Đề tài Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam

Tài liệu Đề tài Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam: Contents Mở đầu Các nước đang phát triển có đặc điểm chung về kinh tế, đó là mức sống thấp, tỷ lệ tích lũy thấp, trình độ kỹ thuật sản xuất thấp và năng suất lao động thấp. Những đặc điểm này tạo thành một vòng tròn luẩn quẩn, tưởng như khó thoát ra được. Trong quá trình tìm kiếm con đường phát triển, có những nước tiếp tục rơi vào trì trệ, phát triển thụt lùi, xã hội rối ren, như một số nước châu Phi hay Nam Á. Có những nước đã đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, đưa đất nước thoát khỏi vòng luẩn quẩn, rút ngắn khoảng cách, thậm chí đuổi kịp các nước phát triển. Trong đó có Singapore. Từ một nước thuộc địa, nghèo nàn, thuộc thế giới thứ ba, Singapore đã phát triển trở thành con rồng châu Á và vươn lên hàng các nước phát triển trên thế giới. Với nhiều điểm tương đồng về điều kiện, bối cảnh lịch sử, vị trí địa lý… Singapore đáng là bài học để Việt Nam nghiên cứu trong quá trình định hướng con đường phát triển quốc gia. Để vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, góp phần nghiên cứu mặt...

doc34 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1165 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Contents Mở đầu Các nước đang phát triển có đặc điểm chung về kinh tế, đó là mức sống thấp, tỷ lệ tích lũy thấp, trình độ kỹ thuật sản xuất thấp và năng suất lao động thấp. Những đặc điểm này tạo thành một vòng tròn luẩn quẩn, tưởng như khó thoát ra được. Trong quá trình tìm kiếm con đường phát triển, có những nước tiếp tục rơi vào trì trệ, phát triển thụt lùi, xã hội rối ren, như một số nước châu Phi hay Nam Á. Có những nước đã đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, đưa đất nước thoát khỏi vòng luẩn quẩn, rút ngắn khoảng cách, thậm chí đuổi kịp các nước phát triển. Trong đó có Singapore. Từ một nước thuộc địa, nghèo nàn, thuộc thế giới thứ ba, Singapore đã phát triển trở thành con rồng châu Á và vươn lên hàng các nước phát triển trên thế giới. Với nhiều điểm tương đồng về điều kiện, bối cảnh lịch sử, vị trí địa lý… Singapore đáng là bài học để Việt Nam nghiên cứu trong quá trình định hướng con đường phát triển quốc gia. Để vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, góp phần nghiên cứu mặt lý luận của vấn đề này, bằng những kiến thức được học từ môn Kinh tế phát triển, nhóm chúng tôi xin mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam” Đề tài được nghiên cứu nhằm mục đích vận dụng kiến thức đã học, đưa ra những nhận định ban đầu về kinh nghiệm phát triển của Singapore và đề xuất một số bài học từ Singapore có thể vận dụng cho Việt Nam; đồng thời, góp phần nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học cho các thành viên trong nhóm, hoàn thành chương trình học tập môn Kinh tế vi mô tại trường Đại học Ngoại thương. Để đạt được mục tiêu đó, đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu chung: phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp phân tích, tổng hợp, mô hình hóa, so sánh tĩnh… Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, bố cục của đề tài bao gồm những nội dung sau: Phần 1: Tổng quan về Singapore Phần 2: Kinh nghiệm phát triển của Singapore Phần 3: Bài học cho Việt Nam Phần I. Tổng quan về Singapore 1.1. Giới thiệu chung Một mảnh đất vô danh tăm tối cuối bán đảo Mã lai buổi lập quốc, 45 năm trước, giờ đã vươn mình hoá thành Con Rồng kinh tế Singapore. Năm 1819, Singapore là vùng thuộc địa của Anh chuyên về mua bán, trao đổi hàng hóa. Năm 1963, Singapore gia nhập vào Liên bang Malaysia nhưng hai năm sau đã tách ra và trở thành một nước độc lập. Sau đó, Singapore đã phát triển thành một trong những quốc gia thịnh vượng nhất thế giới, trở thành đầu mối giao lưu thương mại quốc tế quan trọng (cảng biển Singapore là một trong những cảng biển có trọng tải lớn và tấp nập nhất thế giới). Thu nhập bình quân đầu người ở Singapore ngang tầm với các nước hàng đầu Châu Âu. Hình ảnh của Singapore khi vừa mới được tự trị, năm 1960, được một tờ tạp chí mô tả thật ảm đạm, như một vũng nước tù đọng, nghèo nàn và lạc hậu. Singapore gần như là một đảo quốc không có tài nguyên gi đáng giá, kể cả nước ngọt để uống và sinh hoạt cũng phải nhập khẩu, ngoài biển cả mênh mông nước mặn vây quanh.  Giờ đây, ai cũng phải công nhận rằng Singapore là một đất nước rất thành công trong phát triển kinh tế. Ngày nay, thu nhập bình quân đầu người của Singapore vượt trên con số 52.000 đô la Mỹ, xếp thứ 4 thế giới, với mức tăng bình quân đầu người gần 600 USD mỗi năm. Tốc độ phát triển đó đã đưa một nước Singapore thuộc các quốc gia kém phát triển, chỉ sau ba thập niên, vươn lên đứng trong những nước phát triển nhất.   Dù còn đó những lời bình khác nhau từ bên ngoài, thế giới phải công nhận họ là xứ sở trong lành. Theo nghĩa thực, đó là môi trường sạch sẽ và xanh tươi. Theo nghĩa rộng, đó là cuộc sống văn minh, kỹ cương và mức độ tham nhũng xếp loại thấp nhất thế giới. Ở đây, một nước Singapore nhiều dân tộc (Hoa, Ấn, Mã lai), nhiều tôn giáo (Khổng giáo, Thiên chúa giáo, Ấn độ giáo, Hồi giáo), nhưng xã hội ổn định, mọi người cùng tồn tại bên nhau và cùng đưa đất nước phát triển nhanh  trở thành Con Rồng châu Á, đạt những tiêu chí sống - tuổi thọ và thu nhập - hàng đầu thế giới. 1.2. Tình hình phát triển kinh tế Kinh tế Singapore là nền kinh tế phát triển, theo đường lối kinh tế tư bản. Sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế được giảm thiểu tương đối nhiều. Singapore có môi trường kinh doanh mở, tham nhũng thấp, minh bạch tài chính cao, giá cả ổn định. Singapore hầu như không có tài nguyên, nguyên liệu đều phải nhập từ bên ngoài. Singapore chỉ có ít than, chì, nham thạch, đất sét; không có nước ngọt; đất canh tác hẹp, chủ yếu để trồng cao su, dừa, rau và cây ăn quả, do vậy nông nghiệp không phát triển, hàng năm phải nhập lương thực, thực phẩm để đáp ứng nhu cầu ở trong nước. Singapore có cơ sở hạ tầng và một số ngành công nghiệp phát triển cao hàng đầu châu Á và thế giới như: cảng biển, công nghiệp đóng và sửa chữa tàu, công nghiệp lọc dầu, chế biến và lắp ráp máy móc tinh vi. Singapore là nước hàng đầu về sản xuất ổ đĩa máy tính điện tử và hàng bán dẫn. Singapore còn là trung tâm lọc dầu và vận chuyển quá cảnh hàng đầu ở châu Á. Nền kinh tế Singapore chủ yếu dựa vào buôn bán và dịch vụ (chiếm gần 70% thu nhập quốc dân trong năm 2007). Kinh tế Singapore từ cuối những năm 1980 đạt tốc độ tăng trưởng vào loại cao nhất thế giới. Tuy nhiên từ cuối 1997, do ảnh hưởng của khủng hoảng tiền tệ xuất phát từ Thái Lan, đồng đô la Singapore đã bị mất giá 20% và tăng trưởng kinh tế năm 1998 giảm mạnh chỉ còn 1,3%. Do ảnh hưởng của sự kiện 11/9 gây suy giảm kinh tế thế giới và sau đó là dịch SARS, kinh tế Singapore bị ảnh hưởng nặng nề: Năm 2001 tăng trưởng kinh tế chỉ đạt -2,2%, 2002, đạt 3% và 2003 chỉ đạt 1,1%. Từ 2004, tăng trưởng mạnh: năm 2004 đạt 8,4%; 2005 đạt 5,7%; năm 2006 đạt 7,7% và năm 2007 đạt 7,5%. Singapore được coi là nước đi đầu trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức. Singapore đang thực hiện kế hoạch đến năm 2018 sẽ biến Singapore thành một thành phố hàng đầu thế giới, một đầu mối trọng yếu của nền kinh tế toàn cầu, và một nền kinh tế đa dạng, nhạy cảm kinh doanh. 1.3. Các ngành kinh tế trọng điểm - Công nghiệp: Các ngành công nghiệp chính: điện tử, hoá chất, dịch vụ tài chính, thiết bị khoan dầu, lọc dầu, chế biến và sản xuất cao su, chế biến thực phẩm và đồ uống, sửa chữa tàu, xây dựng giàn khoan ngoài khơi... - Dịch vụ: Bên cạnh một nền công nghiệp dựa vào công nghệ tiên tiến của thế giới, Singapore không quên tận dụng một mặt mạnh khác, đó là lĩnh vực dịch vụ, lĩnh vực đóng góp chủ yếu cho GDP của Singapore. Năm 2007, mức đóng góp này là 68,8%. Các ngành dịch vụ thế mạnh của Singapore là vận tải (logistic) và thông tin liên lạc, tài chính, du lịch. Năm 2008, ngành dịch vụ của Singapore cũng chịu nhiều tác động bởi khủng hoảng tài chính gây ảnh hưởng xấu lên các công ty tài chính, dịch vụ tài chính đi xuống. Không chỉ có vậy, doanh thu từ dịch vụ du lịch giảm khi người tiêu dùng trên thế giới cắt giảm chi tiêu. Lĩnh vực dịch vụ chỉ tăng trưởng 5,3% trong quý 3/2008 sau khi tăng trưởng 7,1% trong quý 2/2008. - Thương mại: Thương mại là nhân tố quyết định của nền kinh tế Singapore, vì thế chính sách thương mại của đảo quốc này có thể tóm lược trong hai yếu tố chính: Bảo toàn và mở rộng thị trường, giảm thiểu các rào cản thương mại. Đảm bảo hoạt động của các quốc gia trong khuôn khổ những qui định do Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đề ra. Ngoài ra, chính sách thương mại của Singapore cũng phù hợp với một số thoả hiệp song phương và đa phương đã được ký kết giữa Singapore với một hay nhiều nước khác như chương trình Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Thoả ước thương mại tự do (FTAs), Thoả ước công nhận hỗ tương (MRAs)... Trong những năm cuối thế kỷ 20, Singapore đã sử dụng hai phương tiện truyền thống trong thương mại là Hội chợ và các đoàn công tác để giúp các công ty ở địa phương tiếp cận được những cơ hội làm ăn thuận lợi. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của Singapore là 302,7 tỷ USD (theo trị giá FOB), kim ngạch nhập khẩu là 252 tỷ USD (theo trị giá CIF). Các mặt hàng xuất khẩu chính là: máy móc thiết bị (bao gồm máy móc thiết bị điện tử), hàng tiêu dùng, hóa chất, nhiên liệu khoáng. Các mặt hàng nhập khẩu chính là: máy móc thiết bị, nhiên liệu khoáng, hóa chất, thực phẩm. Thị trường xuất khẩu chủ yếu: Malayxia 12,9%, Hồng Kông 10,5%, Inđônêxia 9,8%, Trung Quốc 9,7%, Mỹ 8,9%, Nhật Bản 4,8%, Thái Lan 4,1%. Thị trường nhập khẩu chủ yếu: Malayxia 13,1%, Mỹ 12,5%, Trung Quốc 12,1%, Nhật Bản 8,2%, Đài Loan 5,9%, Indonexia 5,6%, Hàn Quốc 4,9%. Mặc dù Singapore đã giảm được sự phụ thuộc vào kinh tế Mỹ thông qua xuất khẩu sang các thị trường trong khu vực, song sự suy thoái của nền kinh tế lớn nhất thế giới này do cuộc khủng hoảng trên thị trường cho vay thế chấp dưới tiêu chuẩn ở trong nước đã động tiêu cực đến ngành xuất khẩu của Singapore. Nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu của Singapore cho đến nay chịu nhiều tác động do lượng đơn đặt hàng từ những thị trường lớn giảm sút. - Đầu tư: Môi trường đầu tư: Singapore có một chính sách đầu tư rộng mở, qua đó, đất nước này đã chuyển thành công từ một hải cảng thương mại thành một nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Chính phủ theo đuổi một chiến lược nhằm nâng cao Singapore thành một nền kinh tế dựa vào công nghệ, sáng kiến và tri thức để có thể cạnh tranh với các nước xuất hàng giá rẻ và gia tăng tính toàn cầu hóa nền kinh tế. Nhà nước tạo nguồn động viên về tài chính, điều chỉnh luật lệ nhằm khuyến khích các hoạt động nghiên cứu và phát triển. Để thực hiện chính sách rộng mở, Singapore khuyến khích các công ty đa quốc gia tiến hành các hoạt động sản xuất và cung ứng dịch vụ, tạo điều kiện cho các chuyên gia nước ngoài đến cư trú và làm việc. Tại Singapore, các nhà đầu tư nước ngoài không bị đòi hỏi phải tham gia vào các hoạt động liên doanh hay nhượng quyền kiểm soát quản trị cho quyền lợi địa phương. Chính quyền Singapore không hạn chế hay làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài nhằm bảo hộ nền công nghiệp trong nước hay vì bất cứ lý do nào khác. Tuy nhiên vẫn có một số ngoại lệ đáng chú ý còn tồn tại trong lãnh vực sản xuất vũ khí, công nghiệp truyền thanh và thông tin nội địa. Ngoài ra, các cơ hội đầu tư cũng còn bị hạn chế trong việc sở hữu các tài sản tư. Tháng 4/2000, lĩnh vực viễn thông được tự do hóa hoàn toàn nhằm đảm bảo cho Singapore vị thế của một trung tâm thông tin và truyền thông quan trọng của châu Á. Những hạn chế về quyền tư hữu của người nước ngoài cũng được gỡ bỏ đối với ngành ngân hàng địa phương, ngành bảo hiểm và các công ty điện lực.  Từ năm 1978, Singapore đã gỡ bỏ mọi hạn chế về giao dịch chứng khoán nước ngoài và chuyển dịch vốn, không giới hạn việc tái đầu tư cũng như chuyển vốn và lãi về nước. Tình hình đầu tư nước ngoài vào Singapore: Theo Cục Thống kê Singapore, số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Singapore đã tăng gấp hơn 3 lần trong giai đoạn 1995-2005. Năm 2007, tổng số vốn nước ngoài đầu tư vào Singapore là 14,279 tỷ USD với 239 dự án, tăng 23,1% so với năm 2006, tạo công ăn việc làm cho 35.441 lao động. Những nước và vùng lãnh thổ đầu tư chủ yếu vào Singapore là Mỹ, Canada, Anh, Thuỵ Sỹ, Hà Lan, Na Uy, Đức, Nhật Bản, Malayxia, Đài Loan, Hồng Kông... Hầu hết vốn FDI vào Singapore tập trung trong các lĩnh vực dịch vụ tài chính, dịch vụ bảo hiểm, nhà hàng và khách sạn, sản xuất công nghiệp... Tổng số vốn nước ngoài hiện đang đầu tư tại Singapore (tính đến 12/2007): 214,5 tỷ USD. Tình hình đầu tư ra nước ngoài của Singapore Cùng với nỗ lực thu hút đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp Singapore cũng đẩy mạnh đầu tư ra bên ngoài, nhằm tạo "cánh tay bên ngoài" (external wing) cho Singapore. Các thị trường đầu tư chủ yếu của Singapore là các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam. Những lĩnh vực đầu tư chủ yếu là khai thác dầu khí, sản xuất công nghiệp, dịch vụ tài chính, bất động sản. Tổng số vốn Singapore đầu tư ra nước ngoài (tính đến 12/2007) là 111,2 tỷ USD. Phần II. Kinh nghiệm phát triển của Singapore 2.1. Phát triển Ngoại thương 2.1.1. Kinh nghiệm của Chính phủ 2.1.1.1. Bộ máy quản lý thương mại Singapore Bộ máy đầu não chịu trách nhiệm điều hành nền thương mại Singapore là Bộ Thương mại và Kỹ nghệ (Ministry of Trade and Industry – MTI). Hoạt động của cơ quan này nhằm tạo điều kiện mang lại sự thịnh vượng cho quốc gia thông qua sự ổn định và tăng trưởng kinh tế. Để thực hiện tốt chức năng của mình, MTI tiến hành việc hoạch định và phân tích kinh tế, điều hợp các chính sách kinh tế của chính phủ. Về mặt tổ chức, ngoài bộ máy hành chánh trực thuộc, MTI còn có trách nhiệm giám sát và hỗ trợ hoạt động cho các đơn vị dưới đây: - Cục thống kê; Cục dịch vụ thông tin; Sở cân đo; Hội đồng phát triển kinh tế (EDB); Hội đồng cấp giấy phép hoạt động cho các khách sạn; Hội đồng thành phố Jurong; Hội đồng khoa học và công nghệ quốc gia; Hội đồng tiện ích công cộng; Tập đoàn phát triển Sentosa; Hội đồng hiệu suất và định chuẩn Singapore; Hội đồng du lịch Singapore; Hội đồng phát triển thương mại Singapore (TDB). Vai trò xúc tiến thương mại của MTI thuộc về TDB, một trong những tổ chức có thế lực nhất về mặt thương mại tại đảo quốc này. Được thành lập vào năm 1983, TDB chịu trách nhiệm chính trong việc thúc đẩy Singapore tiến nhanh trên đấu trường thương mại quốc tế, bảo vệ quyền lợi kinh tế của đảo quốc, đồng thời giới thiệu sản phẩm của Singapore trên khắp thế giới. Bước vào thế kỷ 21, hội đồng này hướng tới 5 lãnh vực hoạt động sau đây: - Cổ xuý cho một nền thương mại tự do và công bằng tại các diễn đàn quốc tế. - Khai phá các thị trường mới cho hoạt động xuất khẩu của Singapore và mở rộng các lĩnh vực cung ứng - Biến Singapore thành một địa điểm hấp dẫn hơn nữa đối với thương nhân quốc tế - Phát triển và tăng cường hạ tầng cơ sở thương mại và kinh doanh - Giúp các xí nghiệp Singapore đầu tư ở ngoài nước Những thay đổi mạnh mẽ trên đấu trường thương mại thế giới trong các năm qua đã buộc TDB, với tư cách một cơ quan xúc tiến thương mại quốc gia, phải thay đổi chiến lược nhằm duy trì vị trí hàng đầu của Singapore trong nền kinh tế của khu vực. Như một thành phần của chiến lược cạnh tranh lâu dài, TDB đang nỗ lực biến Singapore thành một Trung tâm cung ứng dịch vụ hàng đầu tại châu Á. Trong những năm qua, TDB đã nói lên tiếng nói của mình tại các tổ chức thương mại quốc tế nhằm bảo vệ và nâng cao quyền lợi thương mại của Singapore, đồng thời tích cực tham gia vào hoạt động của các tổ chức thương mại đa phương hay khu vực như Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Tổ chức Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình dương (APEC), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) . Các nỗ lực song phương cũng được thực hiện với các tổ chức và chính phủ nước ngoài nhằm mục đích trao đổi thông tin, tự do hoá thương mại, tiến đến hợp tác đầu tư. Trong tương lai, TDB sẽ tiếp tục duy trì quan điểm tích cực trong việc cảnh báo cho các công ty của Singapore về những cơ hội làm ăn có thể tận dụng từ các thoả ước thương mại. Sự mở rộng hoạt động ngoài nước cũng được chú trọng triệt để. Các nỗ lực của tổ chức này nhằm tăng cường và đa dạng hoá hoạt động thương mại và đầu tư của Singapore tại hải ngoại nhắm chủ yếu vào các thị trường châu Á, Mỹ và Liên minh châu Âu (EU). Hiện nay TDB có hơn 30 văn phòng thương mại trên khắp thế giới, với chức năng quảng bá cho nền thương mại Singapore và quan trọng hơn cả là hỗ trợ các công ty Singapore trong giao thương quốc tế. Sự hỗ trợ này được thể hiện một cách nhuần nhuyễn và đa dạng thông qua các đoàn công tác, các hội chợ thương mại để tìm cơ hội hợp tác và đầu tư. Tính đến nay, đã có hơn 140 công ty trên thế giới đặt cơ quan đầu não của họ tại Singapore. Nhiều công ty khác đang toan tính làm việc này. Chính quyết định đặt trụ sở của họ tại Singapore đã góp phần biến đảo quốc này thành một trung tâm thương mại quốc tế. Về mặt hàng hải, Singapore là hải cảng bận rộn nhất thế giới, đồng thời là một trung tâm dịch vụ hậu cần và vận chuyển quốc tế. 2.1.1.2. Chính sách ngoại thương của Singapore * Ngoại thương và kiểm soát lạm phát Thương mại là nhân tố quyết định của nền kinh tế Singapore, trong đó, quan trọng nhất là ngoại thương. Chính sách ngoại thương của đảo quốc này có thể tóm lược trong hai yếu tố chính: - Bảo toàn và mở rộng thị trường, giảm thiểu các rào cản về thương mại. - Đảm bảo hoạt động của các quốc gia trong khuôn khổ những qui định do Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đề ra. Ngoài ra, chính sách thương mại của Singapore cũng phù hợp với một số thoả hiệp song phương và đa phương đã được ký kết giữa Singapore với một hay nhiều nước khác như chương trình Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Thoả ước thương mại tự do (FTAs), Thoả ước công nhận hỗ tương (MRAs)… Đầu năm 1999, nền kinh tế châu Á có dấu hiệu hồi phục, các hoạt động xúc tiến thương mại của Singapore trong vùng được đẩy mạnh. Cuộc khủng hoảng kinh tế tại châu Á làm nảy sinh nhu cầu đa dạng hoá thị trường và các công ty của Singapore mở rộng tầm hoạt động sang những thị trường từ trước đến nay còn chưa được khai phá. Riêng với những thị trường cốt yếu trong nền thương mại Singapore như Mỹ, châu Âu và Nhật Bản thì nước này nỗ lực củng cố vị trí của một trung tâm cung cấp và phân phối quốc tế. Trong những năm cuối thế kỷ 20, Singapore đã sử dụng hai phương tiện truyền thống trong thương mại là Hội chợ và các đoàn công tác để giúp các công ty ở địa phương tiếp cận được những cơ hội làm ăn thuận lợi. Theo Bộ trưởng Công Thương Singapore Lee Yi Shyan, Singapore là một thị trường nhỏ, với hơn 4,8 triệu dân, nền kinh tế dựa vào xuất khẩu, phụ thuộc rất nhiều vào các thị trường lớn như Nhật và Mỹ…, nên khi những nền kinh tế này phát triển chậm lại, nhu cầu ít đi, đã ảnh hưởng đến nền kinh tế nước này. Trong quý I/2009, GDP của Singapore tăng trưởng âm (-9,6%), nhưng sang quý II theo chiều hướng tốt hơn (chỉ còn -3,7%). Tăng trưởng kinh tế qua con đường xuất khẩu là sự chọn lựa chiến lược phát triển rất thành công của Singapore trong thập niên 1990 và được coi là một trong những nền kinh tế đã bước vào thế giới công nghiệp phát triển bằng con đường xuất khẩu. Họ đã có một chiến lược xuất khẩu rất thông minh với một lộ trình rõ ràng, đi từ xuất khẩu nguyên liệu, khoáng sản, sang xuất khẩu sản phẩm có hàm lượng lao động lớn, và cuối cùng là xuất khẩu sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Sự thành công của họ dựa trên một yếu tố rất then chốt là duy trì một hệ số ICOR thấp, có nghĩa là đồng vốn đầu tư khả dụng vào nền kinh tế mang lại một hiệu quả cao đối với sự tăng trưởng của GDP. Nhưng tăng trưởng kinh tế bằng con đường xuất khẩu không phải là một sự chọn lựa dễ dàng. Bên cạnh nhiều thách thức khác, đẩy mạnh xuất khẩu đối với những nước đang phát triển, trong đó phần xuất khẩu nguyên liệu thô, khoáng sản, nông lâm hải sản chiếm tỷ trọng chủ yếu trong kim ngạch xuất khẩu, cũng đặt ra một vấn đề kinh tế vĩ mô là nguy cơ lạm phát gia tăng, đặc biệt là sự gia tăng giá cả lương thực thực phẩm vốn luôn luôn tạo áp lực nặng nề trên đời sống của người dân nghèo và trở thành một vấn đề mang tính chất xã hội và chính trị. Khắc phục những hệ quả không mong muốn của một chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu đối với giá cả trong nước không phải là điều dễ dàng, nếu không có một chính sách tỷ giá và một sự sử dụng dự trữ ngoại tệ quốc gia đúng đắn, phù hợp, một chiến lược công nghiệp hóa hiệu quả, một môi trường đầu tư cởi mở và trên hết là một ý chí tiết kiệm mạnh mẽ của toàn thể cộng đồng. Kinh nghiệm thành công của Singapore chỉ ra rằng đồng ngoại tệ kiếm được từ xuất khẩu khoáng sản, nguyên liệu thô, nông hải sản phải được dùng để mua máy móc thiết bị cho các ngành công nghiệp thâm dụng lao động (labour intensive) để có thể xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp có hàm lượng lao động lớn. Những đồng ngoại tệ kiếm được từ việc xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng lao động lớn lại phải được tiếp tục sử dụng cho việc nhập khẩu máy móc thiết bị, quy trình công nghệ cao cho những ngành công nghiệp thâm dụng công nghệ hay thâm dụng vốn (technology intensive hay capital intensive) để những ngành này, trong một tương lai không xa có thể xuất khẩu những sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Khoảng cách thời gian của những nỗ lực đầu tư nói trên thông thường đều gây ra một chu kỳ lạm phát. Những chu kỳ này được khắc phục bằng nỗ lực tiết kiệm của toàn thể cộng đồng dân tộc (cả nhà nước lẫn nhân dân), cải cách thủ tục hành chính, quyết tâm xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất tốt (đường sá, điện nước, trường học, bệnh viện, hệ thống an sinh xã hội). Thời gian đầu tư sẽ được rút ngắn, hệ số ICOR sẽ giảm, hiệu quả của đầu tư sẽ tăng cao, tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ tiến rất nhanh và lạm phát sẽ được kiểm soát. Bằng những nỗ lực vì lợi ích lâu dài của nền kinh tế đất nước, những biện pháp điều chỉnh ngắn hạn và chiến lược phát triển dài hạn mới có thể được kết hợp một cách đồng bộ và hài hòa để đạt được cả hai mục tiêu mà tất cả chúng ta đều mong muốn, đó là tăng trưởng và ổn định. * Hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ Tại hội thảo “Chiến lược cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vượt qua khủng hoảng” tổ chức ngày 4/5/2010 tại Thành phố Hồ Chí Minh, ông Reza Ali, Giám đốc phát triển kinh doanh ACCA khu vực Châu Á Thái Bình Dương, chia sẻ bài học kinh nghiệm vượt qua khủng hoảng kinh tế của Singapore. Theo ông, các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) cần chủ động, sáng tạo trong việc tiếp thu khoa học, công nghệ. Quan trọng nhất, SMEs phải có “tầm nhìn quốc tế”, vượt qua giới hạn địa lý để mang sản phẩm và dịch vụ của mình ra trường quốc tế. Để làm được như vậy, các công ty phải linh hoạt chuyển đổi và liên tục đem lại giá trị mới cho khách hàng. Ông Reza Ali nhắc lại báo cáo “Loại bỏ rào cản để SMEs tiếp cận với sự quốc tế hóa” về ba khó khăn chính mà SMEs phải đối mặt ở thị trường nước ngoài. Một, khả năng xác định cơ hội kinh doanh. Hai, hạn chế tiếp cận thông tin thị trường. Ba, thiếu khả năng vươn đến khách hàng tiềm năng ở nước ngoài. Đương đầu với những khó khăn trên, chính phủ và doanh nghiệp Singapore đã có các động thái hỗ trợ SMEs về nhiều mặt. Tiêu biểu nhất là việc bảo đảm các SMEs tiếp cận vốn vay thông qua hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp địa phương, chế độ bảo hiểm tiền vay, và chương trình cho vay quy mô nhỏ. Với các SMEs gặp khó khăn trong việc vay vốn ở khu vực thị trường thương mại, chính phủ cũng làm việc với ngân hàng để cấp vốn và bảo toàn nguồn vốn thông qua chương trình cho vay vốn bắc cầu và hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp địa phương. Bên cạnh đó, chính phủ còn có chương trình cho vay quy mô nhỏ để cấp vốn hoạt động cho các doanh nghiệp vi mô. Hơn thế nữa, SPRING Singapore phối hợp với IE Singapore để xúc tiến phát triển các SMEs của Singapore đặt tại hải ngoại, từ tiếp cận nguồn vốn, phát triển nội lực đến mở rộng kinh doanh. Singapore có kế hoạch huy động 1,5 tỷ USD nguồn vốn phát triển bằng cách cho vay vốn trong 10 năm và chính phủ đóng góp ½ số lượng này. SPRING Singapore và IE Singapore giúp SMEs tăng cường năng lực thiết yếu cho phát triển dài hạn như phục vụ định hướng khách hàng, sáng kiến lãnh đạo kinh doanh, cải thiện công nghệ và hạ tầng… IE Singapore còn hỗ trợ từng doanh nghiệp với kế hoạch quốc tế hóa bằng mạng lưới văn phòng ở 37 thành phố trên 21 quốc gia. 2.1.2. Kinh nghiệm của doanh nhân 2.1.2. 1. Kinh nghiệm “ra biển lớn” của doanh nhân Singapore Thương mại luôn là ngành trụ cột thúc đẩy kinh tế phát triển của đảo quốc Sư tử. Tuy thị trường tiêu thụ nội địa nhỏ bé và hầu như không phong phú về tài nguyên thiên nhiên, nhưng Singapore đã thiết lập một nền kinh tế mở từ rất sớm và thịnh vượng từ ngành công nghiệp xuất khẩu của riêng mình. Khoảng 60% doanh nghiệp Sigapore lấy xuất khẩu làm hoạt động chủ yếu, trong khi tỷ lệ trung bình của thế giới là 30%. Chính vì vậy, các doanh nhân Singapore sớm tích lũy và sở hữu được nhiều kinh nghiệm trong việc phát triển thị trường toàn cầu. 2.1.2.2. Xác định rõ những rào cản khi mở rộng thị trường Các thế hệ doanh nhân Singapore luôn truyền đạt cho nhau những kinh nghiệm quý báu khi phát triển thị trường toàn cầu. Theo họ, các yếu tố như tệ quan liêu, những quy định và ràng buộc khắt khe của các khu vực hay quốc gia, sự thiếu kiến thức tổng thể về thị trường, sự bất ổn về chính trị và xã hội là những rào cản cần được khắc phục ngay từ đầu.  Trong kinh doanh, người Singapore luôn để tâm đến yếu tố chính trị và môi trường xã hội ở nơi họ phát triển hoạt động kinh doanh. Do đó, các thị trường xuất khẩu chủ yếu của doanh nhân Singapore là những thị trường truyền thống hay thị trường tìm được thông qua các đối tác tin cậy. Một khi các doanh nhân Singapore quyết định hoạt động kinh doanh tại một thị trường nào đó, họ luôn tuân thủ các luật lệ và tập quán thương mại tại thị trường đó. 2.1.2.3. Thành công và tăng trưởng nhờ trung thành với những gì mình biết  Một trong những thành công mà các doanh nhân Singapore học được và vận dụng thành công từ những tập đoàn, công ty lớn trên thế giới là việc phát triển thị trường dựa trên những điều kiện và năng lưc thực tế của mình. Thông thường, các doanh nghiệp Singapore phát triển thị trường mới bằng cách đem những sản phẩm thành công và có lợi thế cạnh tranh nhất của mình đem bán ra nước ngoài. Cách thức này nhằm hạn chế rủi ro so với việc cho ra đời sản phẩm mới, tạo dựng thương hiệu, xây dựng các chính sách phát triển sản phẩm mới vốn rất tốn kém.  Theo một cuộc điều tra về ý kiến các nhà lãnh đạo doanh nghiệp vừa và nhỏ Singapore trong việc phát triển kinh doanh ra toàn cầu, có khoảng 60% doanh nghiệp đã áp dụng chiêu thức này và họ cũng gặt hái được sự thành công trong việc hạn chế những mạo hiểm. Chỉ có 9% doanh nghiệp vừa và nhỏ chấp nhận thử sức với việc cho ra đời sản phẩm mới đem đi bán ở những thị trường mới, trong khi tỷ lệ trung bình của giới là 15%. Ngay cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Mỹ, Canada và Úc cũng thích ứng dụng các chiến lược truyền thống là sử dụng sản phẩm đã có thế mạnh khi phát triển ra thị trường tòan cầu và chỉ có khỏang 20% doanh nghiệp vừa và nhỏ các nước này dám thử sức với sản phẩm mới ở thị trường hòan tòan mới.  2.1.2.4. Kiểm soát sự lớn mạnh  Song song với việc đẩy mạnh phát triển thị trường toàn cầu, các doanh nhân Singapore nổi tiếng là những người cẩn trọng trong việc kiểm soát chặt chẽ sự lớn mạnh của doanh nghiệp mình. Theo các chuyên gia phân tích thị trường, hai yếu tố thường được các doanh nhân Singapore kiểm soát chặt chẽ là:  Kiểm soát rủi ro: Có ba rào cản lớn nhất trong việc bước ra thị trường toàn cầu, các doanh nhân Singapore phải luôn đối mặt và đúc kết thành kinh nghiệm là môi trường cạnh tranh, sự khác biệt về các luật lệ và khả năng làm việc của đội ngũ lao động tại địa phương. Yếu tố môi trường cạnh tranh luôn được nhấn mạnh hàng đầu.  Kiểm soát chi phí: Hai yếu tố luôn được lưu tâm là chi phí đầu tư và phí ngoại giao với các quan chức địa phương. Trong đó các doanh nhân Singapore luôn tính toán kỹ các khoản chi phí liên quan đến việc quay vòng vốn lưu động và những khỏan đầu tư dài hạn. Theo họ, kiểm soát tài chính tồi đồng nghĩa với việc kinh doanh kém hiệu quả nên họ thường sử dụng các khoản vay ngắn hạn trong các hoạt động của mình để canh chừng mức độ chi tiêu.  Hiện tại, Singapore có trên 130 ngàn doanh nghiệp vừa và nhỏ, sử dụng hơn một nữa nguồn nhân lực quốc gia và đóng góp 43% vào tổng thu nhập quốc nội (GDP) hàng năm. Chính phủ Singapore luôn coi trọng việc thúc đẩy sự phát triển của khối các doanh nghiệp này vì đó là yếu tố cực kỳ quan trọng trong sự phát triển nền kinh tế quốc gia. Sắp tới, Singapore sẽ nỗ lực hỗ trợ để đưa ngày càng nhiều hơn các doanh nghiệp vừa và nhỏ “ra biển rộng”, hòa nhập vào sân chơi quốc tế. 2.2. Phát triển tài chính 2.2.1. Xây dựng hệ thống ngân hàng, trở thành trung tâm tài chính của châu Á Thập kỷ 60 của thế kỷ trước, Singapore chọn con đường phát triển khác hẳn với nhiều nước Đông Nam Á láng giềng, bằng cách triển khai chiến lược phát triển tài chính hướng ngoại, với mục tiêu biến Singapore trở thành trung tâm tài chính khu vực. Trong hơn 30 năm sau, chính phủ Singapore đã triển khai các cải cách và mở cửa thị trường tài chính đồng thời thực thi nhiều biện pháp khuyến khích để thu hút các định chế tài chính nước ngoài vào Singapore. Chiến lược này đã thành công. Số định chế tài chính nước ngoài triển khai vào thị trường Singapore tăng mạnh trong giai đoạn này: từ dưới 100 tổ chức những năm 1970, con số này tăng lên gần 450 những năm 1990. Chính nhờ sức cạnh tranh của các ngân hàng nước ngoài này, các ngân hàng nội địa của Singapore phải nâng cấp, cải tiến chất lượng sản phẩm, dịch vụ và kỹ năng quản lý. Tính đến tháng 3/2001, Singapore đã có 133 ngân hàng thương mại (8 nội địa và 125 nước ngoài), 11 công ty tài chính, 58 ngân hàng đầu tư, 151 công ty bảo hiểm, 88 công ty môi giới bảo hiểm, 63 văn phòng đại diện, 81 công ty môi giới chứng khoán, 168 công ty tư vấn đầu tư và 8 công ty môi giới ngoại hối quốc tế. Các định chế tài chính của Singapore bao gồm Ủy ban tiền tệ Singapore, ngân hàng thương mại, ngân hàng thương mại dịch vụ, ngân hàng tiết kiệm bưu điện, công ty tài chính…Trong đó Ủy ban tiền tệ Singapore do Bộ tài chính Singapore thành lập từ năm 1971 để giám sát các tổ chức tài chính và thực thi chính sách tiền tệ. Ủy ban tiền tệ Singapore chịu trách nhiệm đối với tất cả các chức năng ngân hàng trung ương.   Hệ thống ngân hàng của Singapore có một điều rất đặc biệt là bao gồm 2 loại hình: ngân hàng thương mại, hay còn gọi là các ngân hàng quốc nội (DBUs_ standing for Domestic Banking Units), và ngân hàng tiền tệ châu Á(ACUs). Chỉ có các ngân hàng thương mại (DBUs) mới được thực hiện các giao dịch bằng đồng đô la Singapore, còn các ngân hàng ngoại lại thực hiện các giao dịch liên quan đến giao dịch tài chính quốc tế với bất cứ đồng tiền nào trừ đồng đô la Singapore. Hai mô hình ngân hàng này được xây dựng vào năm 1970 nhằm tách riêng 2 hoạt động tài chính trong nước và hoạt động tài chính quốc tế.Đây thật sự là một chiến lược rất tài tình của các nhà hoạch định Sing khi nhanh chóng thiết lập các quan hệ tài chính quốc tế, phát triển tài chính quốc tế đồng thời với việc phát triển ngân hàng trong nước, đồng thời bảo hộ nó bởi sự cạch tranh của các tổ chức tài chính nước ngoài vốn rất khôn ngoan. Không chỉ khác biết về chức năng, các chính sách mà chính phủ Sing áp dụng cho 2 loại hình này có sự khác biệt. DBUs giải quyết các công việc chính liên quan đến các khoản tiển gửi và các khoản cho vay bằng đồng nội tệ, chịu sự quản lí chặt chẽ, đồng thời chịu mức dự trữ bắt buốc và thuế cao hơn các ACU(3% of liability of cash balance with MAS , 18% of liability in liquid asset). Trong khi đó thì các ngân hàng ACUs được hưởng nhiều ưu đãi hơn. Các ngân hàng ACUs được cho phép giao dịch với thị trường đô la châu Á, nơi mà bản chất là thị trường tiền tệ và vốn quốc tế với rất nhiều ngoại tệ khác nhau. Chính sách thuận lợi của Singapore cho các ACUs là động lực để ngành tài chính quốc tế tại nước này phát triển với tốc độ vượt bậc. Như vậy, Singapore là nền kinh tế đầu tiên trong khu vực cho phép các ngân hàng nước ngoài điều hành các đơn vị tại nước mình (ACUs), và sự thành công của thị trường tiền tệ châu Á đã đưa Sing trở thành một quốc gia giàu có và là trung tâm tài chính thế giới. So với các nước trong khối ASEAN thì Singapore có thị trường tài chính phát triển nhất, năm 1975 ở Singapore lãi suất tiền vay và tiền gửi trong nước đã được tự do hóa. Năm 1978, việc kiểm soát hối đoái cũng đã được nới lỏng, đem lại việc tự do hóa tài chính đầy đủ…. nhằm tạo điều kiện cho các ngân hàng Singapore huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong và ngoài nước để phân phối và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn tiền tệ đã huy động được, đáp ứng nhu cầu vốn cho quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa.  Ông Hoàng Đạo Hải, Giám đốc Indochina Infracstructure Management Vietnam, phát biểu trong hội thảo về chương trình phát triển thị trường tài chính trên địa bàn Tp.HCM, liệt kê những đột phá mà đảo quốc này đã làm được, như ưu đãi thuế cho trái phiếu; luật bảo mật thông tin ngân hàng; luật ủy thác cho phép nhà đầu tư nước ngoài được lựa chọn người thừa hưởng tài sản sau khi họ qua đời (nhằm thu hút khách hàng Trung Đông); người nước ngoài có thể định cư mãi mãi ở Singapore miễn là họ có tài sản 13 triệu Đô la Mỹ, với ít nhất 3,1 triệu Đô la nằm tại một định chế tài chính ở đây. Ở những lĩnh vực cụ thể là những quy định hết sức thông thoáng: nới lỏng quy định liên quan đến các quỹ mạo hiểm (hedge funds), cho phép họ có thể thành lập trong vòng một tuần; bỏ các chướng ngại vật đối với sự chuyển dịch vốn; chuyển từ bảo hộ ngành ngân hàng trong nước sang tập trung vào việc gia tăng mực độ minh bạch. Kiểm soát rủi ro toàn bộ hệ thống tài chính được xem trọng hơn bảo vệ từng tổ chức, doanh nghiệp riêng lẻ. Bên cạnh đó, Singapore khuyến khích sự hợp nhất các ngân hàng trong nước và chỉ có một cơ quan quản lý nhà nước duy nhất giám sát toàn bộ lĩnh vực tài chính (Monetary Authority). 2.2.2. Hệ thống tiết kiệm bắt buộc Cơ quan phát triển nhà ở của Singapore (HDB) đã thực hiện chương trình phát triển nhà ở mang tên "Nhà ở cho dân" (triển khai từ 1964) song song với 1 quá trình "Thắt lưng buộc bụng" mang tính toàn dân đó là chính sách gửi tiền tiết kiệm bắt buộc vào quỹ dự phòng trung ương (CPF). CPF được khởi đầu từ năm 1955 có mục đích tạo nguồn vốn cho người lao động khi nghỉ hưu và việc tiết kiệm là tự nguyện. Từ năm 1965 trở đi, Chính phủ thực hiện chính sách tiết kiệm bắt buộc, mọi người lao động có nhu cầu thu nhập bằng lương đều phải gửi tiết kiệm vào quỹ khoảng 20-25% thu nhập của mình. Trên thực tế, tỷ lệ tiền gửi tiết kiệm đã tăng dần từ 10% năm 1955 lên tới 50% vào năm 1984, tiền gửi được Nhà nước bảo hiểm. Số tiền gửi được lĩnh khi rút ra 1 phần. Chính sách tiết kiệm bắt buộc đã góp phần làm giàu nền kinh tế Singapore. 2.2.3. Bài học từ khủng hoảng tài chính châu Á Đầu tiên, nền tảng vững chắc đã hỗ trợ cho Singapore vượt qua "cơn bão" đổ bộ lên khu vực châu Á. Với tỉ lệ tiết kiệm cao, nguồn vốn dự trữ lớn, lưu lượng đầu tư trực tiếp từ nước ngoài cao, tỉ lệ nợ gần như không tồn tại, Singapore đã có khả năng "chịu đòn" cũng như đề ra các biện pháp kịp thời và quyết đoán để chống lại những ảnh hưởng tiêu cực đến từ đợt khủng hoảng. Thứ hai, khả năng linh hoạt trong việc điều khiển tỉ lệ hối đoái và tiền lương đã giúp Singapore hồi phục tốt hơn phần lớn các nước trong khu vực. Nỗ lực sự dụng nhiều chiến lược cùng một lúc (kết hợp với chính sách tài chính và tiền tệ), Singapore không những tránh được tình huống xấu nhất của khủng hoảng, mà còn "rải" gánh nặng cải biến lên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Thứ ba, các nhà chức trách Singapore từ lâu đã được người ta biết tới về phẩm chất kiên định và có uy tín cao. Chính vì thế, những thay đổi trong kế hoạch ngắn hạn không làm thị trường nghi ngờ việc "chung thủy" của Singapore với những mục tiêu dài hạn. Cuối cùng, Singapore đã cho thấy thành công trong việc tự do hóa tài chính, và chính điều này đã giữ vững vị trí trung tâm của Singapore trong ngành tài chính, ngay cả vào những giờ phút khó khăn. Đây cũng là thế mạnh của nền kinh tế Singapore, đưa đất nước này vượt qua mọi đợt tấn công tiền tệ. 2.2.4. Mô hình công ty tài chính của nhà nước Tập đoàn Temasek Holdings Limited được thành lập từ năm 1974 ở Singapore. Về hoàn cảnh ra đời và cách thức hoạt động của công ty nhà nước chuyên kinh doanh vốn nhà nước này, Simon Claude Israel - quốc tịch New Zealand, thường trú tại Singapore, giám đốc điều hành kiêm thành viên hội đồng quản trị tập đoàn này - trong chuyến sang Mỹ để lobby cho các dự án đầu tư của tập đoàn này đã giới thiệu trước Quốc hội Mỹ hôm 5/3 vừa qua như sau: “... Trong những năm ngay sau tuyên cáo độc lập vào năm 1965, Chính phủ Singapore đã liên doanh đầu tư vào một số xí nghiệp mới trong nỗ lực thúc đẩy phát triển kinh tế và tạo công ăn việc làm. Là một nước nhỏ mới độc lập, lại sống trên một hòn đảo nhỏ không có tài nguyên thiên nhiên, Singapore không có chọn lựa nào khác ngoài việc đảm bảo rằng những vụ đầu tư đó, về mặt kinh doanh, sẽ tồn tại được và bền vững.” Yêu cầu này được giao cho tiến sĩ Goh Keng Swee - phó thủ tướng, “kiến trúc sư” của công cuộc phát triển kinh tế và kỹ nghệ của Singapore. Nỗ lực tập trung vào các vụ đầu tư “ăn chắc mặc bền” của ông còn được tăng cường vào năm 1974 khi Chính phủ Singapore thành lập Tập đoàn Temasek, giao tập đoàn này trách nhiệm làm chủ sở hữu và quản lý khoảng 30 vụ đầu tư khởi nghiệp. Việc thành lập Temasek nhằm phục vụ yêu cầu tách biệt vai trò điều hòa và đề ra chính sách của chính phủ khỏi vai trò kinh doanh...”. Để thuyết phục Quốc hội Mỹ, Simon Claude Israel nhấn mạnh: Temasek lúc đó và ngày nay, sau 36 năm thành lập, luôn được quản lý bởi “kỷ luật thương trường” với mục tiêu “ăn chắc mặc bền” (tạm dịch: commercially viable and sustainable). Và chìa khóa thành công của Temasek, hiện đang làm chủ một tích sản lên đến 110 tỉ USD, chính là do có sự lãnh đạo tốt với sự tiếp sức của một ban cố vấn quốc tế tên tuổi, trong đó có một phó chủ tịch của tập đoàn dịch vụ tài chính Merrill Lynch và một chủ tịch sáng lập của một tập đoàn tài chính Mỹ. Việc thành lập Temasek nhằm phục vụ yêu cầu tách biệt vai trò điều hòa và đề ra chính sách của chính phủ khỏi vai trò kinh doanh...”. Nguồn vốn của Temasek được hình thành chủ yếu từ khoản tiết kiệm bắt buộc của người dân cùng với nguồn ngân sách nhà nước thu được từ thuế. Với số vốn đó, cùng với sự giúp đỡ của các chuyên gia kinh tế hàng đầu quốc gia và thế giới, Temasek tập trung đầu tư và kinh doanh vào một số lĩnh vực nhất định nhằm thu lại lợi nhuận cho quốc gia. Lợi nhuận đó sẽ được chia đều cho những người góp vốn, chính là những người dân đã phải trích ra một phần thu nhập của họ. Chính bởi lý do này mà ở Singapore, khoản trợ cấp khi về hưu của người dân là rất lớn. Khác với ở Việt Nam, với số lương hưu như vậy, người dân hoàn toàn có thể sống thoải mái với chính đồng lương của mình. Phần 3. Bài học cho Việt Nam 3.1. Một số điểm tương đồng cơ bản giữa Việt Nam và Singapore Cả hai quốc gia trên đều phải chịu một quãng thời gian đô hộ tương đối dài của các nước thực dân và trải qua rất nhiều những cuộc chiến trong suốt giai đoạn thế chiến thứ hai. Với Singapore, thực dân Anh và sau đó là phát xít Nhật đã làm chủ đất nước này về kinh tế, chính trị, xã hội cho tới tận năm 1959 mới giành được độc lập. Còn ở Việt Nam, đó là quãng thời gian nắm chính quyền của thực dân Pháp, phát xít Nhật rồi sau đó là cuộc chiến tranh 2 miền Nam Bắc mãi cho tới năm 1975 mới có được sự thống nhất chung. Chế độ chính trị do một đảng cầm quyền: Cả Việt Nam và Singapore hiện nay gần như đều đang tồn tại một hình thái chính trị chung đó là do một đảng lãnh đạo. Kể từ sau khi giành độc lập dân tộc năm 1975, dù đã có rất nhiều những ý kiến trái chiều, Việt Nam vẫn trung thành với chế độ một đảng, Đảng Cộng Sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam. Còn đối với Singapore, tuy có tồn tại chế độ đa đảng nhưng ngay từ những ngày đầu sau khi giải phóng dân tộc, Đảng Nhân dân Hành động (People’s Action Party – PAP) đã nắm toàn bộ chính quyền với 3 đời thủ tướng liên tiếp. Tiềm năng phát triển kinh tế biển: Việt Nam và Singapore là 2 trong số các quốc gia có nhiều lợi thế về kinh tế biển nhất trên thế giới. Cảng biển tại Singapore là một cảng biển vô cùng nhộn nhịp (vượt xa so với nhiều cảng biển còn lại trên thế giới). Chính vì lợi thế đó, quốc gia này đã thu về không ít lợi nhuận từ nguồn tài nguyên đặc biệt về địa hình này. Về phía Việt Nam, Hoàng Sa và Trường Sa cũng là 2 vùng biển có tiềm năng kinh tế không ở nhỏ. Nếu biết bảo vệ quyền lãnh thổ quốc gia kết hợp với việc phát triển một cách hợp lý khu vực đặc quyền kinh tế biển của mình, Việt Nam hoàn toàn có thể coi đây là một nguồn quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế và ngoại thương của quốc gia. Vị trí địa lý cùng nằm trong khu vực Đông Nam Á. Việt Nam và Singapore chắc chắn sẽ có những chính sách tương đồng trong việc phát triển chiến lược ngoại thương trong khu vực. Thật vậy, hai quốc gia trên đều đã rất tích cực tham gia vào các vấn đề chung của ASEAN, là những thành viên vô cùng năng động trong việc đóng góp vào thành công của khối thương mại tự do AFTA. Đi theo nền kinh tế thị trường: Cả Việt Nam và Singapore đều nhìn ra những điểm mạnh mà nền kinh tế thị trường đem lại. Đó là lợi thế về ngoại thương, phát triển năng lực sản xuất bắt nguồn từ gia tăng cạnh tranh, tự do chu chuyển vốn và lao động, kích thích đầu tư nước ngoài… Cùng tham gia nhiều tổ chức kinh tế: Cả Việt Nam và Singapore đều tham gia tổ chức thương mại quốc tế (WTO) và tổ chức Hợp tác Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC). Đây là những tổ chức kinh tế quan trọng của khu vực và trên thế giới, góp phần đẩy mạnh quan hệ kinh tế quốc tế của cả Việt Nam lẫn Singapore. Công ty kinh doanh vốn nhà nước: Việt Nam và Singapore là một trong số ít quốc gia trên thế giới đang duy trì công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC của Việt Nam, được thành lập năm 2005, còn tập đoàn Temasek của Singapore thành lập năm 1974). Về cơ bản, hai tập đoàn trên đều sử dụng hình thức kinh doanh là sử dụng vốn nhà nước để đầu tư vào các hoạt động kinh tế, xã hội nhằm thu lại lợi nhuận cho quốc gia. Với 1 nguồn vốn tương đối lớn thu về từ thuế và các khoản tiết kiệm quốc dân, các công ty này sẽ chính là điểm tựa vững chắc cho việc nâng cao mức sống người dân trong dài hạn ở cả 2 quốc gia Gắn sự phát triển quốc gia vào chính sách thương mại: cả Việt Nam và Singapore đều là các quốc gia có tỷ trọng thương mại trong tổng sản phẩm quốc nội tương đối lớn. GDP của hai nước đều phụ thuộc khá nhiều vào lượng hàng hoá xuất nhập khẩu. Tổng kim ngạch thương mại Việt Nam năm 2009 lớn hơn 1,5 lần, trong khi con số đó ở Singapore lên tới 3,63 lần. Tỷ lệ đầu tư cao: Ở Việt Nam, tỷ lệ đầu tư năm 2009 ước tính khoảng 35 tỉ USD (chiếm xấp xỉ 40% tổng thu nhập quốc dân). Còn Singapore vẫn luôn là mảnh đất thu hút đầu tư rất lớn, đặc biệt là đầu tư từ nước ngoài. Gói kích cầu đầu tư gần 20 tỉ USD vừa rồi chính là minh chứng rõ ràng cho luận điểm trên Tỷ lệ tiết kiệm cao. Singapore có thể nói là quốc gia có tỷ lệ tiết kiệm cao nhất thế giới. Tỷ lệ tiết kiệm bắt buộc ở đảo quốc sư tử này lên tới 20-25% thu nhập mỗi người dân. Từ năm 1955 tới 1984, tỷ lệ tiền gửi tiết kiệm đã tăng từ 10% lên đến 50%, tiền gửi được Nhà Nước bảo hiểm. Còn người dân Việt Nam từ lâu đời đã có ý thức tiết kiệm nhằm mục tiêu tiêu dùng trong tương lai. 3.2. Bài học cho Việt Nam 3.2.1. Phát triển tài chính 3.2.1.1. Hoạt động ngân hàng Hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc phân phối vốn, trước hết để thực hiện thành công công nghiệp hoá- hiện đại hóa, Chính phủ nên sớm có một khung pháp lý lành mạnh cho hệ thống tài chính, một khuôn khổ pháp lý và cơ chế giám sát hữu hiệu hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng nội địa như Singapore. Đồng thời, việc sử dụng chính sách kinh tế vĩ mô cũng như những hạn chế mục tiêu thời kỳ đầu là cần thiết để kìm chế sự bùng nổ cho vay, cho vay quá nhiều mà ngân hàng khó kiểm soát được chất lượng tín dụng, hoặc đẩy mạnh tín dụng phát triển kinh tế theo “kiểu bong bóng” là nguy cơ tổn thương của hệ thống ngân hàng. Xây dựng hệ thống ngân hàng có tiềm lực vững mạnh, nhanh chóng đa dạng các hình thức huy động vốn, cùng với đẩy mạnh phát triển thị trường tài chính nhằm khai thông vốn trong nước, đồng thời thu hút tư bản nước ngoài để đáp ứng vốn và kỹ thuật cho quá trình công nghiệp hóa. Bên cạnh đó, Chính phủ cần có biện pháp mở cửa đồng bộ cắt giảm thuế quan, chính sách ưu đãi tín dụng… để nâng cao chất lượng tín dụng. Khi định chế tài chính trong nước còn yếu kém, nhất là khi hệ thống ngân hàng chưa đủ khả năng phân phối tín dụng một cách hữu hiệu, việc tự do hóa thị trường vốn ngắn hạn là rất nguy hiểm. Dòng vốn tư bản ngắn hạn ồ ạt gây hiện tượng “thừa vốn”, dẫn đến tình trạng lãng phí, hâm nóng thị trường bất động sản, và sự đảo ngược dòng vốn này gây ra bất ổn trong thị trường tài chính. Cần có sự can thiệp kịp thời của Chính phủ đối với hệ thống ngân hàng, mở rộng tín dụng và thực hiện chính sách ưu đãi lãi suất đối với những mặt hàng, ngành công nghiệp ưu tiên hướng đến xuất khẩu, nhằm tạo động lực chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vấn đề hỗ trợ lãi suất cho tín dụng cần phải có chương trình hành động bước đi thích hợp với những chỉ tiêu cụ thể, với kinh nghiệm của các nước cần phải có chế độ kiểm soát chặt chẽ các khoản tín dụng để tránh nguy cơ thất thoát vốn. Tuy nhiên nếu sự can thiệp quá mức mang tính áp đặt của Chính phủ vào hoạt động ngân hàng sẽ trở nên bị gò bó, thiếu tính linh động, gây khó khăn cho ngân hàng trong tiến trình hội nhập quốc tế. Kết hợp đồng bộ, việc sửa đổi hệ thống pháp luật điều chỉnh hàng loạt về chính sách môi trường kinh tế, cải cách hành chính để mở cửa cho ngân hàng nước ngoài đầu tư, cởi bỏ mọi hạn chế về quyền sở hữu, hình thức hoạt động, kể cả huy động và giao dịch với các đối tác tiền gởi bằng VND và thiết lập các chi nhánh ngân hàng tại các địa phương; mở rộng việc cung cấp các dịch vụ cao cấp, dịch vụ chăm sóc khách hàng, dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt … trong đó, cần nghiên cứu nâng tỷ lệ sở hữu của các cổ đông nước ngoài tham gia đầu tư vào các ngân hàng thương mại Việt Nam (trên 30%) nhằm thu hút vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài vào thị trường tài chính Việt Nam.  Để tăng sức cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam khi mở rộng cửa cho ngân hàng nước ngoài đầu tư, Việt Nam cần tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng theo hướng hiện đại hóa; tăng vốn điều lệ tối thiểu của ngân hàng đủ sức cạnh tranh với ngân hàng nước ngoài, đồng thời cũng cố các ngân hàng thương mại trên địa bàn các địa phương để hạn chế sự thâm nhập và lan tỏa của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại đây.  3.2.1.2. Chính sách tài chính công Đối với nền tài chính công, Việt Nam có thể học Singapore một số bài học sau: Chống tham nhũng, lãng phí quyết liệt và có hiệu lực trên mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế – xã hội và chi tiêu tuỳ tiện công quỹ nhà nước không thể không là biện pháp lành mạnh hóa ngân sách nhà nước trong điều kiện hiện nay. Theo giáo sư Jon S.T. Quah, khoa chính trị học ở Đại học Quốc gia Singapore, kinh nghiệm của Singapore không dễ lặp lại ở các nước vì hoàn cảnh đặc thù và vì những chi phí chính trị và kinh tế của việc trả lương cao. Tuy nhiên, có sáu bài học có thể tham khảo: Một là, bộ máy lãnh đạo phải thực tâm chống tham nhũng và trừng phạt bất cứ ai có hành vi tai tiếng. Hai là, phải có các biện pháp chống tham nhũng đầy đủ, không có lỗ hổng và thường xuyên được xem lại để thay đổi, nếu cần thiết. Ba là, cơ quan chống tham nhũng phải trong sạch. Không nhất thiết phải có quá nhiều nhân viên, và bất kỳ thanh tra nào tham nhũng cũng phải bị trừng phạt và đuổi ra khỏi ngành. Bốn là, cơ quan chống tham nhũng phải tách khỏi bộ máy cảnh sát. Năm là, để giảm cơ hội tham nhũng tại các ngành dễ sa ngã như hải quan, thuế vụ, công an giao thông, các cơ quan này phải thường xuyên kiểm tra và thay đổi qui định làm việc. Sáu là, động cơ tham nhũng trong khối nhân viên nhà nước và quan chức có thể giảm bớt nếu lương và phụ cấp cho họ có tính cạnh tranh với khu vực tư nhân. Và dĩ nhiên, mọi chiến lược đều trở thành công cốc nếu lãnh đạo chỉ nói suông và thiếu ý chí chính trị. Tập trung nhiều hơn vào khu vực kinh tế tư nhân thay vì dồn vốn quá nhiều cho cá doanh nghiệp nước. Khu vực tư nhân chính là điểm xuất phát cho sự tăng trưởng quốc gia, là điểm bắt nguồn của sự sáng tạo vô hạn, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và thu hút lực lượng lao động khổng lồ. Singapore chính là điển hình trong việc tập trung vào kinh tế tư nhân khi gói kích cầu trị giá 20.5 tỉ SGD của họ đã giành tới 8,4 tỉ cho khu vưc doanh nghiệp này. Để sử dụng một cách hợp lý nguồn tài sản quốc gia, nước láng giềng Singapore đã có một cách hữu hiệu đó là lập công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước Temasek vào năm 1974. Mới đây, Việt Nam cũng đã thành lập tập đoàn kinh doanh và đầu tư vốn nhà nước (SCIC) như vậy với số vốn điều lệ lên tới 15.000 tỉ đồng. Nhìn vào thành công của Temasek, “cha đẻ” trong công cuộc phát triển của Singapore đã có một bài học rất lớn giành cho Việt Nam. Trong bài phát biểu của mình, Bộ trưởng Công thương của Singapore đã từng nói: “Một trong những ảo tưởng tai họa mà nhiều nước thuộc thế giới thứ ba đang nuôi dưỡng là quan niệm cho rằng các nhà chính trị và các quan chức có thể đảm nhận thành công các vai trò kinh doanh. Cho dù có phải đứng trước thực tế ngược lại hoàn toàn thì càng lạ lùng là người ta vẫn cứ tin vào ảo tưởng đó”. Từ đó, một kinh nghiệm trong quản lý vốn nhà nước của Việt Nam đó chính là để phát huy có hiệu quả số tiền khổng lồ này, cần phải có một đội ngũ chuyên gia hàng đầu chứ không phải là những nhà chính trị và các quan chức với đầu óc “công chức” cùng những “mệnh lệnh cách” của họ. Tính chuyên nghiệp của Temasek còn ở nơi tính “quốc tế” của đội ngũ nhân viên, trong đó 40% vị trí quản lý là người nước ngoài. Ngay cả đội ngũ nhân viên bản địa cũng vào hàng cao cấp trên trường quốc tế, tỉ như giám đốc điều hành bậc cao Vijay Parekh từng là Phó chủ tịch Ngân hàng American Express. Vừa qua, việc thành lập Công ty Đầu tư tài chính Nhà nước Tp.HCM có thể được coi như là một bước tiếp theo để nhân rộng mô hình này. 3.2.1.3. Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh thành trung tâm tài chính khu vực Năm 2009, Global Financial Centres Index, London đưa ra một bảng xếp hạng 14 yếu tố cạnh tranh cho một trung tâm tài chính. Đứng đầu là sự sẵn có nguồn nhân lực có kỹ năng, thứ hai là môi trường pháp lý, thứ ba là tiếp cận thị trường tài chính quốc tế, thư tư là sự sẵn có về hạ tầng kinh doanh. Trong số các yếu tố tiếp theo, mức độ quan trọng được dành cho môi trường kinh doanh công bằng và hợp lý; mức độ phản hồi của Chính phủ, chính sách thuế doanh nghiệp; chất lượng cuộc sống... Xét về nhiều mặt, thành phố Hồ Chí Minh còn nhiều điểm phải nỗ lực. Ngay ưu thế lớn nhất của thành phố là hệ thống ngân hàng sâu rộng, thì nhân lực cho ngành này vẫn thiếu và chưa đạt chuẩn. Với các định chế phi ngân hàng, vai trò các công ty tài chính và cho thuê tài chính còn mờ nhạt. Dịch vụ của các công ty bảo hiểm khá hạn chế. Đã có nhiều quỹ đầu tư ngoại hoạt động ở thành phố nhưng lại đăng ký và niêm yết ở nước ngoài... Ông Dominic Scriven, Tổng giám đốc Dragon Capital, khi đề cập đến cơ hội nào giúp thành phố Hồ Chí Minh trở thành trung tâm tài chính quốc gia, nêu lên bốn yếu tố: quản lý thị trường minh bạch nghiêm khắc, pháp luật rõ ràng, cởi mở cho sáng kiến và sản phẩm mới, môi trường cạnh tranh lành mạnh. “Giá trị cốt lõi của một trung tâm tài chính, sự thành công của nó nằm ở sự cân đối bốn nhân tố trên”, ông Scriven nhấn mạnh. Không phải ngẫu nhiên, Global Financial Centres Index đưa mức độ phản hồi của Chính phủ vào bảng các yếu tố cạnh tranh. Chính phủ có vai trò hàng đầu trong việc phát triển trung tâm tài chính thành phố. Chính phủ là người thiết lập cơ chế, tăng cường trách nhiệm và quyền hạn cho thành phố trong quản lý lĩnh vực tài chính trên địa bàn. Với sự bật đèn xanh của Chính phủ, ngay bây giờ thành phố Hồ Chí Minh có thể thành lập Ủy ban Xúc tiến phát triển trung tâm tài chính. Đây là bước đầu tiên để biến ước mơ trung tâm tài chính của thành phố thành hiện thực. 3.2.2. Chính sách phát triển ngoại thương. 3.2.2.1 Xây dựng chiến lược xuất khẩu hợp lý Quá trình phát triển xuất khẩu của một quốc gia thường được chia thành các thời kỳ nhất định với chiến lược phát triển lâu dài. Singapore đã có một chiến lược xuất khẩu rất thông minh với một lộ trình rõ ràng, đi từ xuất khẩu nguyên liệu, khoáng sản, sang xuất khẩu sản phẩm có hàm lượng lao động lớn, và cuối cùng là xuất khẩu sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Việt Nam hiện nay đã và đang đi trên con đường xuất khẩu nguyên liệu thô ( chiếm tới gần 40% GDP) và tăng cường xuất khẩu các mặt hàng có hàm lượng lao động lớn như dệt may và các mặt hàng nông thủy sản. Tuy nhiên dệt may Việt Nam vẫn chủ yếu là gia công ( chiếm tới hơn 70%) còn tỉ lệ xuất khẩu hàng FOB (mua nguyên liệu, bán thành phẩm ) lại thấp, chỉ chiếm 30% xuất khẩu. Điều này khiến thực tế rằng năm 2008 hàng may mặc Việt Nam (VN) chính thức lọt vào top 10 nước XK dệt may hàng đầu thế giới. Cùng với đó, kim ngạch XK hàng dệt may đã từng bước vượt qua nhiều ngành hàng khác để trở thành quán quân trong các ngành hàng XK của VN. Tuy nhiên, sự tăng trưởng hàng tỷ USD mỗi năm cũng chỉ là con số “hữu danh vô thực”. Vấn đề thay đổi cơ cấu trong xuất khẩu dệt may đang là mục tiêu hàng đầu của chính phủ và các doanh nghiệp dệt may tại Việt Nam. Để thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu dệt may, vấn đề trước hết mà chính phủ cần quan tâm đó là tăng cường xây dựng ngành công nghiệp phụ trợ và hỗ trợ việc nhập khẩu đầu vào, tạo điều kiện để giảm chi phí cho các doanh nghiệp, từng bước nâng cao số lượng cũng như chất lượng hàng FOB, giảm tỉ lệ gia công. Ngoài ra cần kể tới hướng đi mới trong xuất khẩu là gia công phần mềm. Đây là lĩnh vực sử dụng công nghệ cao của Việt Nam, tuy còn rất non trẻ nhưng dẫu sao đó cũng là bước đầu để chúng ta có hướng phát triển thích hợp trong tương lai. 3.2.2.2 Đầu tư cho xuất khẩu Theo các nhà chuyên môn, mức tiêu dùng thực tế của dân ta trong những năm gần đây thực tế đã giảm. Nhà nước đang có chủ trương kích cầu chính là tăng mức tiêu dùng của dân cư nhằm tạo ra tiền đề cho sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên với nhu cầu có khả năng thanh toán không nhiều do 75% dân cư sống ở nông thôn, nguồn thu nhập chủ yếu trông cậy vào lượng hàng nông sản thực phẩm, mà giá hàng nông sản thực phẩm thô trong nước cũng như quốc tế thường hay có biến động. Vai trò đẩy mạnh xuất khẩu đang là hướng trọng điểm nhằm cải thiện mức tổng cung, tăng thu nhập cho nông dân, đạt mục tiêu kích cầu đã đề ra. Đầu tư cho sản xuất nói chung và cho xuất khẩu nói riêng là một động lực cho sự phát triển, vì vậy, nhà nước cần áp dụng các biện pháp khuyến khích đầu tư nhằm hướng vào xuất khẩu. Cũng cần nhắc tới kinh nghiệm thành công của Singapore chỉ ra rằng đồng ngoại tệ kiếm được từ xuất khẩu khoáng sản, nguyên liệu thô, nông hải sản phải được dùng để mua máy móc thiết bị cho các ngành công nghiệp thâm dụng lao động (labour intensive) để có thể xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp có hàm lượng lao động lớn. Đây cũng là một hướng đi đúng đắn cho Việt Nam. Chính phủ cần có cơ chế hợp lý trong việc giám sát hoạt động xuất khẩu máy móc công nghiệp sao cho tận dụng và phát triển được các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động ở Việt Nam hiện nay như dệt may và dần đưa máy móc thiết bị chất lượng cao vào sản xuất và chế biến nông thủy sản, một ngành công nghiệp mà Việt Nam có nhiều thuận lợi cả về mặt tự nhiên và con người. Hiện nay , vấn đề này đã được đề cập nhiều nhưng chính phủ vẫn chưa có những động thái tích cực để phát triển. Nước ta 75% dân số vẫn ở nông thôn và phần rất lớn lao động làm trong khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản nhưng tỉ lệ cơ giới hóa trong sản xuất còn thấp. Mặc dù Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu nông lâm thủy sản vào loại lớn trên thế giới nhưng mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam lại không được đánh giá cao về mặt chất lượng khiến việc mở rộng và thâm nhập vào các thị trường khó tính như Mỹ, Châu Âu trở nên rất khó khăn. Chính vì thế, bài toán nâng cao chất lượng, cơ giới hóa khu vực sản xuất nông lâm thủy sản đi kèm với ngành công nghiệp chế biến cần được coi là một trong những mục tiêu hàng đầu trong chiến lược phát triển xuất khẩu trong tương lai gần của nước ta. * Nguồn vốn đầu tư cho sản xuất hàng xuất khẩu: Vốn đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu ở ta hiện nay gồm vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư nước ngoài gồm có: (1) ODA (Official Development Assistance): Vốn hỗ trợ phát triển chính thức, bao gồm ODA không hoàn lại và ODA với lãi suất ưu đãi, hàm chứa 25% vốn không hoàn lại; (2) FDI (Foreign Direct Investment): Đầu tư trực tiếp của nước ngoài; (3) Vốn vay thương mại từ nước ngoài, vốn đầu tư của các cơ quan ngoại giao, tổ chức quốc tế, viện trợ nhân đạo... Đây là những nguồn vốn vô cùng quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tăng trưởng và phát triển của mỗi quốc gia. Về vấn đề này, Singapore chính là hình mẫu lý tưởng để Việt Nam noi theo trong việc tận dụng các nguồn vốn đầu tư. Với một chính sach kiểm soát vốn hợp lý, ngăn chặn tối đa khả năng lãng phí vốn của một số cá nhân và tập đoàn nhà nước lớn, đưa ra chiến lược đầu tư một cách cụ thể, tập trung vào đẩy mạnh thương mại, thu về lợi nhuận trong ngắn hạn rồi tiếp tục sử dụng nguồn vốn đó để nâng cao đời sống người dân trong nước, chắc chắn Việt Nam sẽ đạt được những mục tiêu tăng trưởng mong muốn * Khắc phục những hệ quả của giai đoạn đầu tư Khoảng cách thời gian của những nỗ lực đầu tư nói trên thông thường đều gây ra một chu kỳ lạm phát. Kinh nghiệm của Singapore cũng chỉ ra rằng những chu kỳ này được khắc phục bằng nỗ lực tiết kiệm của toàn thể cộng đồng dân tộc (cả nhà nước lẫn nhân dân), một sự cải cách thủ tục hành chính, một quyết tâm xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất tốt (đường sá, điện nước, trường học, bệnh viện, hệ thống an sinh xã hội). Thời gian đầu tư sẽ được rút ngắn, hệ số ICOR sẽ giảm, hiệu quả của đầu tư sẽ tăng cao, tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ tiến rất nhanh và lạm phát sẽ được kiểm soát. Hệ thống tiết kiệm bắt buộc của Singapore cũng là một bài học để Việt Nam xem xét. Tăng đầu tư xuất khẩu nhưng cần phải có chính sách tiết kiệm hợp lý để giảm ảnh hưởng tới nền kinh tế trong nước. 3.2.2.3 Chính sách về tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái là nhân tố quan trọng trong quá trình thực hiện chiến lược phát triển đất nước, cụ thể là cân bằng giữa thương mại với nước ngoài (Xuất khẩu và nhập khẩu) và ổn định kinh tế nhằm tăng cường tiêu thụ hàng hoá trong nước, hướng tới tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Tỷ giá hối đoái luôn bị tác động bởi tình hình lạm phát trên thị trường nội địa và thị trường thế giới. Nhà nước phải tiến hành điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo các quá trình lạm phát có liên quan, tạo điều kiện cho doanh nghiệp xuất khẩu thực hiện cạnh tranh thành công trên thị trường quốc tế. Điều cần lưu ý là trên thực tế, một nước có quan hệ với rất nhiều bạn hàng, vì vậy khi tính toán tỷ giá hối đoái cần tính tỷ giá đó ở dạng song phương. Nhưng có thể có rất nhiều loại hàng và nhiều bạn hàng, nên trong tính toán chỉ chọn những khách hàng quan trọng nhất, mặt hàng quan trọng nhất để tính tỷ giá hối đoái. Trong cấu thành các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, nguyên liệu nhập khẩu chiếm tỉ trọng đến 70% là giá trị hàng nhập khẩu. Trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam thì dầu thô, hàng dệt may, thủy sản và gạo chiếm tỉ trọng tương đối lớn (khoảng gần 40%), mà giá trị xuất khẩu của các mặt hàng này chủ yếu dựa vào kết quả của hoạt động sản xuất và khả năng chiếm lĩnh thị trường quốc tế hơn là tỉ giá hối đoái. Do vậy, một sự giảm giá VND không chắc đã làm tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu bởi năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu chịu tác động bởi nhiều yếu tố đan xen nhau. Học tập kinh nghiệm của nước láng giềng Singapore, vào thời điểm này, Việt Nam nên nâng tỉ giá đồng nội tệ so với các đồng ngoại tệ mạnh khác trên thế giới, cụ thể là USD và EURO. Tuy rằng với chính sách này, việc xuất khẩu sẽ có đôi chút ảnh hưởng xấu, đặc biệt sẽ làm hàng hoá trở nên đắt tương đối hơn so với một vài bạn hàng khác trong cùng khu vực cũng như trên thế giới, nhưng về dài hạn, đây là công cụ hữu hiệu để ổn định kinh tế trong nước, kiềm chế lạm phát và nâng cao mức sống người dân. Không những thế, nó còn làm khoản nợ Chính phủ tính tới năm 2010 (gần 52% GDP) trở nên bớt khủng khiếp. Với một chính sách thắt chặt tiền tệ trong nước, Việt Nam còn tránh được những căng thẳng không đáng có với các quốc gia khác, gia tăng vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Còn đối với nhu cầu phải đẩy mạnh xuất khẩu tạo nguồn vốn tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn, Việt Nam có thể sử dụng một số chính sách trợ cấp xuất khẩu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước phát triển. Đây cũng là chính sách mà Singapore đã áp dụng rất thành công và đạt được những tăng trưởng vượt bậc. Dĩ nhiên, chính sách này chỉ nên được áp dụng khi thế giới đã vượt qua được cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ hiện nay. 3.2.2.4.Vấn đề mở rộng thị trường, xúc tiến thương mại Từ nhiều thập kỷ gần đây, Singapore đã rất quan tâm , chú trọng đến công tác xúc tiến thương mại nhằm đa dạng hóa thị trường và các công ty Singapore mở rộng đến các thị trường chưa được khai phá. Vai trò xúc tiến thương mại của Singapore thuộc về Hội đồng phát triển thương mại Singapore (TDB), chịu trách nhiệm trong việc thúc đẩy ngoại thương quốc tế đồng thời bảo vệ lợi ích của quốc đảo này. Việt Nam trước mắt cần tập trung tăng cường mối quan hệ thương mại với các thị trường lớn như Mỹ, Nhật, Châu Âu và Trung Quốc. Đây là những đối tác giúp Việt Nam tiêu thụ được các mặt hàng xuất khẩu và đem đến những lợi ích căn bản như nguồn vốn ODA, FDI và chuyển giao công nghệ. Bên cạnh đó, việc tìm kiếm các thị trường tiềm năng khác cũng cần được quan tâm. Kể từ sau khi gia nhập WTO, rất nhiều cơ hội hợp tác đã mở ra cho Việt Nam nhưng nhất thiết cần có lịch trình cụ thể, phân định rõ những thị trường có lợi cho làm ăn ổn định lâu dài. Ngoài ra, công tác xúc tiến cần hướng tới những mục tiêu như: - Kích thích một nền thương mại tự do và công bằng tại các diễn đàn quốc tế. - Mở ra các thị trường mới, nhằm đem lại những nguồn thu mới về thương mại - Thu hút đầu tư nước ngoài - Phát triển và tăng cường hạ tầng cơ sở thương mại và kinh doanh - Trợ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam ở ngoài nước Việc quảng bá hình ảnh Việt Nam cần được chú trọng hơn nữa trong những năm tới. Việt Nam vẫn còn nhiều vấn nạn như tệ tham nhũng, cửa quyền của quan chức, công tác quản lý yếu kém, rườm rà không hiệu quá. Những vấn đề này cần được khắc phục để tạo ra đươc thiện cảm trong con mắt bạn bè quốc tế Ngoài ra, chính phủ cần có biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng và củng cố thương hiệu sản phẩm của mình , tiến hành đăng ký cho từng loại sản phẩm, nhất là sự chuẩn bị đầu tư nguồn lực cho các hoạt động đăng ký bảo hộ thương hiệu và bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại nước ngoài. Xây dựng chiến lược sản phẩm, đây là giải pháp nhằm làm cơ sở và định hướng, từng bước tạo lập tên tuổi và khẳng định uy tín của mình trên thị trường. Xây dựng và phát triển các tổ chức xúc tiến thương mại, trợ cấp thích hợp. Đây là điều cần thiết, đầu mối giúp các doanh nghiệp thâm nhập thị trường nước ngoài, cung cấp thông tin thương mại, nghiên cứu thị trường… Kết luận Singapore đã vươn mình từ một nước thuộc thế giới thứ 3 lên hàng các nước thuộc thế giới thứ nhất. Trong quá trình phát triển của mình, Singapore đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu. Những bài học này rất bổ ích và có thể áp dụng vào thực tiễn Việt Nam do Việt Nam và Singapore có rất nhiều điểm tương đồng. Nhận thức được ý nghĩa quan trọng đó, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học về kinh nghiệm phát triển của Singapore trên phạm vi thế giới cũng như ở Việt Nam. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài này, tác giả đã cố gắng bám sát lý luận được trang bị ở môn kinh tế phát triển, từ đó đưa ra một số nhận định về kinh nghiệm phát triển của Singapore và đề xuất những bài học cho Việt Nam. Nhưng do thời gian nghiên cứu có hạn, kinh nghiệm nghiên cứu còn hạn chế, tài liệu tản mạn, đồng thời vấn đề mà tác giả nghiên cứu không phải là dễ. Vì vậy, đề tài không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Chúng em hy vọng rằng vấn đề này sẽ được tổ chức nghiên cứu ở phạm vi rộng lớn và sâu sắc hơn. Qua đây, chúng em xin gửi lời cám ơn chân thành đến giáo viên, Thạc sĩ Nguyễn Thị Hải Yến, giảng viên khoa Kinh tế Quốc tế, Đại học Ngoại thương đã hướng dẫn, giúp đỡ chúng em hoàn thành đề tài này./. Danh mục tài liệu tham khảo Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Thị Ngọc Phùng, Giáo trình Kinh tế Phát triển, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội, Hà Nội – 2006. Các link tham khảo: Nhóm thực hiện số 7 Họ và tên STT trong lớp Email Điện thoại Ghi chú Thân Thị Thoa Nguyễn Thị Hương Liên Trần Thị Thùy Dung Lê Đình Vũ 143 vule2009@gmail.com 0905.299.262 Nhóm trưởng Trần Quang Minh Nguyễn Kim An Nguyễn Thanh Tùng 135 Thanhtung_2108@yahoo.com 0851020096 Ngô Minh Tuân Ngô Hải Thịnh Email chung của nhóm: anh8k47kinhtephattrien@gmail.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnhom_so_7_kinh_nghiem_singapore_bai_hoc_vietnam_7492.doc