Đề tài Kiểm toán Việt Nam hiện nay

Tài liệu Đề tài Kiểm toán Việt Nam hiện nay: DA32 lời nói đầu Việc lập Báo cáo kiểm toán là khâu cuối cùng của quy trình kiểm toán Báo cáo tài chính. Báo cáo kiểm toán là sản phẩm của quá trình kiểm toán. Báo cáo kiểm toán thể hiện ý kiến của kiểm toán viên xác nhận sự trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của đơn vị được kiểm toán với mục đích đem lại niềm tin cho người sử dụng. Việc nghiên cứu báo cáo kiểm toán về vấn đề các nguyên tắc, chuẩn mực chi phối việc lập báo cáo kiểm toán là yêu cầu cần thiết đặt ra cho những người hoạt động trong ngành kiểm toán, và đặc biệt đối với sinh viên đang học tập và nghiên cứu chuyên ngành kiểm toán. Là một sinh viên của chuyên ngành đào tạo kiểm toán, em mong muốn được nghiên cứu để hiểu rõ hơn về Báo cáo kiểm toán và việc lập Báo cáo kiểm toán, đồng thời tìm hiểu về trách nhiệm của kiểm toán viên, công ty kiểm toán độc lập đối với Báo cáo kiểm toán phát hành. Đề án được trình bày trên cơ sở nghiên cứu về các nguyên tắc, chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hiệ...

doc28 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1306 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Kiểm toán Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DA32 lời nói đầu Việc lập Báo cáo kiểm toán là khâu cuối cùng của quy trình kiểm toán Báo cáo tài chính. Báo cáo kiểm toán là sản phẩm của quá trình kiểm toán. Báo cáo kiểm toán thể hiện ý kiến của kiểm toán viên xác nhận sự trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của đơn vị được kiểm toán với mục đích đem lại niềm tin cho người sử dụng. Việc nghiên cứu báo cáo kiểm toán về vấn đề các nguyên tắc, chuẩn mực chi phối việc lập báo cáo kiểm toán là yêu cầu cần thiết đặt ra cho những người hoạt động trong ngành kiểm toán, và đặc biệt đối với sinh viên đang học tập và nghiên cứu chuyên ngành kiểm toán. Là một sinh viên của chuyên ngành đào tạo kiểm toán, em mong muốn được nghiên cứu để hiểu rõ hơn về Báo cáo kiểm toán và việc lập Báo cáo kiểm toán, đồng thời tìm hiểu về trách nhiệm của kiểm toán viên, công ty kiểm toán độc lập đối với Báo cáo kiểm toán phát hành. Đề án được trình bày trên cơ sở nghiên cứu về các nguyên tắc, chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hiện hành và các nguyên tắc, chuẩn mực kiểm toán Quốc tế và thực trạng việc phát hành Báo cáo kiểm toán hiện nay cũng như ảnh hưởng của Báo cáo kiểm toán tới người sử dụng thông tin trên Báo cáo kiểm toán. Vì giới hạn của một đề tài và hiểu biết còn hạn chế, việc trình bày đề án không tránh khỏi sai sót. Em rất mong được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo và các bạn. Phần I. Lý luận chung 1. Khái quát chung về Báo cáo kiểm toán ( BCKT ) Khái niệm Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700 - Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính : Báo cáo kiểm toán là loại báo cáo bằng văn bản do kiểm toán viên và công ty kiểm toán lập và công bố để nêu rõ ý kiến chính thức của mình về báo cáo tài chính của một đơn vị đã được kiểm toán. Lập báo cáo kiểm toán là khâu cuối cùng của quá trình kiểm toán báo cáo tài chính (BCTC). BCKT là một bản thông báo về kết qủa cuộc kiểm toán về BCTC, dựa trên những bằng chứng thu được, kiểm toán viên sẽ soát xét, đánh giá những kết luận rút ra từ các bằng chứng về sự phù hợp của những thông tin định lượng trên BCTC cũng như sự tuân thủ các chuẩn mực, chế độ kế toán hiện hành khi lập BCTC. Theo quy định mang tính phổ biến của một quốc gia hoặc của Uỷ ban về chuẩn mực kiểm toán (IAPC) của Liên đoàn Kế toán Quốc tế (IFAC) thì BCKT về BCTC được quy định viết dưới dạng văn bản và phải tuân thủ các quy định cả về mặt nội dung và hình thức. Vai trò, ý nghĩa của báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính BCKT về BCTC có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong hoạt động kiểm toán và với người sử dụng BCTC. Đối với hoạt động kiểm toán: BCKT về BCTC là khâu cuối cùng trong quá trình thực hiện cuộc kiểm toán BCTC để trình bày kết quả của cuộc kiểm toán bằng những ý kiến đánh giá của kiểm toán viên về thông tin định lượng và trình bày BCTC theo quy định của chuẩn mực hoặc chế độ kế toán hiện hành. Chất lượng của cuộc kiểm toán thể hiện qua việc BCKT có phản ánh đúng về sự phù hợp của những thông tin định lượng trên BCTC và sự tuân thủ các quy định, chuẩn mực kế toán hiện hành hay không. Một BCKT phản ánh sát thực về sự trung thực, hợp lý trên BCTC đem lại sự tin cậy cho người sử dụng BCTC sẽ khẳng định vai trò của hoạt động kiểm toán trong nền kinh tế Đối với người sử dụng BCTC: Người sử dụng BCKT về BCTC là các nhà đầu tư, các tổ chức tín dụng, cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế (đặc biệt là cơ quan thuế), các nhà cung cấp, khách hàng, các cổ đông… BCKT đem lại niềm tin cho những người sử dụng BCTC của doanh nghiệp. BCTC khi có BCKT đính kèm giúp người sử dụng BCTC đánh giá được độ tin cậy của các thông tin định lượng trên BCTC, trên cơ sở đó mà họ có các quyết định kinh tế đúng đắn, hiệu quả trong mối quan hệ kinh tế đối với tổ chức hoặc doanh nghiệp có BCTC này. Kết quả kiểm toán là nguồn thông tin đáng tin cậy nhất cho các cấp lãnh đạo, cho các ngành và cho mọi đối tượng khác sử dụng thông tin trên BCKT. Nếu BCTC của doanh nghiệp thể hiện là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, thực hiện nghiêm chỉnh các chế độ, chính sách của Nhà nước… thì thông tin đó chưa đáng tin cậy, nhưng thông qua BCKT nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì uy tín của doanh nghiệp đó càng được nâng cao. BCKT của các tổ chức kiểm toán độc lập được lập theo quy định của pháp luật và phải tuân thủ những chuẩn mực, phương pháp chuyên môn được pháp luật công bố hoặc thừa nhận. BCKT của các tổ chức kiểm toán độc lập phải đảm bảo tính trung thực, khách quan và các công ty công bố kết quả kiểm toán phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những kết luận, xác nhận hoặc những đánh giá của mình. Như vậy BCKT (đúng đắn) luôn có giá trị pháp lý nội tại của nó. Trong những trường hợp đó, các cơ quan công quyền (bao gồm cả Kiểm toán Nhà nước) và những người quan tâm có thể sử dụng BCKT của công ty kiểm toán độc lập cho hoạt động của mình. Đặc biệt đối với kiểm toán Nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ kiểm toán có thể sử dụng BCKT của công ty kiểm toán độc lập nếu xét thấy BCKT đó đảm bảo chất lượng và yêu cầu của kiểm toán nhà nước. Điều này giúp rút ngắn thời gian kiểm toán, tiết kiệm chi phí kiểm toán và đỡ gây phiền hà cho đơn vị được kiểm toán. 2. Nội dung Báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính 2.1 Các yếu tố cơ bản và nội dung các yếu tố trên báo cáo kiểm toán Chuẩn mực kiểm toán số 700 – Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính quy định về các yếu tố cơ bản của một báo cáo kiểm toán và nội dung các yếu tố trên báo cáo kiểm toán như sau. Tên và địa chỉ Công ty kiểm toán BCKT phải nêu rõ tên, biểu tượng, địa chỉ giao dịch, số điện thoại, số fax và số hiệu liên lạc khác của công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán phát hành BCKT Trường hợp có từ hai (02) công ty kiểm toán trở lên cùng thực hiện một (01) cuộc kiểm toán thì phải ghi đầy đủ các thông tin nêu trên của công ty cùng ký BCKT Số hiệu báo cáo kiểm toán về BCTC BCKT phải ghi rõ số hiệu phát hành BCKT của công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán theo từng năm (số đăng ký chính thức trong hệ thống văn bản của công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán). Tiêu đề báo cáo kiểm toán về BCTC BCKT phải có tiêu đề rõ ràng và thích hợp để phân biệt với báo cáo do người khác lập. BCKT được phép sử dụng tiêu đề “Báo cáo kiểm toán”, hoặc “Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính”, hoặc “Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính năm… của Công ty…”. Người nhận BCKT về BCTC. BCKT phải ghi rõ được người nhận BCKT phù hợp với Hợp đồng kiểm toán. Người nhận có thể là Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc các cổ đông đơn vị được kiểm toán. Ví dụ: “Kính gửi: Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc Tổng công ty…” BCKT phải được đính kèm với BCTC được kiểm toán Mở đầu của báo cáo kiểm toán về BCTC. BCKT phải ghi rõ các BCTC là đối tượng của cuộc kiểm toán cũng như ghi rõ ngày lập và phạm vi niên độ tài chính mà BCTC đó phản ánh. BCKT phải khẳng định rõ ràng việc lập BCTC là thuộc trách nhiệm của Giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị được kiểm toán. Trách nhiệm của kiểm toán viên và công ty kiểm toán là đưa ra ý kiến về BCTC dựa trên kết quả kiểm toán của mình. BCTC phản ánh các thông tin kinh tế, tài chính của doanh nghiệp. Việc lập BCTC đòi hỏi Giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị phải tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành hoặc được chấp nhận, phải lựa chọn các nguyên tắc và phương pháp kế toán cũng như đưa ra các ước tính kế toán và các xét đoán thích hợp. Ngược lại trách nhiệm của kiểm toán viên và công ty kiểm toán là kiểm tra các thông tin trên BCTC và đưa ra ý kiến về báo cáo này. Ví dụ đoạn mở đầu như sau: “ Chúng tôi đã kiểm toán BCTC gồm: Bảng cân đối kế toán tại ngày 31/12/X, Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính năm tài chính kết thúc ngày 31/12/X được lập ngày… của Công ty ABC từ trang… đến trang…kèm theo. Việc lập và trình bày báo cáo tài chính này thuộc trách nhiệm của giám đốc (hoặc người đứng đầu) công ty. Trách nhiệm của chúng tôi là đưa ra ý kiến về các báo cáo này căn cứ trên kết quả kiểm toán của chúng tôi” Phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán BCTC. BCKT phải nêu rõ phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán bằng cách khẳng định rằng công việc kiểm toán đã được thực hiện theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, hoặc chuẩn mực kiểm toán quốc tế được chấp nhận. Điều đó chỉ khả năng của kiểm toán viên thực hiện các thủ tục kiểm toán xét thấy cần thiết tuỳ theo từng tình huống cụ thể. Thủ tục này là cần thiết để đảm bảo cho người đọc BCKT hiểu rằng cuộc kiểm toán đã được thực hiện theo các chuẩn mực và thông lệ được thừa nhận. Trong trường hợp riêng biệt, kiểm toán viên đã thực hiện các thủ tục kiểm toán khác thì cần phải ghi rõ trong BCKT. BCKT phải ghi rõ là công việc kiểm toán đã được thực hiện để có sự đảm bảo hợp lý là các BCTC không còn chứa đựng các sai phạm trọng yếu. BCKT phải nêu rõ các công việc đã thực hiện, gồm: Các phương pháp kiểm toán (chọn mẫu, thử nghiệm cơ bản…) những bằng chứng kiểm toán đủ để xác minh được thông tin trên BCTC. Đánh giá việc tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận); Các nguyên tắc và phương pháp kế toán được áp dụng để lập BCTC; Đánh giá được các ước tính kế toán và xét đoán quan trọng đã được Giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị được kiểm toán thực hiện khi lập BCTC. Đánh giá việc trình bày toàn bộ tình hình tài chính trên các BCTC. BCKT phải nêu rõ là cuộc kiểm toán đã cung cấp những cơ sở hợp lý để làm căn cứ cho ý kiến của kiểm toán viên. Ví dụ đoạn nêu Phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán, như sau: “ Chúng tôi đã thực công việc kiểm toán theo các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (hoặc chuẩn mực kiểm toán quốc tế được chấp nhận). Các chuẩn mực này yêu cầu công việc kiểm toán lập kế hoạch và thực hiện để có sự đảm bảo là BCTC không còn chứa đựng các sai sót trọng yếu. Chúng tôi đã thực hiện việc kiểm tra theo phương pháp chọn mẫu và áp dụng các thử nghiệm cần thiết, các bằng chứng xác minh các thông tin trong BCTC; đánh giá việc tuân thủ các chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), các nguyên tắc và phương pháp kế toán được áp dụng, các ước tính và xét đoán quan trọng của Giám đốc cũng như cách trình bày tổng quát các BCTC. Chúng tôi cho rằng công việc kiểm toán của chúng tôi đã đưa ra những cơ sở hợp lý để làm căn cứ cho ý kiến của chúng tôi” ý kiến của kiểm toán viên và công ty kiểm toán a) ý kiến của kiểm toán viên và công ty kiểm toán BCKT phải nêu rõ ý kiến của kiểm toán viên và công ty kiểm toán về BCTC trên phương diện phản ánh (hoặc trình bày) trung thực, hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu, trên phương diện tuân thủ các chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), và việc tuân thủ các quy định pháp lý có liên quan. Khi đánh giá sự tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành để lập BCTC, cần đánh giá trên phương diện tuân thủ các chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành (hoặc chuẩn mực kế toán quốc tế, hoặc chuẩn mực và chế độ kế toán thông dụng khác được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận) bằng mẫu câu như : “BCTC được lập phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành (hoặc chuẩn mực kế toán quốc tế, hoặc chuẩn mực và chế độ kế toán thông dụng khác được Bộ Tài chính chấp nhận tại văn bản số… ngày…) và phù hợp với các quy định pháp lý có liên quan”. Ngoài ý kiến đã được nêu ra về việc BCTC có tính trung thực và hợp lý và có tuân thủ các chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành (hoặc chuẩn mực kế toán quốc tế, hoặc chuẩn mực và chế độ kế toán thông dụng khác được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận) hay không, BCKT còn phải đưa ra ý kiến về tính tuân thủ của BCTC đối với các quy định pháp lý có liên quan khác. Ví dụ đoạn nêu ý kiến được đưa ra như sau: “Theo ý kiến của chúng tôi, BCTC đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của công ty ABC tại ngày 31/12/X cũng như kết quả kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc tại ngày 31/12/X, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và các quy định pháp lý có liên quan” Trường hợp không xác định được chuẩn mực kế toán được sử dụng để lập BCTC là của quốc gia nào thì tên của nước – nơi doanh nghiệp khách hàng hoạt động phải được nêu ra trong BCKT Khi BCTC được gửi ra ngoài Việt Nam thì trong BCKT của mình, kiểm toán viên phải nhắc đến các nguyên tắc và chuẩn mực kiểm toán Việt Nam đã áp dụng, ví dụ bằng một đoạn như : “Phù hợp với chế độ kế toán Việt Nam hiện hành “. Hoặc : ”Phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán phổ biến được Việt Nam chấp nhận …” Thông tin cụ thể này cho phép người sử dụng BCTC biết chính xác các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán đã được áp dụng để lập BCTC.Trong trường hợp BCTC được lập ra để sử dụng ở ngoài Việt Nam (Ví dụ: BCTC được dịch ra ngôn ngữ, hoặc chuyển đổi ra đơn vị tiền tệ khác bản BCTC gốc) kiểm toán viên cần xác định xem có cần ghi rõ chuẩn mực kế toán quốc tế hoặc chuẩn mực kế toán khác được chấp nhận đã sử dụng để lập BCTC trong phần thuyết minh BCTC hay không? b) Phụ lục Báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính. Trong một số trường hợp thấy cần thiết phải BCKTổ sung thêm thông tin về kết quả cuộc kiểm toán đã được trình bày trên BCKT, kiểm toán viên được phép lập thêm phần Phụ lục đính kèm BCKT, như: Phần trình bày rõ thêm các thông tin về yếu tố ngoại trừ, bảng tính số liệu chi tiết, các kiến nghị của kiểm toán viên… Thư quản lý. Để giúp đơn vị chấn chỉnh công tác quản lý tài chính, kế toán, xây dựng và hoàn thiện hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên và công ty kiểm toán được phép lưu hành Thư quản lý. Thư quản lý mô tả về từng sự kiện cụ thể, gồm: Hiện trạng thực tế, khả năng rủi ro, kiến nghị của kiểm toán viên và ý kiến của người quản lý liên quan đến sự kiện đó. Thư quản lý được trình bày về một hay nhiều sự kiện do kiểm toán viên quyết định. Thư quản lý là một phần kết quả của cuộc kiểm toán nhưng không nhất thiết phải đính kèm BCKT . Địa điểm và thời gian lập báo cáo kiểm toán về BCTC BCKT phải ghi rõ ngày, tháng, năm kết thúc toàn bộ công việc kiểm toán. Điều này cho phép người sử dụng BCTC biết rằng kiểm toán viên đã xem xét đến các sự kiện (nếu có) ảnh hưởng đến BCTC hoặc BCKT cho đến tận ngày ký BCKT. BCKT phải ghi rõ địa điểm (Tỉnh, thành phố) của công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán chịu trách nhiệm phát hành BCKT. Ngày ký BCKT không được ghi trước ngày Giám đốc (hoặc người đứng đầu đơn vị ký BCTC. Trường hợpBCTC được điều chỉnh và lập lại trong quá trình kiểm toán thì ngày ký BCKT được phép ghi cùng ngày với ngày ký BCTC. Chữ ký và đóng dấu BCKT phải ghi rõ họ tên, số hiệu của kiểm toán viên đã đăng ký hành nghề kiểm toán ở Việt Nam. Người chịu trách nhiệm kiểm toán và ký rõ tên của Giám đốc (hoặc người được uỷ quyền). Trên chữ ký của Giám đốc (hoặc người được uỷ quyền) phải đóng dấu của công ty (hoặc chi nhánh công ty) chịu trách nhiệm phát hành BCKT. Giữa các trang của BCKT và BCTC đã được kiểm toán phải đóng dấu giáp lai. Phù hợp với thông lệ chung của Quốc tế, Giám đốc (hoặc người được uỷ quyền) được phép ký bằng tên của công ty kiểm toán thay cho chữ ký tên của mình, nhưng vẫn phải ghi rõ họ và tên, số hiệu giấy phép hành nghề kiểm toán ở Việt Nam của chính mình, và đóng dấu công ty kiểm toán. Trường hợp có từ hai (02) công ty kiểm toán cùng thực hiện một (01) cuộc kiểm toán thì BCKT phải được ký bởi Giám đốc (hoặc người được uỷ quyền) của đủ các công ty kiểm toán theo đúng thủ tục quy định. Trường hợp này kiểm toán viên chịu trách nhiệm kiểm toán không phải ký tên trên BCKT. “Người được uỷ quyền” ký BCKT có thể là Phó Giám đốc công ty, Giám đốc hoặc phó Giám đốc chi nhánh và phải là người có giấy phép hành nghề kiểm toán ở Việt Nam và phải được Giám đốc công ty uỷ quyền bằng văn bản. Ngôn ngữ trình bày trên BCKT Ngôn ngữ trình bày trên BCKT là tiếng Việt Nam hoặc tiếng Việt Nam và một thứ tiếng nước ngoài khác đã thoả thuận trên hợp đồng kiểm toán. Báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính hợp nhất BCKT phải lập riêng cho từng cuộc kiểm toán BCTC của từng đơn vị khách hàng (Công ty, đơn vị có tư cách pháp nhân độc lập) theo thoả thuận ghi trên hợp đồng kiểm toán. Trường hợp kiểm toán BCTC hợp nhất của Tổng công ty, theo thoả thuận trên hợp đồng kiểm toán, nếu kiểm toán BCTC cho từng công ty độc lập của Tổng công ty thì phải lập BCKT cho từng công ty độc lập. Nếu kiểm toán BCTC cho từng đơn vị phụ thuộc trong Tổng công ty thì được phép lập BCKT hoặc “Biên bản kiểm toán”. Biên bản kiểm toán này phải bao gồm các nội dung cơ bản của BCKT. BCKT về BCTC hợp nhất của Tổng công ty phải được lập dựa trên kết quả kiểm toán được thực hiện đối với các đơn vị thành viên, và kết quả kiểm tra BCTC hợp nhất. 2.2 ý kiến của kiểm toán viên trình bày trên BCKT BCKT về BCTC phải nêu rõ ý kiến của kiểm toán viên về các BCTC đã thực hiện kiểm toán trên hai phương diện: Phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu các thông tin định lượng của BCTC và kết quả kinh doanh và việc tuân thủ các chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), cũng như việc tuân thủ các quy định pháp lý có liên quan đến hoạt động của đơn vị được kiểm toán. Căn cứ vào kết quả kiểm toán, kiểm toán viên đưa ra một trong các loại ý kiến về BCTC như sau: ý kiến chấp nhận toàn phần. ý kiến chấp nhận từng phần. ý kiến từ chối (hoặc ý kiến không thể đưa ra ý kiến). ý kiến không chấp nhận (hoặc ý kiến trái ngược) Mỗi khi kiểm toán viên đưa ra ý kiến không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần (ý kiến chấp nhận từng phần, ý kiến từ chối, ý kiến không chấp nhận) thì phải mô tả rõ ràng trong BCKT về BCTC tất cả những lý do chủ yếu dẫn đến ý kiến đó và định lượng, nếu được, những ảnh hưởng đến BCTC. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700 – Báo cáo kiểm toán về Báo cáo tìa chính quy định nội dung ý kiến kiểm toán viên trình bày trên BCKT như sau: 2.2.1. ý kiến chấp nhận toàn phần BCKT đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần được trình bày trong trường hợp kiểm toán viên và công ty kiểm toán cho rằng BCTC phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của đơn vị được kiểm toán, và phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành (hoặc được chấp nhận). ý kiến chấp nhận toàn phần cũng có hàm ý rằng tất cả các nguyên tắc kế toán và các thay đổi về nguyên tắc kế toán và các tác động của chúng đã được xem xét, đánh giá một cách đầy đủ và đã được đơn vị nêu rõ trong phần thuyết minh BCTC. Ví dụ: “ Theo ý kiến của chúng tôi, BCTC đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của công ty ABC tại ngày 31/12/X, cũng như kết quả kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc tại ngày 31/12/X, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và các quy định pháp lý có liên quan”. ý kiến chấp nhận toàn phần được áp dụng cho cả trường hợp BCTC được kiểm toán có những sai sót nhưng đã được kiểm toán viên phát hiện và đơn vị đã điều chỉnh theo ý kiến của kiểm toán viên; BCTC sau khi đã được điều chỉnh được kiểm toán viên chấp nhận. Trường hợp này thường dùng mẫu câu: “Theo ý kiến của chúng tôi, BCTC sau khi đã điều chỉnh theo ý kiến của kiểm toán viên đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu…”. ý kiến chấp nhận toàn phần còn được áp dụng cho cả trường hợp BCKT có một đoạn nhận xét để làm sáng tỏ một số yếu tố ảnh hưởng không trọng yếu đến BCTC, nhưng có ảnh hưởng đến BCTC. Ví dụ: “ Theo ý kiến của chúng tôi, BCTC đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của công ty ABC tại ngày 31/12/X, cũng như kết quả kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc tại ngày 31/12/X, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và các quy định pháp lý có liên quan. ở đây chúng tôi không phủ nhận ý kiến chấp nhận toàn phần như trên, mà chỉ muốn lưu ý người đọc BCTC đến điểm X trong phần thuyết minh BCTC: Công ty ABC đã đưa vào sử dụng công trình xây dựng có giá trị XX VNĐ, 3 tháng trước ngày kết thúc niên độ tài chính, nhưng chưa ghi tăng tài sản cố định, chưa tính khấu hao và cũng chưa lập dự phòng. Điều này cần được thuyết minh rõ ràng trong BCTC …”. ý kiến chấp nhận toàn phần không có nghĩa là BCTC được kiểm toán là hoàn toán đúng, mà có thể có sai sót nhưng sai sót đó là không trọng yếu. 2.2.2. ý kiến chấp nhận từng phần BCKT đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần được trình bày trong trường hợp kiểm toán viên và công ty kiểm toán cho rằng BCTC chỉ phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của đơn vị, nếu không bị ảnh hưởng bởi yếu tố tuỳ thuộc hoặc ngoại trừ mà kiểm toán viên đã nêu ra trong BCKT. Điều này cũng có nghĩa là nếu các yếu tố do kiểm toán viên nêu ra trong BCKT có ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC thì BCTC đó không phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu. a) ý kiến chấp nhận từng phần có yếu tố tuỳ thuộc. Yếu tố tuỳ thuộc là yếu tố trọng yếu nhưng không chắc chắn, như các vấn đề liên quan đến tính liên tục hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hoặc một khoản doanh thu có thể không được công nhận làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của công ty. Yếu tố tuỳ thuộc do kiểm toán viên nêu ra thường liên quan đến các sự kiện có thể xảy ra trong tương lai nằm ngoài khả năng kiểm soát của đơn vị và kiểm toán viên. Việc đưa ra yếu tố tuỳ thuộc cho phép kiểm toán viên hoàn thành trách nhiệm kiểm toán của mình nhưng cũng làm cho người đọc BCTC phải lưu ý và tiếp tục theo dõi khi sự kiện có thể xảy ra. Ví dụ về BCKT có yếu tố tuỳ thuộc: “ Theo ý kiến của chúng tôi, BCTC đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của công ty ABC tại ngày 31/12/X , cũng như kết quả kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc tại ngày 31/12/X , phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và các quy định pháp lý có liên quan tuỳ thuộc vào: Khoản doanh thu XX VNĐ được chấp nhận; Khoản chi XY VNĐ được Hội đồng quản trị thông qua” ý kiến chấp nhận từng phần được đưa ra trong trường hợp kiểm toán viên cho rằng không thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần, và những phần không chấp nhận do không đồng ý với Giám đốc hay do công việc kiểm toán bị giới hạn, là quan trọng nhưng không liên quan tới một số lượng lớn các khoản mục tới mức có thể dẫn đến “ý kiến từ chối, hoặc ý kiến không chấp nhận”. b) ý kiến chấp nhận có ngoại trừ. ý kiến chấp nhận từng phần còn được thể hiện bởi thuật ngữ “ngoại trừ” ảnh hưởng của các vấn đề không được chấp nhận, bằng mẫu câu: “ ngoại trừ những ảnh hưởng (nếu có) của những vấn đề nêu trên, BCTC phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu…”. 2.2.3. ý kiến từ chối (hoặc ý kiến không thể đưa ra ý kiến) ý kiến từ chối (hoặc ý kiến không thể đưa ra ý kiến) được đưa ra trong trường hợp hậu quả của việc giới hạn phạm vi kiểm toán là quan trọng hoặc thiếu thông tin liên quan đến một số lượng lớn các khoản mục tới mức mà kiểm toán viên không thể thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán để có thể cho ý kiến về BCTC, bằng mẫu câu: “”Theo ý kiến của chúng tôi, vì các lý do trên, chúng tôi không thể đưa ra ý kiến về BCTC…”. 2.2.4. ý kiến không chấp nhận (hoặc ý kiến trái ngược) ý kiến không chấp nhận (hoặc ý kiến trái ngược) được đưa ra trong trường hợp các vấn đề không thống nhất với Giám đốc là quan trọng hoặc liên quan tới một số lượng lớn các khoản mục đến mức độ mà kiểm toán viên cho rằng ý kiến chấp nhận từng phần là chưa đủ để thể hiện tính chất và mức độ sai sót trọng yếu của BCTC, bằng mẫu câu: “ Theo ý kiến của chúng tôi, vì ảnh hưởng trọng yếu của những vấn đề nêu trên, BCTC phản ánh không trung thực và không hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu…”. Mỗi khi kiểm toán viên đưa ra ý kiến không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần (ý kiến chấp nhận từng phần, ý kiến từ chối, hoặc ý kiến không chấp nhận) thì phải mô tả rõ ràng trong BCKT tất cả những lý do chủ yếu dẫn đến ý kiến đó và định lượng, nếu được, những ảnh hưởng đến BCTC. Thông thường, các thông tin này được ghi trong một đoạn riêng nằm trước đoạn đưa ra ý kiến của kiểm toán viên, và có thể tham chiếu đến một đoạn thuyết minh chi tiết hơn trong BCTC (nếu có) 3. Yêu cầu lập, trình bày và gửi Báo cáo kiểm toán. 3.1 Yêu cầu lập, trình bày và gửi BCKT. Khi kết thúc cuộc kiểm toán BCTC, kiểm toán viên phải lập BCKT về BCTC trình bày ý kiến của kiểm toán viên về tính trung thực và hợp lý của các thông tin định lượng và sự trình bày các thông tin định lượng này trên BCTC do đơn vị (tổ chức, doanh nghiệp) mời kiểm toán đã lập. BCKT về BCTC phải được trình bày theo chuẩn mực kiểm toán quy định cả về nội dung, kết cấu và hình thức. Sự trình bày nhất quán về nội dung, kết cấu và hình thức để người đọc dễ nhận biết khi có tình huống bất thường xảy ra. BCKT về BCTC phải được đính kèm với BCTC được kiểm toán. 3.2 Điều kiện thay đổi ý kiến của kiểm toán viên trên Báo cáo kiểm toán. kiểm toán viên không thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần trong trường hợp xảy ra một trong các tình huống có thể ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC, như: Phạm vi công việc kiểm toán bị giới hạn: Phạm vi công việc kiểm toán bị giới hạn đôi khi là do khách hàng áp đặt (Ví dụ: Trường hợp các điều khoản của hợp đồng kiểm toán thoả thuận rằng kiểm toán viên không được thực hiện một số thủ tục kiểm toán mà kiểm toán viên cho là cần thiết). Tuy nhiên, nếu kiểm toán viên cho rằng giới hạn này lớn đến mức có thể dẫn đến ý kiến từ chối, thì hợp đồng bị giới hạn này sẽ không được coi là hợp đồng kiểm toán, trừ khi kiểm toán viên bị bắt buộc về mặt pháp luật. Trường hợp hợp đồng kiểm toán trái với nghĩa vụ pháp lý của mình thì kiểm toán viên nên từ chối. Phạm vi công việc kiểm toán bị giới hạn có thể do hoàn cảnh thực tế (Ví dụ: Kế hoạch kiểm toán không cho phép kiểm toán viên tham gia kiểm kê hàng tồn kho). Giới hạn cũng có thể do tài liệu kiểm toán không đầy đủ, hoặc là do kiểm toán viên không thể thực hiện các thủ tục kiểm toán cần thiết. Trong trường hợp này, kiểm toán viên phải cố gắng thực hiện các thủ tục kiểm toán thay thế để thu thập đầy đủ bằng chứng thích hợp để làm cơ sở cho ý kiến chấp nhận toàn phần. Trường hợp do giới hạn phạm vi công việc kiểm toán dẫn đến ý kiến chấp nhận từng phần hoặc ý kiến từ chối, thì BCKT phải mô tả các giới hạn này và những điều chỉnh liên quan đến BCTC, nếu không có sự giới hạn này. Ví dụ về phạm vi kiểm toán bị giới hạn: “…Chúng tôi đã không thể tham gia kiểm kê hàng tồn kho vào ngày 31/12/X, vì tại thời điểm đó chúng tôi chưa được bổ nhiệm làm kiểm toán. Với những tài liệu hiện có ở đơn vị, chúng tôi cũng không thể kiểm tra tính đúng đắn của số lượng hàng tồn kho tại thời điểm trên bằng các thủ tục kiểm toán khác. Theo ý kiến chúng tôi, ngoại trừ những ảnh hưởng (nếu có) đến BCTC vì lý do nêu trên. BCTC đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu…” Hoặc: “… Do những hạn chế từ phía đơn vị mà chúng tôi đã không kiểm tra được toàn bộ doanh thu, cũng không nhận được đủ các bản xác nhận nợ phải thu từ khách hàng, và vì tính trọng yếu của các sự kiện này, chúng tôi từ chối đưa ra ý kiến của mình về BCTC của đơn vị.” Không nhất trí với Giám đốc đơn vị được kiểm toán: Trường hợp kiểm toán viên không nhất trí với Giám đốc một số vấn đề như việc lựa chọn và áp dụng các chuẩn mực và chế độ kế toán, hay sự không phù hợp của các thông tin ghi trong BCTC hoặc phần thuyết minh BCTC, hay các BCTC của doanh nghiệp không phù hợp với các quy định pháp lý có liên quan. Nếu những điểm không nhất trí với Giám đốc là trọng yếu đối với BCTC, thì kiểm toán viên phải đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần hoặc ý kiến không chấp nhận. Ví dụ về không nhất trí với Giám đốc: “… Như đã nêu trong phần thuyết minh X của BCTC, đơn vị đã không tính khấu hao tài sản cố định, trong khi tài sản cố định này đã thực sự được sử dụng trên 6 tháng, với mức khấu hao đáng lẽ phải tính là XXX VNĐ. Do vậy, chi phí kinh doanh đã bị thiếu và giá trị thuần của tài sản cố định đã cao hơn thực tế với giá trị tương đương XXX VNĐ, làm cho lãi tăng giả tạo XXX VNĐ. Theo ý kiến của chúng tôi, ngoại trừ ảnh hưởng (nếu có) đến BCTC của sự kiện trên, BCTC đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu…” Ngoài ra, việc thay đổi hình thức BCKT còn cần xem xét tới tính độc lập của kiểm toán viên và mức độ mập mờ của số liệu. Thông thường tính độc lập của kiểm toán viên cần phải được kiểm tra trước khi tiến hành cuộc kiểm toán. Nhưng nếu “Trong quá trình kiểm toán, nếu có sự hạn chế về tính độc lập thì kiểm toán viên phải tìm cách loại bỏ sự hạn chế này. Nếu không loại bỏ được thì kiểm toán viên phải nêu rõ điều này trong BCKT” – Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 – Mục tiêu và nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán BCTC. Nhìn chung, nếu kiểm toán viên không thoả mãn tính độc lập theo Điều lệ đạo đức nghề nghiệp thì kiểm toán viên sẽ phải từ chối cho ý kiến dù tất cả các hình thức kiểm toán cần thiết đã được thực hiện. Nguyên tắc kiểm toán quốc tế số 13 – Báo cáo kiểm toán các BCTC nêu rõ: Nếu mức độ mập mờ của số liệu là đáng kể, ảnh hưởng nghiêm trọng đến BCTC mà các giải pháp khắc phục lại tuỳ thuộc vào các sự kiện trong tương lai khiến cho kiểm toán viên phải ghi ý kiến nhận xét loại chấp nhận từng phần hay ý kiến từ bỏ, BCKT cần mô tả được sự mập mờ về số liệu, trong điều kiện có thể thì chú dẫn thêm tình trạng này trong bản ghi chú của BCTC. Phụ lục: Mẫu Báo cáo kiểm toán của Công ty kiểm toán độc lập Công ty kiểm toán việt nam Số 8 Phạm Ngọc Thạch – thành phố Hà Nội Tel: (04) 8 888 888; Fax: (04) 8 888 888 Số / VACO – BCTC Báo cáo của kiểm toán viên độc lập Kính gửi: Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc Công ty TNHH ABC Chúng tôi đã tiến hành kiểm toán Báo cáo tài chính cho năm tài chính kết thúc ngày 31/12/2001 của Công ty TNHH ABC (gọi tắt là “Công ty”) từ trang 05 đến trang 09 kèm theo. Báo cáo tài chính đã được lập theo các chính sách kế toán trình bày trong Ghi chú số 2 của phần Ghi chú Báo cáo tài chính (từ trang 10 đến trang 11). Trách nhiệm của Ban Giám đốc và của kiểm toán viên Theo quy định của Chế độ kế toán Việt Nam và như đã trình bày tại trang 2 và trang 3, Ban Giám đốc của Công ty có trách nhiệm lập Báo cáo tài chính một cách trung thực và hợp lý. Trách nhiệm của Kiểm toán viên là đưa ra ý kiến độc lập về Báo cáo tài chính này dựa trên kết quả cuộc kiểm toán và báo cáo ý kiến của chúng tôi cho Ban Giám đốc Công ty TNHH ABC. Cơ sở ý kiến Chúng tôi đã tiến hành kiểm toán theo các Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, các Hướng dẫn thực hành Chuẩn mực kiểm toán Quốc tế được chấp nhận tại Việt Nam và Quy chế kiểm toán độc lập hiện hành ở Việt Nam. Công việc kiểm toán bao gồm kiểm tra trên cơ sở chọn mẫu các ghi chép kế toán, những bằng chứng liên quan đến các số liệu và thông tin được trình bày trong Báo cáo tài chính. Chúng tôi cũng đồng thời đánh giá những kế hoạch và quyết định trọng yếu của Ban Giám đốc trong quá trình lập Báo cáo tài chính này và xem xét các chính sách kế toán có được áp dụng nhất quán, trình bày đầy đủ và phù hợp với điều kiện của Công ty hay không. Chúng tôi đã lập kế hoạch và tiến hành kiểm toán để đạt được các thông tin và sự giải trình mà chúng tôi thấy cần thiết, qua đó cung cấp các bằng chứng xác thực cho chúng tôi để có được sự đảm bảo hợp lý rằng Báo cáo tài chính không có các sai sót trọng yếu. Để đưa ra ý kiến, chúng tôi cũng đã đánh giá tổng quát tính đúng đắn của việc trình bày các thông tin trên Báo cáo tài chính. Chúng tôi tin tưởng rằng công việc kiểm toán đã cung cấp một cơ sở hợp lý cho ý kiến của chúng tôi. ý kiến của kiểm toán viên Theo ý kiến chúng tôi, Báo cáo tài chính kèm theo của Công ty TNHH ABC cho năm tài chính kết thúc ngày 32/12/2001 đã phản ánh trung thực và hợp lý, xét trên các khía cạnh trọng yếu, số dư tài sản, công nợ, nguồn vốn tại ngày 31/12/2001 cũng như kết quả kinh doanh cho năm tài chính cùng ngày, phù hợp với chế độ kế toán Việt Nam và các quy định hiện hành tại Việt Nam. Các Báo cáo này được lập bằng tiếng Việt và dịch sang tiếng Anh. Nguyễn Văn A Hà Văn C Tổng Giám đốc Kiểm toán viên Số chứng chỉ kiểm toán viên: XXXXX Số chứng chỉ kiểm toán viên: XXXXX Công ty kiểm toán Việt Nam Hà Nội ngày 26/5/2002 Phần II. Trách nhiệm của kiểm toán viên và công ty kiểm toán độc lập đối với BCKT phát hành. Trách nhiệm của công ty kiểm toán độc lập. Công ty kiểm toán độc lập chịu trách nhiệm trước đơn vị được kiểm toán, trước những người sử dụng BCKT về BCTC và trước pháp luật về BCKT phát hành. Lập BCKT về BCTC là trách nhiệm của công ty kiểm toán độc lập được quy định rõ tại Điều 4 – Báo cáo kiểm toán của Hợp đồng kiểm toán (Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 210). Công ty kiểm toán chịu trách nhiệm cử kiểm toán viên và chuyên gia có năng lực, kinh nghiệm thực hiện công việc kiểm toán và lập BCKT về BCTC. Thiết lập và thực hiện hệ thống kiểm soát quá trình kiểm toán và soát xét chất lượng BCKT của công ty kiểm toán độc lập để đảm bảo độ tin cậy của BCKT . Trách nhiệm của kiểm toán viên. 2.1 Nguyên tắc kiểm toán quốc tế số13 – Báo cáo kiểm toán các Báo cáo tài chính quy định trách nhiệm của kiểm toán viên trong việc lập BCKT như sau: “Kiểm toán viên phải soát xét lại và đánh giá các kết luận rút ra từ các bằng chứng kiểm toán thu thập được làm căn cứ cho các nhận xét của mình về các thông tin tài chính. Việc soát xét lại và đánh giá kéo theo việc hình thành kết luận toàn diện về các khía cạnh sau đây: Các thông tin tài chính được lập ra bằng cách sử dụng chế độ kế toán có thể chấp nhận được và chế độ kế toán này đã được áp dụng một cách nhất quán. Thông tin tài chính phù hợp với các quy định hiện hành và yêu cầu của luật pháp. Toàn cảnh các thông tin tài chính của doanh nghiệp là nhất quán với hiểu biết của kiểm toán viên về đặc thù kinh doanh của doanh nghiệp. Các thông tin tài chính đã thể hiện thoả đáng mọi vấn đề trọng yếu và được trình bày hợp lý”. 2.2 Kiểm toán viên phải tuân thủ những nguyên tắc, chuẩn mực kiểm toán và quy trình kiểm toán đã được phê chuẩn hoặc hệ thống các nguyên tắc, chuẩn mực kiểm toán và quy trình kiểm toán của quốc gia và quốc tế được phép áp dụng khi lập BCKT . 2.3 Kiểm toán viên phải chịu trách nhiệm trước người sử dụng BCKT và trước pháp luật về ý kiến của mình trình bày trên BCKT về BCTC. Hiện tại ở Việt Nam chưa có đầy đủ các chuẩn mực, các quy định cụ thể về trách nhiệm của kiểm toán viên và công ty kiểm toán độc lập đối với BCKT phát hành. Nhưng nói chung kiểm toán viên và công ty kiểm toán độc lập luôn phải chịu trách nhiệm đối với BCKT đã phát hành, đặc biệt là khi ý kiến kiểm toán trên BCKT có những sai sót trọng yếu gây thiệt hại tới các đối tượng sử dụng BCKT về BCTC. Tuy nhiên, mức độ trách nhiệm của kiểm toán viên và công trọng yếu kiểm toán sẽ tuỳ thuộc vào các nguyên nhân đã làm cho ý kiến của kiểm toán viên bị sai lệch. Nếu ý kiến của kiểm toán viên bị sai lệch do một trong những nguyên nhân cơ bản sau đây: Cuộc kiểm toán được tiến hành bởi những kiểm toán viên và chuyên gia có trình độ chuyên môn thấp, không tuân thủ những nguyên tắc, chuẩn mực kiểm toán và quy trình kiểm toán đã được phê chuẩn hoặc hệ thống các nguyên tắc, chuẩn mực kiểm toán và quy trình kiểm toán của quốc gia và quốc tế được phép áp dụng khi thực hiện nhiệm vụ kiểm toán. Kiểm toán viên thực hiện cuộc kiểm toán đã không tuân thủ những nguyên tắc bắt buộc về đạo đức nghề nghiệp, cố tình bỏ qua các quy định nghề nghiệp. Công ty kiểm toán độc lập có sự yếu kém trong việc công tác quản lý, về việc thiết lập và thực hiện hệ thống kiểm soát quá trình kiểm toán và soát xét chất lượng BCKT. Trong trường hợp này kiểm toán viên và công ty kiểm toán độc lập phải chịu hoàn toàn chịu trách nhiệm về BCKT của mình. Kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải bồi thường thiệt hại cho những người sử dụng thông tin trên BCKT về BCTC theo sự quyết định của toà án. Trường hợp BCKT của kiểm toán viên có chứa đựng sai sót trọng yếu gây thiệt hại cho người sử dụng thông tin trên BCKT, nhưng trong suốt quá trình kiểm toán , kiểm toán viên và Công ty kiểm toán đã tuân thủ và đảm bảo các yêu cầu cơ bản của một cuộc kiểm toán theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hiện hành hoặc các nguyên tắc, chuẩn mực kiểm toán quốc tế được áp dụng rộng rãi và các quy định pháp lý có liên quan. Và hệ thống kiểm soát chất lượng kiểm toán của Công ty kiểm toán đã đảm bảo các nguyên tắc soát xét chất lượng nhưng nếu các bằng chứng pháp lý mà kiểm toán viên thu thập được đã chứa đựng những gian lận cố ý mà đơn vị được kiểm toán tạo ra, và như vậy với các thủ tục kiểm toán thông thường, kiểm toán viên không thể phát hiện được. Trong trường hợp này, kiểm toán viên và công ty kiểm toán đã gặp phải rủi ro phát hiện, dẫn đến ý kiến sai lầm trên BCKT. Khi đó, kiểm toán viên và công ty kiểm toán độc lập vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho các đối tượng sử dụng BCKT do việc sử dụng thông tin trên BCKT gây nên các quyết định sai lầm. Đơn vị được kiểm toán chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do đơn vị có hành vi cố tình gian lận hoặc thông đồng gian lận đã làm sai lệch các thông tin trên BCTC dẫn đến những sai sót trọng yếu trên BCKT của công ty kiểm toán độc lập. Trường hợp các kiểm toán viên của công ty kiểm toán độc lập và đơn vị được kiểm toán thông đồng với nhau có hành vi gian lận thì xem xét mức độ liên đới của từng phía để quyết định về việc bồi thường thiệt hại cho người sử dụng thông tin trên BCKT về BCTC. Phần III. Thực trạng việc lập Báo cáo kiểm toán tại các công ty kiểm toán độc lập. Lập Báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính. Nhìn chung BCKT về BCTC được kiểm toán viên và các công ty kiểm toán độc lập lập theo đúng các nguyên tắc, chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hiện hành và các nguyên tắc, chuẩn mực kiểm toán quốc tế được áp dụng rộng rãi về việc xây dựng các yếu tố trên BCKT. Tuy nhiên vấn đề ý kiến của kiểm toán viên trình bày trên BCKT vẫn còn nhiều vấn đề cần xem xét. Về ý kiến kiểm toán. Kiểm toán viên có thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần khi: Các thông tin tài chính được lập phù hợp với chế độ kế toán có thể chấp nhận, được áp dụng nhất quán hoặc nếu có sự thay đổi thì những thay đổi về kế toán được trình bày một cách phù hợp trên phần thuyết minh BCTC. Thông tin thích hợp được thuyết minh, phân loại và mô tả phù hợp với các chế độ kế toán được chấp nhận và các đòi hỏi về mặt pháp lý nếu có thể. Thông tin trong các BCTC phù hợp với hiểu biết của kiểm toán viên về tình hình kinh doanh của khách hàng. ý kiến không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần ý kiến chấp nhận từng phần hoặc ý kiến trái ngược hoặc ý kiến từ chối không đưa ra ý kiến được đưa ra trong những trường hợp sau đây: a) Có sự giới hạn trong phạm vi công việc kiểm toán. Kiểm toán viên bất đồng với ban quản lý về các BCTC. Bất cứ khi nào kiểm toán viên đưa ra một ý kiến không phải là ý kiến chấp nhận toàn bộ thì cũng phải mô tả rõ ràng toàn bộ các lý do trong BCKT và một phần định lượng những ảnh hưởng có thể lên các BCTC, trừ khi không thể thực hiện được. Thông tin này được trình bày trong một đoạn riêng biệt, trước khi kiểm toán viên đưa ra ý kiến từ chối không đưa ra ý kiến. Thông tin này có thể cũng tham chiếu tới phần đề cập sâu hơn về lý do này trong ghi chú BCTC. ảnh hưởng của phạm vi công việc kiểm toán đối với ý kiến kiểm toán. Trong một số tình huống, nếu phạm vi của cuộc kiểm toán bị giới hạn, kiểm toán viên cần cố gắng thực hiện một thủ tục kiểm toán thay thế hợp lý để thu thập bằng chứng kiểm toán thích hợp và đầy đủ nhằm hỗ trợ cho một ý kiến chấp nhận toàn bộ. Khi cho rằng giới hạn về phạm vi của một cuộc kiểm toán không cho phép đưa ra một ý kiến chấn nhận toàn bộ, thì kiểm toán viên nêu ra giới hạn đó trong BCKT. Trong BCKT chỉ ra rằng ý kiến chấp nhận từng phần được đưa ra liên quan đến những điều chỉnh mà nếu không có hạn chế về phạm vi kiểm toán thì những điều chỉnh này được phát hiện và xử lý. Kiểm toán viên có thể từ chối không đưa ra ý kiến kiểm toán khi ảnh hưởng của việc giới hạn trong phạm vi kiểm toán quan trọng đến nỗi không thể đưa ra bất kỳ ý kiến nào về BCTC đó. Đôi khi giới hạn về phạm vi kiểm toán có thể do khách hàng đặt ra, ví dụ, khi các điều khoản trong hợp đồng kiểm toán quy định rằng sẽ không thực hiện một số thủ tục kiểm toán mà kiểm toán viên cho là cần thiết. Có thể không thường xuyên thực hiện các hợp đồng kiểm toán khi các giới hạn dự kiến là những giới hạn buộc chúng ta phải đưa ra ý kiến từ chối hoặc ảnh hưởng tới trách nhiệm có tính luật định của kiểm toán viên. c) ảnh hưởng của sự bất đồng với ban quản lý đối với ý kiến kiểm toán. Kiểm toán viên có thể bất đồng với ban quản lý về: - Khả năng các chế độ kế toán được áp dụng, - Các phương pháp áp dụng chế độ kế toán đó, bao gồm cả các phần diễn giải trong BCTC - Các BCTC phải tuân thủ các quy định có liên quan và các yêu cầu mang tính luật định. Kiểm toán viên đưa ra một ý kiến chấp nhận từng phần khi kiểm toán viên kết luận rằng có một sai sót trọng yếu trong các BCTC do các điều kiện mà kiểm toán viên không thống nhất được với ban quản lý. Kiểm toán viên đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần dưới hình thức “ngoại trừ ảnh hưởng” của sự bất đồng. Kiểm toán viên đưa ra ý kiến trái ngược khi ảnh hưởng của sự bất đồng quan trọng và tác động nhiều tới BCTC đến nỗi kiểm toán viên phải kết luận rằng việc đưa ra báo cáo chấp nhận từng phần là không đủ để diễn giải tính chất không đầy đủ và sai lạc của BCTC Nhấn mạnh mức độ không chắc chắn Nếu như có sự không chắc chắn đáng kể, giải pháp đối với sự không chắc chắn đó tuỳ thuộc vào các sự kiện tương lai, tác động đến BCTC, kiểm toán viên có thể thêm một đoạn (sau đoạn đưa ra ý kiến kiểm toán ) vào báo cáo của kiểm toán viên nhằm hướng sự chú ý vào phần ghi chú của BCTC có đề cập một cách toàn diện hơn sự không chắc chắn này. ảnh hưởng của những nghi ngờ thực sự đối với ý kiến của kiểm toán viên về khả năng một doanh nghiệp có thể tiếp tục kinh doanh liên tục trong một khoảng thời gian hợp lý. Nếu kiểm toán viên cho rằng các nhân tố giảm nhẹ giúp gạt bỏ đi mối nghi ngờ thực sự về khả năng tiếp tục hoạt động của doanh nghiệp trong một khoảng thời gian hợp lý, kiểm toán viên cũng cân nhắc xem liệu các BCTC có cần phải thuyết minh các yếu tố gây ra sự nghi ngờ đó lúc ban đầu. Nếu các BCTC của khách hàng không thuyết minh được các vấn đề mà kiểm toán viên cho là cần thiết, thì kiểm toán viên đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần hoặc ý kiến trái ngược do thiếu những thuyết minh như vậy. Nếu kiểm toán viên có nghi ngờ lớn về khả năng doanh nghiệp tiếp tục hoạt động trong một khoảng thời gian hợp lý, thì kiểm toán viên cân nhắc xem liệu BCTC có phần thuyết minh đầy đủ về các điều kiện cơ bản gây ra mỗi nghi ngờ về khả năng tiếp tục hoạt động của công ty trong tương lai hay không. Phần thuyết minh này có thể: - Mô tả các điều kiện cơ bản gây ra mối nghi ngờ - Cho thấy rằng có nghi ngờ và doanh nghiệp có thể không có khả năng bán được tài sản và thanh toán các công nợ trong quá trình kinh doanh bình thường. - Nêu rõ rằng BCTC không bao gồm những điều chỉnh có liên quan đến khả năng thu hồi và phân loại những gía trị tài sản được ghi sổ hoặc liên quan đến các khoản công nợ và phân loại công nợ có thể cần thiết trong trường hợp doanh nghiệp này không thể tiếp tục hoạt động được nữa. Nếu cho rằng BCTC đã thuyết minh không đầy đủ về các điều kiện cơ bản gây ra sự nghi ngờ, thì kiểm toán viên sẽ đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần hoặc một ý kiến trái ngược do thiếu thuyết minh. Nếu kiểm toán viên cho rằng BCTC đã thuyết minh đầy đủ các điều kiện cơ bản gây ra sự nghi ngờ, tuy nhiên kiểm toán viên sẽ có thể thêm vào báo cáo một đoạn (sau trình bày ý kiến) nhằm hướng sự chú ý của người đọc vào phần ghi chú trong BCTC diễn giả vấn đề trong đoạn đó rõ hơn. f) ảnh hưởng của công việc của các chuyên gia kiểm toán khác có ảnh hưởng đối với ý kiến của kiểm toán viên. kiểm toán viên đưa ra BCKT chấp nhận từng phần hoặc không đưa ra ý kiến nếu kiểm toán viên kết luận rằng kiểm toán viên không thể sử dụng được công việc của các kiểm toán viên khác vì thế kiểm toán viên không đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp đối với phần BCTC thuộc trách nhiệm của kiểm toán viên khác. Nếu kiểm toán viên khác đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần thì kiểm toán viên sẽ cân nhắc xem tính chất và ý nghĩa của phần BCTC mà kiểm toán viên khác đã đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần đó có quan trọng tới mức đòi hỏi kiểm toán viên phải đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần của chính mình hay không. ảnh hưởng của việc sử dụng tài liệu của các chuyên gia đối với ý kiến của kiểm toán viên. Đối với một ý kiến chấp nhận toàn bộ, trong báo cáo của kiểm toán viên không tham chiếu tới phần công việc của các chuyên gia trong quá trình kiểm toán. Bởi lẽ người đọc có thể hiểu phần tham chiếu này là ý kiến chấp nhận của từng phần của kiểm toán viên hoặc là một sự phân chia nhiệm vụ mà cả hai khả năng đó kiểm toán viên đều không mong muốn. Dựa trên kết quả công việc của các chuyên gia, nếu như kiểm toán viên quyết định đưa ra ý kiến khác ngoài ý kiến chấp nhận toàn bộ thì kiểm toán viên sẽ giải thích sự băn khoăn của kiểm toán viên , tham chiếu tới và mô tả phần việc do các chuyên gia thực hiện. Nếu kiểm toán viên tham chiếu tới phần công việc của các chuyên gia, kiểm toán viên thường thoả thuận trước họ về hình thức của phần tham chiếu này. Nếu như các chuyên gia không cho phép và kiểm toán viên cho rằng phần tham chiếu là cần thiết, thì kiểm toán viên sẽ tìm đến tư vấn về pháp lý ảnh hưởng của các nghiệp vụ của các bên hữu quan đối với ý kiến kiểm toán. kiểm toán viên xem xét ảnh hưởng của nghiệp vụ với các bên liên quan đối với các BCTC, bao gồm cả các phần thuyết minh. Nếu kiểm toán viên không thể thu được các bằng chứng kiểm toán có sức thuyết phục về các bên liên quan và các nghiệp vụ với các bên đó thì trong BCKT kiểm toán viên sẽ mô tả sự hạn chế đối với phạm vi cuộc kiểm toán và đưa ra ý kiến kiểm toán chấp nhận từng phần hoặc từ chối đưa ra ý kiến khi cần thiết. 2. Sai phạm trọng yếu trên Báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính gây hậu quả tới các đối tượng sử dụng thông tin. Báo cáo kiểm toán là kết quả của quá trình kiểm toán, thể hiện những nhận xét, đánh giá của kiểm toán viên về tính trung thực, hợp lý của thông tin, tính hiệu quả, tính kinh tế và tính tuân thủ của đơn vị được kiểm toán. Vì lý do đó, BCKT về BCTC đem lại niềm tin cho người sử dụng để đưa ra được những quyết định đúng đắn. Tuy nhiên trên thực tế không ít những trường hợp BCKT về BCTC còn chứa đựng những sai sót trọng yếu gây thiệt hại cho người sử dụng BCKT. Những sai sót trọng yếu trên BCKT được gây nên dù là lỗi của kiểm toán viên hay gian lận từ phía đơn vị được kiểm toán, hay gian lận từ cả phía công ty kiểm toán và đơn vị được kiểm toán thì thiệt hại vẫn do người sử dụng BCKT gánh chịu. Điều này làm sai lệch bản chất và chức năng của kiểm toán, dẫn đến mối nghi ngờ cho người sử dụng BCKT về BCTC. Từ đó người ta quan tâm đến vấn đề ai sẽ là người chịu trách nhiệm về những sai sót trọng yếu trên BCKT và chịu trách nhiệm trước người sử dụng thông tin trên BCKT về các thiệt hại do nguồn thông tin sai lệch đó gây ra. Khi thực hiện cuộc kiểm toán và lập BCKT, kiểm toán viên phải tuân thủ các quy định, chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hiện hành và các nguyên tắc, chuẩn mực kiểm toán Quốc tế được áp dụng rộng rãi. Kiểm toán viên phải đảm bảo tính độc lập, chính trực, tính khách quan, năng lực chuyên môn, tư cách nghề nghiệp và tuân thủ chuẩn mực chuyên môn. Đó là những điều cơ bản về đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên được quy định trong Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 – Mục tiêu và nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán BCTC. Trong trường hợp kiểm toán viên và công ty kiểm toán đã tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam và các nguyên tắc chuẩn mực kiểm toán quốc tế trong quá trình kiểm toán và lập BCKT nhưng BCKT vẫn chứa đựng các sai sót trọng yếu là vì bản thân các bằng chứng kiểm toán mà kiểm toán viên thu thập trong quá trình kiểm toán đã chứa đựng những gian lận do đơn vị được kiểm toán tạo nên và với các thủ tục kiểm toán thông thường kiểm toán viên đã không thể phát hiện gian lận trong các bằng chứng kiểm toán đó. ở đây kiểm toán viên và công ty kiểm toán vẫn phải chịu trách nhiệm trước người sử dụng thông tin trên BCKT vì đã không đủ trình độ để phát hiện ra các gian lận trên các bằng chứng kiểm toán thu thập. Nhưng những rủi ro này là khó thể tránh khỏi đối với mọi cuộc kiểm toán. Cần phải công nhận rằng trên thực tế không phải lúc nào kiểm toán viên và công ty kiểm toán cũng tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán hiện hành về việc lập BCKT. ý kiến của kiểm toán viên trình bày trên BCKT có thể sai lệch so với thực tế vì những ràng buộc về lợi ích kinh tế với đơn vị được kiểm toán, những ràng buộc này phát sinh trong quá trình kiểm toán mặc dù trước khi ký hợp đồng kiểm toán, kiểm toán viên, công ty kiểm toán hoàn toàn độc lập với đơn vị được kiểm toán về mọi phương diện. Trong trường hợp này kiểm toán viên, công ty kiểm toán và đơn vị được kiểm toán đã thông đồng để tạo nên các gian lận trên BCKT về BCTC. Người sử dụng thông tin trên BCKT đã ra các quyết định sai lầm. Những khoản gian lận về thuế đã làm cho ngân sách Nhà nước thất thu hàng tỷ đồng. Tình trạng tài chính khả quan và doanh thu giả tạo, lãi giả tạo đã đem lại những quyết định sai lầm cho các nhà đầu tư chứng khoán bên ngoài, thiệt hại cho cổ đông trong các công ty vì thông tin sai lệch mà BCKT về BCTC cung cấp. Từ đó gây nên sự nghi ngờ cho người sử dụng thông tin về sự xác minh về trung thực và hợp lý mà BCKT có thể đem lại. 3. Sự mất uy tín của ngành kiểm toán trong nước và quốc tế. Các công ty kiểm toán nước ngoài chiếm một phần không nhỏ trong tổng số công ty kiểm toán tại Việt Nam. Sự mất uy tín của các công ty kiểm toán trên thế giới - những công ty có chi nhánh tại Việt Nam - đã ảnh hưởng đến uy tín của các chi nhánh công ty kiểm toán đó. Cùng với những ảnh hưởng đó, uy tín của ngành kiểm toán trong nước bị suy giảm nghiêm trọng. Sự sụp đổ của tập đoàn năng lượng enron và vụ bê bối tài chính của tập đoàn Viễn thông WorldCom thu hút rất nhiều sự quan tâm của giới đầu tư trên thị trường thế giới. Đặc biệt người ta quan tâm đến một trong những nguyên nhân phá sản của enron và sự bê bối tài chính của WorldCom là sự “tiếp tay” của Công ty kiểm toán Athur Andersen – một trong số những công ty kiểm toán lớn nhất và cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp lớn nhất trên thế giới. Andersen đã cấu kết với ban lãnh đạo của tập đoàn Enron làm sai lệch các kết quả kinh doanh, biến lỗ thành lãi nhằm tiếp tục thu hút vốn đầu tư từ các nhà đầu tư cá nhân và các tập đoàn tài chính. Những thông tin sai lệch về các kết quả kinh doanh của WorldCom cũng do công ty kiểm toán Andersen cung cấp, chuyển lãi ròng đạt 1,4 tỷ USD trong khi WorldCom đang trong tình trạng tài chính tồi tệ và đang đệ đơn xin phá sản do khai khống lợi nhuận lên 3,85 tỷ USD. Hoạt động kiểm toán đang bị mất uy tín, nhất là sau vụ bối enron và WorldCom và cũng chỉ là hai trong một chuỗi các sự cố khác trong lĩnh vực kiểm toán. Gần đây hoạt động kiểm toán của Việt Nam cũng đang mất uy tín do sai sót của một số công ty kiểm toán. Các vụ “đổ bể” của không ít các doanh nghiệp ( kể cả doanh nghiệp Nhà nước), dẫn đến tình trạng không bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh, thất thoát nghiêm trọng về tài chính và tài sản, hàng ngàn lao động bị mất việc làm hoặc việc làm không ổn định, người ta đặt ra câu hỏi cá công ty kiểm toán có trách nhiệm như thế nào đối với các BCKT đã phát hành. Vấn đề đây là sai sót hay gian lận của kiểm toán viên và công ty kiểm toán thì vẫn còn đang được tranh cãi, tuy nhiên mang lại sự nghi ngờ cho những người quan tâm, và một phần BCKT không còn đem lại niềm tin tuyệt đối cho người sử dụng. Ngành kiểm toán thế giới nói chung và ngành kiểm toán Việt Nam nói riêng đang cần một sự cải tổ để nâng cao chất lượng kiểm toán cũng như nâng cao độ tin cậy của BCKT . 4. Hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh về trách nhiệm của kiểm toán viên và công ty kiểm toán độc lập đối với BCKT phát hành Khi các vụ đổ bể của các doanh nghiệp gây nên thiệt hại cho người sử dụng thông tin trên BCKT và thiệt hại cho nền kinh tế, vấn đề trách nhiệm của kiểm toán viên và công ty kiểm toán đối với BCKT đã phát hàng được đặt ra. Trong khi đó ở Việt Nam chưa có đầy đủ các quy định cụ thể cũng như các điều kiện cần thiết để có thể giải quyết các vấn đề trên. Đương nhiên việc phán xử tranh chấp khi người bị hại yêu cầu sẽ do cơ quan luật pháp tiến hành. Song để thực hiện vấn đề nêu trên, Nhà nước cần sớm ban hành hệ thống văn bản pháp luật có gía trị pháp lý cao, nhằm kịp thời điều chỉnh các quan hệ trong hoạt động dịch vụ kiểm toán để làm căn cứ xác định trách nhiệm và mức độ sai phạm của kiểm toán viên và các công ty kiểm toán độc lập trong quá trình kiểm toán các doanh nghiệp cũng như trách nhiệm về BCKT phát hành. 5. Nâng cao trách nhiệm của kiểm toán viên và công ty kiểm toán độc lập đối với Báo cáo kiểm toán phát hành. Thế kỷ 21 là thế kỷ của hội nhập quốc tế về kinh tế, thương mại, đầu tư tài chính, quá trình đó diễn ra mạnh mẽ cả bề rộng và bề sâu trên tất cả khu vực kinh tế, trên phạm vi toàn thế giới và trong nền kinh tế của từng quốc gia. Trong xu thế thời đại đó, quá trình phát triển nền kinh tế Việt Nam cũng luôn phải bám sát, chủ động và tích cực theo đúng xu hướng vận động của tiến trình hội nhập quốc tế. Hội nhập về tài chính bắt đầu từ chương trình cắt giảm thuế đến mở cửa dịch vụ kế toán, kiểm toán và phất triển thị trường vốn. Vì vậy, trong ba năm tới, đòi hỏi phải đẩy mạnh việc kiện toàn các chính sách, chuẩn mực kế toán, kiểm toán phù hợp thông lệ quốc tế. Tiếp tục tạo điều kiện cho các công ty kế toán, kiểm toán trong nước phát triển mạnh về quy mô cũng như nâng cao hơn chất lượng loại hình dịch vụ. Hoàn thiện hệ thống đào tạo kiểm toán viên phù hợp với trình độ khu vực và quốc tế. Tiếp tục cho phép thành lập các công ty kế toán 100% vốn đầu tư nước ngoài hoặc liên doanh với Việt Nam, tiến đến mở cửa dịch vụ này vào năm 2005. Trước yêu cầu và thách thức đó, kiểm toán viên và công ty kiểm toán cần ý thức rõ trong việc nâng cao chất lượng của hoạt động kiểm toán và chất lượng của BCKT. Để đạt được điều đó cần thực hiện những công việc sau: - Nâng cao trách nhiệm của kiểm toán viên bằng việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và nâng cao đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên. - Nâng cao trách nhiệm của công ty kiểm toán trong việc hoàn thiện hệ thống đào tạo kiểm toán viên và hoàn thiện hệ thống kiểm soát quá trình kiểm toán và soát xét chất lượng BCKT . - Để tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động kiểm toán và đảm bảo trách nhiệm của kiểm toán viên, công ty kiểm toán đối với BCKT phát hành, Nhà nước cần sớm ban hành hệ thống luật pháp làm căn cứ xác định trách nhiệm và mức độ sai phạm của kiểm toán viên và các công ty kiểm toán độc lập trong quá trình kiểm toán và phát hành BCKT . kết luận Báo cáo kiểm toán là kết quả cuối cùng của hoạt động kiểm toán, BCKT thể hiện chất lượng của cuộc kiểm toán thông qua việc bày tỏ ý kiến của kiểm toán viên về tính trung thực, hợp lý về các thông tin trình bày trên BCTC được kiểm toán và việc tuân thủ các quy định pháp lý liên quan đến việc lập và trình bày BCTC. Hoạt động kiểm toán với chức năng đem lại niềm tin cho người sử dụng BCKT về BCTC cần phải được đảm bảo bằng việc bày tỏ ý kiến trung thực và hợp lý về các khía cạnh trọng yếu về tình hình tài chính của đơn vị được kiểm toán. Tuy nhiên trong thời gian gần đây, việc tồn tại các sai sót trọng yếu trên BCKT gây thiệt hại cho đối tượng sử dụng BCKT, và vấn đề trách nhiệm của kiểm toán viên, công ty kiểm toán độc lập được đặt ra và cần được giải quyết thoả đáng. Trước yêu cầu và thách thức của hội nhập quốc tế, ngành kiểm toán Việt Nam cần làm tốt hơn nữa việc nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán cũng như chất lượng của BCKT phát hành, để thực sự đem lại niềm tin cho người sử dụng. Danh mục tài liệu tham khảo Hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam Những chuẩn mực và nguyên tắc kiểm toán Quốc tế Các quy định pháp luật về kiểm toán. Kiểm toán – Alvin A.arens – James K.Loebbecke Giáo trình Kiểm toán tài chính - ĐH Kinh tế Quốc dân Tạp chí kế toán Tạp chí kiểm toán Tạp chí thị trường chứng khoán Tạp chí tài chính Quốc tế Mục lục Trang Lời nói đầu 1 Phần I: Lý luận chung 2 Khái quát chung về BCKT 2 Khái niệm 2 Vai trò, ý nghĩa của BCKT về BCTC 2 Nội dung BCKT về BCTC 3 2.1.Các yếu tố cơ bản và nội dung các yếu tố trên BCKT 3 2.1.1.Tên và địa chỉ của công ty kiểm toán 3 2.1.2.Số hiệu BCKT về BCTC. 4 2.1.3.Tiêu đề BCKT về BCTC. 4 2.1.4.Người nhận BCKT về BCTC 4 2.1.5.Mở đầu của BCKT về BCTC 4 2.1.6.Phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán BCTC 5 2.1.7.ý kiến của kiểm toán viên và công ty kiểm toán 6 2.1.8.Địa điểm và thời gian lập BCKT về BCTC 7 2.1.9.Chữ ký và đóng dấu 8 2.1.10.Ngôn ngữ trình bày trên BCKT 8 2.1.11.BCKT về BCTC hợp nhất 8 2.2.ý kiến của kiểm toán viên trình bày trên BCKT 9 2.2.1.ý kiến chấp nhận toàn phần 9 2.2.2.ý kiến chấp nhận từng phần 10 2.2.3.ý kiến từ chối 11 2.2.4.ý kiến không chấp nhận 11 3.Yêu cầu lập, trình bày và gửi BCKT 12 3.1.Yêu cầu lập, trình bày và gửi BCKT 12 3.2.Điều kiện thay đổi ý kiến của kiểm toán viên trên BCKT 12 3.2.1.Phạm vi công việc kiểm toán bị giới hạn 12 3.2.2.Không nhất trí với Ban Giám đốc đơn vị được kiểm toán 13 Phụ lục: Mẫu BCKT của công ty kiểm toán độc lập 15 Phần II: Trách nhiệm của kiểm toán viên và công 16 ty kiểm toán độc lập đối với BCKT phát hành Trách nhiệm của công ty kiểm toán độc lập 16 Trách nhiệm của kiểm toán viên độc lập 16 Phần III: Thực trạng việc lập BCKT tại các công ty kiểm toán độc lập 19 Lập BCKT về BCTC 19 Sai phạm trọng yếu trên BCKT về BCTC gây hậu quả tới các đối 22 tượng sử dụng thông tin Sự mất uy tín của ngành kiểm toán trong nước và Quốc tế 24 Hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh về trách nhiệm của kiểm toán 25 viên và công ty kiểm toán độc lập đối với BCKT phát hành Nâng cao trách nhiệm của kiểm toán viên và công ty kiểm toán 25 độc lập đối với BCKT phát hành Kết luận 27 Danh mục tài liệu tham khảo 28 Mục lục 29

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc70241.DOC
Tài liệu liên quan