỏi thị trường tiền tệ và do đó tạo ra sức ép làm tăng lãi suất ngắn hạn.
Mối quan hệ giữa lãi suất và các biến số kinh tế vĩ mô khác
Lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ nhất trong nền kinh tế. Diễn biến của nó được đưa tin hầu như hàng ngày trên báo chí vì nó trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của mỗi người chúng ta và có những hệ quả quan trọng đối với sức khoẻ của nền kinh tế.
Nó tác động to lớn đối với việc tăng hoặc giảm khối lượng tiền lưu thông, thu hẹp hay mở rộng tín dụng, khích lệ hay hạn chế huy động vốn, kích thích hay cản trở đầu tư, tạo lợi nhuận hay khó khăn cho hoạt đọng ngân hàng.
Tóm lại, lãi suất là một phạm trù phức tạp có liên quan và tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới nhiều nền kinh tế vĩ mô khác.
Lãi suất và đầu tư.
Lượng cầu về hãng đầu tư phụ thuộc vào lãi suất, để một dự án đầu tư có lãi, lợi nhuận thu được phải cao hơn chi phí. Vì lãi suất phản ánh chi phí vốn để tài trợ cho đầu tư, việc tăng lãi suất làm giảm số lượng dự án đầu tư có lãi, bởi vậy nhu cầu về hãng đầu tư giảm do đó đầu tư tỷ lệ nghịch với lãi suất.
Lãi suất thực tế phản ánh chi phí thực sự của tiền vay do vậy chúng ta nhận định đầu tư phụ thuộc vào lãi suất thực tế chứ không phải lãi suất là lãi suất danh nghĩa. Mối quan hệ giữa lãi suất thực tế (r) và đầu tư có thể biểu thị bằng phương trình sau: I = I(r).
Phương trình này hàm ý đầu tư phụ thuộc vào lãi suất.
r
I = I(r)
0 lượng đầu tư I
Đồ thị biểu thị hàm đầu tư, nó dốc xuống vì khi lãi suất tăng lượng cầu về đầu tư giảm.
Mặt khác kinh tế học Macxit trong phân tích về tư bản cho vay và chỉ rõ rằng:
lãi suất < tỷ suất lợi nhuận bình quân trong xã hội
Nếu mối quan hệ này bị vi phạm lợi ích của người đi vay sản xuất không được giải quyết thoả đáng sẽ làm giảm ý muốn đầu tư sản xuất, không mở rộng được quy mô, tốc độ phát triển của nền kinh tế. Đồng thời người ta thích gửi tiền hơn và hình thành một lớp người thực lợi, sống vào lãi suất tiết kiệm.
Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm.
Thu nhập của cá nhân bao giờ cũng được chia làm hai phần là tiêu dùng và tiết kiệm. Hành vi tiết kiệm với kỳ vọng phòng ngừa rủi ro, mở rộng sản xuất, tích luỹ và tiêu dùng trong tương lai chính là cung về vốn vay trong nền kinh tế.
Tiêu dùng là một hàm phụ thuộc vào thu nhập khả dụng. ở mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh, sự thắt chặt hay nới lỏng của chính sách thuế mà ngân sách dành cho chi tiêu bị tác động. Tiết kiệm bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố như thu nhập, tập quán tiết kiệm và lãi suất. Khi lãi suất tăng làm tăng ý muốn tiết kiệm và sự sẵn sàng chi tiêu giảm xuống.
Tiết kiệm là một hàm phụ thuộc thuận vào lãi suất : S =S (r) .
r
Khi lãi suất tăng người
dân sẽ tích cực tiết kiệm hơn.
S = S(r).
0 S
Lãi suất và lạm pháp :
Lạm pháp là sự tăng lên liên tục của mức giá, là hiện tượng mất giá của đồng tiền. Lý luận và thực tiễn đã thừa nhận mối quan hệ chặt chẽ giữ lãi suất và lạm phát. Fisher chỉ ra rằng lãi suất tăng cao trong thời kỳ lạm phát cao. Có nhiều nguyên nhân gây nên lạm phát và cũng có nhiều biện pháp để kiểm soát lạm phát, trong đó công cụ lãi suất là một giải pháp công hiệu khá nhanh.
Trong thời kỳ lạm pháp, tăng lãi suất sẽ cho phép hệ thống ngân hàng có thể thu hút phần lớn số tiền có trong lưu thông khiến cho đồng tiền trong lưu thông giảm; cơ số tiền và lượng tiền cung ứng giảm, lạm phát được kiềm chế.
Lãi suất và tỷ giá
Lãi suất và tỷ giá có mối quan hệ chặt chẽ hữu cơ với nhau. Đây là hai công cụ song hàng quan trọng của chính sách tiền tệ, việc cải cách chính sách điều hành ngân hàng hai yếu tố này đòi hỏi phải được tiền hành đồng thời. Trong điều kiện một nền kinh tế mở, với nguồn được tự do vận động, nếu lãi suất trong nước tăng lên nguồn vốn nước ngoài sẽ đổ vào đẩy cầu nội tệ lên cao, với mức cung tiền nhất định tỷ giá sẽ bị nâng lên ảnh hưởng đến hoạt động ngoại thương của quốc gia. Ngược lại, khi lãi suất giảm xuống, vốn trong nước khoác áo ra đi làm cho cầu ngoại tệ cao tỷ giá tụt xuống.
Lãi suất với cầu tiền
Tiền là một loại tài sản, cũng là một cách mà mỗi người sử dụng cho việc tích sản của mình. Nhu cầu về tiền phụ thuộc nhiều yếu tố trong đó có thu nhập và lãi suất. Khi thu nhập tăng, theo lý thuyết lượng cầu tài sản, nhu cầu nắm giữ tiền của dân chúng tăng lên. Người ta cần nhiều tiền hơn cho chi tiêu. Lãi suất như đã đề cập từ đầu là chi phí cơ hội cho việc giữ tiền. Vì vậy khi lãi suất tăng người ta ít có ý muốn nắm giữ tiền hơn mà chuyển sang mua các loại chứng khoán hoặc gửi tiết kiệm để thu lợi. Cầu tiền tỷ lệ nghịch với lãi suất.
Tự do hoá lãi suất
Khái niệm về tự do hoá lãi suất
Tự do hoá lãi suất xuất phát từ những cơ chế điều hành chính sách lãi suất và sử dụng công cụ lãi suất trong chính sách tiền tệ.
Như phần đầu của chuyên đề đã nêu ra ,NHTW có thể tác động vào lãi suất theo trong hai cách sau:
* Dùng qui định hành chính.
* Dùng tác động kinh tế .
ở nhiều nước, NHTW đã không còn quản lý lãi suất bằng các công cụ hành chính mà chủ yếu sử dụng công cụ kinh tế là lãi suất cho vay của NHTW đối với ngân hàng thương mại. Cùng với sự phát triển cao của hệ thống tài chính ngân hàng quốc tế, quan điểm về điều hành chính sách lãi suất theo cơ chế tự do hoá lãi suất tác động bằng công cụ thị trường tới lãi suất như của:Anh, Mỹ là mục tiêu mà các quốc gia đều hướng tới. Tự do hoá lãi suất -hạt nhân của tự do hoá tài chính -là để cho lãi suất tự hình thành thị trườngtrên cơ sở: cung cầu về vốn; mức tiết kiệm; thu nhập và chi tiêu của cá nhân và những nhân tố khác; loại bỏ những áp đặt mang tính hành chính nên quá trình hình thành lãi suất; cho phép các tổ chức tín dụng tự chủ trong việc ấn định các mức lãi suất. NHTW chỉ gián tiếp tác động lên lãi suất thông qua các công cụ có tính định hướng, dấu hiệu cho thị trường là các công cụ công cụ tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, hợp đồng mua lại và dự trữ bắt buộc.
Nó ngược với những quan điểm về điều hành chính sách lãi suất một cách cứng nhắc thông qua các biện pháp ấn định lãi suất chủ quan, làm mất đi những tính năng ưu việt của lãi suất. Cơ chế này được gọi là cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp.
Làn sóng tự do hóa lãi suất bắt đầu vào những thập kỷ 80- 90.Vậy nguyên nhân từ đâu ?
Những bất lợi của cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp.
Trước hết phải thừa nhận rằng, kiểm soát trực tiếp lãi suất có một số ưu điểm và thuận lợi sau:
* Dễ thực hiện.
* Phù hợp với mức thị trường tài chính sơ khai và mức độ canh tranh kém.
* Chưa có công cụ kiểm soát tiêng tệ gián tiếp.
* Hạn chế trong năng lực quản lý.
* Nguồn vốn tín dụng từ NHTW chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của nền kinh tế. Nhưng đối với nền kinh tế chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và với quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra nhanh chóng, thì không thể duy trì lâu cách kiểm soát lãi suất. Kiểm soát lãi suất tỏ ra kém hiệu quả do dễ bị các tổ chức tín dụng lẩn tránh, khả năng cạnh tranh thấp, dẫn đến suy giảm chức năng tài chính của hệ thống ngân hàng.
Kiểm soát lãi suất dẫn đến suy giảm chức năng trung gian tài chính của hệ thống ngân hàng:
Nguồn tiết kiệm và tích luỹ sẽ chảy ra thị trường tài chính phi tổ chức và không bị quản lý chúng biểu hiện dưới dạng :
* Ngân hàng kiểu chính sách tăng lên.
* Cho vay qua thị trường không chính thức.
* Nắm giữ ngoại tệ, tích luỹ kim loại quí hàng lâu bền.
Kiểm soát lãi suất kém hiệu quả trong việc điều hành chính sách tiền tệ:
Kiểm soát lãi suất sẽ khuyến kích kiểm soát chi tiết các chi điều kiện tiền tệ bằng cách áp đặt cơ cấu lãi suất phức tạp như tồn tại nhiều loại trần lãi suất cho vay gây kém hiệu quả và biến dạng hơn.Việc kiểm soát lãi suất sẽ giảm hiệu quả của việc kiểm soát tiền tệ, bởi vì sự gia tăng và mở rộng của các thị trường ngoài thị trường được kiểm soát. Các tổ chức kinh tế và ngân hàng thương mại thừơng tìm cách để tránh sự kiểm soát, do đó ngày càng nhiều hoạt động kinh tế diễn ra ngoài tài chính chính thức, các ngân hàng thương mại cố gắng tìm cách tránh sự kiểm soát của ngân hàng trung ương bằng cách tạo ra các sản phẩm mới hoặc các kỹ thuật tài trợ mà nằm ngoài tầm kiểm soát hoặc phạm vi quy định trần lãi suất. Trong thực tế, khi các công cụ này bị các ngân hàng lẩn tránh thì các mục tiêu của chính sách tiền tệ sẽ không thể thực hiện được.
Kiểm soát lãi suất không có lợi cho cạnh tranh:
Các tổ chức tín dụng kém hiệu quả có thể được bảo vệ từ sức ép của tự do cạnh trnh khiến cho quá trình giải quyết khó khăn của họ tồn tại kéo dài. Những khó khăn lớn gắn với sự kiểm soát lãi suất là vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Những vấn đề này khi trở nên nghiêm trọng, thì các doanh nghiệp lành mạnh và các doanh nghiệp tư nhân mới sẽ bị loại khỏi thị trường tín dụng, bởi vì không sẵn sàng trả mức giá cao như các doanh nghiệp đang gặp khó khăn.
Tại sao phải tự do hoá lãi suất.
Bất kỳ cơ cấu lãi suất dựa trên cơ sở thị trường nào cân bằng được cung cầu tiền tệ và tín dụng trên thị trường tiền tệ và toàn bộ nền kinh tế thì bản thân nó đã là một cơ chế kiểm soát tiền tệ hiệu quả nhất và giảm đáng kể sự cần thiết phải dựa vào bất kỳ công cụ kiểm soát nào khác. Lãi suất do thị trường tự do xác định mang lại những thuận lợi sau:
+ Đảm bảo điều chỉnh tự động và tức thì, do đó giảm rủi ro đối với những sai lầm về chính sách.
+ Truyền tải các tín hiệu chính sách và tác động tới tất cả các bộ phận của nền kinh tế.
+ Đảm bảo việc phân bổ tiền tệ và tín dụng tối ưu trên cơ sở lãi suất, mức độ rủi ro tương đối và lợi nhuận thu được.
+ Đảm bảo nhất quán giữa chính sách tiền tệ, ngân sách và tỷ giá.
+ Làm cho áp lực thị trường tiền tệ thể hiện rõ tức thì.
+ Hỗ trợ và bổ sung cho việc quản lý tỷ giá hối đoái.
+ Làm giảm sự nhạy cảm chính trị đối với những thay đổi lãi suất.
+ Cho phép NHTƯ rút về sau thị trường mà không mất khả năng kiểm soát.
Trên đây là những thuận lợi của lãi suất tự do hoá, song cơ sở lý luận của quá trình tiến hành tự do hoá là nhữg điểm trình bày dưới đây:
+ ở đây, lãi suất tự do hoá, biến động theo cung cầu thị trường về vốn có ý nghĩa phân bổ nguồn vốn khan hiếm cho những người vay cạnh tranh nhau, đáp ứng nhu cầu của họ và có hiệu quả nhất; đồng thời có tác dụng thu hút tiền gửi từ các nguồn lực trong nền kinh tế với chi phí hợp lý nhất được cả ngân hàng và người gửi chấp nhận. Có thể nói rằng lập luận phân bổ nguồn vốn hiệu quả là trung tâm của vấn đề. Điều này không thể thực hiện trong điều kiện lãi suất bị kiểm soát hành chính, làm cho các hoạt đọng đầu tư bị biến dạng. Lãi suất được tự do hoá sẽ linh hoạt hơn so với khi bị kiểm soát, có khả năng điều tiết, thích nghi với điều kiện thay đổi, tạo sự kích thích cho tăng trưởng tài chính, cải tiến và thay đổi cơ cấu mà chính phủ hoặc là không thể quản lý hoặc là chậm thu được kết quả.
+ Tự do hoá lãi suất cũng suất phát từ một thực tế là không một chính phủ hay một NHTƯ nào có đủ khả năng để phân bổ và kiểm soát sự phân bổ nguồn vốn một cách có hiệu quả cho hàng ngàn nhu cầu sử dụng vốn khác nhau. Những tranh cãi về lời giải cho bài toán lãi suất bởi cơ chế kiểm soát lãi suất đặt ra nhu một váan đề không thống nhất được giữa ý kiến của các tầng lớp khác nhau. Để giảm thiểu những tranh luận này, cách tốt nhất là để lãi suất do thị trường quyết định, tức là tự do hoá, tự do hoá lãi suất cũng buộc NHTƯ phải thay đổi cách làm việc, tư duy và đặc biệt là thay đổi các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, chủ yếu dựa vào các công cụ gián tiếp để khống chế lãi suất.
+ Trên thế giới đang diễn ra quá trình toà cầu hoá nhanh chóng mà toàn cầu hoá tài chính là điển hình nhất của quá trình này. Trong lĩnh vực kinh tế, theo nhiều nhà kinh tế, thì kẻ thù lớn nhất của chúng ta chính là toàn cầu hoá. Trong quá trình này, nhờ những phát triển vượt bậc của công nghệ và những nỗ lực của các nước đang phát triển cạnh tranh thu hút các nguồn vốn quốc tế, các luồng vốn quốc tế đã chảy từ nước này qua nước khác tự do hơn rất nhiều. Nói chung, lợi ích của toàn cầu hoá là rất lớn mà mỗi quốc gia phải nắm lấy, không thể bỏ qua. Trong lĩnh vực tài chính, toàn cầu cầu hoá đặt ra những cơ hội và thách thức mới, trong đó một thách thức lớn là việc làm xói mòn và giảm hiệu quả của việc kiểm soát tiền tệ bằng các công cụ trực tiếp, như các quy định trần sàn lãi suất; thay vào đó để đảm bảo kiểm soát tiền tệ các nước dần chuyển sang thực hiện công cụ kiểm soát lãi suất gián tiếp như nghiệp vụ thị trường mở, tái chiết khấu, hợp đồng mua lại..., tức là các công cụ định hướng thị trường để đảm bảo hội nhập thành công trong lĩnh vực tài chính, trước hết lãi suất phải được tự do hoá.
+ Tự do hoá lái suất là một bộ phận cơ bản của tự do hoá tài chính. Chủ thuyết Mc Kinnon- Shaw (1973) đã đi tới kết luận là các nước phát đang phát triển cần tránh can thiệp và chỉ đạo trên thị trường tài chính, thực hiện tự do hoá thị trường tài chính để chúng tự phản ứng theo các lực lượng thị trường. Chủ thuyết này phản đối cơ chế kiềm chế tài chính. Theo Mc Kinnon thì cơ chế kiềm chế tài chính được đặc trưng bởi những bóp méo do chính sách trong hệ thống tài chính quốc gia. Những chính sách kiềm chế tài chính bao gồm: quy định trần lãi suất dưới mức lãi suất thị trường, xác định hạn mức tín dụng, quyđịnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao và quản lý vốn để ngăn chặn các đồng tiền ra. Mc Kinnon và Shaw còn giải thích những động cơ để thực hiện các chính sách này là: khuyến khích đầu tư vào khu vực ưu tiên cũng như làm giảm các chi phí tài trợ cho thâm hụt ngân sách.
Biểu hiện của một nền kinh tế có cơ chế kiềm chế tài chính là: huy đọng vốn chủ yếu và sự thiếu hụt vốn; phân bổ vốn không hiệu quả, sự tồn tại của thị trường tài chính phi chính thức. Khi kết luận Shaw nhấn mạnh:” khu vực tài chính của một nền kinh tế có vai trò trong phát triển kinh tế. Nếu nó bị kiềm chế và bó méo, nó có thể ngăn cản và phá hoại những động lực cho sự phát triển.
Như vậy những hạn chế của cơ chế tài chính bị kiềm chế tạo ra những cơ sở cho sự phát triển của cơ chế tài chính mang tính tự do hơn. Tự do hoá cho phép hệ thống ngân hàng tự chủ hơn và điều đó dẫn đến lãi suất tiền gửi và tiền vay cao hơn. Những thay đổi như vậy trong lĩnh vực tài chính sẽ tác động đến các doanh nghiệp và các hộ gia đình, khiến họ thay đổi hành vi tiết kiệm và đàu tư của mình theo hướng có lợi cho tăng trưởng kinh tế. Tăng lãi suất tiền gửi sẽ làm tăng tỷ lệ tiết kiệm nội địa, thay thế được nguồn vốn đi vay nước ngoài để tài trợ cho đầu tư. Nguồn vốn tiết kiệm được truyền tải qua hệ thống tải qua hệ thống tài chính ngân hàng chính thức , mà không phải qua thị trường tiền tệ không chính thức. Tiết kiệm trong nước tăng lên và mức lãi suất thực cao làm mở rộng đầu tư và tăng hiệu quả đầu tư.Kết quả tạo ra một tỷ lệ tăng trưởng rộng hơn.
Quan điểm tự do hoá lãi suất đối với việc kích thích tiết kiệm nội địa ở trên còn rất nhiều tranh cãi và ý kiến khác nhau.Trong khi đó vai trò của tự do hoá lãi suất mang lại sự cải thiện việc phan bổ tín dụng và cải thiện hiệu quả đầu tư lại được thống nhất cao. Điều này là rất cơ bản để đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưỏng bền vững.
Những hạn chế của việc tự do hoá lãi suất đối với các nước đang phát triển
Tự do hoá lãi suất là mục tiêu của chính sách tiền tệ, song với các quốc gia đang phát triển việc ngay lập tức từ thái cực này - kiềm chế sang thái cực khác - tự do là một việc làm không khả thi. Tự do hoá lãi suất cần có một trình tự bước đi hợp lý , nếu không sẽ gây ra những đổ vỡ to lớn cho nền kinh tế.
Nguyên nhân của việc cần có một bước trung gian là:
Thứ nhất, những thuận lợi do tự do hoá lãi suất mang lại là rất cơ bản , nhưng cũng tồn tại những trường hợp mà ở đó tự do hoá lãi suất không được thực hiện tốt vai trò của mình, như:
Các nước đang phát triển luôn phải đối mặt với hệ thống tài chính còn kém phát triển và tình trạng thiếu thông tin về thị trường tài chính , các sản phẩm tài chính. Do đó để tự do hoá lãi suất làm tròn chức năng của mình thì thị trường tài chính cần được củng cố và phát triển. Hơn nữa trong nền kinh tế, thị trường tín dụng không phải lúc nào cũng đủ nhanh để điều chỉnh cân bằng cung cầu thị trường khi điều kiện thay đổi, và tình trạng mất cân bằng vẫn là phổ biến của các nên kinh tế đang phát triển.
Tự do hoá lãi suất sẽ kém hiệu quả nếu áp đặt vào hệ thống tài chính quá nhiều các mục tiêu quốc gia. ở các nước đang phát triển những chính sách ưu đãi và tạo điều kiện lại luôn cần phải.
Thứ hai, các công cụ kiểm soát tiền tệ gián tiếp như lãi suất tái triết khấu còn chưa có để thay thế cho vai trò cuả lãi suất trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Do đó, công cụ kiểm soát lãi suất vẫn được coi là một công cụ duy nhất và khả thi để thực hiện chính sách tiền tệ.
Thứ ba, các nước đang phát triển có nền tảng kinh tế vĩ mô chưa thực sự vững chắc đủ để chịu những áp lực của việc tự do hoá lãi suất hoàn toàn: chúng có thể làm mất ổn định vĩ mô qua việc tăng lạm phát, nợ nước ngoài và làm suy giảm tăng trưởng kinh tế.
kinh nghiệm thế giới trong việc thực hiện tự do hoá lãi suất.
Sự ra đời của lý thuyết tự do hoá tài chính mà một trong những nội dung cơ bản là tự do hoá lãi suất đã tạo ra trào lưu tự do hoá lãi suất trên thế giới. Bên cạnh một số nước đã thực hiện thành công như Đài Loan, Singapore, lại có hàng loạt nước đã rơi vào khủng hoảng như Phillipine, Chille, Achentina.....Tuy nhiên, tự do hoá lãi suất vẫn là mục tiêu cần đạt tới, không chỉ vì những ưu điểm lý thuyết của nó, mà là tính hiệu quả của các nền kinh tế thị trường phát triển ở đó lãi suất dược tự do hoá .
Kiểm soát lãi suất rất phổ biến ở hầu hết các nước châu á trước những năm 80. Những hạn chế thường áp đặt dưới dạng quy định trần lãi suất đối với tiền gửi và cho vay của các ngân hàng thương mại ;các tổ chức tài chính phi ngân hàng ít chịu các hạn chế này hơn. Việc áp đặt này là nhằm mục đích cung cấp vốn với chi phí thấp để khuyến khích đầu tư, đặc biệt là những lĩnh vực ưu tiên và để tránh tình trạng lãi suất tăng quá mức, điều được coi là rất khó chấp nhận về mặt chính trị và xã hội.
Tuy nhiên, việc kiểm soát như vậy đã làm giảm vai trò trung gian tài chính của các ngân hàng khi những người tiết kiệm và những nhà đầu tư tìm cách khác ngoài thị trường tài chính chính thức. Do vậy, thị trường ngoài kiểm soát và trung gian phi ngân hàng phát triển mạnh dẫn đến sự kém hiệu quả trong kiểm soát tiền tệ của Ngân hàng Trung ương. Cơ chế kiềm chế này hạn chế việc chuyển tải vốn tới các hoạt động có hiệu quả nhất, làm méo mó và ngăn cản sự phát triển của thị trường tài chính.
Trong những năm 80-90, các nước châu á đã thực hiện sự thay đổi quan trọng, bắt đầu thi hành chính sách tự do hoá lãi suất trong chính sách tiền tệ. Tuy vậy, mức độ thành công của các quốc gia khác nhau lại không giống nhau thậm chí gây hiệu quả tiêu cực. Câu trả lời nằm trong cách thức và tiến trình tự do hoá. Đến lượt mình, cách thức và tiến trình tự do hoá lại phụ thuộc vào xuất phát điểm của mỗi nước (mức độ kiểm soát tài chính , đặc điểm và tính chất hệ thống tài chính , khả năng và trình độ quản lý của các cấp quản lý vĩ mô...) , vào điều kiện quốc tế trong tưng giai đoạn tự do hoá ( xu hướng chung về cải cách tài chính, quyền lợi và mâu thuẫn của các cường quốc tài chính , trạng thái tài chính quốc tế như khủng hoảng, suy thoái hay đang phát triển ).
Kinh nghiệm của các nước cho thấy khi tự do hoá lãi suất trong một môi trường không có kiểm soát cùng với một thị trường tài chính không hoàn hảo và độc quyền, lãi suất thực đã tăng lên mức rất cao. Sự tăng lên như vậy không những không khuyến khích đầu tư và làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế, mà còn dẫn đến phá sản của hàng loạt doanh nghiệp, sau đó gây ra khủng hoảng trong hệ thống tài chính, và làm trầm trọng hơn tình trạng bất ổn vĩ mô. Đồng thời việc loại bỏ kiểm soát cán cân vốn trong bối cảnh kinh tế vĩ mô bất ổn lại làm cho lãi suất tăng lên hơn nữa do có những dự đoán tiếp tục phá giá bản tệ. Giảm giá mạnh bản tệ làm cho các luồng vốn nước ngoài đổ vào nhiều hơn, làm tăng áp lực lạm phát và làm giảm hiệu quả của việc kiểm soát tiền tệ.
Cho nên, những tác động bên trong và bên ngoài đòi hỏi tự do hoá tài chính phải rất thận trọng, bất kỳ sự nhảy vọt nào từ cực này sang cực kia đều dẫn tới khủng hoảng và tình trạng vô chính phủ. Tự do hoá phải tiến hành từng bước, gắn liền với đổi mới kinh tế , với tự do hoá các lĩnh vực khác, với củng cố hành lang pháp lý, nhận thức của nhân dân , trình độ quản lý nền kinh tế và cả với thói quen và truyền thống của dân tộc.
Chương ii
Thực trạng chính sách lãi suất của Việt Nam
Bối cảnh chung
Năm 1988 là năm mở đầu thời kì chuyển hướng từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Với cơ chế kinh tế mới, tất cả các tổ chức kinh tế được tự chủ về tài chính, sản xuất, kinh doanh và tung ra hoạt động theo cơ chế thị trường.
Phối hợp với xu hướng của hệ thống ngân hàng Việt Nam bắt đầu chuyển đổi. Đặc trưng của quá trình này là: Tách hệ thống ngân hàng từ một cấp sang hai cấp.
Ngân hàng nhà nước ( NHNN ): Thực hiện nhiệm vụ phát hành tiền, quản lý vĩ mô hoạt động ngân hàng.
Hệ thống ngân hàng thương mại: Kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ tín dụng.
Sự chuyển đổi diễn ra 3 năm 1988 – 1990 song chưa có những chuyển biến rõ nét, vẫn mang dáng dấp ngân hàng thời bao cấp. Trong giai đoạn này, sự đổ vỡ hàng loạt các quỹ tín dụng nhân dân đã gây cho nền kinh tế những tổn thất lớn. Nhưng cũng từ đó chúng ta đã có những bài học kinh nghiệm quý báu và tiếp tục kiên trì con đường đôỉ mới.
Từ năm 1990 đến nay là giai doạn đổi mới và phát triển hệ thống ngân hàng. Hệ thống ngân hàng Việt Nam chuyển hướng nhanh để hoà nhập nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Trong năm 1990, hai pháp lệnh hoạt động ngân hàng được ban hành trong đó khẳng định:
Vị trí chức năng của ngân hàng nhà nước: Là ngân hàng trung ương, cơ quan ngang bộ thuộc chính phủ, thay mặt nhà nước thực thi chính sách tiền tệ; làm nhiệm vụ quản lý hành chính đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng. Xác lập rõ quan hệ giữa ngân hàng nhà nước và ngân sách là quan hệ vay trả chứ không phải là quan hệ cấp phát.
Hệ thống ngân hàng thương mại: Kinh doanh tiền tệ và tương đối độc lập với ngân hàng nhà nước trong hoạt động kinh doanh.
Chính sách tiền tệ bắt đầu được hình thành:
Trong thời kì bao cấp, lượng tiền phát hành là bao nhiêu, phục vụ mục đích gì đều do chính phủ quyết định. Nhưng do suy thoái kinh tế, ngân sách quốc gia bị thâm hụt. Nhằm bù đắp vào những khoản chi tiêu ngân sách, nhà nước tăng lượng tiền phát hành vào lưu thông dẫn đến nạn lạm phát phi mã, nền kinh tế lâm vào khủng hoảng. Do vậy không thể duy trì cơ chế này.
Năm 1991 ngân hàng nhà nước Việt Nam bắt tay vào xây dựng chính sách tiền tệ với mục tiêu ổn định đồng tiền Việt Nam, tăng trưởng kinh tế. Việc xác định lượng tiền cung ứng hàng năm phục vụ hai mục tiêu đó sao cho lượng tiền cung ứng đủ, vừa đảm bảo phương tiện lưu thông sản xuất không bị ách tắc vừa kiềm chế lạm phát.
Kết quả được minh hoạ qua bảng sau :
Năm
1989
1990
1991
1992
1993
1994
Chỉ số lạm phát
34.7%
67.5%
68%
17.5%
5.2%
14.4%
Chỉ số phát triển kinh tế
6.8%
5.1%
6%
8.3%
8%
8.5-9%
Hệ thống các tổ chức tín dụng phát triển đa thành phần theo pháp lệnh ngân hàng và hoạt động ngày càng có hiệu quả. Hệ thống ngân hàng thương mại QD đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống các tổ chức tín dụng. Hoạt động kinh doanh tiền tệ, vàng bạc đá quý ngày càng được mở rộng.
Sau khi tổng kết và đánh giá đến tháng 10/1998, hai pháp lệnh ngân hàng cũ đã được thay thế bằng hai luật ngân hàng mới. Luật ngân hàng nhà nước và luật các tổ chức tín dụng và ngân hàng đã được xây dựng trên cơ sở kế thừa hai pháp lệnh và phản ánh kịp thời những thay đổi lớn lao trong lĩnh vực ngân hàng.
Các giai đoạn thực hiện chính sách lãi suất ở Việt Nam :
Trước tháng 3/1989:
Là thời kì điều hành theo cơ chế lãi suất âm
Tuy từng thời gian ngân hàng nhà nước có điều chỉnh lãi suất, nhưng do lạm phát phi mã, lãi suất luôn trong tình trạng âm. Điều này có nghĩa là:
Lãi suất tiền gửi thấp hơn mức lạm phát.
Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động và thấp hơn mức lạm phát.
Hệ thống lãi suất âm có nhiều tiêu cực :
Khả năng huy động vốn đi với yêu cầu rút bớt tiền lưu thông, giảm bớt áp lực của tiền đối với giá của hàng hoá bị hạn chế nhiều.
Nhu cầu vay vốn tăng lên không thực chất, tạo lợi nhuận giả tạo cho các doanh nghiệp.
Ngân hàng bao cấp qua lãi suất cho khách hàng, tạo lỗ không đáng có cho ngân hàng, ngân hàng không thể kinh doanh tiền tệ bình thường theo cơ chế thị trường.
Không có tác dụng khuyến khích khu vực dân cư gửi tiền tiết kiệm vào hệ thống ngân hàng, họ tăng nắm giữ vàng bạc và ngoại tệ. Ngân hàng thiếu vốn, lợi nhuận thấp nên không có khả năng cho vay ra nền kinh tế.
Năm
1986
1987
Lãi suất thực
- 6,6%
- 5,8%
Từ tháng 3/1989:
Ngân hàng nhà nước đã chủ động sử dụng công cụ lãi suất, chuyển từ lãi suất âm qua lãi suất dương. Để thu hút tiền trong lưu thông và kiềm chế được lạm phát, tránh bao cấp qua lãi suất, ngân hàng nhà nước đã nâng lãi suất huy động lên một mức rất cao trong một thời gian ngắn (lãi suất tiết kiệm không kì hạn 9%/tháng – tức là 109%/năm ; Lãi suất tiết kiệm 3 tháng 12%/tháng – túc là 144%/năm).
Nhờ vậy đã :
Thu hút một khối lượng lớn tiền trong lưu thông, tăng nguồn vốn tín dụng, gỉm lạm phát, kích thích tăng trưởng phát triển.
Chuyển lãi suất âm qua lãi suất dương, tức là lãi suất tiền gửi cao hơn lạm phát, lãi suất cho vay cao hơn lãi suất huy động, xử lý hài hoà lợi ích người gửi tiền người vay vốn và tổ chức tín dụng.
Hệ thống lãi suất còn phức tạp, còn nhiều mức lãi suất tiền gửi và tiền vay: Đối với ngành kinh tế (công, nông, thương nghiệp) có mức lãi suất riêng ; Đối với các thành phần kinh tế (quốc doanh, ngoài quốc doanh) còn phân biệt lãi suất.
Mức thực dương phi thực tế (năm 1991 – lãi suất thực 25,6% ; năm 1992 – 17,9%) đã kích thích nạn đầu cơ tiền tệ, khan hiếm tiền mặt trong lưu thông và làm tê liệt hoạt động tín dụng đầu tư phát triển.
Từ 1/10/1993:
Ngân hàng nhà nước vừa áp dụng lãi suất trần (cho vay) vừa áp dụng lãi suất thoả thuận.
Trần : Cho vay doanh nghiệp nhà nước 1,8%/tháng ; Kinh tế ngoài quốc doanh 2,1%/tháng.
Thoả thuận : Trường hợp ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vay theo lãi suất quy định phải phát hành kì phiếu với lãi suất cao hơn thì được áp dụng lãi suất thoả thuận.
Trên thực tế khoảng 30-60% tổng dư nợ lúc bấy giờ là từ các khoản cho vay bằng lãi suất thoả thuận mà các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nông dân với lãi suất 2,3-3,5%/tháng. Với cơ chế lãi suất thoả thuận, có thể hiểu là đủ tự do hoá một phần lãi suất, hoặc đó là cơ chế cho vay với lãi suất cứng đi đôi với một biên độ dao động nhất định.
Từ cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận, các ngân hàng thương mại đã cho vay theo lãi suất khá cao với doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nông dân. Điều đó cũng nói lên một tất yếu khách quan la lãi suất đã theo nhu cầu vốn ở nông thôn lớn hơn và chi phí hoạt động ngân hàng ở nông thôn cao thì lãi suất cho vay sẽ cao hơn các khu vực khác.
Thời kì cho vay theo lãi suất thoả thuận, các ngân hàng đạt được mức chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động rất cao, phổ biến là từ 0,7 – 1%/tháng, cho nên hầu hết các ngân hàng thương mại đều có mức lợi nhuận cao trong khi các doanh nghiệp và hộ nông dân lại gặp khó khăn về tài chính. Từ thực trạng này, quốc hội khoá IX, kì họp thứ 8 tháng 10/1995 đã thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu hoạt động tín dụng ngân hàng, đồng thời khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động 0,35%/tháng.
Đây là duyên cớ để ra đời cơ chế lãi suất trần hoàn toàn và bãi bỏ lãi suất cho vay thoả thuận từ 01/01/1996.
Từ 01/01/1996:
Trên cơ sở nghị quyết của quốc hội về mức chênh lệch lãi suất 0,35%/tháng, nên ngân hàng nhà nước đã quyết định điều hành chính sách lãi suất theo trần lãi suất nhằm khống chế lãi suất cho vay tối đa và các ngân hàng thương mại chỉ được hưởng chênh lệch 0,35%/tháng bao gồm cả chi phí, thuế, lợi nhuận thay cho việc quy định các mức lãi suất tiền gửi cụ thể và xoá bỏ lãi suất cho vay thoả thuận. Chính sách điều hành lãi suất vừa quy định trần lãi suất vừa khống chế chênh lệch 0,35%/tháng nên có quan điểm cho rằng thực chất của nó là vừa quy định trần vừa quy định sàn lãi suất.
Trần lãi suất cho vay được quy định thành nhiều mức khác nhau, xuất phát từ đặc điểm có nhiều loại hình tổ chức tín dụng hoạt động trên các địa bàn khác nhau, cung cầu vốn khác nhau, quy, mô khác nhau và do đó chi phí khác nhau, nên quy định nhiều mức trần lãi suất cho vay khác nhau, lúc đầu có 4 trần :
Trần lãi suất cho vay ngắn hạn : Là lãi suất thấp nhất áp dụng cho khu vực thành thị.
Trần lãi suất cho vay trung dài hạn : Cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn một chút do thời hạn dài dễ gặp rủi ro.
Trần lãi suất cho vay trên địa bàn nông thôn : Cao hơn trần lãi suất ngắn hạn và trung dài hạn do điều kiện hoạt động ở địa bàn nông thôn khó khăn hơn thành thị.
Trần lãi suất của quỹ tín dụng đối với các thành viên : Là trần lãi suất cao nhất do quỹ tín dụng mới lập thí điểm, quy mô nhỏ lẻ, chi phí hoạt động cao.
Ưu điểm:
Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa của các tổ chức tín dụng không ngừng giảm theo cùng sự giảm về tỷ lệ lạm phát.
Lãi suất cho vay trung dài hạn giảm nhưng tăng tương đối so với lãi suất ngắn hạn, tăng dần và dẫn đến cao hơn so với lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa, phù hợp dần với thông lệ quốc tế và nguyên lý chung.
Các quyết đinh đảm bảo được cả 3 lợi ích : Nền kinh tế quốc dân, tổ chức tín dụng và người gửi tiền.
Việc quy định chênh lệch lãi suất đã thúc đẩy các tổ chức tín dụng đi vào cạnh tranh trong kinh doanh tiền tệ. Thay vì sự quy định từng loại lãi suất cụ thể như trước đây, ngân hàng nhà nước chỉ khống chế mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay bình quân và lãi suất huy động bình quân, các tổ chức tín dụng được tự chủ trong việc ấn định các mức lãi suất huy động cụ thể.
Chính sách lãi suất này đã kích thích hoạt động tín dụng phát triển, tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, góp phần thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Hạn chế:
Việc ấn định mức chênh lệch lãi suất 0,35%/tháng gây khó khăn cho hoạt động của ngân hàng và các biện pháp để giám sát sự thực hiện quy định này là hầu như không có.
Trần lãi suất cho vay nông thôn cao hơn thành thị tạo động lực cho các ngân hàng thương mại mở rộng hoạt động song lại bị cản trở trong việc thực hiện chính sách ưu đãi nông nghiệp, khuyến khích nông nghiệp phát triển.
Từ 21/01/1998 đến 08/2000:
Tại kì họp thứ hai, tháng 12/1997 quốc hội khoá IX cho phép bỏ mức chênh lệch 0,35%/tháng, đồng thời để thu hẹp sự cách biệt giữa mức lãi suất cho vay giữa thành thị và nông thôn, ngân hàng nhà nước với quyết định số 39/1998_QĐ_NHNH1, quy định các mức lãi suất mới, rút từ 4 trần xuống còn 3 trần và khoảng cách giữa các trần cũng không còn xa nhau như trước.
Trần lãi suất cho vay ngắn hạn 1,2%/tháng.
Trần lãi suất cho vay trung dài hạn 1,25%/tháng.
Trần lãi suất cho vay quỹ tín dụng cho vay các thành viên 1,5%/tháng.
Việc quản lý lãi suất theo trên có những ưu điểm sau:
Trong phạm vi trần, các tổ chức tín dụng được tự do hoá ấn định mức lãi suất cho vay tiền gửi cụ thể, linh hoạt, phù hợp điều kiện kinh doanh, thực hiện điều kiện kinh doanh, thực hiện cạnh tranh lành mạnh, từng bước tự do hoá lãi suất.
Phù hợp với đặc điểm, chi phí hoạt động ngân hàng ở các vùng khác nhau.
Tạo mặt bằng chung về lãi suất trong cả nước, xoá bỏ lãi suất thoả thuận, vượt quá xa mức lãi suất do ngân hàng nhà nước quy định.
Có trần khống chế sẽ bảo vệ lợi ích người vay, tổ chức tín dụng và người gửi tiền.
Đảm bảo vai trò quản lý của ngân hàng nhà nước về lãi suất trong giai đoạn đầu của thị trường tiền tệ mới hình thành trong nền kinh tế thị trường.
Lãi suất tiền gửi được hoàn toàn tự do.
Tuy nhiên, quản lý theo trần lãi suất là cách quản lý hành chính trong giai đoạn nền kinh tế thị trường còn sơ khai, chưa phát huy được hết mặt tích cực, nhạy cảm của nó. Lợi dụng mức khống chế "cứng" nhiều tổ chức tín dụng cho vayngay theo mức tối đa, đụng trần lãi suất để tối đa hoá lợi nhuận. Nó ít linh hoạt, không được điều chỉnh theo quan hệ cung cầu vốn và điều kiện khó khăn thuận lợi của từng vùng.
Từ 8/2000 đến nay :
Đang thực hiện điều hành chính sách lãi suất bằng công cụ lãi suất cơ bản.
Ngày 02/08/2000 thống đốc ngân hàng nhà nước đã ban hành các quyết định về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất có hiệu lực thi hành từ ngày 05/08/2000.
Quyết định số 241/2000_QĐ_NHNH1 về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
Quyết định số 242/2000_QĐ_NHNH1 công bố lãi suất cơ bản làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam đối voứi khách hàng.
Quyết định số 243/2000_QĐ_NHNH1 công bố biên độ lãi suất đô la Mỹ làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ.
Quyết định số 244/2000_QĐ_NHNH1 về việc cung cấp thông tin tham khảo về lãi suất của các ngân hàng thương mại cho ngân hàng nhà nước.
Đây chính là giai đoạn cụ thể hoá những quyết sách chiến lược đã được nêu ra trong trong luật ngân hàng nhà nước, khoản 2 điều 19 xác định "lãi suất cơ bản là lãi suất do ngân hàng nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định làm lãi suất kinh doanh" ; Điều 18 quy định "ngân hàng nhà nước xác định và công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn".
Việc chuyển hướng này có nhiều lí do, song về cơ bản là bởi lãi suất trần đã trở thành một công cụ chỉ còn tính hình thức, xơ cứng mất hết tác dụng đối với nền kinh tế. Nền tảng kinh tế vĩ mô trong nước chưa cho phép thực hiện tự do hoá lãi suất, do vậy thực hiện chính sách lãi suất theo lãi suất cơ bản là bước chuyển giao từ việc điều hành hành chính sang việc để thị trường xác định và nhà nước chỉ tác động qua các công cụ kinh tế.
Nội dung chủ yếu của cơ chế điều hành lãi suất mới :
Lãi suất cơ bản được hình thành trên cơ sở nguyên tắc thị trường nhưng với bước đi thích hợp thận trọng, phù hợp với điều kiện thực tế của thị trường tiền tệ ; từng bước tiến tới tự do hoá lãi suất, quốc tế hoá hoạt động tài chính trong nước, đồng thời với các biện pháp phát triển thị trường tiền tệ và nâng cao năng lực điều hành của các tổ chức tín dụng, xử lý lãi suất đồng Việt Nam trong mối quan hệ với lãi suất ngoại tệ và chính sách tỷ giá, quản lý ngoại hối. Cụ thể là:
Đối với lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam : Ngân hàng nhà nước bãi bỏ quy định trần lãi suất cho vay của tổ chức tín dụng với khách hàng, chuyển sang xác định và công bố lãi suất cơ bản và tỷ lệ biên độ %, dựa trên việc tham khảo lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường các ngân hàng thương mại áp dụng với khách hàng vay có uy tín trong việc sử dụng vốn vay, trả nợ, có rủi ro thấp.
Lãi suất cho vay và huy động của tổ chức tín dụng gắn với lãi suất cơ bản. Theo đó lãi suất cho vay của tổ chức tín dụng cao nhất = lãi suất cơ bản + tỷ lệ %. Lãi suất cơ bản và biên độ được công bố hàng tháng, trường hợp cần thiết ngân hàng nhà nước sẽ công bố điều chỉnh kịp thời, tại thời điểm hiện nay là:
Lãi suất cơ bản là 0,73%/tháng.
Biên độ trên đối với lãi suất cho vay ngắn hạn là 0,3%/tháng.
Biên độ trên đối với lãi suất cho vay trung và dài hạn là 0,5%/tháng.
Với lãi suất cơ bản và biên độ như trên là phù hợp với mặt bằng lãi suất đã và đang được hình thành trên thị trường nông thôn và thầnh thị hiện nay, không tác động làm thay đổi lãi suất thị trường và không tạo ra tâm lý về việc ngân hàng nhà nước Việt Nam tăng trần lãi suất.
Đối với lãi suất cho vay bằng đồng ngoại tệ :
Cho vay bằng đồng đô la Mỹ : Bỏ việc quy định trần lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại đối với khách hàng, chuyển sang cơ chế lãi suất linh hoạt phù hợp với thị trường quốc tế nhưng vẫn còn sự kiểm soát của nhà nước, cụ thể là lãi suất cho vay ngắn hạn ( từ 1 năm trở xuống ) không vượt quá mức SIBOR (lãi suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng Singapore ) kì hạn 3 tháng + 1%/năm ; lãi suất cho vay dài hạn ( từ 1 năm trở lên ) không vượt quá mức SIBOR kì hạn 6 tháng + 2,5%/năm.
Cho vay bằng ngoại tệ khác : Do chiếm tỷ trọng nhỏ trong hoạt động tiền gửi và tín dụng trên thị trường nên cho phép các ngân hàng thương mại tự xem xét quyết định lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay của các loại ngoại tệ này trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung – cầu vốn tín dụng của từng loại ngoại tệ ở trong nước.
Việc cung cấp thông tin tham khảo của các ngân hàng thương mại cho ngân hàng nhà nước về lãi suất, bao gồm: ngân hàng ngoại thương Việt Nam, ngân hàng công thương Việt Nam, ngân hàng Đầu tư và phát triển, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, ngân hàng thương mại cổ phần á châu, ngân hàng thương mại và cổ phần quân đội, ngân hàng ANZ, ngân hàng HSBC và ngân hàng VID PUBLIC.
Để xác định đúng đắn mức lãi suất cơ bản, quá trình xác định cần phải quán triệt các yêu cầu:
Từng bước tự do hoá lãi suất nhưng vẫn đảm bảo được sự kiểm soát của nhà nước đối với thị trường, phù hợp với mục tiêu và diễn biến kinh tế vĩ mô, tiến trình cải cách doanh nghiệp nhà nước, điều kiện thực tế thị trường tiền tệ trong nước và hạn chế đến mức tối đa rủi ro và tác động xấu của biến động thị trường tiền tệ thế giới.
Phù hợp với mức độ hội nhập thị trường tài chính khu vực và quỗc tế, lãi suất trong nước cần theo sát lãi suất thị trường quốc tế, nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc quá trình tự do hoá lãi suất của các nước từ đó áp dụng cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
Như vậy, so với cơ chế trần lãi suất tín dụng, cơ chế lãi suất cơ bản có một số ưu việt sau:
Nền tảng thị trường đã được đưa vào cơ chế xác định lãi suất cơ bản .
Môi trường cho việc ấn định lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng được mở rộng tạo khuôn khổ linh hoạt cho các tổ chức tín dụng khi áp dụng lãi suất.
Tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng và khách hàng gửi, vay vốn có thể thoả thuận để lựa chọn lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi có điều chỉnh, có lợi cho các bên khuyến khích tổ chức tín dụng mở rộng huy động vốn và cho vay trung và dài hạn.
Làm cho mối quan hệ giữa lãi suất VND – tỷ giá lãi suất ngoại tệ linh hoạt hơn, phản ánh được chính xác hơn cung – cầu vốn, ngoại tệ tạo cơ sở cho ngân hàng nhà nước khi cần thiết có thể can thiệp để ổn định thị trường.
Tuy đã có yếu tố thị trường, song lãi suất cơ bản là mức lãi suất được ngân hàng nhà nước ổn định một cách hành chính. Do vậy, chuyển sang cơ chế tự do hoá lãi suất là một mục tiêu cần tích cực nỗ lực để đạt tới.
iii. những đánh giá trong điều hành chính sách lãi suất thời gian qua :
Từ năm 1986 đến nay, ngân hàng nhà nước đã có những bước thay đổi về điều hành lãi suất trong nền kinh tế để đảm bảo cho chính sách lãi suất phù hợp với định hướng phát triển kinh tế xã hội của Đảng, Chính phủ trong mỗi thời kì.
Gần 15 năm đổi mới hoạt động ngân hàng, chính sách lãi suất đối với nền kinh tế đã có nhiều đổi mới tiến dần đến một chính sách lãi suất theo thị trường, cụ thể:
Chuyển từ lãi suất qua lãi suất dương, xoá bỏ bao cấp qua lãi suất.
Thực hiện lãi suất cho vay trung và dài hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn theo thông lệ quốc tế và phù hợp với rủi ro do thời hạn.
Rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa lãi suất cho vay nội tệ và ngoại tệ phù hợp chính sách quản lý ngoại hối và lãi suất trên thị trường quốc tế.
Từ việc quy định lãi suất cụ thể, ngân hàng nhà nước với việc công bố trần lãi suất đã thực hiện ở một mức độ nhất định ( so với trần ) sự tự do hoá lãi suất tiền gửi và tiền vay.
Nhờ những quyết sách đúng đắn về điều hành lãi suất, mối quan hệ 3 bên giữa người gửi, người vay, tổ chức tín dụng được giải quyết hài hoà. Nguồn vốn huy động được ngày càng tăng trưởng, lạm phát kiềm chế ở mức thấp, hoạt động tín dụng ngân hàng diễn ra nhộn nhịp hơn.
Tuy nhiên, trong điều hành chính sách lãi suất cũng bộc lộ nhiều tồn tại, cụ thể là:
Có thời kỳ mức lãi suất dương phi thực tế đã khiến các doanh nghiệp phải lao đao vì khoản nợ ngân hàng.
Việc quy định mức chênh lệch 0,35%/tháng tạo nên sự gò bó, cứng nhắc trong hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng.
Ngoài những tồn tại trên ứng với mỗi giai đoạn cụ thể, còn có những tồn tại xuyên suốt cả quá trình điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước:
áp đặt mệnh lệnh hành chính để điều hành các tổ chức tín dụng, không phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế thị trường.
Việc xác định mức trần lãi suất chưa được tiến hành một cách khoa học:
Cơ sở xác định mức trần lãi suất không đủ: Chỉ căn cứ vào lãi suất huy động và dự kiến mức phí của các tổ chức tín dụng.
Liên tục điều chỉnh mức trần lãi suất.
Mối liên hệ giữa lạm phát, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Lợi nhuận bình quân của khách hàng không hợp lý.
Đáng lẽ mối quan hệ phải đảm bảo:
Lạm phát < lãi suất tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn <lợi nhuận bình quân.
Thì với cách điều hành chính sách lãi suất hiện nay, mối quan hệ này có xu hướng:
Lạm phát < lợi nhuận bình quân <lãi suất tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
Chương iii
giải pháp nhằm chuyển sang tự do hoá lãi Suất ở việt nam
Những cản trở chưa cho phép Việt Nam tự do hoá lãi suất:
Quá trình cải cánh hệ thống tài chính ở Việt Nam đã đưa chính sách lãi suất tiệm cận với thị trường hơn, sự cần thiết và xu hướng quốc tế hoá buộc Việt Nam phải chuyển sang cơ chế tự do hoá lãi suất. Nhưng ở thời điểm này, đề án tự do hoá lãi suất chưa khả thi ở Việt Nam vì những yếu tố sau:
Thứ nhất, cũng như các nước đang phát triển bước đầu chuyển sang cơ chế thi trường, Việt Nam sẽ gặp những hạn chế chung như các kinh nghiệm của các nước đã được đề cập ở chương I của chuyên đề này. Đó là những khó khăn cơ bản nên ngay bây giờ khi các điều kiện tiền đề chưa cho phép nếu chúng ta thực hiện tự do hoá lãi suất thì tổn hại cho nền kinh tế sẽ rất nghiêm trọng. Ngoài ra, Việt Nam còn có những khó khăn đặc thù riêng.
Thứ hai, phân tích thực trạng Việt Nam cho thấy khả năng chống đỡ của khu vực sản xuất hiện nay đối với việc tăng lãi xuất thực rất thấp, tính thụ động của hệ thống Ngân hàng đối với môi trường kinh tế còn ở mức cao trong một cơ chế lãi suất mở – chỉ có trần lãi suất tín dụng – nhưng hầu như các tổ chức tín dụng vẫn không tự điều chỉnh lãi suất kinh doanh theo diễn biến giảm phát liên tục của nền kinh tế năm 1999, mà thường chỉ điều chỉnh khi Ngân hàng nhà nước can thiệp và hầu như cho vay ở mức kịch trần, thậm chí còn vượt trần bằng cách tăng các chi phí lãi suất. Trong khi đó, việc nới lỏng dần hoạt động quản lí lãi suất hướng tới tự do hoá có khuynh hướng làm tăng lãi suất thực trong nước, khiến luồng vốn quốc tế đổ vào. Đồng nội tệ bị lên giá cộng với gánh nặng lãi suất sẽ gây khó khăn cho khu vực doanh nghiệp và khu vực Ngân hàng và sự chạy trốn của các luồng tư bản là kết quả cuối cùng của quá trình này nếu sự tự do hoá tài khoản vốn được thực hiện.
Thứ ba, thị trường tài chính của nước ta – nơi mà từ đó lãi suất thị trường được hình thành và là nơi điều tiết vốn – còn kém phát triển. Thị trường tiền tệ vẫn trong giai đoạn quá độ với trình độ hết sức sơ khai. Tham khảo một số tài liệu của IMF, thuộc chương trình ESAF dành cho Việt Nam ( giai đoạn 2 ) qua mấy năm đổi mới, chỉ số phát triển chiều sâu tài chính ( Financial deeping ) của Việt Nam vẫn ở xu hướng giảm và còn thấp. Chỉ số M2/GDP chỉ là 12,5% so với mức bình quân trên 60% của nhiều nước đang phát triển; chỉ số Mo/tiền gửi Ngân hàng còn cao là 61,2%, trong khi khối các nước ASEAN phổ biến chỉ khoảng 12% - có nghĩa là trong lúc mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế (Monetization) ( điều quyết định kích cỡ thị trường tiền tệ ) còn rất thấp thì chủng loại “hàng hoá” cho mọi giao dịch vốn, tiền tệ ( liên quan đến kết cấu tiền tệ, bán tiền tệ, các công cụ tiền tệ ngắn hạn ... ) còn hết sức nghèo nàn, phương thức giao dịch còn thô sơ và mức độ rủi ro tiền tệ còn lớn. Đặc trưng của thị trường tiền tệ Việt Nam là các quan hệ cung cầu vốn, tiền tệ hình thành một cách hết sức khó khăn diễn ra không bình thường.
Thị trường vốn, mới hình thành một trung tâm giao dịch chứng khoán ở thành phố Hồ Chí Minh tháng 8 năm 2000. lưu lượng vốn giao dịch theo thống kê đến tháng 1 năm 2001 mới có 40 tỷ đồng Việt Nam. Tình trạng đóng băng của trung tâm này thời gian gần đây cùng với sự nghèo nàn hàng hoá niêm yết chưa cho phép nó trở thành một cửa ngõ quan trọng để các doanh nghiệp có thể huy động được vốn.
Chúng ta đã có thị trường Liên Ngân hàng, tuy nhiên hoạt động của thị trường này hiện nay đang ở trình độ thấp, quy mô nhỏ.
Và một số tồn tại sau đang cản trở những bước hội nhập trong tiến trình tự do hoá:
Nền tảng kinh tế vĩ mô vẫn chưa ổn định: nguy cơ lạm phát vẫn còn tiềm ẩn ( lạm phát tăng từ 3,6% năm 1991 lên 9,2% năm 1999 ); ngân sách vẫn còn căng thẳng: tích luỹ nội địa thấp, vốn đầu tư còn thiếu và phụ thuộc khá lớn vào vốn đầu tư nước ngoài ( đến 50%).
Xuất phát điểm của nền kinh tế ở mức quá thấp.
Khu vực sản xuất ( nhất là khu vực nhà nước) hoạt động kém hiệu quả, đang trong giai đoạn chấn chỉnh, sắp xếp, cổ phần hoá ...
Hiện nay, các công cụ tài chính như thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác để thực hiện nghiệp vụ tái chiết khấu, chiết khấu chưa được phổ biến. Luật thương mại đã có những điều khoản quy định về thương phiếu song lại thiếu những văn bản hướng dẫn thực hiện cho nên từ đó đến nay chưa có sự sử dụng thương phiếu để thanh toán. Nghiệp vụ tái cấp vốn của ngân hàngnhà nước chưa thực hiện đúng nội dung kinh tế của nó, chủ yếu còn mang tính chất cho vay trực tiếp, chưa thể thực hiện được tinh thần “người cho vay cuối cùng”. Do đó công cụ lãi suất tái chiết khấu chưa đủ sức mạnh chi phối lãi suất thị trường.
Nghiệp vụ thị trường mới chưa ra đời cũng gây khó khăn cho việc điều tiết cung ứng tiền và lãi suất.
Hệ thống Ngân hàng thương mại, nhất là các Ngân hàng thương mại cổ phần vẫn còn yếu kém: vốn nhỏ, trình độ quản lý, đội ngũ cán bộ còn bất cập so vớiđòi hỏi khách quan.
Tình hình kinh tế, tài chính các nước trong khu vực và trên thế giới, sau cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế năm 1997 đang phải đối đầu với nhiều khó khăn thách thức.
Trình độ quản lý nền kinh tế của các cơ quan vĩ mô trong những năm qua đã có nhiều bước tiến khá dài, nhưng so với yêu cầu đặt ra vẫn chưa thể đáp ứng ngay được.
Tóm lại, để tự do hoá lãi suất ở Việt Nam hiện nay là chưa có đủ điều kiện. Đó là một quá trình cần có một sự chuẩn bị cân nhắc cẩn thận trình tự từng bước đi, sao cho có thể tự do hoá được dần dần đạt tới và hạn chế những tác động ngược mà nó có thể gây ra.
Giải pháp chuyển sang tự do hoá lãi suất:
Thiết kế và đưa vào sử dụng các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ:
1.1/ Dự trữ bắt buộc:
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần phải áp dụng thống nhất đối với tất cả các tổ chức và mọi loại tài sản nợ. Việc không tuân thủ cần bị xử phạt nghiêm khắc thông qua việc áp dụng mức lãi suất phạt cao trên số thiếu hụt bình quân cả kỳ. Ngân hàng Trung ương phải có quyền quy định cách thức tính toán và loại tài sản nợ cũng như loại hình tổ chức áp dụng dự trữ bắt buộc.
Cùng với xu thế chung của thế giới, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần được giảm thấp hơn, nên xem xét việc trả lãi toàn phần hay một phần do dự trữ bắt buộc vượt quá mức nhất định.
1.2/ Lãi suất tái chiết khấu và tái cấp vốn:
Cần hợp nhất các thể thức tái cấp vốn thành một thể thức với một lãi suất cho vay tái cấp vốn duy nhất. Thường cần có một thể thức chiết khấu chung để cung cấp vốn khả dụng cho thị trường và ngăn chặn biến động quá mức của lãi suất ngắn hạn, đặc biệt là lãi suất liên ngân hàng. Thể thức này cần áp dụng thống nhất với mọi ngân hàng và cho phép được vay tự động với các quy tắc và hạn mức quy định trước.
Đối với thể thức tái chiết khấu, biến số chủ chốt là lãi suất chiết khấu. Nếu không có thị trường tiền tệ phát triển thì có thể quy định lãi suất này theo cách hành chính. Một số Ngân hàng Trung ương tổ chức đấu giá tín dụng của Ngân hàng Trung ương để xác định lãi suất chiết khấu. Quy tắc căn bản là phải luôn giữ lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất tiền gửi để buộc các Ngân hàng phải huy động tiền gửi trước khi vay vốn của Ngân hàng Trung ương. Ngay khi có thể, cần đặt lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất tham chiếu tiêu chuẩn của thị trường tiền tệ.
1.3/ Nghiệp vụ thị trường mở:
Hoạt động thị trường mở đòi hỏi phải có thị trường thứ cấp với khối lượng giao dịch lớn. Để thực hiện nghiệp vụ này, cả Ngân hàng Trung ương và Ngân hàng thương mại cần phải nắm giữ và sẵn sàng nắm giữ trái phiếu. Nếu không có thị trường chứng khoán thứ cấp sôi động, thì trên thực tế, các Ngân hàng Trung ương sẽ bị hạn chế và khả năng sử dụng thị trường mở một cách có hiệu quả trên thị trường sơ cấp. Điển hình là các nghiệp vụ đó bao gồm đấu thầu chứng khoán được phát hành mới để thu hút tiền dự trữ hoặc đấu thầu tín dụng của Ngân hàng Trung ương để cung ứng tiền dự trữ. Để thu hút lượng vốn thanh khoản dư thừa, thì thị trường mở được sử dụng phổ biến là phát hành chứng khoán mới của Ngân hàng Trung ương hoặc của Kho bạc.
Xây dựng thị trường tiền tệ và thị trường vốn:
Điều hành chính sách tiền tệ bằng các công cụ gián tiếp, tự do hoá lãi suất đòi hỏi phải có thị trường tiền tệ hoặc thị trường liên ngân hàng tốt để truyền tải những biến số chính sách và lãi suất. Do vậy, cần phải thiết lập những thị trường này có khả năng hình thành nên lãi suất thị trường, cho phép Ngân hàng Trung ương can thiệp để thực hiện chính sách tiền tệ và Ngân hàng thương mại có cơ chế quản lý vốn khả dụng dôi dư một cách tích cực.
Phát triển thị trường Liên ngân hàng theo hướng để các Ngân hàng thương mại đủ tiêu chuẩn tham gia thị trường tự do giao dịch, trao đổi tiền Trung ương với nhau. Ngân hàng Nhà nước chỉ can thiệp với tư cách người cho vay cuối cùng và lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước phải căn cứ vào điều kiện thị trường, dần dần hình thành cặp lãi suất chỉ đạo gồm lãi suất chiết khấu và lãi suất cho vay lưu phiếu ( thế chấp tín phiếu, hối phiếu ... ).
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cần nhanh chóng thoả thuận với kho bạc Nhà nước tổ chức ngay việc đấu giá tín phiếu kho bạc theo hình thức ghi sổ, để các Ngân hàng thương mại có công cụ trao đổi, thế chấp nhằm phát triển các hoạt động thị trường của họ và từ đó Ngân hàng Nhà nước có thể xây dựng thị trường tiền tệ và sử dụng tín phiếu kho bạc trong nghiệp vụ thị trường mở để điều tiết thị trường.
Mặt khác, chúng ta cần củng cố các Ngân hàng thương mại, nhất là các Ngân hàng thương mại quốc doanh để chúng trở thành những đối tác tin cậy trên thị trường tiền tệ, trên cơ sở đó các chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu Ngân hàng do các Ngân hàng phát hành mới có tính chuyển nhượng cao và trở thành công cụ được giao dịch trên thị trường.
Muốn mở rộng quy mô và tính sôi động của thị trường tiền tệ cần phải có mức độ tiền tệ hoá ( Monetization) cao. Chúng ta chỉ thực hiện được điều này khi kiểm soát được lạm phát, nâng cao chỉ số phát triển chiều sâu về tài chính (Financial deeping) bằng cách tăng chỉ số M2/GDP và giảm chỉ số Mo/Tiền gửi Ngân hàng.
Đa dạng hoá chủng loại “hàng hoá” cho mọi giao dịch vốn, tiền tệ trên thị trường tiền tệ. Ban hành những văn bản hướng dẫn thanh toán qua thương phiếu được quy định trong luật thương mại. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế tái chiết khấu các giấy tờ thương mại có giá ngắn hạn theo thông lệ quốc tế.
Sự có mặt của thị trường tiền tệ sẽ đóng góp hữu ích vào việc xây dựng và củng cố bầu không khí lành mạnh và an toàn hoạt động của các Ngân hàng. Mối lo âu thường xuyên của các Ngân hàng, tổ chức tín dụng về khả năng thanh khoản của mình sẽ được giải toả, các nguồn tiền sẽ được sử dụng đúng mức và hiệu quả hơn. Kết quả là các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng được cung cấp nhiều vốn với “giá” phải chăng hơn trước đây.
Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi một nguồn vốn trung hạn và dài hạn lớn. Với phương châm dựa vào nguồn vốn nội lực là chính, thị trường chứng khoán ra đời tạo thêm một kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế. Để thị trường này hoạt động có hiệu quả cần thiết ban hành những văn bản pháp quy phù hợp, triển khai hệ thống thông tin điện tử hiện đại bảo đảm các giao dịch được kịp thời. Vấn đề tạo hàng hoá và chủ thể tham gia thị trường này gắn liền với tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp. Trong những năm tới, số lượng các doanh nghiệp cần cổ phần hoá lên tới 2000 – 3000 doanh nghiệp. Song càng về sau quá trình này diễn ra chậm chạp hơn do quy mô các doanh nghiệp lớn hơn. Nhà nước nên có những ưu đãi ban đầu đối với những doanh nghiệp vừa tiến hành cổ phần.
Cải cách hơn nữa hệ thống ngân hàng:
Ngân hàng Trung ương phải tiếp tục củng cố và phát huy vai trò điều hành chính sách tiền tệ của mình. Với việc sử dụng các công cụ và cơ chế thị trường để can thiệp, Ngân hàng Trung ương cần phải có được thông tin cập nhật và tiếp xúc thường xuyên với thị trường. Điều này đòi hỏi phải có sự thay đổi trong phương thức hoạt động của Ngân hàng Trung ương, chuyển từ theo dõi thụ động và định kì việc tuân thủ các quy định bắt buộc sang tham gia một cách tích cực và thường xuyên. Việc theo dõi hàng ngày các diễn biến và tỉ giá, lãi suất và vốn khả dụng trên thị trường tiền tệ sẽ cho biết thời điểm có sự căng thẳng trên thị trường và mức độ can thiệp. Ngân hàng Trung ương có thể can thiệp khi cần thiết trên thị trường tiền tệ hoặc ngoại hối một cách công khai hoặc gián tiếp thông qua các đại lý.
Cần có sự phân chia quyền lực hợp lý giữa các bộ phận ra quyết định, cơ cấu lại tổ chức của Ngân hàng Trung ương - đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các vụ chuyên môn. Hệ thống kế toán cũng cần được hợp lý hoá và hiện đại hoá để cung cấp các thông tin cập nhật cần thiết để quản lý ngắn hạn các hạng mục chủ yếu trên bảng cân đối của Ngân hàng Trung ương.
Ngoài Ngân hàng Trung ương, cũng cần phải có những thay đổi trong hệ thống Ngân hàng nói chung. Điểm xuất phát để cải tổ hệ thống Ngân hàng là phải đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản trị của các ngân hàng và việc gia tăng các yếu tố vật chất chỉ được thực hiện trên cơ sở chất lượng quản trị. Đồng thời, việc quản lý hệ thống ngân hàng phải theo hướng hỗ trợ các ngành kinh doanh có hiệu quả, không phải theo hướng nuôi dưỡng các ngân hàng yếu kém.
Trước hết của việc cải tổ là phải bắt đầu từ nhân sự, tức là các nhà quản trị ngân hàng. Để có những nhà quản trị giỏi, trước hết phải có cơ chế lựa chọn và đào thải. Tiêu chuẩn trước hết để lựa chọn một nhà quản trị ngân hàng là chất lượng công việc và tính sáng tạo, đương nhiên phải trên cơ sở đạo đức nghề nghiệp. Mặt khác, cần có cơ chế sàng lọc bao gồm: thay thế người có năng lực hơn, thay đổi vị trí đánh giá lại. Một nhà quản trị có thể bị thay thế trong các trường hợp sau: năng lực quản trị yếu, phạm những sai lầm nghiêm trọng trong quản trị và cạn kiệt các ý tưởng mới trong quản trị làm ảnh hưởng đến sự phát triển ngân hàng.
Mở rộng quyền tự chủ của ngân hàng trong kinh doanh phải gắn liền với hệ thống kiểm soát chặt chẽ. Chính sách của Ngân hàng Trung ương đối với các Ngân hàng thương mại cần tập trung vào các lĩnh vực có ảnh hưởng đến kinh tế vĩ mô và hệ thống Ngân hàng, không can thiệp quá sâu vào kỹ thuật nghiệp vụ – lĩnh vực cần phải tự chủ trong cạnh tranh. Tập trung thanh tra và kiểm soát chặt chẽ các khâu trọng yếu và các địa bàn trọng điểm, đặc biệt là các trung tâm tài chính.
Thành lập Ngân hàng chính sách hoặc có biện pháp tách rời hoạt động có tính chính sách trong các Ngân hàng thương mại để tạo ranh giới rõ ràng hơn giữa chức năng kinh doanh của Ngân hàng thương mại với chức năng cơ quan thực hiện các chính sách của Nhà nước.
Tiến hành cổ phần hoá hệ thống Ngân hàng thương mại quốc doanh nhằm tạo điều kiện tiến hành cải tổ hệ thống ngân hàng theo hướng cắt giảm chi phí hoạt động, nâng cao hiệu quả kinh doanh cũng như chuẩn bị cho tiến trình hội nhập với khu vực và trên thế giới. Do tầm quan trọng của hệ thống ngân hàng nên Nhà nước chỉ cần giữ quyền kiểm soát với trên 50% vốn là đủ.
Chuyển lãi suất cơ bản từ lãi suất cho vay sang lãi suất tiền gửi:
Bước sang trung gian để chuyển sang tự do hoá lãi suất là cần phải điều hành lãi suất qua việc điều hành lãi suất cơ bản của Ngân hàng Trung ương. Hiện nay lãi suất cơ bản đưa ra cho các tổ chức tín dụng là lãi suất cho vay. Tuy nhiên vì một sự cạnh tranh lành mạnh và an toàn hệ thống, chúng ta cần chuyển dần sang cơ chế khống chế lãi suất tiền gửi tối đa làm lãi suất cơ bản theo thông lệ quốc tế. Cụ thể:
Lãi suất tiền gửi tối đa = Lạm phát dự kiến + Lãi thực của người gửi tiền
Các tổ chức tín dụng ấn định các mức lãi suất tiền gửi trong phạm vi mức khống chế lãi suất tiền gửi tối đa và ấn định các mức lãi suất cho vay cụ thể phù hợp với cung cầu vốn. Thực chất của lãi suất cơ bản theo loại này là Ngân hàng Trung ương chỉ công bố và kiểm soát lãi suất tiền gửi tối đa và tự do hoá lãi suất cho vay, việc điều hành và kiểm soát lãi suất cho vay thông qua điều hành lãi suất tiền gửi tối đa và các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ.
Lãi suất cơ bản theo cách này có ưu điểm là tạo ra một bước tiến mới trong chính sách lãi suất tiến sát tới tự do hoá lãi suất hoàn toàn ( là tự do hoá lãi suất cho vay và tự do hoá lãi suất tiền gửi dưới mức tối đa ), là cơ chế lãi suất linh hoạt theo quan hệ cung cầu vốn, phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế, tạo ra khả năng cạnh tranh lớn giữa các tổ chức tín dụng, giảm thiểu sự quản lí của nhà nước bằng mệnh lệnh hành chính.
Khống chế lãi suất tiền gửi tối đa sẽ không cho phép các tổ chức tín dụng huy động vốn với bất kì lãi suất nào chạy đua về lãi suất tiền gửi để huy động mới bù đắp bù đắp nợ cũ. đảm bảo an toàn hệ thống và bảo vệ được lợi ích của người gửi tiền. Đồng thời, lãi suất cơ bản loại này thì hình thành nhiều khu vực lãi suất theo quan hệ cung cầu vốn và chi phí ngân hàng khác nhau.
Điều chỉnh lãi suất cho vay bằng việc trực tiếp quyết định nâng cao hoặc hạ lãi suất tiền gửi tối đa tương ứng.
Điều hành gián tiếp bằng việc dùng các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ tác động vào khối lương vốn trên thị trường như : ngân hàng mua bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn của các tổ chức tín dụng ...
Vì vậy, khi ngân hàng trung ương xây dựng và củng cố thị trường tiền tệ, chuyển từ điều hành chính sách tiền tệ bằng công cụ trực tiếp sang kết hợp điều chỉnh bằng công cụ trực tiếp với công cụ gián tiếp, đưa nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động để mua bán các chứng khoán ngắn hạn của các tổ chức tín dụng, thực hiện tái chiết khấu các chứng từ của các tổ chức tín dụng; Củng cố kiểm soát thị trường liên ngân hàng, tiếp tục củng cố và mở rộng việc mở và sử dụng tài khoản cá nhân, để trên cơ sở đó một chính sách lãi suất cơ bản linh hoạt hơn trần lãi suất như công bố lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa có sự kiểm soát của nhà nước bằng cả trực tiếp lẫn gián tiếp.
Và sau quá trình thực hiện thành công lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa thì ta sẽ tiến hành thêm một bước nữa để tự do hoá lãi suất hoàn toàn khi đã có và chủ động về các công cụ điều hành chính sách tiền tệ và các điều kiện khác về kinh tế và tiền tệ ổn định.
Kết luận
Việc chuyển đổi chính sách điều hành lãi suất sang cơ chế tự do hoá lãi suất là một su thế tất yếu. Song cách thức chuyển đổi có hiệu quả nhằm hạn chế những tiêu cực, kích thích nền kinh tế phát triển, huy động tích tụ tập trung vốn cho công phát triển bền vững lại không có một khuôn mẫu đồng nhất. Tuỳ theo điều kiện đặc thù của mỗi quốc gia, nền tảng kinh tế vĩ mô, mức độ mở cửa tập quán tiêu dùng, tiết kiệm, đầu tư mà lộ trình tự do hoá lãi suất phải có thích ứng phù hợp.
Tuy nhiên để vận dụng lãi suất thị trường, yếu tố chung cho cải cách ở mỗi quốc gia là phải phát triển được thị trường,. Trên cơ sở thị trường lãi suất được hình thành và tác động vào các biến số kinh tế vĩ mô khác. các công cụ điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương cũng phải được chuyển từ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp mang tính thị trường. Thông qua các công cụ định hướng thị trường điều hành diễn biến lãi suất nhằm đạt các mục tiêu tổng thể của nền kinh tế. Muốn có một thị trường phát triển, có các công cụ thị trường hữu hiệu phải có sự chuẩn bị kĩ càng về cơ sở vật chất và con người. Hệ thống ngân hàng cần được tiếp tục cải tổ, thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức tín dụng nhằm làm giảm chi phí và tăng hiệu quả luân chuyển vốn trong nền kinh tế.
Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, nền kinh tế mới chuyển đổi của nước ta đang đứng trước nhiều cơ hội và nhiều khó khăn thách thức của nhu cầu mở cửa và hội nhập. Duy trì chính sách lãi suất bị kiểm soát thời gian qua ngày càng tỏ ra kém hiệu quả : vốn ứ đọng trong các ngân hàng, các biện pháp kích cầu qua lãi suất không đạt hiệu quả mong muốn. Hơn mười năm sau đổi mới, những cải cách mạnh mẽ trong hệ thống ngân hàng, trong điều hành chính sách tiền tệ và thu chi ngân sách đã tạo ra những tiền đề vững chắc cho quá trình tự do hoá lãi suất.
Vì nhiều lí do hạn chế về kiến thức và khả năng thu thập số liệu liên quan tôi mong các bạn có nhiệt tâm đóng góp, bổ xung, sửa chữa cho chuyên đề của tôi.
Nội dung
Mở đầu
Chương I Lãi suất và tự do hoá lãi suất
Lãi suất
Tự do hoá lãi suất
Kinh nghiệm thé giới trong việc thực tự do hoá lãi suất
Chương II Thực trạng chính sách lãi suất ở Việt Nam
Bối cảnh chung
Các giai đoạn thực hiện chính lãi suất ở Việt Nam
Những đánh giá trong điều hành chính sách lãi suất thời gian qua
Chương III Giải pháp nhằm chuyển sang tự do hoá lãi suất
ở Việt Nam
Những cản trở chưa cho phép Việt Nam tự do hoá lãi suất
Giải pháp chuyển sang tự do hoá lãi suất
Kết luận.
Danh mục tài liệu tham khảo
1, Vấn đề đổi mới chính sách tiền tệ , kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
và kinh nghiệm của Nhật Bản.
Nxb Chính trị quốc gia, 1995
2, Frederic. S.Mishkin Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính
Nxb Khoa học kỹ thuật, 1994
3, N.Gregory.Mankiw Kinh tế vĩ mô
Nxb Thống kê, 1999
4,Một số tạp chí chuyên ngành các năm 1997, 1998, 1999, 2000
-Tạp chí Ngân hàng
-Tạp chí Tài chính
-Tạp chí Thị trường tiền tệ
-Tạp chí Nghiên cứu kinh tế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA365.doc