Tài liệu Đề tài Khủng hoảng tài chính toàn cầu và bài học rút ra đối với Việt Nam: Đề tài : Khủng hoảng tài chính toàn cầu và bài học rút ra đối với Việt Nam.
Lời mở đầu
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu là cuộc khủng lớn nhất trên thế giới kể từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất lịch sử của thế giới trong những năm 30 của thế kỷ XX, nó đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế nước Mỹ và lan rộng ra toàn cầu làm ảnh hưởng xấu đến toàn bộ hệ thống tài chính và sự tăng trưởng kinh tế thế giới. Kể từ khi cơn lốc của cuộc khủng hoảng đi qua cuốn theo rất nhiều quốc gia vào vòng xoáy của nó, đến bây giờ cuộc khủng hoảng đã tạm qua đi, tình trạng thị trường đã trở nên ổn định hơn, quá trình khôi phục diễn ra mạnh mẽ. Mặc dù vậy các nước vẫn còn phải tiếp tục lịch trình tái cơ cấu và đang đứng trước một nguy cơ khủng hoảng tài mới (tàn dư của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu) đó là khủng hoảng nợ công ở châu Âu đã và đang tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế đồng Ero nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung.
Đã có rất nhiều sách báo, các cuộc h...
39 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1188 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Khủng hoảng tài chính toàn cầu và bài học rút ra đối với Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài : Khủng hoảng tài chính toàn cầu và bài học rút ra đối với Việt Nam.
Lời mở đầu
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu là cuộc khủng lớn nhất trên thế giới kể từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất lịch sử của thế giới trong những năm 30 của thế kỷ XX, nó đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế nước Mỹ và lan rộng ra toàn cầu làm ảnh hưởng xấu đến toàn bộ hệ thống tài chính và sự tăng trưởng kinh tế thế giới. Kể từ khi cơn lốc của cuộc khủng hoảng đi qua cuốn theo rất nhiều quốc gia vào vòng xoáy của nó, đến bây giờ cuộc khủng hoảng đã tạm qua đi, tình trạng thị trường đã trở nên ổn định hơn, quá trình khôi phục diễn ra mạnh mẽ. Mặc dù vậy các nước vẫn còn phải tiếp tục lịch trình tái cơ cấu và đang đứng trước một nguy cơ khủng hoảng tài mới (tàn dư của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu) đó là khủng hoảng nợ công ở châu Âu đã và đang tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế đồng Ero nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung.
Đã có rất nhiều sách báo, các cuộc hội thảo quốc tế và khu vực đã viết và bàn về cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, và dường như vẫn chưa đủ và người ta vẫn buộc phải nghĩ về nó, viết về nó vì nó vẫn đang ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế xã hội và chính trị của mỗi quốc gia, mỗi khu vực và thế giới. Các tổ chức tài chính, các trung tâm nghiên cứu quốc tế cũng đưa ra các bài học và dự báo về nguy cơ của các cuộc khủng hoảng có thể xảy ra trong tương lai. Tuy không nằm trong tiểu điểm của cơn lốc khủng hoảng, nhưng những ảnh hưởng và tác động của nó ngày càng được cảm nhận rõ rệt ở Việt Nam, thể hiện qua những chỉ số giảm đi cụ thể về thương mại, đầu tư, tốc độ phát triển kinh tế và du lịch…
Hiện nay, chúng ta ngày càng nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc nghiên cứu khủng hoảng, triển vọng và tác động của nó trong bối cảnh đất nước đang tham gia ngày càng sâu rộng hơn và liên kết khu vực, hội nhập với quốc tế. Đó là chính là động lực thúc đẩy nhóm chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Khủng hoảng tài chính toàn cầu và bài học rút ra đối với Việt Nam”. Đề tài đã đặt vấn đề nghiên cứu cuộc khủng hoảng và chiều hướng diễn biến của nó, nhóm nghiên cứu đề tài tập trung vào phân tích những tác động của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng, đề từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về chính sách phát triển kinh tế và chính sách kinh tế đối ngoại.
Nội dung đề tài gồm ba phần:
Phần 1: Tổng quan về khủng hoảng tài chính quốc tế.
Phần 2: Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
Phần 3: Những bài học đối với Việt Nam
Sau một thời gian nghiên cứu và nỗ lực hoàn thành nhóm chúng tôi đã cố gắng phác thảo một bức tranh toàn cảnh về cuộc khủng hoảng và nêu ra một số đánh giá và ý kiến đóng góp của mình dựa trên cơ sở những nghiên cứu tiến hành trong đề tài. Song với kiến thức và thời gian có hạn, đề tài của chúng tôi vẫn còn nhiều thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp của cô giáo và các bạn để đề tài của chúng tôi ngày càng hoàn thiện hơn.
Phần 1: Tổng quan về khủng hoảng tài chính quốc tế.
Khái niệm khủng hoảng tài chính quốc tế:
Toàn cầu hoá bên cạnh việc mang lại những cơ hội lớn cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc thì đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều ngu cơ trong đó có nguy cơ khủng hoảng toàn cầu. Sự thay đổi của các thị trường tài chính với mức độ mở cửa thương mại và tài chính của các nước, mỗi điều kiện bên trong của mỗi quốc gia đều dẫn tới khả năng khủng hoảng.
Khủng hoảng kinh tế là sự suy giảm của hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy thoái trong chu kỳ kinh tế. Khủng hoảng kinh tế lên đến đỉnh điểm là nguyên nhân xảy ra khủng hoảng tài chính vì khủng hoảng kinh tế bị suy thoái, khủng hoảng sản xuất thừa sẽ làm gia tăng nhu cầu sử dụng tiền cho mục đích tiêu dùng hàng hóa. Khủng hoảng tài chính xảy ra khi nhu cầu tiền vượt quá nguồn cung của xã hội, nhu cầu về tiền của nhân dân hay của các nhà đầu tư trong và ngoài nước đã gây ra sức ép cho hệ thống ngân hàng và tổ chức tài chính khiến cho ngân hàng và các tổ chức tài chính có thể sụp đổ. Khủng hoảng tài chính chỉ là một phần của khủng hoảng kinh tế nhưng khủng hoảng tài chính lại gây ra thiệt hại lớn nhất vì các nước có tự do thương mại, nguồn vốn được di chuyển qua những nước khác nhau nên khủng hoảng tài chính là yếu tố lây lan còn khủng hoảng kinh tế nó không có yếu tố trực tiếp lây lan.
- Khủng hoảng tài chính được hiểu là sự sụp đổ của thị trường tài chính, khiến nó không thể thực hiện được hai chức năng cơ bản nhất:
Thứ nhất, ổn định giá trị đồng tiền hoặc các tài sản tài chính như một phương tiện giao dịch, cất trữ tài sản.
Thứ hai, là trung gian chuyển vốn tiết kiệm vào những dự án đầu tư có hiệu quả nhất.
- Hệ quả của khủng hoảng tài chính là nền kinh tế bị đẩy ra khỏi quỹ đạo tăng trưởng tiềm năng, gây nên sự sụt giảm mạnh về sản lượng, việc làm, đi kèm với lạm phát, hoặc gây nguy cơ bùng nổ lạm phát.
- Có thể sơ bộ chia ra ba quan điểm chính về khủng hoảng tài chính:
+ Nhóm thứ nhất là những người theo chủ thuyết tiền tệ (Monetarists View), dẫn đầu là Friedman và Schwartz (1963). Họ cho rằng, khủng hoảng tài chính là do sự hoảng loạn của hệ thống ngân hàng (banking panics), gây nên sự co hẹp cung tiền tệ, dẫn đến sự suy thoái trong tổng cầu tiêu dùng và đầu tư. Họ bỏ qua những nguyên nhân thực như: sự sụt giảm hiệu quả của nền kinh tế, sự suy sụp của nhiều doang nghiệp. Vì vậy, theo họ sự can thiệp của Chính phủ là không cần thiết, và thậm chí có hại, bởi vì những doanh nghiệp muốn phải để cho bị phá sản lại được cứu vớt, gây nên sự gia tăng quá mức về cung tiền tệ và dẫn tới lạm phát.
+ Nhóm thứ hai là nhóm đối lập nhóm theo chủ thuyết tiền tệ là Keynesian View, đầu là Kindleberger (1978) và Misky (1972). Họ có quan niệm rộng hơn về khủng hoảng tài chính và tiền tệ, bao gồm sự sụt giảm hầu hết giá trị cổ phiếu, sự vỡ nợ của nhiều công ty tài chính và phi tài chính, nạn giảm phát đi kèm với sự rối loạn của thị trường ngoại hối. Những yếu tố này gây nên sự sụt giảm mạnh về tổng cầu đầu tư và tiêu dùng, vì thế cần phải có sự can thiệp của nhà nước. Điều đáng nói là họ không đưa ra một đặc trưng rõ ràng về nguồn gốc của khủng hoảng, để làm tiền đề cho một chính sách kích thích có hiệu quả. Vì vậy, sự can thiệp của Chính phủ rất dễ dẫn đến lạm phát và trì trệ, như những người theo chủ thuyết tiền tệ đã lưu ý.
+ Nhóm thứ ba nhấn mạnh tới bản chất rủi ro của hoạt động tài chính, dẫn đầu là Stiglitz và Weiss (1981). Theo họ, hoạt động của hệ thống tài chính, đặc biệt là ngân hàng, chịu rủi ro cao, do ngân hàng đầu tư hay tổ chức cho vay thường không nắm rõ thông tin về khả năng sinh lợi và mức độ rủi ro của dự án đầu tư bằng cá nhân hay tổ chức đi vay; tức là những người chủ dự án. Sự khác biệt về thông tin (asymetry of information), hay sự thiếu minh bạch về thông tin dự án, khiến cho hệ thống tài chính có thể có vấn đề, bởi vì ngân hàng muốn ép lãi suất thực, cộng các phí dịch vụ cho vay tăng lên để bù cho rủi ro mất vốn có thể xảy ra. Nhưng điều này lại khiến cho những dự án có độ rủi ro cao nhất mới hy vọng có khả năng sinh lãi đủ cao để trả nợ (nếu may mắn thành công). Ngược lại, nếu đó là dự án của những doanh nghiệp vừa và nhỏ, với độ rủi ro ít (mức sinh lãi thấp hơn), thì họ sẽ khó có thể được vay vốn. Vì vậy, khi lãi suất cho vay tăng lên thì:
Sẽ có một tỷ lệ lớn những chủ các dự án với độ rủi ro cao hơn (như đầu cơ vào bất động sản, chứng khoán thời bong bóng) đi săn lùng vốn vay. Trong khi đó, những doanh nghiệp vừa và nhỏ, với những nhà đầu tư cẩn trọng, sẽ bị loại ra khỏi danh sách các ứng cử viên. Người ta gọi đây là sự chọn lầm phải điều ngụy hại (adverse selection), theo Akerlof (1974).
Với những chủ dự án lớn đã vay được vốn, thì họ có xu hướng làm thay đổi bản chất dự án mang tính đầu cơ cao hơn (hoặc có vẻ quan trọng hơn, để Nhà nước không thể để cho bị thất bại). Do vậy, họ có thể giàu lên nhanh chóng, nếu việc đầu cơ thành công; và để ngân hàng chịu tích tụ những khoản nợ xấu; hay xã hội phải gánh vác tổn thất qua gánh nặng cứu trợ ngân sách nếu dự án bị thất bại. Người ta gọi đây là hiểm họa do sự vô trách nhiệm (moral hazard).
- Chính vì những lý do trên đây, những người theo trường phái kinh tế học thể chế (institutional economics) cho rằng hoạt động của ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính nói chung, phải được giám sát hết sức cận trọng, nhằm hướng các giao dịch tới sự an toàn (Aoki 1991; Mc Kinmon 1991).
- Ngoài sự phân loại chức năng các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư và các quỹ đầu tư theo mức độ rủi ro của từng lĩnh vực đầu tư, cần phải có nhiều tổ chức trung gian khác làm chức năng giám sát và cảnh báo rủi ro. Chẳng hạn như các tổ chức xếp hạng (rating companies), mà chúng thường xuyên có sự thay đổi trạng thái tài chính của các tổ chức tài chính và phi tài chính. Sự xếp hạng này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng của các công ty trong việc gây quỹ từ thị trường vốn hay thị trường chứng khoán.
- Nhìn chung, cho dù thuộc trường phái kinh tế nào, thì vẫn có một sự nhất trí rằng, hệ thống tài chính cần phải được giám sát chặt chẽ, do tính phức tạp và rủi ro của hoạt động này. và việc thiếu sự quản lý, giám sát luôn dẫn đến bong bóng đầu cơ. Tuy nhiên, chỉ khi việc mất cân đối vĩ mô trỡ nên rất nghiêm trọng thì bong bóng đầu cơ mới có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính và kinh tế trên quy mô lớn. Những nhà đoạt giải thưởng Nobel kinh tế đã phát biểu quan điểm này bao gồm: Paul Krugman, Edmund S.Phelps, Reinhard Selten, và Josep Stiglitz. Họ nhấn mạnh rằng, khủng hoảng có thể tránh được nếu có một hệ thống giám sát tài chính và cảnh báo rủi ro tốt. Vì vậy, họ cho rằng, không phải cứ tự nhiên mà có sự can thiệp của Chính phủ thông qua các gói kích thích, nếu như không hiểu rõ khiếm khuyết gì trong thể chế tài chính đã đẩy đến khủng hoảng.
- Vì vậy câu hỏi được đặt ra là, tại sao một thể chế giám sát tài chính, được coi là chuẩn mực nhất thế giới, làm nền tảng cho sự phát triển vững mạnh và giàu có của ngành ngân hàng và tài chính Mỹ trong suốt nhiều thập kỹ (kể từ các năm 1930), lại sụp đỗ nhanh chóng như vậy?
2. Một số dấu hiệu và các dạng của khủng tài chính quốc tế:
2.1 Dấu hiệu: Tuỳ theo mức độ và phạm vi, khủng hoảng tài chính thể hiện qua các điểm sau đây:
+ Sự giảm giá dây chuyền của các đồng tiền
+ Tỷ gia hối đoái tăng đột biến và dây chuyền
+ Lãi suất tín dụng gia tăng: lãi suất tăng kéo theo cầu tiền tệ, cầu tín dụng sụt giảm làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh bị suy giảm.
+ Hệ thống ngân hàng bị tê liệt
+ Thị trường cổ phiếu sụt giá nhanh chóng
+ Các hoạt động kinh tế bị suy giảm
2.2 Các dạng khủng hoảng :
Khủng hoảng ngân hàng: rất hay gặp do ngân hàng là trung gian tài chính nhận tiền gửi của các thể nhân và pháp nhân để cho vay nên rủi ro dồn cả về mặt số lượng, thừoi hạn cũng như chủng loại tiền. Ngân hàng có thể lâm vào khủng hoảng do cho vay quá mức và không thu hồi lại được dẫn đến tỷ lệ nợ quá hạn cao làm ngân hàng không thể thanh toán các nghĩa vụ khi đến hạn. Ngân hàng là một hệ thống chặt chẽ nên khủng hoảng rất dễ lây lan và tạo khủng hoảng cả hệ thống ngân hàng. Trong trường hợp khủng hoảng các Ngân hàng thương mại thường có xu hướng siết chặt các điều kiện tín dụng hay nâng lãi suất để bù đắp rủi ro và kết quả là đẩy các doanh nghiệp – bạn hàng chủ yếu của ngân hàng vào tình thế khó khăn do thiếu nguồn tài chính để hoạt động.
Khủng hoảng nợ quốc gia: trường hợp một quốc gia vay nợ nước ngoài (vay chính thức, vay thương mại) qua nhiều, sử dụng không hiểu quả vốn nên không trả được nợ đúng hạn, lâm vào khủng hoảng nợ buộc phải xin hoãn nợ, xoá nợ thậm chí phải tuyên bố vỡ nợ (như trường hợp của CHDCND Triều Tiên). Khủng hoảng nợ xảy ra khá nhiều ( Argentina mới đây hay nhiều nước Châu Phi vừa qua) cùng với tiến trình toàn cầu hoá kinh tế do các điều kiện vay nợ nước ngoài trở nên dễ dàng hơn.
Khủng hoảng tiền tệ: là hiện tượng không đủ ngoại tệ để thanh toán các nghĩa vụ đến hạn hay đáp ứng nhu cầu cả thực tế và giả tạo do đầu cơ buộc chính phủ phải dùng quỹ dự trữ ngoại tệ để duy trì tỷ giá hối đoái hoặc phá giá nội tệ cho nội tệ mất uy tín nhanh chóng.
Khủng hoảng thị trường chứng khoán: với tư cách là đỉnh cao của kinh tế thị trường, thị trường chứng khoán rất nhạy cảm và phức tạp nên cũng dễ đổ vỡ. Khủng hoảng thị trường chứng khoán xảy ra khi giá chứng khoán biến động mạnh (“tuột dốc” hay “không thang” quá nhanh) ngoài tầm kiểm soát và do hiệu ứng “bầy đàn” làm cho chứng khoán bị “bán đổ, bán tháo” hay thị trường bị “đông cứng” vì không có giao dịch tạo ra sự thâm hụt giữa tiền (chứng khoán) vào so với tiền ra thị trường chứng khoán (quỹ chứng khoán)
Khủng hoảng cán cân thanh toán (cán cân vãng lai), cán cân vốn (còn được gọi là tài khoản) là cấu thành quan trọng nhất của tài khoản quốc gia: khủng hoảng xảy ra khi cán cân này thâm hụt quá nặng trong thời gian dài và không có nguồn bù đắp. Khủng hoảng cán cân vãng lai thường xảy ra khi cán cân thương mại (nhập trừ đi xuất) bị thâm hụt và khủng hoảng cán cân thanh toán khi tổng cácluồng ngoại tệ ra lớn hơn ngoại tệ vào (cán cân vãng lai, tài khoản vốn) gây nên thâm hụt nặng nề.
Khủng hoảng khả năng tính thanh khoản: nếu các loại khủng hoảng tài chính ở trên liên quan tới cả ba mặt số lượng, thời hạn và chủng loại tiền (và giống như tiền) thì khủng hoảng tình thanh khoản là sự mất cân đối chủ yếu liên quan tới thời hạn và chủng loại của “giống như tiền” và một số loại tài sản đặc thù.
Khủng hoảng ngân sách: NSNN thâm hụt nặng và kéo dài trong khi các nguồn thu bù đắp thâm hụt (in tiền, vay nợ trong và ngoài nước) bị hạn chế hay không thể lạm dụng hơn nữa nếu muốn tránh hậu quả như vỡ nợ hay bùng nổ lạm phát.
Trên đây là những dạng khủng hoảng tài chính cơ bản và trong tương lai có thể xuất hiện nhiều dạng nữa cùng với sự phát triển của tài chính trong tiến trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.
Phần 2 : Khủng hoảng tài chính toàn cầu
Khủng hoảng tài chính toàn cầu là một dạng bậc cao của khủng hoảng tài chính, nó không dừng lại ở phạm vi một quốc gia hay khu vực mà lan tỏa và tác động đến toàn bộ các nền kinh tế trên thế giới.Khủng hoảng tài chính ở Mỹ đã ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế các nước, gây ra suy thoái kinh tế ở nhiều nơi và tăng trưởng kinh tế chậm lại ở hầu hết các nước khác.
Các quốc gia trên toàn thế giới, ít hay nhiều, đều đang phải chống chọi với cuộc khủng hoảng tài chính lớn nhất trong khoảng 80 năm trở lại đây. Nguyên nhân do đâu? Có từ bao giờ? Điều đáng ngạc nhiên là, “cơn bão” này đã được“dự báo” từ hơn một thế kỷ trước, trong bộ “Tư bản” bất hủ của Các Mác.Những người được sinh ra trong nửa sau của thế kỷ XX mới chỉ nghe và đọc trong sách báo về cuộc đại suy thoái 1929 - 1933 của chủ nghĩa tư bản. Chính vì vậy, có thể nói, hiện tại chúng ta đang sống trong một thời kỳ đặc biệt của lịch sử. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, bắt đầu từ Mỹ đang tạo ra một làn sóng đe dọa nhấn chìm thế giới. Sự kiện này đã có tác động mạnh mẽ và làm thay đổi tư duy, ý thức của hàng triệu triệu người.
1. Diễn biến :
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra dẫn đến suy giảm kinh tế từ Mỹ lan rộng ra toàn cầu.
Bắt đầu từ tháng 8/2007 do một công ty thế chấp nhà (American Home Morgage) làm đơn phá sản.
Tiếp đó là sự sụp đổ tài chính lớn, gần 20 ngân hàng phá sản mỗi ngày, hàng nghìn đơn của người dân xin phá sản
Thị trường chứng khoán của Mỹ và thế giới bị tác động mạnh, đồng loạt giảm sút.
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra dẫn đến suy giảm kinh tế từ Mỹ lan rộng ra toàn cầu.
Bắt đầu từ tháng 8/2007 do một công ty thế chấp nhà (American Home Morgage) làm đơn phá sản.
Tiếp đó là sự sụp đổ tài chính lớn, gần 20 ngân hàng phá sản mỗi ngày, hàng nghìn đơn của người dân xin phá sản
Thị trường chứng khoán của Mỹ và thế giới bị tác động mạnh, đồng loạt giảm sút.
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 tại Mỹ lần này thực chất là biểu hiện rõ nét nhất của một quá trình “khủng hoảng” rất lâu trước đó. Điểm lại những mốc sự kiện chính trong chuỗi này để thấy khủng hoảng đã diễn ra như thế nào.
Năm 2002-2004: Giá cả ở các bang Arizona,California, Florida, Hawaii, và Nevada tăng trên 25% một năm. Sự bùng nổ nhà đất ở Mỹ bắt đầu. Năm 2005: Bong bóng nhà đất ở Mỹ vỡ vào tháng 08/2005. Thị trường bất động sản tạm gián đoạn trên một vài bang ở Mỹ vào cuối mùa hè năm 2005 khi tỷ lệ lãi suất tăng từ 1% lên đến 5.35% do có nhiều nhà kinh doanh bất động sản đã đánh giá thấp thị trường.
Năm 2006: Thị trường bất động sản tiếp tục suy giảm. Giá giảm, kinh doanh bất động sản, dẫn đến một lượng nhà dư thừa đáng kể. Chỉ số Xây dựng Nhà ở tại Mỹ hồi giữa tháng 08 giảm hơn 40% so với một năm trước đó.
Năm 2007: Kinh doanh bất động sản tiếp tục thất bại. Số lượng nhà tồn ước tính cao nhất từ năm 1989. Ngành kinh doanh bất động sản suy giảm với hơn 25 tổ chức cho vay dưới chuẩn tuyên bố phá sản. Gần 1,3 triệu bất động sản nhà ở bi tịch thu để thế chấp nợ, tăng 79% từ năm 2006.
Ngày 05/02 Công ty Mortage Lenders Network USA đứng thứ 15 trong số các nhà cho vay dưới chuẩn nhiều nhất ở Mỹ, với tổng dư nợ 3.3 tỷ đô la thời điểm quý 3 năm 2006, tuyên bố phá sản.
Ngày 02/04 New Century Financial, nhà cho vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ, tuyên bố phá sản.
Ngày 19/07: Chỉ số Dow Jones đóng cửa với mức 14.000 điểm, lần đầu tiên trong lịch sử.
Tháng 8: Khủng hoảng tín dụng toàn cầu, mà chính xác là chứng khoán dựa trên các khoản nợ thế chấp dưới chuẩn, được phát hiện trong các danh mục vốn đầu tư và quỹ trên khắp thế giới từ BNP Paribas cho đến Ngân hàng Trung Quốc. Nhiều nhà cho vay ngừng cho vay tín dụng mua nhà. Cục dữ trữ liên bang đã cho các ngân hàng vay 100 tỷ đô la với lãi suất thấp.
Ngày 16/08: Tập đoàn tài chính Countrywide, đơn vị cho vay thế chấp lớn nhất nước Mỹ, đã phải tránh phá sản bằng cách vay khẩn cấp 11 tỷ đô la từ một nhóm các ngân hang khác.
Ngày 17/08: Cục dự trữ liên bang đã phải hạ mức hệ số chiếu khấu 50 điểm cơ bản từ mức 6.25% xuống 5.75%.
Ngày 14/09: Ngân hàng Northern Rock (Anh) đã gặp vấn đề nghiêm trọng về khả năng thanh khoản liên quan đến khủng hoảng cho vay dưới chuẩn. Ngày 15–17/10: Liên minh các ngân hàng Mỹ được hỗ trợ bởi chính phủ thông báo lập một siêu quỹ trị giá 100 tỷ đô la để mua lại các chứng khoán được đảm bảo bằng tài sản thế chấp mà giá trị thị trường đã bị sụt giảm do khủg hoảng vay dưới chuẩn. Chủ tịch Cục dự trữ Liên bang Ben Bernake và Bộ trưởng Bộ tài chính Mỹ đều đưa ra những cảnh báo về mối nguy hiểm của việc vỡ bong bóng bất động sản.
Ngày 31/10: Cục dự trữ liên bang hạ lãi suất quỹ liên bang 25 điểm xuống 4,5% Tháng 11: Cục dự trữ liên bang bơm thêm 41 tỷ đô la cho các ngân hàng
vay với lãi suất thấp. Đây là lần xuất tiền lớn nhất của cục dự trữ liên bang kể từ 19 tháng 9 năm 2001 (50.35 tỷ đô la).
Năm 2008 với những mốc đáng nhớ sau:
Ngày 16/03: Bear Stearns bán lại cho JP Morgan Chase với giá 2 đôla một cổ phiếu để tránh phá sản. Cục dự trữ liên bang phải cung cấp 30 tỷ đô la để trợ giúp các khoản lỗ của Bear Stearn.
Ngày 17/07: Các ngân hàng lớn và các tổ chức tài chính trên thế giới đã báo cáo thua lỗ lên đến 435 tỷ đôla.
Ngày 07/09: Cục dự trữ liên bang dành quyền kiểm soát hai tập đoàn Fannie Mae và Freddie Mac
Ngày 14/09: Merrill Lynch được bán cho Bank of America với giá 50 tỷ$ Ngày 15/9: Lehman Bothers tuyên bố phá sản. Ngay sau đó, 3 loại chỉ số ở Mỹ bao gồm chỉ số Dow Jones, NASDAQ và S&P 500 sụt giảm mạnh nhất kể từ sau sự kiện 11/9/2001.
Ngày 17/09: Cục dự trữ liên bang Mỹ cho AIG vay 85 tỷ đô la để giúp công ty này tránh phá sản.
Ngày 19/09: Kế hoạch giải cứu tài chính của Bộ trưởng tài chính Paulson trị giá 700 tỷ đô la được công bố sau một tuần bất ổn trên thị trường tài chính và nợ tín dụng. Tuy nhiên, quốc hội Mỹ đã không thông qua bản dự thảo này.
Ngày 26/9: Ngân hàng Washington Mutual – ngân hàng tiết kiệm lớn nhẩt Mỹ được chính phủ tiếp quản và sau đó được bán lại cho JP Morgan Chase& Co với giá 1.9 tỷ đôla
Ngày 29/09: QH Mỹ bác bỏ kế hoạch giải cứu thị trường tài chính Mỹ do bộ Tài chính Mỹ đề xuất.
Ngày 30/09: Ngân hàng khổng lồ Wachovia của Mỹ, đồng thời là ngân hàng cho vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ đồng ý bán lại bộ phận ngân hàng bán lẻ cho đối thủ Citigroup.
Ngày 23/11 trong một động thái chưa từng có, cả 3 cơ quan quản lý tài chính quan trọng nhất của Mỹ đồng thuận đưa ra gói giải pháp trị giá 20 tỷ USD và bảo lãnh toàn bộ nợ của Citigroup, nhằm kéo tập đoàn có ảnh hưởng toàn cầu này khỏi nguy cơ sụp đổ.
Ngày 25/11: Fed tuyên bố sẽ mua lại những khoảng cầm cố chứng khoán trị giá khoảng 500 tỷ USD của Fannie Mae, Fredddie Mac và cả Ginnie Mae. Thêm vào đó, khoảng 100 tỷ USD đã được bỏ ra để mua lại các khoảng nợ của Fannie, Fredddie và Federal Home Loan Banks
Khủng hoảng tài chính là mối quan tâm hàng đầu của dân chúng Mỹ và thế giới. Trong nền kinh tế toàn cầu hóa hôm nay, khủng hoảng tài chính và sự trì trệ của nền kinh tế Mỹ đang và sẽ ảnh hưởng đến nhiều nước trên thế giới.Vì nền kinh tế Mỹ được coi là đầu tàu của thế giới.
Rất nhiều quốc gia phụ thuộc vào Mỹ. Vì vậy đã có rất nhiều phân tích nguyên nhân và thực trạng cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ và ảnh hưởng của nó đến kinh tế các nước, trong đó có Việt Nam.
2. Nguyên nhân :
2.1 Nguyên nhân trực tiếp và rõ ràng nhất của cuộc khủng hoảng tài chính lần này là sự suy sụp của thị trường bất động sản.
Hầu hết người dân Mỹ khi mua nhà là phải vay tiền ngân hàg và trả lại lãi lẫn vốn trong một thời gian dài (20-30 năm) sau đó, với lãi suất thả nổi (điều chỉnh tăng theo thời gian). Do đó, có một sự liên hệ chặt chẽ giữa lãi suất và tình trạng của thị trường bất động sản. Khi lãi suất thấp và dễ vay mượn thì người ta đổ xô đi mua nhà, đẩy giá nhà cửa lên cao; khi lãi suất cao thì người bán nhiều hơn người mua, đẩy giá nhà xuống thấp. Có 3 yếu tố chính tạo bong bóng thị trường bất động sản
Thứ nhất, từ đầu năm 2001, đặc biệt là sau cuộc khủng bố 11 tháng 9, khi mà sau vụ khủng bố giá các cổ phiếu mỹ sụt giảm ,để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn đến việc các ngân hàng cũng hạ lãi suất cho vay tiền mua bất động sản. Vào giữa năm 2000 thì lãi suất cơ bản của Fed là trên 6% nhưng sau đó lãi suất này liên tục được cắt giảm, cho đến giữa năm 2003 thì chỉ còn 1%.
Hai là, chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo có nhà ở của Chính phủ lúc bấy giờ là khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo được vay tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Việc này phần lớn được thực hiện thông qua hai công ty được bảo trợ bởi chính phủ là Fannie Mae và Freddie Mac. Hai công ty này giúp đổ vốn vào thị trường bất động sản bằng cách mua lại các khoản cho vay của các ngân hàng thương mại, biến chúng thành các loại chứng từ được bảo đảm bằng các khoản vay thế chấp, rồi bán lại cho các nhà đầu tư ở Phố Wall, đặc biệt là các ngân hàng đầu tư khổng lồ như Bear Stearns và Merrill Lynch.
Ba là kế ước nhận nợ của người mua nhà trở thành một loại chứng khoán (chứng khoán phái sinh), được ngân hàng thông qua người môi giới đưa vào giao dịch mua bán lại trên thị trường (thị trường thứ cấp). Trên thị trường mua đi bán lại, nhiều người đầu tư cá nhân thông qua người môi giới đã bỏ tiền ra mua loại chứng khoán này mà họ không hiểu được nó là cái gì, chỉ biết hàng năm được tiền lãi.
Vì vậy thị trường bất động sản trở nên rất xôi động, có rất nhiều người thu nhập thấp hoặc không có tín dụng tốt nhưng vẫn đổ xô đi mua nhà. Để có thể được vay, nhóm người này thường phải trả lãi suất cao hơn và thường được cho mượn dưới hình thức lãi suất điều chỉnh theo thời gian, khoản tiền cho vay dành cho nhóm này đã tăng vùn vụt. Theo các ước tính thì nó tăng từ 160 tỉ USD ở năm 2001 lên 540 tỉ vào năm 2004 và trên 1.300 tỉ vào năm 2007( 10% GDP của MỸ). Fannie Mae đã mạnh tay hơn trong việc mua lại các khoản cho vay đầy mạo hiểm do phải đối đầu với cạnh tranh nhiều hơn từ các công ty khác, chẳng hạn như Lehman Brothers.
Vì dễ vay cho nên nhu cầu mua nhà lên rất cao, kéo theo việc lên giá bất động sản liên tục. Giá nhà bình quân đã tăng đến 54% chỉ trong vòng bốn năm từ 2001 đến 2005. Việc này cũng dẫn đến vấn đề đầu cơ và ỷ lại là giá nhà sẽ tiếp tục lên. Hệ quả là người ta sẵn sàng mua nhà với giá cao, bất kể giá trị thực và khả năng trả nợ sau này vì họ nghĩ nếu cần sẽ bán lại để trả nợ ngân hàng mà vẫn có lời. Do đó, một bong bóng đã thành hình trong thị trường bất động sản.
Nhưng từ 2 năm trở lại đây, giá bất động sản không ngừng giảm xuống, giá trị các căn hộ ngày càng thấp hơn các khoản tín dụng đã cấp. Hạn mức tín dụng giảm xuống thì ngân hàng thu hồi nợ, nhưng người mua nhà không có khả năng thanh toán.
2.2 Cho vay dưới chuẩn - nguyên nhân của sụp đổ thị trường bất động sản và cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ.
Từ nhiều năm qua, các ngân hàng đầu tư Mỹ đã nới lỏng tối đa chính sách tín dụng cho các công ty và cá nhân mua bất động sản trả chậm. Làm nảy sinh những dòng vốn vay giá rẻ và gia tăng một lượng lớn người đi vay tiền. Trên thực tế, vốn vay rẻ sẽ làm mất đi ý thức phòng ngừa rủi ro của người đi vay. Người đi vay dể dàng trong việc định giá lại tài sản để tiếp tục một khoảng vay mới nhằm trả cho khoản vay cũ. Bên cạnh đó, việc cung cấp tín dụng dễ dàng như: không cần tài sản thế chấp, tỷ lệ trả trước rất thấp, chỉ cần có mã số thuế. Hoạt động cho vay này thật sự không đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn để được cấp tín dụng nhưng vẫn được vay đã làm gia tăng rủi ro cho các ngân hàng, và bất động sản tăng giá họ sẽ được hưởng lợi. Về phía ngân hàng, tuy hình thức cho vay này rủi ro rất lớn, nhưng các ngân hàng vẫn chấp nhận để đổi lại một mức lãi suất rất cao. Mặt khác các công ty tài chính cũng thực hiện hình thức cho vay này một cách rộng rãi và chuyển rủi ro qua ngân hàng và nhà đầu tư thông qua một sản phẩm tài chính gọi là “mua lại các khoản nợ hay khoản phải thu”.
Các công ty tài chính bán các khoản phải thu cho ngân hàng với một chiếc khấu cao, ngân hàng và các tổ chức tài chính chuyên biệt sẽ chứng khoán hoá các khoản phải thu, nghĩa là phát hành các chứng khoán để vay tiền với lãi suất rất cao. Rõ ràng là rủi ro chồng rủi ro, và đương nhiên là các chứng khoán có mức độ xếp hạng tín nhiệm càng thấp thì tỷ suất sinh lợi càng cao, thậm chí có chứng khoán không có mức độ xếp hạng tín nhiệm nhưng vẫn được nhà đầu tư trên toàn thế giới chấp nhận do lãi suất siêu hạng.
Một lượng vốn đầu tư khổng lồ trên thế giới đã đổ vào thị trường bất động sản Mỹ và khi thị trường đóng băng vào giữa năm 2007, các vụ đổ vỡ dây chuyền đã xảy ra. Các nhà đầu tư bất động sản vay tiền không đủ khả năng trả lãi vay, bất động sản không bán được, chứng khoán phát hành trên các khoản phải thu này sụt giá thê thảm, các ngân hàng không đủ khả năng trả các khoản nợ lâm vào tình trạng phá sản.
Sản phẩm tài chính hiện đại nhưng nhiều rủi ro này chính là nguyên nhân cho cuộc khủng hoảng tài chính cho vay dưới chuẩn.
2.3 Một số nguyên nhân khác:
a) Mua bán khống
Khi giới đầu cơ đoán chắc rằng cổ phiếu của những tập đoàn dính líu đến cho vay dưới chuẩn sẽ sụt giảm, họ ồ ạt vay những cổ phiếu này rồi ồ ạt bán ra, tạo nên một áp lực giảm giá lớn không gì cứu vãn nổi. Sau khi giá giảm đến một mức nào đó, họ sẽ mua và trả lại nơi cho vay cộng thêm một ít phí, còn bao nhiêu tiền chênh lệch họ sẽ hưởng trọn.Thậm chí, họ còn áp dụng cách thức mua bán khống đến hai lần (naked short sale), tức là không thèm vay chứng khoán nữa mà cứ ra lệnh bán theo kiểu “đánh xuống” vì lợi dụng khe hở, mua bán ba ngày sau mới giao cổ phiếu.
b) Thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ
Có tiền, các công ty cứ thoải mái cho người vay bằng tiền của các ngân hàng đầu tư cung cấp thông qua mua lại danh mục cho vay của các công ty này. Các ngân hàng này trên cơ sở danh mục cho vay vừa mua lại sẽ phát hành CK để vay tiền. Danh mục cho vay được chia ra, ít rủi ro, rủi ro cao, tùy định mức tín nhiệm, nhà đầu tư tha hồ lựa chọn theo sự mạo hiểm của mình. Có loại CK không cần định mức tín nhiệm, có thể thu lãi cao nhưng rủi ro cũng lớn.
Như vậy, rủi ro trong cho vay đã được chuyển từ bên cho vay là công ty tài chính sang NH đầu tư. Nhà đầu tư trên thế giới đã đổ tiền mua CK này, nhờ vậy đã cung cấp một lượng vốn khổng lồ cho thị trường bất động sản ở Mỹ tăng nóng.
Giáo sư kinh tế Joseph Stiglitz, người được giải thưởng kinh tế Nobel kinh tế 2001, kết luận: “Hệ thống tài chính của Mỹ đã không thực hiện được hai trách nhiệm chính của mình đó là quản lý rủi ro và phân chia vốn. Cả hệ thống tài chính Mỹ đã không làm những gì mà nó đáng ra phải làm - chẳng hạn như tạo ra các sản phẩm để giúp người Mỹ quản lý được những rủi ro nguy hiểm nghiêm trọng của mình, như là giữ lại được nhà khi mức lãi suất cho vay tăng cao hoặc khi giá nhà rớt giá”.
c) Khủng khoảng niềm tin
Sự sụp đổ của một loạt các ngân hàng hàng đầu trong lĩnh vực đầu tư của Mỹ đã làm người dan Mỹ và tiêu dùng ảnh hưởng nghiẹm trọng, nhất là khi ở các nước phát triển là một nền kinh tế tiêu dùng.
Hệ thống các ngân hàng trong con mắt mọi người trở nên monmh manh khi mà ba trong năm ông lớn tại thị trường phố Wall sụp đổ là Merrill Lynch, Lehman Brothers, Bearstearns.
Thị trường tài chính dựa trêm nguyên tắc độ tin cậy, và độ tin cậy đó đã bị xói mòn, xuống cấp. Sự sụp đổ của Lehman Brothers là biểu tượng đánh dấu mức độ tin cậy đã xuống một mức thấp mới và dư âm của nó sẽ còn tiếp tục. Một ngân hàng tồn tại hơn 158 đã cùng người Mỹ trải qua rất nhiều khó khăn, trải qua các cuộc suy thoái cùng nước Mỹ lại sụp đổ. Quả thật là một cú sốc lớn đối với toàn bộ người dân Mỹ.
2.4 Sự lầm tưởng sức mạnh của nước Mỹ
Đã từ lâu từ sau chiến tranh thế giới thứ II người dân vẫn nghĩ họ là một quốc gia hùng mạnh với kinh tế “khỏe mạnh”. Họ vẫn nghĩ mình là nước giàu có hơn bất kỳ quốc gia nào. Cùng với những hình thức thanh toán mới người tiêu dùng nhiều hơn trong khi bản thân họ không thể sản xuất đáp ứng được nhu cầu đó. Hàng năm người dân Mỹ tiêu thụ một lượng hàng hóa mà họ không có khử năng chi trả khoảng 80 tỷ USD.
Người dân MỸ không có xu thế tích kiệm trước khi khủng hoảng diễn ra. Ví dụ là các công ty ôtô Mỹ khi các loại ôtô cùng loại của Nhật(Toyota, Honda…) và Châu Âu tốn ít xăng hơn thì những chiếc ôtô Ford, GM thường
3. Tác dộng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu :
3.1 Tác động đối với thế giới :
3.1.1.Ngắn hạn :
Trong ngắn hạn, năm 2009, chắc chắn kinh tế Mỹ không tránh khỏi suy thoái trầm trọng. Dù được chính phủ bơm tiền vào các ngân hàng thương mại và mua các chứng khoán chỉ còn ít giá trị, hệ thống tín dụng không thể hoạt động bình thường lại ngay. Thông qua hai gói kích cầu của hai vị tổng thống G.W. Bush 700 tỷ và B. Obama 787 tỷ usd.
Hơn nữa, các nhà đầu tư vẫn còn hoang mang cao độ do chưa biết rõ hết mức độ nghiêm trọng của sự mất mát. Họ nghĩ rằng tin xấu rồi sẽ hiện ra nữa.
Tâm lý sợ hãi hiện đang bao trùm lĩnh vực tài chính. Các ngân hàng rất dè chừng trong việc cho vay, làm ảnh hưởng đến sản xuất của doanh nghiệp và đến khả năng chi tiêu của dân chúng đối với các hàng hóa lâu bền như xe hơi. Mặt khác, cổ phiếu mất giá và giá bất động sản giảm mạnh, giá trị danh nghĩa của tài sản người dân giảm mạnh theo và do đó tiêu dùng trong dân đang và sẽ giảm mạnh. Sự đình trệ cả hai mặt cung và cầu sẽ làm kinh tế Mỹ suy thoái nặng.
Vì các yếu tố đó, các dự báo về kinh tế Mỹ đều cho thấy những con số khá bi quan. Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), năm 2008 kinh tế Mỹ phát triển 1,6% và năm 2009 gần như không tăng trưởng (0,1%). Nếu xét từng quý thì tình huống trước mắt trầm trọng hơn.
Các nhà kinh tế hàng đầu đang xây dựng mô hình khủng hoảng theo mô hình nào. Theo hình chữ L ,V ,W. Do đó có một số thời điểm với những báo cáo khả quan về kinh tế, nhưng có lẽ đó chỉ là dấu hiểu tăng trưởng trong ngắn hạn mà chưa hẳn thoát được ra ngoài khủng hoảng một cách thực sự.
3.1.2. Dài hạn :
Nhìn vấn đề trong tương lai xa hơn, hiện nay có nhiều đánh giá khác nhau.Tình hình của Mỹ hiện nay giống với cuộc đại khủng hoảng trong thập niên 1930 hoặc giống với thời kỳ suy thoái của Nhật trong thập niên 1990. Đại khủng hoảng thập niên 1930 làm cho Mỹ mất 10 năm mới đưa mức sản xuất trở lại thời trước khủng hoảng. Nhật cũng mất hơn 10 năm mới ổn định được hệ thống tín dụng và khôi phục nền kinh tế. Từ các so sánh này, nhiều người lo là sự suy thoái hiện nay của kinh tế Mỹ có thể kéo dài tới 10 năm.
Tuy nhiên, so với đại khủng hoảng thập niên 1930, các đối sách của Mỹ hiện nay không đơn độc mà có sự hợp tác của những nền kinh tế lớn vì sự tùy thuộc vào nhau, nhất là thị trường tài chính đã lên cao độ, Mỹ sụp đổ sẽ kéo theo sự bất ổn ở các nền kinh tế khác. Hiện nay việc hợp tác đã bắt đầu trong chính sách lãi suất.
Ngày 09/10/2008 cùng với Mỹ, ngân hàng trung ương của các nước lớn giảm lãi suất ngắn hạn hàng loạt (Mỹ còn 1,5%, khối Euro 3,75%...). Riêng Nhật lãi suất đã ở mức quá thấp (0,5%) nên kỳ này không thay đổi. Nỗ lực này có mục đích giảm phí tổn điều động vốn của ngân hàng, giảm phí tổn vay vốn của doanh nghiệp và người tiêu thụ nhằm kích thích sản xuất và chi tiêu. Trong những ngày tới, nếu cần, các nước sẽ can thiệp trực tiếp vào thị trường ngoại hối để tránh sự biến động đột ngột trong tỷ giá các đồng tiền chính.
Thêm vào đó, khác với thập niên 1930, hồi đó Mỹ và nhiều nước khác đều gặp khó khăn ở mức độ gần như nhau, hiện nay kinh tế thế giới ngoài Mỹ phát triển khá mạnh. Năm 2007, tăng trưởng ở Mỹ chỉ có 2% trong khi thế giới là 5%. Theo dự báo của IMF, năm 2008 Mỹ tăng trưởng 1,6% trong khi thế giới 3,9%.
Cùng với cơ chế hợp tác đã có của các nước lớn, sự năng động của kinh tế thế giới là điều kiện về thị trường giúp kinh tế Mỹ mau hồi phục. Hiện nay tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ độ 6%, có thể sẽ tăng lên trong năm 2009 nhưng, với các lý do vừa nói, không thể có chuyện tăng lên tới mức 25% của thập niên 1930.
Một điểm nữa là chính phủ ngày nay đóng vai trò quan trọng hơn và hiệu quả hơn vì có các cơ chế làm dịu tác động của khủng hoảng so với thập niên 1930. Để giảm sự lo âu cho những người gửi tiết kiệm ở ngân hàng với số tiền lớn, chính phủ đã nâng mức bảo hiểm số tiền gửi từ 100.000 USD lên 250.000 USD trong đầu tháng 10 này.
So với Nhật vào thập niên 1990, tình hình của Mỹ hiện nay cũng khác ít nhất ở hai điểm. Thứ nhất, thị trường bất động sản của Nhật cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990 tăng nhanh đến mức quá cao một cách bất thường, hình thành nền kinh tế bong bóng quá lớn nên khi nổ tác động rất mạnh đến hoạt động sản xuất và tiêu thụ.
Tình hình của Mỹ hiện nay phức tạp hơn do các công cụ đầu tư tinh vi, khó kiểm soát, nhưng riêng về giá bất động sản, sự biến động tăng giảm không lớn lắm so với Nhật Bản 15 năm trước. Thứ hai, trong thập niên 1990 Nhật bị giảm phát nặng nên lãi suất danh nghĩa giảm đến gần số không nhưng lãi suất thực vẫn cao. Hiện nay Mỹ lạm phát vài phần trăm nên dễ dùng chính sách tiền tệ kích thích sản xuất hơn Nhật hồi thập niên 1990.
Các yếu tố làm cho kinh tế Nhật hồi phục từ năm 2003 cũng cho thấy những gợi ý cho khả năng hồi phục của kinh tế Mỹ hiện nay. Một mặt Nhật can thiệp tích cực vào thị trường ngoại hối giữ cho đồng yen ở mức thấp, nhờ đó đẩy mạnh xuất khẩu. Mặt khác, chính phủ bơm tiền vào ngân hàng, giải quyết vấn đề thiếu vốn cho vay.
Ngoài ra, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng cao suốt cả một giai đoạn dài góp phần tăng ngoại nhu để kinh tế Nhật chóng hồi phục. Cả 3 yếu tố này ngày nay cũng có thể thấy trong trường hợp của kinh tế Mỹ. Do đó, vấn đề nợ xấu của Mỹ có lẽ không kéo dài như Nhật 15 năm trước. Có thể từ cuối năm 2009 kinh tế Mỹ có triển vọng bước vào quá trình hồi phục.
Với tình hình khủng hoảng tình trạng thất nghiệp sẽ ra tăng. Tại Mỹ con số thất nghiệp đã lên tới 9,5%, tại khu vực châu Âu là là 9,8%. Riêng tại Đức đầu tàu kinh tế Châu Âu đã là 9%. Riêng ở Nhật là 5,5 %. Tình trạng thất nghiệp sẽ là thach thức đối với các nước. Khi mà chỉ số thất nghiệp luon là chỉ tiêu đánh giá nền kinh tế. Việc thất nghiệp cao tạo sức ép lên ngân sách nhà nhà nước khi phải hỗ trợ tiền trợ cấp. Trong khi ngân sách của các nước hiện nay có xu hướng thâm hụt cao.
tiêu hao nhiên liệu gấp đôi.
3.1.3 Nguy cơ khủng hoảng nợ công sau khủng hoảng kinh tế :
Khủng hoảng tài chính khiến cả thế giới bị chịu tác động. Không những thế nó còn tác động lớn khi cuộc khủng hoảng đi qua. Măc dù cuộc khủng hoảng chưa có dấu hiệu kết thúc các ngân hàng , tổ chức tài chính trên thế giới lần lượt nộp đơn phá sản hoặc sáp nhập , bán lại . Các nước trên thế giới gặp khó khăn trông việc tạo dựng việc làm cho nhân dân khi mà tình trạng thất nghiệp trở nên nghiêm trọng. Thì dấu hiểu khủng hoạng nợ công đã được thấy dõ một cách rõ hơn khi mà tổng số nợ công trên thế giới đã ở mức 35000 tỷ USD. Tình hình nợ công không chỉ diễn ra tại các nước nhỏ mà ngay cả các nước lớn những đầu tàu kinh tế thế giới. Ngay cả đầu tau kinh tế Mỹ cũng đã nợ tới 11500 tỷ USD , tổng số nợcủa Mỹ chiếm tới 80% GDP của nước này.Hay nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới là Nhật cũng đã nợ tới 10000 tỷ USD gấp đôi GDP của nước này.
Có thể nói chưa bao giờ các nước trên thế giới lại vay nợ nhiều như bây giờ kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II 1945. Việc vay nợ nhiều đã trở thành một vấn đề ngay từ bây giờ không phải là câu chuyện trước mắt.
Nếu như sau chiến tranh thế giới thứ II với kế hoạch Mashall của mình thì Mỹ là chủ nở của các nước châu Âu thì hiện tại tất cả đều là những người đang phải chịu nợ.
Thứ nhất ở các nước phát triển đứng trước tình thế là đảm bảo an sinh xã hội. Khi mà ở các nước này tình hình dân số già và việc phải trả một khoản tiền lớn cho lương hưu hay trợ cấp sẽ khiến tình hình nợ công trở nên khó khăn hơn. Đơn cử Nhật Bản với tuổi thọ bình quân khoảng 86 tuổi thì việc đáp ứng nhu cầu của người dân sẽ là thach thức lớn. Cộng thêm khoản trợ cấp thất nghiệp khi mà tinh hình thất nghiệp đang ngày càng cao.
Thứ hai : Với các gói kích cầu của từng quốc gia. Với những số tiền lớn như vậy cũng tạo nên khoảng thâm hụt ngân sách của mình. Nguy cơ vỡ nợ ở các quốc gia yếu. Và điều đó đã được minh chứng tai Ireland và Rumani. Hay một số các quốc gia Hy Lạp , Italia, Tây Ban Nha.
3.2 Tác động đối với Việt Nam :
Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ có tác động trực tiếp thế nào đến Việt Nam? Điều đó phụ thuộc vào mối quan hệ kinh tế giữa 2 nước.Tình hình hội nhập mở cửa của Việt Nam có sâu rộng với kinh tế Mỹ và thế giới hay không? Xét trên khía cạnh Đầu tư, hiện nay, Mỹ đứng thứ 6 trong số các nước đầu tư vào Việt Nam. Mỹ cũng là nhà đầu tư (NĐT) lớn, nếu cộng cả giá trị đầu tư qua các nước thứ 3 thì Mỹ là NĐT số 1 vào Việt Nam trong nhiều năm qua. Các dự án từ Mỹ vào Việt Nam phần lớn là giai đoạn đầu và tập trung nhiều vào hạ tầng dài hạn. Ngược lại, quan hệ về ngắn hạn chúng ta xuất sang Mỹ nhiều hơn. Trên lĩnh vực thương mại, Mỹ hiện là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm tỷ trọng khoảng 23-25%. Còn lại, quan hệ giữa 2 hệ thống tài chính, ngân hàng gần như không đáng kể.
Về các tác động gián tiếp, Việt Nam chưa vào sâu trong cuộc chơi toàn cầu nên đang có lợi thế là cơn tác động này chưa lan tới. Các nền kinh tế khác trong những ngày qua đã bị ảnh hưởng. Lợi thế này tạo cho chúng ta cái nhìn tốt về một nền kinh tế “an bình” không bị bão táp làm tan vỡ. Chính điều này đã quyết định tính chất và quy mô của cơn địa chấn này đến nền Cuộc khủng hoảng này tác động đến kinh tế Việt Nam trên một số mảng cơ bản: Lãi suất cho vay liên ngân hàng quốc tế tăng dẫn đến nợ ngắn hạn của Việt Nam tại các ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp tăng, làm cho người dân dự đoán đồng USD giảm nên họ đã rút đồng USD ra khỏi ngân hàng hoặc bán USD mua tiền Việt Nam gửi vào,…
Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng về mặt tiền tệ đối với Việt Nam có lẽ không đáng kể. Nếu như cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ nền kinh tế Mỹ ảnh hưởng ngay lập tức tới các nền kinh tế hùng mạnh khác, thì cơn bão này đến Việt Nam chậm hơn 1 nhịp. Nếu như sức tàn phá của cuộc khủng hoảng ở hầu hết các nước thể hiện đầu tiên và rõ nét nhất là hệ thống tài chính, ngân hàng, thì ở Việt Nam lại thể hiện trước hết là ở lĩnh vực xuất khẩu, nhập khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Sức ảnh hưởng mạnh nhất lại đè lên vai hàng triệu người nông dân, thợ thủ công tham gia sản xuất hàng xuất khẩu. Những loại chứng khoán mà hiện nay đang có vấn đề của những công ty chứng khoán và bảo hiểm của Mỹ chưa bán ở Việt Nam. Hệ thống tiền tệ và thị trường vốn, thị trường chứng khoán ở Việt Nam chưa lành mạnh, dễ tổn thương, dễ lâm vào bất ổn chủ yếu là do các yếu tố trong nội bộ Việt Nam như thiếu tính công khai, thiếu minh bạch, dân chúng khó tiếp cận, tồn tại giao dịch nội gián..., chứ không liên quan nhiều đến cuộc khủng hoảng ở Mỹ.
Nghành ngân hàng Việt Nam bị ảnh hưởng không đáng kể bởi hầu hết các NH Việt Nam là NHTM, phục vụ cho vay tiêu dùng, cho vay doanh nghiệp, độ phân tán rủi ro cao và không có sự liên thông đầu tư với các ngân hàng đầu tư lớn của Mỹ như các nước khác.
Sự ảnh hưởng nếu có thì chỉ do tác động tâm lý nhất thời của nhà đầu tư. Nếu có chăng cũng chỉ có thể xảy ra khả năng một số nhóm nhà đầu tư sẽ làm động tác “xả hàng” cổ phiếu ngành ngân hàng nhằm làm trầm trọng thêm tình hình để kéo giá cổ phiếu ngân hàng xuống“.
Đầu tư trực tiếp (FDI) ở Việt Nam có lẽ cũng không bị ảnh hưởng nhiều từ cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Mỹ. Các nhà đầu tư chính ở Việt Nam là Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan... Ngay cả những công ty chế tạo của Mỹ nếu có kế hoạch đầu tư vào Việt Nam cũng sẽ không vì cuộc khủng hoảng này mà đình hoãn kế hoạch đó. Kinh nghiệm của thập niên 1990 cho thấy kinh tế Nhật suy thoái hầu như không ảnh hưởng gì đến FDI của họ ở Trung Quốc và Việt Nam. Kinh nghiệm của Intel tại Việt Nam cũng cho thấy công ty này chậm triển khai kế hoạch đầu tư ở nước ta chủ yếu vì không bảo đảm được nguồn nhân lực có trình độ cao cần thiết. Theo một khảo sát gần đây thì các doanh nghiệp nước ngoài khi được hỏi họ nước nào là địa điểm mà họ sẽ chú trọng đầu từ vào? Thì Việt Nam được nhiều người chọn lựa là thị trường mục tiêu hàng đầu. Vì VIệt Nam có tình hình chính trị ổn định cộng thêm cơ sở pháp lý của Việt Nam ngày càng được cải cách , làm thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Cộng thêm khu vực châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng ít bị chịu ảnh hưởng bởi khủng hoảng và được dự đoán là khu vực sẽ hồi phục nhanh sau khủng hoảng.
Lĩnh vực xuất khẩu: Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nhất từ cuộc suy thoái của Mỹ có lẽ là ở lĩnh vực xuất khẩu. Hiện nay Mỹ chiếm hơn 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nhưng phần lớn sản phẩm của ta xuất khẩu sang Mỹ là hàng may mặc, giày dép và hàng thủy sản nên trước mắt chỉ những mặt hàng này gặp khó khăn. Dù Mỹ không gặp khủng hoảng, việc tập trung xuất khẩu một số mặt hàng nhất định sang Mỹ dễ gây va chạm với các nhà sản xuất bản xứ. Vấn đề của Việt Nam là phải nỗ lực chuyển dịch cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu theo hướng cao cấp hơn, đa dạng hơn. Trong thời gian trước mắt, Việt Nam nên củng cố sức cạnh tranh của các ngành công nghiệp để khi kinh tế Mỹ hồi phục sẽ triển khai chiến lược xuất khẩu với nhiều mặt hàng đa dạng hơn.
Đối với hoạt động xuất khẩu khoáng sản, nhiên liệu
Trước khi chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, sản phẩm dầu thô xuất khẩu chỉ tăng nhẹ trong mấy năm đầu của giai đoạn 2001 – 2006 sau đó giảm dần. Sự sụt giảm là do các mỏ dầu đã cạn kiệt trong khi việc thăm dò và mua các mỏ dầu mới của các nước khác không mấy tiến triển khi xảy ra suy thoái.Nhiều nền kinh tế lớn bắt đầu từ Nhật, Nga, EU lâm vào tình trạng suy thoái, Mỹ chính thức lâm vào suy thoái từ tháng 12/2007 thì giá dầu thô sụt giảm mạnh cùng với đó là nhu cầu xây dựng đi xuống ảnh hưởng tới mặt hàng dầu của Việt Nam, đang từ ngưỡng cao xuống còn 50 USD/thùng. Kinh tế thế giới bước vào giai đoạn suy thoái khiến giá dầu giảm mạnh, giá dầu giảm tác động đến nguồn thu từ dầu mỏ Việt Nam. Tuy không chịu ảnh hưởng về thị trường nhưng chịu ảnh hưởng về giá. Kim ngạch xuất khẩu nhóm này trong năm 2008 đạt gần 5 tỷ USD giảm 40,1% tương đương 3,35 tỷ USD, trong đó giảm do giá giảm 4,83 tỷ USD và tăng do lượng khoảng 1,48 tỷ USD. Lượng dầu thô xuất khẩu năm 2008 là 14,5 triệu tấn và bắt đầu giảm từ năm 2009 xuống còn 12 triệu tấn, năm 2010 còn 11 triệu tấn tương đương với việc làm giảm kim ngạch từ 11,3 tỷ USD năm 2008 xuống còn 7,2 tỷ USD năm 2009, 6,6 tỷ USD năm 2010. Mức giá dự tính dự tính sẽ giao động ở mức trung bình khoảng 70 – 80 USD/thùng.Về than đá, cũng sẽ giảm dần do chủ trương kiểm soát chặt chẽ xuất khẩu tài nguyên, mức xuất khẩu than duy trì 23 triệu tấn năm 2008 xuống mức 20 triệu tấn năm 2009 và 18 triệu tấn năm 2010. Dự kiến kim ngạch năm 2010 đạt 1,5 tỷ USD.
Đối với hoạt động xuất khẩu nông, lâm, thủy sản
Do kinh tế Việt Nam đã mở cửa hội nhập khá sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới nên không thể tránh khỏi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này. Hoa Kỳ , EU, Trung Quốc là những thị trường quan trọng, có sức tiêu thụ lớn hàng nông, lâm, thủy sản Việt Nam.
Trước khủng hoảng hàng xuất khẩu của Việt Nam đã bị cạnh tranh ngày càng khốc liệt bởi hàng xuất khẩu cùng loại của một số nước, hơn nữa khả năng sản xuất mặt hàng nông, thuỷ sản gặp nhiều khó khăn, còn vấp phải nhiều rào cản thương mại quốc tế và mức tăng tỷ giá trong những tháng đầu năm 2009 đã làm cho khả năng xuất khẩu năm giảm hơn so với năm 2008.
Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông, lâm, thủy sản chính của Việt Nam sang Hoa Kỳ tăng lên từ 619 triệu USD (năm 2001) đến 1,8 tỷ USD trong 9 tháng đầu năm 2008. Khi khủng hoảng tài chính, tín dụng xảy ra, kinh tế Mỹ và các nước EU gặp khó khăn sức tiêu dùng giảm nên hàng Việt Nam xuất khẩu vào thị trường lớn này gặp khó khăn. Những tác động này đã bắt đầu bộc lộ từ giữa tháng 9 năm 2008, xuất khẩu chững lại giá xuất khẩu các mặt hàng nông sản đều giảm so với các tháng trước, tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tháng 9/2008 đạt 1,45 tỷ USD tăng 32,6% so với tháng 9/2007 và giảm 11% so với tháng 8/2008.
Đối với nhóm hàng công nghiệp chế biến
Năm 2008, do chịu ảnh hưởng của biến động kinh tế thế giới nên hoạt động xuất khẩu diễn biến không theo quy luật, những tháng đầu năm xuất khẩu gặp thuận lợi về giá, kim ngạch xuất khẩu đạt mức cao trong 2 tháng 7 và 8 tuy nhiên đến tháng 9 xuất khẩu giảm mạnh và tiếp tục giảm trong những tháng cuối năm. Nhu cầu của thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, các đơn đặt hàng xuất khẩu dệt may, đồ gỗ vào Mỹ và EU đều giảm do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Trong khi thị trường xuất khẩu gặp khó khăn thì các chi phí đầu vào không giảm thậm chí còn tăng cao. Năm 2008, Việt Nam xuất khẩu được khoảng 64,8 tỷ USD, trong đó khoảng 32,1% giá trị xuất khẩu là hàng công nghiệp nặng và khoáng sản, 45,2% là hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp, 23,5% là hàng nông, lâm, thuỷ sản.
Nhóm hàng công nghiệp chế biến, công nghiệp và thủ công mỹ nghệ chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ tác động của cuộc khủng hoảng toàn cầu do nhu cầu của các mặt hàng này giảm mạnh. Trong những tháng đầu năm 2009, xuất khẩu các mặt hàng dệt may, da giày, đồ gỗ đều gặp khó khăn do thị trường tiêu thụ bị thu hẹp, các đơn hàng xuất khẩu dệt may, đồ gỗ, giày dép vào Mỹ và EU đều giảm, nhiều hàng rào phi thuế quan và các biện pháp bảo hộ mậu dịch của các nước được dựng lên. Chi phí đầu vào phục vụ cho sản xuất vẫn tăng cao như lương công nhân và lãi suất ngân hàng. Tuy nhiên đến tháng 5, tháng 6/2009 kinh tế thế giới đã bắt đầu phục hồi kim ngạch xuất khẩu 7 tháng đầu năm 2009 đạt 20,2 tỷ USD giảm 47% so với năm 2008. Lĩnh vực công nghiệp, mặt hàng dệt may đạt 9,06 tỷ USD giảm 0,6% so với năm 2008, da giày đạt khoảng 4,1 tỷ USD, xuất khẩu đồ gỗ với nhiều nỗ lực đạt khoảng 2,7 tỷ USD trong năm 2009.
Đối với Bất động sản:
Chỉ có FDI vào lĩnh vực khu cao ốc văn phòng, resort cao cấp là có thể bị ảnh hưởng, tuy nhiên sự suy giảm trong lĩnh vực đầu tư này không phải là điều đáng quan ngại.
Đối với Thị trường chứng khoán:
Sự ảnh hưởng nếu có thì chỉ do tác động tâm lý nhất thời của nhà đầu tư (NĐT). Còn hoạt động của thị trường chứng khoán vẫn do các yếu tố nội tại của nền kinh tế nước ta quy định. Điều này thấy rõ nhất khi mà thị trường chứng khoán Việt Nam không còn quá bị ảnh hưởng của khối ngoại. Nhưng tháng qua mặc cho các quỹ đầu tư nước ngoài thoái vốn hay khối ngoại bán ròng thì thị trường chứng khoán VIệt Nam vẫn sôi động . Về mặt tâm lý ảnh hưởng lớn đến thị trường do thị trường chứng khoán Việt Nam mới được hình thành vì vậy việc chạy theo đám đông là điều không thể chánh khỏi ở thị trườn Việt Nam. Mặc cho các công ty chứng khoán tại VIệt Nam có mối quan hệ làm ăn với các công ty tổ chức nước ngoài hay không thì thị trường vẫn bị ảnh hưởng theo.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng ở thị trường nước ngoài có thể khiến nguồn vốn đầu tư vào TTCK Việt Nam không được dồi dào. Nguồn tiền của các tổ chức đầu tư ở Việt Nam cũng là tiền từ các công ty mẹ ở nước ngoài. Nếu các công ty ở nước ngoài khó khăn thì công ty con ở Việt Nam cũng phải dè dặt trong đầu tư. Điều này làm hạn chế nguồn cung của thị trường, làm cho TTCK khó có thể tăng quá nhanh như vừa qua.
Đối với ngành du lịch:
Ngành du lịch Việt Nam cũng sẽ không bị tác động nhiều vì khách du lịch vào Việt Nam rất đa dạng chứ không tập trung ở phân khúc khách cao cấp.
Phần 3: Những bài học đối với Việt Nam từ cuộc khủng hoảng
Năm 2008 thế giới đã rơi vào một cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại suy thoái 1929 – 1933. Cuộc khủng hoảng này khởi đầu bằng cuộc khủng hoảng cho vay địa ốc dưới chuẩn ở Mỹ, nhưng lý do sâu xa của nó là sự mất cân bằng quốc tế của các khu vực kinh tế trụ cột trên thế giới và những vấn đề nội tại của hệ thống ngân hàng Mỹ và châu Âu. Cho đến thời điểm này hàng loạt ngân hàng tên tuổi đã phá sản hoặc phải được chính phủ cứu trợ. Thị trường tài chính nhiều nước đã gần như đóng băng, kéo theo nền kinh tế thực rơi vào suy thoái. Nạn thất nghiệp đã tăng đến mức báo động, nhất là trong tầng lớp dân nghèo ở các nền kinh tế mới nổi và các nước đang phát triển. Mặc dù nhiều nước đã đưa ra những gói kích cầu lớn, với tổng số tiền công bố toàn cầu xấp xỉ 2000 tỉ USD, những dự báo lạc quan nhất cũng chỉ hy vọng thế giới sẽ bắt đầu phục hồi vào đầu năm 2010.
3.1. Những vấn đề cơ bản:
Có lẽ còn quá sớm để rút ra các bài học về mặt chính sách vĩ mô và quản lý kinh tế từ cuộc khủng hoảng này. Tuy nhiên có ba vấn đề cơ bản mà cuộc khủng hoảng đã bộc lộ.
Thứ nhất, cuộc khủng hoảng làm lộ ra một mặt trái ít ai ngờ tới của toàn cầu hoá: nó tạo điều kiện và làm trầm trọng hơn các mất cân bằng quốc tế. Ví dụ trường hợp thâm hụt thương mại của Mỹ được tài trợ bằng dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc và các nước vùng Vịnh đã đẩy tỷ lệ tiết kiệm nội địa của Mỹ xuống gần bằng không. Chính điều này là tác nhân kích thích tổng cầu của Mỹ trong những năm cuối cùng trước khủng hoảng, làm cho thâm hụt thương mại tiếp tục xấu đi. Đến thời điểm này, chắc chắn các nhà hoạch định chính sách của các nước mới nổi và đang phát triển phải cân nhắc lại chiến lược phát triển dựa vào xuất khẩu. Trong khi đó các nước phát triển sẽ phải cân đối lại tỷ lệ tiêu dùng và tiết kiệm trong nước, dù toàn cầu hoá có dỡ bỏ nhiều rào cản tự nhiên ngăn không cho tiết kiệm giảm xuống quá thấp như trường hợp của Mỹ.
Thứ hai, cuộc khủng hoảng cho thấy tư tưởng laissez-faire (thả nổi hoàn toàn cho thị trường tự do hoạt động) và trào lưu giảm bớt và xoá bỏ quản lý nhà nước trong các hoạt động kinh tế có từ thời Reagan/Thatcher sẽ thoái trào. Vấn đề cải tổ và tăng cường quản lý, giám sát hệ thống tài chính ở từng nước và trên phạm vi toàn cầu là điều gần như được đồng thuận 100% trong giới học thuật lẫn giới hoạch định chính sách. Việc kiểm soát chặt chẽ hơn dòng vốn quốc tế cũng đã được đặt ra, song song với các đề xuất giám sát các sản phẩm tài chính có rủi ro cao và được sử dụng quá tràn lan trong các hoạt động đầu cơ.
Khi kinh tế thế giới đang chìm vào suy thoái, tư tưởng của John Maynard Keynes về vai trò điều tiết của nhà nước quay trở lại. Bên cạnh các gói kích cầu khổng lồ có nguồn gốc từ lý thuyết Keynes, các hoạt động của nhà nước trong nền kinh tế gia tăng, từ việc giám sát và quản lý thị trường đến việc can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp vào mọi mặt hoạt động của nó. Không chỉ ở Mexico mà ngay cả ở Mỹ, một số biện pháp quản lý giá đã quay trở lại, điều tưởng như đã vĩnh viễn đi vào lịch sử.
Thứ ba, hơn bao giờ hết nhu cầu phối hợp quốc tế trong các biện phát chống khủng hoảng và suy thoái tăng cao. Thế giới ngày nay đã quá phụ thuộc lẫn nhau. Trung Quốc, với gần hai ngàn tỉ USD dự trữ ngoại tệ chủ yếu đầu tư vào chứng khoán Mỹ, hiểu rằng họ không thể đơn phương rút số tiền đó ra vì tác hại với bản thân Trung Quốc không thể lường hết được. Mỹ, khi giải cứu cho AIG, phải chyấp nhận một phần tiền từ ngân sách của mình sẽ chảy vào các ngân hàng châu Âu, nhưng đó là điều phải làm vì lợi ích của chính nước Mỹ. Mặc dù hai tổ chức kinh tế tài chính quốc tế lớn nhất là World Bank và IMF chưa có vai trò nổi bật trong cuộc khủng hoảng này, nhu cầu về một quyền lực quốc tế đủ mạnh để trợ giúp các nước bị khủng hoảng và phối hợp hành động quốc tế đã được nhấn mạnh. Ý tưởng về một hệ thống Bretton Woods thứ hai đã được nhiều người đề xuất, ít nhất là tăng cường sức mạnh cho IMF và khôi phục lại vị thế của đồng SDR. Ngay cả OECD, G8, G20 cũng sẽ có nhiều vai trò hơn trong việc phối hợp quốc tế và san sẻ nguồn lực.
3.2. Bài học đối với thế giới:
Bài học rút ra: Khi kinh tế thế giới tăng trưởng nhanh và liên tục trong nhiều năm, thì sự đảo chiều là tất yếu và gây ra hậu quả nặng nề. Toàn cầu hóa thương mại và tài chính đã liên kết các quốc gia ở mức độ cao hơn nhiều so với mười năm trước. Mọi cuộc khủng hoảng tác động đến một nước, hoặc một nhóm nước này cũng tác động đến một nước, hoặc một nhóm nước này khác. Cần chuẩn bị tốt hơn: Xuất phát từ quan điểm mọi quốc gia, mọi nền kinh tế đều "bình đẳng" trước khủng hoảng, Edwin Truman không nhất trí với đánh giá rằng, các nước đang phát triển là nạn nhân và chịu hậu quả nặng nề từ cuộc khủng hoảng hiện nay, xuất phát từ nước giàu, chứ không phải do chính sách kinh tế - tài chính của những nước này.
Tuy nhiên, nếu được chuẩn bị tốt hơn và có khả năng đối phó các cú sốc từ bên ngoài thông qua việc sử dụng các công cụ chính sách trong nước, thì các nước có thể vững vàng đối phó khủng hoảng. Cần xây dựng khuôn khổ chính sách tài chính - tiền tệ lành mạnh: Edwin Truman không đồng ý với nhận định rằng các quốc gia cần chuẩn bị về mặt tài chính để tự bảo hiểm trước các cuộc khủng hoảng trong tương lai. Việc các chính phủ cất giữ lượng dự trữ ngoại tệ lớn không có lợi cho sự vận hành của hệ thống tài chính và nền kinh tế toàn cầu. Việc này chỉ giúp hạn chế, chứ không bảo đảm để một quốc gia có thể đứng vững trong khủng hoảng, khi thương mại quốc tế suy giảm, giá cả hàng nhập khẩu tăng mạnh và nguồn vốn đầu tư bị rút về. Thay vào đó, các nước cần tự bảo hiểm đề phòng khủng hoảng bằng cách xây dựng khuôn khổ chính sách tài chính - kinh tế lành mạnh.
Vai trò của IMF: Những bài học có thể rút ra từ khủng hoảng đối với vai trò của IMF có thể bao gồm: IMF vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ tài chính cho các chính phủ thành viên. Nhóm G20 đã thông qua quỹ cho vay 250 tỷ USD để bảo đảm IMF có đủ nguồn lực hỗ trợ các nước trong trường hợp khẩn cấp; hệ thống tài chính mang tính toàn cầu, do đó các nước đang phát triển cần phối hợp IMF để điều tiết và kiểm soát tài chính, giám sát việc các nước áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế đã được thông qua, nhằm giữ ổn định hệ thống tài chính quốc gia, cũng như lưu chuyển dòng tiền tệ quốc tế. Tương lai toàn cầu hóa: Toàn cầu hóa là yếu tố tác động không nhỏ đến khủng hoảng tài chính, kinh tế, tuy nhiên các nước không nên quay lưng với toàn cầu hóa. Việc cần làm là tìm các biện pháp tăng cường vai trò của các thể chế quốc tế, như IMF hay WB và các ngân hàng phát triển khu vực; chống sức ép bảo hộ mậu dịch và tài chính. Vì trên thực tế, tình hình chắc chắn xấu đi, nếu hệ thống thương mại quốc tế và lưu chuyển tài chính sụp đổ. Và, hậu quả của khủng hoảng đối với kinh tế các quốc gia và hệ thống tài chính toàn cầu sẽ càng trầm trọng.
Khủng hoảng tài chính không chỉ là nỗi ám ảnh đối với các nước do hậu quả nặng nề mà nó gây ra mà còn là cơ hội để chính phủ nhiều nước rút ra bài học.
Trong hai thế kỷ qua, trừ cuộc Đại suy thoái trong những năm 30 của thế kỷ 20, các cuộc khủng hoảng tài chính lớn đều khơi nguồn từ các nước nghèo và bất ổn mà sau đó cần có những điều chỉnh chính sách lớn.
Cuộc khủng hoảng hiện nay bùng phát tại các nước công nghiệp giàu có, không chỉ do cho vay thế chấp dưới chuẩn ở Mỹ, mà còn bởi năng lực quản lý yếu kém của hệ thống ngân hàng và nợ công ở châu Âu. Vậy châu Âu nói riêng và thế giới nói chung đã rút ra bài học gì? Những vấn đề hiện nay của châu Âu giống như những gì đã từng xảy ra với thế giới?
Trong làn sóng khủng hoảng nối tiếp nhau từ Mỹ Latinh trong thập niên 80 của thế kỷ trước cho tới cuộc khủng hoảng châu á giữa năm 1997, các nước đã học được cách tiếp cận chính sách kinh tế có hiệu quả hơn và xây dựng khung quản lý nợ công bền vững hơn. Nhưng thật đáng tiếc, nay lại tới lượt châu Âu lâm nguy.
Cuộc khủng hoảng của châu Âu ban đầu chỉ là cuộc khủng hoảng tài chính, rồi nhanh chóng phát triển thành cuộc khủng hoảng nợ công kinh điển sau khi chính phủ phải can thiệp để cứu các ngân hàng.
Chính động thái đó lại gây ra một loạt nỗi lo mới về các ngân hàng được cho là "dựa dẫm" vào sự bảo lãnh nợ của chính phủ. Khi đó nợ quốc gia dường như không còn ổn định nữa.
Một trong những tiền lệ khó quên là vụ vỡ nợ ở Mỹ Latinh cách đây gần 30 năm. Vào tháng 8/1982 đất nước Mexico đã làm rung chuyển thế giới khi Chính phủ tuyên bố không có khả năng trả nợ.
Gần như suốt mùa hè năm đó Mexico, nước được tiên lượng thâm hụt ngân sách chiếm 11% GDP vẫn vay mượn trên thị trường quốc tế với chi phí ngày càng bị đẩy lên cao hơn.
Các ngân hàng tự trấn an rằng đất nước không thể bị vỡ nợ. Nhưng rồi những gì phải đến đã đến, một loạt nước vốn có mô hình kinh tế khác nhau lại xếp hàng đổ vỡ theo hiệu ứng "domino."
Trong khi Mexico đi tới sự bùng nổ kinh tế dựa vào dầu mỏ nhờ cú sốc dầu mỏ lần hai trong thập niên 70 của thế kỷ trước, thì đất nước áchentina lại chìm trong cơ chế quản lý nền kinh tế yếu kém bởi chế độ độc tài quân sự.
Còn Brazil trải qua sự thần kỳ kinh tế với tốc độ tăng trưởng đầy ấn tượng nhờ nhập khẩu vốn. tựu chung lại các nước này cùng tạo ra một vấn đề chung và cực kỳ đơn giản: nợ nần quá mức.
Sự vỡ nợ của Mỹ Latinh ảnh hưởng tới hệ thống ngân hàng của tất cả các nước công nghiệp chủ chốt, gây ra cái gọi là "tua lại" cuộc Đại suy thoái. Nợ nần của Mexico liên đới tới 90% vốn hóa của các ngân hàng chủ chốt Mỹ.
Giải pháp được coi là sáng suốt vào thời điểm đó để tránh tình trạng vỡ nợ cho bất kỳ nước vay nợ lớn nào ở Mỹ Latinh có sự kết hợp của ba nhân tố: cứu trợ khẩn cấp của quốc tế thông qua Quỹ Tiền tệ Quốc tế, thực hiện cắt giảm mạnh chi tiêu trong nước theo các điều kiện ngặt nghèo mà IMF đặt ra và các ngân hàng bổ sung vốn.
Các tổ chức tài chính không hề xóa nợ cho Mỹ Latinh cho dù 5 năm sau khi xảy ra khủng hoảng khi mà việc cắt giảm chi tiêu không còn đe dọa sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Thay vào đó chỉ là bắt đầu cho vay đối với các dự án mới. Trong khi khu vực này vẫn được biết đến với tên gọi "một thập niên bị đánh cắp."
Giải pháp của châu Âu hiện nay dường như đang lặp lại những gì đã xảy ra trong thập niên 80 bị đánh cắp ở các nước đang phát triển. Đó là kết hợp sự hỗ trợ quốc tế, các biện pháp thắt lưng buộc bụng và tuyên bố rõ ràng của các ngân hàng về trách nhiệm tài chính đối với những vấn đề mà họ gây ra.
Cùng như các ngân hàng đồng hương trong thập niên 80 của Thế kỷ trước, các "đại gia" châu Âu, trong đó các ngân hàng ở Đức, Anh và Pháp, hiện nay đã "dính" vào những khoản tiền khổng lồ mà họ sai lầm nghĩ là nợ an toàn.
Sự cắt giảm đáng kể nợ chủ quyền của các nước Eurozone dễ bị tổn thương có sức công phá mạnh tới mức gây ra đợt hoảng loạn mới về ngân hàng. Thừa nhận vấn đề này các ngân hàng có thể yêu cầu chính phủ cứu trợ. Đó là tại sao cuộc khủng hoảng trở thành thách thức với Anh, Đức và Pháp.
Sáng kiến chung mà Pháp và Đức khởi xướng tại Deauville đầu tháng 11/2011 về các biện pháp tái cơ cấu nợ thực hiện sau năm 2013 đã cố gắng tránh cú sốc tức thời của viện cắt giảm chi tiêu.
Nhưng việc loan báo trước khả năng xóa nợ vẫn dẫn tới mối lo bất ổn về ngân sách. Do đó cần có sự bảo lãnh kèm theo điều kiện đối với một phần nợ chưa thanh toán để át đi nỗi lo xóa hết nợ.
Cơ chế giải quyết nguy cơ vỡ nợ quốc gia theo trình tự sẽ góp phần nâng cao năng lực quản trị toàn cầu và giải quyết các vấn đề lâu dài của thị trường nợ quốc gia. Những đề xuất như vậy từng được thảo luận rộng rãi trong những năm 1999-2000.
Phó giám đốc điều hành IMF Anne Krueger đã hối thúc triển khai Cơ chế Tái Cơ cấu Nợ Chủ quyền nhằm đưa ra lộ trình pháp lý cho việc áp mức cắt giảm chung đối với các chủ nợ để từ đó chấm dứt những trở ngại mang tính tập thể trong việc tìm kiếm một giải pháp hiệu quả để tránh vỡ nợ quốc gia.
3.3. Việt Nam rút ra được gì?
Với Việt Nam, một nước đi theo con đường kinh tế thị trường chưa lâu, cuộc khủng hoảng này có thể làm xói mòn niềm tin vào thị trường, nhất là khi vai trò của nhà nước đã được nhấn mạnh trở lại ngay cả ở Mỹ và các nền kinh tế phát triển khác. Tuy nhiên, sẽ là sai lầm lớn nếu Việt Nam không tiếp tục hoặc chệch hướng khỏi con đường cải cách đang đi. Việt Nam nên coi cuộc khủng hoảng này là một cơ hội tái cơ cấu lại nền kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Cùng với các trào lưu biến đổi của thế giới đang diễn ra, Việt Nam cần lựa chọn cho mình một chiến lược phát triển khôn ngoan và bền vững.
Chiến lược này cần tiếp tục phát triển các mối quan hệ kinh tế đa phương và song phương, đồng thời đẩy mạnh đầu tư vào các nguồn lực trong nước như cơ sở hạ tầng, nguồn vốn con người, vốn xã hội. Vai trò của nhà nước sẽ phải đẩy mạnh ở hai mặt: chủ động hơn trong các hoạt động phối hợp quốc tế và nâng cao năng lực quản lý và giám sát hệ thống tài chính ngân hàng. Các nỗ lực xoá đói giảm nghèo của Việt Nam cần được tiếp tục đẩy mạnh, song song với việc gia tăng các khoản trợ cấp và bảo hiểm xã hội. Điều này có thể sẽ làm tăng kích cỡ và vai trò của nhà nước trong nền kinh tế. Tuy nhiên các nhà hoạch định chính sách Việt Nam nên tuân thủ theo nguyên tắc của John Maynard Keynes đã đưa ra gần 80 năm trước đây: Nhà nước chỉ nên làm những gì thị trường không làm được chứ đừng thay thế những gì thị trường có thể đảm đương được
Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ gây ra suy giảm kinh tế toàn cầu những năm 2008-2010 khởi đầu từ sự lạm dụng cho vay kinh doanh bất động sản dưới chuẩn và sự bùng nổ của các công cụ chứng khoán nợ phái sinh đang cho thấy những hệ luỵ và các chi phí giải cứu đắt đỏ toàn cầu trị giá hàng ngàn tỷ USD của Mỹ, cũng như của các nước Châu Âu, Châu Á và nhiều nước khác trên thế giới. Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục chịu các tác động của cuộc khủng hoảng này từ nhiều phía, trước hết liên quan đến khó khăn về thị trường xuất khẩu, sụt giảm nguồn cung ngoại tệ từ xuất khẩu, kiều hối, đầu tư gián tiếp trên thị trường chứng khoán và FDI; ngoài ra, cuộc khủng hoảng còn làm phức tạp thêm lời giải trong cuộc chiến với lạm phát đang trong giai đoạn quyết định ở Việt Nam.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy chúng ta đang từng bước đi đúng hướng, nâng cao dần bản lĩnh, nhận thức và kinh nghiệm, cũng như chắc chắn sẽ vượt lên mọi thử thách một cách an lành như những cuộc khủng hoảng trước. Điều này thể hiện khá đậm nét ở các văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng, ở Cương lĩnh phát triển đất nước giai đoạn 2011-2020 và được tiếp tục cụ thể hóa một phần ở Nghị quyết 02/NQ-CP tháng 1/2011, cũng như ở Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ ngày 24/12/2011.
Mỗi khi có khủng hoảng hoặc thách thức liên quan đến an nguy quốc gia, Trí tuệ và Bản lĩnh Việt Nam lại được dịp bộc lộ và phát huy; Tinh thần đại đoàn kết và sự đồng thuận trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam lại được dịp tôi luyện và củng cố. Những chủ trương và quyết sách lớn được đề ra vào các thời điểm này cũng thường minh mẫn, đúng đắn, đồng bộ, toàn diện, linh hoạt hơn và “sốc” hơn, thiết thực và có ý nghĩa lâu dài hơn. Sự chỉ đạo về mặt Nhà nước được tăng cường, trở nên tập trung, nhất quán hơn và có sự phối hợp chặt chẽ hơn; tạo nên sức mạnh tổng hợp giúp Việt Nam đứng vững và tiếp tục phát triển.
Bản lĩnh và Trí tuệ Việt Nam đã, đang và sẽ giúp Việt Nam tự tin vượt qua mọi thách thức và trở ngại trên hành trình đi tới phồn vinh của mình và ngày càng chinh phục lòng tin của Thế giới. Không phải ngẫu nhiên mà trong chuyến công tác Việt Nam trung tuần tháng 9/2008, Phó Chủ tịch Ngân hàng Thế giới (WB) James Adam nhận định: “Việt Nam đã có những bài học về điều hành kinh tế vĩ mô để kiềm chế, giảm lạm phát, qua đó duy trì tăng trưởng…mọi khó khăn đang được khắc phục dần dần. Chính phủ đã hành động quyết liệt kiềm chế lạm phát và đã đạt được nhiều kết quả.
Chính phủ Việt Nam đã có những quyết định thích hợp. Đến giờ vẫn chưa có dấu hiệu rủi ro nào trong các quyết sách. Việt Nam có thể sẽ thành nước có thu nhập trung bình, thoát khỏi danh sách các nước nghèo của WB trong vòng 3 năm tới”. Việt Nam được các nhà đầu tư Nhật Bản đánh giá là địa điểm sản xuất tốt nhất ở châu Á trong vòng 5 – 10 năm tới. Nhiều doanh nhân, nhà đầu tư nước ngoài khác cũng đã đánh giá Việt Nam như một con rồng kinh tế mới, đang chuyển mình nhanh chóng và sẽ trở thành một trong những nền kinh tế năng động nhất và hứa hẹn nhất khu vực.
Thực tế cũng cho thấy, Trí tuệ và Bản lĩnh Việt Nam đang và sẽ còn được thử thách; kết quả chống lạm phát, vượt qua khủng hoảng và triển vọng phát triển kinh tế bền vững ở nước ta đã, đang và sẽ còn tuỳ thuộc rất lớn vào quyết tâm chính trị, nhận thức và cách thức giải quyết các điểm mấu chốt sau:
3.3.1. Phối hợp hài hoà bàn tay Nhà nước pháp quyền và bàn tay thị truờng
Những cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính-tiền tệ khu vực và thế giới đã, đang và sẽ còn chứng tỏ, khi “bàn tay hữu hình” của Nhà nước hoặc nắm quá chặt, hoặc bị buông lỏng quá mức, và cả khi “bàn tay vô hình” của thị trường bị lạm dụng và đề cao thái quá, thì đều có nguy cơ dẫn đến những cực đoan, có thể trực tiếp và gián tiếp làm tích tụ ngày càng đậm những xung lực gây ra những làn “sóng thần” khủng hoảng, đồng nghĩa với quá trình gây hao phí và tổn thất nặng nề cho đời sống kinh tế-xã hội và môi trường, cho mỗi quốc gia và toàn nhân loại.
Để các quy luật kinh tế khách quan vận động có lợi nhất cho xã hội, các khiếm khuyết của thị trường tự do phải được sửa chữa bằng sự can thiệp chủ động và tích cực của Nhà nước kiểu mới, mang tính pháp quyền và đại diện cao hơn, sử dụng các công cụ hiệu quả hơn cho các lợi ích chung của quốc gia và nhân loại. Trong mô hình kết hợp đó, sẽ có yêu cầu cao hơn về tăng cường vai trò của cạnh trạnh thị trường lành mạnh với luật pháp, chế tài, điều tiết, kiểm soát, giám sát nhà nước về hiệu năng và trách nhiệm các thể chế thị trường, thiết lập hệ thống thông tin công khai, minh bạch, phát triển các công cụ dự báo, cảnh báo và trừng phạt các sai trái và gian lận…, sao cho vừa tuân thủ các yêu cầu và lợi ích thị trường, vừa không làm xấu đi sự ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm hài hòa các lợi ích trong quá trình phát triển, nhất là không lạm dụng sức chịu đựng và đổ gánh nặng khủng hoảng lên người dân, người tiêu dùng.
Đặc biệt, cần sớm khắc phục những bất cập về nhận thức và lạm dụng trong thực tế về quyền lực chủ quan của nhà nước, về sức mạnh thị trường khách quan, về tính ôm đồm đa mục tiêu của chính sách, cũng như của nếp tư duy nhiệm kỳ và lợi ích cục bộ, địa phương, của sự “vận động hành lang” và cơ chế quan liêu, hình thức, “ làm láo, báo cáo hay”. Đặc biệt, cần nâng cao chất lượng xây dựng các quy hoạch, dự án; thực hiện nghiêm túc các quy định về đấu thầu thực chất, chống thông thầu, ép thầu và các gian lận thầu khác gây tổn hại lợi ích chung và dài hạn; tăng cường kiểm toán độc lập, xây dựng và áp dụng rộng rãi hệ thống chỉ tiêu hiệu quả, cũng như chế độ đánh giá hệ số tín nhiệm tập thể và cá nhân.
Về dài hạn, cần chuyển nhanh từ mô hình “nhà nước – nhà đầu tư lớn nhất” và phát triển chủ yếu theo bề rộng hiện nay, sang mô hình “nhà nước – nhà quản lý công” và phát triển theo bề sâu, đi đôi với việc chuyển dịch nguồn động lực chính trong đầu tư phát triển kinh tế từ khu vực kinh tế nhà nước sang khu vực kinh tế ngoài nhà nước; cần sớm thông qua và thực hiện nghiêm túc Luật đầu tư công và dũng cảm cắt giảm các chi tiêu công không vì mục tiêu bảo đảm và nâng cao hiệu quả chung, duy trì sự ổn định xã hội, cũng như cần ngăn chặn kịp thời “sự liên minh ma quỷ” giữa các doanh nghiệp-ngân hàng và quan chức có liên quan trong cho vay và đầu tư mang nặng tính đầu cơ, trục lợi cá nhân hoặc phe nhóm, lũng đoạn thị trường và lãng phí các nguồn lực quốc gia.
Hơn nữa, cần sớm thiết lập cơ chế thị trường cạnh tranh đầy đủ, lành trong việc cung cấp các sản phẩm và nguyên , nhiên liệu đầu vào thiết yếu của nền kinh tế, rồi mới bãi bỏ sự kiểm soát hành chính về giá cả. Đồng thời, cần nâng cao năng lực và hiệu quả trên thực tế của chính phủ trong công tác giám sát, kiểm soát và xử lý sự độc quyền và các vi phạm về giá từ phía các doanh nghiệp và các bên có liên quan; ngăn chặn hiện tượng lạm dụng trục lợi cá nhân, thậm chí biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp, phường hội và phe nhóm.
Về dài hạn, yêu cầu về tổ chức lại nền kinh tế và các doanh nghiệp trong nước sẽ cấp thiết hơn nhằm tăng cường sự hợp tác, gắn kết, sức cạnh tranh và hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp, cũng như hiệu quả đầu tư kinh tế-xã hội nói chung.
3.3.2. Coi trọng tính đồng bộ và chú ý đến tính 2 mặt của các giải pháp chính sách
Bản lĩnh và Trí tuệ Việt Nam còn thể hiện trong sự dám đối diện, chấp nhận và biết cách vượt qua thử thách trên cơ sở tuân thủ các yêu cầu, lẫn quy trình của kinh tế thị trường, coi trọng tính đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm của các mục tiêu, loại công cụ chính sách và sự phối hợp ăn khớp cần có giữa các cơ quan chức năng hữu quan, nâng cao hiệu quả đầu tư kinh tế-xã hội.
Các giải pháp và công cụ chính sách cần có trọng tâm, trọng điểm, được cụ thể hoá thành cơ chế tổ chức thực hiện trong thực tiễn; đồng thời, cần có sự đồng bộ, nhất quán giữa việc ban hành, triển khai, giám sát, kiểm tra và chế tài hiệu quả các vi phạm chính sách trên thực tế; giảm thiểu các lạm dụng công cụ quản lý hành chính, mệnh lệnh và hiện tượng “vận động hành lang”, “chạy chính sách” vì lợi ích nhóm, cục bộ, ngành độc quyền. Các biến động chính sách phải tường minh và có thể dự báo được trong xu hướng ổn định, nhất quán, phù hợp các nguyên tắc kinh tế thị trường và yêu cầu cam kết hội nhập, các thông lệ thế giới, cũng như các tín hiệu thị trường khách quan.
Đặc biệt, cần nâng cao chất lượng công tác và dịch vụ thông tin, dự báo, phản biện và chủ động các phương án và giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn khủng hoảng; phân biệt rạch ròi giữa yêu cầu dự báo khách quan với mục tiêu chính sách và ý chí chủ quan; coi trọng các phản biện xã hội và các đánh giá tác động chính sách (định kỳ hoặc đột xuất) trước và sau khi ban hành do các tổ chức chuyên nghiệp và độc lập thực hiện theo đặt hàng của cấp có thẩm quyền khách quan; thể chế hoá các phát ngôn và cung cấp thông tin chính thức có chất lượng và trách nhiệm pháp lý cao; Phát hiện và trừng phạt kịp thời, nghiêm khắc các cá nhân và tổ chức tung tin đồn thất thiệt hoặc thông tin thiếu trách nhiệm nhằm mục tiêu phá hoại chính sách, đầu cơ và cạnh tranh không lành mạnh; Tăng cường giáo dục dân trí, nâng cao nhận thức về kinh tế thị trường và hiểu biết pháp luật, tăng khả năng tự nhận thức và cảnh giác, tránh hành động kiểu bầy đàn, vô tình hoặc cố ý tiếp tay và trở thành nạn nhân của tin đồn.
Ngoài ra, cần coi trọng việc xây dựng hệ thống số liệu thống kê và dữ liệu thông tin quốc gia và chuyên ngành hiện đại, có chất lượng cao, đáp ứng mọi nhu cầu đa dạng về quản lý nhà nước các cấp, kinh doanh và nghiên cứu khoa học; khắc phục tình trạng phân tán, chia cắt, rời rạc, đóng băng và thiếu chuẩn hoá thống nhất giữa các nguồn và đơn vị quản lý thông tin, gây khó khăn và đắt đỏ cho các đơn vị và cá nhân có nhu cầu tiếp cận, khai thác và sử dụng các thông tin này, đồng thời làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế và gia tăng sự lãnh phí các nguồn lực xã hội.
3.3.3. Trọng dụng người tài và đấu tranh không khoan nhượng với nạn tham nhũng
Tham nhũng làm thất thu và thất thoát, giảm hiệu quả các nguồn lực xã hội, những luật định quản lý kinh tế – xã hội, làm nản lòng nhà đầu tư trong và ngoài nước, gây cản trở cho sự vận hành thông suốt của nền kinh tế với tư cách một chỉnh thể tự nhiên, là cội nguồn mọi bất ổn, trở ngại và thách thức lớn nhất, gây tổn thất to lớn, khó lường cho lợi ích, uy tín quốc gia, làm gia tăng tình trạng rối loạn kỷ cương xã hội, xu hướng ly tâm và mất đồng thuận, kẻ thù nguy hiểm nhất từ bên trong đối với công cuộc đổi mới và phát triển ở Việt Nam. Tham nhũng, nhất là tham nhũng trong công tác cán bộ, làm tăng các xung lực gây ra khủng hoảng và lạm phát, đồng thời làm trầm trọng thêm những hậu quả của chúng, làm giảm kết quả những chính sách chống khủng hoảng và lạm phát của Chính phủ.
Nếu cuộc đấu tranh này bị xem nhẹ thì không những không thể ngăn chặn và giải quyết hiệu quả các cuộc khủng hoảng và lạm phát tương lai, mà còn nẩy sinh nguy cơ đưa cuộc cải cách kinh tế hiện nay thoát khỏi sức mạnh của luật pháp, từ bỏ lợi ích cộng đồng, để thiên về lợi ich phe phái. Vì thế, để củng cố Bản lĩnh và Trí tuệ Việt Nam trong tương lai không thể không bao hàm nội dung chống tham nhũng triệt để. Nhằm mục đích đó, cần khắc phục sự không minh bạch giữa hai hệ thống quyền lực Đảng và Nhà nước. Dân chủ hoá đời sống kinh tế – xã hội phải được tăng cường, đi đôi với xây dựng hệ thống luật pháp rõ ràng, đồng bộ và nhất quán, hiện đại, theo kịp trình độ phát triển luật pháp và thông lệ quốc tế. Các thủ tục hành chính phải đơn giản hoá, công khai, công bằng, thống nhất, nhanh chóng và trực tiếp. Việc phân định nhiệm vụ, quyền hạn trong hệ thống cơ quan hành chính phải gắn liền với tăng cường trách nhiệm trực tiếp và cuối cùng của chúng. Đảm bảo mọi tài sản xã hội, mọi luật định và mọi công việc Nhà nước đều có người chịu trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm hình sự cụ thể, rõ ràng; Phát triển hệ thống tư pháp và thực hiện rộng rãi tự do báo trí, ngôn luận.
Cơ chế đào tạo, tập hợp và trọng dụng nhân tài phải tạo sự di chuyển chất xám tự do và nâng cao tính chuyên nghiệp trong thị trường lao động theo “quy luật tối ưu” của tự nhiên. Mọi lao động trong xã hội đều có quyền và nhận được sự giáo dục tốt, cần thiết và sống được bằng lao động chuyên môn của mình; thoả mãn các điều kiện nuôi dưỡng tốt nhất cho nhân tài (lương, điều kiện học tập, lao động, khả năng tiếp cận các thông tin và công nghệ mới, sự tôn trọng về tinh thần và thăng tiến cá nhân….). Các quan chức hành chính, các nhà khoa học và các doanh nhân, nhà quản trị doanh nghiệp thực thụ cần được ngồi đúng vị trí của mình; Đồng thời, phải coi trọng việc phát hiện, lựa chọn và sử dụng đúng những nhân tài đầu đàn, tái lựa chọn liên tục trên cơ sở lấy hiệu quả công việc, chứ không phải bằng cấp, học vị, chức tước.
Đặc biệt, cần nhấn mạnh rằng, Trí tuệ và Bản lĩnh Việt Nam sẽ được hội tụ, biểu hiện tập trung và phát huy tốt nhất khi và chỉ khi tạo được sự đồng thuận và dân chủ hóa xã hội cao trên cơ sở xây dựng, củng cố và phổ biến rộng rãi nhận thức về các giá trị xã hội chuẩn chung, các lợi ích quốc gia trở thành tối thượng, đội ngũ trí thức tinh hoa được tập hợp và trọng dụng, phản biện và giám sát xã hội được tăng cường, đồng thời các nhà lãnh đạo biết nêu gương, với mục tiêu cao nhất và xuyên suốt của mọi chính sách là bảo đảm xây dựng một đất nước Việt Nam độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, giàu mạnh, xã hội công bằng , dân chủ và văn minh.
Việt Nam gặp phải thách thức rất lớn nhưng cơ hội cũng đang mở ra. Vấn đề là chúng ta có nắm bắt được cơ hội hay không. Cần nhận định rõ rằng, Trung Quốc là một siêu cường đang nổi lên, một “nhà máy sản xuất” của thế giới, một thị trường đang tăng trưởng nhanh (vừa vượt cả Mỹ để trở thành thị trường tiêu thụ ô tô lớn nhất thế giới); và là một quốc gia có dự trữ vốn gần như lớn nhất thế giới. Một chính sách nhằm làm co hẹp dần khoảng cách về năng suất của nền kinh tế Việt Nam so với Trung Quốc sẽ biến Việt Nam thành nơi “hút đầu tư nước ngoài cực mạnh, ngay khi nền kinh tế thế giới phục hồi trở lại. Đó là cơ hội phát triển cho Việt Nam, dựa ngay trên sức mạnh đang lên của Trung Quốc. Điều này đòi hỏi phải có một sự thay đổi về thể chế quản lý một cách có trật tự và vững chắc. Một thể chế quản lý nhấn mạnh tới trách nhiệm, hiệu quả của từng tế bào của bộ máy quản lý Nhà nước, của từng tổ chức tài chính và công nghiệp đối với lợi ích của toàn xã hội và với yêu cầu phát triển bền vững. Điều đó đòi hỏi một sự minh bạch về thông tin quản lý, về hiệu quả kinh tế - xã hội của từng đơn vị hay tổ chức trong từng địa phương và trong toàn nền kinh tế. Đây cũng chính là bài học quý báu nhất về tiến trình chuyển đổi tổ chức và quản lý tại Trung Quốc trong cải cách. Cũng như Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, hay Trung Quốc, Ấn Độ trước đây, sự thách thức và cơ hội đang đặt ra với Việt Nam hôm nay. Họ cũng đã bắt đầu từ một xã hội như chính chúng ta. Và chúng ta cũng hoàn toàn có thể vươn lên như họ, hòa nhập vào một Châu Á năng động và một Thế giới phát triển bền vững hơn.
Việt Nam cần làm gì để có thể đứng vững trong một hoàn cảnh như vậy?
Chúng ta cần phải đa dạng hóa và đa phương hóa thị trường xuất nhập khẩu của mình. Nghĩa là phải phân tán thị trường, bên cạnh những thị trường lớn như thị trường Mỹ, Nhật, EU cần tạo thêm nhiều thị trường khác như thị trường các nước châu Á, châu Phi, châu Mỹ La tinh, … Có thể các thị trường nhỏ tính hiệu quả kinh tế không cao như các thị trường lớn, nhưng khi có sự biến động của các thị trường lớn thì sự ảnh hưởng của nó đối với nền kinh tế không lớn.
Nhưng trước hết chúng ta cần phải khai thác thị trường nội địa ở trên tất cả các hàng hóa – dịch vụ. Vì đó là thị trường căn bản nhất, an toàn nhất. Chúng ta không thể cứ chăm chăm vào thị trường quốc tế, và khi thị trường quốc tế không dung nạp nữa mới tìm đến thị trường nội địa.
Bất cứ điều gì đều có cái giá của nó, và giá cả luôn luôn quay quanh giá trị. Lợi tức càng cao thì rủi ro cũng sẽ lớn. Do đó không thể vì cái lợi trước mắt mà bỏ cái lợi căn bản, lâu dài.
Kể từ khi nền kinh tế mở cửa thì tính hướng ngoại của sản xuất đã tạo cho nền kinh tế Việt Nam những điều kiện để có một bước phát triển dài. Tuy nhiên do trong quá trình phát triển đó phần lớn nguồn lực đều được dành cho sản xuất xuất khẩu, hoặc sản xuất những hàng hóa cao cấp dành cho người nước ngoài (ví dụ như khách sạn, nhà nghỉ cao cấp, sân golf bải tăm, …) còn thị trường những người lao động, thị trường nông thôn, … gần như không mấy nhà sản xuất quan tâm khai thác do tính hiệu quả kinh tế không cao như thị trường quốc tế. Cho đến khi thị trường quốc tế suy sụp thì mới có lời kêu gọi các nhà sản xuất trở về thị trường trong nước để tự cứu nguy.
Cũng cần làm rõ, nếu những nhà sản xuất chỉ coi thị trường nội địa chỉ là thị trường “tạm thời”, thị trường cứu nguy, thì mục tiêu đầu tư của nhà sản xuất – kinh doanh cũng sẽ lệch lạc không đúng tầm.
Một điều may mắn đối với Việt Nam là một lượng lớn giá trị hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam là hàng nông nghiệp, nên mức độ ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu sẽ không phải quá lớn và quá dài như hàng hóa công nghiệp.
Có thể nói thêm là những thị trường được những nhà đầu cơ Việt Nam quan tâm nhất đó là thị trường vàng, ngoại tệ, thị trường địa ốc và sau đó là thị trường chứng khoán. Do đó cần phải có một sự chấn chỉnh và giám sát chặt chẻ những thị trường này và có giải pháp quản lý, điều tiết sao cho những thị trường này không mang tính ảo cao.Chúng ta có thể hình dung ra rằng khi một phần lớn nguồn vốn tiền tệ của chúng ta, kể cả tín dụng được đem đầu tư vào các thị trường phi sản xuất nói trên, thì rõ ràng đầu tư vào sản xuất và tiêu dùng trong nước sẽ bị hạ thấp là điều chắc chắn.
Trừ một số nước làm dịch vụ tài chính – ngân hàng quốc tế như Singapore, HồngKông, … thu nhập của họ dựa trên việc cung cấp dịch vụ cho các khách hàng quốc tế và tiêu dùng của nhân dân được thỏa mản bằng hàng hóa nhập khẩu thì việc phát triển các lãnh vực dịch vụ phi sản xuất mới mang lại thu nhập thực cho quốc gia đó. Còn những nước mà khu vực phi sản xuất chỉ thực hiện trong phạm vi của một quốc gia thì điều đó sẽ làm cho khối tiền trong quốc gia đó tăng lên nhanh chóng, như hàng hóa dịch vụ phục vụ cuộc sống con người thì tăng lên rất chậm và không chóng thì chầy sẽ đi đến khủng hoảng.
Vì vậy có người cho rằng trong khủng hoảng và suy thoái hiện nay Việt Nam có thể tìm ra cơ hội để phát triển kinh tế. Chúng tôi cho rằng quan điểm đó là ảo tưởng. Chúng tôi cho rằng qua cuộc khủng hoảng và suy thoái này cho Việt Nam rút ra những bài học đích đáng để điều chỉnh các chính sách phát triển kinh tế hợp lý hơn.
Cần có những chính sách phát triển kinh tế không cần nhanh, nhưng cơ bản và bền vững. Trong đó cần phải quan tâm đến phát triển kinh tế hạ tầng, nhất là giao thông, đặc biệt là giao thông của các đô thị mới, giao thông nông thôn.
Trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa cần phải quan tâm sâu sắc đến việc công nghiệp hóa - hiện đại hóa nhận thức của công dân và các nhà lãnh đạo, công nghiệp hóa - hiện đại hóa các quan hệ xã hội và công nghiệp hóa – hiện đại hóa phong cách làm việc, quản lý của mọi tổ chức và công dân.
Nếu không làm được những điều trên thì nhất định các mâu thuẩn sẽ xảy ra. Trước hết là mâu thuẩn giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội, mâu thuẩn giữa cái riêng và cái chung, mâu thuẩn giữa cơ sở hạ tầng và kiến thức thượng tầng, … Những mâu thuẩn này sẽ càng ngày càng tăng lên và đến một lúc nào đó nó sẽ tự điều chỉnh để lập lại một trạng thái cân bằng mới, mà chúng ta sẽ phải trả giá rất đắt cho những cuộc điều chỉnh đó.
Khủng hoảng và suy thoái hiện nay thực chất là sự điều chỉnh sự mâu thuẩn giữa sản xuất và tiêu dùng, điều chỉnh sự mâu thuẩn giữa quyền lợi của các giai cấp, mâu thuẩn giữa người nghèo và người giàu, v.v…
Do đó vấn đề đặc ra cho chúng ta chính là nhận thức được những mâu thuẩn của nền kinh tế và xã hội hiện nay để có những bước điều chỉnh tự giác, tránh những cú điều chỉnh tự phát mà hậu quả của nó sẽ nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta.
Kết luận
Cuộc khủng hoảng đã đi qua nhưng vẫn còn đó rất nhiều công việc để chúng ta phải nhìn nhận, sự yếu kém trong khâu quản lý và quá tin tưởng vào thị trường đã làm phát sinh nên nhiều quá nhiều điểm yếu và bất ổn trong hệ thống tài chính của Mỹ nói riêng và thế giới nói chung. Xu thế toàn cầu hóa cũng là con dao hai lưỡi đối với nền kinh tế thế giới, cơ hội tạo ra cũng nhiều và thách thức cũng khá là nhiều đó là vấn đề cần được nhiều quốc gia xem xét để có một chiến lược phát triển hợp lý. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã chỉ ra quá nhiều điểm yếu kém cần phải được cải tổ và khắc phục, sẽ không dẽ một sớm một chiều để làm được điều đó bởi ngay sau lưng nó đây là một khoảng nợ khổng lồ mà nhiều nước châu Âu đang gánh phải, tình trạng thất nghiệp lan rộng, sự thiếu lòng tin của các nhà đầu tư vào tình hình tài chính trong tương lai… sẽ là vết thương rất khó lành sau cuộc khủng hoảng tồi tệ này, phải chăng thế giới sắp bước vào một cuộc khủng hoảng tài chính mới? đó là một câu hỏi mà không ít người đang đề cập tới hiện nay và đang là bài toán hóc búa đối với nhiều nhà kinh tế, nhiều quốc gia hiện nay. Tuy nhiên hi vọng với những bài học những kinh nghiệm rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu này mỗi nhà quản lý, mỗi quốc gia sẽ đúc kết được những kinh nghiệm quý báu để từng bước phục dậy nền kinh tế của mỗi quốc gia, mỗi khu vực và xa hơn là tái cơ cấu, ổn định lại hệ thống tài chính quốc tế để làm tiền đề cho sự phát triển vững mạnh của nền kinh tế thế giới trong bối cảnh hội nhập sâu rộng này.
Tài liệu tham khảo:
Sách tham khảo :
GSTS. Đỗ Đức Bình , giáo trình “ Kinh tế Quốc tế ”
ThS. Phạm Thị Bích Duyên , Bài giảng “ Tài chính quốc tế ”
GSTS. Nguyễn Văn Tiến , giáo trình “ Tài chính quốc tế ”
Trang web :
Saga.vn
Tailieu.vn
Tuoitre.vn
Vneconomy.vn
Vnexpress.net
Danh sách thành viên nhóm 6 :
Nguyễn Thị Bình
Phạm Thị Mỹ Linh
Phạm Đại Nghĩa
Phan Thị Kiều Oanh
Vũ Thị Như Quỳnh
Hà Văn Thuận
Nguyễn Thị Ngọc Trang
Đỗ Thị Mộng Trung
Huỳnh Thị Thanh Vân (nhóm trưởng)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1 37.doc